Tia nắng rớt
Tiếng con Tô sủa kéo dài báo tin có khách đến. Người ở lục cục
ra mở cổng. Có tiếng nói xì xào rồi tiếp đến tiếng giày sào sạo trên sỏi. Sơn
ngẩng nhìn ra khung cửa. Ánh đèn chiếu ra vẽ một khung ánh sáng hình chữ nhật
gãy đôi ở bực thềm. Chàng hơi bực mình vì có khách vào giờ này. Tám giờ rưỡi tối
là giờ riêng tư, là giờ người ta bắt đầu sống cho riêng mình. Chàng chờ xem ai
sắp quấy rầy mình.
Ở khung cửa hiện ra một người đàn ông tay xách va-li. Người ấy
thấy Sơn, vội la lên:
- Anh Sơn! Vậy mà tôi cứ sợ lầm nhà.
- A, anh... anh Lộc!
Sơn mừng rằng mình đã nhớ kịp tên người bạn. Chậm một chút sẽ
mang tiếng là vô tình biết bao. Lộc còn bỡ ngỡ, phần vì ánh đèn chói, phần vì
con Tô hung tợn cứ án ngữ ở cửa nên chưa bước vào, còn Sơn thì còn lò mò chân
tìm dép thì một người đàn bà hiện ra đứng bên cạnh Lộc. Sơn reo lên:
- A, có cả chị Thúy nữa. Chào chị. Hôm nay hai vợ chồng anh
chị đi hưởng tuần trăng mật chắc.
Thúy cười:
- Chào anh. Lâu ngày quá bọn em mới xuống thăm anh.
Đôi dép đã tìm được rồi, Sơn vừa nhìn bạn vừa đứng dậy ra đón
thì lại một người đàn bà khác hiện ra thêm.
Sơn lúng túng:
- A, còn...
Thúy đỡ lời:
- Có hai cô bạn nữa cũng...
Trong khi Thúy còn tìm chữ để nói tiếp thì Sơn đã ra đến
hiên. Quả vậy, không phải chỉ một cô mà đến hai cô. Một cô đứng nép sau bồn hoa
hoàng anh, tay mân mê một cành hoa nở. Sơn vội mời:
- Xin mời anh chị và hai cô vào nhà.
Một cái bắt tay, một nụ cười thân mật và hai cái nghiêng mình
khe khẽ. Cả đoàn người vào nhà. Thấy những người mới đến không thù hằn với chủ
mình, con Tô ngoắt đuôi mừng. Lộc và Thúy bỏ va-li lại ngồi ở xa-lông với Sơn.
Hai cô bạn ngồi ở đi-văng.
Lộc nói:
- Bọn em ở Đà Lạt xuống. Nhân nghỉ lễ Khổng tử, tòa thị chính
tổ chức cho anh chị em nhân viên xuống chơi Nha Trang ba ngày. Cả đoàn ăn nghỉ
tại khách sạn Liên Mai. Bọn em muốn nhân tiện ghé lại ở chơi nhà anh. Hai cô bạn...
à quên, quên chưa giới thiệu với anh hai cô bạn.
Lộc chìa bàn tay ngửa về phía từng cô:
- Cô Oanh thư ký tòa thị chính.
- Cô Trúc Đào, sinh viên.
Sơn cúi chào rồi giải bày trường hợp mình:
- Anh chị Lộc và hai cô ghé ở chơi, đối với tôi là một sự vui
vẻ. Tôi chỉ sợ nhà tôi đơn chiếc, không có ai tiếp đãi chu đáo mọi người. Tôi sống
độc thân với một người ở nhỏ.
Lộc ngắt lời:
- Anh khỏi phải lo, vì mọi người đều biết rõ hoàn cảnh của
anh. Anh đừng bận rộn gì về chúng tôi hết. Anh cứ coi như không có chúng tôi ở
đây.
- Và ngược lại, các bạn cứ tự do như chính ở nhà các bạn. Các
bạn cứ coi như không có tôi ở đây.
Cả chủ lẫn khách cùng cười. Qua một câu thực tình mà tan hết
giá băng của sự bỡ ngỡ. Câu chuyện hàn huyên tiếp theo liền. Những người quen ở
Đà Lạt được nhắc đến cẩn thận. Như tra ở một quyển tự điển, tên của họ tuần tự
được Sơn đọc lên. Lộc, Thúy làm nhiệm vụ giải thích.
- Vợ chồng anh Tân hả? Độ rày phát tài lắm. Vừa tậu thêm hai
cái vi-la.
- Chị Bê giã từ Đà Lạt hơn một năm nay rồi. Sau khi anh ấy mất
chừng sáu tháng, chị về Huế luôn.
- Cụ Sang ở bưu điện? Về hưu. Thằng Ngợi, - anh còn nhớ thằng
Ngợi ngọng con cụ Sang không? - thằng Ngợi năm nay thi ra dược sư... Cô Oanh và
Trúc Đào ngồi đó để nhắc chừng về những tin tức mới nhất của các nhân vật Sơn hỏi
mà vợ chồng Lộc Thúy không nắm chắc tình hình.
Sau nửa giờ, câu chuyện uể oải. Những cái ngáp được khéo léo
nuốt đi. Sơn đề nghị mọi người thay áo quần rồi rửa mặt đi nghỉ. Sắp đặt chỗ ngồi
cho bốn người khách không phải là một việc dễ dàng. Sơn đưa chìa khóa tủ áo cho
Thúy vừa bảo:
- Chị Thúy và hai cô tùy tiện sắp đặt chỗ ngủ. Con ở nhà tôi
nhỏ, chỉ quen săn sóc một mình tôi thôi nên tôi chắc nó sẽ không làm vừa lòng
các chị. Nó sẽ mau rối trí và nhất định thiếu sáng kiến. Các chị cứ mở tủ tự
nhiên.
Một lát sau, ở bên phòng ngủ vang lên những tiếng cười vui vẻ.
Họ pha trò với nhau, họ nghịch nhau khiến Sơn ngồi nói chuyện với Lộc ở phòng
khách cũng thấy vui lây. Mười một giờ, Sơn và Lộc cùng sang phòng ngủ thì phòng
ngủ đã được sắp đặt tươm tất. Ba người đàn bà mặc áo ngủ màu sặc sỡ trông như
những cái hoa. Màu trắng của ba chiếc mùng đổ dài xuống, ánh đèn nê-ông lạnh,
càng khiến cho vẻ mặt và màu áo của họ gây không khí ấm áp. Lộc chung giường với
Sơn. Hai cô Oanh và Trúc Đào nằm một giường. Thúy nằm ở đi-văng. Vì Sơn vào giường
trước nên bị Lộc đẩy vào nằm trong. Thành giường phía Sơn nằm hóa ra kề với
thành giường bên cạnh. Không biết ai nằm ở kề mình chừng năm tấc kia. Sơn lắng
nghe tiếng thở đều đặn, nhè nhẹ. Chàng nghe tiếng trở mình. Chàng khẽ nhìn
sang; qua ánh sáng dịu của chiếc đèn giường, có một đôi mắt đen mở rộng nhìn
mình.
Sáng hôm sau là ngày lễ. Mọi người đều ngầm cho phép mình dậy
trễ như những nhà quí phái. Đến tám giờ thì nhà Sơn rộn hẳn lên. Những dáng người
lướt qua, lộn lại từ phòng ngủ sang phòng rửa mặt làm Sơn hoa mắt. Chàng cứ lầm
người này với người nọ. Bữa điểm tâm được thu xếp mau. Vì chỉ có một cái lọc cà
phê cá nhân nên cô Oanh nhanh nhẹn đưa sáng kiến:
- Em sẽ có cách để hầu cà phê mọi người.
Nàng chạy tìm ở "xắc" một vuông vải mới rồi mở tủ lấy
một cái bát sứ. Nàng trải vuông vải. Đổ cà phê vào. Nước sôi đổ tiếp theo. Nàng
cầm thìa khuấy một lát rồi túm vuông vải bỏ ra một bên. Một bát cà phê đậm,
thơm được chia ra năm tách.
Sơn khen:
- Cô Oanh nhanh trí quá.
Lộc nói:
- Anh chả phải khen. Huynh trưởng gia đình Phật tử đấy.
Sơn quay sang Trúc Đào:
- Còn cô?
Trúc Đào thẹn, má ửng hồng:
- Em kém lắm.
Sau bữa ăn sáng, cả năm người đi biển. Aùnh nắng gay gắt của
Nha Trang làm cho hai cô Oanh và Trúc Đào bỡ ngỡ. Cứ đi một lát, họ lại nhìn mặt
trời và nhìn xuống cánh tay mình. Có lúc họ đứng dừng lại, đưa tay kéo má của bạn
lại xem màu má ửng hồng rồi khen:
- Ồ, chị đẹp quá.
Xuống biển, chỉ Lộc và Oanh tắm. Trúc Đào, Thúy và Sơn thuê
ba cái ghế xếp nằm nhìn ra biển. Chín giờ bắt đầu có gió ngoài khơi hây hây thổi
vào. Người tắm đông. Trúc Đào chỉ vào đám đông đang tắm, bảo Thúy:
- Chị Thúy này, sự cách biệt về tuổi tác, về tiền tài được giảm
nhẹ hết sức giữa những người tắm biển. Chị thấy không, bỏ đi những vật bám theo
như quần áo, đồ trang sức, ô-tô, con người ở trần và đứng trước vũ trụ có vẻ
bình đẳng với nhau.
Sơn quay sang Trúc Đào:
- Cô triết lý...
Trúc Đào cười:
- Thưa ông, chỉ là một ý nghĩ vẩn vơ.
Sơn nhìn vẻ mặt của Trúc Đào. Đôi mắt dịu, mơ màng và do đó rụt
rè. Môi có duyên nhưng hơi lạnh. Khuôn mặt của cô Oanh ấm áp hơn. Màu da ngăm
ngăm và tròng đen của đôi mắt đen láy. Nụ cười tươi hơn, vui hơn. Sơn đang miên
man suy nghĩ thì Thúy chỉ tay gọi:
- Kìa, anh xem bà kia. Đôi bắp chân no tròn và ngắn như hai củ
hành.
Trúc Đào sắp sửa cười, bỗng giơ "xắc" che mặt. Nàng
quay sang thân mật bảo Sơn:
- Mấy ông mãnh ở ghế bố bên kia cứ đặt ống dòm nhìn sang.
Thúy bảo:
- Nhìn sang Trúc Đào đấy.
- Không phải.
- Không phải sao Trúc Đào giấu mặt?
Sơn đỡ lời:
- Thật không phải đâu. Họ nhìn sang bà "củ hành" đấy
mà.
Thúy và Trúc Đào phá ra cười.
Sau giấc nghỉ trưa, Lộc giục:
- Mời các bà các cô dậy đi thôi. Hai giờ rồi.
Tiếng Oanh hỏi:
- Thế hồi sáng họ hẹn với mình mấy giờ cùng đi hòn Chồng?
- Hai giờ.
- Chết chưa. Thế thì trễ mất rồi còn gì?
- Thì trễ mất rồi chứ sao!
Giọng Lộc đắc thắng. Trúc Đào vừa ngồi dậy xong, liền nằm xuống
trở lại:
- Đã lỡ trễ rồi thì thôi, nằm ngủ luôn.
Lộc la lên:
- Không được đâu. Dậy đi thôi, các bà ơi. Tôi nói thế chứ thật
ra mới có hai giờ kém mười lăm. Các bà trang điểm mau lên thì vừa.
Các bà dậy trang điểm theo lời Lộc yêu cầu nhưng nhất định
không mau lên tí nào hết. Họ vừa cười đùa, vừa nghịch nhau, vừa chải đầu. Họ
khen nhau tóc mịn, chê nhau tóc rụng, rồi từ đó chuyển sang hàng uốn tóc lạnh,
rồi kiểu tóc Lý Lệ Hoa. Với Lý Lệ Hoa, họ xâm nhập vào địa hạt điện ảnh quốc tế
với Deborah Kerr, James Stewart... Đến một lúc hăng tiết, họ bỏ cả lược, bỏ cả
thỏi son, bỏ cả "húp" phấn để hùng biện. Lộc lại thúc giục:
- Hai giờ đúng rồi, trời ơi!
Họ cười xòa nhận lỗi rồi lại tiếp tục chải, bôi môi, thoa phấn.
Tay dịu dàng, mắt mê mãi, họ đắm đuối nhìn bóng mình trong gương. Sắc đẹp làm
cho họ thận trọng tay. Họ chầm chậm quay qua, chầm chậm nhìn lại, chầm chầm ngước
mắt lên, chầm chậm nhếch mắt một tí, mỉm cười một chút. Thật đúng là những con
hổ uyển chuyển, không vội vàng vì tin chắc ở sức mạnh của mình. Tiếng giày sốt
ruột, tiếng giày hậm hực của Lộc cứ tha hồ nện. Lúc mặc áo xong, bôi nước hoa
xong, lũ lượt bước ra đến cổng thì đồng hồ vừa chỉ đúng hai giờ rưỡi.
Trên giường, bỏ ngổn ngang những đống quần áo. Ở mắc áo đầy ắp
những chiếc áo dài màu sặc sỡ. Sơn nhìn giây lâu những chiếc áo dài, tưởng tượng
thấy những thân hình uyển chuyển mà chiếc áo đã ôm ấp. Vải ni-lông mịn láng như
da thịt. Chàng bước lại gần một chiếc áo ai mắc ở cây trụ màn. Một mùi nước hoa
nhẹ thoang thoảng, mùi nước hoa tử-la-lan thầm kín. Và cũng thầm kín, có thoáng
mùi thơm của da thịt. Lòng Sơn xúc động. Chàng bỗng thấy người đàn bà quí giá hết
sức đối với cuộc sống của một người đàn ông như chàng. Nét tươi đẹp của giọng
nói, mùi thơm của đôi má, đôi môi... bẳn đi từ lâu lắm rồi, chàng đã quên nghĩ
đến một người đàn bà. Cuộc sống tạm đầy đủ với ăn, ngủ, đọc sách, đi dạo và làm
việc. Bấy nhiêu công việc choán hết thì giờ của chàng khiến chàng quen dần với
nếp sống bình lặng, thản nhiên. Bóng dáng một người đàn bà dịu dàng thỉnh thoảng
cũng có lướt nhẹ qua tâm trí chàng nhưng chàng đều cố gạt đi. Chàng nghĩ đến những
sự phiền phức do người đàn bà đem đến để khỏi phải suy nghĩ lâu. Không ngờ hôm
nay...
Có tiếng gót giày gõ nhẹ ở ngoài hiên. Sơn bước ra phòng
khách thì thấy Trúc Đào.
- Sao cô về sớm thế?
- Em không thích đi.
- Mấy người kia đâu?
- Thưa ông, họ đi hòn Chồng.
Ngần ngừ một giây. Trúc Đào tiếp:
- Vợ chồng anh Lộc chị Thúy động một tý là cãi nhau. Em bực
mình nên bỏ về.
Sơn nhún vai:
- Cãi nhau theo kiểu Lộc Thúy, đó là một hình thái yêu nhau
khi vợ chồng đã bắt đầu có tuổi. Dĩ nhiên đó không phải là hình thái duy nhất...
chắc cô hiểu thế.
Trúc Đào lắc đầu:
- Em không hiểu.
Sơn cười:
- Thế thì để rồi sau này cô sẽ hiểu.
Trúc Đào cũng cười vì câu trả lời ngộ nghĩnh trái với điều
nàng mong đợi. Điều nàng mong là được nghe Sơn kể những hình thái yêu đương mà
chàng biết và nàng tò mò muốn biết.
Một luồng gió nhẹ nhàng qua. Trúc Đào thở hít vào một hơi
dài, ngẩng một lát như suy nghĩ rồi hỏi:
- Mùi hương của hoa gì mà thơm quá?
Sơn hỏi lại:
- Cô không biết là hoa gì sao? Hoa trúc đào đấy.
- Trúc đào?
- Vâng. Đúng vào tên cô.
- Em chưa biết có thứ hoa ấy.
- Dĩ nhiên. Ở Đà Lạt làm gì có trúc đào. Cô ra đây mà xem.
Trúc Đào bước theo Sơn. Chàng chỉ một bụi hoa màu hồng rồi
nói:
- Đây là một bụi trúc đào. Lá dài thon như lá trúc, chắc vì
thế mà người ta gọi là trúc đào. Hương hoa thơm đậm lắm.
Sơn đi sang một bụi hoa màu trắng:
- Đây cũng là trúc đào nhưng hoa trắng. Cánh hoa màu trắng.
Màu lá cũng xanh nhạt hơn. Cô thấy không?
- Vâng. Và mùi hương cũng nhạt hơn. Em thích mùi hương này
quá. Ở Đà Lạt có trồng được hoa này không hở ông?
- Tôi chưa thí nghiệm, nhưng chắc được.
- Thế thì em phải trồng ở vườn nhà em mới được. Người ta trồng
bằng cách nào hở ông?
- Cắt cành mà giâm.
- Thế ông giâm cho em nhé? Em xin ông mỗi thứ một cành giâm.
- Tôi sẵn sàng mỗi thứ hai cành cũng được, nhưng làm sao gởi
lên Đà Lạt cho cô?
- Điều đó ông không lo. Nghỉ No-en em sẽ xuống Nha Trang để bứng
về.
Sơn gật gù:
- Tôi tưởng tượng thấy vườn nhà cô đầy những hoa trúc đào và
cô sẽ ghi ở trụ cổng: "Biệt thự Trúc Đào". Người khách qua đường sẽ tự
hỏi không biết Trúc Đào là tên hoa hay tên chủ nhân.
Trúc Đào mỉm cười. Chợt nàng kêu to lên vừa đi nhanh về một
dãy chậu hoa hồng:
- Ô! Ông trồng nhiều hoa hồng như thế này cơ à. Em tưởng ở Đà
Lạt mới trồng được hoa hồng đẹp.
Nàng áp một đóa hồng nhung vào má mình và kéo một đóa hồng
sen để lại gần mũi:
- Mùi thơm ngọt quá. Mà...
Nàng quay sang Sơn lúc bấy giờ đã lại đứng gần nàng:
- Mà sao ông trồng nhiều hoa hồng thế? Hay là... ông yêu một
cô Hồng nào đó?
Sơn cười:
- Không chắc. Hình như tôi chưa yêu một người nào có tên như
thế. Tôi không hay rắc rối. Trồng hoa là một việc mà yêu là một việc khác, hai
việc có can hệ gì đến nhau đâu?
- Nhưng em vẫn có cái thắc mắc này là... sao ông chưa có vợ.
Hay là ông không yêu ai?
- Có chớ! Có chớ! Nhưng yêu và cưới vợ là hai việc khác nhau
cũng như yêu và trồng hoa vậy?
Trúc Đào ngần ngừ:
- Trước khi xuống Nha Trang, anh chị Lộc có cho em biết về
ông. Biết đại khái thôi, tất nhiên, nhưng trong những nét đại khái ấy có việc
ông mãi không lấy vợ. Xin lỗi là em đã tưởng tượng ông dưới những vẻ không đúng
với sự thật chút nào hết, những vẻ mà mỗi lúc nghĩ đến thấy em có lỗi với ông hết
sức.
Sơn lắc đầu:
- Chẳng sao. Những người lạ bao giờ cũng dễ bị ghét một cách
bất công. Nhưng anh chị Lộc cho cô biết một cách đại khái về tôi như thế nào?
- Dạ... anh chị ấy nói rằng ngày xưa ông có yêu một người
nhưng sắp lấy nhau thì chiến tranh xảy ra, mỗi người lạc một phương. Ông đợi suốt
mười năm cho đến ngày đình chiến. Trở lại cảnh cũ thì người yêu đã lấy chồng. Từ
ấy đến nay sáu năm đã trôi qua, ông cứ ở mãi vậy. Có phải đúng thế không?
Sơn chỉ mỉm cười không đáp.
- Anh Lộc nói từ lần thất bại đó ông không còn cảm tình với
đàn bà nữa. Nay được nghe ông nói chuyện mới biết là anh Lộc đã lầm. Nhưng đã
không mất cảm tình với người đàn bà thì đáng lẽ ông đã cưới vợ rồi chứ?
Thấy Sơn vẫn không trả lời, nàng giục:
- Sao? ông có thể cho em biết vì sao ông mãi không lấy vợ
không?
Sơn nhíu mày nhìn Trúc Đào một cách ranh mãnh:
- Nhưng tại sao cô lại muốn tò mò hỏi kỷ thế?
Trúc Đào cười tự nhiên:
- Đó là câu hỏi vốn ám ảnh em và một số những bạn thân của
em. Đó là một vấn đề xã hội, có thể nói là vấn đề của chúng em cũng không sai.
Người đàn ông là đồng minh của người đàn bà, vậy hiểu rõ đồng minh của mình là
một điều cần thiết.
- Nhưng...
Trúc Đào giơ tay ngăn lại;
- Ông chiều em một tí đi. Oâng thử nói xem vì lý do gì...
- Có lẽ...- Sơn ngần ngừ,- vì tôi tham lam quá.
- Không có vợ vì tham lam? - Trúc Đào mở to mắt ngạc nhiên.
- Hình như vậy. Tôi muốn được hết mà không mất một chút gì.
Yêu bao giờ cũng có lãi. Cưới vợ thì... chưa chắc
Sơn cười và Trúc Đào cũng thích thú cười theo. Thấy ánh nắng
chiếu vào chỗ nàng đứng, Sơn bảo:
- Mời cô vào nhà.
Trúc Đào đi vào và chàng cũng chậm rãi bước theo. Nàng lại ngồi
ở ghế xa-lông và Sơn ngồi đối diện.
- Thế ông có nhiều người yêu không? - Trúc Đào đột ngột hỏi
- Tôi không biết từ bao nhiêu mới được gọi là nhiều. Nhưng chủ
quan mà nói thì hình như ít lắm.
Khi Sơn dứt lời nàng chậm rãi nói:
- Nhiều lúc em cũng nghĩ như ông vậy. Khi yêu người ta chỉ biết
đến quyền lợi mà khỏi có bổn phận. Khi lấy chồng thì hình như chỉ bổn phận là
chắc chắn có mà thôi. Còn quyền lợi... Nàng vung nhẹ bàn tay vừa bĩu môi tỏ vẻ
hoài nghi.
- Sáng nay ngẫu nhiên em cầm một quyển sách ở bàn viết của
ông mở ra xem. Bìa đóng gáy da, em tưởng là sách, không ngờ mở ra thấy là một
quyển vở. Em tò mò đọc một vài trang. Xin lỗi ông, - chỗ này nàng đổi giọng,
nói nhỏ hơn nên thân mật hơn, - nếu anh Lộc chị Thúy không nói về ông thì em đã
không tò mò như thế.
- Thế cô đọc được gì?
- Đoạn ông nói về cô... gì ấy, em không đọc được tên. Tên cô ấy
ông viết bằng chữ Tàu thì phải.
Sơn gật đầu:
- Đúng rồi. Tôi viết bằng chữ Hán.
- Người yêu của ông là một cô gái Trung Hoa?
- Không phải, cô ấy là người Việt như cô vậy. Nhưng để tránh
những con mắt tò mò, - xin lỗi cô, không phải tôi dám ám chỉ cô đâu, - để tránh
những con mắt tò mò, tôi viết tên cô ấy bằng chữ Hán.
- A! Ngộ nhĩ!
- Không phải đó là phương pháp độc nhất. Tôi có thể viết bằng
một tên Pháp hay tên Anh. Chẳng hạn nếu người đẹp của tôi giống một nhân vật
nào trong một quyển tiểu thuyết Pháp hay Anh mà tôi đã đọc thì tôi có thể lấy
tên nhân vật trong truyện mà gọi nàng. Cũng có khi tôi biên đúng tên nàng nhưng
đảo ngược vị trí các chữ. Ví dụ tên Hòa, sẽ biến thành Hào, Mai thành Mia.
Trúc Đào gật gù lý thú:
- Nếu tên em thì ông viết chữ Tàu như thế nào?
Sơn rút cây bút máy và kéo ở bàn xa lông ra một tờ báo.
Chàng xích lại gần nàng, viết ngoằn ngoèo một chữ Hán lên
lưng tờ báo rồi nói:
- Đó, tên cô đó.
Chàng viết lại hai lần chữ "Đào" và Trúc Đào xuýt
xoa thấy tên mình hiện ra dưới một hình thức quái dị nhưng có vẻ cổ kính trang
nghiêm.
- Tôi cũng có thể viết tên cô bằng cách đảo lộn vị trí các chữ.
Tôi viết thế này chẳng hạn "Sáng chủ nhật 20 tháng 9. Đóa hỏi: Sao ông
không lấy vợ?"
Trúc Đào cười lên:
- Đóa hỏi sao ông không lấy vợ. Đóa, cái tên nghe hay đấy ông
nhỉ? Còn nếu ông muốn viết tên em bằng chữ Pháp?
Sơn giơ một ngón tay ngắt lời ngay như chàng đã có sẵn ý kiến.
- Không khó. Tôi đã chuẩn bị rồi. Khi vừa gặp cô, tôi thấy cô
có những vẻ gì hao hao giống nàng Dominique trong phim "Nụ cười
xuân". Ừ, tôi thấy rồi. Khi cô ngẩng mặt lên đợi chờ, đợi chờ một câu trả
lời, đợi chờ một ý mà cô đang tìm thì quả cô giống cô đào Christine Carrère
đóng vai Dominique hết sức. Vậy thì khi cần viết tên cô, tôi có thể thay bằng
Dominique.
Trúc Đào gật gật đầu:
- Sáng kiến này của ông hay lắm đó vì ông sẽ nhớ kỹ những người
mà ông đã gặp. So sánh để tìm nét giống nhau giữa một người với người khác, như
thế là gián tiếp ông đã ghi nhận những nét độc đáo của người ấy.
Vừa lúc ấy có tiếng cười nói của Thúy, Oanh vang lanh lảnh ở
trước cổng. Ba người bạn đã đi du ngoạn về. Thấy Trúc Đào ngồi đối diện với Sơn
ở xa lông, Oanh tru tréo lên:
- Thế mà làm người ta chạy tìm sáng mắt. Cứ tưởng mẹ mìn nó dỗ
đi đâu mất rồi.
Lộc nhìn Sơn, nói giễu cợt:
- Mẹ mìn này hiền lành nên chỉ lo cô Trúc Đào dỗ mẹ mìn đi
thì có.
Sơn nhìn sang Trúc Đào thì thấy nàng đang tinh nghịch nhìn
chàng.
Trúc Đào hỏi:
- Đi hòn Chồng có vui lắm không?
Nhưng không đợi cho Oanh trả lời, nàng đứng dậy đi ra giếng
nước. Đi qua trước mặt Sơn, nàng thấy Sơn giơ tay ra hiệu giữ lại. chàng lấy giọng
tự nhiên nói:
- Lúc nãy tôi bảo cô rằng tôi không lấy vợ vì tham lam quá.
Điều đó chưa chắc đúng. Có lẽ đó chỉ là một lý do trong rất nhiều lý do phức tạp,
chẳng hạn tâm tính sở thích... Nhưng thôi, phải đợi một dịp khác có nhiều thì
giờ hơn chúng ta mới có thể thỏa thuận về điểm khúc mắc này.
Dịp ấy, Trúc Đào tưởng là hôm sau, khi Sơn đề nghị với nàng
đi lên Ngọc Hội xem lò gốm. Đêm đó, trước khi ngủ, dù vẫn ậm ừ chịu chuyện với
Thúy và Oanh, nàng vẫn không thể không để óc mình vấn vương vì Sơn. Chàng có những
vẻ gì khác với những người bạn trai cùng lứa với nàng. Cố phân tích cho rõ,
nàng thấy Sơn một sự điềm đạm cuốn hút, một sự lễ độ bề ngoài lạnh nhạt nhưng
chứa đầy nhiệt tình. Những bạn của nàng họ vội vàng quá, họ trắng trợn quá, họ
say đắm quá, khiến họ như lúc nào cũng bị men rượu làm choáng váng... Thế mà
nàng thì nàng yêu một cái gì nhẹ nhàng hơn, một tiếng thoáng qua, một màu sắc
nhạt. Nàng sợ sự tàn bạo. Yêu vồ vập thì chóng quên chóng nhạt. Aø, nàng thấy
ra rồi, sự cuốn hút nơi Sơn còn do ở tấm lòng chân thành chàng đối với người
yêu cũ, ở sự thận trọng chàng đối với những tình yêu mới. Trước mắt nàng Sơn
như một con chim lạ. Nàng thấy mơ hồ một sự cảm mến đối với chàng, đồng thời
như có sự tò mò giục nàng thử khám phá xem sao. Người trầm lặng dễ làm đích cho
nhiều sự khám phá. Nàng đã chán vì nhiều bạn của nàng sống hời hợt quá nên chưa
kịp có một cá tính, có một nội dung. Họ như những quyển sách dở chỉ khác nhau ở
cái bìa cái tên sách còn nội dung thì na ná như nhau. Mặc áo và cạo râu, sáng
trưa đi làm, ăn uống, tiêu khiển.. bấy nhiêu công việc lặp lại đều đặn ở người
này cũng như ở người kia, giống y như những tình tiết yêu đương, trắc trở, nước
mắt, nụ cười... trong những quyển tiểu thuyết dở. Dù chưa nếm nhiều nhưng quả
tình nàng thấy chán. Theo nàng, Sơn có đời sống nội tâm khác hơn những bạn mà
nàng biết. Những nếp cảm xúc tinh vi của chàng chắc chắn sẽ dành cho sự khám
phá của người đàn bà những thích thú bất ngờ. Khám phá! Nhưng nàng vụt nghĩ:
Khám phá để làm gì? Ừ, khám phá để làm gì? Câu hỏi đến với nàng đúng lúc như một
tiếng vang. Để làm gì? Nàng sắp lấy chồng. Ý nghĩ về Khiêm, người chồng sắp cưới
của nàng dồn dập đến, vồ lấy tâm hồn nàng khiến nàng khó chịu. Nàng lắc đầu, muốn
xua đuổi không nghĩ đến. Nàng quay sang lay Oanh:
- Chị Oanh ơi! Dậy nói chuyện với em đi. Sao ngủ chóng thế.
Tâm trạng ấy của Trúc Đào, Sơn không hay biết gì hết. Khi
chàng đề nghị cùng nàng lên thăm lò gốm, chàng vui vẻ thấy nàng vội vàng bằng
lòng và từ chối không đi với đoàn ra thăm Ba Hồ. Nhưng Oanh, khi nghe Sơn đề
nghị lên thăm lò gốm thì Oanh cũng reo lên:
- Em cũng đi với. Từ nhỏ đến giờ em chưa bao giờ được xem người
ta làm đồ gốm. Em đi với có được không, ông Sơn?
- Được lắm chớ. Hoan nghênh là khác.
Ba chiếc xích lô đi theo hàng một đưa ba người lên Ngọc Hội.
Đoạn đường này không vui vì Trúc Đào không có dịp để nói chuyện vui vẻ cùng
Sơn, mặc dù nàng đã khéo xếp đặt để xe nàng đi sát gần xe Sơn. Muốn thế, khi ra
xe nàng đi chần chừ đợi cho Oanh ra trước để Oanh bước lên xe trước. Nàng đi xe
giữa và Sơn vì bận phải khóa cửa nên ngồi xe sau. Ngồi nhìn ra trước, mắt Sơn
chạm phải cái ót trắng của Trúc Đào với mớ tóc nâu uốn vắt lên cao. Lâu lâu,
Trúc Đào lấy cớ nhìn theo một ngôi nhà, một cây dừa nước, một cái xe ngựa chạy
ngược chiều để quay lại. Và mỗi lần như vậy nàng không quên câu trả lời cái
nhìn của Sơn bằng một nụ cười lặng lẽ.
Đến đầu con đường rẽ vào xóm thì xe dừng lại. Ba người xuống
đi bộ. Đoạn đường này rải đá nhưng lâu ngày không tu bổ nên đất trôi đi hết còn
lởm chởm đá. Hai nàng nhón bước trên những mũi đá dăm, tinh nghịch cười khi có
viên đá lăn tròn dưới gót giày. Sơn thấy lây cái vui hồn nhiên của họ.
Những vườn dừa chạy dài liên tiếp rải bóng mát xuống mặt đường.
Từng chặng, lá dừa đan kín trên đầu, nhìn không thấy trời. Hai bên đường, nhà cất
san sát nhưng cái lòi ra, cái thụt vào, cái nhìn thẳng ra đường, cái quay hông
nhìn sang hướng khác. Nhà lợp lá dừa và vách trát đất nên thuần một màu xám đậm.
Cách khoảng, chen vào một ngôi nhà gạch nhỏ nhắn với cửa sơn xanh lá cây, vách
quét vôi xanh nhạt trông như một cô gái quê làm đỏm. Oanh nói:
- Ở đây sự sống yên tĩnh dễ chịu quá. Có lẽ được sống ở đây
quanh năm thì tim em chỉ còn đập sáu mươi nhịp trong một phút.
- Ai cấm chị không được sống ở đây? - Trúc Đào hỏi.
- Sự lười biếng, sự rụt rè không dám thay đổi một nếp sống cố
hữu. - Oanh mơ màng trả lời.
Sơn chỉ một bà cụ già ngồi trước hiên một ngôi nhà xiêu vẹo
đang nheo mắt vá áo. Chàng nói:
- Đó là hình ảnh của hạnh Phúc theo cô Oanh quan niệm đó. Tim
của bà cụ này chỉ còn năm mươi lăm nhịp đập trong một phút thôi.
Oanh và Trúc Đào cùng phá ra cười ầm ĩ khiến những khuôn mặt
ló ra ở các khung cửa sổ. Vài người bước hẳn ra hiên nhìn đăm đăm vào hai nàng.
Quá chợ Mới con đường nhỏ lại và nện đất. Nhà nối tiếp thưa
thớt hơn. Thỉnh thoảng đôi mắt được nghỉ ngơi trên những cánh đồng mía lá xanh
rờn rợn. Tiếng bàn chuốc rập rình ở một cái trại nhỏ vang ra. Sơn giảng:
- Đã tới xóm lò gốm rồi đó. Tiếng rập rình mà hai cô vừa nghe
là tiếng bàn chuốc.
Oanh định hỏi "bàn chuốc là cái gì?" nhưng nàng dừng
lại không hỏi. Nàng nghĩ: Trúc Đào nhất định cũng không biết bàn chuốc là cái
gì nên thế nào Trúc Đào cũng hỏi. Nhưng Trúc Đào đang lơ đãng nhìn một ánh nắng
đang chiếu vàng trên đọt dừa cao. Nàng bảo Sơn:
- Ông Sơn ơi, ông xem kìa, ánh nắng chiếu trên đọt dừa kia. Từ
sáng đến giờ trời âm u mình cứ lo đi chơi mắc mưa.
Sơn đưa mắt nhìn rồi nói:
- Nhưng không nắng lâu được đâu. Lóe một chút rồi tắt ngay.
Nhưng được cái là vẫn tốt hơn mưa.
Chàng đưa hai người bạn vào một trại lò gốm. Trước sân, những
miếng gạch vừa đổ ra được sắp hàng để phơi khô. Ở bàn chuốc, một người đàn bà
dùng chân đẩy cho cái bàn xoay còn một người đàn bà khác đưa hai tay kéo một
con đất cho thành hình cái chậu. Oanh thấy lạ, đứng chăm chú nhìn rồi hỏi tíu
tít người đàn bà:
- Bà đẩy bàn có nặng không? sao bà chuốc không méo? Lỡ méo
thì bà làm sao? Mấy ngày thì cho vào lò? Mỗi ngày bà làm được bao nhiêu tiền?
Bà có ở gần đây không? Bà được mấy con?...vân vân...
Hai người đàn bà chia nhau trả lời. Họ không tỏ ra khó chịu
vì những câu hỏi của Oanh mà họ cho là ngây thơ. Sơn để cho Oanh và Trúc Đào
say mê với những phát kiến mới của họ. Chàng bước ra sân, đi men ra vườn, đứng
nhìn xuống một con lạch nhỏ. Nước đứng im sừng sững in bóng những bè rau muống,
những khóm bèo lục bình đơm hoa tím. Một con chim bói cá đậu trên một cành tre
nhỏ sát mặt nước, phải nhìn kỹ lắm chàng mới trông thấy. Chàng cúi nhặt một miếng
mẻ ngói giơ tay định ném con chim thì có tiếng chân bước lại gần và một tiếng
"suỵt" khe khẽ. Chàng quay lại: Trúc Đào. Nàng giơ một ngón tay lên
miệng, mở to mắt:
- Ông sắp ném chim hả? Sao ông ác thế?
- Tôi ném trăm lần trật cả trăm. Cô đừng lo.
- Con đường nầy đi về đâu thế ông?
- Đường này xuống ngõ Phương Câu.
- Phương Câu, - nàng mím môi suy nghĩ, - Phương câu chắc là
giống Bích Câu ông nhỉ? Cảnh đẹp như thế này mà.
Nàng bước ra đường và tự nhiên Sơn cũng bước theo. Những cây
ô mai, cây khế, cây mít ở các vườn nhà người ta đều làm cho nàng xuýt xoa. Mấy
đứa bé thấy nàng mặc áo sơ mi ngắn quần tây dài bó đùi, đi sát theo tò mò nhìn.
Một đứa chạy ù ra trước vói tay gọi mấy đứa khác:
- Ra coi vợ chồng ông bà này bay ơi! Bà vợ bận quần tây.
Sơn hơi ngượng vì sự hiểu lầm của đứa bé. Chàng đưa mắt nhìn
sang Trúc Đào nhưng không thấy nàng tỏ vẻ khó chịu nào cả. Nàng tươi cười trỏ một
ngón tay về phía đứa bé, ra dấu dọa nạt:
- Nói nhảm đấy nhé? Đánh chết.
Rồi quay sang Sơn, nàng nói, miệng vẫn giữ nụ cười:
- Lũ nhỏ quan niệm rằng một người đàn bà và một người đàn ông
đi với nhau thì phải là hai vợ chồng.
- Cả người lớn cũng quan niệm như vậy.
- Tội nghiệp - Trúc Đào chép miệng.
Nàng định nói thêm thì chợt nhìn xuống một vũng nước rộng nằm
trải suốt mặt đường.
Mấy ngày trước trời mưa nên mặt đường lỗ chỗ những vũng nước.
Sơn đã nhún chân nhảy qua đứng ở bên kia vũng đợi. Trúc Đào ngắm nghía vũng nước
nhún chân mấy lần nhưng không dám nhảy qua. Nàng đưa mắt tìm một lối đi ven hai
bên bờ đường nhưng không có lối. Sơn đưa thẳng bàn tay ra nói:
- Cô nắm bàn tay tôi mà nhảy qua. Như vậy chắc khỏi ngã.
Trúc Đào tươi cười ngay:
- A! Phải đấy. Thế mà em không nghĩ ra được.
Nàng giơ tay cầm lấy bàn tay Sơn, nhún chân nhảy. Đà nhảy mạnh
đẩy nàng sát vào người Sơn. Chàng nhìn vào đôi má hồng của nàng mơn mởn lông
tơ. Đôi mắt đen nháy long lanh sáng. Mùi nước hoa ở mái tóc thoang thoảng.
Chàng nhìn xuống bàn tay mà chàng còn giữ lại: ngón trắng thon và cổ tay tròn
trĩnh, Trúc Đào chầm chậm rút tay ra khỏi lòng bàn tay của chàng. Sự việc xảy đến
nhanh quá khiến nàng có cái thú ngây ngất của sự bất ngờ. Im lặng một giây,
nàng khẽ bảo:
- Chết! Chúng ta bỏ quên chị Oanh ở lò gạch. Phải trở lại kẻo
chị trách.
Sơn không trả lời. Hai người nhảy trở lại vũng nước nhưng lần
này nàng không nắm tay Sơn nữa. Tuy vậy, để phòng xa đường trơn, nàng nhảy ngay
vào chỗ Sơn đang đứng đợi.
Đi chừng vài mươi bước, Sơn cảm thấy buồn. Có lẽ Trúc Đào
cũng nghĩ như vậy chăng nên liếc nhìn sang nàng, Sơn thấy nàng cắn môi. Con đường
về không có gì lạ. Cuộc phiêu lưu đã chấm dứt ở từ cái vũng nước ngang đường. Đến
ngã tư thì hai người thấy Oanh đang ngơ ngác đưa mắt tìm. Đón trước trước lời
trách của Oanh, Trúc Đào bước nhanh đến vừa tươi cười nói:
- Em đi lạc đường...may có ông Sơn...
Hơi ngượng vì lời nói dối nên Trúc Đào ngần ngừ không nói hết
câu. Sơn tự hỏi: Trúc Đào nói dối làm gì? Nhìn sang Oanh thấy Oanh không tỏ vẻ
nghi ngờ gì hết, Sơn bảo:
- Nếu chúng tôi không đến kịp thì cô cũng sắp đi lạc đường rồi
đó. Tôi tưởng cô đang say mê với lũ chum, vại, gạch, ngói của hàng lò gốm.
Oanh reo lên:
- Ồ! Thích quá khi được nhìn hai bàn tay dịu dàng của người
thợ chuốc biến con đất sù sì ra cái chậu, cái vung. Thật không ngờ một người
đàn bà cục mịch như thế lại khéo tay như vậy. Hay quá. Thật là một cuộc đi chơi
đầy thú vị.
Trúc Đào đưa mắt nhìn sang Sơn thì bắt gặp tia mắt của Sơn
nhìn mình. Cả hai như cùng muốn nói: chúng tôi cũng vừa thấy như vậy.
Con đường về như ngắn hơn lúc đi. Cảnh nhà cửa cảnh cây cối
trên đường và những khuôn mặt, mới gặp một lần mà như đã quen lâu rồi. Oanh và
Trúc Đào không tò mò nhìn nữa nên bước chân đi mau hơn. Tuy vậy, có những chi
tiết lúc đi không lưu ý, đến chừng về hai người mới thấy. Chẳng hạn cái cầu đá
uốn vòng như lưng mèo với cái vòm cong ở dưới hình bán nguyệt. Nước đục mang những
bè rác chảy lờ đờ. Chẳng hạn cái lều chợ bằng ngói nằm giữa những bức tường
thành cao của mấy ngôi nhà xung quanh. Oanh nói:
- Đi xem cảnh phải xem một lần đi và một lần về mới thấy hết,
nhớ hết. Cũng như học bài vậy. Phải học ôn thì mới khỏi quên.
- Đúng thế, - Sơn trả lời. - Nhưng chỉ tiếc là điều nhớ hôm
nay, ta sẽ quên ngày mai, ngày kia.
Ba người im lặng bước. Một lát sau, Trúc Đào chậm rãi nói:
- Quên là một bắt buộc của cuộc đời chứ bản tâm con người thì
muốn nhớ hết, nhớ hết.
Câu nói của Trúc Đào khiến Oanh quay nhìn sang Sơn có ý dò hỏi.
Sơn cất tiếng cười để lấy vẻ tự nhiên:
- Khi mỏi chân thì cô Trúc Đào có những tư tưởng rất thâm
thúy.
Trúc Đào cười và Oanh cũng cười theo.
Vui chân, ba người đi bộ mãi đến Phật học viện mới gọi xích
lô về nhà. Đến ngã Sáu Nhà Thờ, những tấm vải quảng cáo tuồng chiếu bóng chữ viết
xanh đỏ bắt mọi người lưu ý.
Trúc Đào kêu lên:
- Ô! Tối nay rạp Tân Tân chiếu phim Gidget. Phim này hôm chiếu
ở Đà Lạt em trật xem. Vậy tối nay phải đi xem mới được. Ông Sơn đã xem chưa?
- Chưa
- Vậy tối nay mời ông đi với em nhé?
- Đồng ý. Mời cô Oanh cùng đi luôn.
- Cám ơn ông. Em đã xem rồi.
Tiếng phát lách cách của ba chiếc xích lô làm con Tô sủa vang
lên. Con bé ở ra mở cổng. Khi bước vào sân, Trúc Đào vui vẻ nói:
- Em rất thích Sandre Dee. Để rồi tối nay ông cũng sẽ yêu
Sandra Dee như em.
Vừa lúc ấy con bé ở lại đi gần nàng.
- Thưa cô, lúc nãy có người đến hỏi cô.
- Người ấy ra thế nào? đàn ông hay đàn bà?
- Thưa cô đàn ông.
- Nhưng người ấy hỏi cô nào? Cô Oanh hay tôi?
- Thưa cô người ấy hỏi: Cô Trúc Đào có ở nhà không? con thưa
rằng cô đi vắng thì ông ấy bảo về thưa lại với cô tối nay ông ấy đến.
- Ông ấy người ra thế nào?
Con ở lúng túng không biết nên tả ra thế nào. Rồi như chợt nhớ
ra, nó vui vẻ nói:
- Ông ấy đi bằng ô tô.
- Bằng ô tô?- Trúc Đào chau mày lật đật hỏi.- Ô tô nhỏ?
- Thưa cô, vâng. Ô tô nhỏ màu vàng nhạt.
Nét mặt của Trúc Đào sa sầm xuống.
- Cô có điều gì không bằng lòng?
Sơn hỏi nhỏ:
Trúc Đào lắc đầu:
- Thưa ông không.
Rồi nàng lẳng lặng vào phòng.
Vợ chồng Lộc Thúy đã đi xuống khách sạn để ăn chung với đoàn
du lịch. Đã trễ giờ nên Sơn mời Oanh và Trúc Đào cùng ăn với mình. Mặc cho những
lời vui đùa của Sơn và của Oanh, Trúc Đào có vẻ không vui.
Ăn tối xong, nàng giục Sơn:
- Chúng ta chuẩn bị đi xi-nê đi.
Sơn nhìn vào đồng hồ tay:
- Còn sớm quá, chín giờ mới chiếu mà bây giờ mới tám giờ kém
hai mươi.
- Chúng ta có thể đi một vòng ở phố Độc Lập rồi vào rạp sau.
- Nếu cô muốn.
Sơn đứng dậy vào phòng thay áo và Trúc Đào cũng lại chải tóc
trước gương. Thấy Oanh mở xắc lấy son bôi môi, Sơn hỏi:
- Còn cô Oanh?
- Em ghé lại thăm chị Bích. Xuống Nha Trang mà không ghé thăm
chị, lúc chị biết được thế nào chị cũng trách.
Ba người đang mê mải chuẩn bị thì có tiếng còi ô tô trước cổng.
Tiếp theo sau, tiếng mở khóa lách cách và tiếng giày đi vào
xa-lông.
Oanh chạy ra và reo lên.
- Anh Khiêm! Anh Khiêm, chị Trúc Đào ơi.
Sơn đưa mắt nhìn sang Trúc Đào thì thấy nàng bỏ mạnh cái húp
phấn xuống bàn rồi đứng dậy.
Khi Oanh giới thiệu Khiêm với chàng, Sơn nhận cái bắt tay rất
chặt và một nụ cười thân mật. Oanh hỏi:
- Anh vừa ở Đà Lạt xuống?
- Xuống hồi bốn giờ chiều. Tôi phải làm việc sáng thứ bẩy. Ăn
trưa xong, nghỉ một lát rồi phóng xe xuống đây.
- À!- Oanh vui vẻ như vừa khám phá ra sự lạ. - Hồi chiều anh
có ghé lại đây hỏi chị Trúc Đào phải không? Lúc bấy giờ chúng em đi Ngọc Hội
xem lò gốm.
Khiêm gật đầu rồi mỉm cười lặng lẽ. Ba người ngồi im lặng khá
lâu. Sơn tinh nghịch đợi xem ai sẽ phá tan sự im lặng ngượng nghịu ấy. Khiêm
thì ngồi thẳng ở ghế xa-lông, những ngón tay đan tréo vào nhau và mắt hết nhìn
xuống lọ hoa lan đặt ở bàn nước đến đưa ra nhìn giàn hoa hoàng anh trước cửa.
Oanh thì thập thò nhìn vào cửa phòng như đợi Trúc Đào ra. Một lát có tiếng giày
của Trúc Đào. Khi nàng hiện ra ở khung cửa, Khiêm đứng dậy:
- Anh đợi em từ chiều đến giờ.
Trúc Đào mỉm cười uể oải.
- Em sắp đi phố hả? Để anh đưa xe em đi. Nhưng trước hết
chúng ta phải ghé lại nhà chào chú thím đã. Nhà chú ở số... chết chết, ở số mấy
anh quên mất...
Chàng móc túi lấy ra một cái ví đầy ắp những giấy tờ, lục lọi
một lát rồi reo mừng:
- Phải rồi! Số 57 Duy Tân. Còn chị Oanh đi chơi với chúng
tôi? À quên, chúng tôi còn phải đi xuống Duy Tân.
Oanh nhanh nhẩu đáp:
- Em cũng phải đi lại thăm chị Bích ở gần đây.
- Thế để tôi đưa xe chị đi luôn. Nào, chúng ta cùng đi.
Khiêm bước ra trước. Trúc Đào mắt nhìn sang Sơn nói nhỏ:
- Xin lỗi ông...
Sơn vừa bắt tay Khiêm vừa nói:
- Không có gì. Xin chúc ông... bà vui vẻ.
Tiếng "bà" chàng nói khẽ để dò xem tình thế. Không
ai tỏ vẻ khó chịu. Chỉ riêng Trúc Đào hơi bĩu môi rồi quay nhìn ra sân.
Mười một giờ khuya vợ chồng Lộc Thúy và Oanh về.
Sơn lắng nghe tiếng họ bàn cãi khi bước vào nhà. Đầu tiên là
tiếng của Thúy:
- Trúc Đào nó không yêu mà bắt nó vui vẻ sao được?
Tiếng Lộc cãi lại:
- Không yêu sao lại bằng lòng lấy người ta?
Tiếng Oanh bình tĩnh hơn:
- Hai gia đình thân với nhau từ xưa. Vả lại, anh Khiêm đâu có
thua kém ai. Công chức cao cấp, lương to. Chỉ tiếc anh ta có hơi thô.
Sơn vụt nhớ đến mái tóc bàn chải và cặp mắt nhỏ, đến cái mặt
hay nghếch lên, vừa tự phụ vừa quê mùa.
- Nhưng người đàn ông sinh ra đâu phải với mục đích mỹ thuật?
Giọng chống chế của Lộc.- Có lẽ Trúc Đào không thích tính của Khiêm vì tính anh
ta hơi "gấu" thế nào ấy. Con người ấy thật mâu thuẫn. Ăn chơi mà lại
thô.
Có tiếng vỗ tay và tiếng cười to:
- Đúng rồi, đúng chữ ấy đấy. "Gấu". Phải, anh Khiêm
"gấu" lắm.
Tiếng "suỵt suỵt" có lẽ của Thúy.
- Im! Im! Cười nho nhỏ thôi để anh Sơn ngủ.
- Tội nghiệp. Hình như lúc nãy chị Trúc Đào khóc. Phải không
anh Lộc? Em thấy mắt chị ấy đỏ.
- Trông dáng Khiêm ngượng ngập khi gặp chúng mình và dáng
Trúc Đào quay mặt không trả lời câu hỏi của chị thì hiểu ngay.
Tia Nắng Rớt - Phần II
Ba người lặng lẽ thay áo rồi vào giường nằm. Những tiếng rủ rỉ
trao đổi với nhau lần lần thưa dần, uể oải dần. Cuối cùng đâu đó im lặng. Sơn mở
mắt nhìn lên đình màn. Trí óc chàng liên man nghĩ đến Trúc Đào, nghĩ đến cuộc
du ngoạn hồi chiều. Tiếng chuông đồng hồ nhà bên cạnh đổ lên mười hai tiếng. Một
chặp sau tiếng ô tô dừng trước cổng, tiếng giày sào sạo trên sỏi. Tiếp theo, tiếng
gõ cửa nhè nhẹ. Sơn trở dậy ra bật đèn mở cửa. Trúc Đào ngạc nhiên thấy Sơn mở
cửa cho mình. Nàng nói:
- Em làm phiền ông. Sao ông thức khuya thế?
Giọng nàng không trong trẻo như hồi chiều. Nghe như đặc lại.
Chàng trả lời:
- Nhắm mắt mà mãi giấc ngủ không đến.
- Em lại tưởng ông đi xi-nê.
- Không có cô thì không đi.
Trúc Đào im lặng.
- Em xin lỗi đã thất hứa với ông. Xin ông hiểu cho rằng em rất
tiếc. Ngày mai em phải về Đà Lạt rồi.
Sơn chép miệng:
- Những ngày vui đã chấm dứt.
- Em mong có dịp ông lên Đà Lạt chơi.
Sơn xòe hai bàn tay và bĩu nhẹ môi vẻ thất vọng:
- Để làm gì?
Chàng muốn Trúc Đào hiểu rằng chàng đang nghĩ đến cuộc đời của
nàng bên cạnh Khiêm. Riêng Trúc Đào, nàng cũng muốn nói: "Có lẽ ông nghĩ
đúng" nhưng nàng không dám nói.
Khi bước vào phòng, giọng Oanh ngái ngủ:
- Trúc Đào về đấy à? Sao khuya thế? Tối nay Khiêm nghỉ ở đâu?
- Anh ấy ở khách sạn. Sáng mai anh ấy phải đi Qui Nhơn sớm.
Lại một đêm nữa Trúc Đào trằn trọc không ngủ được. Nàng hồi
tưởng lại lần đầu tiên người được nghe Lộc nhắc đến tên Sơn. Hôm ấy nhằm ngày
chủ nhật, nàng nhớ kỹ là một ngày chủ nhật đầu tháng Năm, nàng ghé lại thăm Lộc
Thúy. Nàng như còn thấy rõ trước mắt, lọ hoa lớn ở phòng khách hôm ấy cắm toàn
hoa cúc trắng. Câu chuyện rất vui vẻ, bắt đầu nói về ngày lễ nghỉ, đến hoa trắng
tháng Năm, đến những chuyện tình vẩn vơ rồi quay sang sự học hành của Trúc Đào.
Chợt Lộc nói:
- À! Thúy này! Trúc Đào có fiancé rồi, tiếc quá em nhỉ! Nếu
chưa thì mình giới thiệu anh Sơn cho Trúc Đào.
Thúy tán thành ngay, một điều mà Trúc Đào ít khi thấy xảy ra
vì cặp vợ chồng này lúc nào cũng tìm những ý kiến mâu thuẫn để chống nhau:
- Ờ! Phải đấy. Anh Sơn là người bạn tốt của chúng em. Chị với
anh Sơn... Ờ, phải đấy!
Trúc Đào chỉ mỉm cười không trả lời. Lộc kể những tính tốt của
Sơn và theo ý kiến của Lộc thì Sơn và nàng sẽ thành một đôi vợ chồng hợp tính
nhau. Trúc Đào lắng tai nghe, lý thú nhưng không tin tưởng lắm, Lộc thuộc hạng
người có tâm hồn đơn giản, làm viên chức tốt và làm chủ gia đình hoàn toàn. Lộc
làm ăn cần kiệm, chơi huê chơi hụi chắc chắn, giao thiệp mua bán lanh lẹ tháo
vát. Nhà cửa sắp đặt ngăn nắp, sổ chi tiêu không ghi sót một món chi hai đồng,
tờ lịch luôn luôn được bóc vào chín giờ tối hôm trước... Tính tình dễ dãi như vậy
nên Lộc không có một mối băn khoăn siêu hình nào. Giải trí của anh, cho đến chừng
này tuổi vẫn là những phim phi ngựa bắn súng và những tập tiểu thuyết đường rừng.
Nàng thầm trách, - nhưng không biết trách ai, - rằng sao người giới thiệu Sơn
cho nàng lại là Lộc. Những bạn của Lộc thường là những nhà buôn cần xin giấy tờ
ở tòa thị chính, những người mới giàu lo chọn mua vi-la, những người cần mai mối
để tìm cưới một cô vợ có vốn. Nàng tưởng Sơn cũng đại khái như vậy. Nàng nghe
chuyện một cách lý thú chỉ vì óc chinh phục đặc biệt của người đàn bà mà thôi.
Nghe chuyện về một người đàn ông sắp được bạn giới thiệu để yêu mình là một điều
thích thú. Thích hơn nữa vì người đàn ông đó là vai chính của một câu chuyện
tình khá cao thượng. Nên khi Lộc nói xong quay lại hỏi: "Đấy, chị Trúc Đào
thấy một người như vậy có đáng yêu không?" thì nàng trả lời ngay, vui vẻ
nhưng hời hợt: "Có. Đáng yêu lắm.". Tức thì Lộc nói liền:
- Hôm nào chị cùng đi xuống Nha Trang với tôi. Tôi giới thiệu
cho.
Trúc Đào không ngờ lời hứa đó hôm nay đã thành sự thật, một sự
thật đẹp hơn nàng tưởng tượng nhiều. Vì sau đó nàng lại nhiều lần được nghe Lộc
hay Thúy nói về Sơn và cứ sau mỗi lần như vậy, nàng có cảm tình với Sơn hơn trước.
Nay được gặp Sơn, nàng sung sướng và đau xót mà thấy rằng tâm hồn Sơn có những
điểm phù hợp với tâm hồn nàng. Nàng quay ra giận Lộc sao trước kia không nói kỹ
về Sơn hơn nữa cho nàng biết, nhưng nàng kịp thời thấy mình vô lý vì Lộc làm
sao mà nói hết được. Nàng trở sang trách Sơn sao lại chỉ quen với Lộc mà không
quen với Phượng, với Tuyết chẳng hạn là những bạn thân của nàng, những người tế
nhị như nàng và hiểu rõ tâm hồn nàng như chính nàng vậy. Nhưng rồi nàng cũng lại
thấy là mình vô lý.
Đồng hồ nhà ai thong thả gõ hai tiếng. Nàng nghĩ đến ngày mai
giã từ Nha Trang, giã từ vĩnh viễn cái bóng dáng Hạnh Phúc mà nàng tưởng như vừa
hình dung được. Nàng đưa mắt nhìn lần vải mùng, nhìn lên tường. Tường nhà Sơn
không mang một bức tranh ảnh nhỏ nào cả mà chỉ toàn một màu xanh nhạt. Phòng ngủ
chỉ để một ít bàn ghế giường tủ cần thiết. Ánh sáng và khoảng rộng chiếm nhiều
chỗ hơn. Nàng nhớ đến nhà mình bề bộn vì những đồ trưng bày hơn là cần dùng.
Nàng nghĩ lại: mình thích lối sống này hơn.
Quả thật nàng thấy Sơn say sưa yêu đời mà vẫn có dáng đạm bạc
với đời. Đó là một sự mâu thuẫn kỳ thú. Sơn có những ý kiến của chàng, không
như Khiêm thường chỉ nhắc lại những điều vừa đọc trên báo, vừa nghe ở đài phát
thanh hay vừa nghe của ai. Khiêm bàn về mọi vấn đề và về vấn đề nào cũng đưa những
ý hời hợt nhất, sáo nhất. Khiêm luôn luôn... Những ý nghĩ về Khiêm làm tâm hồn
Trúc Đào u tối lại khiến nàng nhắm mắt và ngủ lúc nào không biết nữa, bỏ dở
dang những ý nghĩ không có đoạn kết.
Sáng hôm sau, đoàn công chức về Đà Lạt. Vali, giỏ, xách trên
tay Lộc, Thúy, Oanh, Trúc Đào đứng thành hàng trước mặt Sơn. Sơn không để đợi
khách nói, chàng nói trước.
- Xin cám ơn anh chị và hai cô đã đến làm vui cái không khí của
nhà tôi. Tôi rất tiếc là không đủ phương tiện để làm cho những ngày các bạn lưu
trú được êm đềm hơn.
Lộc ấp úng:
- Tôi sắp cám ơn anh thì anh chận đầu mất rồi. Chúng tôi mới
phải cám ơn anh và xin lỗi đã quấy rầy anh mấy hôm nay.
- Quấy rầy?... Ừ, cũng có quấy rầy đôi chút đó, nhưng tôi
thích vì các bạn đã xáo trộn cuộc đời của tôi cho thêm vui một tí.
Lúc tiễn mọi người lên xe. Sơn nhận cái chào của từng người.
Đến lượt Trúc Đào, chàng nói:
- Riêng trúc đào của cô, cô sẽ có.
Trúc Đào mỉm cười:
- Lễ Nô-en em xuống.
- Tôi đợi.
Chàng êm đềm nhìn nàng giây lâu. Những câu muốn nói mà không
tiện nói ra chàng gửi vào cái nhìn âu yếm ấy. Trúc Đào cũng nhìn chàng mà không
chớp mắt. Nàng nghĩ gì mà không chớp mắt thế kia? Đến những kỷ niệm dưới gốc bụi
trúc đào, ở bên cạnh vũng nước hay đến buổi chiều bóng lỗi hẹn đêm qua?
Xe rồ máy. Sơn vẫy tay âu yếm nhìn theo cho đến khi xe mất
hút ở cuối đường Bạch Đằng.
Những ngày ở Đà Lạt không khiến Trúc Đào ít nghĩ về Sơn nhất
là những khi nàng va chạm với Khiêm. Từ ngày gặp Sơn, nàng mới thấy rõ sự tầm
thường của Khiêm, sự tầm thường mà trước đây nàng tưởng là trạng thái bình thường
của con người thời đại. Thậm chí đã có nhiều lúc nàng đâm ra nghi ngờ tự hỏi:
hay chính mình mới là người bất thường? Nàng nhớ lại những trang nhật ký của
Sơn mà nàng đã đọc. Không phải chỉ đoạn cô gái Trung Hoa nàng đưa ra hỏi Sơn
hôm trước đâu mà nàng đã đọc nhiều hơn thế nữa. Chính có đọc nàng mới thấy Sơn
có một đời sống nội tâm giống nàng, mới thấy rằng nàng không phải là một người
bất thường. Thật ra, những sự va chạm với Khiêm không có gì quan trọng. Đó chỉ
là những sự bực bội lặp lại khi nàng phải nghe những ý kiến phi cá tính của
Khiêm, những ý kiến phát biểu về một kiểu ô tô, về một màu sơn cửa, về một vấn
đề thời sự trên báo. Mỗi lần bực bội như vậy nàng thường đến nhà Lộc Thúy để
quên đi và nơi đây ba người lại mê mải nói chuyện về Nha Trang, về Sơn. Ba người
đều mâu thuẫn như nhau: họ vẫn ngầm công nhận cuộc hôn nhân giữa Trúc Đào và
Khiêm mà vẫn tìm mọi dịp để khám phá một cách thích thú rằng giữa Trúc Đào với
Sơn có những sự hòa hợp.
Ngày tháng trôi qua. Xấp lịch treo tường đã thấy mỏng lần, mỏng
lần. Rặng anh đào chạy dọc theo con đường Yersin đã thấy lấm tấm ra nụ. Gió lạnh
thổi từng cơn vi vút, reo giữa cành lá thông cao. Tháng chạp rồi. Lễ Nô-en đã
được báo trước bằng những bộ quần áo nỉ màu sẫm với những chiếc khăn len che
mũi, bằng những kiểu măng tô, bằng những chiếc áo nhung mềm mại uyển chuyển.
Trúc Đào vui vẻ nghĩ đến ngày lễ Nô-en, nghĩ đến lời hứa xuống Nha Trang. Xuống
Nha Trang, nàng sẽ đem theo món quà gì? Hoa thì nhất định phải có rồi vì đó là
thổ sản của Đà lạt. Nàng sẽ chọn một bó lai ơn màu tím đậm, màu tím phù hợp với
nỗi cô đơn của Sơn. Nhưng chỉ có hoa không thì ít quá. Hoa dẫu đẹp nhưng mau
tàn, phải có thêm món quà gì bền chắc hơn. Đang khi băn khoăn không biết chọn
món quà nào thì Khiêm lại. Sau vài câu chuyện nắng mưa, chuyện cách mạng Đại
Hàn, chuyện chiến tranh Congo mà Trúc Đào lơ đãng đối đáp. Khiêm đổi giọng
nghiêm trang hơn:
- Thằng Minh vừa đổi cái xe cũ, bù tám mươi ngàn đồng bạc lấy
được chiếc Consul đời NBJ nên cứ vênh cái mặt lái chạy khắp phố.
Trúc Đào thật thà:
- Cái Consul kiểu đẹp đấy chứ.
- Kiểu thì cũng trông được đấy nhưng màu xanh quê chết.
- Đó là sở thích của mỗi người.
- Sở thích gì? Nó là một thằng nhà quê. Nhìn con vợ nó không
thấy sao?
Tính Trúc Đào không thích tranh biện nhưng nàng thấy thèn thẹn
coi như mình thiếu thành thực nếu không bào chữa cho Minh, coi như mình đồng
lõa với Khiêm nếu nàng im lặng.
- Chị Minh bản chất thực thà nên không diêm dúa lòe loẹt đó
thôi, chứ em tưởng uốn tóc, vẽ mi mắt và mặc áo ni lông thì đâu có khó. Em có
quen chị ấy nên em biết rõ. Chị tốt lắm.
- Anh thì chúa ghét thằng Minh. Nó bắng nhắng...
Trúc Đào khó chịu ngắt lời:
- Sao anh nuôi chi những ý nghĩ xấu về người khác vậy? Nghĩ tốt
về người ta, lỡ có lầm cũng không sao vì không hại cho ai hết. Chứ nghĩ xấu cho
họ thì khi biết mình lầm, hối lại không kịp.
Hai người im lặng. Không khí có hơi ngột ngạt. Đã nhiều lần
như vậy, Trúc Đào cãi với Khiêm mỗi khi thấy Khiêm đả kích người vắng mặt.
Khiêm không dung cho một người nào có ưu điểm. Những lúc đầu nàng thấy vô hại
vì sự đả kích mượn hình thức châm biếm nhẹ nhàng, nhưng lần lần nàng thấy Khiêm
đi sâu vào sự nhỏ nhen, ưa tìm tì vết của người ta.
Khiêm lặng lẽ đưa tay ngắt một đóa thược dược ở lọ hoa đặt
trước mặt. Trúc Đào nghĩ rằng chàng ngượng nên có hơi hối hận. Chợt Khiêm bảo:
- Nô-en năm nay anh tổ chức tiệc nửa đêm có khiêu vũ.
Thấy Trúc Đào không reo mừng như chàng dự tưởng, Khiêm hỏi:
- Nào, em có thích không? Năm ngoái lũ thằng Như thằng Duệ ở
sở Địa dư, thằng Cang ở Thuế vụ tổ chức những tiệc nửa đêm có khiêu vũ. Chúng
nó tổ chức xoàng thôi mà cũng được lũ bạn khen ầm lên...
"Lại chê bai người ta!" Trúc Đào nghĩ. Cổ họng nàng
như nghẽn lại do hơi ở đâu đưa ứ tắc. Thế ra mình vừa hối hận lầm. Nàng giận
không muốn nghe Khiêm nói nữa thế mà bên tai nàng, tiếng của Khiêm vẫn hào hứng
nói tiếp:
- Năm nay anh tổ chức phải hơn tụi nó. Anh nhờ có em làm linh
hồn cho đêm khiêu vũ. Em phải trang điểm cho thật đẹp, tiếp đãi cho thật bặt
thiệp...
Trúc Đào ngắt lời:
- Em chịu thôi. Em nhảy dở lắm.
- Đó là cái lỗi của em. Em muốn lạc hậu...
Bị chạm tự ái bất ngờ, mắt nàng sáng lên:
- Vả lại Nô-en này em không ở Đà Lạt.
- Chứ em đi đâu? - Khiêm trố mắt ngạc nhiên hỏi.
- Em đi...
- Đi đâu?
- Đi Nha Trang.
- Đi Nha Trang... Sao em không hỏi anh trước? Em xuống Nha
Trang để làm gì?
Nghe giọng Khiêm hỏi gặng, Trúc Đào đứng dậy:
- Em có quyền không trả lờøi.
Khiêm giơ tay ra hiệu giữ lại:
- Em phải trả lời.
- Anh lầm! Anh không có quyền gì bắt em phải trả lời hết.
- Có! Anh có quyền! Anh là hôn phu của em.
- Pháp luật không qui định điều đó.
Mặt Khiêm đỏ lên:
- Anh không cần biết đến pháp luật. Anh chỉ cần biết rằng em
phải theo lời anh.
- Em không nghe.
Nàng vừa nói vừa bước nhanh ra khỏi phòng khách chạy lên
phòng mình rồi đóng sầm cửa lại. Nàng ngồi xuống giường lưng tựa vào tường, mím
môi giận và tim đập hồi hộp. Qua cửa sổ, nàng nghe tiếng giày của Khiêm bước vội
trên sỏi, tiếp đến tiếng cửa xe đóng sập mạnh và tiếng xe rồ máy chạy vút. Cơn
tức vồ lấy nàng. Khiêm bỏ ra đi không lên xin lỗi nàng thế nghĩa là Khiêm tự
cho mình có lý. Khiêm chiều nàng nhưng vẫn muốn coi nàng như một người nô lệ.
Có lẽ vì Khiêm giao thiệp với nhiều đàn bà, được nhiều đàn bà chiều đãi nên
Khiêm quen tính đi. Đã khỏe thế..., nàng sẽ không phải đợi đến ngày Nô-en mới
đi Nha Trang, nàng sẽ đi ngay bây giờ để cho Khiêm biết rằng chàng không quyền
gì bắt buộc nàng hết. Hôm nay mới mười sáu tháng chạp nhưng có cần gì. Xuống sớm,
xuống bất ngờ sẽ làm cho Sơn ngạc nhiên, sung sướng. Bây giờ đã năm giờ chiều rồi,
đi chuyến xe lửa năm giờ mười lăm xuống Nha Trang thì không kịp nữa, xe đò sợ
cũng hết chuyến, nhưng ý đã quyết, nàng sẽ tự lái lấy chiếc Simca nhỏ của ba
nàng. Ba má nàng đi Sài Gòn hai hôm nay, đi bằng xe lửa và sẽ ở dưới đó một tuần.
Lái chiếc Simca, chậm nhất là tám giờ tối nay nàng sẽ tới Nha Trang.
Trúc Đào đứng dậy gỡ tóc, bôi sáp môi, thay áo. Phải quyết định
ngay. Nàng biết rằng nếu để óc mình thanh thản suy nghĩ, tính tới tính lui thì
thế nào cuối cùng nàng cũng nằm vật mình xuống giường bấm cái nút ra-đi-ô để
tìm một tiếng nói, một giọng nhạc, trốn tránh cái cô đơn và xua đuổi sự băn
khoăn. Ra-đi-ô là cái máy dung dưỡng sự do dự. Nàng mở tủ xếp đặt hành lý một
cách vội vã. Một ít quần áo bỏ vào chiếc va-li con. Một ít tiền bỏ vào xắc.
Nàng khóa cửa phòng, ra gọi chị vú:
- Vú bảo bác tài đánh xe ra để trước cổng cho tôi. Vú coi nhà
nhé? Tôi đi Nha Trang liền bây giờ. Chiều mai về. Vú nhớ coi chừng cửa nẻo.
Vú "Vâng vâng dạ dạ" rồi chạy đi. Tiếng xe từ ga-ra
chạy ra, nghiến sỏi sào sạo rồi đậu lại trước cổng. Nàng xách va-li đi vội ra
theo. Bác tài bước ra nhường tay lái cho nàng.
- Cô có cần em theo lái?
- Cám ơn chú. Tôi lái một mình được.
Nàng vô số, đạp ga và mũi xe chồm lên nuốt vội con đường. Qua
cầu ông Đạo mặc dù cố ôm cua nhưng xe vẫn chạy lết ra đến giữa đường khiến một
chiếc xe ngựa chạy ngược chiều vùng lên, hốt hoảng. Những người ngồi trong xe
chồm ra la oai oái. Trí óc không bình tĩnh, bàn tay đặt lên tay lái nàng thấy
ngón run run. Nàng cho xe chạy chậm lại. Tuy vậy mỗi lần qua một đoạn đường
cong là nàng lại thấy mình xao xuyến. Nàng hối hận sao lúc nãy không để cho bác
tài theo lái. Nàng lái non, lại bỏ lâu không cầm đến tay lái nên lúng túng vụng
về. Đã vậy, tâm hồn lại xáo trộn nên ngay cả ở những đoạn đường thẳng, xe nàng
cũng vụt nhiên chạy trờ ra, phải vội vã lái nép vào. Những chiếc xe vận tải lù
lù đến, sừng sững như muốn đè bẹp lấy thân chiếc Simca nhỏ. Xuống Trại Mát,
nàng tránh một chiếc GMC nhà binh một cách tài tình, gần như là do một phép lạ.
Người tài xế nhà binh tưởng đâu nàng đâm sầm vào xe anh ta và anh ta sắp nhắm mắt
để khỏi nhìn một tai nạn. Mỗi khi thoát khỏi cơn nguy hiểm là nàng cố xếp đặt
cho trí óc có thứ tự trở lại, nhưng rốt cuộc những ý nghĩ về Sơn, về Khiêm, những
cảm giác tức giận mến thương lại dày vò lấy nàng.
Đến gần Cầu Đất, một chiếc xe du lịch chạy ngược chiều phóng
nhanh tới. Xe chạy nghênh ngang giữa đường. Nàng đã cho xe mình chạy bám sát lề
nhưng mũi xe trước mặt cứ lao vụt tới như muốn đâm sầm vào nàng. Nàng run tay.
Chợt xe kia kề sát lại xe nàng, tiếng phanh rú to lên rùng rợn khiến nàng vội bẻ
ngoặt tay lái sang bên mặt. Mũi xe nhủi xuống, bánh lọt xuống rãnh tháo nước ở
lề đường. Nàng vội thắng xe lại nhưng bánh sau lọt xuống luôn, xe nghiêng một
bên. Trống ngực đập liên thinh và đầu nàng choáng váng cơ hồ muốn ngất đi. Chiếc
xe du lịch cũng đậu lại cách nàng mười thước. Trên xe bước xuống một người Âu
cao lớn. Người ấy đi lại gần nàng hỏi bằng tiếng Pháp:
- Xin lỗi cô, có sao không?
Giọng lơ lớ với những chữ R rung nhiều. Nhìn mái tóc và lông
tay vàng hoe, nghe giọng nói, Trúc Đào đoán chắc là người Mỹ. Nàng trả lời:
- Cám ơn ông. Tôi chỉ... như thế này.
- Rãnh này sâu không thể cho xe chạy lui lên được. Phải cần
xe trục. Vậy... À, xin lỗi, cô đi...
- Nha Trang.
- Cần gấp lắm?
Trúc Đào hơi nhún vai:
- Không lắm.
- Vậy cô định thế nào?
Trúc Đào lắc đầu:
- Tôi chưa biết nên định thế nào cả
Người Âu nhíu mày suy nghĩ một phút rồi nói:
- Tôi đề nghị như thế này: Cô trở lại Đà Lạt và ghé ga-ra
thuê xe xuống trục đem về. Như thế có lẽ tiện nhất.
- Có lẽ... - nàng gật đầu. Ông về Đà Lạt?
- Vâng. Và nếu không có gì phiền thì xin mời cô lên xe tôi.
- Cám ơn ông.
Trúc Đào với ra sau lấy vali rồi mở cửa xe bước ra. Nàng khóa
máy, quay kín kính chắn gió và khóa luôn cửa xe. Người Âu đưa nàng lại xe của
mình và mở cửa. Nàng bước lên. Khi xe mở máy chạy, nàng quay sang hỏi:
- Chắc ông là người Mỹ?
- Vâng, thưa cô.
- Ông vừa ở Phan Rang lên?
- Không. Tôi ở Nha Trang tới.
"Nha Trang, lại Nha Trang". Trúc Đào thầm nghĩ. Dự
tính tám giờ tối nay có mặt ở Nha Trang thế là hỏng. Tiếng máy xe chạy êm êm,
tay lái đưa nhẹ nhàng và mũi xe uốn vòng theo các đường cong một cách dịu dàng.
Gió mát thổi vùn vụt vào khe cửa kính và phong cảnh hai bên đường lùi nhanh lại
ra đằng sau. Chạy qua những chỗ vòng, xe nhún mình như vừa lướt qua một lượn
sóng. Sự thoải mái của nàng giờ này thật khác xa với trạng thái hồi hộp của mười
lăm phút trước. Nàng để cho óc êm êm nghĩ đến Sơn lúc này đang làm gì. Nàng tưởng
tượng vẻ mặt ngạc nhiên của Sơn nếu thấy nàng xuống. Nàng định lấy cớ xuống
trông chừng mấy bụi trúc đào chàng cắt giâm, có thể lấy cớ là nhân xuống Phan
Rang có tí việc, sẵn ghé lại thăm. Cớ thì có rất nhiều cớ nhưng mục đích để làm
gì thì thật là nàng chưa tìm ra mục đích. Để làm gì? Nàng đã yêu Sơn chưa? Sơn
có yêu nàng không? Nếu có yêu, yêu rồi thì liệu tình yêu ấy sẽ đưa đến đâu?
Nàng có quyết ý từ hôn Khiêm không? Nàng thấy mình lờ mờ không trả lời dứt
khoát một câu hỏi nào cả. Cũng may mà xe mình đi không tới chốn, nàng nghĩ. Nếu
xuống Nha Trang mà cứ lưỡng lự như thế này!
Những biệt thự đầu tiên đã rủ nhau lần lượt vút ra sau xe. Mặt
hồ loang loáng màu trắng thiếc. Người Mỹ hỏi:
- Tôi phải đưa cô đến địa chỉ nào?
- Tôi ở mười bốn Yagut, thưa ông.
- Yagut?
- Ông cứ lái xe đến chợ Đà Lạt rồi tôi sẽ chỉ chừng.
Thế là lễ Nô-en âm thầm trôi qua. Trúc Đào không dự tiệc
khiêu vũ ở nhà Khiêm, cũng không xuống Nha Trang nữa. Nghĩ rằng Sơn đợi mình,
nàng viết một bức thư lấy cớ bị cảm nên không xuống được hôm Nô-en và xin hẹn sẽ
xuống một dịp gần đây. Thư chưa gửi đi thì một hôm Thúy ghé lại tìm nàng. Thúy
mang lại cho nàng một tin bất ngờ.
- Anh Khiêm hình như nghi chị...
- Nghi gì?
- Nghi chị có cảm tình với anh Sơn.
Trúc Đào mở to mắt, ngạc nhiên:
- Vô lý. Ai bảo chị vậy?
- Hai ba hôm gì đó sau đêm Nô-en, anh có đến nhà chúng em
chơi. Anh nói xa xa nhưng chúng em mau hiểu chúng em đoán biết.
Tia Nắng Rớt - Phần III
Tiễn Thúy về rồi, Trúc Đào vào giường nằm suy nghĩ. Nàng thấy
khó chịu khi mối tình thầm kín của mình đối với Sơn bị Khiêm mang máng dò biết.
Nàng không cần Khiêm, không sợ Khiêm mà chỉ bực tức vì những mối cảm xúc êm đềm
mong manh giữa nàng và Sơn thế nào cũng bị Khiêm hiểu một cách thô bỉ. Aùi tình
chỉ đẹp cho hai người. Nó không đẹp đối với người thứ ba. Nhưng thà là giữa
nàng và Sơn đã có ái tình, đằng này chỉ là những cảm tình sơ khởi mà thôi. Dù vậy
nàng vẫn có cái cảm giác trơ trẽn giống như mình đang ở trong một phòng khiêu
vũ ánh sáng mờ ảo, âm nhạc dịu dàng, với màu áo màu phấn, với ánh mắt long
lanh, tất cả đượm trong mùi hương ngây ngất, thế mà bỗng nhiên ánh đèn màu vụt
đổi sang ánh sáng trắng sỗ sàng và thay vào giọng nhạc êm là tiếng tính tiền
nong, kiểm soát sổ sách. Khiêm đã phá một giấc mộng của nàng. Đừng ai biết hết,
nàng có cái thú của con người phiêu lưu, không cố ý đi tìm Bồng đảo mà bất ngờ
gặp được. Nay có con mắt tò mò theo dõi, nàng thấy không đủ thích thú nữa. Nàng
còn có cái cảm giác ngượng của con người bị bắt gặp đang làm một việc lén lút.
Bực mình, Trúc Đào đập mạnh tay xuống giường. Thành giường va
vào chiếc nhẫn nàng đeo ở ngón tay kề, chiếc nhẫn hứa hôn. Nàng chợt nhớ tới hồi
ở đại học xá, các chị em bạn sinh viên của nàng có thói quen nhìn vào ngón tay
của các bạn để tìm xem ai đã hứa hôn rồi. Được hứa hôn là một hãnh diện. Đó là
chứng tích của sắc đẹp, của gia thế. Những bàn tay trần truồng không có một
vòng khâu vàng bao quanh ngón kề hóa ra thanh bạch một cách cô đơn đáng lo sợ.
Người nữ sinh viên cũng phải nghĩ đến việc lấy chồng. Do cái tâm trạng đó mà
khi Khiêm nhờ người đến hỏi, Trúc Đào bằng lòng ngay. Lúc bấy giờ nàng chỉ đơn
giản nghĩ đến cái thú luồn chiếc nhẫn hứa hôn vào ngón tay mình, chiếc nhẫn nhỏ
như một đường kẻ đậm, màu vàng lóng lánh làm nổi bật màu ngón tay trắng muốt.
Nàng nghĩ đến những cuộc đi dạo phố, nghiêm trang tin tưởng bên cạnh người đàn
ông của mình, đến chiếc xe hơi của hai người mỹ miều như một món trang sức, đến
căn phòng sẽ do nàng tự tay bày biện trang hoàng lấy. Nhưng những mộng tưởng đẹp
đẽ êm đềm một lần nghĩ thấy thú, nhiều lần nghĩ hóa quen đi, việc hôn nhân với
Khiêm cuối cùng được coi như là một việc nhất định sẽ đến, không vui lắm, không
gây nhiều hào hứng. Vì một khi cái xao xuyến huyền ảo của những buổi đầu đã lắng
xuống, nàng bắt đầu nhận thấy những nhược điểm nơi Khiêm. Sự khác biệt về cá
tính, về quan niệm sống, quan niệm đạo đức khiến hai người cứ như đi xa nhau dần
và Trúc Đào đã bắt đầu cô đơn âm thầm. Tuy vậy, phải đến lúc gặp Sơn, hiểu Sơn
nàng mới thấy rõ rằng Khiêm không phải là người đàn ông phù hợp với lòng nàng.
Nhưng đã chậm. Chiếc nhẫn đã đeo trong vòng tay. Chiếc nhẫn hạnh phúc của ngày
nào, hôm nay trở thành cái vòng khóa cột nàng trong tù hãm của hôn nhân. Thật
vô lý. Nàng biết có những người tự khóa mình trong một khuôn khổ và sung sướng
với sự trói buộc ấy. Có những người đàn ông động mở miệng là than thở "Mắc
vợ con cùm chân, đâu còn chơi bời tự do nữa!" Nhưng lời than lại ngầm biểu
lộ một sự bằng lòng. Than như vậy, họ tỏ ra rằng mình an phận nghĩa là có hạnh
phúc và bảo đảm về đạo đức. Nhiều chị bạn mới có một đứa con nhỏ cũng than lên
một cách hãnh diện "Phần chồng, phần con. Thôi, mình già rồi, chả dám bì với
các cô". Thật là những người dễ bằng lòng, dễ sung sướng! Không, nàng
không dễ dãi như thế được. Nhưng... Không dễ dãi thì được gì? Không dễ dãi thì
chỉ còn cách tự mình làm khổ cho mình thôi, vì nàng đâu có thể dễ gặp Sơn được?
Để cho Khiêm nghĩ rằng mình bị Sơn mê hoặc, bị Sơn quyến rũ, điều đó động chạm
đến tự ái của nàng. Mà Khiêm thì chỉ có thể nghĩ tầm thường như vậy mà thôi.
Nàng khinh Khiêm thì được nhưng nhất định nàng không để cho Khiêm có thể khinh
mình.
Trúc Đào uể oải ngồi dậy lại bàn viết. Bức thư gởi cho Sơn đặt
đứng tựa vào lưng quyển tự điển. Địa chị đã viết rồi, tem đã dán đủ, chỉ có
nàng chưa dán phong bì. Nàng vốn tính thận trọng, chỉ khi nào sắp đem đi bỏ thư
mới dán phong bì, phòng có ý nào cần sửa cần thêm. Nàng rút bức thư viết gửi
cho Sơn, mở ra trải lên bàn đọc lại. Từng dòng chữ chạy nhanh dưới mắt và trong
sự im lặng cô đơn, nàng tưởng chừng như đồng thời nghe luôn tiếng nói, giọng
quen thuộc âu yếm, giọng hứa hẹn kín đáo, giọng của chính nàng nói với Sơn, chỉ
còn nói một lần này nữa thôi. Đọc xong, nàng thẫn thờ xé vụn tờ giấy ra từng mảnh
nhỏ. Dù cố giữ vẻ mặt lãnh đạm nàng cũng thấy buồn khi nghe tiếng giấy xé nát
dưới ngón tay, khi nhìn những lời âu yếm của nàng đứt đoạn, nát vụn không bao
giờ Sơn còn nghe được nữa.
Nàng lại nằm vật xuống giường, úp mặt vào gối. Nàng muốn
khóc, khóc thật nhiều, thật ngon lành, nhưng dù cố gắng, nước mắt cũng chỉ chảy
ươn ướt nơi khóe mắt, nàng biết chỉ có nước mắt mới có thể an ủi nàng vào nàng
vào những lúc này thôi.
Nỗi lòng của nàng, chỉ có nàng biết. Ở Nha Trang, Sơn cứ êm đềm
nghĩ đến ngày Nô-en và lòng chàng vui vẻ tưng bừng khi chỉ còn một tờ lịch mỏng
màu hồng ngăn cách chàng với ngày hai mươi lăm tháng chạp. Bốn bụi trúc đào
chàng tự tay cắt cành giâm ở bên thềm giếng nay đã đơm lá xanh. Sơn tưởng tượng
vẻ mặt vui mừng của Trúc Đào khi nàng thấy bốn bụi hoa dành cho phần nàng. Người
thiếu nữ này có duyên kín đáo khiến cho mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của nàng đều
gây cảm tình nơi lòng người đối diện.
Lễ Nô-en trang trọng đến, mang theo gió lạnh, mưa lất phất
bay và bầu trời xám. Cả thành phố nhộn nhịp vì đèn lồng, vì đồ chơi trẻ con và
hoa quả. Sơn chung chia niềm vui của mọi người. Khi có mang hình ảnh một người
đàn bà ở trong tâm hồn, con người ta yêu đời không mặc cả.
Nhưng Nô-en đến và Nô-en đi, Trúc Đào không thấy đến. Sơn đợi
một bức thư giải thích mà người đưa thư cứ lặng lẽ đạp xe qua cổng không dừng lại.
Một tuần qua... một tháng qua... trong những bức thư đến địa chỉ mình, Sơn chán
nản gặp những nét bút quen thuộc, tịnh không thấy nét chữ lạ nào cả. Vốn có
kinh nghiệm, đợi chờ và thất vọng, chàng lặng im chịu đựng. Lại một con chim đã
bay.
Sau đó không biết bao lâu, một hôm nhân viết thư thăm Lộc,
chàng hỏi thăm tin tức của Trúc Đào. Sau đây là đoạn thư trả lời của Lộc.
"...Về Đà Lạt được bốn năm tháng gì đó thì anh Khiêm được
chính phủ cho đi Pháp tu nghiệp hai năm. Chị Trúc Đào cùng đi với anh ấy. Mấy độ
gần đây bọn em cũng không được tin tức gì của chị hết. Em có chuyển lời chào của
anh cho chị Oanh. Chị vui vẻ nhắc đến anh và hẹn sẽ thăm lại Nha Trang..."
Sơn bỏ thư xuống bàn không đọc tiếp. Chàng đưa mắt nhìn lên
khung trời xanh rồi chầm chậm gợi ra vẻ mặt của Trúc Đào: đôi má thon thon...
đôi mắt dịu.. đôi môi tươi và giọng nói ngập ngừng. Khi tâm hồn đã chìm đắm vào
hình bóng cũ thì chàng ngồi đó mà quên cả không gian, quên cả thời gian.
Chừng một năm sau, một buổi chiều kia Sơn tiếp một thiếu nữ
trạc hăm lăm tuổi, vẻ mặt đẹp đẽ thanh tú và ăn mặc sang trọng. Người ấy dò số
nhà một cách kỹ lưỡng rồi mới bấm chuông. Người ở đi vắng, Sơn ra mở cổng. Người
thiếu nữ cúi chào rồi lễ phép hỏi:
- Xin lỗi ông, có phải đây là nhà ông Sơn?
- Vâng, đúng là nhà ông Sơn.
- Thưa ông, không biết ông Sơn có ở nhà không?
- Thưa cô, Sơn là tôi.
Người thiếu nữ lúng túng xin lỗi và theo lời mời của Sơn nàng
bước vào nhà. Khi đã ngồi yên ở ghế, nàng nói:
- Thưa ông, tôi đến theo lời nhờ của chị Trúc Đào.
Tên Trúc Đào làm Sơn ngạc nhiên đưa mắt nhìn thẳng vào mặt
người thiếu nữ.
- Tôi là bạn thân của Trúc Đào. Tôi ở Pháp vừa mới về được một
tuần nay, Trúc Đào có nhờ tôi ghé lại ông trao tặng hộ cho chị ấy bộ sách
Stendhal toàn tập loại ấn phẩm đặc biệt.
Nàng đưa gói sách nàng cầm trên tay từ nãy đến giờ mà Sơn
không để ý đến. Chàng đưa tay ra đón và tháo lần tờ giấy bọc. Ba quyển bìa sách
dày khổ lớn bìa da màu nâu đen. Chàng lật bìa sách để tìm nét bút của Trúc Đào.
Nàng ghi:
"Xin nhận tia nắng nhạt này ở phương xa gửi về. Tia nắng
Ngọc Hội, nhớ mãi"
Trúc Đào.
Nét chữ run run, Sơn nhìn mãi nét chữ, âu yếm như đang nhìn
nét mặt Trúc Đào. Trên tờ giấy trắng của trang sách mở lần lần hiện ra khung cảnh
xinh tươi của làng Ngọc Hội. Trên đọt dừa cao, tia nắng vàng còn rớt lại. Tiếng
nói dịu dàng của Trúc Đào: "Ông xem, tia nắng..." chàng ngước mắt
nhìn lên, gặp đôi mắt của người thiếu nữ đang đăm đăm nhìn mình. Nàng nói:
- Trúc Đào có kể cho tôi nghe cuộc du ngoạn ở Ngọc Hội, buổi
đi xi-nê đã hẹn với ông mà chị ấy lỡ hẹn, ngày Nô-en mà chị hứa sẽ xuống Nha
Trang để bứng về mấy bụi trúc đào.
Nàng im lặng đợi Sơn phát biểu ý kiến nhưng Sơn không nói.
Chàng chỉ muốn nghe, muốn người thiếu nữ nói mãi, nói rõ nỗi lòng của Trúc Đào.
- Chị có bảo tôi, chắc hôm Nô-en đến, ông giận chị lắm. Chắc
trong Nhật ký của ông, ông ghi không biết bao nhiêu lần rằng Dominique thất hứa,
Dominique đáng ghét...
Sơn mỉm cười, không ngờ cái kỷ niệm nhỏ nhoi về câu chuyện
chép nhật ký, Trúc Đào vẫn nhớ kỹ như vậy.
- Chị ấy cũng muốn biết ông đã lấy vợ chưa.
Sơn đưa mắt sang người thiếu nữ và chìa tay chỉ một vòng xung
quanh mình. Người thiếu nữ mỉm cười:
- Chị ấy cũng đoán đúng như vậy. Chị nói: chắc ông chưa lấy vợ.
Khi người thiếu nữ dừng lại, Sơn không biết mình nên nói gì.
Hỏi kỹ lưỡng về sinh hoạt của Trúc Đào thì chàng sợ phải nghe những chi tiết về
Khiêm. Cuộc đời của Trúc Đào hiện giờ đã ghép chung vào cuộc đời của Khiêm rồi.
Vui buồn khó lòng mà riêng biệt được. Thế mà chàng, chàng chỉ muốn biết riêng về
Trúc Đào thôi. Và đặc biệt mong được biết là những cảm tình Trúc Đào dành cho
mình ngày trước và bây giờ.
- Trúc Đào chắc sống trong hạnh phúc?
- Vâng. Về đời sống vật chất thì đúng như vậy. Nhưng về tình
cảm thì chị có những nỗi buồn. Nhưng mà... quên, tôi lỡ nói với ông mất rồi.
Khi tôi về chị ấy dặn tôi gắng giữ đừng để ông biết nhiều về chị ấy, nhất là về
những sự không vui của chị.
Sơn đưa mắt nhìn ra xa. Chàng nghe nhói một cái như có ngón
tay nào chạm vào tim mình. Người thiếu nữ kín đáo nhìn xuống đồng hồ rồi đứng dậy:
- Bây giờ tôi xin phép cáo từ ông.
Sơn cũng đứng dậy.
- Chừng nào cô về Đà Lạt.
- Sáng mai.
- Khi nào cô viết thư sang cho Trúc Đào xin nói dùm rằng tôi
vui vẻ nhận món quà của Trúc Đào tặng. Cũng như Trúc Đào, tôi nhớ mãi những kỷ
niệm...
Chàng để lửng lơ câu nói vì không muốn tiếp bằng chữ "êm
đềm" quá sáo, bằng chữ "ở Ngọc Hội" quá tầm thường và có vẻ lợi
dụng.
Còn lại một mình, chàng chầm chậm đi theo con đường nhỏ vòng
quanh ra bờ giếng. Mắt chàng êm đềm dừng lại ở những chòm lá xanh. Đây, cây
chùm ruột đứng ở bên song cửa, kể từ ngày chia tay cùng Trúc Đào, đã bao nhiêu
lần thay lá và bốn bụi trúc đào giâm cho nàng hôm nay đã cao quá thềm giếng và
lần lượt trổ hoa. Hoa trắng chen lẫn hoa hồng, lả lướt theo gió và đã ngập ngừng
đưa hương theo gió. Sơn không buồn bứng ra trồng chỗ khác mà cứ để bốn bụi mọc
quấn quít bên nhau. Chàng cũng muốn để mãi đó để kỷ niệm mấy tháng êm đềm chàng
đã thiết tha mong đợi một người.
Niềm Tin Chưa Mất
Thằng con tôi ở trần và dang nắng cả ngày. Hỏi lý do vì sao,
nó không chịu nói. Tôi phải ôn tồn giảng cho nó nghe rằng dang nắng lắm nhiều
khi cũng nguy hiểm: có thể bị nhức đầu, bị cảm nắng sinh bệnh.
- Con đừng nên làm phiền Ba. Ba đi làm vắng cả ngày thế mà lỡ
con bệnh thì ai săn sóc cho con? Những lần con đau con có nhớ rằng Ba phải thức
suốt đêm bên giường con không?
Thấy tôi thật tình lo lắng, nó nói:
- Nhưng mà... lũ học trò cứ gọi con là heo luộc.
- "Heo luộc" là cái gì?
Tôi ngơ ngác hỏi.
- Tụi nó nói da con trắng như heo luộc.
Không thể nín được, tôi bật cười to một tràng dài. À ra con
heo luộc phải dang nắng để thành con heo quay đây mà! Thời đại đổi thay, ngày
xưa người ta yêu màu da trắng trẻo còn ngày nay người ta chuộng màu da rám nắng.
Quả tình có nghe con tôi nói tôi mới để ý thấy rằng độ này da dẻ nó có rám đen
đi phần nào. Ngày còn má nó, da nó trắng như con gái. Tôi nhớ đến những buổi
trưa mười giờ, bãi biển đầy những cô gái nằm phơi nắng. Họ đội mũ lác rộng vành
và đeo kính râm. Những chàng trai da nâu hãnh diện đi đi lại lại. Quan niệm đẹp
có thay đổi nhiều thật nhưng tôi không ngờ nó lại ăn sâu cả vào lớp trẻ con mới
mười tuổi. Hồi tôi còn nhỏ đi học thầy giáo yêu nhất những học trò mặt mũi trắng
trẻo đã đành, cả đến chúng tôi cũng chỉ thích chơi với những đứa bạn mặt mày trắng
trẻo. Những đứa đen đủi nhiều khi bị chế giễu một cách tàn nhẫn.
Tôi nhìn kỹ lại con tôi hơn. Nó chỉ đánh một cái quần đùi màu
đỏ, - mãi đến bây giờ tôi mới tự hỏi tại sao chị ở lại cứ bắt nó mặc quần đùi đỏ,
mua chi mà một lần đến ba, bốn cái quần đùi đỏ, - còn thì mình trần cả ngày.
Tôi tưởng tượng đến một lúc nào mình nó sẽ đen như một con heo quay. Và tự
nhiên tôi nghĩ đến một hình ảnh, không phải trong tương lai mà chính ngay trong
quá khứ tôi đã sống. Tôi nhớ đến anh Tộc, người bạn học của tôi hồi còn lớp Tư.
Lúc bấy giờ chúng tôi vào khoảng mười, mười một tuổi. Mình Tộc gầy đét, hai
chân như hai cái que. Đã thế lại chuyên môn mặc quần đùi khiến chúng tôi mỗi lần
gặp anh là phải để ý ngay đến cặp chân que tăm. Không biết anh ta khéo xếp thế
nào mà cái quần đùi nào anh mặc cũng cũ, cũng sờn đít hoặc rách đít. Tôi chưa hề
thấy anh mặc một cái quần đùi mới. Không mới mà có cũ, thế có lạ không? Anh
không bao giờ mặc áo. Đi từ đầu làng đến cuối làng mà cũng để mình trần. Đánh
bi đánh đáo cả ngày, hết bắt dế đến câu cá, lúc nào anh cũng phơi mình dưới nắng
khiến da cứ tím sậm lại. Người lại gầy, xương sống chạy một hàng dài gồ lên,
còn xương sườn thì đếm đủ mười hai đôi. Hai núm vú thâm dán sát vào da như đầu
của hai chiếc đinh bảy phân ai đã đóng vào ngực. Ngực lép và bụng lép nhưng cái
rún lại béo bở. Rún của ai cũng thõm vào, hoặc tròn như lỗ đáo, hoặc méo xệch
như cái miệng cười mỉm, chỉ riêng rún của Tộc thì lồi ra một đoạn dài gần hai
phân, trông như cái núm vung. Rờ tay vào thấy mềm mềm những thịt. Lúc bấy giờ ở
xóm tôi có một gánh hát bội đến trình diễn thường xuyên, chúng tôi cứ đợi đến
chín giờ khuya rạp thả giàn là ùa vào coi khỏi mất tiền. Rạp hát lấy tên rạp là
Thạnh Xương. Thấy Tộc mình chỉ toàn những da và xương, một người bạn có nhiều
sáng kiến bỗng đặt tên cho Tộc là thằng Thạnh Xương. Tộc không phản đối mà nhận
cái biệt hiệu mới một cách vui vẻ. Do đó mỗi khi đùa nghịch chúng tôi có thể gọi
tên Tộc hay tên Thạnh Xương cũng được.
- Ê Tộc, thách mày lặn một hơi cho qua bờ sông bên kia đó.
- Thạnh Xương, Thạnh Xương, leo lên cây bàng gỡ dùm con diều
cho tao một tí mày.
Tộc không chịu thua một cuộc thách đố nào, không từ chối một
sự nhờ vả nào. Kết quả của những cuộc mạo hiểm là mình Tộc mang đầy những vết sẹo.
Anh em ai cũng mến Tộc vì Tộc chấp nhận mọi sự đùa nghịch của anh em. Tộc không
bao giờ cáu vặt. Hoặc là thách đánh nhau hoặc là tha thứ không thèm chấp, thế
thôi. Không thèm trả thù ngầm, không thèm nói láo.
Tộc ham chơi đáo đến nỗi có hôm mê mải ăn thua mà đứa nào giấu
áo không biết. Đến lúc trống đánh, chạy đi tìm áo, hỏi ai cũng bảo không biết,
lạy ai cũng không chịu chỉ giùm khiến Tộc òa ra khóc. Tộc sợ thầy lắm. Nhưng mà
cái tật ở trần cởi áo vắt vai, Tộc vẫn không thể bỏ. Đến sân trường thì bỏ sách
vở xuống cỏ, đặt áo đè lên trên rồi thì chơi mải chơi mê không còn biết trời đất
gì nữa. Mãi đến khi trống đánh vào lớp mới lật đật bỏ trò chơi mà vội vã mặc áo
vào. Có lần vừa cãi vã ăn thua vừa hẹn hò tái đấu, anh cài hột nút này sang
khuy áo kia mà không biết. Khi sắp hàng vào lớp, ai nấy đã ngồi an vị rồi thì
thầy Nghĩa, thầy giáo chúng tôi, đi soát qua lớp một lượt. Thầy chỉ tay sang Tộc,
gọi:
- Tộc, lên bảng.
Tộc vụt đứng dậy, nhanh quá, như một cái gân bị giật. Có lẽ
người anh chỉ có gân và xương nên sự phản ứng mới lẹ như thế. Anh thoăn thoắt
bước lên bảng, vô tư như khi đi nhặt một hòn bi. Đứng cụng nhằm bảng đen mới dừng
lại. Rồi im lặng, một ngón tay bôi lên bảng vẽ hình con cua con quạ gì đó. Thầy
Nghĩa quát:
- Quay mặt trở lại!
Anh vâng lời quay mặt trở lại và cả lớp cười rộ lên vì hai
cái vạt áo gài khuy so le. Anh ngơ ngác không biết vì sao các bạn cười mình, thầy
hỏi:
- Hồi trưa mày làm gì?
Tộc trả lời ngay, không phải suy nghĩ:
- Dạ thưa thầy hồi trưa con ăn cơm xong thì mẹ con sai con
gánh nước mắm qua nhà bà Chức Ba. Kỳ nước mắm trước bị thiếu nắng, dang không kỹ
nên mới để nửa tháng mà đã trở, thúi quá...
Lũ học trò cười rộ lên, to hơn trước, thế mà Tộc vẫn điềm
nhiên nói tiếp. Nhưng tiếng ồn ào lớn quá, chắc cả lớp không nghe được gì, duy
chỉ có những đứa ngồi bàn đầu như tôi là nghe rõ tiếng Tộc chậm rãi tiếp:
-... Bà Chức Ba bắt đền nói mẹ con mà không đổi nước mắm khác
cho bà ta thì bà ta...
Đến đây thầy Nghĩa đập mạnh thước gạch vào mặt bàn một tràng
dài và cả người nói lẫn người cười đều im lặng, Thầy giận dữ nói:
- Ý tao muốn hỏi mày hồi trưa mày làm gì mà đi học mặc áo xốc
xếch như vậy. Chớ mày gánh nước mắm cho bà Chức Ba hay bà Chức Tư gì thì tao
đâu cần biết, nước mắm của mẹ mày thúi hay thơm cũng thây kệ mày.
Tộc cúi xuống nhìn vạt áo của mình và lặng lẽ cởi nút ra rồi
gài lại, vẻ thản nhiên như không có việc gì xảy ra. Thầy nói:
- Thôi cho đi xuống.
Tộc "dạ" một tiếng, lủi thủi đi xuống nhưng khi đến
dãy bàn thứ tư không quên nháy mắt sang một đứa bạn bên cạnh. Chúng tôi ai cũng
biết thầy Nghĩa không có cảm tình với Tộc, nhưng Tộc, hình như anh lại không để
ý đến điều đó. Tính thầy Nghĩa cẩn thận, ưa sắp đặt trang hoàng cho lớp đẹp đẽ.
Những khẩu hiệu "Tiên học lễ hậu học văn, Trọng thầy mới được làm thầy,
Chăm chỉ sạch sẽ...", được thầy cắt bằng giấy màu treo cân đối. Những hình
vớ vẩn xanh đỏ lòe loẹt như hình Phúc Lộc Thọ, Sư tử hí cầu thầy cắt ở nhãn
pháo hay nhãn hương, những tấm bưu thiếp hình chợ hình phố, thậm chí có những ảnh
ả xẩm thầy cũng lồng giấy bóng treo khắp tường, chi chít, rộn ràng bên cạnh những
tấm địa đồ, bản đồ nghiêm trang, đứng đắn. Thầy coi chừng tóc tai và quần áo của
học sinh luôn. Không phải với mục đích bảo vệ sức khỏe, chắc thế, mà chỉ vì sợ
đốc học hay thanh tra bất chợt tới. Sách vở bút mực thì khỏi phải nói. Mỗi lần
sắp có thanh tra tới khám trường thì chúng tôi thật là khổ sở với thầy. Thầy tập
đứng dậy, tập ngồi xuống, thầy bắt bao lại sách vở, bắt cắt tóc, bắt cắt móng
tay, bắt mặc bộ quần áo nào đẹp nhất. Sợ lũ chúng tôi quên đi những lễ nghi tối
thiểu, thầy bắt chép và học thuộc lòng một bài nhan đề "Lời khuyên học
trò". Bắt đầu như thế này:
Trống trường vừa đánh mau mau,
Sắp hàng ngay ngắn trước sau đàng hoàng.
Đừng nói chuyện chớ làm ồn
Học trò như vậy mẹ cha vui mừng.
Sau này tôi mới biết rằng đó là một bài thơ dở, sai âm luật.
Chắc do thầy sáng tác. Vì lâu lâu thầy lại cho phép thêm một đoạn ám chỉ khuyết
điểm nào đó mà thầy vừa khám phá ra. Ví dụ hôm thầy đè cổ thằng Hùng đánh ba
roi vì tội hái trộm dưa leo bị bà Tang lên mét giữa lớp thì chiều đó thầy bắt
chép thêm một đoạn "Lời khuyên học trò" (tiếp theo):
Dưa cà là của người ta
Mình đừng khuấy phá hái mà không nên.
Bắt được đã phải chịu đòn
Lại làm xấu hổ tổ tiên ông bà.
Tôi không biết bao giờ bản trường ca này mới chấm hết. Chỉ biết
mỗi lần thầy dạy dư giờ hay những chiều mùa đông chưa tan học mà trời tối quá
không thấy mặt chữ thì thầy bắt cả lớp ê a đọc bài "Lời khuyên..."
như những tín đồ tụng niệm giáo điều. Tất nhiên là với một thầy giáo cẩn thận
dường ấy và nhất là sợ thanh tra tới mức ấy thì Tộc không phải là một cái hoa đẹp
đáng để cho lớp và cho thầy hãnh diện. Tóc thì dễ thường đến hai tháng mới cạo
một lần, - cạo chớ không phải cúp, - thành ra tóc mọc lấn xuống trán, tóc mai
chỉa nhọn xuống nửa má. Cái mặt trở nên quắt lại bằng bàn tay. Áo quần thì như
trên đã nói. Thành ra thầy có nhiều thành kiến đối với Tộc, những thành kiến
khiến có lần Tộc bị mắng oan. Một hôm giữa lúc sắp hàng, thầy khám sạch sẽ. Thầy
kéo hẳn Tộc ra khỏi hàng, chỉ vào cặp chân đen:
- Mày ở dơ thế kia?
Tộc thưa liền:
- Thưa thầy con mới tắm ạ.
- Mới tắm cái gì? - Thầy sừng sộ nói - Cái cổ đầy những đất
thế này.
Thầy vừa nói vừa lùa ngón tay kỳ cọ nơi cổ của Tộc. Nhưng quả
không có một lằn đất nào dính nơi tay thầy cả. Thầy hoi ngượng, đứng im nhìn kỹ
Tộc từ đầu đến chân. Rồi thầy chỉ xuống hai cái mụt Tộc mang ở cổ chân:
- Ở dơ - ghẻ chốc thế kia mà nó còn cãi tao nữa.
Tộc vẫn trả lời tỉnh bơ:
- Dạ, thưa thầy không phải ghẻ ạ. Đây là vết đỉa cắn. Hôm chủ
nhật con đi mót lúa đám ruộng ông Thuận bị đỉa bâu cắn. Con rịt thuốc mãi mà
chưa lành. Mẹ con nói đỉa mén nó cắn là độc lắm.
Thầy không trả lời, nhún vai một cái rồi ra lệnh cho vào lớp.
Ở trong lớp có ai làm quấy, ví dụ làm đổ mực xuống nền xi măng, bôi tay dơ lên
vách, ném đá bể ngói... mà thầy chưa tìm ra thủ phạm là y như thầy nghi cho Tộc.
Chúng tôi cứ tưởng Tộc thù thầy, nhưng tuyệt nhiên không. Đi cùng chúng tôi đến
nhà thầy nộp bài, Tộc hay đảo mắt nhìn khắp đó đây rồi liên tiếp đề nghị:
- Thưa thầy cây cau ở ngang chái bếp của thầy đã có buồng đầy
rồi đó. Để con leo bẻ cho thầy. Hai hôm nữa thì già mất.
Thầy hỏi:
- Mày leo gì được?
Thì Tộc vồn vã ngay:
- Ồ! Con leo giỏi lắm. Để con leo thầy coi. Con leo không cần
"nài" mà.
Thế là từng thót một, Tộc thoăn thoắt leo lên bám ở trên đọt
cau, nhanh nhẹn bẻ cả một buồng rồi tuột xuống. Lần khác đến thăm thầy, sau khi
cả bọn chia tay nhau vục gáo vào vò nước lã uống lấy uống để, Tộc bỗng nhăn mặt
nói:
- Nước hôi bùn quá!
Chúng tôi đưa mắt lừ Tộc, có ý bảo: "Chết! Sao mày ăn
nói hỗn vậy? Nước nhà thầy mà mày chê hôi".
Nhưng Tộc thản nhiên nói bô bô:
- Muốn hết hôi thì phải đảo. Ở dưới đáy giếng thiếu gì bùn
non rồi những dây gàu đứt, đồng xu, mẻ sành, cắc bạc.
Thế rồi bỏ chúng tôi, Tộc chạy lên nhà trên thảo luận gì với
thầy không biết. Lúc ra về, Tộc nói:
- Chủ nhật tới, tao lại đào giếng giùm cho thầy.
Tộc sống tự nhiên quá, thấy việc thì làm không câu nệ, nghĩ
gì nói nấy không giấu giếm. Hình như anh không có mặc cảm. Nhà nghèo, mặt mũi
không đẹp, áo quần xốc xếch, nhưng tôi chưa bao giờ thấy anh ngượng ngập rụt
rè. Tôi có cảm tưởng tâm hồn anh hiền lành như một cây xanh, cây ổi cây bàng
nào đó đang sức lớn. Đâm chồi, ra lá, nứt hoa... Cây cứ bình tĩnh làm nhiệm vụ
của mình, không cần nhìn xem những phản ứng của các cây đứng xung quanh nó.
Không thấy cây xấu hổ vì những lá héo, giấu giếm những cành gãy, mà cũng không
thấy nó hãnh diện vì chồi xanh non mướt hay hoa nở đầy cành. Tộc cũng giống như
vậy. Nhưng tội nghiệp cho Tộc là Tộc không hoàn toàn được là một cái cây. Cái
cây không phải học bài và làm bài. Còn Tộc thì phải khổ sở rất nhiều mỗi khi phải
mó vào sách vở. Tộc học rất dốt, không mấy khi thuộc bài. Tính thầy Nghĩa lại
thích lái cho học sinh không thuộc bài nói bậy mà Tộc thì nói bậy một cách tín
cẩn. Đủ biết anh chẳng hề ngó qua bài một lần. Mỗi khi thầy nhắc sai và anh dò
dẫm nói theo là cả lớp im phăng phắc để đợi nghe những sự bất ngờ lý thú. Chẳng
hạn bà Trưng thù ông Thi Sách đã giết chồng bà là Tô Định..., hoặc nước Việt
Nam đông giáp vịnh Thái Lan, tây giáp bể Nam Hải v.v... Đến giờ đọc tiếng Pháp
thì thật là không thể nín cười được. Anh không phân biệt được chữ nào đọc là
"ơ" chữ nào đọc "e", chữ z, w, ch anh đọc cứ lộn phèo cả
lên rồi thêm dấu huyền dấu nặng, rồi ậm ừ, rồi cà lăm nữa. Một người pha trò
khéo cũng không thể làm cho lớp học náo hoạt hơn anh. Tật cà lăm sau này gần
thành một cố tật của anh. Tôi cho rằng đó là do những giờ học Pháp văn mà ra. Mới
đầu năm khi còn học bài một bài hai thì anh cà lăm ít, đến chừng sang bài hăm bảy,
hăm tám thì anh cà lăm nặng hơn, cuối cùng thì anh chỉ "cà" chứ không
nói nữa. Mà mỗi lần "cà" như vậy thì trông anh khổ lắm. Mắt cứ nhắm
tít đi còn cái lưỡi và hai hàm răng thì run bấn lên. Thầy giáo chịu thua phải
cho anh về chỗ.
Lẽ cố nhiên là học hành như vậy anh không đỗ nổi bằng sơ học
yếu lược. Và cuối niên khóa anh phải nghỉ học. Khi chúng tôi, vài đứa, mang
sách đi học ở trường huyện, chúng tôi thỉnh thoảng gặp anh ở bến đò đầu làng. Vẫn
gầy, vẫn đen, tưởng chừng nếu xòe một cây diêm châm vào là anh bốc cháy thành
ngọn lửa ngay. Gặp chúng tôi, anh toe toét cười:
- Đố tụi mày "la ma-rơ" là cái gì? (1 )
Rồi không đợi chúng tôi trả lời, anh nói luôn:
- Tao ngồi buồn mở cuốn sách Langue Francaise đọc lại mà hóa
ra giỏi tụi mày ơi. Té ra bây giờ tao mới biết chữ Tây là gì. Nè, tao đọc cho tụi
mày nghe, nghe không: la lame, la lac, papa a vu kilo, à Hanoi il y a un
pont... 1
Anh đọc hàng tràng dài, đọc sai âm sai giọng nhiều lắm nhưng
trông chừng hỉ hả và không còn ngọng khổ ngọng sở như ngày xưa nữa.
Tôi hỏi:
- Bây giờ mày ở nhà làm gì?
- Tao đi củi.
- Có còn đánh đáo nữa không?
- Tao đánh ách-xì, bài cào, không thèm đánh đáo nữa. À, bữa
nào tao cho mày một cái ná cao su. Tao đi củi kiếm được nhiều cái chạng
"ngon" lắm.
Sau đó, tôi càng ngày càng ít gặp Tộc dần. Có một độ nào tôi
nghe Tộc mê con gái ông xã Chín nhưng bị cô này chê. Tộc thất tình bỏ ăn bỏ uống
và đâm ra lừng khừng như người sắp điên. Người ta tưởng Tộc có thể nhào xuống Bầu
Di hay cầu Ông Chừ để tự tử vì vụ thất tình này nặng lắm. Người nhà phải canh
gác dòm chừng Tộc luôn. Nhưng bỗng một hôm Tộc mất tích. Cả nhà đổ xô đi tìm. Mẹ
Tộc khóc mếu máo. Tự tử thật chăng? Nhưng tự tử sao lại mang hết quần áo, nịt,
mũ và cái bi-đông nước theo làm gì? Tuy vậy mẹ Tộc vẫn khóc mếu máo đi tìm. Chợt
nghe tin ở xóm Long Hòa con Lành, con ông Câu Hò, cũng mất tích đúng vào đêm
đó. Ông Câu không khóc mếu máo mà chỉ chửi. Ông nốc rươu vào thật nhiều, - nhà
ông nấu rượu lậu nên tha hồ cho ông nốc, - khiến mặt đỏ tía như một con gà đá rồi
oang oang kể tội con gái ra mà chửi. Ông bảo con ông mê ngu mê dại một thằng chỉ
có cái rựa và đôi dép cao su. Ông bảo cái nhà thằng đó không bằng cái chuồng
heo nhà ông. Ông bảo con mẹ nó không đáng xách giày xách dép cho ông. (Say rượu
rồi nói khoác vậy thôi chớ thực tế ông không bao giờ mang giày mang dép, chỉ thỉnh
thoảng lắm mới mang guốc). Người ta đồn rằng hai đứa, Tộc và con Lành, rủ nhau
bỏ đi hoang nhưng người ta không biết hai đứa đi đâu. Nhà Tộc nghèo không có
phương tiện đi tìm xa còn nhà ông Câu đông con nên bỏ đi một đứa cũng không thiếu.
Đi đâu thì đi, hết muốn đi thì về, chẳng ai thèm tìm. Tôi không phải là bà con
của hai người nên tôi càng có lý do để không biết rõ hành tung của hai người
sau đó.
Lẽ ra thì sự quan hệ giữa tôi và Tộc chỉ có thế, chỉ dừng lại
ở mức đó mà thôi. Nếu không vì một thằng con thích ở trần và dang nắng thì tôi
đã quên hẳn người bạn ngày xưa của tôi rồi. Cuộc sống bon chen bận rộn đâu có
cho phép tôi năng nhìn về dĩ vãng để tìm gặp lại những dáng người quen? Vả lại,
mỗi khi có dịp hồi ức tôi cũng ít khi chịu khó vẹt đám người đông đảo lẫn lộn
ngày xưa để tìm cho ra đúng cái dáng gầy gò đen đủi của anh. Thế mà, ngược với
ý muốn của tôi, sự việc đến đây vẫn chưa chịu chấm dứt. Trong khi tôi ngồi mơ
màng nhớ đến anh, đến giai đoạn cuối cùng của cuộc đời anh mà tôi biết, giai đoạn
bỏ nhà ra đi với đủ cả dây nịt và bi-đông nước, có thể với con gái ông Câu Hò
vì đó chỉ mới là dư luận, ức đoán, thì có bất ngờ không, - ở một nơi xa xôi kia
anh cũng nghĩ đến tôi. Một bức thư không mong đợi đem đến cho tôi sự khám phá
êm đềm này. Số là cách đây chừng nửa tháng tôi nhận được một bức thư. Nhìn nét
chữ lạ viết ở phong bì, nhìn con dấu nhà bưu điện Ban Mê Thuột, tôi rất hồi hộp.
Tôi không thích những bức thư của người lạ vì nó hay làm cho tôi bồi hồi lo lắng.
Ở Ban Mê Thuột tôi không chắc có người quen nào. Hay có ai gửi lầm chăng? Nhưng
nhìn lại địa chỉ người nhận thư thì quả là tên tôi. Tôi lật đật xé toẹt phong
bì, không kịp lấy kéo cắt. Nội dung bức thư như sau:Ban Mê Thuột, ngày.... tháng.......Thưa anh, tôi là Trần Văn Tộc. Anh có còn nhớ Trần Văn Tộc
không, Tộc "Thạnh Xương" của các anh đó mà. Riêng tôi vẫn còn nhớ anh
rõ lắm, anh học trò trắng trẻo mà tôi thường gọi đùa là "con chuột rụt
rè". Anh còn nhớ không, anh tức mình gọi lại tôi là "con mèo khiêu
khích" nhưng thay vì con mèo mun (vì tôi đen) anh lại gọi ác là con
"Bạch Tuyết". Nhưng con mèo không vồ con chuột mà yêu con chuột lắm.
Đến bây giờ xa cách vài mươi năm rồi mà vẫn nhớ đến con chuột đây.Tôi có đọc mấy truyện của anh viết về những ngày thơ ấu của
chúng ta khi còn học ở trường Ngân Sơn. Tôi cảm động nhớ lại những ngày xưa, nhớ
lại ông Cai Tròn, nhớ lại thầy Nghĩa mà trong truyện anh đổi tên lại là thầy Hiền.
Thầy Nghĩa đã chết rồi, chắc anh đã biết. Bây giờ ngồi nhớ lại thầy, tôi thấy
tôi thương thầy hết sức. Đành rằng tôi học hành chẳng đỗ đạt được gì, nhưng đó
toàn là lỗi của tôi. Tôi học dốt mà lại lười quá. Giá vào tay một thầy giáo
khác thì tôi đã bị đuổi học lâu rồi. Thế mà thầy vẫn chịu đựng, vẫn chấp nhận
tôi, vẫn cố dạy cho tôi biết rằng la mare là cái ao, le kilo là quả cân... những
kiến thức đó, ra đời tôi không dùng được gì, nhưng chúng cho tôi một cảm tưởng
êm đềm là ngày thơ ấu của tôi không đến nỗi bị bạc đãi. Lớn lên khi được biết rằng
những người học trò tệ lậu như tôi dễ làm cho thầy giáo bị ghi điểm xấu, bị chậm
tăng lương, chậm thăng ngạch trật, tôi thấy áy náy trong lòng vì tôi cho rằng sở
dĩ thầy phải già đời ngồi dạy ở một xó nhà quê này, biết đâu chẳng phải vì tôi.
Năm 1959 tôi và nhà tôi cùng mấy cháu có về quê thăm. Lúc bấy giờ tôi mới được
biết rằng ngôi trường cũ của chúng ta ở đầu núi đã bị phá hoại vào những năm
kháng chiến. Cây cà-te cao to, trụ sở của lũ ma quỉ mà ngày nhỏ các anh sợ, đã
bị chặt mất rồi. Tất cả chỗ ấy bây giờ còn là khoảng không. Hình ảnh của chúng
chỉ còn lại trong tâm hồn của chúng ta thôi.Anh bây giờ đã được mấy cháu rồi? Tôi thì được năm cháu. Ba
cháu lớn học ở Lycée Yersin. Vợ tôi cũng thường ở Đà Lạt hơn ở Ban Mê Thuột,
chúng tôi có tậu được một vi-la ở cité Saint Benoit. Tôi bây giờ nhờ trời làm
ăn cũng khá dư đủ. Có được hai nhà máy cưa và một rạp hát. Anh có biết tôi đặt
tên cho rạp hát của tôi là rạp gì không? Chắc anh không đoán được đâu. Tôi đặt
là rạp Thạnh Xương. Để nhớ lại những kỷ niệm ngày xưa.Thôi, giấy ngắn tình dài, chúc anh và quý quyến sức khỏe. Nghỉ
hè rảnh rỗi mời anh lên Ban Mê Thuột chơi nghe? Tụi mình gặp nhau mới nói hết
chuyện.Nhớ ghi địa chỉ là:Ông Trần Minh Thạnh4I, đường Ama Trang LongBan-mê-thuột.Đọc xong thư Tộc, - bây giờ là Trần Minh Thạnh, - tôi vui vẻ
như chính tôi đã làm giàu, đã làm chủ hai nhà máy cưa và một rạp hát Thạnh
Xương. Tộc không nói rõ về người vợ Tộc, tưởng như ai cũng đã biết rồi, nhưng
tôi đinh ninh rằng đó là cô Lành con ông Câu Hò. Tôi tưởng tượng thấy một chiếc
ô-tô sang trọng chở Tộc và cô Lành đỗ xịch trước cái quán của bà mẹ Tộc ở đầu
làng. Bao nhiêu người hàng xóm bâu lại xem, trầm trồ bàn tán. Những đứa trẻ con
ở trần và đen đỉu như Tộc ngày xưa đứng vây quanh chỉ trỏ, sờ mó. Chiếc xe ấy lại
đỗ xịch trước nhà ông Câu Hò. Ông Câu Hò hẳn là thôi không chửi nữa. Nghĩ đến
ông Câu tôi chợt cười thành tiếng. Tôi nhớ đến những đôi giày đôi dép tưởng tượng
của ông ngày xưa khi ông cất tiếng chửi "thằng" Tộc đi hoang đã dụ dỗ
con Lành ngu dại của ông. Niềm vui khi đọc thư Tộc tôi giữ cho đến suốt ngày.
Tôi cảm thấy bớt đơn chiếc và cuộc đời dễ sống hơn. Tộc đại diện cho một loại
nhân cách miễn nhiễm, không tà khí. Lúc nào cũng nghĩ tốt cho người, không ác
ý, không đối phó, không bị lôi cuốn, và sẵn sàng làm điều tốt cho người, không
mưu tính, không mặc cả. Tôi tin chắc sự làm giàu của Tộc rất trong sạch. Lòng
thương yêu thầy mà Tộc nói trong thư chắc chắn là thành thật chớ không phải là
một lời sáo, một công thức xã giao. Những mẫu sinh hoạt vụn vặt của Tộc khi còn
đi học chắc chắn là không chịu sự chi phối của một thành kiến nào. Tâm hồn Tộc
như cái phòng rộng trống trơn, không có xó kẹt, không có bóng tối. Tộc làm những
điều mình nói và có thể nói cả những điều mình làm. Có thể nói cả những điều
mình nghĩ nữa. Trong một xã hội nhiễm độc mà dối trá đã thành điển-lệ, mà thù hằn
đã thành khí giới phổ thông, quả tình nhân cách của Tộc vươn lên như một chồi
cây mạnh giúp tôi tin cậy ở cuộc đời.Chú thích:
[1] |
lưỡi dao, cái hồ, cha đã thấy quả cân một ký, ở Hà nội có một
cái cầu. |
Lá Vẫn Xanh
Ngày này sang ngày nọ túi bụi vì công việc, chỉ thỉnh thoảng
có một ngày chủ nhật rảnh, gặp một vài người bạn quen nói chuyện bâng quơ, thế
mà cũng đủ để Phương phải nghe một tin không chút gì lý thú: tin tận thế.
Tin phát ra từ cuối năm 1959 và được nhiều người biết là vào
dịp Tết Canh Tý 1960. Tết là dịp người ta chúc nhau khỏe mạnh, giàu sang và
sinh đẻ sai. Tiếp theo là uống rượu mùi, hút thuốc lá thơm và nhá hạt dưa.
Nhưng nếu chỉ làm có bấy nhiêu việc đó thì phiền lắm, phiền cho chủ nhân cứ phải
nhìn mãi ảnh mình treo trên vách, phiền cho khách cứ từng chặp lén ngó đồng hồ
tay. Không, người ta phải kiếm chuyện nói cho đầy ít nhất là mười lăm phút xã
giao. Mọi câu chuyện hợp thời được bới ra, trong đó có câu chuyện bức thư ở
Pha-ti-ma (Fatima) tiên đoán vận mệnh của trái đất, của nhân loại. Người đầu
tiên nói cho Phương nghe tin này là một ông bạn có tuổi:
- Không khéo chúng ta nguy cả.
Vốn không có tính tò mò nên Phương chỉ mở to mắt ngồi đợi ông
bạn tự ý nói tiếp câu khai mào bỏ dở:
- Năm 1959 đúng là năm Giáo hội mở bức thư tiên tri ở
Pha-ti-ma.
Phương nhìn lên tấm lịch treo tường.
- Chúng ta hiện ở vào tháng Giêng 1960 rồi. Chắc bức thư đã
được mở rồi.
- Chắc đã mở rồi nhưng chưa thấy công bố nội dung. Chắc hẳn
có những sự đáng lo ngại cho vận mệnh nhân loại.
- Chắc hẳn.
Phương đáp lại như một tiếng vang. Thấy chàng không có ý sốt
sắng dự đoán và tưởng tượng, ông bạn già lặng lẽ nhấp nước trà và lặng lẽ hút
thuốc.
Ấy thế mà sang ngày Tết lại chính Phương là người hay nhắc đến
bức thư tiên tri này nhất. Chàng còn hăng hái lý luận dự đoán nữa. Sự phát triển
nhanh chóng của khoa học nguyên tử, sự chạy đua vũ trang của thế giới, những cuộc
biểu tình, những bản kiến nghị yêu cầu đình chỉ thí nghiệm nguyên tử của các
nhà khoa học và của các dân tộc văn minh khiến Phương nghĩ đến vận mệnh của thế
giới một cách bi quan và thế là chàng tự ý giải thích bức thư tiên tri theo
quan điểm bi quan của chàng. Những người nghe đều gật đầu suy ngẫm. Ít có vấn đề
nào lại khéo gây sự đồng ý bằng vấn đề này. Không ai phản đối hết. Vì tận thế
là chết cả, người giàu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn tất cả đều chết một cách
bình đẳng. Không còn ai được quyền thương hại ai và lẽ tất nhiên là khỏi có ai
phải bực mình vì bị người khác thương hại dùm. Thật là bình đẳng đến mức lý tưởng.
Khi biết chắc không có ai được hưởng đặc quyền sống sót, mọi người cam chịu tận
thế một cách bình tĩnh, bằng lòng. Nhưng... may thay, đó chỉ là những ức đoán vừa
có vẻ thật, vừa có vẻ không, có điều là vừa đủ để vui câu chuyện trong ngày
xuân. Chứng cớ là khi bắt tay giã từ, chủ và khách vẫn long trọng chúc nhau một
lần nữa:
- Ngồi nói chuyện với bác thế mà đã lâu rồi, không dám quấy
thì giờ bác nhiều hơn. Thôi thì lại xin kính chúc bác một năm đại phát tài,
thăng quan tiến chức...
- Dạ, cảm ơn bác. Cũng xin kính chúc bác và quí quyến một năm
mới thọ phúc khang an.
Quả thật vậy, câu chuyện tận thế, cuối cùng vẫn chỉ là câu
chuyện.
Những ngày xuân êm đềm và thong thả qua đi, mang theo đi luôn
những ước mong, những niềm tin dễ dãi. Cuộc sống bận rộn lại lôi kéo Phương vào
một nhịp quay cuồng khiến chàng nhiều hôm quên cả bóc tờ lịch trên tường. Lặn hụp
trong sự sống, quay cuồng theo sự sống, sống theo thói quen, nhiều lúc sống một
cách vô ý thức khiến đôi khi ngồi bình tĩnh nghĩ lại chàng đau xót thấy rằng
mình đã quên là mình đang sống. Và như thế là cái tin tận thế đã được đẩy lui
vào dĩ vãng nếu một buổi chiều kia, chàng không tiện chân ghé vào nhà một chị bạn,
chị Dung. Chính chị Dung ra mở cổng. Vừa bước trở vào phòng khách thì một mâm
cơm ăn nửa chừng làm chàng hoảng hốt dừng lại. Dù là gia đình quen, quen đến
cái độ coi như bà con, Phương cũng thấy ngượng vì mình đến thăm không nhằm lúc.
Bữa cơm ăn dở dang trông hỗn độn như một bãi chiến trường, nhất là bãi chiến
trường ấy lại diễn ra ở trên chiếu, giữa phòng khách. Thật vô tình mà đến ba, bốn
tầng bất ổn đã kết hợp lại trong sự tổ chức cuộc ăn chiều này, ăn quá sớm so với
thường lệ. Bà cụ má chị Dung giục chàng bước vào:
- Cậu Phương vào tự nhiên. Mời cậu ngồi ở xa-lông nói chuyện.
Chị Dung cũng tươi cười mời:
- Anh ngồi chơi. Bà con ở trong nhà mà. Trời nóng quá, bà má
bày đặt ăn cơm trên chiếu.Phương lật đật an ủi chị:
- Đó cũng là một cách trở bữa chị Dung ơi! Thay đổi chỗ ngồi
cũng làm cho mình ngon miệng như là thay đổi món ăn vậy.
Bà cụ không muốn dài dòng, đâm ngang câu chuyện một cách thực
tế:
- Lũ nhỏ này, - cụ chỉ sáu đứa cháu nội ngồi la liệt trên chiếu,
- chúng nó ồn ào quá. Ngồi vào bàn ăn thì đứa kéo ghé, đứa giựt khăn bàn, đứa
chồm lên, đứa làm đổ canh, đứa hụt chân ngã, phiền mình, khổ mình. Đem dọn
"cha" nó xuống đất cho rảnh việc.
Phương cười to, cười ngon lành vì lối nói không kiểu cách của
bà cụ. Lũ nhỏ lây cái không khí cởi mở tự nhiên, đã trở lại ồn ào, nhai cơm,
húp nước canh gõ đũa vào chén, hít mũi, nói chuyện. Nhưng chị Dung thì hình như
vẫn chưa tìm lại được sự tự nhiên. Chị và một miếng cơm quá nhỏ, nhai cơm mà
không gắp thức ăn. Chị nhìn ra sân nheo nheo mắt. Một tay cầm đôi đũa chống hững
hờ vào giữa bát cơm. Như chợt nghĩ ra một điều gì vừa ý, chị quay sang Phương:
- Lũ nhỏ này lộn xộn quá, anh thấy không? Thật là điềm tận thế
mà.
Thằng cháu Thạnh chừng chín tuổi, lè nhè cướp lời:
- Cô giáo con cũng mới bảo là sắp tận thế đó, cô Năm ơi. Ghê
lắm.
Chị của Thạnh, bé Điềm góp ý liền:
- Mấy đứa bạn của tao, con Gái, con Nga, thằng Ánh cũng nói sắp
tận thế.
Bé Tuyết ngậm một miệng cơm đầy, lúng búng nói:
- Thầy giáo con...
Thằng Căn, đũa còn khuấy trong bát canh chưa quơ được một miếng
thịt vừa ý, ngửng mặt lên:
- Bà nội à, anh xích-lô chở con đi học nói rằng tới ngày tận
thế thì...
Bà cụ nạt lên một tiếng:
- Thôi im đi, tụi bay nhỏ.
Nghe tiếng nạt, lũ nhỏ gác bỏ thắc mắc cúi xuống lầm lũi ăn.
Bà cụ quay lại phía Phương:
- Ai cũng nói đến ngày tận thế. Cậu Phương có sợ tận thế
không?
Thật là khó trả lời vì chàng chưa hề cân nhắc kỹ xem bên sợ
và bên không sợ bên nào nặng nhẹ hơn.
Chị Dung đỡ lời:
- Bà già hỏi ngộ quá. Sao lại không sợ?
Phương thấy rằng chị Dung có lý. Ừ, sợ chớ sao không sợ. Nói
quách như chị Dung có phải tiện không và có phải thật thà hơn không? Sao lại
tránh nói sợ khi ít nhiều mình cũng sợ thật?
Chị Dung tiếp:
- Kinh Thánh có dạy rằng khi Quỷ Vương ngự trị, khi dân Do
Thái lập quốc, khi trên trời có những điềm lạ, đó là lúc tận thế.
- Tận thế nghĩa là hết sống. Chết thì càng khỏe chớ sao. Khỏi
phải bận tìm kế sinh nhai.
- Nhưng chết đâu có êm ái như anh tưởng. Thiên tai xảy dồn dập.
Nơi này núi lửa phun lên, nơi kia sóng thần cuồn cuộn tràn vào thành phố, nơi
khác động đất...
Như được khơi nhằm mạch, óc Phương nghĩ ngay đến những thiên
tai chàng đã thuộc lòng lúc đi học, những quang cảnh chàng đã từng tưởng tượng
thấy: trái đất nứt ra, người vật nhà cửa đổ nhào xuống rồi đất khép lại...hỏa
sơn phun khói phun tro đầy trời và tro rơi ngập cả thành phố làm chết ngạt người
trong đó. Rồi sét đánh, rồi mưa lũ, gió to, nước dâng vân vân... Khắp nơi, tiếng
người rú lên kinh khủng, tiếng kêu gào đau xót, tiếng khóc thảm thương trong
khi Tạo hóa hoặc như vô tình, hoặc như phẫn nộ, lần lượt gieo các tai họa xuống.
Các tai họa lúc thì diễn ra một mình, lúc thì đồng diễn phụ họa, lúc thì theo
nhịp thong thả, lúc thì rộn rã tới tấp, nhân loại sẽ có cảm tưởng như đang dự một
cuộc đại hợp tấu mà các mục trong chương trình được tuần tự trình bày.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét