Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2024

Tia nắng rớt

Tia nắng rớt

Tiếng con Tô sủa kéo dài báo tin có khách đến. Người ở lục cục ra mở cổng. Có tiếng nói xì xào rồi tiếp đến tiếng giày sào sạo trên sỏi. Sơn ngẩng nhìn ra khung cửa. Ánh đèn chiếu ra vẽ một khung ánh sáng hình chữ nhật gãy đôi ở bực thềm. Chàng hơi bực mình vì có khách vào giờ này. Tám giờ rưỡi tối là giờ riêng tư, là giờ người ta bắt đầu sống cho riêng mình. Chàng chờ xem ai sắp quấy rầy mình.
Ở khung cửa hiện ra một người đàn ông tay xách va-li. Người ấy thấy Sơn, vội la lên:
- Anh Sơn! Vậy mà tôi cứ sợ lầm nhà.
- A, anh... anh Lộc!
Sơn mừng rằng mình đã nhớ kịp tên người bạn. Chậm một chút sẽ mang tiếng là vô tình biết bao. Lộc còn bỡ ngỡ, phần vì ánh đèn chói, phần vì con Tô hung tợn cứ án ngữ ở cửa nên chưa bước vào, còn Sơn thì còn lò mò chân tìm dép thì một người đàn bà hiện ra đứng bên cạnh Lộc. Sơn reo lên:
- A, có cả chị Thúy nữa. Chào chị. Hôm nay hai vợ chồng anh chị đi hưởng tuần trăng mật chắc.
Thúy cười:
- Chào anh. Lâu ngày quá bọn em mới xuống thăm anh.
Đôi dép đã tìm được rồi, Sơn vừa nhìn bạn vừa đứng dậy ra đón thì lại một người đàn bà khác hiện ra thêm.
Sơn lúng túng:
- A, còn...
Thúy đỡ lời:
- Có hai cô bạn nữa cũng...
Trong khi Thúy còn tìm chữ để nói tiếp thì Sơn đã ra đến hiên. Quả vậy, không phải chỉ một cô mà đến hai cô. Một cô đứng nép sau bồn hoa hoàng anh, tay mân mê một cành hoa nở. Sơn vội mời:
- Xin mời anh chị và hai cô vào nhà.
Một cái bắt tay, một nụ cười thân mật và hai cái nghiêng mình khe khẽ. Cả đoàn người vào nhà. Thấy những người mới đến không thù hằn với chủ mình, con Tô ngoắt đuôi mừng. Lộc và Thúy bỏ va-li lại ngồi ở xa-lông với Sơn. Hai cô bạn ngồi ở đi-văng.
Lộc nói:
- Bọn em ở Đà Lạt xuống. Nhân nghỉ lễ Khổng tử, tòa thị chính tổ chức cho anh chị em nhân viên xuống chơi Nha Trang ba ngày. Cả đoàn ăn nghỉ tại khách sạn Liên Mai. Bọn em muốn nhân tiện ghé lại ở chơi nhà anh. Hai cô bạn... à quên, quên chưa giới thiệu với anh hai cô bạn.
Lộc chìa bàn tay ngửa về phía từng cô:
- Cô Oanh thư ký tòa thị chính.
- Cô Trúc Đào, sinh viên.
Sơn cúi chào rồi giải bày trường hợp mình:
- Anh chị Lộc và hai cô ghé ở chơi, đối với tôi là một sự vui vẻ. Tôi chỉ sợ nhà tôi đơn chiếc, không có ai tiếp đãi chu đáo mọi người. Tôi sống độc thân với một người ở nhỏ.
Lộc ngắt lời:
- Anh khỏi phải lo, vì mọi người đều biết rõ hoàn cảnh của anh. Anh đừng bận rộn gì về chúng tôi hết. Anh cứ coi như không có chúng tôi ở đây.
- Và ngược lại, các bạn cứ tự do như chính ở nhà các bạn. Các bạn cứ coi như không có tôi ở đây.
Cả chủ lẫn khách cùng cười. Qua một câu thực tình mà tan hết giá băng của sự bỡ ngỡ. Câu chuyện hàn huyên tiếp theo liền. Những người quen ở Đà Lạt được nhắc đến cẩn thận. Như tra ở một quyển tự điển, tên của họ tuần tự được Sơn đọc lên. Lộc, Thúy làm nhiệm vụ giải thích.
- Vợ chồng anh Tân hả? Độ rày phát tài lắm. Vừa tậu thêm hai cái vi-la.
- Chị Bê giã từ Đà Lạt hơn một năm nay rồi. Sau khi anh ấy mất chừng sáu tháng, chị về Huế luôn.
- Cụ Sang ở bưu điện? Về hưu. Thằng Ngợi, - anh còn nhớ thằng Ngợi ngọng con cụ Sang không? - thằng Ngợi năm nay thi ra dược sư... Cô Oanh và Trúc Đào ngồi đó để nhắc chừng về những tin tức mới nhất của các nhân vật Sơn hỏi mà vợ chồng Lộc Thúy không nắm chắc tình hình.
Sau nửa giờ, câu chuyện uể oải. Những cái ngáp được khéo léo nuốt đi. Sơn đề nghị mọi người thay áo quần rồi rửa mặt đi nghỉ. Sắp đặt chỗ ngồi cho bốn người khách không phải là một việc dễ dàng. Sơn đưa chìa khóa tủ áo cho Thúy vừa bảo:
- Chị Thúy và hai cô tùy tiện sắp đặt chỗ ngủ. Con ở nhà tôi nhỏ, chỉ quen săn sóc một mình tôi thôi nên tôi chắc nó sẽ không làm vừa lòng các chị. Nó sẽ mau rối trí và nhất định thiếu sáng kiến. Các chị cứ mở tủ tự nhiên.
Một lát sau, ở bên phòng ngủ vang lên những tiếng cười vui vẻ. Họ pha trò với nhau, họ nghịch nhau khiến Sơn ngồi nói chuyện với Lộc ở phòng khách cũng thấy vui lây. Mười một giờ, Sơn và Lộc cùng sang phòng ngủ thì phòng ngủ đã được sắp đặt tươm tất. Ba người đàn bà mặc áo ngủ màu sặc sỡ trông như những cái hoa. Màu trắng của ba chiếc mùng đổ dài xuống, ánh đèn nê-ông lạnh, càng khiến cho vẻ mặt và màu áo của họ gây không khí ấm áp. Lộc chung giường với Sơn. Hai cô Oanh và Trúc Đào nằm một giường. Thúy nằm ở đi-văng. Vì Sơn vào giường trước nên bị Lộc đẩy vào nằm trong. Thành giường phía Sơn nằm hóa ra kề với thành giường bên cạnh. Không biết ai nằm ở kề mình chừng năm tấc kia. Sơn lắng nghe tiếng thở đều đặn, nhè nhẹ. Chàng nghe tiếng trở mình. Chàng khẽ nhìn sang; qua ánh sáng dịu của chiếc đèn giường, có một đôi mắt đen mở rộng nhìn mình.
Sáng hôm sau là ngày lễ. Mọi người đều ngầm cho phép mình dậy trễ như những nhà quí phái. Đến tám giờ thì nhà Sơn rộn hẳn lên. Những dáng người lướt qua, lộn lại từ phòng ngủ sang phòng rửa mặt làm Sơn hoa mắt. Chàng cứ lầm người này với người nọ. Bữa điểm tâm được thu xếp mau. Vì chỉ có một cái lọc cà phê cá nhân nên cô Oanh nhanh nhẹn đưa sáng kiến:
- Em sẽ có cách để hầu cà phê mọi người.
Nàng chạy tìm ở "xắc" một vuông vải mới rồi mở tủ lấy một cái bát sứ. Nàng trải vuông vải. Đổ cà phê vào. Nước sôi đổ tiếp theo. Nàng cầm thìa khuấy một lát rồi túm vuông vải bỏ ra một bên. Một bát cà phê đậm, thơm được chia ra năm tách.
Sơn khen:
- Cô Oanh nhanh trí quá.
Lộc nói:
- Anh chả phải khen. Huynh trưởng gia đình Phật tử đấy.
Sơn quay sang Trúc Đào:
- Còn cô?
Trúc Đào thẹn, má ửng hồng:
- Em kém lắm.
Sau bữa ăn sáng, cả năm người đi biển. Aùnh nắng gay gắt của Nha Trang làm cho hai cô Oanh và Trúc Đào bỡ ngỡ. Cứ đi một lát, họ lại nhìn mặt trời và nhìn xuống cánh tay mình. Có lúc họ đứng dừng lại, đưa tay kéo má của bạn lại xem màu má ửng hồng rồi khen:
- Ồ, chị đẹp quá.
Xuống biển, chỉ Lộc và Oanh tắm. Trúc Đào, Thúy và Sơn thuê ba cái ghế xếp nằm nhìn ra biển. Chín giờ bắt đầu có gió ngoài khơi hây hây thổi vào. Người tắm đông. Trúc Đào chỉ vào đám đông đang tắm, bảo Thúy:
- Chị Thúy này, sự cách biệt về tuổi tác, về tiền tài được giảm nhẹ hết sức giữa những người tắm biển. Chị thấy không, bỏ đi những vật bám theo như quần áo, đồ trang sức, ô-tô, con người ở trần và đứng trước vũ trụ có vẻ bình đẳng với nhau.
Sơn quay sang Trúc Đào:
- Cô triết lý...
Trúc Đào cười:
- Thưa ông, chỉ là một ý nghĩ vẩn vơ.

Sơn nhìn vẻ mặt của Trúc Đào. Đôi mắt dịu, mơ màng và do đó rụt rè. Môi có duyên nhưng hơi lạnh. Khuôn mặt của cô Oanh ấm áp hơn. Màu da ngăm ngăm và tròng đen của đôi mắt đen láy. Nụ cười tươi hơn, vui hơn. Sơn đang miên man suy nghĩ thì Thúy chỉ tay gọi:
- Kìa, anh xem bà kia. Đôi bắp chân no tròn và ngắn như hai củ hành.
Trúc Đào sắp sửa cười, bỗng giơ "xắc" che mặt. Nàng quay sang thân mật bảo Sơn:
- Mấy ông mãnh ở ghế bố bên kia cứ đặt ống dòm nhìn sang.
Thúy bảo:
- Nhìn sang Trúc Đào đấy.
- Không phải.
- Không phải sao Trúc Đào giấu mặt?
Sơn đỡ lời:
- Thật không phải đâu. Họ nhìn sang bà "củ hành" đấy mà.
Thúy và Trúc Đào phá ra cười.
Sau giấc nghỉ trưa, Lộc giục:
- Mời các bà các cô dậy đi thôi. Hai giờ rồi.
Tiếng Oanh hỏi:
- Thế hồi sáng họ hẹn với mình mấy giờ cùng đi hòn Chồng?
- Hai giờ.
- Chết chưa. Thế thì trễ mất rồi còn gì?
- Thì trễ mất rồi chứ sao!
Giọng Lộc đắc thắng. Trúc Đào vừa ngồi dậy xong, liền nằm xuống trở lại:
- Đã lỡ trễ rồi thì thôi, nằm ngủ luôn.
Lộc la lên:
- Không được đâu. Dậy đi thôi, các bà ơi. Tôi nói thế chứ thật ra mới có hai giờ kém mười lăm. Các bà trang điểm mau lên thì vừa.
Các bà dậy trang điểm theo lời Lộc yêu cầu nhưng nhất định không mau lên tí nào hết. Họ vừa cười đùa, vừa nghịch nhau, vừa chải đầu. Họ khen nhau tóc mịn, chê nhau tóc rụng, rồi từ đó chuyển sang hàng uốn tóc lạnh, rồi kiểu tóc Lý Lệ Hoa. Với Lý Lệ Hoa, họ xâm nhập vào địa hạt điện ảnh quốc tế với Deborah Kerr, James Stewart... Đến một lúc hăng tiết, họ bỏ cả lược, bỏ cả thỏi son, bỏ cả "húp" phấn để hùng biện. Lộc lại thúc giục:
- Hai giờ đúng rồi, trời ơi!
Họ cười xòa nhận lỗi rồi lại tiếp tục chải, bôi môi, thoa phấn. Tay dịu dàng, mắt mê mãi, họ đắm đuối nhìn bóng mình trong gương. Sắc đẹp làm cho họ thận trọng tay. Họ chầm chậm quay qua, chầm chậm nhìn lại, chầm chầm ngước mắt lên, chầm chậm nhếch mắt một tí, mỉm cười một chút. Thật đúng là những con hổ uyển chuyển, không vội vàng vì tin chắc ở sức mạnh của mình. Tiếng giày sốt ruột, tiếng giày hậm hực của Lộc cứ tha hồ nện. Lúc mặc áo xong, bôi nước hoa xong, lũ lượt bước ra đến cổng thì đồng hồ vừa chỉ đúng hai giờ rưỡi.
Trên giường, bỏ ngổn ngang những đống quần áo. Ở mắc áo đầy ắp những chiếc áo dài màu sặc sỡ. Sơn nhìn giây lâu những chiếc áo dài, tưởng tượng thấy những thân hình uyển chuyển mà chiếc áo đã ôm ấp. Vải ni-lông mịn láng như da thịt. Chàng bước lại gần một chiếc áo ai mắc ở cây trụ màn. Một mùi nước hoa nhẹ thoang thoảng, mùi nước hoa tử-la-lan thầm kín. Và cũng thầm kín, có thoáng mùi thơm của da thịt. Lòng Sơn xúc động. Chàng bỗng thấy người đàn bà quí giá hết sức đối với cuộc sống của một người đàn ông như chàng. Nét tươi đẹp của giọng nói, mùi thơm của đôi má, đôi môi... bẳn đi từ lâu lắm rồi, chàng đã quên nghĩ đến một người đàn bà. Cuộc sống tạm đầy đủ với ăn, ngủ, đọc sách, đi dạo và làm việc. Bấy nhiêu công việc choán hết thì giờ của chàng khiến chàng quen dần với nếp sống bình lặng, thản nhiên. Bóng dáng một người đàn bà dịu dàng thỉnh thoảng cũng có lướt nhẹ qua tâm trí chàng nhưng chàng đều cố gạt đi. Chàng nghĩ đến những sự phiền phức do người đàn bà đem đến để khỏi phải suy nghĩ lâu. Không ngờ hôm nay...
Có tiếng gót giày gõ nhẹ ở ngoài hiên. Sơn bước ra phòng khách thì thấy Trúc Đào.
- Sao cô về sớm thế?
- Em không thích đi.
- Mấy người kia đâu?
- Thưa ông, họ đi hòn Chồng.
Ngần ngừ một giây. Trúc Đào tiếp:
- Vợ chồng anh Lộc chị Thúy động một tý là cãi nhau. Em bực mình nên bỏ về.
Sơn nhún vai:
- Cãi nhau theo kiểu Lộc Thúy, đó là một hình thái yêu nhau khi vợ chồng đã bắt đầu có tuổi. Dĩ nhiên đó không phải là hình thái duy nhất... chắc cô hiểu thế.
Trúc Đào lắc đầu:
- Em không hiểu.
Sơn cười:
- Thế thì để rồi sau này cô sẽ hiểu.
Trúc Đào cũng cười vì câu trả lời ngộ nghĩnh trái với điều nàng mong đợi. Điều nàng mong là được nghe Sơn kể những hình thái yêu đương mà chàng biết và nàng tò mò muốn biết.
Một luồng gió nhẹ nhàng qua. Trúc Đào thở hít vào một hơi dài, ngẩng một lát như suy nghĩ rồi hỏi:
- Mùi hương của hoa gì mà thơm quá?
Sơn hỏi lại:
- Cô không biết là hoa gì sao? Hoa trúc đào đấy.
- Trúc đào?
- Vâng. Đúng vào tên cô.
- Em chưa biết có thứ hoa ấy.
- Dĩ nhiên. Ở Đà Lạt làm gì có trúc đào. Cô ra đây mà xem.
Trúc Đào bước theo Sơn. Chàng chỉ một bụi hoa màu hồng rồi nói:
- Đây là một bụi trúc đào. Lá dài thon như lá trúc, chắc vì thế mà người ta gọi là trúc đào. Hương hoa thơm đậm lắm.
Sơn đi sang một bụi hoa màu trắng:
- Đây cũng là trúc đào nhưng hoa trắng. Cánh hoa màu trắng. Màu lá cũng xanh nhạt hơn. Cô thấy không?
- Vâng. Và mùi hương cũng nhạt hơn. Em thích mùi hương này quá. Ở Đà Lạt có trồng được hoa này không hở ông?
- Tôi chưa thí nghiệm, nhưng chắc được.
- Thế thì em phải trồng ở vườn nhà em mới được. Người ta trồng bằng cách nào hở ông?
- Cắt cành mà giâm.
- Thế ông giâm cho em nhé? Em xin ông mỗi thứ một cành giâm.
- Tôi sẵn sàng mỗi thứ hai cành cũng được, nhưng làm sao gởi lên Đà Lạt cho cô?
- Điều đó ông không lo. Nghỉ No-en em sẽ xuống Nha Trang để bứng về.
Sơn gật gù:
- Tôi tưởng tượng thấy vườn nhà cô đầy những hoa trúc đào và cô sẽ ghi ở trụ cổng: "Biệt thự Trúc Đào". Người khách qua đường sẽ tự hỏi không biết Trúc Đào là tên hoa hay tên chủ nhân.
Trúc Đào mỉm cười. Chợt nàng kêu to lên vừa đi nhanh về một dãy chậu hoa hồng:
- Ô! Ông trồng nhiều hoa hồng như thế này cơ à. Em tưởng ở Đà Lạt mới trồng được hoa hồng đẹp.
Nàng áp một đóa hồng nhung vào má mình và kéo một đóa hồng sen để lại gần mũi:
- Mùi thơm ngọt quá. Mà...
Nàng quay sang Sơn lúc bấy giờ đã lại đứng gần nàng:
- Mà sao ông trồng nhiều hoa hồng thế? Hay là... ông yêu một cô Hồng nào đó?
Sơn cười:
- Không chắc. Hình như tôi chưa yêu một người nào có tên như thế. Tôi không hay rắc rối. Trồng hoa là một việc mà yêu là một việc khác, hai việc có can hệ gì đến nhau đâu?
- Nhưng em vẫn có cái thắc mắc này là... sao ông chưa có vợ. Hay là ông không yêu ai?
- Có chớ! Có chớ! Nhưng yêu và cưới vợ là hai việc khác nhau cũng như yêu và trồng hoa vậy?
Trúc Đào ngần ngừ:

- Trước khi xuống Nha Trang, anh chị Lộc có cho em biết về ông. Biết đại khái thôi, tất nhiên, nhưng trong những nét đại khái ấy có việc ông mãi không lấy vợ. Xin lỗi là em đã tưởng tượng ông dưới những vẻ không đúng với sự thật chút nào hết, những vẻ mà mỗi lúc nghĩ đến thấy em có lỗi với ông hết sức.
Sơn lắc đầu:
- Chẳng sao. Những người lạ bao giờ cũng dễ bị ghét một cách bất công. Nhưng anh chị Lộc cho cô biết một cách đại khái về tôi như thế nào?
- Dạ... anh chị ấy nói rằng ngày xưa ông có yêu một người nhưng sắp lấy nhau thì chiến tranh xảy ra, mỗi người lạc một phương. Ông đợi suốt mười năm cho đến ngày đình chiến. Trở lại cảnh cũ thì người yêu đã lấy chồng. Từ ấy đến nay sáu năm đã trôi qua, ông cứ ở mãi vậy. Có phải đúng thế không?
Sơn chỉ mỉm cười không đáp.
- Anh Lộc nói từ lần thất bại đó ông không còn cảm tình với đàn bà nữa. Nay được nghe ông nói chuyện mới biết là anh Lộc đã lầm. Nhưng đã không mất cảm tình với người đàn bà thì đáng lẽ ông đã cưới vợ rồi chứ?
Thấy Sơn vẫn không trả lời, nàng giục:
- Sao? ông có thể cho em biết vì sao ông mãi không lấy vợ không?
Sơn nhíu mày nhìn Trúc Đào một cách ranh mãnh:
- Nhưng tại sao cô lại muốn tò mò hỏi kỷ thế?
Trúc Đào cười tự nhiên:
- Đó là câu hỏi vốn ám ảnh em và một số những bạn thân của em. Đó là một vấn đề xã hội, có thể nói là vấn đề của chúng em cũng không sai. Người đàn ông là đồng minh của người đàn bà, vậy hiểu rõ đồng minh của mình là một điều cần thiết.
- Nhưng...
Trúc Đào giơ tay ngăn lại;
- Ông chiều em một tí đi. Oâng thử nói xem vì lý do gì...
- Có lẽ...- Sơn ngần ngừ,- vì tôi tham lam quá.
- Không có vợ vì tham lam? - Trúc Đào mở to mắt ngạc nhiên.
- Hình như vậy. Tôi muốn được hết mà không mất một chút gì. Yêu bao giờ cũng có lãi. Cưới vợ thì... chưa chắc
Sơn cười và Trúc Đào cũng thích thú cười theo. Thấy ánh nắng chiếu vào chỗ nàng đứng, Sơn bảo:
- Mời cô vào nhà.
Trúc Đào đi vào và chàng cũng chậm rãi bước theo. Nàng lại ngồi ở ghế xa-lông và Sơn ngồi đối diện.
- Thế ông có nhiều người yêu không? - Trúc Đào đột ngột hỏi
- Tôi không biết từ bao nhiêu mới được gọi là nhiều. Nhưng chủ quan mà nói thì hình như ít lắm.
Khi Sơn dứt lời nàng chậm rãi nói:
- Nhiều lúc em cũng nghĩ như ông vậy. Khi yêu người ta chỉ biết đến quyền lợi mà khỏi có bổn phận. Khi lấy chồng thì hình như chỉ bổn phận là chắc chắn có mà thôi. Còn quyền lợi... Nàng vung nhẹ bàn tay vừa bĩu môi tỏ vẻ hoài nghi.
- Sáng nay ngẫu nhiên em cầm một quyển sách ở bàn viết của ông mở ra xem. Bìa đóng gáy da, em tưởng là sách, không ngờ mở ra thấy là một quyển vở. Em tò mò đọc một vài trang. Xin lỗi ông, - chỗ này nàng đổi giọng, nói nhỏ hơn nên thân mật hơn, - nếu anh Lộc chị Thúy không nói về ông thì em đã không tò mò như thế.
- Thế cô đọc được gì?
- Đoạn ông nói về cô... gì ấy, em không đọc được tên. Tên cô ấy ông viết bằng chữ Tàu thì phải.
Sơn gật đầu:
- Đúng rồi. Tôi viết bằng chữ Hán.
- Người yêu của ông là một cô gái Trung Hoa?
- Không phải, cô ấy là người Việt như cô vậy. Nhưng để tránh những con mắt tò mò, - xin lỗi cô, không phải tôi dám ám chỉ cô đâu, - để tránh những con mắt tò mò, tôi viết tên cô ấy bằng chữ Hán.
- A! Ngộ nhĩ!
- Không phải đó là phương pháp độc nhất. Tôi có thể viết bằng một tên Pháp hay tên Anh. Chẳng hạn nếu người đẹp của tôi giống một nhân vật nào trong một quyển tiểu thuyết Pháp hay Anh mà tôi đã đọc thì tôi có thể lấy tên nhân vật trong truyện mà gọi nàng. Cũng có khi tôi biên đúng tên nàng nhưng đảo ngược vị trí các chữ. Ví dụ tên Hòa, sẽ biến thành Hào, Mai thành Mia.
Trúc Đào gật gù lý thú:
- Nếu tên em thì ông viết chữ Tàu như thế nào?
Sơn rút cây bút máy và kéo ở bàn xa lông ra một tờ báo.
Chàng xích lại gần nàng, viết ngoằn ngoèo một chữ Hán lên lưng tờ báo rồi nói:
- Đó, tên cô đó.
Chàng viết lại hai lần chữ "Đào" và Trúc Đào xuýt xoa thấy tên mình hiện ra dưới một hình thức quái dị nhưng có vẻ cổ kính trang nghiêm.
- Tôi cũng có thể viết tên cô bằng cách đảo lộn vị trí các chữ. Tôi viết thế này chẳng hạn "Sáng chủ nhật 20 tháng 9. Đóa hỏi: Sao ông không lấy vợ?"
Trúc Đào cười lên:
- Đóa hỏi sao ông không lấy vợ. Đóa, cái tên nghe hay đấy ông nhỉ? Còn nếu ông muốn viết tên em bằng chữ Pháp?
Sơn giơ một ngón tay ngắt lời ngay như chàng đã có sẵn ý kiến.
- Không khó. Tôi đã chuẩn bị rồi. Khi vừa gặp cô, tôi thấy cô có những vẻ gì hao hao giống nàng Dominique trong phim "Nụ cười xuân". Ừ, tôi thấy rồi. Khi cô ngẩng mặt lên đợi chờ, đợi chờ một câu trả lời, đợi chờ một ý mà cô đang tìm thì quả cô giống cô đào Christine Carrère đóng vai Dominique hết sức. Vậy thì khi cần viết tên cô, tôi có thể thay bằng Dominique.
Trúc Đào gật gật đầu:
- Sáng kiến này của ông hay lắm đó vì ông sẽ nhớ kỹ những người mà ông đã gặp. So sánh để tìm nét giống nhau giữa một người với người khác, như thế là gián tiếp ông đã ghi nhận những nét độc đáo của người ấy.
Vừa lúc ấy có tiếng cười nói của Thúy, Oanh vang lanh lảnh ở trước cổng. Ba người bạn đã đi du ngoạn về. Thấy Trúc Đào ngồi đối diện với Sơn ở xa lông, Oanh tru tréo lên:
- Thế mà làm người ta chạy tìm sáng mắt. Cứ tưởng mẹ mìn nó dỗ đi đâu mất rồi.
Lộc nhìn Sơn, nói giễu cợt:
- Mẹ mìn này hiền lành nên chỉ lo cô Trúc Đào dỗ mẹ mìn đi thì có.
Sơn nhìn sang Trúc Đào thì thấy nàng đang tinh nghịch nhìn chàng.
Trúc Đào hỏi:
- Đi hòn Chồng có vui lắm không?
Nhưng không đợi cho Oanh trả lời, nàng đứng dậy đi ra giếng nước. Đi qua trước mặt Sơn, nàng thấy Sơn giơ tay ra hiệu giữ lại. chàng lấy giọng tự nhiên nói:
- Lúc nãy tôi bảo cô rằng tôi không lấy vợ vì tham lam quá. Điều đó chưa chắc đúng. Có lẽ đó chỉ là một lý do trong rất nhiều lý do phức tạp, chẳng hạn tâm tính sở thích... Nhưng thôi, phải đợi một dịp khác có nhiều thì giờ hơn chúng ta mới có thể thỏa thuận về điểm khúc mắc này.
Dịp ấy, Trúc Đào tưởng là hôm sau, khi Sơn đề nghị với nàng đi lên Ngọc Hội xem lò gốm. Đêm đó, trước khi ngủ, dù vẫn ậm ừ chịu chuyện với Thúy và Oanh, nàng vẫn không thể không để óc mình vấn vương vì Sơn. Chàng có những vẻ gì khác với những người bạn trai cùng lứa với nàng. Cố phân tích cho rõ, nàng thấy Sơn một sự điềm đạm cuốn hút, một sự lễ độ bề ngoài lạnh nhạt nhưng chứa đầy nhiệt tình. Những bạn của nàng họ vội vàng quá, họ trắng trợn quá, họ say đắm quá, khiến họ như lúc nào cũng bị men rượu làm choáng váng... Thế mà nàng thì nàng yêu một cái gì nhẹ nhàng hơn, một tiếng thoáng qua, một màu sắc nhạt. Nàng sợ sự tàn bạo. Yêu vồ vập thì chóng quên chóng nhạt. Aø, nàng thấy ra rồi, sự cuốn hút nơi Sơn còn do ở tấm lòng chân thành chàng đối với người yêu cũ, ở sự thận trọng chàng đối với những tình yêu mới. Trước mắt nàng Sơn như một con chim lạ. Nàng thấy mơ hồ một sự cảm mến đối với chàng, đồng thời như có sự tò mò giục nàng thử khám phá xem sao. Người trầm lặng dễ làm đích cho nhiều sự khám phá. Nàng đã chán vì nhiều bạn của nàng sống hời hợt quá nên chưa kịp có một cá tính, có một nội dung. Họ như những quyển sách dở chỉ khác nhau ở cái bìa cái tên sách còn nội dung thì na ná như nhau. Mặc áo và cạo râu, sáng trưa đi làm, ăn uống, tiêu khiển.. bấy nhiêu công việc lặp lại đều đặn ở người này cũng như ở người kia, giống y như những tình tiết yêu đương, trắc trở, nước mắt, nụ cười... trong những quyển tiểu thuyết dở. Dù chưa nếm nhiều nhưng quả tình nàng thấy chán. Theo nàng, Sơn có đời sống nội tâm khác hơn những bạn mà nàng biết. Những nếp cảm xúc tinh vi của chàng chắc chắn sẽ dành cho sự khám phá của người đàn bà những thích thú bất ngờ. Khám phá! Nhưng nàng vụt nghĩ: Khám phá để làm gì? Ừ, khám phá để làm gì? Câu hỏi đến với nàng đúng lúc như một tiếng vang. Để làm gì? Nàng sắp lấy chồng. Ý nghĩ về Khiêm, người chồng sắp cưới của nàng dồn dập đến, vồ lấy tâm hồn nàng khiến nàng khó chịu. Nàng lắc đầu, muốn xua đuổi không nghĩ đến. Nàng quay sang lay Oanh:
- Chị Oanh ơi! Dậy nói chuyện với em đi. Sao ngủ chóng thế.
Tâm trạng ấy của Trúc Đào, Sơn không hay biết gì hết. Khi chàng đề nghị cùng nàng lên thăm lò gốm, chàng vui vẻ thấy nàng vội vàng bằng lòng và từ chối không đi với đoàn ra thăm Ba Hồ. Nhưng Oanh, khi nghe Sơn đề nghị lên thăm lò gốm thì Oanh cũng reo lên:
- Em cũng đi với. Từ nhỏ đến giờ em chưa bao giờ được xem người ta làm đồ gốm. Em đi với có được không, ông Sơn?
- Được lắm chớ. Hoan nghênh là khác.
Ba chiếc xích lô đi theo hàng một đưa ba người lên Ngọc Hội. Đoạn đường này không vui vì Trúc Đào không có dịp để nói chuyện vui vẻ cùng Sơn, mặc dù nàng đã khéo xếp đặt để xe nàng đi sát gần xe Sơn. Muốn thế, khi ra xe nàng đi chần chừ đợi cho Oanh ra trước để Oanh bước lên xe trước. Nàng đi xe giữa và Sơn vì bận phải khóa cửa nên ngồi xe sau. Ngồi nhìn ra trước, mắt Sơn chạm phải cái ót trắng của Trúc Đào với mớ tóc nâu uốn vắt lên cao. Lâu lâu, Trúc Đào lấy cớ nhìn theo một ngôi nhà, một cây dừa nước, một cái xe ngựa chạy ngược chiều để quay lại. Và mỗi lần như vậy nàng không quên câu trả lời cái nhìn của Sơn bằng một nụ cười lặng lẽ.
Đến đầu con đường rẽ vào xóm thì xe dừng lại. Ba người xuống đi bộ. Đoạn đường này rải đá nhưng lâu ngày không tu bổ nên đất trôi đi hết còn lởm chởm đá. Hai nàng nhón bước trên những mũi đá dăm, tinh nghịch cười khi có viên đá lăn tròn dưới gót giày. Sơn thấy lây cái vui hồn nhiên của họ.
Những vườn dừa chạy dài liên tiếp rải bóng mát xuống mặt đường. Từng chặng, lá dừa đan kín trên đầu, nhìn không thấy trời. Hai bên đường, nhà cất san sát nhưng cái lòi ra, cái thụt vào, cái nhìn thẳng ra đường, cái quay hông nhìn sang hướng khác. Nhà lợp lá dừa và vách trát đất nên thuần một màu xám đậm. Cách khoảng, chen vào một ngôi nhà gạch nhỏ nhắn với cửa sơn xanh lá cây, vách quét vôi xanh nhạt trông như một cô gái quê làm đỏm. Oanh nói:
- Ở đây sự sống yên tĩnh dễ chịu quá. Có lẽ được sống ở đây quanh năm thì tim em chỉ còn đập sáu mươi nhịp trong một phút.
- Ai cấm chị không được sống ở đây? - Trúc Đào hỏi.
- Sự lười biếng, sự rụt rè không dám thay đổi một nếp sống cố hữu. - Oanh mơ màng trả lời.
Sơn chỉ một bà cụ già ngồi trước hiên một ngôi nhà xiêu vẹo đang nheo mắt vá áo. Chàng nói:
- Đó là hình ảnh của hạnh Phúc theo cô Oanh quan niệm đó. Tim của bà cụ này chỉ còn năm mươi lăm nhịp đập trong một phút thôi.
Oanh và Trúc Đào cùng phá ra cười ầm ĩ khiến những khuôn mặt ló ra ở các khung cửa sổ. Vài người bước hẳn ra hiên nhìn đăm đăm vào hai nàng.
Quá chợ Mới con đường nhỏ lại và nện đất. Nhà nối tiếp thưa thớt hơn. Thỉnh thoảng đôi mắt được nghỉ ngơi trên những cánh đồng mía lá xanh rờn rợn. Tiếng bàn chuốc rập rình ở một cái trại nhỏ vang ra. Sơn giảng:
- Đã tới xóm lò gốm rồi đó. Tiếng rập rình mà hai cô vừa nghe là tiếng bàn chuốc.
Oanh định hỏi "bàn chuốc là cái gì?" nhưng nàng dừng lại không hỏi. Nàng nghĩ: Trúc Đào nhất định cũng không biết bàn chuốc là cái gì nên thế nào Trúc Đào cũng hỏi. Nhưng Trúc Đào đang lơ đãng nhìn một ánh nắng đang chiếu vàng trên đọt dừa cao. Nàng bảo Sơn:
- Ông Sơn ơi, ông xem kìa, ánh nắng chiếu trên đọt dừa kia. Từ sáng đến giờ trời âm u mình cứ lo đi chơi mắc mưa.
Sơn đưa mắt nhìn rồi nói:
- Nhưng không nắng lâu được đâu. Lóe một chút rồi tắt ngay. Nhưng được cái là vẫn tốt hơn mưa.
Chàng đưa hai người bạn vào một trại lò gốm. Trước sân, những miếng gạch vừa đổ ra được sắp hàng để phơi khô. Ở bàn chuốc, một người đàn bà dùng chân đẩy cho cái bàn xoay còn một người đàn bà khác đưa hai tay kéo một con đất cho thành hình cái chậu. Oanh thấy lạ, đứng chăm chú nhìn rồi hỏi tíu tít người đàn bà:
- Bà đẩy bàn có nặng không? sao bà chuốc không méo? Lỡ méo thì bà làm sao? Mấy ngày thì cho vào lò? Mỗi ngày bà làm được bao nhiêu tiền? Bà có ở gần đây không? Bà được mấy con?...vân vân...

Hai người đàn bà chia nhau trả lời. Họ không tỏ ra khó chịu vì những câu hỏi của Oanh mà họ cho là ngây thơ. Sơn để cho Oanh và Trúc Đào say mê với những phát kiến mới của họ. Chàng bước ra sân, đi men ra vườn, đứng nhìn xuống một con lạch nhỏ. Nước đứng im sừng sững in bóng những bè rau muống, những khóm bèo lục bình đơm hoa tím. Một con chim bói cá đậu trên một cành tre nhỏ sát mặt nước, phải nhìn kỹ lắm chàng mới trông thấy. Chàng cúi nhặt một miếng mẻ ngói giơ tay định ném con chim thì có tiếng chân bước lại gần và một tiếng "suỵt" khe khẽ. Chàng quay lại: Trúc Đào. Nàng giơ một ngón tay lên miệng, mở to mắt:
- Ông sắp ném chim hả? Sao ông ác thế?
- Tôi ném trăm lần trật cả trăm. Cô đừng lo.
- Con đường nầy đi về đâu thế ông?
- Đường này xuống ngõ Phương Câu.
- Phương Câu, - nàng mím môi suy nghĩ, - Phương câu chắc là giống Bích Câu ông nhỉ? Cảnh đẹp như thế này mà.
Nàng bước ra đường và tự nhiên Sơn cũng bước theo. Những cây ô mai, cây khế, cây mít ở các vườn nhà người ta đều làm cho nàng xuýt xoa. Mấy đứa bé thấy nàng mặc áo sơ mi ngắn quần tây dài bó đùi, đi sát theo tò mò nhìn. Một đứa chạy ù ra trước vói tay gọi mấy đứa khác:
- Ra coi vợ chồng ông bà này bay ơi! Bà vợ bận quần tây.
Sơn hơi ngượng vì sự hiểu lầm của đứa bé. Chàng đưa mắt nhìn sang Trúc Đào nhưng không thấy nàng tỏ vẻ khó chịu nào cả. Nàng tươi cười trỏ một ngón tay về phía đứa bé, ra dấu dọa nạt:
- Nói nhảm đấy nhé? Đánh chết.
Rồi quay sang Sơn, nàng nói, miệng vẫn giữ nụ cười:
- Lũ nhỏ quan niệm rằng một người đàn bà và một người đàn ông đi với nhau thì phải là hai vợ chồng.
- Cả người lớn cũng quan niệm như vậy.
- Tội nghiệp - Trúc Đào chép miệng.
Nàng định nói thêm thì chợt nhìn xuống một vũng nước rộng nằm trải suốt mặt đường.
Mấy ngày trước trời mưa nên mặt đường lỗ chỗ những vũng nước. Sơn đã nhún chân nhảy qua đứng ở bên kia vũng đợi. Trúc Đào ngắm nghía vũng nước nhún chân mấy lần nhưng không dám nhảy qua. Nàng đưa mắt tìm một lối đi ven hai bên bờ đường nhưng không có lối. Sơn đưa thẳng bàn tay ra nói:
- Cô nắm bàn tay tôi mà nhảy qua. Như vậy chắc khỏi ngã.
Trúc Đào tươi cười ngay:
- A! Phải đấy. Thế mà em không nghĩ ra được.
Nàng giơ tay cầm lấy bàn tay Sơn, nhún chân nhảy. Đà nhảy mạnh đẩy nàng sát vào người Sơn. Chàng nhìn vào đôi má hồng của nàng mơn mởn lông tơ. Đôi mắt đen nháy long lanh sáng. Mùi nước hoa ở mái tóc thoang thoảng. Chàng nhìn xuống bàn tay mà chàng còn giữ lại: ngón trắng thon và cổ tay tròn trĩnh, Trúc Đào chầm chậm rút tay ra khỏi lòng bàn tay của chàng. Sự việc xảy đến nhanh quá khiến nàng có cái thú ngây ngất của sự bất ngờ. Im lặng một giây, nàng khẽ bảo:
- Chết! Chúng ta bỏ quên chị Oanh ở lò gạch. Phải trở lại kẻo chị trách.
Sơn không trả lời. Hai người nhảy trở lại vũng nước nhưng lần này nàng không nắm tay Sơn nữa. Tuy vậy, để phòng xa đường trơn, nàng nhảy ngay vào chỗ Sơn đang đứng đợi.
Đi chừng vài mươi bước, Sơn cảm thấy buồn. Có lẽ Trúc Đào cũng nghĩ như vậy chăng nên liếc nhìn sang nàng, Sơn thấy nàng cắn môi. Con đường về không có gì lạ. Cuộc phiêu lưu đã chấm dứt ở từ cái vũng nước ngang đường. Đến ngã tư thì hai người thấy Oanh đang ngơ ngác đưa mắt tìm. Đón trước trước lời trách của Oanh, Trúc Đào bước nhanh đến vừa tươi cười nói:
- Em đi lạc đường...may có ông Sơn...
Hơi ngượng vì lời nói dối nên Trúc Đào ngần ngừ không nói hết câu. Sơn tự hỏi: Trúc Đào nói dối làm gì? Nhìn sang Oanh thấy Oanh không tỏ vẻ nghi ngờ gì hết, Sơn bảo:
- Nếu chúng tôi không đến kịp thì cô cũng sắp đi lạc đường rồi đó. Tôi tưởng cô đang say mê với lũ chum, vại, gạch, ngói của hàng lò gốm.
Oanh reo lên:
- Ồ! Thích quá khi được nhìn hai bàn tay dịu dàng của người thợ chuốc biến con đất sù sì ra cái chậu, cái vung. Thật không ngờ một người đàn bà cục mịch như thế lại khéo tay như vậy. Hay quá. Thật là một cuộc đi chơi đầy thú vị.
Trúc Đào đưa mắt nhìn sang Sơn thì bắt gặp tia mắt của Sơn nhìn mình. Cả hai như cùng muốn nói: chúng tôi cũng vừa thấy như vậy.
Con đường về như ngắn hơn lúc đi. Cảnh nhà cửa cảnh cây cối trên đường và những khuôn mặt, mới gặp một lần mà như đã quen lâu rồi. Oanh và Trúc Đào không tò mò nhìn nữa nên bước chân đi mau hơn. Tuy vậy, có những chi tiết lúc đi không lưu ý, đến chừng về hai người mới thấy. Chẳng hạn cái cầu đá uốn vòng như lưng mèo với cái vòm cong ở dưới hình bán nguyệt. Nước đục mang những bè rác chảy lờ đờ. Chẳng hạn cái lều chợ bằng ngói nằm giữa những bức tường thành cao của mấy ngôi nhà xung quanh. Oanh nói:
- Đi xem cảnh phải xem một lần đi và một lần về mới thấy hết, nhớ hết. Cũng như học bài vậy. Phải học ôn thì mới khỏi quên.
- Đúng thế, - Sơn trả lời. - Nhưng chỉ tiếc là điều nhớ hôm nay, ta sẽ quên ngày mai, ngày kia.
Ba người im lặng bước. Một lát sau, Trúc Đào chậm rãi nói:
- Quên là một bắt buộc của cuộc đời chứ bản tâm con người thì muốn nhớ hết, nhớ hết.
Câu nói của Trúc Đào khiến Oanh quay nhìn sang Sơn có ý dò hỏi. Sơn cất tiếng cười để lấy vẻ tự nhiên:
- Khi mỏi chân thì cô Trúc Đào có những tư tưởng rất thâm thúy.
Trúc Đào cười và Oanh cũng cười theo.
Vui chân, ba người đi bộ mãi đến Phật học viện mới gọi xích lô về nhà. Đến ngã Sáu Nhà Thờ, những tấm vải quảng cáo tuồng chiếu bóng chữ viết xanh đỏ bắt mọi người lưu ý.
Trúc Đào kêu lên:
- Ô! Tối nay rạp Tân Tân chiếu phim Gidget. Phim này hôm chiếu ở Đà Lạt em trật xem. Vậy tối nay phải đi xem mới được. Ông Sơn đã xem chưa?
- Chưa
- Vậy tối nay mời ông đi với em nhé?
- Đồng ý. Mời cô Oanh cùng đi luôn.
- Cám ơn ông. Em đã xem rồi.
Tiếng phát lách cách của ba chiếc xích lô làm con Tô sủa vang lên. Con bé ở ra mở cổng. Khi bước vào sân, Trúc Đào vui vẻ nói:
- Em rất thích Sandre Dee. Để rồi tối nay ông cũng sẽ yêu Sandra Dee như em.
Vừa lúc ấy con bé ở lại đi gần nàng.
- Thưa cô, lúc nãy có người đến hỏi cô.
- Người ấy ra thế nào? đàn ông hay đàn bà?
- Thưa cô đàn ông.
- Nhưng người ấy hỏi cô nào? Cô Oanh hay tôi?
- Thưa cô người ấy hỏi: Cô Trúc Đào có ở nhà không? con thưa rằng cô đi vắng thì ông ấy bảo về thưa lại với cô tối nay ông ấy đến.
- Ông ấy người ra thế nào?
Con ở lúng túng không biết nên tả ra thế nào. Rồi như chợt nhớ ra, nó vui vẻ nói:
- Ông ấy đi bằng ô tô.
- Bằng ô tô?- Trúc Đào chau mày lật đật hỏi.- Ô tô nhỏ?
- Thưa cô, vâng. Ô tô nhỏ màu vàng nhạt.
Nét mặt của Trúc Đào sa sầm xuống.
- Cô có điều gì không bằng lòng?
Sơn hỏi nhỏ:
Trúc Đào lắc đầu:
- Thưa ông không.
Rồi nàng lẳng lặng vào phòng.
Vợ chồng Lộc Thúy đã đi xuống khách sạn để ăn chung với đoàn du lịch. Đã trễ giờ nên Sơn mời Oanh và Trúc Đào cùng ăn với mình. Mặc cho những lời vui đùa của Sơn và của Oanh, Trúc Đào có vẻ không vui.
Ăn tối xong, nàng giục Sơn:
- Chúng ta chuẩn bị đi xi-nê đi.
Sơn nhìn vào đồng hồ tay:
- Còn sớm quá, chín giờ mới chiếu mà bây giờ mới tám giờ kém hai mươi.
- Chúng ta có thể đi một vòng ở phố Độc Lập rồi vào rạp sau.
- Nếu cô muốn.
Sơn đứng dậy vào phòng thay áo và Trúc Đào cũng lại chải tóc trước gương. Thấy Oanh mở xắc lấy son bôi môi, Sơn hỏi:
- Còn cô Oanh?
- Em ghé lại thăm chị Bích. Xuống Nha Trang mà không ghé thăm chị, lúc chị biết được thế nào chị cũng trách.
Ba người đang mê mải chuẩn bị thì có tiếng còi ô tô trước cổng.
Tiếp theo sau, tiếng mở khóa lách cách và tiếng giày đi vào xa-lông.
Oanh chạy ra và reo lên.
- Anh Khiêm! Anh Khiêm, chị Trúc Đào ơi.
Sơn đưa mắt nhìn sang Trúc Đào thì thấy nàng bỏ mạnh cái húp phấn xuống bàn rồi đứng dậy.
Khi Oanh giới thiệu Khiêm với chàng, Sơn nhận cái bắt tay rất chặt và một nụ cười thân mật. Oanh hỏi:
- Anh vừa ở Đà Lạt xuống?
- Xuống hồi bốn giờ chiều. Tôi phải làm việc sáng thứ bẩy. Ăn trưa xong, nghỉ một lát rồi phóng xe xuống đây.
- À!- Oanh vui vẻ như vừa khám phá ra sự lạ. - Hồi chiều anh có ghé lại đây hỏi chị Trúc Đào phải không? Lúc bấy giờ chúng em đi Ngọc Hội xem lò gốm.
Khiêm gật đầu rồi mỉm cười lặng lẽ. Ba người ngồi im lặng khá lâu. Sơn tinh nghịch đợi xem ai sẽ phá tan sự im lặng ngượng nghịu ấy. Khiêm thì ngồi thẳng ở ghế xa-lông, những ngón tay đan tréo vào nhau và mắt hết nhìn xuống lọ hoa lan đặt ở bàn nước đến đưa ra nhìn giàn hoa hoàng anh trước cửa. Oanh thì thập thò nhìn vào cửa phòng như đợi Trúc Đào ra. Một lát có tiếng giày của Trúc Đào. Khi nàng hiện ra ở khung cửa, Khiêm đứng dậy:
- Anh đợi em từ chiều đến giờ.
Trúc Đào mỉm cười uể oải.
- Em sắp đi phố hả? Để anh đưa xe em đi. Nhưng trước hết chúng ta phải ghé lại nhà chào chú thím đã. Nhà chú ở số... chết chết, ở số mấy anh quên mất...
Chàng móc túi lấy ra một cái ví đầy ắp những giấy tờ, lục lọi một lát rồi reo mừng:
- Phải rồi! Số 57 Duy Tân. Còn chị Oanh đi chơi với chúng tôi? À quên, chúng tôi còn phải đi xuống Duy Tân.
Oanh nhanh nhẩu đáp:
- Em cũng phải đi lại thăm chị Bích ở gần đây.
- Thế để tôi đưa xe chị đi luôn. Nào, chúng ta cùng đi.
Khiêm bước ra trước. Trúc Đào mắt nhìn sang Sơn nói nhỏ:
- Xin lỗi ông...
Sơn vừa bắt tay Khiêm vừa nói:
- Không có gì. Xin chúc ông... bà vui vẻ.
Tiếng "bà" chàng nói khẽ để dò xem tình thế. Không ai tỏ vẻ khó chịu. Chỉ riêng Trúc Đào hơi bĩu môi rồi quay nhìn ra sân.
Mười một giờ khuya vợ chồng Lộc Thúy và Oanh về.
Sơn lắng nghe tiếng họ bàn cãi khi bước vào nhà. Đầu tiên là tiếng của Thúy:
- Trúc Đào nó không yêu mà bắt nó vui vẻ sao được?
Tiếng Lộc cãi lại:
- Không yêu sao lại bằng lòng lấy người ta?
Tiếng Oanh bình tĩnh hơn:
- Hai gia đình thân với nhau từ xưa. Vả lại, anh Khiêm đâu có thua kém ai. Công chức cao cấp, lương to. Chỉ tiếc anh ta có hơi thô.
Sơn vụt nhớ đến mái tóc bàn chải và cặp mắt nhỏ, đến cái mặt hay nghếch lên, vừa tự phụ vừa quê mùa.

- Nhưng người đàn ông sinh ra đâu phải với mục đích mỹ thuật? Giọng chống chế của Lộc.- Có lẽ Trúc Đào không thích tính của Khiêm vì tính anh ta hơi "gấu" thế nào ấy. Con người ấy thật mâu thuẫn. Ăn chơi mà lại thô.
Có tiếng vỗ tay và tiếng cười to:
- Đúng rồi, đúng chữ ấy đấy. "Gấu". Phải, anh Khiêm "gấu" lắm.
Tiếng "suỵt suỵt" có lẽ của Thúy.
- Im! Im! Cười nho nhỏ thôi để anh Sơn ngủ.
- Tội nghiệp. Hình như lúc nãy chị Trúc Đào khóc. Phải không anh Lộc? Em thấy mắt chị ấy đỏ.
- Trông dáng Khiêm ngượng ngập khi gặp chúng mình và dáng Trúc Đào quay mặt không trả lời câu hỏi của chị thì hiểu ngay.
Tia Nắng Rớt - Phần II
Ba người lặng lẽ thay áo rồi vào giường nằm. Những tiếng rủ rỉ trao đổi với nhau lần lần thưa dần, uể oải dần. Cuối cùng đâu đó im lặng. Sơn mở mắt nhìn lên đình màn. Trí óc chàng liên man nghĩ đến Trúc Đào, nghĩ đến cuộc du ngoạn hồi chiều. Tiếng chuông đồng hồ nhà bên cạnh đổ lên mười hai tiếng. Một chặp sau tiếng ô tô dừng trước cổng, tiếng giày sào sạo trên sỏi. Tiếp theo, tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Sơn trở dậy ra bật đèn mở cửa. Trúc Đào ngạc nhiên thấy Sơn mở cửa cho mình. Nàng nói:
- Em làm phiền ông. Sao ông thức khuya thế?
Giọng nàng không trong trẻo như hồi chiều. Nghe như đặc lại.
Chàng trả lời:
- Nhắm mắt mà mãi giấc ngủ không đến.
- Em lại tưởng ông đi xi-nê.
- Không có cô thì không đi.
Trúc Đào im lặng.
- Em xin lỗi đã thất hứa với ông. Xin ông hiểu cho rằng em rất tiếc. Ngày mai em phải về Đà Lạt rồi.
Sơn chép miệng:
- Những ngày vui đã chấm dứt.
- Em mong có dịp ông lên Đà Lạt chơi.
Sơn xòe hai bàn tay và bĩu nhẹ môi vẻ thất vọng:
- Để làm gì?
Chàng muốn Trúc Đào hiểu rằng chàng đang nghĩ đến cuộc đời của nàng bên cạnh Khiêm. Riêng Trúc Đào, nàng cũng muốn nói: "Có lẽ ông nghĩ đúng" nhưng nàng không dám nói.
Khi bước vào phòng, giọng Oanh ngái ngủ:
- Trúc Đào về đấy à? Sao khuya thế? Tối nay Khiêm nghỉ ở đâu?
- Anh ấy ở khách sạn. Sáng mai anh ấy phải đi Qui Nhơn sớm.
Lại một đêm nữa Trúc Đào trằn trọc không ngủ được. Nàng hồi tưởng lại lần đầu tiên người được nghe Lộc nhắc đến tên Sơn. Hôm ấy nhằm ngày chủ nhật, nàng nhớ kỹ là một ngày chủ nhật đầu tháng Năm, nàng ghé lại thăm Lộc Thúy. Nàng như còn thấy rõ trước mắt, lọ hoa lớn ở phòng khách hôm ấy cắm toàn hoa cúc trắng. Câu chuyện rất vui vẻ, bắt đầu nói về ngày lễ nghỉ, đến hoa trắng tháng Năm, đến những chuyện tình vẩn vơ rồi quay sang sự học hành của Trúc Đào. Chợt Lộc nói:
- À! Thúy này! Trúc Đào có fiancé rồi, tiếc quá em nhỉ! Nếu chưa thì mình giới thiệu anh Sơn cho Trúc Đào.
Thúy tán thành ngay, một điều mà Trúc Đào ít khi thấy xảy ra vì cặp vợ chồng này lúc nào cũng tìm những ý kiến mâu thuẫn để chống nhau:
- Ờ! Phải đấy. Anh Sơn là người bạn tốt của chúng em. Chị với anh Sơn... Ờ, phải đấy!
Trúc Đào chỉ mỉm cười không trả lời. Lộc kể những tính tốt của Sơn và theo ý kiến của Lộc thì Sơn và nàng sẽ thành một đôi vợ chồng hợp tính nhau. Trúc Đào lắng tai nghe, lý thú nhưng không tin tưởng lắm, Lộc thuộc hạng người có tâm hồn đơn giản, làm viên chức tốt và làm chủ gia đình hoàn toàn. Lộc làm ăn cần kiệm, chơi huê chơi hụi chắc chắn, giao thiệp mua bán lanh lẹ tháo vát. Nhà cửa sắp đặt ngăn nắp, sổ chi tiêu không ghi sót một món chi hai đồng, tờ lịch luôn luôn được bóc vào chín giờ tối hôm trước... Tính tình dễ dãi như vậy nên Lộc không có một mối băn khoăn siêu hình nào. Giải trí của anh, cho đến chừng này tuổi vẫn là những phim phi ngựa bắn súng và những tập tiểu thuyết đường rừng. Nàng thầm trách, - nhưng không biết trách ai, - rằng sao người giới thiệu Sơn cho nàng lại là Lộc. Những bạn của Lộc thường là những nhà buôn cần xin giấy tờ ở tòa thị chính, những người mới giàu lo chọn mua vi-la, những người cần mai mối để tìm cưới một cô vợ có vốn. Nàng tưởng Sơn cũng đại khái như vậy. Nàng nghe chuyện một cách lý thú chỉ vì óc chinh phục đặc biệt của người đàn bà mà thôi. Nghe chuyện về một người đàn ông sắp được bạn giới thiệu để yêu mình là một điều thích thú. Thích hơn nữa vì người đàn ông đó là vai chính của một câu chuyện tình khá cao thượng. Nên khi Lộc nói xong quay lại hỏi: "Đấy, chị Trúc Đào thấy một người như vậy có đáng yêu không?" thì nàng trả lời ngay, vui vẻ nhưng hời hợt: "Có. Đáng yêu lắm.". Tức thì Lộc nói liền:
- Hôm nào chị cùng đi xuống Nha Trang với tôi. Tôi giới thiệu cho.
Trúc Đào không ngờ lời hứa đó hôm nay đã thành sự thật, một sự thật đẹp hơn nàng tưởng tượng nhiều. Vì sau đó nàng lại nhiều lần được nghe Lộc hay Thúy nói về Sơn và cứ sau mỗi lần như vậy, nàng có cảm tình với Sơn hơn trước. Nay được gặp Sơn, nàng sung sướng và đau xót mà thấy rằng tâm hồn Sơn có những điểm phù hợp với tâm hồn nàng. Nàng quay ra giận Lộc sao trước kia không nói kỹ về Sơn hơn nữa cho nàng biết, nhưng nàng kịp thời thấy mình vô lý vì Lộc làm sao mà nói hết được. Nàng trở sang trách Sơn sao lại chỉ quen với Lộc mà không quen với Phượng, với Tuyết chẳng hạn là những bạn thân của nàng, những người tế nhị như nàng và hiểu rõ tâm hồn nàng như chính nàng vậy. Nhưng rồi nàng cũng lại thấy là mình vô lý.
Đồng hồ nhà ai thong thả gõ hai tiếng. Nàng nghĩ đến ngày mai giã từ Nha Trang, giã từ vĩnh viễn cái bóng dáng Hạnh Phúc mà nàng tưởng như vừa hình dung được. Nàng đưa mắt nhìn lần vải mùng, nhìn lên tường. Tường nhà Sơn không mang một bức tranh ảnh nhỏ nào cả mà chỉ toàn một màu xanh nhạt. Phòng ngủ chỉ để một ít bàn ghế giường tủ cần thiết. Ánh sáng và khoảng rộng chiếm nhiều chỗ hơn. Nàng nhớ đến nhà mình bề bộn vì những đồ trưng bày hơn là cần dùng. Nàng nghĩ lại: mình thích lối sống này hơn.
Quả thật nàng thấy Sơn say sưa yêu đời mà vẫn có dáng đạm bạc với đời. Đó là một sự mâu thuẫn kỳ thú. Sơn có những ý kiến của chàng, không như Khiêm thường chỉ nhắc lại những điều vừa đọc trên báo, vừa nghe ở đài phát thanh hay vừa nghe của ai. Khiêm bàn về mọi vấn đề và về vấn đề nào cũng đưa những ý hời hợt nhất, sáo nhất. Khiêm luôn luôn... Những ý nghĩ về Khiêm làm tâm hồn Trúc Đào u tối lại khiến nàng nhắm mắt và ngủ lúc nào không biết nữa, bỏ dở dang những ý nghĩ không có đoạn kết.
Sáng hôm sau, đoàn công chức về Đà Lạt. Vali, giỏ, xách trên tay Lộc, Thúy, Oanh, Trúc Đào đứng thành hàng trước mặt Sơn. Sơn không để đợi khách nói, chàng nói trước.
- Xin cám ơn anh chị và hai cô đã đến làm vui cái không khí của nhà tôi. Tôi rất tiếc là không đủ phương tiện để làm cho những ngày các bạn lưu trú được êm đềm hơn.
Lộc ấp úng:
- Tôi sắp cám ơn anh thì anh chận đầu mất rồi. Chúng tôi mới phải cám ơn anh và xin lỗi đã quấy rầy anh mấy hôm nay.
- Quấy rầy?... Ừ, cũng có quấy rầy đôi chút đó, nhưng tôi thích vì các bạn đã xáo trộn cuộc đời của tôi cho thêm vui một tí.
Lúc tiễn mọi người lên xe. Sơn nhận cái chào của từng người. Đến lượt Trúc Đào, chàng nói:
- Riêng trúc đào của cô, cô sẽ có.
Trúc Đào mỉm cười:
- Lễ Nô-en em xuống.
- Tôi đợi.
Chàng êm đềm nhìn nàng giây lâu. Những câu muốn nói mà không tiện nói ra chàng gửi vào cái nhìn âu yếm ấy. Trúc Đào cũng nhìn chàng mà không chớp mắt. Nàng nghĩ gì mà không chớp mắt thế kia? Đến những kỷ niệm dưới gốc bụi trúc đào, ở bên cạnh vũng nước hay đến buổi chiều bóng lỗi hẹn đêm qua?
Xe rồ máy. Sơn vẫy tay âu yếm nhìn theo cho đến khi xe mất hút ở cuối đường Bạch Đằng.
Những ngày ở Đà Lạt không khiến Trúc Đào ít nghĩ về Sơn nhất là những khi nàng va chạm với Khiêm. Từ ngày gặp Sơn, nàng mới thấy rõ sự tầm thường của Khiêm, sự tầm thường mà trước đây nàng tưởng là trạng thái bình thường của con người thời đại. Thậm chí đã có nhiều lúc nàng đâm ra nghi ngờ tự hỏi: hay chính mình mới là người bất thường? Nàng nhớ lại những trang nhật ký của Sơn mà nàng đã đọc. Không phải chỉ đoạn cô gái Trung Hoa nàng đưa ra hỏi Sơn hôm trước đâu mà nàng đã đọc nhiều hơn thế nữa. Chính có đọc nàng mới thấy Sơn có một đời sống nội tâm giống nàng, mới thấy rằng nàng không phải là một người bất thường. Thật ra, những sự va chạm với Khiêm không có gì quan trọng. Đó chỉ là những sự bực bội lặp lại khi nàng phải nghe những ý kiến phi cá tính của Khiêm, những ý kiến phát biểu về một kiểu ô tô, về một màu sơn cửa, về một vấn đề thời sự trên báo. Mỗi lần bực bội như vậy nàng thường đến nhà Lộc Thúy để quên đi và nơi đây ba người lại mê mải nói chuyện về Nha Trang, về Sơn. Ba người đều mâu thuẫn như nhau: họ vẫn ngầm công nhận cuộc hôn nhân giữa Trúc Đào và Khiêm mà vẫn tìm mọi dịp để khám phá một cách thích thú rằng giữa Trúc Đào với Sơn có những sự hòa hợp.
Ngày tháng trôi qua. Xấp lịch treo tường đã thấy mỏng lần, mỏng lần. Rặng anh đào chạy dọc theo con đường Yersin đã thấy lấm tấm ra nụ. Gió lạnh thổi từng cơn vi vút, reo giữa cành lá thông cao. Tháng chạp rồi. Lễ Nô-en đã được báo trước bằng những bộ quần áo nỉ màu sẫm với những chiếc khăn len che mũi, bằng những kiểu măng tô, bằng những chiếc áo nhung mềm mại uyển chuyển. Trúc Đào vui vẻ nghĩ đến ngày lễ Nô-en, nghĩ đến lời hứa xuống Nha Trang. Xuống Nha Trang, nàng sẽ đem theo món quà gì? Hoa thì nhất định phải có rồi vì đó là thổ sản của Đà lạt. Nàng sẽ chọn một bó lai ơn màu tím đậm, màu tím phù hợp với nỗi cô đơn của Sơn. Nhưng chỉ có hoa không thì ít quá. Hoa dẫu đẹp nhưng mau tàn, phải có thêm món quà gì bền chắc hơn. Đang khi băn khoăn không biết chọn món quà nào thì Khiêm lại. Sau vài câu chuyện nắng mưa, chuyện cách mạng Đại Hàn, chuyện chiến tranh Congo mà Trúc Đào lơ đãng đối đáp. Khiêm đổi giọng nghiêm trang hơn:
- Thằng Minh vừa đổi cái xe cũ, bù tám mươi ngàn đồng bạc lấy được chiếc Consul đời NBJ nên cứ vênh cái mặt lái chạy khắp phố.
Trúc Đào thật thà:
- Cái Consul kiểu đẹp đấy chứ.
- Kiểu thì cũng trông được đấy nhưng màu xanh quê chết.
- Đó là sở thích của mỗi người.
- Sở thích gì? Nó là một thằng nhà quê. Nhìn con vợ nó không thấy sao?
Tính Trúc Đào không thích tranh biện nhưng nàng thấy thèn thẹn coi như mình thiếu thành thực nếu không bào chữa cho Minh, coi như mình đồng lõa với Khiêm nếu nàng im lặng.
- Chị Minh bản chất thực thà nên không diêm dúa lòe loẹt đó thôi, chứ em tưởng uốn tóc, vẽ mi mắt và mặc áo ni lông thì đâu có khó. Em có quen chị ấy nên em biết rõ. Chị tốt lắm.
- Anh thì chúa ghét thằng Minh. Nó bắng nhắng...
Trúc Đào khó chịu ngắt lời:
- Sao anh nuôi chi những ý nghĩ xấu về người khác vậy? Nghĩ tốt về người ta, lỡ có lầm cũng không sao vì không hại cho ai hết. Chứ nghĩ xấu cho họ thì khi biết mình lầm, hối lại không kịp.
Hai người im lặng. Không khí có hơi ngột ngạt. Đã nhiều lần như vậy, Trúc Đào cãi với Khiêm mỗi khi thấy Khiêm đả kích người vắng mặt. Khiêm không dung cho một người nào có ưu điểm. Những lúc đầu nàng thấy vô hại vì sự đả kích mượn hình thức châm biếm nhẹ nhàng, nhưng lần lần nàng thấy Khiêm đi sâu vào sự nhỏ nhen, ưa tìm tì vết của người ta.
Khiêm lặng lẽ đưa tay ngắt một đóa thược dược ở lọ hoa đặt trước mặt. Trúc Đào nghĩ rằng chàng ngượng nên có hơi hối hận. Chợt Khiêm bảo:
- Nô-en năm nay anh tổ chức tiệc nửa đêm có khiêu vũ.
Thấy Trúc Đào không reo mừng như chàng dự tưởng, Khiêm hỏi:
- Nào, em có thích không? Năm ngoái lũ thằng Như thằng Duệ ở sở Địa dư, thằng Cang ở Thuế vụ tổ chức những tiệc nửa đêm có khiêu vũ. Chúng nó tổ chức xoàng thôi mà cũng được lũ bạn khen ầm lên...
"Lại chê bai người ta!" Trúc Đào nghĩ. Cổ họng nàng như nghẽn lại do hơi ở đâu đưa ứ tắc. Thế ra mình vừa hối hận lầm. Nàng giận không muốn nghe Khiêm nói nữa thế mà bên tai nàng, tiếng của Khiêm vẫn hào hứng nói tiếp:
- Năm nay anh tổ chức phải hơn tụi nó. Anh nhờ có em làm linh hồn cho đêm khiêu vũ. Em phải trang điểm cho thật đẹp, tiếp đãi cho thật bặt thiệp...
Trúc Đào ngắt lời:
- Em chịu thôi. Em nhảy dở lắm.
- Đó là cái lỗi của em. Em muốn lạc hậu...
Bị chạm tự ái bất ngờ, mắt nàng sáng lên:
- Vả lại Nô-en này em không ở Đà Lạt.
- Chứ em đi đâu? - Khiêm trố mắt ngạc nhiên hỏi.
- Em đi...
- Đi đâu?
- Đi Nha Trang.
- Đi Nha Trang... Sao em không hỏi anh trước? Em xuống Nha Trang để làm gì?
Nghe giọng Khiêm hỏi gặng, Trúc Đào đứng dậy:
- Em có quyền không trả lờøi.
Khiêm giơ tay ra hiệu giữ lại:
- Em phải trả lời.
- Anh lầm! Anh không có quyền gì bắt em phải trả lời hết.
- Có! Anh có quyền! Anh là hôn phu của em.
- Pháp luật không qui định điều đó.
Mặt Khiêm đỏ lên:
- Anh không cần biết đến pháp luật. Anh chỉ cần biết rằng em phải theo lời anh.
- Em không nghe.
Nàng vừa nói vừa bước nhanh ra khỏi phòng khách chạy lên phòng mình rồi đóng sầm cửa lại. Nàng ngồi xuống giường lưng tựa vào tường, mím môi giận và tim đập hồi hộp. Qua cửa sổ, nàng nghe tiếng giày của Khiêm bước vội trên sỏi, tiếp đến tiếng cửa xe đóng sập mạnh và tiếng xe rồ máy chạy vút. Cơn tức vồ lấy nàng. Khiêm bỏ ra đi không lên xin lỗi nàng thế nghĩa là Khiêm tự cho mình có lý. Khiêm chiều nàng nhưng vẫn muốn coi nàng như một người nô lệ. Có lẽ vì Khiêm giao thiệp với nhiều đàn bà, được nhiều đàn bà chiều đãi nên Khiêm quen tính đi. Đã khỏe thế..., nàng sẽ không phải đợi đến ngày Nô-en mới đi Nha Trang, nàng sẽ đi ngay bây giờ để cho Khiêm biết rằng chàng không quyền gì bắt buộc nàng hết. Hôm nay mới mười sáu tháng chạp nhưng có cần gì. Xuống sớm, xuống bất ngờ sẽ làm cho Sơn ngạc nhiên, sung sướng. Bây giờ đã năm giờ chiều rồi, đi chuyến xe lửa năm giờ mười lăm xuống Nha Trang thì không kịp nữa, xe đò sợ cũng hết chuyến, nhưng ý đã quyết, nàng sẽ tự lái lấy chiếc Simca nhỏ của ba nàng. Ba má nàng đi Sài Gòn hai hôm nay, đi bằng xe lửa và sẽ ở dưới đó một tuần. Lái chiếc Simca, chậm nhất là tám giờ tối nay nàng sẽ tới Nha Trang.
Trúc Đào đứng dậy gỡ tóc, bôi sáp môi, thay áo. Phải quyết định ngay. Nàng biết rằng nếu để óc mình thanh thản suy nghĩ, tính tới tính lui thì thế nào cuối cùng nàng cũng nằm vật mình xuống giường bấm cái nút ra-đi-ô để tìm một tiếng nói, một giọng nhạc, trốn tránh cái cô đơn và xua đuổi sự băn khoăn. Ra-đi-ô là cái máy dung dưỡng sự do dự. Nàng mở tủ xếp đặt hành lý một cách vội vã. Một ít quần áo bỏ vào chiếc va-li con. Một ít tiền bỏ vào xắc. Nàng khóa cửa phòng, ra gọi chị vú:
- Vú bảo bác tài đánh xe ra để trước cổng cho tôi. Vú coi nhà nhé? Tôi đi Nha Trang liền bây giờ. Chiều mai về. Vú nhớ coi chừng cửa nẻo.
Vú "Vâng vâng dạ dạ" rồi chạy đi. Tiếng xe từ ga-ra chạy ra, nghiến sỏi sào sạo rồi đậu lại trước cổng. Nàng xách va-li đi vội ra theo. Bác tài bước ra nhường tay lái cho nàng.
- Cô có cần em theo lái?
- Cám ơn chú. Tôi lái một mình được.

Nàng vô số, đạp ga và mũi xe chồm lên nuốt vội con đường. Qua cầu ông Đạo mặc dù cố ôm cua nhưng xe vẫn chạy lết ra đến giữa đường khiến một chiếc xe ngựa chạy ngược chiều vùng lên, hốt hoảng. Những người ngồi trong xe chồm ra la oai oái. Trí óc không bình tĩnh, bàn tay đặt lên tay lái nàng thấy ngón run run. Nàng cho xe chạy chậm lại. Tuy vậy mỗi lần qua một đoạn đường cong là nàng lại thấy mình xao xuyến. Nàng hối hận sao lúc nãy không để cho bác tài theo lái. Nàng lái non, lại bỏ lâu không cầm đến tay lái nên lúng túng vụng về. Đã vậy, tâm hồn lại xáo trộn nên ngay cả ở những đoạn đường thẳng, xe nàng cũng vụt nhiên chạy trờ ra, phải vội vã lái nép vào. Những chiếc xe vận tải lù lù đến, sừng sững như muốn đè bẹp lấy thân chiếc Simca nhỏ. Xuống Trại Mát, nàng tránh một chiếc GMC nhà binh một cách tài tình, gần như là do một phép lạ. Người tài xế nhà binh tưởng đâu nàng đâm sầm vào xe anh ta và anh ta sắp nhắm mắt để khỏi nhìn một tai nạn. Mỗi khi thoát khỏi cơn nguy hiểm là nàng cố xếp đặt cho trí óc có thứ tự trở lại, nhưng rốt cuộc những ý nghĩ về Sơn, về Khiêm, những cảm giác tức giận mến thương lại dày vò lấy nàng.
Đến gần Cầu Đất, một chiếc xe du lịch chạy ngược chiều phóng nhanh tới. Xe chạy nghênh ngang giữa đường. Nàng đã cho xe mình chạy bám sát lề nhưng mũi xe trước mặt cứ lao vụt tới như muốn đâm sầm vào nàng. Nàng run tay. Chợt xe kia kề sát lại xe nàng, tiếng phanh rú to lên rùng rợn khiến nàng vội bẻ ngoặt tay lái sang bên mặt. Mũi xe nhủi xuống, bánh lọt xuống rãnh tháo nước ở lề đường. Nàng vội thắng xe lại nhưng bánh sau lọt xuống luôn, xe nghiêng một bên. Trống ngực đập liên thinh và đầu nàng choáng váng cơ hồ muốn ngất đi. Chiếc xe du lịch cũng đậu lại cách nàng mười thước. Trên xe bước xuống một người Âu cao lớn. Người ấy đi lại gần nàng hỏi bằng tiếng Pháp:
- Xin lỗi cô, có sao không?
Giọng lơ lớ với những chữ R rung nhiều. Nhìn mái tóc và lông tay vàng hoe, nghe giọng nói, Trúc Đào đoán chắc là người Mỹ. Nàng trả lời:
- Cám ơn ông. Tôi chỉ... như thế này.
- Rãnh này sâu không thể cho xe chạy lui lên được. Phải cần xe trục. Vậy... À, xin lỗi, cô đi...
- Nha Trang.
- Cần gấp lắm?
Trúc Đào hơi nhún vai:
- Không lắm.
- Vậy cô định thế nào?
Trúc Đào lắc đầu:
- Tôi chưa biết nên định thế nào cả
Người Âu nhíu mày suy nghĩ một phút rồi nói:
- Tôi đề nghị như thế này: Cô trở lại Đà Lạt và ghé ga-ra thuê xe xuống trục đem về. Như thế có lẽ tiện nhất.
- Có lẽ... - nàng gật đầu. Ông về Đà Lạt?
- Vâng. Và nếu không có gì phiền thì xin mời cô lên xe tôi.
- Cám ơn ông.
Trúc Đào với ra sau lấy vali rồi mở cửa xe bước ra. Nàng khóa máy, quay kín kính chắn gió và khóa luôn cửa xe. Người Âu đưa nàng lại xe của mình và mở cửa. Nàng bước lên. Khi xe mở máy chạy, nàng quay sang hỏi:
- Chắc ông là người Mỹ?
- Vâng, thưa cô.
- Ông vừa ở Phan Rang lên?
- Không. Tôi ở Nha Trang tới.
"Nha Trang, lại Nha Trang". Trúc Đào thầm nghĩ. Dự tính tám giờ tối nay có mặt ở Nha Trang thế là hỏng. Tiếng máy xe chạy êm êm, tay lái đưa nhẹ nhàng và mũi xe uốn vòng theo các đường cong một cách dịu dàng. Gió mát thổi vùn vụt vào khe cửa kính và phong cảnh hai bên đường lùi nhanh lại ra đằng sau. Chạy qua những chỗ vòng, xe nhún mình như vừa lướt qua một lượn sóng. Sự thoải mái của nàng giờ này thật khác xa với trạng thái hồi hộp của mười lăm phút trước. Nàng để cho óc êm êm nghĩ đến Sơn lúc này đang làm gì. Nàng tưởng tượng vẻ mặt ngạc nhiên của Sơn nếu thấy nàng xuống. Nàng định lấy cớ xuống trông chừng mấy bụi trúc đào chàng cắt giâm, có thể lấy cớ là nhân xuống Phan Rang có tí việc, sẵn ghé lại thăm. Cớ thì có rất nhiều cớ nhưng mục đích để làm gì thì thật là nàng chưa tìm ra mục đích. Để làm gì? Nàng đã yêu Sơn chưa? Sơn có yêu nàng không? Nếu có yêu, yêu rồi thì liệu tình yêu ấy sẽ đưa đến đâu? Nàng có quyết ý từ hôn Khiêm không? Nàng thấy mình lờ mờ không trả lời dứt khoát một câu hỏi nào cả. Cũng may mà xe mình đi không tới chốn, nàng nghĩ. Nếu xuống Nha Trang mà cứ lưỡng lự như thế này!
Những biệt thự đầu tiên đã rủ nhau lần lượt vút ra sau xe. Mặt hồ loang loáng màu trắng thiếc. Người Mỹ hỏi:
- Tôi phải đưa cô đến địa chỉ nào?
- Tôi ở mười bốn Yagut, thưa ông.
- Yagut?
- Ông cứ lái xe đến chợ Đà Lạt rồi tôi sẽ chỉ chừng.
Thế là lễ Nô-en âm thầm trôi qua. Trúc Đào không dự tiệc khiêu vũ ở nhà Khiêm, cũng không xuống Nha Trang nữa. Nghĩ rằng Sơn đợi mình, nàng viết một bức thư lấy cớ bị cảm nên không xuống được hôm Nô-en và xin hẹn sẽ xuống một dịp gần đây. Thư chưa gửi đi thì một hôm Thúy ghé lại tìm nàng. Thúy mang lại cho nàng một tin bất ngờ.
- Anh Khiêm hình như nghi chị...
- Nghi gì?
- Nghi chị có cảm tình với anh Sơn.
Trúc Đào mở to mắt, ngạc nhiên:
- Vô lý. Ai bảo chị vậy?
- Hai ba hôm gì đó sau đêm Nô-en, anh có đến nhà chúng em chơi. Anh nói xa xa nhưng chúng em mau hiểu chúng em đoán biết.
Tia Nắng Rớt - Phần III
Tiễn Thúy về rồi, Trúc Đào vào giường nằm suy nghĩ. Nàng thấy khó chịu khi mối tình thầm kín của mình đối với Sơn bị Khiêm mang máng dò biết. Nàng không cần Khiêm, không sợ Khiêm mà chỉ bực tức vì những mối cảm xúc êm đềm mong manh giữa nàng và Sơn thế nào cũng bị Khiêm hiểu một cách thô bỉ. Aùi tình chỉ đẹp cho hai người. Nó không đẹp đối với người thứ ba. Nhưng thà là giữa nàng và Sơn đã có ái tình, đằng này chỉ là những cảm tình sơ khởi mà thôi. Dù vậy nàng vẫn có cái cảm giác trơ trẽn giống như mình đang ở trong một phòng khiêu vũ ánh sáng mờ ảo, âm nhạc dịu dàng, với màu áo màu phấn, với ánh mắt long lanh, tất cả đượm trong mùi hương ngây ngất, thế mà bỗng nhiên ánh đèn màu vụt đổi sang ánh sáng trắng sỗ sàng và thay vào giọng nhạc êm là tiếng tính tiền nong, kiểm soát sổ sách. Khiêm đã phá một giấc mộng của nàng. Đừng ai biết hết, nàng có cái thú của con người phiêu lưu, không cố ý đi tìm Bồng đảo mà bất ngờ gặp được. Nay có con mắt tò mò theo dõi, nàng thấy không đủ thích thú nữa. Nàng còn có cái cảm giác ngượng của con người bị bắt gặp đang làm một việc lén lút.
Bực mình, Trúc Đào đập mạnh tay xuống giường. Thành giường va vào chiếc nhẫn nàng đeo ở ngón tay kề, chiếc nhẫn hứa hôn. Nàng chợt nhớ tới hồi ở đại học xá, các chị em bạn sinh viên của nàng có thói quen nhìn vào ngón tay của các bạn để tìm xem ai đã hứa hôn rồi. Được hứa hôn là một hãnh diện. Đó là chứng tích của sắc đẹp, của gia thế. Những bàn tay trần truồng không có một vòng khâu vàng bao quanh ngón kề hóa ra thanh bạch một cách cô đơn đáng lo sợ. Người nữ sinh viên cũng phải nghĩ đến việc lấy chồng. Do cái tâm trạng đó mà khi Khiêm nhờ người đến hỏi, Trúc Đào bằng lòng ngay. Lúc bấy giờ nàng chỉ đơn giản nghĩ đến cái thú luồn chiếc nhẫn hứa hôn vào ngón tay mình, chiếc nhẫn nhỏ như một đường kẻ đậm, màu vàng lóng lánh làm nổi bật màu ngón tay trắng muốt. Nàng nghĩ đến những cuộc đi dạo phố, nghiêm trang tin tưởng bên cạnh người đàn ông của mình, đến chiếc xe hơi của hai người mỹ miều như một món trang sức, đến căn phòng sẽ do nàng tự tay bày biện trang hoàng lấy. Nhưng những mộng tưởng đẹp đẽ êm đềm một lần nghĩ thấy thú, nhiều lần nghĩ hóa quen đi, việc hôn nhân với Khiêm cuối cùng được coi như là một việc nhất định sẽ đến, không vui lắm, không gây nhiều hào hứng. Vì một khi cái xao xuyến huyền ảo của những buổi đầu đã lắng xuống, nàng bắt đầu nhận thấy những nhược điểm nơi Khiêm. Sự khác biệt về cá tính, về quan niệm sống, quan niệm đạo đức khiến hai người cứ như đi xa nhau dần và Trúc Đào đã bắt đầu cô đơn âm thầm. Tuy vậy, phải đến lúc gặp Sơn, hiểu Sơn nàng mới thấy rõ rằng Khiêm không phải là người đàn ông phù hợp với lòng nàng. Nhưng đã chậm. Chiếc nhẫn đã đeo trong vòng tay. Chiếc nhẫn hạnh phúc của ngày nào, hôm nay trở thành cái vòng khóa cột nàng trong tù hãm của hôn nhân. Thật vô lý. Nàng biết có những người tự khóa mình trong một khuôn khổ và sung sướng với sự trói buộc ấy. Có những người đàn ông động mở miệng là than thở "Mắc vợ con cùm chân, đâu còn chơi bời tự do nữa!" Nhưng lời than lại ngầm biểu lộ một sự bằng lòng. Than như vậy, họ tỏ ra rằng mình an phận nghĩa là có hạnh phúc và bảo đảm về đạo đức. Nhiều chị bạn mới có một đứa con nhỏ cũng than lên một cách hãnh diện "Phần chồng, phần con. Thôi, mình già rồi, chả dám bì với các cô". Thật là những người dễ bằng lòng, dễ sung sướng! Không, nàng không dễ dãi như thế được. Nhưng... Không dễ dãi thì được gì? Không dễ dãi thì chỉ còn cách tự mình làm khổ cho mình thôi, vì nàng đâu có thể dễ gặp Sơn được? Để cho Khiêm nghĩ rằng mình bị Sơn mê hoặc, bị Sơn quyến rũ, điều đó động chạm đến tự ái của nàng. Mà Khiêm thì chỉ có thể nghĩ tầm thường như vậy mà thôi. Nàng khinh Khiêm thì được nhưng nhất định nàng không để cho Khiêm có thể khinh mình.
Trúc Đào uể oải ngồi dậy lại bàn viết. Bức thư gởi cho Sơn đặt đứng tựa vào lưng quyển tự điển. Địa chị đã viết rồi, tem đã dán đủ, chỉ có nàng chưa dán phong bì. Nàng vốn tính thận trọng, chỉ khi nào sắp đem đi bỏ thư mới dán phong bì, phòng có ý nào cần sửa cần thêm. Nàng rút bức thư viết gửi cho Sơn, mở ra trải lên bàn đọc lại. Từng dòng chữ chạy nhanh dưới mắt và trong sự im lặng cô đơn, nàng tưởng chừng như đồng thời nghe luôn tiếng nói, giọng quen thuộc âu yếm, giọng hứa hẹn kín đáo, giọng của chính nàng nói với Sơn, chỉ còn nói một lần này nữa thôi. Đọc xong, nàng thẫn thờ xé vụn tờ giấy ra từng mảnh nhỏ. Dù cố giữ vẻ mặt lãnh đạm nàng cũng thấy buồn khi nghe tiếng giấy xé nát dưới ngón tay, khi nhìn những lời âu yếm của nàng đứt đoạn, nát vụn không bao giờ Sơn còn nghe được nữa.
Nàng lại nằm vật xuống giường, úp mặt vào gối. Nàng muốn khóc, khóc thật nhiều, thật ngon lành, nhưng dù cố gắng, nước mắt cũng chỉ chảy ươn ướt nơi khóe mắt, nàng biết chỉ có nước mắt mới có thể an ủi nàng vào nàng vào những lúc này thôi.
Nỗi lòng của nàng, chỉ có nàng biết. Ở Nha Trang, Sơn cứ êm đềm nghĩ đến ngày Nô-en và lòng chàng vui vẻ tưng bừng khi chỉ còn một tờ lịch mỏng màu hồng ngăn cách chàng với ngày hai mươi lăm tháng chạp. Bốn bụi trúc đào chàng tự tay cắt cành giâm ở bên thềm giếng nay đã đơm lá xanh. Sơn tưởng tượng vẻ mặt vui mừng của Trúc Đào khi nàng thấy bốn bụi hoa dành cho phần nàng. Người thiếu nữ này có duyên kín đáo khiến cho mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của nàng đều gây cảm tình nơi lòng người đối diện.
Lễ Nô-en trang trọng đến, mang theo gió lạnh, mưa lất phất bay và bầu trời xám. Cả thành phố nhộn nhịp vì đèn lồng, vì đồ chơi trẻ con và hoa quả. Sơn chung chia niềm vui của mọi người. Khi có mang hình ảnh một người đàn bà ở trong tâm hồn, con người ta yêu đời không mặc cả.
Nhưng Nô-en đến và Nô-en đi, Trúc Đào không thấy đến. Sơn đợi một bức thư giải thích mà người đưa thư cứ lặng lẽ đạp xe qua cổng không dừng lại. Một tuần qua... một tháng qua... trong những bức thư đến địa chỉ mình, Sơn chán nản gặp những nét bút quen thuộc, tịnh không thấy nét chữ lạ nào cả. Vốn có kinh nghiệm, đợi chờ và thất vọng, chàng lặng im chịu đựng. Lại một con chim đã bay.
Sau đó không biết bao lâu, một hôm nhân viết thư thăm Lộc, chàng hỏi thăm tin tức của Trúc Đào. Sau đây là đoạn thư trả lời của Lộc.
"...Về Đà Lạt được bốn năm tháng gì đó thì anh Khiêm được chính phủ cho đi Pháp tu nghiệp hai năm. Chị Trúc Đào cùng đi với anh ấy. Mấy độ gần đây bọn em cũng không được tin tức gì của chị hết. Em có chuyển lời chào của anh cho chị Oanh. Chị vui vẻ nhắc đến anh và hẹn sẽ thăm lại Nha Trang..."
Sơn bỏ thư xuống bàn không đọc tiếp. Chàng đưa mắt nhìn lên khung trời xanh rồi chầm chậm gợi ra vẻ mặt của Trúc Đào: đôi má thon thon... đôi mắt dịu.. đôi môi tươi và giọng nói ngập ngừng. Khi tâm hồn đã chìm đắm vào hình bóng cũ thì chàng ngồi đó mà quên cả không gian, quên cả thời gian.
Chừng một năm sau, một buổi chiều kia Sơn tiếp một thiếu nữ trạc hăm lăm tuổi, vẻ mặt đẹp đẽ thanh tú và ăn mặc sang trọng. Người ấy dò số nhà một cách kỹ lưỡng rồi mới bấm chuông. Người ở đi vắng, Sơn ra mở cổng. Người thiếu nữ cúi chào rồi lễ phép hỏi:
- Xin lỗi ông, có phải đây là nhà ông Sơn?
- Vâng, đúng là nhà ông Sơn.
- Thưa ông, không biết ông Sơn có ở nhà không?
- Thưa cô, Sơn là tôi.
Người thiếu nữ lúng túng xin lỗi và theo lời mời của Sơn nàng bước vào nhà. Khi đã ngồi yên ở ghế, nàng nói:
- Thưa ông, tôi đến theo lời nhờ của chị Trúc Đào.
Tên Trúc Đào làm Sơn ngạc nhiên đưa mắt nhìn thẳng vào mặt người thiếu nữ.
- Tôi là bạn thân của Trúc Đào. Tôi ở Pháp vừa mới về được một tuần nay, Trúc Đào có nhờ tôi ghé lại ông trao tặng hộ cho chị ấy bộ sách Stendhal toàn tập loại ấn phẩm đặc biệt.
Nàng đưa gói sách nàng cầm trên tay từ nãy đến giờ mà Sơn không để ý đến. Chàng đưa tay ra đón và tháo lần tờ giấy bọc. Ba quyển bìa sách dày khổ lớn bìa da màu nâu đen. Chàng lật bìa sách để tìm nét bút của Trúc Đào. Nàng ghi:
"Xin nhận tia nắng nhạt này ở phương xa gửi về. Tia nắng Ngọc Hội, nhớ mãi"
Trúc Đào.
Nét chữ run run, Sơn nhìn mãi nét chữ, âu yếm như đang nhìn nét mặt Trúc Đào. Trên tờ giấy trắng của trang sách mở lần lần hiện ra khung cảnh xinh tươi của làng Ngọc Hội. Trên đọt dừa cao, tia nắng vàng còn rớt lại. Tiếng nói dịu dàng của Trúc Đào: "Ông xem, tia nắng..." chàng ngước mắt nhìn lên, gặp đôi mắt của người thiếu nữ đang đăm đăm nhìn mình. Nàng nói:
- Trúc Đào có kể cho tôi nghe cuộc du ngoạn ở Ngọc Hội, buổi đi xi-nê đã hẹn với ông mà chị ấy lỡ hẹn, ngày Nô-en mà chị hứa sẽ xuống Nha Trang để bứng về mấy bụi trúc đào.
Nàng im lặng đợi Sơn phát biểu ý kiến nhưng Sơn không nói. Chàng chỉ muốn nghe, muốn người thiếu nữ nói mãi, nói rõ nỗi lòng của Trúc Đào.
- Chị có bảo tôi, chắc hôm Nô-en đến, ông giận chị lắm. Chắc trong Nhật ký của ông, ông ghi không biết bao nhiêu lần rằng Dominique thất hứa, Dominique đáng ghét...
Sơn mỉm cười, không ngờ cái kỷ niệm nhỏ nhoi về câu chuyện chép nhật ký, Trúc Đào vẫn nhớ kỹ như vậy.
- Chị ấy cũng muốn biết ông đã lấy vợ chưa.
Sơn đưa mắt sang người thiếu nữ và chìa tay chỉ một vòng xung quanh mình. Người thiếu nữ mỉm cười:
- Chị ấy cũng đoán đúng như vậy. Chị nói: chắc ông chưa lấy vợ.
Khi người thiếu nữ dừng lại, Sơn không biết mình nên nói gì. Hỏi kỹ lưỡng về sinh hoạt của Trúc Đào thì chàng sợ phải nghe những chi tiết về Khiêm. Cuộc đời của Trúc Đào hiện giờ đã ghép chung vào cuộc đời của Khiêm rồi. Vui buồn khó lòng mà riêng biệt được. Thế mà chàng, chàng chỉ muốn biết riêng về Trúc Đào thôi. Và đặc biệt mong được biết là những cảm tình Trúc Đào dành cho mình ngày trước và bây giờ.
- Trúc Đào chắc sống trong hạnh phúc?
- Vâng. Về đời sống vật chất thì đúng như vậy. Nhưng về tình cảm thì chị có những nỗi buồn. Nhưng mà... quên, tôi lỡ nói với ông mất rồi. Khi tôi về chị ấy dặn tôi gắng giữ đừng để ông biết nhiều về chị ấy, nhất là về những sự không vui của chị.
Sơn đưa mắt nhìn ra xa. Chàng nghe nhói một cái như có ngón tay nào chạm vào tim mình. Người thiếu nữ kín đáo nhìn xuống đồng hồ rồi đứng dậy:
- Bây giờ tôi xin phép cáo từ ông.
Sơn cũng đứng dậy.
- Chừng nào cô về Đà Lạt.
- Sáng mai.
- Khi nào cô viết thư sang cho Trúc Đào xin nói dùm rằng tôi vui vẻ nhận món quà của Trúc Đào tặng. Cũng như Trúc Đào, tôi nhớ mãi những kỷ niệm...
Chàng để lửng lơ câu nói vì không muốn tiếp bằng chữ "êm đềm" quá sáo, bằng chữ "ở Ngọc Hội" quá tầm thường và có vẻ lợi dụng.
Còn lại một mình, chàng chầm chậm đi theo con đường nhỏ vòng quanh ra bờ giếng. Mắt chàng êm đềm dừng lại ở những chòm lá xanh. Đây, cây chùm ruột đứng ở bên song cửa, kể từ ngày chia tay cùng Trúc Đào, đã bao nhiêu lần thay lá và bốn bụi trúc đào giâm cho nàng hôm nay đã cao quá thềm giếng và lần lượt trổ hoa. Hoa trắng chen lẫn hoa hồng, lả lướt theo gió và đã ngập ngừng đưa hương theo gió. Sơn không buồn bứng ra trồng chỗ khác mà cứ để bốn bụi mọc quấn quít bên nhau. Chàng cũng muốn để mãi đó để kỷ niệm mấy tháng êm đềm chàng đã thiết tha mong đợi một người.
Niềm Tin Chưa Mất
Thằng con tôi ở trần và dang nắng cả ngày. Hỏi lý do vì sao, nó không chịu nói. Tôi phải ôn tồn giảng cho nó nghe rằng dang nắng lắm nhiều khi cũng nguy hiểm: có thể bị nhức đầu, bị cảm nắng sinh bệnh.

- Con đừng nên làm phiền Ba. Ba đi làm vắng cả ngày thế mà lỡ con bệnh thì ai săn sóc cho con? Những lần con đau con có nhớ rằng Ba phải thức suốt đêm bên giường con không?
Thấy tôi thật tình lo lắng, nó nói:
- Nhưng mà... lũ học trò cứ gọi con là heo luộc.
- "Heo luộc" là cái gì?
Tôi ngơ ngác hỏi.
- Tụi nó nói da con trắng như heo luộc.
Không thể nín được, tôi bật cười to một tràng dài. À ra con heo luộc phải dang nắng để thành con heo quay đây mà! Thời đại đổi thay, ngày xưa người ta yêu màu da trắng trẻo còn ngày nay người ta chuộng màu da rám nắng. Quả tình có nghe con tôi nói tôi mới để ý thấy rằng độ này da dẻ nó có rám đen đi phần nào. Ngày còn má nó, da nó trắng như con gái. Tôi nhớ đến những buổi trưa mười giờ, bãi biển đầy những cô gái nằm phơi nắng. Họ đội mũ lác rộng vành và đeo kính râm. Những chàng trai da nâu hãnh diện đi đi lại lại. Quan niệm đẹp có thay đổi nhiều thật nhưng tôi không ngờ nó lại ăn sâu cả vào lớp trẻ con mới mười tuổi. Hồi tôi còn nhỏ đi học thầy giáo yêu nhất những học trò mặt mũi trắng trẻo đã đành, cả đến chúng tôi cũng chỉ thích chơi với những đứa bạn mặt mày trắng trẻo. Những đứa đen đủi nhiều khi bị chế giễu một cách tàn nhẫn.
Tôi nhìn kỹ lại con tôi hơn. Nó chỉ đánh một cái quần đùi màu đỏ, - mãi đến bây giờ tôi mới tự hỏi tại sao chị ở lại cứ bắt nó mặc quần đùi đỏ, mua chi mà một lần đến ba, bốn cái quần đùi đỏ, - còn thì mình trần cả ngày. Tôi tưởng tượng đến một lúc nào mình nó sẽ đen như một con heo quay. Và tự nhiên tôi nghĩ đến một hình ảnh, không phải trong tương lai mà chính ngay trong quá khứ tôi đã sống. Tôi nhớ đến anh Tộc, người bạn học của tôi hồi còn lớp Tư. Lúc bấy giờ chúng tôi vào khoảng mười, mười một tuổi. Mình Tộc gầy đét, hai chân như hai cái que. Đã thế lại chuyên môn mặc quần đùi khiến chúng tôi mỗi lần gặp anh là phải để ý ngay đến cặp chân que tăm. Không biết anh ta khéo xếp thế nào mà cái quần đùi nào anh mặc cũng cũ, cũng sờn đít hoặc rách đít. Tôi chưa hề thấy anh mặc một cái quần đùi mới. Không mới mà có cũ, thế có lạ không? Anh không bao giờ mặc áo. Đi từ đầu làng đến cuối làng mà cũng để mình trần. Đánh bi đánh đáo cả ngày, hết bắt dế đến câu cá, lúc nào anh cũng phơi mình dưới nắng khiến da cứ tím sậm lại. Người lại gầy, xương sống chạy một hàng dài gồ lên, còn xương sườn thì đếm đủ mười hai đôi. Hai núm vú thâm dán sát vào da như đầu của hai chiếc đinh bảy phân ai đã đóng vào ngực. Ngực lép và bụng lép nhưng cái rún lại béo bở. Rún của ai cũng thõm vào, hoặc tròn như lỗ đáo, hoặc méo xệch như cái miệng cười mỉm, chỉ riêng rún của Tộc thì lồi ra một đoạn dài gần hai phân, trông như cái núm vung. Rờ tay vào thấy mềm mềm những thịt. Lúc bấy giờ ở xóm tôi có một gánh hát bội đến trình diễn thường xuyên, chúng tôi cứ đợi đến chín giờ khuya rạp thả giàn là ùa vào coi khỏi mất tiền. Rạp hát lấy tên rạp là Thạnh Xương. Thấy Tộc mình chỉ toàn những da và xương, một người bạn có nhiều sáng kiến bỗng đặt tên cho Tộc là thằng Thạnh Xương. Tộc không phản đối mà nhận cái biệt hiệu mới một cách vui vẻ. Do đó mỗi khi đùa nghịch chúng tôi có thể gọi tên Tộc hay tên Thạnh Xương cũng được.
- Ê Tộc, thách mày lặn một hơi cho qua bờ sông bên kia đó.
- Thạnh Xương, Thạnh Xương, leo lên cây bàng gỡ dùm con diều cho tao một tí mày.
Tộc không chịu thua một cuộc thách đố nào, không từ chối một sự nhờ vả nào. Kết quả của những cuộc mạo hiểm là mình Tộc mang đầy những vết sẹo. Anh em ai cũng mến Tộc vì Tộc chấp nhận mọi sự đùa nghịch của anh em. Tộc không bao giờ cáu vặt. Hoặc là thách đánh nhau hoặc là tha thứ không thèm chấp, thế thôi. Không thèm trả thù ngầm, không thèm nói láo.
Tộc ham chơi đáo đến nỗi có hôm mê mải ăn thua mà đứa nào giấu áo không biết. Đến lúc trống đánh, chạy đi tìm áo, hỏi ai cũng bảo không biết, lạy ai cũng không chịu chỉ giùm khiến Tộc òa ra khóc. Tộc sợ thầy lắm. Nhưng mà cái tật ở trần cởi áo vắt vai, Tộc vẫn không thể bỏ. Đến sân trường thì bỏ sách vở xuống cỏ, đặt áo đè lên trên rồi thì chơi mải chơi mê không còn biết trời đất gì nữa. Mãi đến khi trống đánh vào lớp mới lật đật bỏ trò chơi mà vội vã mặc áo vào. Có lần vừa cãi vã ăn thua vừa hẹn hò tái đấu, anh cài hột nút này sang khuy áo kia mà không biết. Khi sắp hàng vào lớp, ai nấy đã ngồi an vị rồi thì thầy Nghĩa, thầy giáo chúng tôi, đi soát qua lớp một lượt. Thầy chỉ tay sang Tộc, gọi:
- Tộc, lên bảng.
Tộc vụt đứng dậy, nhanh quá, như một cái gân bị giật. Có lẽ người anh chỉ có gân và xương nên sự phản ứng mới lẹ như thế. Anh thoăn thoắt bước lên bảng, vô tư như khi đi nhặt một hòn bi. Đứng cụng nhằm bảng đen mới dừng lại. Rồi im lặng, một ngón tay bôi lên bảng vẽ hình con cua con quạ gì đó. Thầy Nghĩa quát:
- Quay mặt trở lại!
Anh vâng lời quay mặt trở lại và cả lớp cười rộ lên vì hai cái vạt áo gài khuy so le. Anh ngơ ngác không biết vì sao các bạn cười mình, thầy hỏi:
- Hồi trưa mày làm gì?
Tộc trả lời ngay, không phải suy nghĩ:
- Dạ thưa thầy hồi trưa con ăn cơm xong thì mẹ con sai con gánh nước mắm qua nhà bà Chức Ba. Kỳ nước mắm trước bị thiếu nắng, dang không kỹ nên mới để nửa tháng mà đã trở, thúi quá...
Lũ học trò cười rộ lên, to hơn trước, thế mà Tộc vẫn điềm nhiên nói tiếp. Nhưng tiếng ồn ào lớn quá, chắc cả lớp không nghe được gì, duy chỉ có những đứa ngồi bàn đầu như tôi là nghe rõ tiếng Tộc chậm rãi tiếp:
-... Bà Chức Ba bắt đền nói mẹ con mà không đổi nước mắm khác cho bà ta thì bà ta...
Đến đây thầy Nghĩa đập mạnh thước gạch vào mặt bàn một tràng dài và cả người nói lẫn người cười đều im lặng, Thầy giận dữ nói:
- Ý tao muốn hỏi mày hồi trưa mày làm gì mà đi học mặc áo xốc xếch như vậy. Chớ mày gánh nước mắm cho bà Chức Ba hay bà Chức Tư gì thì tao đâu cần biết, nước mắm của mẹ mày thúi hay thơm cũng thây kệ mày.
Tộc cúi xuống nhìn vạt áo của mình và lặng lẽ cởi nút ra rồi gài lại, vẻ thản nhiên như không có việc gì xảy ra. Thầy nói:
- Thôi cho đi xuống.
Tộc "dạ" một tiếng, lủi thủi đi xuống nhưng khi đến dãy bàn thứ tư không quên nháy mắt sang một đứa bạn bên cạnh. Chúng tôi ai cũng biết thầy Nghĩa không có cảm tình với Tộc, nhưng Tộc, hình như anh lại không để ý đến điều đó. Tính thầy Nghĩa cẩn thận, ưa sắp đặt trang hoàng cho lớp đẹp đẽ. Những khẩu hiệu "Tiên học lễ hậu học văn, Trọng thầy mới được làm thầy, Chăm chỉ sạch sẽ...", được thầy cắt bằng giấy màu treo cân đối. Những hình vớ vẩn xanh đỏ lòe loẹt như hình Phúc Lộc Thọ, Sư tử hí cầu thầy cắt ở nhãn pháo hay nhãn hương, những tấm bưu thiếp hình chợ hình phố, thậm chí có những ảnh ả xẩm thầy cũng lồng giấy bóng treo khắp tường, chi chít, rộn ràng bên cạnh những tấm địa đồ, bản đồ nghiêm trang, đứng đắn. Thầy coi chừng tóc tai và quần áo của học sinh luôn. Không phải với mục đích bảo vệ sức khỏe, chắc thế, mà chỉ vì sợ đốc học hay thanh tra bất chợt tới. Sách vở bút mực thì khỏi phải nói. Mỗi lần sắp có thanh tra tới khám trường thì chúng tôi thật là khổ sở với thầy. Thầy tập đứng dậy, tập ngồi xuống, thầy bắt bao lại sách vở, bắt cắt tóc, bắt cắt móng tay, bắt mặc bộ quần áo nào đẹp nhất. Sợ lũ chúng tôi quên đi những lễ nghi tối thiểu, thầy bắt chép và học thuộc lòng một bài nhan đề "Lời khuyên học trò". Bắt đầu như thế này:
Trống trường vừa đánh mau mau,
Sắp hàng ngay ngắn trước sau đàng hoàng.
Đừng nói chuyện chớ làm ồn
Học trò như vậy mẹ cha vui mừng.
Sau này tôi mới biết rằng đó là một bài thơ dở, sai âm luật. Chắc do thầy sáng tác. Vì lâu lâu thầy lại cho phép thêm một đoạn ám chỉ khuyết điểm nào đó mà thầy vừa khám phá ra. Ví dụ hôm thầy đè cổ thằng Hùng đánh ba roi vì tội hái trộm dưa leo bị bà Tang lên mét giữa lớp thì chiều đó thầy bắt chép thêm một đoạn "Lời khuyên học trò" (tiếp theo):
Dưa cà là của người ta
Mình đừng khuấy phá hái mà không nên.
Bắt được đã phải chịu đòn
Lại làm xấu hổ tổ tiên ông bà.
Tôi không biết bao giờ bản trường ca này mới chấm hết. Chỉ biết mỗi lần thầy dạy dư giờ hay những chiều mùa đông chưa tan học mà trời tối quá không thấy mặt chữ thì thầy bắt cả lớp ê a đọc bài "Lời khuyên..." như những tín đồ tụng niệm giáo điều. Tất nhiên là với một thầy giáo cẩn thận dường ấy và nhất là sợ thanh tra tới mức ấy thì Tộc không phải là một cái hoa đẹp đáng để cho lớp và cho thầy hãnh diện. Tóc thì dễ thường đến hai tháng mới cạo một lần, - cạo chớ không phải cúp, - thành ra tóc mọc lấn xuống trán, tóc mai chỉa nhọn xuống nửa má. Cái mặt trở nên quắt lại bằng bàn tay. Áo quần thì như trên đã nói. Thành ra thầy có nhiều thành kiến đối với Tộc, những thành kiến khiến có lần Tộc bị mắng oan. Một hôm giữa lúc sắp hàng, thầy khám sạch sẽ. Thầy kéo hẳn Tộc ra khỏi hàng, chỉ vào cặp chân đen:
- Mày ở dơ thế kia?
Tộc thưa liền:
- Thưa thầy con mới tắm ạ.
- Mới tắm cái gì? - Thầy sừng sộ nói - Cái cổ đầy những đất thế này.
Thầy vừa nói vừa lùa ngón tay kỳ cọ nơi cổ của Tộc. Nhưng quả không có một lằn đất nào dính nơi tay thầy cả. Thầy hoi ngượng, đứng im nhìn kỹ Tộc từ đầu đến chân. Rồi thầy chỉ xuống hai cái mụt Tộc mang ở cổ chân:
- Ở dơ - ghẻ chốc thế kia mà nó còn cãi tao nữa.
Tộc vẫn trả lời tỉnh bơ:
- Dạ, thưa thầy không phải ghẻ ạ. Đây là vết đỉa cắn. Hôm chủ nhật con đi mót lúa đám ruộng ông Thuận bị đỉa bâu cắn. Con rịt thuốc mãi mà chưa lành. Mẹ con nói đỉa mén nó cắn là độc lắm.
Thầy không trả lời, nhún vai một cái rồi ra lệnh cho vào lớp. Ở trong lớp có ai làm quấy, ví dụ làm đổ mực xuống nền xi măng, bôi tay dơ lên vách, ném đá bể ngói... mà thầy chưa tìm ra thủ phạm là y như thầy nghi cho Tộc. Chúng tôi cứ tưởng Tộc thù thầy, nhưng tuyệt nhiên không. Đi cùng chúng tôi đến nhà thầy nộp bài, Tộc hay đảo mắt nhìn khắp đó đây rồi liên tiếp đề nghị:
- Thưa thầy cây cau ở ngang chái bếp của thầy đã có buồng đầy rồi đó. Để con leo bẻ cho thầy. Hai hôm nữa thì già mất.
Thầy hỏi:
- Mày leo gì được?
Thì Tộc vồn vã ngay:
- Ồ! Con leo giỏi lắm. Để con leo thầy coi. Con leo không cần "nài" mà.
Thế là từng thót một, Tộc thoăn thoắt leo lên bám ở trên đọt cau, nhanh nhẹn bẻ cả một buồng rồi tuột xuống. Lần khác đến thăm thầy, sau khi cả bọn chia tay nhau vục gáo vào vò nước lã uống lấy uống để, Tộc bỗng nhăn mặt nói:
- Nước hôi bùn quá!
Chúng tôi đưa mắt lừ Tộc, có ý bảo: "Chết! Sao mày ăn nói hỗn vậy? Nước nhà thầy mà mày chê hôi".
Nhưng Tộc thản nhiên nói bô bô:
- Muốn hết hôi thì phải đảo. Ở dưới đáy giếng thiếu gì bùn non rồi những dây gàu đứt, đồng xu, mẻ sành, cắc bạc.
Thế rồi bỏ chúng tôi, Tộc chạy lên nhà trên thảo luận gì với thầy không biết. Lúc ra về, Tộc nói:
- Chủ nhật tới, tao lại đào giếng giùm cho thầy.
Tộc sống tự nhiên quá, thấy việc thì làm không câu nệ, nghĩ gì nói nấy không giấu giếm. Hình như anh không có mặc cảm. Nhà nghèo, mặt mũi không đẹp, áo quần xốc xếch, nhưng tôi chưa bao giờ thấy anh ngượng ngập rụt rè. Tôi có cảm tưởng tâm hồn anh hiền lành như một cây xanh, cây ổi cây bàng nào đó đang sức lớn. Đâm chồi, ra lá, nứt hoa... Cây cứ bình tĩnh làm nhiệm vụ của mình, không cần nhìn xem những phản ứng của các cây đứng xung quanh nó. Không thấy cây xấu hổ vì những lá héo, giấu giếm những cành gãy, mà cũng không thấy nó hãnh diện vì chồi xanh non mướt hay hoa nở đầy cành. Tộc cũng giống như vậy. Nhưng tội nghiệp cho Tộc là Tộc không hoàn toàn được là một cái cây. Cái cây không phải học bài và làm bài. Còn Tộc thì phải khổ sở rất nhiều mỗi khi phải mó vào sách vở. Tộc học rất dốt, không mấy khi thuộc bài. Tính thầy Nghĩa lại thích lái cho học sinh không thuộc bài nói bậy mà Tộc thì nói bậy một cách tín cẩn. Đủ biết anh chẳng hề ngó qua bài một lần. Mỗi khi thầy nhắc sai và anh dò dẫm nói theo là cả lớp im phăng phắc để đợi nghe những sự bất ngờ lý thú. Chẳng hạn bà Trưng thù ông Thi Sách đã giết chồng bà là Tô Định..., hoặc nước Việt Nam đông giáp vịnh Thái Lan, tây giáp bể Nam Hải v.v... Đến giờ đọc tiếng Pháp thì thật là không thể nín cười được. Anh không phân biệt được chữ nào đọc là "ơ" chữ nào đọc "e", chữ z, w, ch anh đọc cứ lộn phèo cả lên rồi thêm dấu huyền dấu nặng, rồi ậm ừ, rồi cà lăm nữa. Một người pha trò khéo cũng không thể làm cho lớp học náo hoạt hơn anh. Tật cà lăm sau này gần thành một cố tật của anh. Tôi cho rằng đó là do những giờ học Pháp văn mà ra. Mới đầu năm khi còn học bài một bài hai thì anh cà lăm ít, đến chừng sang bài hăm bảy, hăm tám thì anh cà lăm nặng hơn, cuối cùng thì anh chỉ "cà" chứ không nói nữa. Mà mỗi lần "cà" như vậy thì trông anh khổ lắm. Mắt cứ nhắm tít đi còn cái lưỡi và hai hàm răng thì run bấn lên. Thầy giáo chịu thua phải cho anh về chỗ.
Lẽ cố nhiên là học hành như vậy anh không đỗ nổi bằng sơ học yếu lược. Và cuối niên khóa anh phải nghỉ học. Khi chúng tôi, vài đứa, mang sách đi học ở trường huyện, chúng tôi thỉnh thoảng gặp anh ở bến đò đầu làng. Vẫn gầy, vẫn đen, tưởng chừng nếu xòe một cây diêm châm vào là anh bốc cháy thành ngọn lửa ngay. Gặp chúng tôi, anh toe toét cười:
- Đố tụi mày "la ma-rơ" là cái gì? (1 )
Rồi không đợi chúng tôi trả lời, anh nói luôn:
- Tao ngồi buồn mở cuốn sách Langue Francaise đọc lại mà hóa ra giỏi tụi mày ơi. Té ra bây giờ tao mới biết chữ Tây là gì. Nè, tao đọc cho tụi mày nghe, nghe không: la lame, la lac, papa a vu kilo, à Hanoi il y a un pont... 1
Anh đọc hàng tràng dài, đọc sai âm sai giọng nhiều lắm nhưng trông chừng hỉ hả và không còn ngọng khổ ngọng sở như ngày xưa nữa.
Tôi hỏi:
- Bây giờ mày ở nhà làm gì?
- Tao đi củi.
- Có còn đánh đáo nữa không?
- Tao đánh ách-xì, bài cào, không thèm đánh đáo nữa. À, bữa nào tao cho mày một cái ná cao su. Tao đi củi kiếm được nhiều cái chạng "ngon" lắm.

Sau đó, tôi càng ngày càng ít gặp Tộc dần. Có một độ nào tôi nghe Tộc mê con gái ông xã Chín nhưng bị cô này chê. Tộc thất tình bỏ ăn bỏ uống và đâm ra lừng khừng như người sắp điên. Người ta tưởng Tộc có thể nhào xuống Bầu Di hay cầu Ông Chừ để tự tử vì vụ thất tình này nặng lắm. Người nhà phải canh gác dòm chừng Tộc luôn. Nhưng bỗng một hôm Tộc mất tích. Cả nhà đổ xô đi tìm. Mẹ Tộc khóc mếu máo. Tự tử thật chăng? Nhưng tự tử sao lại mang hết quần áo, nịt, mũ và cái bi-đông nước theo làm gì? Tuy vậy mẹ Tộc vẫn khóc mếu máo đi tìm. Chợt nghe tin ở xóm Long Hòa con Lành, con ông Câu Hò, cũng mất tích đúng vào đêm đó. Ông Câu không khóc mếu máo mà chỉ chửi. Ông nốc rươu vào thật nhiều, - nhà ông nấu rượu lậu nên tha hồ cho ông nốc, - khiến mặt đỏ tía như một con gà đá rồi oang oang kể tội con gái ra mà chửi. Ông bảo con ông mê ngu mê dại một thằng chỉ có cái rựa và đôi dép cao su. Ông bảo cái nhà thằng đó không bằng cái chuồng heo nhà ông. Ông bảo con mẹ nó không đáng xách giày xách dép cho ông. (Say rượu rồi nói khoác vậy thôi chớ thực tế ông không bao giờ mang giày mang dép, chỉ thỉnh thoảng lắm mới mang guốc). Người ta đồn rằng hai đứa, Tộc và con Lành, rủ nhau bỏ đi hoang nhưng người ta không biết hai đứa đi đâu. Nhà Tộc nghèo không có phương tiện đi tìm xa còn nhà ông Câu đông con nên bỏ đi một đứa cũng không thiếu. Đi đâu thì đi, hết muốn đi thì về, chẳng ai thèm tìm. Tôi không phải là bà con của hai người nên tôi càng có lý do để không biết rõ hành tung của hai người sau đó.

Lẽ ra thì sự quan hệ giữa tôi và Tộc chỉ có thế, chỉ dừng lại ở mức đó mà thôi. Nếu không vì một thằng con thích ở trần và dang nắng thì tôi đã quên hẳn người bạn ngày xưa của tôi rồi. Cuộc sống bon chen bận rộn đâu có cho phép tôi năng nhìn về dĩ vãng để tìm gặp lại những dáng người quen? Vả lại, mỗi khi có dịp hồi ức tôi cũng ít khi chịu khó vẹt đám người đông đảo lẫn lộn ngày xưa để tìm cho ra đúng cái dáng gầy gò đen đủi của anh. Thế mà, ngược với ý muốn của tôi, sự việc đến đây vẫn chưa chịu chấm dứt. Trong khi tôi ngồi mơ màng nhớ đến anh, đến giai đoạn cuối cùng của cuộc đời anh mà tôi biết, giai đoạn bỏ nhà ra đi với đủ cả dây nịt và bi-đông nước, có thể với con gái ông Câu Hò vì đó chỉ mới là dư luận, ức đoán, thì có bất ngờ không, - ở một nơi xa xôi kia anh cũng nghĩ đến tôi. Một bức thư không mong đợi đem đến cho tôi sự khám phá êm đềm này. Số là cách đây chừng nửa tháng tôi nhận được một bức thư. Nhìn nét chữ lạ viết ở phong bì, nhìn con dấu nhà bưu điện Ban Mê Thuột, tôi rất hồi hộp. Tôi không thích những bức thư của người lạ vì nó hay làm cho tôi bồi hồi lo lắng. Ở Ban Mê Thuột tôi không chắc có người quen nào. Hay có ai gửi lầm chăng? Nhưng nhìn lại địa chỉ người nhận thư thì quả là tên tôi. Tôi lật đật xé toẹt phong bì, không kịp lấy kéo cắt. Nội dung bức thư như sau:
Ban Mê Thuột, ngày.... tháng.......
Thưa anh, tôi là Trần Văn Tộc. Anh có còn nhớ Trần Văn Tộc không, Tộc "Thạnh Xương" của các anh đó mà. Riêng tôi vẫn còn nhớ anh rõ lắm, anh học trò trắng trẻo mà tôi thường gọi đùa là "con chuột rụt rè". Anh còn nhớ không, anh tức mình gọi lại tôi là "con mèo khiêu khích" nhưng thay vì con mèo mun (vì tôi đen) anh lại gọi ác là con "Bạch Tuyết". Nhưng con mèo không vồ con chuột mà yêu con chuột lắm. Đến bây giờ xa cách vài mươi năm rồi mà vẫn nhớ đến con chuột đây.
Tôi có đọc mấy truyện của anh viết về những ngày thơ ấu của chúng ta khi còn học ở trường Ngân Sơn. Tôi cảm động nhớ lại những ngày xưa, nhớ lại ông Cai Tròn, nhớ lại thầy Nghĩa mà trong truyện anh đổi tên lại là thầy Hiền. Thầy Nghĩa đã chết rồi, chắc anh đã biết. Bây giờ ngồi nhớ lại thầy, tôi thấy tôi thương thầy hết sức. Đành rằng tôi học hành chẳng đỗ đạt được gì, nhưng đó toàn là lỗi của tôi. Tôi học dốt mà lại lười quá. Giá vào tay một thầy giáo khác thì tôi đã bị đuổi học lâu rồi. Thế mà thầy vẫn chịu đựng, vẫn chấp nhận tôi, vẫn cố dạy cho tôi biết rằng la mare là cái ao, le kilo là quả cân... những kiến thức đó, ra đời tôi không dùng được gì, nhưng chúng cho tôi một cảm tưởng êm đềm là ngày thơ ấu của tôi không đến nỗi bị bạc đãi. Lớn lên khi được biết rằng những người học trò tệ lậu như tôi dễ làm cho thầy giáo bị ghi điểm xấu, bị chậm tăng lương, chậm thăng ngạch trật, tôi thấy áy náy trong lòng vì tôi cho rằng sở dĩ thầy phải già đời ngồi dạy ở một xó nhà quê này, biết đâu chẳng phải vì tôi. Năm 1959 tôi và nhà tôi cùng mấy cháu có về quê thăm. Lúc bấy giờ tôi mới được biết rằng ngôi trường cũ của chúng ta ở đầu núi đã bị phá hoại vào những năm kháng chiến. Cây cà-te cao to, trụ sở của lũ ma quỉ mà ngày nhỏ các anh sợ, đã bị chặt mất rồi. Tất cả chỗ ấy bây giờ còn là khoảng không. Hình ảnh của chúng chỉ còn lại trong tâm hồn của chúng ta thôi.
Anh bây giờ đã được mấy cháu rồi? Tôi thì được năm cháu. Ba cháu lớn học ở Lycée Yersin. Vợ tôi cũng thường ở Đà Lạt hơn ở Ban Mê Thuột, chúng tôi có tậu được một vi-la ở cité Saint Benoit. Tôi bây giờ nhờ trời làm ăn cũng khá dư đủ. Có được hai nhà máy cưa và một rạp hát. Anh có biết tôi đặt tên cho rạp hát của tôi là rạp gì không? Chắc anh không đoán được đâu. Tôi đặt là rạp Thạnh Xương. Để nhớ lại những kỷ niệm ngày xưa.
Thôi, giấy ngắn tình dài, chúc anh và quý quyến sức khỏe. Nghỉ hè rảnh rỗi mời anh lên Ban Mê Thuột chơi nghe? Tụi mình gặp nhau mới nói hết chuyện.
Nhớ ghi địa chỉ là:
Ông Trần Minh Thạnh
4I, đường Ama Trang Long
Ban-mê-thuột.
Đọc xong thư Tộc, - bây giờ là Trần Minh Thạnh, - tôi vui vẻ như chính tôi đã làm giàu, đã làm chủ hai nhà máy cưa và một rạp hát Thạnh Xương. Tộc không nói rõ về người vợ Tộc, tưởng như ai cũng đã biết rồi, nhưng tôi đinh ninh rằng đó là cô Lành con ông Câu Hò. Tôi tưởng tượng thấy một chiếc ô-tô sang trọng chở Tộc và cô Lành đỗ xịch trước cái quán của bà mẹ Tộc ở đầu làng. Bao nhiêu người hàng xóm bâu lại xem, trầm trồ bàn tán. Những đứa trẻ con ở trần và đen đỉu như Tộc ngày xưa đứng vây quanh chỉ trỏ, sờ mó. Chiếc xe ấy lại đỗ xịch trước nhà ông Câu Hò. Ông Câu Hò hẳn là thôi không chửi nữa. Nghĩ đến ông Câu tôi chợt cười thành tiếng. Tôi nhớ đến những đôi giày đôi dép tưởng tượng của ông ngày xưa khi ông cất tiếng chửi "thằng" Tộc đi hoang đã dụ dỗ con Lành ngu dại của ông. Niềm vui khi đọc thư Tộc tôi giữ cho đến suốt ngày. Tôi cảm thấy bớt đơn chiếc và cuộc đời dễ sống hơn. Tộc đại diện cho một loại nhân cách miễn nhiễm, không tà khí. Lúc nào cũng nghĩ tốt cho người, không ác ý, không đối phó, không bị lôi cuốn, và sẵn sàng làm điều tốt cho người, không mưu tính, không mặc cả. Tôi tin chắc sự làm giàu của Tộc rất trong sạch. Lòng thương yêu thầy mà Tộc nói trong thư chắc chắn là thành thật chớ không phải là một lời sáo, một công thức xã giao. Những mẫu sinh hoạt vụn vặt của Tộc khi còn đi học chắc chắn là không chịu sự chi phối của một thành kiến nào. Tâm hồn Tộc như cái phòng rộng trống trơn, không có xó kẹt, không có bóng tối. Tộc làm những điều mình nói và có thể nói cả những điều mình làm. Có thể nói cả những điều mình nghĩ nữa. Trong một xã hội nhiễm độc mà dối trá đã thành điển-lệ, mà thù hằn đã thành khí giới phổ thông, quả tình nhân cách của Tộc vươn lên như một chồi cây mạnh giúp tôi tin cậy ở cuộc đời.
Chú thích:

[1]

lưỡi dao, cái hồ, cha đã thấy quả cân một ký, ở Hà nội có một cái cầu.

Lá Vẫn Xanh
Ngày này sang ngày nọ túi bụi vì công việc, chỉ thỉnh thoảng có một ngày chủ nhật rảnh, gặp một vài người bạn quen nói chuyện bâng quơ, thế mà cũng đủ để Phương phải nghe một tin không chút gì lý thú: tin tận thế.
Tin phát ra từ cuối năm 1959 và được nhiều người biết là vào dịp Tết Canh Tý 1960. Tết là dịp người ta chúc nhau khỏe mạnh, giàu sang và sinh đẻ sai. Tiếp theo là uống rượu mùi, hút thuốc lá thơm và nhá hạt dưa. Nhưng nếu chỉ làm có bấy nhiêu việc đó thì phiền lắm, phiền cho chủ nhân cứ phải nhìn mãi ảnh mình treo trên vách, phiền cho khách cứ từng chặp lén ngó đồng hồ tay. Không, người ta phải kiếm chuyện nói cho đầy ít nhất là mười lăm phút xã giao. Mọi câu chuyện hợp thời được bới ra, trong đó có câu chuyện bức thư ở Pha-ti-ma (Fatima) tiên đoán vận mệnh của trái đất, của nhân loại. Người đầu tiên nói cho Phương nghe tin này là một ông bạn có tuổi:
- Không khéo chúng ta nguy cả.
Vốn không có tính tò mò nên Phương chỉ mở to mắt ngồi đợi ông bạn tự ý nói tiếp câu khai mào bỏ dở:
- Năm 1959 đúng là năm Giáo hội mở bức thư tiên tri ở Pha-ti-ma.
Phương nhìn lên tấm lịch treo tường.
- Chúng ta hiện ở vào tháng Giêng 1960 rồi. Chắc bức thư đã được mở rồi.
- Chắc đã mở rồi nhưng chưa thấy công bố nội dung. Chắc hẳn có những sự đáng lo ngại cho vận mệnh nhân loại.
- Chắc hẳn.
Phương đáp lại như một tiếng vang. Thấy chàng không có ý sốt sắng dự đoán và tưởng tượng, ông bạn già lặng lẽ nhấp nước trà và lặng lẽ hút thuốc.
Ấy thế mà sang ngày Tết lại chính Phương là người hay nhắc đến bức thư tiên tri này nhất. Chàng còn hăng hái lý luận dự đoán nữa. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học nguyên tử, sự chạy đua vũ trang của thế giới, những cuộc biểu tình, những bản kiến nghị yêu cầu đình chỉ thí nghiệm nguyên tử của các nhà khoa học và của các dân tộc văn minh khiến Phương nghĩ đến vận mệnh của thế giới một cách bi quan và thế là chàng tự ý giải thích bức thư tiên tri theo quan điểm bi quan của chàng. Những người nghe đều gật đầu suy ngẫm. Ít có vấn đề nào lại khéo gây sự đồng ý bằng vấn đề này. Không ai phản đối hết. Vì tận thế là chết cả, người giàu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn tất cả đều chết một cách bình đẳng. Không còn ai được quyền thương hại ai và lẽ tất nhiên là khỏi có ai phải bực mình vì bị người khác thương hại dùm. Thật là bình đẳng đến mức lý tưởng. Khi biết chắc không có ai được hưởng đặc quyền sống sót, mọi người cam chịu tận thế một cách bình tĩnh, bằng lòng. Nhưng... may thay, đó chỉ là những ức đoán vừa có vẻ thật, vừa có vẻ không, có điều là vừa đủ để vui câu chuyện trong ngày xuân. Chứng cớ là khi bắt tay giã từ, chủ và khách vẫn long trọng chúc nhau một lần nữa:
- Ngồi nói chuyện với bác thế mà đã lâu rồi, không dám quấy thì giờ bác nhiều hơn. Thôi thì lại xin kính chúc bác một năm đại phát tài, thăng quan tiến chức...
- Dạ, cảm ơn bác. Cũng xin kính chúc bác và quí quyến một năm mới thọ phúc khang an.
Quả thật vậy, câu chuyện tận thế, cuối cùng vẫn chỉ là câu chuyện.
Những ngày xuân êm đềm và thong thả qua đi, mang theo đi luôn những ước mong, những niềm tin dễ dãi. Cuộc sống bận rộn lại lôi kéo Phương vào một nhịp quay cuồng khiến chàng nhiều hôm quên cả bóc tờ lịch trên tường. Lặn hụp trong sự sống, quay cuồng theo sự sống, sống theo thói quen, nhiều lúc sống một cách vô ý thức khiến đôi khi ngồi bình tĩnh nghĩ lại chàng đau xót thấy rằng mình đã quên là mình đang sống. Và như thế là cái tin tận thế đã được đẩy lui vào dĩ vãng nếu một buổi chiều kia, chàng không tiện chân ghé vào nhà một chị bạn, chị Dung. Chính chị Dung ra mở cổng. Vừa bước trở vào phòng khách thì một mâm cơm ăn nửa chừng làm chàng hoảng hốt dừng lại. Dù là gia đình quen, quen đến cái độ coi như bà con, Phương cũng thấy ngượng vì mình đến thăm không nhằm lúc. Bữa cơm ăn dở dang trông hỗn độn như một bãi chiến trường, nhất là bãi chiến trường ấy lại diễn ra ở trên chiếu, giữa phòng khách. Thật vô tình mà đến ba, bốn tầng bất ổn đã kết hợp lại trong sự tổ chức cuộc ăn chiều này, ăn quá sớm so với thường lệ. Bà cụ má chị Dung giục chàng bước vào:
- Cậu Phương vào tự nhiên. Mời cậu ngồi ở xa-lông nói chuyện.
Chị Dung cũng tươi cười mời:
- Anh ngồi chơi. Bà con ở trong nhà mà. Trời nóng quá, bà má bày đặt ăn cơm trên chiếu.
Phương lật đật an ủi chị:
- Đó cũng là một cách trở bữa chị Dung ơi! Thay đổi chỗ ngồi cũng làm cho mình ngon miệng như là thay đổi món ăn vậy.
Bà cụ không muốn dài dòng, đâm ngang câu chuyện một cách thực tế:
- Lũ nhỏ này, - cụ chỉ sáu đứa cháu nội ngồi la liệt trên chiếu, - chúng nó ồn ào quá. Ngồi vào bàn ăn thì đứa kéo ghé, đứa giựt khăn bàn, đứa chồm lên, đứa làm đổ canh, đứa hụt chân ngã, phiền mình, khổ mình. Đem dọn "cha" nó xuống đất cho rảnh việc.
Phương cười to, cười ngon lành vì lối nói không kiểu cách của bà cụ. Lũ nhỏ lây cái không khí cởi mở tự nhiên, đã trở lại ồn ào, nhai cơm, húp nước canh gõ đũa vào chén, hít mũi, nói chuyện. Nhưng chị Dung thì hình như vẫn chưa tìm lại được sự tự nhiên. Chị và một miếng cơm quá nhỏ, nhai cơm mà không gắp thức ăn. Chị nhìn ra sân nheo nheo mắt. Một tay cầm đôi đũa chống hững hờ vào giữa bát cơm. Như chợt nghĩ ra một điều gì vừa ý, chị quay sang Phương:
- Lũ nhỏ này lộn xộn quá, anh thấy không? Thật là điềm tận thế mà.
Thằng cháu Thạnh chừng chín tuổi, lè nhè cướp lời:
- Cô giáo con cũng mới bảo là sắp tận thế đó, cô Năm ơi. Ghê lắm.
Chị của Thạnh, bé Điềm góp ý liền:
- Mấy đứa bạn của tao, con Gái, con Nga, thằng Ánh cũng nói sắp tận thế.
Bé Tuyết ngậm một miệng cơm đầy, lúng búng nói:
- Thầy giáo con...
Thằng Căn, đũa còn khuấy trong bát canh chưa quơ được một miếng thịt vừa ý, ngửng mặt lên:
- Bà nội à, anh xích-lô chở con đi học nói rằng tới ngày tận thế thì...
Bà cụ nạt lên một tiếng:
- Thôi im đi, tụi bay nhỏ.
Nghe tiếng nạt, lũ nhỏ gác bỏ thắc mắc cúi xuống lầm lũi ăn. Bà cụ quay lại phía Phương:
- Ai cũng nói đến ngày tận thế. Cậu Phương có sợ tận thế không?
Thật là khó trả lời vì chàng chưa hề cân nhắc kỹ xem bên sợ và bên không sợ bên nào nặng nhẹ hơn.
Chị Dung đỡ lời:
- Bà già hỏi ngộ quá. Sao lại không sợ?
Phương thấy rằng chị Dung có lý. Ừ, sợ chớ sao không sợ. Nói quách như chị Dung có phải tiện không và có phải thật thà hơn không? Sao lại tránh nói sợ khi ít nhiều mình cũng sợ thật?
Chị Dung tiếp:
- Kinh Thánh có dạy rằng khi Quỷ Vương ngự trị, khi dân Do Thái lập quốc, khi trên trời có những điềm lạ, đó là lúc tận thế.
- Tận thế nghĩa là hết sống. Chết thì càng khỏe chớ sao. Khỏi phải bận tìm kế sinh nhai.
- Nhưng chết đâu có êm ái như anh tưởng. Thiên tai xảy dồn dập. Nơi này núi lửa phun lên, nơi kia sóng thần cuồn cuộn tràn vào thành phố, nơi khác động đất...
Như được khơi nhằm mạch, óc Phương nghĩ ngay đến những thiên tai chàng đã thuộc lòng lúc đi học, những quang cảnh chàng đã từng tưởng tượng thấy: trái đất nứt ra, người vật nhà cửa đổ nhào xuống rồi đất khép lại...hỏa sơn phun khói phun tro đầy trời và tro rơi ngập cả thành phố làm chết ngạt người trong đó. Rồi sét đánh, rồi mưa lũ, gió to, nước dâng vân vân... Khắp nơi, tiếng người rú lên kinh khủng, tiếng kêu gào đau xót, tiếng khóc thảm thương trong khi Tạo hóa hoặc như vô tình, hoặc như phẫn nộ, lần lượt gieo các tai họa xuống. Các tai họa lúc thì diễn ra một mình, lúc thì đồng diễn phụ họa, lúc thì theo nhịp thong thả, lúc thì rộn rã tới tấp, nhân loại sẽ có cảm tưởng như đang dự một cuộc đại hợp tấu mà các mục trong chương trình được tuần tự trình bày.

Lúc giã từ chị Dung và bà cụ, Phương nhận những lời chào mời mà hơi thẫn thờ không để ý. Những tiếng thưa của lũ nhỏ "Thưa chú đi về...Dạ thưa chú...Chú đi về ạ..." ồn ào và có pha nghịch ngợm chỉ được chàng trả lời bằng giọng "ừ...ừ, chào mấy cháu" hết sức là hình thức. Vì ra đến ngoài đường mà những tiếng gào khóc, tiếng sét nổ, tiếng gió rít và tiếng nhà đổ, cây ngã, tiếng nước réo như vẫn quay cuồng trong óc chàng. Đến góc phố Nguyễn Hoàng - Lê quý Đôn, xe chàng suýt đâm vào hai chiếc xe đạp đi ngược chiều. Sắp sửa cáu vì mình đi đúng luật lệ, chàng chợt mỉm cười khi người đi xe đạp trái luật quay lại chào chàng. Đó là hai thiếu nữ lạ mặt nhưng đẹp. Hai màu áo đỏ giống nhau. Hai mái tóc ngắn giống nhau. Thế là từ đó trên đường về, chàng không còn nghe tiếng gào khóc, tiếng sấm sét nữa mà chỉ còn văng vẳng tiếng nũng nịu. "Xin lỗi ông, ông có làm sao không ạ". Và thay vì những ánh sáng của chớp giật, ánh trăng đỏ máu hay bóng tối ngập trời, chàng thấy màu răng trắng giữa hai khuôn môi tươi và ánh mắt long lanh ướt.
Một lần nữa, câu chuyện tận thế vẫn chỉ là một câu chuyện.
Thì bỗng một buổi trưa nọ ngồi giở tờ báo hàng ngày, Phương đọc nhằm một tin vặt:
"Sáng 7-7 tại hẻm nhỏ ngang đường Mạnh Tử (Chợ Lớn) có bà lão bán guốc vì nghe người ở nhà đọc báo bàn luận về tin một nhóm thiên văn gia Ý đại lợi tiên đoán vào ngày 14-7 là ngày tận thế nên nghe xong bà lão bỗng tái mặt rồi té bất tỉnh tại chỗ".
Chàng quay lại hỏi con:
- Hôm nay mấy tây rồi bay?
Thằng Đức nhanh nhẩu đáp:
- Mùng chín.
Bé Ngân tụt xuống ghế đi lên phòng khách. Rồi từ trên ấy tiếng Ngân vang lên:
- Mùng chín ba à, mùng chín.
Đức hỏi:
- Chi vậy ba? Ba hỏi chi vậy?
Phương quay lại nhìn con. Trên nét mặt con chàng thấy có một vẻ gì háo hức. Hình như chúng đợi một tin gì vui, chẳng hạn chúng sắp được dẫn đi xi-nê, chàng sắp đưa chúng đi mua áo hay mua dép, hoặc có tin ông bà chúng ở Lò Gốm sắp vào thăm. Chàng nhìn con giây lâu, so sánh cái tin dữ dội kia với những cặp mắt hiền lành, với tâm hồn tin tưởng ngây thơ của con. Chàng ấp úng:
- Ba hỏi cho biết vậy thôi.
- Không phải. Ba nói dối con. - Đức phụng phịu.
- Không, ba nói thật đấy.
Để tránh khỏi nói dối con nhiều nữa, chàng giục:
- Thôi, mấy đứa con học bài đi.
Chàng chăm chăm nhìn con, óc loay hoay với cái tin vừa rồi. Tận thế. Chàng lẩm nhẩm: Còn năm ngày nữa. Ừ, thật không ngờ cái tin kinh khủng này lại đến mau vậy. Từ hồi còn nhỏ đi học, chàng đã nghe người ta chuyền miệng cho nhau rằng năm 2000 sẽ tận thế. Có đại hồng thủy. Và trước sau không biết đến mấy lần chàng đã nhẩm tính xem đến năm 2000 mình được bao nhiêu tuổi. Thấy lúc ấy mình đã không còn trẻ nữa, chàng yên tâm không băn khoăn, không tiếc rẻ. Nay bỗng nhiên án tử hình được tuyên bố đột ngột. Đang làm ăn lương thiện, con người chợt được tin mình phải tội chết và chỉ trong năm ngày nữa là bị đem ra hành hình. May thay, tin đó có nhiều hi vọng là tin thất thiệt. Nhưng biết đâu? Ừ nhỉ, nhưng biết đâu? Trái đất chỉ là một hạt bụi bay lửng lơ trong vũ trụ cơ mà. Mà hạt bụi thì đâu có thể đòi hỏi cái quyền tự mình viết lịch sử cho mình? Huống chi là con người, quá nhỏ so với cái hạt bụi đó. Ồ, chúng ta thật y như là một bầy kiến cận thị, vui vẻ, ồ ạt, tin tưởng, lục cục mang những mẩu cơm, mẩu bánh, cánh dế, chân sâu để về cất trong tổ. Lũ kiến, chúng hẳn đã thảo luận cùng nhau những chương trình xây dựng tổ, chương trình tiết kiệm để qua mùa đông, chương trình phòng vệ. Chúng hẳn đang sung sướng vì nếm trước hạnh phúc ở đầu kia chương trình. Chúng đâu có ngờ đến cái bàn chân của một đứa bé tinh nghịch đứng gần đó sắp sửa giáng xuống, chà qua chà lại, biến chúng và cả họ hàng chúng thành một cục nhầy nhụa viên tròn, biến lịch sử của chúng - sao lại không gọi như thế được, - thành một chuyện huyền hoặc. Ôi! Lịch sử của con người sau ngày tận thế cũng vậy. Ai có thể tin rằng trái đất hoang vu kia đã từng là cái nôi và là ngôi mộ của hằng hà sa số con người? Rằng nơi đó con người đã xây dựng hạnh phúc và nuôi dưỡng thù hằn? Còn ai tranh giành nhau nữa không, một rẻo đất, một góc vườn? Đất rộng mênh mông đầy dẫy ra đó. Còn ai tự hào hay ganh tị vì sự chiếm hữu của mình hoặc của người khác nữa không? Xe cộ bỏ không đó, lâu đài hoang lạnh đó, vàng ngọc vung vãi ra đó bên cạnh đá sỏi. Những con gà, con vịt, nói chung là chim chóc, những con bò con cừu, nói chung là gia súc, sinh sôi nẩy nở không hạn chế đi lang thang tự do, không còn là đối tượng thèm muốn, tranh giành, cướp giấu của con người nữa. Và cây cối! Cây cối không bị hạn chế sức phát triển, sẽ khỏi phải tuân theo trật tự do ai định hết. Những cây cỏ dại được dịp để lấn áp những cây kiểng, những cây xưa nay được loài người chăm sóc nâng niu. À, nhưng rồi sẽ diễn ra một cuộc trả thù ghê gớm đây. Những con vật, những cây cối được loài người bảo vệ sẽ bị các con vật, cây cối mà loài người vốn thù ghét, hành hạ trở lại. Ồ! Những con gà, vịt, bồ câu... sẽ không được tự do sung sướng nữa đâu mà chúng bị mèo, chồn sát hại. Bụi tùng bụi cúc không bị cắt xén, uốn theo hình phượng hình lân nhưng sẽ không kịp hớn hở mà đâm chồi tự ý vì những bụi gai bụi cỏ tràn lên ăn hiếp. Phương không ngờ rằng sự lý luận, sự tưởng tượng lại mau dẫn chàng đến một ngõ kiệt như vậy. Té ra sau cuộc tận thế, thoát khỏi bàn tay và khối óc chinh phục của con người, các sinh vật vẫn không tìm thấy tự do, tự do triệt để. Chàng thất vọng. Như một chiếc phi tiễn muốn vượt không gian mà vẫn bị sức hút của trái đất kéo lại, trái đất to lớn luôn luôn có mặt để nhất định không buông thả một ý chí nào muốn vượt khỏi quyền hạn của nó, chàng thất vọng. Sự thất vọng to lớn và thành thật đến nỗi tới đây, chàng không còn biết rằng mình đã suy tư bắt đầu từ điểm nào. Khi nhớ lại rằng mình đang phải đối diện với cái Chết, cái Chết rùng rợn mặc dù là đại đồng, cái Chết sẻ đến đúng kỳ hạn, chàng tự trách là mình nghĩ vẩn vơ vô ích hết sức. Điều đáng cho chàng phải lo nghĩ là nên có thái độ như thế nào. Chàng vừa loay hoay tìm thái độ thì con chàng đã nhẹ nhàng nhắc:
- Một giờ rưỡi rồi đó ba. Sao ba chưa đi nghỉ?
Chàng vâng lời chức năng, bỏ tờ báo xuống bàn bước vào phòng riêng.
- "Còn năm ngày nữa - chàng vừa lê dép vừa tự nhủ - chưa gấp phải định thái độ".

Những ngày sau, chàng hay lưu ý xem phản ứng của những người chung quanh đối với tin tận thế đã loan trên báo. Mặc dù bản tin chỉ chiếm nhu mì có mấy dòng và được xếp bằng chữ nhỏ nhưng chàng chắc chắn rằng nhiều người đã loan truyền đi rồi. Mấy khi tờ báo đăng một tin có liên quan đến nhiều người như vậy? Nhưng sao sự sinh hoạt hình như không có gì thay đổi. Người nào cũng chăm chăm đi về cái hướng của mình định đến, vượt lên những kẻ chậm chạp hơn họ. Các hiệu ăn vẫn đông khách hàng. Cả đến những hiệu uốn tóc. Xe đạp vẫn trôi cuồn cuộn trước các trường học. Những chiếc xe nhà binh vẫn gầm thét hiên ngang. Chàng không biết nên thương hại những người vô tư kia không? HoÏ có giống những con kiến mà mình đã lẩn thẩn nghĩ bữa trước không? Hay là họ khinh ngay cái nhóm tiên tri ngớ ngẩn của xứ Ý-đại-lợi mà không thèm tin? Thật là nát óc khi muốn tìm một câu trả lời thỏa đáng. Chàng đành chỉ xét đến trường hợp của riêng mình. Nếu có tận thế thật thì trước hết mình cũng không tiếc gì lắm. Cuộc đời sướng khổ đã nếm qua, chàng không thấy háo hức nữa. Có bốn ngàn bạc nợ bà Ngọc chàng chưa trả. Chết khỏi trả nợ không phải là điều mừng vì trước hay sau gì chàng cũng định trả đầy đủ cho người ta. Bạn chàng vay hai ngàn bạc đã hơn một năm nay, muốn vỗ nợ nên cố tránh mặt, lì không trả. Chàng đã mấy lần muốn viết thư mắng cho một trận rồi bỏ luôn nhưng may là rốt cuộc chàng đều nhịn không viết thư. May lắm, vì nếu viết thư mắng thì được gì? Có điều đáng để tiếc nhất là dành dụm được ba trăm ngàn đồng bạc mà bây giờ sắp không dùng đến được. Đó quả là một sự ân hận. Đáng lẽ mình đã tiêu pha cho hết, mắc nợ thêm vài trăm ngàn rồi hãy tận thế. Làm ăn chí thú và lương thiện quả không phải là thượng sách trong cuộc sống có hi vọng kết thúc bằng tận thế. Chàng muốn chuộc lại sự lầm lẫn của mình. Phải sống bất lương! Chàng có trước mặt hai ngày nữa. Thật chả bõ. Tuy vậy chàng cũng thử tìm xem mình có thể sống bất lương như thế nào. Lừa đảo? Nhưng lừa đảo để làm gì nữa trừ phi để muốn được chết cạnh một triệu bạc chẳng hạn như một thằng khùng. Ăn chơi phóng túng? Không chắc đã sung sướng khi óc mình không thoát sự ám ảnh của cái Chết. Nhưng xét cho kỹ, ăn chơi phóng túng có nghĩa là làm gì? Là cờ bạc, rượu chè, thuốc phiện và đĩ thõa. Bảo rằng phải vội vã đi đánh bạc cho thỏa thích để mà chết là một chuyện ngớ ngẩn không ai có thể nhịn cười được. Còn uống rượu thì được bao nhiêu? Tửu lượng của chàng không quá một chai bia mỗi lần, sự hoang phí không quá mười lăm đồng bạc thì nói đến rượu chè chỉ là một sự mỉa mai lớn. Thuốc phiện thì chàng chưa tập hút. Những món say sưa gây được bệnh ghiền mà chàng từng nếm như rượu, thuốc lá, cà-phê, lúc mới tập đều cho ta cảm giác khó chịu hơn là thích thú. Thuốc phiện chắc cũng thế. Vậy không điên rồ gì mà đi mua những cảm giác khó chịu khi không chắc sẽ được nếm những thích thú sẽ đến sau. Đĩ thõa có lẽ là cái thú dễ dàng hơn hết. Nhưng cũng chưa chắc. Tìm một người đẹp vừa ý mình mà lại bảo là dễ dàng? Tiền dễ tạo hơn là tình nhiều. Đồng tiền không hề chọn người tạo ra nó. Xấu hay đẹp, ngay hay gian, thông minh hay ngu xuẩn không phải là tiêu chuẩn mà đồng tiền nhắm. Chớ tình yêu có con mắt hơn, đòi hỏi nhiều điều kiện hơn. Ồ! Té ra muốn chơi bời phóng túng cũng không phải là một việc dễ dàng. Sống cuộc đời đạo hạnh ai cũng khen vì ai cũng cho là khó, nhưng sống trái lại, sống trụy lạc, sống bê tha, sống điêu xảo nào đã dễ chi?
Tóm lại, cứ theo cái đà lý luận này, Phương đã sống cuộc đời rất bình thường cho đến ngày mười ba tháng bảy. Trưa hôm đó, chàng nhìn lũ con ăn uống ngon lành mà thương hại. Có lẽ nên cho chúng biết rằng ngày mai là tận thế đi. Để chúng tùy nghi mà sửa soạn lấy. Có thể lắm chớ, trẻ con cũng có những băn khoăn riêng của chúng, những nếp tâm tư mà người lớn không hiểu được. Nhưng nên nói thế nào cho chúng đừng sợ hãi đây. Thằng Đức nhút nhát hơn cả, cứ mỗi lần nghe xe chữa lửa rú lên là nó cứ xanh mặt lại. Sét nổ cũng là một mối lo âu của nó. Cả chị Hai, chị bếp nữa. Cũng cần cho chị ấy biết kẻo lỡ cuộc tận thế kéo dài chị ấy có đủ thì giờ để trách mình sao không cho biết trước. Riêng đối với chị này thì phải cho biết khéo léo thế nào để chị đừng rối trí đến nỗi bỏ quên bếp núc, bỏ đói cha con chàng. Ý đã quyết, chàng đợi lúc chị Hai lại bàn xới thêm cơm, chàng lấy giọng điềm nhiên hết sức bảo con:
- Tụi bay biết không? Có ông tiên tri Ý-đại-lợi nói rằng ngày mai tận thế.
- Tận thế là sao hở ba?
- Nghĩa là mọi người đều chết hết.
Thằng Đức reo lên:
- Thế thì sướng, khỏi phải đi học.
Sợ rằng con còn hiểu lầm giá trị của sự "tận thế" nên mới có thái độ có vẻ đùa nghịch dễ dàng, chàng cẩn thận giảng tiếp:
- Tận thế nghĩa là chết hết cả đó, không còn ai sống nữa.
Bé Ngân đang ngậm miếng cơm, mở mắt nhìn chàng giây lâu, nhìn ra chuồng bồ câu ở ngoài sân rồi hỏi:
- Thế mấy con bồ câu cũng chết hết hở ba?
Chàng không trả lời để giữ vẻ nghiêm trọng của vấn đề. Chàng đợi phản ứng của Lý vì Lý lớn hơn cả. Chàng thấy Lý vừa nhai cơm vừa suy nghĩ. Cuối cùng, nó nhìn lên chàng, nói:
- Trưa nay ba có rảnh không? Ba giảng cho con bài ngữ pháp.
Chàng nhìn ba đứa con, thất vọng như một anh hề pha trò mà không ai cười. Chàng dự trù nghe những tiếng rú kinh ngạc và sợ sệt. Chàng đã chuẩn bị sẵn những lý để trấn tĩnh, để an ủi. Hão huyền cả. Tin tận thế rơi vào trống không, không ai phụ họa. Chị Hai thì lặng lẽ lại ngồi chùi nắp soong. Nếu chị tin rằng ngày mai tận thế thì chắc chắn chị không huy động cả hàng tá nắp soong ra mà chùi cẩn thận thế kia. Tâm hồn bơ vơ, chàng đành bắt chước mọi người mà trở lại cái nhịp sống hàng ngày. Chàng nhẫn nại ngồi giảng bài ngữ pháp cho con. Chừng mười phút sau, nguồn vui trở lại. Chàng thấy rằng thái độ vô tư của lũ con mình, bình tĩnh của chị Hai mới chính là thái độ mình muốn có.
Dầu vậy, chàng cũng không thể không bắt đầu ngày mười bốn tháng bảy một cách long trọng. Lúc cầm cái bàn chải răng, chàng nói:
- "Mười bốn tháng bảy là hôm nay đây".
Và khi ngồi ở sở làm, chàng vẫn nghĩ phòng xa: Có thể có một tiếng nổ rầm rồi tất cả tối sầm lại. Hoặc nhanh hơn nữa, tiếng nổ chưa nghe mà bỗng nhiên không ai còn biết gì hết. Y như người bị sét đánh không kịp thấy chớp, không kịp nghe tiếng nổ, không kịp biết là mình như thế nào. Và thế là cáo chung lịch sử của nhân loại. Thật chưa bao giờ con người sắp dự một cuộc biến chuyển vĩ đại mà khỏi phải sắp đặt gì hết. Phương quay nhìn những người bạn ngồi cùng phòng với mình kia. Anh Sinh lách tách gõ máy chữ, chăm chỉ nghiêm trang coi như việc gõ máy là việc quan trọng nhất trong nhân loại. Chị Trang cộng một hàng số mà bôi đi xóa lại. Phải rồi, chị cứ mỉm cười thế kia còn tay trái thì cứ mân mê mái tóc: quả là chị mới uốn tóc chiều qua. Con người mâu thuẫn thật. Giá mà nổ ầm lên một tiếng rồi có ai la "Tận thế rồi, trời ơi!" thì anh Sinh sẽ không còn thấy đánh máy chữ là quan trọng nữa và chị Trang sẽ quên rằng mình mới vừa uốn tóc. Phương vừa buồn cười vừa thương hại cho con người nhỏ nhoi yếu đuối. Và chàng cũng cúi xuống trang sổ như những người bạn của mình. Nhờ công việc như vậy mà rồi giờ khắc qua như thế nào chàng cũng quên không để ý. Mãi cho đến chiều tối, lúc nằm ở ghế dài đặt trước hiên chàng mới đủ thì giờ mà nghĩ và nói:
- Có lẽ không có tận thế.
Nhưng chàng còn nghi rằng tận thế có thể để dành cho đêm nay. Ồ! Như vậy thì rùng rợn lắm. Thà để cho con người thấy rõ vận mệnh dành cho nó, giữa ban ngày. Tận thế xảy ra ban ngày sẽ có nhiều tiếng khóc, tiếng gào nhưng bớt được tiếng kêu gọi nhau, tìm kiếm nhau. Ban đêm!... Nhưng thành thật mà nghĩ, Phương thấy rằng mấy anh chàng tiên tri Ý-đại-lợi đã thua cuộc rồi. Ba phần tư thì giờ đã trôi qua, trái đất và mặt trời vẫn hòa thuận với nhau như hàng triệu triệu năm trước. Xung quanh, tiếng trẻ con đọc bài vang vang, tiếng đọc kinh tối ở nhà bên cạnh đều đều một giọng. Những bản nhạc vẫn trầm bổng phát từ chiếc máy thu thanh. Những giọng ca lả lướt yêu đương, những bức thông cáo trịnh trọng, những bản tin tức rộn ràng như nhắc chàng nhớ rằng trên mọi địa điểm của trái đất, con người đang sống, đang tiêu khiển, đang làm việc và đang hy vọng. Cái cảm giác về sự sống chung đụng này giữa mọi người trên thế giới không biết vì sao lại làm cho chàng thêm tin tưởng rằng loài người còn tồn tại. Sự tin tưởng làm chàng phấn khởi, nhất là khi nhìn bé Ngân nằm ngủ say sưa, đầu đặt trên gối, hơi thở nhịp nhàng. Nhìn một đứa bé ngủ, người ta quả có thêm sự yên tĩnh trong tâm hồn.
Lúc chàng lên giường thì những câu chuyện nhảm nhí ở một trang báo Nhi đồng choán khoảng thì giờ còn lại ngăn cách chàng với giấc ngủ. Và khi chàng chìa tay ra ngoài màn bấm vào cái nút của chiếc đèn giường, óc chàng trống rỗng, không có một ý nghĩ gì ám ảnh hết. Thật quả là không xứng với những giờ quyết liệt còn sót lại. Điều đó, lẽ tất nhiên sau này chàng mới nghiệm thấy.
Sáng hôm sau chàng chỗi dậy theo mặt trời. Chị Hai quét vườn, tiếng chổi lê sạt sạt. Hai con vịt hàng xóm lẻn chui rào tự lúc nào đã bắt đầu cuộc tảo thanh xung quanh vại nước. Gió thổi lao xao lay động tàu lá dừa, và cành lá na, lá mận. Màu lá xanh chứa sức sống dồi dào. Chàng ngẩng lên nhìn trời. Những vảy mây bạc viền màu hồng cũng tưng bừng sự sống. Tất cả mọi vật xung quanh chàng như cùng ca ngợi cuộc đời một cách mãnh liệt, vui say. Chàng nói lên như một lời giã từ:
- Thế là hết tận thế.
Ngày Xuân Êm Đềm
Chiều hôm ấy khi đi học về, An thấy trên ven mép sân vừa trồng một hàng cúc vạn thọ. Mừng quá, An không kịp bỏ mũ sách, nhảy tuốt ra nhà sau tìm chú Ba.
- Chú Ba ơi! Chú Ba! Chú trồng vạn thọ hả chú? Gần tới Tết rồi hả chú Ba?
Câu trả lời của chú, An đoán trước được nhưng An vẫn thích hỏi. Còn ai vào đây trồng hoa nữa? Ba, bốn năm nay từ khi An có trí khôn, An thấy cứ gần Tết là chú Ba đi xin cây vạn thọ hoặc ở chùa Châu Lâm hoặc ở vườn thằng Kiết về trồng một hàng quanh mép sân. An không biết xem lịch vì lịch in bằng chữ nho, cuốn lịch cha nó treo ở khung cửa sổ bên cạnh cái bàn toán. An cũng không lưu ý tìm xem tháng này là tháng mấy. Đối với tâm hồn ngây thơ của nó, cảnh và vật nói nhiều hơn tháng ngày. Nghe con tu hú kêu nó nghĩ đến những chùm trái vú dẻ chín vàng ngọt lịm và nó nghĩ: "Tháng Ba. Mùa gặt tới". Nhìn bà hàng gánh đôi thúng xếp đầy những trái bắp nếp luộc hơi nóng lên nghi ngút, nó cảm nghe mùi ngọt thơm của hột bắp dẻo nghiền tan dưới răng và nó nói thầm: "Tháng Tám rồi. Sắp mưa lụt". Còn ngày Tết thì luôn luôn được báo hiệu bằng dãy cúc vạn thọ.
An nhìn trìu mến dãy hoa vừa trồng. Mỗi cây đứng trong một cái lỗ khoét to bằng cái bát sứ. Cây cao hơn mặt đất không quá hai tấc và đứng gục đầu xuống, lá buông ủ rũ. An có cảm tưởng chúng nhớ đàn nhớ bầy, nhớ cái vạt đất nhỏ nơi đó người ta gieo chúng, nơi đó chúng lớn lên cạnh những anh em của chúng cùng một hoa mẹ sinh ra. Có đôi cây yếu quá tưởng như chúng không thể sống qua đêm nay. Sự lo lắng thương hại của An khiến nó thấy cái thái độ lầm lì lạnh nhạt của chú Ba là đáng ghét. Người lớn trông họ vô tâm đến tàn ác. Mấy cây hoa đau đớn ủ rũ thế kia mà họ vẫn có thể thản nhiên bỏ đứng bơ vơ một mình không săn sóc đến. Đêm đến, khi leo lên bộ ván gõ nằm ngủ, An cứ loay hoay nghĩ về mấy cây hoa đáng thương. Và mới sáng tinh sương khi bừng mắt dậy, nó đã nhảy vội ra sân thăm từng cây hoa. Mừng quá! Dù có cây thân còn cong lại chưa đứng thẳng nổi nhưng cây nào đọt cũng xanh tươi, chỉ những lá gần gốc là héo sẫm lại mà thôi. Dăm ngày sau, cây bén rễ và tới một độ nào đó An không nhớ nữa, những cây hoa lớn vụt thật mau, đâm chồi thật nhiều. Những khoảng cách giữa các cây hoa trước kia trống trải mênh mông, giờ đã bị che mất bởi tàng lá.
Cùng với sự phát triển của dãy cúc vạn thọ, cái Tết như cũng lớn dần. Manh nha từ đầu tháng Mười một với những cơn mưa nhẹ, mưa gieo cải, cái Tết thấp thoáng mơ hồ với những rò cải, ngò, xà lách, tàn ô nằm vuông vắn ở hầu hết mọi sân nhà. Cái Tết lớn lần lên với những bụi hoa, vạn thọ, cúc đại đóa, thược dược phát chồi sum suê và bắt đầu ra nụ. Càng đi sâu vào ngày tháng, cái Tết càng hiện rõ thêm, in dấu vết trên mọi cảnh mọi vật và mọi hoạt động của con người. Chữ Tết được nhắc đi nhắc lại một cách thân mến êm đềm trong mọi trường hợp sinh hoạt ở gia đình. Cha nói: "Mấy dây dưa leo chắc ra trái không kịp Tết. Bậy quá. Bị mưa làm thúi giống gieo kỳ trước". Mẹ nói: "Thằng Ba coi chừng mấy con gà thiến. Để qua nhà lão Dần chó cắn chết thì nghỉ ăn Tết đó nghe?" Ở lớp học bạn khoe với nhau: "Tết này tao được đi thăm cô tao ở Phước Lãnh... Bà ngoại vừa gởi cho mẹ tao một trái bí đao to để làm mứt Tết." Ở ngoài đường, chữ Tết len lỏi trong những câu chuyện: "Chợ Tết mà ế quá, tháng Chạp thiếu, hăm Chín lấy làm Ba mươi, chạy Tết cũng mệt... Tết năm nay ở Phú Mỹ có bài chòi..."
Thôn Quảng Đức đa số làm nghề gốm và buôn vôi thế mà sự sinh hoạt cũng hối hả theo cái đà của ngày Tết cứ sừng sững đến gần. Đồ gốm sản xuất ra, chở đò dọc đem bán ở các chợ xa: chợ Đèo, chợ Đồng dài, chợ Gò chai, chợ Gành, chợ Thứ... tiếng ốc tù-và của chủ đò thúc khách quá giang chuyển hàng cho gấp xuống đò vang lên trong đêm khuya. Càng gần Tết sự mua bán càng hối hả rộn rịp nên chợ nào cũng vãn chậm. Đò xuôi chở khách về cũng mãi khuya mới tới bến. Bến đò thành ra ồn ào rộn rịp suốt đêm. Những cây đèn chai làm bằng một đoạn tre trong tẩm dầu, cháy rực sáng cả bực sông, in ngược bóng xuống nước rung rinh, lóe đỏ cả một vùng.

Trên con đường đi xuyên qua xóm, những dáng người gánh gồng vội vã đi chập choạng theo ngọn đèn chai cầm lắc lư dưới tay. Đèn chai ở đây là một cái đèn dầu nhỏ được một nửa cái chai ụp lên để chắn gió. Tiếng chuyện trò lanh lảnh vang trong đêm, hối hả theo bước chân chuyển từ đầu xóm sang cuối xóm. Trong đêm tối mà mọi vật như xóa nhòa hết cả hình nét để tan vào bóng đen, mà mọi sinh vật đều như mỏi mệt, tiếng nói chuyện tỉnh táo rõ ràng dường giữ đủ cả sắc cạnh. Ở dưới bước chân, bóng người in đen được phóng đại ra, nằm trải xuống mặt đường, nằm vắt qua bờ rào, chập chờn di chuyển theo bước đi.
Một bữa An thấy chú Ba hí hoáy nắn một vật gì trông tựa cái lưỡi cày mà bằng đất sét. Chú lấy mũi dao liếc thật nhẵn mặt. Chỗ tay cầm cũng được gọt thật đều. An hỏi:
- Chú làm cái gì vậy?
- Tao làm cái bàn ủi.
- Làm bàn ủi để chi vậy chú?
- Để ủi quần áo chớ chi.
Giọng nói của chú lơ đãng. Trong giọng ấy còn có vẻ tự phụ vì chú nheo mắt ngắm nghía ra dáng bằng lòng lắm. Rồi chú nói chậm rãi tiếp theo, như nói với cái bàn ủi chứ không phải nói với An:
- Mốt tới phiên lò ông Hương Lạc đem gởi nung. Chín rồi lấy ra đem ngâm nước. Thế là giặt quần áo để sẵn đó. Đem đặt bàn ủi lên lò than nóng rồi cứ vậy mà ủi lên mặt quần áo. Quần áo dầu cũ mà trông như mới.
Cũ mà trông như mới! Thật là kỳ diệu, An nghĩ. Nó nhìn xuống cái áo cũ nó đang mặc, tưởng tượng rằng cái áo ấy sẽ mới và nó ngó sang cái bàn ủi một cách khâm phục. Cái bàn ủi ấy được mang đi nung, điều ấy quả có thật. Chính mắt An nhìn nó chuyển từ màu xám của đất phơ sang màu hồng nhạt của đất nung. Cũng lại chính tai An lắng nghe tiếng "boong boong" khi cầm nó lên để gần tai, cung ngón tay gõ nghe thử. Nhưng chắc chắn là An chưa hề thấy chú Ba dùng nó để ủi cái áo của chú cho từ cũ hóa "như mới". Có lẽ chú đã lén thí nghiệm nhưng bị thất bại nên sau đó chú không tuyên bố gì ráo.
Ngày hăm sáu tháng chạp phiên chợ Hôm, mẹ nói:
- Hôm nay An có đi chợ Tết không con?
An vội vàng như sợ ai kịp phản đối.
- Dạ có. Lát nữa thằng Tòng lại rủ con đi.
Tòng là bạn học lớp Tư của An. Vì sao mà quen thân nhau, An cũng không nhớ rõ vì nhà Tòng ở mãi tận Hội Tín đi học khác đường mà tính tình thì hai đứa không giống nhau. Cha Tòng làm thầy phù thủy. Có lần nó rủ An đến nhà chơi thấy gian nhà giữa đầy những tượng, những hình ông thần, ông tướng, những cờ những đèn, trống chiêng, thanh la, não bạt khiến An sợ khép nép không dám vào. Cha Tòng có một cái trán quá cao. Nhìn gần thấy chân tóc mọc nên An biết trán cao là vì tóc bị cạo. Sau này lớn lên được biết nhà Tòng vừa làm phù thủy vừa hát bội, - hai nghề này có họ hàng với nhau vì hò hét điều động âm binh cũng là một cách hát bội, - nên cha Tòng phải để trán cao mà đội cái mão. Lúc Tòng lớn, Tòng nghỉ học sớm và kế nghiệp cha. Cái trán của Tòng cũng được cạo lên thật cao và chân đi chữ bát. Lúc nói chuyện là hai tay vung vẩy như múa. Đó là kết quả của nghệ thuật tiêm nhiễm vào cuộc đời.
An thay quần áo xong thì Tòng đến. Tòng mặc quần trắng và áo cụt lụa màu hồ thủy. Những nếp gấp làm hai ống quần lép lại và gãy ra làm ba. Tòng đội một cái khăn lông màu vàng nghệ có chạy sọc xanh đỏ. Úp lên trên khăn lông là cái mũ kaki. Trông Tòng nửa giống như một chú nhỏ ở trong tranh vẽ, nửa giống như một tên lính Tàu thời cổ. Chắc Tòng chịu ảnh hưởng của những tấm tranh màu treo la liệt trên tường nhà nó.
Đường xuống chợ có nhiều chỗ lõm thấp xuống, đó là khi con đường đi sát cạnh những cái bàu nước. Mỗi bàu nước mang một tên bí mật: bàu ông Chì, bàu ông Lôi. Mỗi lần đi qua một cái bàu, An khép nép đi sát vào Tòng vừa liếc mắt xuống mặt nước đầy rong, ấu xanh um. Những gốc tre già xám đen, những thân cây sung cong vẹo in bóng xuống mặt nước làm cho các tên ông Chì, ông Lôi được trùm trong một không khí rùng rợn. Người đi và người về tránh nhau trên con đường hẹp. Lũ trẻ con đi chợ về trên tay thế nào cũng có những món đồ chơi, hoặc con gà cồ bằng đất, khi thổi ở lỗ khoét ngang hông thì cất tiếng gáy "côô...côô" hoặc con "chút chít" khi kéo ra đẩy vào thì phát ra tiếng kêu chút chít. Nhiều đứa hãnh diện cầm những ghim pháo tre, những bó pháo thăng thiên đi cạnh mẹ.
Đến gần chợ thì nghe tiếng mua bán xì xào vang lên. Thỉnh thoảng có tiếng pháo tre nổ "đùng" khiến trái tim của hai đứa như nhảy cởn lên. Không ai bảo ai mà cả hai đều rảo bước.
Đến đây rồi, chợ Hôm! Những dãy lều mái bằng tranh rạ cột tre yếu ớt sắp chạy từng dãy. Có nhiều hàng bày bán ở giữa trời, như hàng trái cây, cá mắm. Hai cây đa to tỏa bóng mát cả một khu chợ. Lá đa dày san sát ở trên từng cao làm thành một vòm xanh lao xao cử động. Tiếng rì rào vừa phát tự dưới đất nơi người ta buôn bán trao đổi vừa phát tự trên cao do gió lay cành lá. An gặp chị Thắm bày bán đồ gốm ở gần gốc đa. Chị Thắm ở cạnh nhà An, hàng ngày vẫn sang giếng nhà An xách nước nhưng sao hôm nay trông chị lạ hẳn đi. Có lẽ vì chị mặc áo dài và đi guốc chăng? Hay vì đặt chị giữa cái khung cảnh lạ mà người chị trông cũng lạ đi. Những đồ gốm: ấm, chậu, hỏa lò, lon, vò, cây đèn, v.v... hàng ngày vì quá quen mắt An coi như không có giá trị gì nữa, coi như những đồ chơi vô nghĩa, thế mà người đến xem xét trả giá tấp nập. Chị Thắm đóng vai trò một cách rất nghiêm trang, từ chối rất quyết liệt, thách giá rất chắc chắn. Cái ấm cái chậu bỏ lăn lóc ở xung quanh hè nhà chị Thắm, thỉnh thoàng An lỡ đi vô ý đá phải ngã lăn, nay thấy người mua mặc cả giá từng đồng, móc túi đếm từng tờ bạc để trả và cuối cùng nâng niu xếp lên rổ bưng đi. Tòng nói:
- Tụi mình ra hàng pháo coi.
Hai đứa cầm tay nhau đi. Hàng pháo ồn ào nhất nên không mất công tìm. Nó ở cách biệt ra một góc chợ xa những hàng khác vì tiếng nổ không ai ưa, nhất là những người đi chợ hầu hết là đàn bà. Bác bán pháo là một người đàn ông vạm vỡ. Chỉ bán có pháo tre và pháo thăng thiên, bác đựng trong một cặp bồ lớn. Một số pháo bày làm mẫu được dàn trên một chiếc chiếu nhỏ. Người mua pháo bắt đốt thử. Bác tháo ở gắp tre lấy một chiếc pháo, bóc giấy (miếng giấy xanh đỏ dán đè lên ngòi) rồi đặt lên một tấm gạch cách xa bác một sải tay. Bác cầm cây hương cháy châm lên ngòi. Ngòi pháo xì khói, bác quay mặt sang một bên và một tiếng nổ "đùng" rền lên, chát tai. Xác pháo là một vòng nan tre bị cháy xém bay tung lên cao rồi rớt xuống.
Hàng hoa quả không hấp dẫn bằng ngày thường vì không có những miếng mít múi vàng óng ả, những trái mãng cầu nứt gai chảy mật, những quả ổi thơm, những trái xay, trái sim, trái đát. Hôm nay người ta chỉ bày bán những nải chuối xanh mà chuối xanh thì trẻ con không thích vì không ăn ngay được. Trẻ con không có tính kiên nhẫn đợi chờ. Ngày thường mẹ đi chợ về An lật rổ ra coi mà thấy bí thấy rau thấy cá là An ghét lắm. Kẹo, mít, bánh rán... mới là những món An hoan nghênh. An và Tòng đưa nhau sang hàng thịt cá. Thật đáng thương hại cho những bà hàng này quanh năm phải bán y một món không thay đổi. Áo quần thì đen đủi, món hàng thì tanh tưởi, thật không có một vẻ Tết vẻ xuân nào cả. Chẳng bù với hàng bánh mứt họ bày bán trong những cái quả sơn quang dầu đỏ thắm trông vui như những đám cưới. Các cô bán mứt đều xinh, tóc vấn trần chải dầu dừa láng mượt, áo dài vải trang đầm bó sát người.
Kề ngang hông chợ là dãy phố Hoa kiều. Đó là tiệm chú Năm Heo và tiệm ông Ngâu. Khách vào ra đa số là đàn ông đi mua rượu, tranh sơn thủy, chén bát, nho táo. Tiệm chú Năm Heo bán thuốc bắc. Những người đến cân thuốc xách đu đưa những gói thuốc bước ra khỏi tiệm, mặt trông buồn giữa cái khung cảnh nhộn nhịp của ngày xuân vui. Chọn ngày Tết để đau bệnh thật là không phải lúc.
Đi loanh quanh một lát hai đứa đã bắt đầu chán. Chợ ngày Tết khi chưa tới xem thì thấy háo hức là thế nhưng đi lại đôi vòng chúng đã khám phá hết mọi bí mật. Sự thỏa mãn có pha một ít chán chường như khi đọc một cuốn truyện cổ tích được người ta quảng cáo là hấp dẫn nhưng đọc xong một lượt thấy không còn thèm thuồng nữa. An nhìn trở lại khung cảnh chợ. Những dáng người đi lại chen lấn, cúi xuống lựa chọn mặc cả, những tiếng xì xào, ngay cả đến bóng rợp của cây đa cao An đều thấy quen thuộc hết.
Ngày hăm bảy tháng Chạp chú Ba đi hái lá me và trái me về giã nhỏ ngâm nước chùi đồng. Công việc thật nặng nhọc vì những bộ lư đèn ở ba bàn thờ tổ đều to lớn bề bộn. An cũng xen vào công việc cho vui nhưng chỉ chùi được những cái hộp thau mặt nhẵn. Nắp lư hương có hình con lân con phụng bị chú Ba hắt hủi nhất vì những kẹt khó chùi. Người đầy tớ phải lau dọn săn sóc thật khó có thể đồng quan điểm với người thợ đúc khéo tay và người chủ nhà yêu mỹ thuật. Việc quét nhà cuối năm cũng không kém nặng nhọc. Chú Ba bắc thang leo lên rầm cao, cầm cái chổi có cán dài để quét bụi và mạng nhện ở mái nhà. Chú bịt đầu bằng một cái áo đen cũ. Lúc bước xuống thang, mặt chú mốc thếch vì bụi trông lạ hẳn và như già đi.
Mẹ lo rim mứt. Hết chảo này đến chảo khác, mẹ ngồi trở mứt, mứt bí, mứt gừng, mứt chanh, mứt dừa... mà không hề la mỏi. Có đêm An mơ màng ngủ mà hễ chợt dậy là vẫn thấy mẹ ngồi cạnh chảo mứt cầm đũa đảo qua đảo lại. Tiếng nước đường sóng sánh. Hình như cả đêm mẹ không ngủ. An nghĩ: chỉ có mình là sung sướng nhất, chẳng phải làm gì hết. Thế mà lại được ăn nhiều nhất. Những miếng mứt vụn An ăn từ hồi còn dẻo. Khi mứt khô vớt ra nia phơi thì An vét chảo ăn đường. Chỗ nào có An là có cặp tay phá khuấy và cái miệng ăn không ngớt.
Ngày hăm chín gói bánh tét. Lại cũng chỉ mẹ và chú Ba là bận rộn. Những đòn bánh to bằng bắp vế thế mà cũng do mẹ thoăn thoắt sắp lá, đong nếp, đổ đậu xếp nhân thịt, gói, buộc lạt. Chú Ba ngồi cạnh phụ tay. Cha trông vậy mà cũng dở. Cứ đi lên đi xuống ngó chừng và nói vô ích làm mẹ mất công trả lời. Chẳng hạn:
- Đừng buộc chặt tay quá kẻo bánh không chín đều. Hôm đám giỗ ông nội bánh bị sống...
Cha bỏ lửng câu thì mẹ nói:
- Nhớ rồi.
Chẳng hạn:
- Còn dư nếp đủ gói một đòn nữa. Thế là một, hai, ba, bốn... đúng mười hai đòn cả thảy.
Mẹ nghe cha nói, miệng vừa cắn một đầu sợi lạt một tay cầm đầu kia xiết cho chặt vừa đưa mắt nhìn xuống số đòn bánh tét mà cha vừa đếm. Quả cha đếm không sai, nhưng số bánh không nhờ cha đếm mà tăng thêm. Cha chỉ làm được một việc mà An thích: đó là chôn một cột trụ giữa sân để chong cây đèn gương. Có lẽ cha cũng sẽ sai chú Ba đào lỗ chôn nếu chú Ba không bận tay. Cái đèn hình lục lăng, tối thắp lên sáng cả sân, đứng làm bạn với An khi nó phải trèo lên nằm ngủ trên chiếc ván gõ rộng ở nhà trên.
Những ngày mùa đông, gió mưa lạnh trời tối đen như mực mà một mình nằm ở nhà trên rộng mênh mông thật là cô đơn. Lắm lúc An có cảm giác rờn rợn rằng thân mình đã tan ra để lẫn mất vào bóng đêm. Khổ nhất cho An là khuya chợt thức buồn đi tiểu mà lò mò mãi trong bóng tối không biết cửa ở về phía nào để mở. Trẻ nhỏ nằm ngủ trên bộ ván rộng thì tha hồ mà quay. Đến chừng tỉnh giấc nhắm chừng mò ra cửa nhưng lại cứ đi xông ngược vào bàn thờ. Rờ chỗ nào cũng thấy những bàn những ghế. Sao mà lắm bàn lắm ghế vậy? Đêm nay nằm nhìn ra cửa sổ thấy ánh đèn sáng. An vui quá không muốn ngủ nữa. Ở dưới nhà ngang còn nghe tiếng lục cục của mẹ làm việc. Hồi chiều chú Ba làm thịt một lần hai con gà cồ thiến và ba con vịt. An lẽo đẽo theo đứng một bên để nhìn, An hỏi:
- Sao giết gà vịt một lần nhiều vậy chú?
- Chớ mày muốn để sáng mồng Một sát sinh hả? Làm thịt bữa nay để cúng hai bữa.
An nhìn dòng máu đỏ chảy từ cái vết cắt ở cổ chảy ròng ròng xuống cái bát, nhìn những cặp mắt mở to rồi mờ dần yếu dần cho tới lúc nhắm hẳn. Cái chết đến im lặng, nhẹ nhàng như một trò chơi dễ. An thấy thương hại cho con gà cồ oai vệ, cho con vịt hiền lành. An chép miệng:
- Tội nghiệp mấy con gà, con vịt hở chú? Chú giết nó không sợ nó báo oán sao?
Chú Ba quay phắt lại liền:
- Thằng này dóc tổ. Tao thấy xào nướng bưng lên là mày gắp liền tay. Mày ăn thì nó báo oán mày chớ mắc gì đến tao?
An thấy chú Ba nói cũng có lý nên định bụng thôi lần này không ăn thịt gà thịt vịt nữa. Nhưng ý định đó An quên ngay khi chú Ba rửa ráy xong bưng rổ gà vịt đi mất và nó thẩn thơ đi tìm xem chuyện khác.
Sáng mồng Một tiếng pháo nổ rầm rầm làm An choàng tỉnh dậy. Hỏi chú Ba thì là pháo ở tiệm khách Tụn. Nhìn vào bàn thờ thấy đèn sáp thắp sáng trưng và cha đã khoác áo chỉnh tề đứng khấn rì rầm. Trông cha uy nghiêm thật phù hợp với cái không khí nghiêm trang nơi đây. Để tăng thêm vẻ đường bệ, mọi cử chỉ của cha đều chậm chạp: rót rượu, châm nước, đốt hương, sửa nến. Cha đọc từng hàng chữ nho: "Đại Nam quốc, Phú Yên tỉnh, Tuy An phủ, An Sơn tổng..." chú Ba đem pháo tre ra đốt. Chú thích pháo nhưng nhát không dám cầm cây hương đốt mà phải cầm một thanh củi dài có đầu lửa đỏ. Mười tiếng nổ đùng liên tiếp, tiếng nào tiếng nấy bưng tai. Mẹ nói:
- Pháo năm nay hay.
An ngạc nhiên. Trông bộ mẹ lục đục suốt ngày như chỉ biết chú ý đến công việc làm thế mà không ngờ mẹ cũng lưu ý đến tiếng pháo vui chơi. Cha tươi cười vì câu nói của mẹ ngầm ý bảo: năm nay làm ăn có hy vọng khá vì pháo nổ chắc tiếng. Cả thôn Quảng Đức chỉ có chú khách Tụn đốt pháo dây còn thì các nhà khác chỉ đốt pháo tre, có nhà mươi tiếng, có nhà ba tiếng, năm tiếng.
Vừa bảnh mắt đã có mấy tay cầm cái xóc dĩa chia nhau từng chặng trải chiếu trên con đường xóm. Lũ trẻ con bâu quanh liền. Chú Ba bôn chôn ra mặt khi nghe tiếng bốn đồng tiền rủng rẻng của hàng xóc dĩa tổ chức ngay ở góc rào nhà. Chú ham đánh xóc dĩa và ích-xì hơn ăn mứt ăn bánh. Chú cứ đi ra đi vô như người mất hồn. Khổ cho chú hơn nữa là ở ngoài góc rào tiếng lũ nhỏ cứ reo lên:
- Bán chẵn này.
- Lạy trời ra cái lẻ nữa đi.
- Đặt bên chẵn một tiền rưỡi.
- Lẻ! Lẻ! Coi chừng nhà cái chạy làng.
Đường cái vang lên tiếng guốc. Nghe tiếng guốc có thể đoán biết được người mang. Tiếng guốc lỏng cỏng gõ vội vàng là tiếng chân của một đứa bé mới tập đi guốc lần đầu. Tiếng guốc chậm chạp thỉnh thỏang dừng lại là tiếng guốc của người mẹ, người chị đi kèm lũ trẻ. Tiếng gõ chắc chắn nện mạnh trên nền sỏi là tiếng guốc của người đàn ông. Con đường sỏi đá gập gềnh làm nhiều đứa nhỏ đi trượt guốc cứ phải tụt lại đằng sau đứng sửa. Lắm đứa đã chán với cái trò chơi đi guốc rồi nên cặp guốc lại cầm ở tay và đi chân đất như thường ngày. Lối đi này thoải mái dễ chịu hơn cả.
Đường cái rộn rịp nhưng nhà cửa thì vắng vì cửa ngõ cửa ra vào nhà ai cũng đóng im ỉm hoặc mở he hé. Xóm làng thành ra mang một vẻ uể oải giả dối. Vì ở đằng sau cánh cửa đóng là cả một sự hoạt động rộn rịp.
Gần trưa, cha An tiếp những ông khách lễ mễ trịnh trọng trong những cái áo dài đen và cái quần trắng. Những ông nhà nông mà thường ngày mặt mày không lúc nào khỏi đầy bụi bặm, râu ria tua tủa, áo vải to dày cộm thấm đầy mồ hôi, hôm nay mặc áo quần mới trông trẻ và đẹp ra. Nhưng An không thích nghe tiếng chân ghế kéo chạm vào mặt đất khi khách sắp ngồi và khi khách đứng dậy sửa soạn ra về. Những câu chuyện trao đổi giữa cha mẹ và các người khách cũng vậy. Toàn nói những thứ gì An không hiểu, thế mà họ cũng cười với nhau một cách thích thú thành thật. Những lúc này An tỉ tê theo gợi chuyện với chú Ba. Những điều An hỏi, chú Ba đều trả lời được hết:
- Sao đánh xóc dĩa, chị Lượm đặt tiền lại quay thành một vòng ở dưới chiếu hở chú? Sao không đặt một ụ như người ta?

- Hễ nó ngồi bên phía chiếu lẻ mà nó muốn đặt chẵn thì nó đặt tiền quay thành một vòng. Nếu nó để thành ụ, thành đống thì tức là nó đánh lẻ.
- Sao chị ấy không đặt sang bên chiếu chẵn cho nó tiện?
- Tại ngồi xa nó với tay không tới.
- Họ chúc Tết "bách niên dai lão" là sao hở chú?
Chú Ba vừa nhai miếng cốm vừa nói:
- "Dai" lão là sống dai.
An hết thắc mắc, vói tay vào dĩa lấy một miếng cốm ăn theo chú. Đây là phần bánh mứt mẹ sớt vào một dĩa lớn dành cho chú. Trong số những vò, hũ, chum... bỏ trống ở nhà bếp, chú chọn một cái vò để cất dĩa bánh mứt vào đó. Khi đi chơi về, hoặc vào trưa, hoặc lúc khuya, chú mở vò bưng dĩa ra lấy ăn. An chia phần với chú và ăn thấy ngon hơn là khi ăn chung với cha mẹ.
Ngày mồng Hai cha nói:
- An có muốn theo cha xuống núi Một thăm ông Cửu Nghiệp không?
An mừng quýnh trả lời vội vàng:
- Có.
Ông Cửu Nghiệp giàu nhất vùng và nhà ông xây hai từng. Suốt một phủ Tuy An chỉ có bà Cửu Phần và ông Cửu Nghiệp là ở nhà lầu mà thôi. Ông là chỗ bạn thân của cha nên mỗi khi đi ra tỉnh tiện đường ông đều ghé nhà. Cha tiếp ở nhà trên, ngay gian giữa. Hôm nay theo cha, An mặc áo dài đen cẩm nhung. Sự trịnh trọng này do một ngẫu nhiên may mắn mà có được. Số là xấp hàng cẩm nhung cha đưa may cắt thế nào mà rốt cuộc còn dư lỡ cỡ một đoạn. Tính toán đủ lối vẫn không có cách nào dùng được cả nên cuối cùng mẹ đề nghị: để may cho thằng An cái áo dài. Đó là cái áo dài đầu tiên của nó. Bước ra đường, An được lũ trẻ trầm trồ nhìn. Hơi ngượng một chút nhưng mà thầm thích thú. Con đường hôm nay không chỉ có những người đi rong chơi mà còn có nhiều người đi làm ruộng. Người ta đã cởi bỏ bộ quần áo mới như còn nuối tiếc nên vẫn cố giữ hoặc một cái quần hoặc một cái áo vải mới. Thân người nửa mới nửa cũ hóa ra màu cũ trông tàn tạ thêm. Cày cuốc ngự trên vai.
Đi qua khỏi xóm thì tới cánh đồng Hòa Mai. Ruộng đang mùa cày bừa trông thấp hẳn xuống. Vài đám mới cấy, bụi lúa cắm như chân hương vàng vọt. An thường quen mắt với đồng lúa mướt màu xanh, lá lúa gợn sóng hoặc cánh đồng lúa chín vàng hạt lúa nặng làm gục đầu thân lúa nên trông cánh đồng hôm nay có vẻ trần truồng. Con đường ruộng, từng chặng, nhầy nhụa những khối bùn do các cô thợ cấy ném lên khiến An phải đi rón rén cẩn thận. Đưa mắt nhìn quanh sang các xóm làng bao quanh cánh đồng, An thấy chỗ này chỗ kia có từng đoàn người đi, màu áo đen trên điểm nón trắng. Thỉnh thoảng nhô lên cái ô đen. Nó lẩm nhẩm lẫn lộn không biết đó là Hòa Tú hay Hòa Chiểu, phía kia là Hà Yến hay Trường Xuân. Cha chỉ một xóm trước mặt, nói:
- Núi Một kìa.
Đó là ngọn núi thấp nằm dài, mình mang đầy cây cối xanh um. Dưới chân núi các nông trại chia nằm rải rác từng nhóm. Theo tay cha chỉ, An chú ý nhìn vào khu vườn nhà ông Cửu Nghiệp xanh um màu tàu chuối tàu cau. Thân cau trắng mốc đứng vươn lên thành hàng song song. Nỗi vui được thấy cảnh lạ làm An quên nghĩ đến con đường còn lại phải đi. Thoáng mới đó mà đã giã từ con đường ruộng để bước lên con đường đá đánh vòng đai núi Một. Những bụi gai thấp, những chùm táo nhơn thưa, những thân chuối rậm rạp xanh mướt trông quen thuộc.
Bước vào vườn chuối, An thấy êm mát vì ánh sáng lọc qua lá chuối non đổ xuống xanh xanh. Thân chuối bụ bẫm đứng cao vút như muốn vượt theo thân cau. Ở vườn nhà, chuối thấp hơn và thân cau cũng gầy hơn. An nghĩ thầm: "Cái gì của ông Cửu Nghiệp cũng oai". Những cây mít mang trên mình đầy trái. Trái lớn quây quần dưới gốc còn rải rác trên thân cây là những trái hạng vừa nằm thưỡn dài trông như những cái vú chảy. Bưởi cam cũng không thiếu. An thèm thuồng cái địa vị của người con ông Cửu Nghiệp được sống giữa những món ăn ngon này. Sao ở nhà nó lại chỉ có toàn những lúa và nếp thế? Có lần nó thỏ thẻ so bì với mẹ:
- Nhà con Bông làm kẹo nên nó sướng hơn con. Kẹo bể là nó ăn. Véo chỗ kẹo dẻo nào cũng bỏ vào miệng được. Nhà mình thì chỉ toàn lúa nếp. Lúa ăn không ngon. Sao mẹ không làm nghề kẹo có sướng hơn không.
Mẹ cười mà không trả lời.
Tiếng chó sủa ồ ồ làm An giật mình. Tiếp theo, tiếng sang sảng vang trong nhà:
- Có đứa nào ra coi chó, bay.
Đúng là tiếng của ông Cửu Nghiệp, giọng chậm rải của người giàu không cần vội vàng. Người ở là một anh lực điền ra mở cổng. Ba con chó cao to như ba con bê nhảy xồ ra khiến An bấu vào áo cha. Cha vẫn đứng yên nhìn vào anh lực điền đang lấy tay gãi sau ót lí nhí thưa:
- Dạ thưa thầy xuống dưới này.
- Ờ! Có ông Cửu ở nhà không?
- Dạ có.
Cha ung dung bước vào khiến ba con chó đứng dạt ra. An bước theo, lây cái can đảm của cha. Ông Cửu Nghiệp ra đứng trước hiên vái chào. Ông đội khăn nhiễu đen, mặc áo xa-tanh màu lam dệt bông to, chân đi giày Gia Định. Cha cúi xuống chắp tay vái trả lại. Ông Cửu quay lại xoa đầu An và nói:
- Con đi xa có mỏi chân không? Để bác mừng tuổi cho con.
Ông móc túi lấy một cắc bạc trắng tinh đặt vào lòng bàn tay An. An lúng túng không biết nên làm sao. Chợt nhớ tới cha và ông Cửu chào nhau lúc nãy, nó chắp tay cúi xuống vái. Lát sau khi đã bình tĩnh lại nó thấy ngượng vì cái vái vô duyên. Đáng lẽ phải nói "Con cám ơn bác".
Cha và ông Cửu ngồi ở một cái bàn tròn trên xếp đầy những đồ dùng mà thoáng nhìn An đoán là rất quí, rất đắt tiền. Bộ bình trà có chạm rồng nổi mạ vàng. Ve rượu bằng thủy tinh trong suốt có một cái bầu rất thon và cái vòi nhỏ uốn cong dịu dàng. Ly rượu toàn viền vàng. Cái điếu thuốc lào khảm xà cừ với cần trúc uốn dài cong vút. Hộp trầu, khay kỷ, dĩa bánh mứt, tất cả đều choáng lộn hoặc màu xanh đỏ óng ánh xà cừ hoặc màu vàng quí phái hoặc màu trắng muốt nõn nà. An ngồi ở cái trường kỷ tay mân mê những chỗ chạm trổ hình rồng hình phụng. Quả hồng tàu ông Cửu cho, nó nắm mà không ăn. Nó cứ đưa mắt nhìn cái nhà rộng thênh thang với cái trần cao trong bày biện toàn những đôn, lọ, sạp, ghế. Nó nhìn lại ông Cửu thấy ông bé quá so với cái nhà. Để che nắng che mưa chắc chắn ông Cửu không cần một cái nhà to như vậy. Nó chợt thấy khâm phục con người nhỏ nhắn mà có thể tạo tác ra một công trình to lớn dường ấy. Ở đằng bàn tròn, ông Cửu và cha chuyện trò tương đắc. Khói thuốc tỏa ra bao vây chỗ hai người khiến trông họ như ngồi sau đám sương mờ mờ đục.
Khi cha đứng dậy cáo từ, ông Cửu nài ở lại nhưng cha lấy cớ ngày Tết có khách đợi ở nhà nên không chịu. An lãnh thêm hai trái cam ông Cửu cho, cúi đầu chào và theo bén gót cha. Ông Cửu đi tiễn đến mãi đầu đường mới trở lại. Khi còn lại hai cha con, An nói:
- Cha hẹn cho con coi lầu ông Cửu Nghiệp mà con không thấy lầu đâu cả.
- Thì nhà lầu đó.
- Nhà lầu gì vậy? Phải leo lên trên lầu mới gọi là lầu.
- À quên! Tao tưởng mày biết rồi. Nhưng mà... cũng vậy đó thôi, cũng như hai cái nhà chồng lên nhau.
Về đến nhà đôi chân An mỏi nhừ. Tuy vậy nằm nghỉ một lát rồi An lại nhập bọn với lũ trẻ và như thế là ngày mồng Hai nhẹ nhàng trôi qua. Mồng Ba cũng vậy. Ngày mồng Bốn cúng tiễn ông bà. Giấy tiền, giấy vàng bạc chất đầy nia to, chú Ba vừa đốt vừa nheo mắt tránh khói khiến cái miệng méo xệch. Chú lấy một xấp giấy vàng bạc phết hồ lên lưng từng tờ đem dán vào cái cối xay, cái cối giã, mấy cái chày, cái thúng, cái giếng, cái ngõ, cây mít... không biết có qui chế nào ghi rõ món nào phải dán không nhưng cứ xem vẻ mặt của chú khi cầm tờ giấy vàng bạc dính đầy hồ đứng lưỡng lự trước chuồng heo và cây ổi là An đâm nghi. Hình như chú phải kiếm cho ra món để dán kỳ hết xấp giấy vàng bạc. Được tờ giấy vàng bạc dán lên mình, mấy đồ vật tầm thường như có thêm linh hồn và đang dự vào một cuộc sống huyền bí. Trong lễ cúng tiễn, bao nhiêu pháo còn lại đều đốt hết. Bảy, tám đòn bánh tét cũng đem chất đầy ghế. An nhìn ánh lửa thiêu vàng mà bùi ngùi. Phải một năm sau mới gặp trở lại, một năm trọn vẹn vì cuộc hành trình mới vừa khởi đầu. An thấy buồn chán nản.
Tuy vậy, tháng ngày cứ nhẫn nại và lặng lẽ đi qua, như một lũ nhỏ cầm tay nhau đi vòng, đi mãi rồi thế nào cũng gặp lại chỗ cũ. An lớn lên dần và cái thôn Quảng Đức cũng già nua dần đi. Những ngày Tết nối tiếp nhau theo cái tốc độ chậm chạp của nó nhưng khi ngoái nhìn trở lại trong dĩ vãng, tính nhẩm số tuổi thì An lại thấy chúng đi mau. Mỗi lần Tết đến hoa cúc vạn thọ lại nở trước sân nhà, tiếng đồng tiền xóc dĩa lại rủng rẻng khắp ngõ xóm. Ngồi lần lại ký ức, An thấy yêu mến hết sức cái Tết năm đó An theo cha xuống thăm nhà ông Cửu Nghiệp. Ông Cửu Nghiệp là hình ảnh của sự sung túc, của cuộc đời an nhàn lý tưởng trong những ngày bé thơ của An. Sau đó chừng mười năm khi An lớn lên và phải đi học xa. An sống xa dần cái khung cảnh êm đềm ngày xưa và những người quen thuộc cũ. Một lần đột nhiên hỏi về ông Cửu Nghiệp, An nghe cha nói một cách bùi ngùi:
- Ông Cửu về ở trên Đồng Tranh từ năm kia. Nghe nói bây giờ túng lắm. Bà Cửu phải làm hàng xáo.
An tự xét:
- Ông Cửu giàu như vậy mà sao lại nghèo mau vậy?
- Vì mấy vụ kiện vẩn vơ, chuyện tranh giành ruộng hương hỏa tuyệt tự đáng lẽ có thể thu xếp ổn thỏa nhưng vì tức khí lại bị hương lý và lũ nha lại xui nguyên giục bị nên cứ theo kiện mà sạt nghiệp.
- Còn cái nhà lầu?
- Sở vườn đem thục để chạy kiện rồi đoạn mãi luôn. Cái nhà lầu bán cho chú khách Lê ở Hàng Dao. Ông Cửu phải về ở trên Đồng Tranh là quê của bà Cửu.
An buồn như nghe tin chẳng lành xảy đến cho người thân thích của mình.
Ngày chiến tranh bùng nổ, cái nhà lầu của ông Cửu Nghiệp bị phá hoại. Vôi gạch đổ xuống từng đống. Nền xi măng chú khách Lê cho người ta gặt nhờ để đạp lúa. Mỗi ngày gặt, được một giạ lúa cho thuê sân. An ngậm ngùi nhìn cái di tích của thời ấu thơ êm đềm nay không còn nữa, có còn chăng cũng chỉ ở trong cái ký ức bề bộn của chàng thôi. Lâu lâu khi có dịp, An ra đầu xóm đứng nhìn về chân núi Một. Chòm lá chuối lá cau xanh ngắt của vườn ông Cửu Nghiệp còn đó. Những thân cau vẫn một màu trắng mốc đứng vươn lên từng hàng song song. An tưởng tượng thấy ở nơi cái vườn sum sê hoa lá ấy những con chim sẻ vẫn say mê mổ thóc rụng, những con chích chòe vẫn nhí nhảnh chuyền trên cành lá lục lọi tìm sâu, những con chiền chiện vẫn mải miết tước lá cau lấy sợi về làm tổ. Ở dưới các con mương nhỏ mọc đầy khoai môn khoai sáp, lũ cá sặt cá rô vẫn tinh nghịch đớp mồi và lũ châu chấu cào cào vẫn xòe cánh mỏng màu lúa non mà bay sè sè trong nắng. Sự sinh hoạt của cảnh vật vẫn bình thản êm đềm, nhưng còn đâu nữa ông Cửu hào hoa và ngôi nhà lộng lẫy?.
Võ Hồng
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tắc đường

  Tắc đường Lô! Tôi sẽ đến ngay!... Khoảng 1 giờ nữa, được không?... Ừ, thế nhé!... Bỏ điện thoại vào túi quần, hắn nhìn đồng hồ thầm nghĩ...