Chuyện ở bản Cón
Trời mới tang tảng sáng, sương mù còn giăng
kín khắp bản, cái rét như cắt da cắt thịt vậy mà ông Tự đã dậy từ lâu. Ông đi
xuống khu vực chuồng trâu tiếp thêm một ít củi vào đống lửa đang âm ỉ cháy để
sưởi ấm cho đàn trâu bò gần hai mươi con.
Mùa đông năm nay đến muộn hơn so với mọi năm nhưng liên tục xuất hiện các đợt không khí lạnh tăng cường. Mấy hôm vừa rồi, cả vùng núi Phủ Quỳ quê ông nhiệt độ đều xuống thấp dưới 12 độ C, thậm chí có hôm xuống đến 8 – 9 độ C vào sáng sớm và ban đêm. Để bảo vệ đàn vật nuôi, ông cùng cán bộ thú y của xã đi vận động bà con thực hiện nghiêm các biện pháp, phòng chống đói, rét như cho trâu, bò ăn uống đủ chất, chỉ chăn thả lúc mặt trời lên, vào buổi sáng và chiều phải cho vật nuôi vào chuồng đã quây kín để tránh gió lùa, đốt lửa sưởi ấm cũng như tuân thủ giữ vệ sinh chuồng trại luôn khô thoáng. Do thực hiện đúng các chỉ dẫn của cơ quan thú y mà xã biên giới của ông vẫn an toàn, đàn trâu bò hàng ngàn con chưa bị thiệt hại gì từ đầu mùa đông đến nay.
Vừa chất thêm mấy cây củi gộc vào đống than hãy còn đượm, ông
Tự vừa soi đèn pin nhìn ngắm đàn trâu bò của mình mà lòng cảm thấy dâng lên niềm
vui. Ông thầm cảm ơn cuộc đời đã cho ông thành quả sau hơn ba mươi năm lao động
miệt mài, không ngơi nghỉ. Phục viên trở về địa phương, một huyện biên giới đặc
biệt khó khăn của tỉnh, cái nghèo đói cứ bủa vây lấy gia đình ông và bà con
trong bản Cón. Vùng đất quê hương ông mang đặc điểm “mới nắng tí đã khô, mưa xuống
là nhão nhoét, đất không giữ được nước” cho nên việc canh tác rất khó khăn. Anh
em đông, gia tài cha mẹ để lại chỉ có ngôi nhà sàn cũ kỹ, mọi thứ tưởng như
đóng sập lại trước ước mơ thoát nghèo của người lính vừa mới trút bỏ bộ quân phục
để trở lại đời thường. Nhưng với bản lĩnh, nghị lực của mình được trui rèn qua
gian khó, hiểm nguy, vợ chồng ông đã hăng say lao động sản xuất, quyết tâm làm
giàu trên vùng đất khó.
Cùng với những chương trình, chính sách của Chính phủ hỗ trợ
giảm nghèo cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi, sự chủ động lồng
ghép các chương trình, chính sách của trung ương với các chính sách đặc thù của
tỉnh, của huyện, cuộc sống của gia đình ông, của bà con trong xã và huyện cứ thế
dần dần đi lên. Gia đình ông đã đi đầu trong việc vay vốn ngân hàng để đầu tư
trồng cây keo, chanh leo, chăn nuôi các loại trâu bò, vịt trời, vịt bầu, gà
đen, lợn Móng Cái… tất cả đều cho năng suất thu hoạch cao. Kinh tế cứ thế phát
triển ngày một vững chắc. Từ một anh đội trưởng sản xuất, bằng năng lực, uy tín
của mình, ông Tự đã được bà con tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Hội Nông dân của
xã. Mô hình kinh tế VAC của gia đình ông là một hình mẫu của địa phương, được
nhiều nơi đến tham quan, học tập. Cả bốn đứa con đều đã trưởng thành, có công
việc ổn định. Ông đã xây dựng cho gia đình một cơ ngơi khang trang, bề thế.
Ngôi nhà ba gian theo kiểu hiện đại với đầy đủ tiện nghi mọc lên cạnh ngôi nhà
sàn do cha mẹ ông để lại. Ngôi nhà sàn này ông đã cho tu sửa, làm lại gần như mới.
Đây là nơi thờ cúng cha mẹ, tổ tiên và là nơi sinh hoạt gia đình trong các buổi
lễ quan trọng. Ông muốn nơi đây luôn lưu giữ những kỷ niệm của đại gia đình
mình về một thời khốn khó và cũng là để góp phần bảo tồn nét đặc sắc của dân tộc
Thái ở miền Tây xứ Nghệ này.
Xong việc ở chuồng trâu, ông Tự mới quay lên đánh thức cả nhà
dậy. Nghe tiếng gọi ồi ồi của cha, Mận bèn chui từ chăn ấm ra ngó nghiêng nhưng
rét quá lại nằm xuống. Ông Tự thấy thế bèn đứng ở cửa nói vọng vào:
– Ơ, cán bộ mà không gương mẫu trước nhân dân à? Không chịu dậy
à? Người ta sắp về đến ngõ rồi a..!
Nghe cha nói vậy, Mận tỉnh ngủ hẳn, cô bước xuống giường đi
ra nhìn cha cười ngượng. Mận cũng mới ở ngoài đảo Bạch Long Vĩ về nhà được hai
hôm nay. Ở ngoài đó cũng rét nhưng cô thấy thời tiết không buốt như ở quê mình.
Bà Piến đặt chõ xôi lên bếp giữa nhà sàn rồi nổi lửa làm bữa ăn sáng. Hôm nay,
ông Tự huy động cả nhà bắt đầu dọn dẹp nhà cửa, nương vườn thật sạch sẽ để ngày
mai đón đoàn khách đặc biệt từ Hải Phòng vào. Đó là đoàn của gia đình cậu
Thành, người yêu Mận vào làm lễ Dam xao (dạm ngõ).
Trong bữa cơm tối qua có cả mấy anh chị em ruột của ông tới dự,
ông Tự báo với mọi người ý định sau lễ Dam xao vào ngày mai xong, hai
gia đình sẽ bàn bạc, thống nhất chọn ngày tổ chức lễ Óc ná pợ, ná khươi (lễ
ăn hỏi – lễ ra mắt cô dâu chú rể) sau đó một tháng. Sau khi đón Tết nguyên đán
xong thì sẽ tiến hành lễ Ết đoong (lễ cưới).
Bà Piến nghe chồng nói vậy bèn thủng thẳng góp ý với ông Tự:
– Thời nay xã hội văn minh hiện đại rồi, nhà người ta lại là
dân thành phố, ông xem làm như nào đó cho hài hòa, đừng nghiêng hẳn về phong tục
của người Thái mình, kẻo gây khó cho người ta!
Ông Tự định giải thích cho vợ hiểu rằng chỉ thực hiện một số
nghi lễ chính theo phong tục cưới xin của quê mình thôi, để con cái nó nhớ về
truyền thống, nét đẹp của dân tộc. Thời buổi này làm gì cũng phải theo hương ước,
theo nếp sống mới cả rồi. Ông chưa kịp nói thì bác Phiêng, anh trai cả ông Tự đặt
chén rượu xuống ề à một câu luật tục của người Thái:
– Dụ khươi xam pi mết cá, dụ hạ pi đạy păn nừng khoong (ở
rể 3 năm thì được trừ tiền cưới, ở rể 5 năm ra ở riêng được chia một phần tài sản).
Đó là tục lệ ngày xưa của người Thái ta thôi, bây giờ khác rồi, con trai, con
gái có thể tự do lựa chọn bạn đời của mình không cùng dân tộc rồi đưa về ra mắt
gia đình và tiến hành đám cưới. Ta nghe cán bộ dạy rồi, không được rườm rà,
lãng phí á..!
Cả nhà nghe bác cả nói đều gật đầu tán thành. Mận gắp thức ăn
cho mọi người, trong lòng cảm thấy chộn rộn niềm vui. Cô đang mong chờ được gặp
Thành và gia đình tại quê mình. Bà Piên vẫn chưa thực sự an lòng, ánh mắt bà hết
nhìn con gái rồi lại trầm tư nhìn ra xa. Không phải bà không đồng ý cho hai đứa
quen nhau nhưng trong sâu thẳm lòng mình, bà không bao giờ muốn Mận lấy chồng
xa. Hai vợ chồng bà có bốn người con, duy chỉ có Mận là con gái. Xinh đẹp, học
giỏi, ngoan ngoãn, lễ phép, ông bà luôn tự hào về cô con gái út của mình. Sau
khi học hết chương trình tại trường Trung học phổ thông Dân tộc nội trú của tỉnh,
Mận đã thi đỗ vào trường Đại học Vinh. Tốt nghiệp đại học, tưởng cũng giống như
cái Xoan bạn thân sẽ trở về quê hương làm việc nhưng Mận lại thuyết phục gia
đình để ra nhận công tác tại Tổng đội Thanh niên xung phong thành phố Hải
Phòng. Sự việc này khiến vợ chồng bà quá bất ngờ. Bà Piên ra sức góp ý với con
gái nên thay đổi quyết định để trở về với bản làng, với dòng sông Nậm Việc, với
con thác Sao Va bao đời nay để được gần gũi mẹ cha, anh em, họ hàng. Mặc cho bà
Piên khuyên can nhưng ý Mận đã chắc như cây lim, cây táu trên rừng. Hơn nữa,
ông Tự cũng bảo với vợ, con nó đã quyết định rồi, ta nên tôn trọng con. Nghe vậy
bà Piên đành phải đồng ý cho con gái đi xa.
Mận lên đường đem theo biết bao hăm hở và sức trẻ của mình ra
nhận nhiệm vụ tại Liên đội Thanh niên xung phong huyện đảo Bạch Long Vĩ. Cô
nhanh chóng hòa nhập với môi trường mới và tỏ ra là một cán bộ có trình độ, nhiệt
huyết, năng nổ, luôn cùng tập thể đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ trên hòn đảo
tiền tiêu này. Qua hai năm công tác tại đây, Mận đã quen và yêu Thành, một sĩ
quan Hải quân công tác tại Trạm ra đa trên đảo. Thành cũng quê ở Hải Phòng.
Tình yêu giữa chàng sĩ quan Hải quân và cô thanh niên xung phong cứ thế lớn dần
lên theo ngày tháng và họ quyết tâm gắn kết với nhau để trụ lại mảnh đất nơi đầu
sóng ngọn gió này. Nghe thông tin con gái gọi về tâm sự, ông Tự, bà Piên cũng
vui và an tâm phần nào. Trong thâm tâm, ông bà cầu mong cho con gái được hạnh
phúc, bình an. Sự xa xôi, cách trở giờ đây không còn là vấn đề lớn như ngày xưa
nữa bởi mạng lưới giao thông phát triển. Ông bà có thể ra thăm con cháu bất kể
lúc nào.
***
Chín giờ sáng, ông mặt trời đã lên cao, sương tan nhanh, cái
nắng hanh của mùa Đông trải vàng khắp bản Cón. Đại gia đình ông Tự ăn mặc chỉnh
tề, đứng dưới chân cầu thang nhà sàn chờ khách. Mận vừa nghe điện thoại và
thông báo với mọi người, nhà trai đã đến đầu bản. Ông Tự cảm thấy hồi hộp không
kém mấy lần trước đi hỏi vợ cho ba cậu con trai.
Chiếc xe 16 chỗ chạy từ từ rồi đỗ trước cổng. Ông Tự và mọi
người đi ra đón khách. Gia đình Thành mặc vest, áo dài bước xuống xe. Ông Tự vội
liếc nhanh cậu con rể tương lai xem người như thế nào. Cao to, đẹp trai, chững
chạc, bề ngoài có vẻ hiền lành, lại là sĩ quan Hải quân, được, duyệt! Ông lẩm bẩm
một mình. Mọi người cùng bắt tay nhau chào hỏi và nói cười thân thiện.
– Thưa bác, đây là bố con, còn đây là mẹ con ạ..! – Thành giới
thiệu bố mẹ mình với vợ chồng ông Tự.
Ông Tự vừa đưa tay ra bắt tay bố Thành bỗng nhiên cả hai khựng
lại nhìn nhau. Bố Thành lắp bắp:
– Tự… Tự Thái phải không???
– Anh là…. anh Phiệt, anh Phiệt đen phải không ạ?
– Đúng rồi, mình đây Tự ơi..!
– Anh Phiệt, hóa ra cháu Thành là con của anh ạ?
Sau phút giây bất ngờ, cả ông Tự và ông Phiệt ôm nhau vui sướng.
Khóe mắt hai ông chợt rưng rưng giọt nước mắt cảm động. Không ngờ đồng đội của
nhau sau hơn ba mươi năm bây giờ mới gặp lại nhau trong hoàn cảnh đầm ấm, thắm
tình thông gia như thế này. Cả hai bên nhà trai và nhà gái cũng bất ngờ không
kém. Sau khi biết được hai ông thông gia là bạn lính của nhau, họ đều cười nói
vui vẻ và cùng nhau bước lên nhà sàn để làm lễ Dam xao.
***
Cách đây 32 năm, chàng trai Lô Văn Tự khi đó đang là Trung
úy, công tác tại Binh chủng Công binh được cấp trên điều động về Hải quân nhận
nhiệm vụ. Lần đầu tiên được thấy biển, Tự không khỏi ngỡ ngàng bởi anh là người
con của núi rừng, của bản làng trên miền biên viễn. Con tàu nhỏ chở cán bộ, chiến
sĩ của Trung đoàn Công binh Hải quân rời quân cảng Nha Trang để lên đường đi
xây dựng công trình tại quần đảo Trường Sa vào một buổi chiều nắng nhạt. Thời
điểm này, những ai đi Trường Sa đều sẵn sàng tư tưởng hi sinh vì Tổ quốc. Là
người có tâm hồn lãng mạn, Tự đã kịp viết mấy vần thơ vào cuốn sổ tay đeo bên
mình để có dịp sẽ đọc cho anh em nghe:
“Nhổ neo lên hỡi những chàng lính trẻ!
Lệnh truyền đi rung tám cụm máy tàu.
Thuyền quay lái, còi ngân lời tạm biệt
Xa bến dần… thành phố đã lùi sau…”(*)
Tự cùng đồng đội lên đường với ý chí, quyết tâm cao, không quản
ngại gian khổ và có thể sẽ hi sinh giữa khơi xa. Khi đó, Phiệt là đại đội trưởng,
còn Tự là trung đội trưởng công binh.
Tranh của họa sĩ Trần Thắng
Khó có thể nói hết nỗi vất vả, gian truân, cuộc sống khó
khăn, thiếu thốn, hiểm nguy của người lính Trường Sa ở những năm cuối thập niên
80 của thế kỷ trước. Thời điểm đó, các đảo lớn, nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa vẫn
còn hoang sơ, chủ yếu là đảo chìm. Thời tiết vô cùng khắc nghiệt, ban ngày nắng
cháy da, đêm phải đắp chăn chống lại sương biển và hơi muối mặn. Trên đảo thời
gian đầu chỉ có nhà mái tôn dành cho bộ đội giữ đảo. Đại đội công binh của Tự nằm
trong nhà tạm. Khi gió biển thổi mạnh, dãy nhà rung lên bần bật, đại đội trưởng
Phiệt thường trấn an mọi người bình tĩnh, ngồi trong nhà sẽ an toàn.
Do ngâm trong nước biển mặn lâu ngày, chân, tay của các chiến
sĩ đều bị bong tróc, tóc ai cũng cứng và đỏ quạch như rễ tre, da đen nhẻm. Dưới
cái nắng 40 độ C và gió rát mặt, anh em chỉ nhận ra nhau qua nụ cười với hàm
răng trắng xóa. Biệt danh Phiệt đen mà anh em yêu mến đặt cho đại đội
trưởng Phiệt cũng ra đời từ đấy.
Tự nhớ lại, có những điểm đảo, do không có xuồng nên đại đội
anh phải kết bè tre lại, chất nguyên vật liệu lên đó rồi đợi tới tối mới đẩy
vào rồi vác đá đưa lên công trình. Đại đội trưởng Phiệt chỉ huy anh em lần theo
sợi dây to bằng cổ tay mà đi. Không có đèn điện, đuốc cũng chẳng đốt được vì
gió thổi quá lớn. Trời tối không nhìn thấy nhau, cả đại đội dựa vào ánh trăng lờ
mờ mà nối đuôi nhau ra vào. Nước ngọt thiếu trầm trọng, thức ăn của chiến sĩ
ngày ấy cũng chủ yếu là đồ hộp và rau muống phơi khô đem ra từ đất liền. Khó
khăn vất vả là vậy nhưng anh em trong đại đội luôn yêu thương nhau, coi nhau
như anh em ruột thịt. Phiệt rất mến Tự vì cả đại đội công binh này, chỉ mỗi Tự
là người dân tộc. Và Tự cũng cảm nhận được tình cảm chân thành, quý mến mà người
đại đội trưởng dành cho mình. Có nhiều đêm giông bão ầm ầm, anh em ngồi bên
nhau kể chuyện quê nhà, cây đàn ghi ta bập bùng, tiếng Tự đọc những vần thơ cảu
mình làm ngân lên trong màn đêm lẫn vào sóng nước. Sau những phút giây vui tươi
ấy là khoảng lặng. Trong sâu thẳm trái tim mình, Tự cũng nhớ về quê hương, về
người vợ và đứa con thơ của mình đang ngóng đợi.
Tự nhớ mãi một kỷ niệm, để đẩy nhanh tiến độ xây đảo, đại đội
trưởng Phiệt động viên, giao nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ phải chạy đua với thời
gian, bất chấp thời tiết nắng, mưa, hễ thủy triều xuống là đi vác đá từ tàu vào
đảo và tiến hành xây dựng công trình. Sau hơn một tuần vật lộn với nắng gió, một
“loa thành” trên đảo chìm gần hoàn thành. Bỗng nhiên, trời nổi cơn giông, sấm
chớp ầm ầm, mưa như trút nước. Nhìn bức tường vừa xây xong chưa kịp ráo vữa bị
mưa biển xói mòn, đổ sập xuống, anh em buồn thao thiết. Nước mắt đại đội trưởng
Phiệt đã rơi, anh khóc vì công sức của cả đơn vị bỗng chốc tan tành. Sau cơn
giông, anh lại chỉ huy các anh em khẩn trương bắc giàn giáo, trộn vữa để tiếp tục
xếp từng viên đá vào lòng biển để kê cao thềm Tổ quốc.
Cuộc sống vất vả, gian khổ là vậy, làm việc trong điều kiện
vô cùng khó khăn, nhưng đơn vị của Tự đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao
với hàng loạt công trình xây dựng trên các đảo chìm như Cô Lin, Len Đao, Tiên Nữ,
Thuyền Chài…
Cuối năm 1990, chiến dịch CQ tại Trường Sa kết thúc. Lúc này,
thương người vợ tảo tần cũng đang hết sức khó khăn ở quê nhà, Tự đã xin phục
viên, kết thúc mối duyên với biển sau 3 năm gắn bó. Do điều kiện cuộc sống,
công việc và xa xôi cách trở nên mối liên lạc giữa anh và các đồng đội, trong
đó có đại đội trưởng Phiệt cũng vì thế mà mất dần.
***
– Uống đi anh Phiệt, hôm nay anh em mình phải uống một bữa thật
say, ba mươi hai năm rồi còn gì! – Ông Tự đưa chén rượu lên, tay kia bá vai ông
Phiệt.
– Tự ơi, bây giờ ngoài tình đồng đội ra thì anh em mình còn
là nghĩa thông gia nữa đấy nhé!- Ông Phiệt đưa chén rượu lên cụng với ông Tự và
cười tươi.
– Thế thì càng bền chặt chứ sao anh!
– Vậy thì ta cùng uống nào..!
Bản Cón chưa bao giờ vui như hôm nay. Bà Piên hết nhìn chồng,
nhìn Mận rồi nhìn mọi người, ánh mắt bà long lanh niềm vui. Mận và Thành ngồi
bên nhau nghe hai ông bố trò chuyện, thỉnh thoảng cô cấu nhẹ vào tay Thành rồi
ghé tai nói nhỏ “Sao lại có sự trùng hợp như thế này hả anh?”. “Anh còn bất ngờ
hơn em ấy!”. Thành nháy mắt nhìn Mận trả lời.
Bác Phiêng lại cầm chén rượu đưa lên, vẫn giọng ề à:
– Đúng là đại hỉ, đại hỉ à…!
Tiếng cười nói cứ thế râm ran khắp ngôi nhà sàn. Ngoài kia, ánh nắng mùa Đông đã dần tắt. Chẳng mấy chốc nữa là Xuân sẽ trở về.
Chú thích:
(*) Trích thơ của CCB Hải quân Lương Viết Thoại
(SN 1954, trú bản Còn, xã Châu Quang, huyện Quỳ Hợp, Nghệ An).
6/8/2024
Lê Mạnh Thường
Theo https://vanvn.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét