Thứ Tư, 9 tháng 10, 2024

 

Chuyện ở bản Cón

Trời mới tang tảng sáng, sương mù còn giăng kín khắp bản, cái rét như cắt da cắt thịt vậy mà ông Tự đã dậy từ lâu. Ông đi xuống khu vực chuồng trâu tiếp thêm một ít củi vào đống lửa đang âm ỉ cháy để sưởi ấm cho đàn trâu bò gần hai mươi con.

Mùa đông năm nay đến muộn hơn so với mọi năm nhưng liên tục xuất hiện các đợt không khí lạnh tăng cường. Mấy hôm vừa rồi, cả vùng núi Phủ Quỳ quê ông nhiệt độ đều xuống thấp dưới 12 độ C, thậm chí có hôm xuống đến 8 – 9 độ C vào sáng sớm và ban đêm. Để bảo vệ đàn vật nuôi, ông cùng cán bộ thú y của xã đi vận động bà con thực hiện nghiêm các biện pháp, phòng chống đói, rét như cho trâu, bò ăn uống đủ chất, chỉ chăn thả lúc mặt trời lên, vào buổi sáng và chiều phải cho vật nuôi vào chuồng đã quây kín để tránh gió lùa, đốt lửa sưởi ấm cũng như tuân thủ giữ vệ sinh chuồng trại luôn khô thoáng. Do thực hiện đúng các chỉ dẫn của cơ quan thú y mà xã biên giới của ông vẫn an toàn, đàn trâu bò hàng ngàn con chưa bị thiệt hại gì từ đầu mùa đông đến nay.

Vừa chất thêm mấy cây củi gộc vào đống than hãy còn đượm, ông Tự vừa soi đèn pin nhìn ngắm đàn trâu bò của mình mà lòng cảm thấy dâng lên niềm vui. Ông thầm cảm ơn cuộc đời đã cho ông thành quả sau hơn ba mươi năm lao động miệt mài, không ngơi nghỉ. Phục viên trở về địa phương, một huyện biên giới đặc biệt khó khăn của tỉnh, cái nghèo đói cứ bủa vây lấy gia đình ông và bà con trong bản Cón. Vùng đất quê hương ông mang đặc điểm “mới nắng tí đã khô, mưa xuống là nhão nhoét, đất không giữ được nước” cho nên việc canh tác rất khó khăn. Anh em đông, gia tài cha mẹ để lại chỉ có ngôi nhà sàn cũ kỹ, mọi thứ tưởng như đóng sập lại trước ước mơ thoát nghèo của người lính vừa mới trút bỏ bộ quân phục để trở lại đời thường. Nhưng với bản lĩnh, nghị lực của mình được trui rèn qua gian khó, hiểm nguy, vợ chồng ông đã hăng say lao động sản xuất, quyết tâm làm giàu trên vùng đất khó.

Cùng với những chương trình, chính sách của Chính phủ hỗ trợ giảm nghèo cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi, sự chủ động lồng ghép các chương trình, chính sách của trung ương với các chính sách đặc thù của tỉnh, của huyện, cuộc sống của gia đình ông, của bà con trong xã và huyện cứ thế dần dần đi lên. Gia đình ông đã đi đầu trong việc vay vốn ngân hàng để đầu tư trồng cây keo, chanh leo, chăn nuôi các loại trâu bò, vịt trời, vịt bầu, gà đen, lợn Móng Cái… tất cả đều cho năng suất thu hoạch cao. Kinh tế cứ thế phát triển ngày một vững chắc. Từ một anh đội trưởng sản xuất, bằng năng lực, uy tín của mình, ông Tự đã được bà con tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Hội Nông dân của xã. Mô hình kinh tế VAC của gia đình ông là một hình mẫu của địa phương, được nhiều nơi đến tham quan, học tập. Cả bốn đứa con đều đã trưởng thành, có công việc ổn định. Ông đã xây dựng cho gia đình một cơ ngơi khang trang, bề thế. Ngôi nhà ba gian theo kiểu hiện đại với đầy đủ tiện nghi mọc lên cạnh ngôi nhà sàn do cha mẹ ông để lại. Ngôi nhà sàn này ông đã cho tu sửa, làm lại gần như mới. Đây là nơi thờ cúng cha mẹ, tổ tiên và là nơi sinh hoạt gia đình trong các buổi lễ quan trọng. Ông muốn nơi đây luôn lưu giữ những kỷ niệm của đại gia đình mình về một thời khốn khó và cũng là để góp phần bảo tồn nét đặc sắc của dân tộc Thái ở miền Tây xứ Nghệ này.

Xong việc ở chuồng trâu, ông Tự mới quay lên đánh thức cả nhà dậy. Nghe tiếng gọi ồi ồi của cha, Mận bèn chui từ chăn ấm ra ngó nghiêng nhưng rét quá lại nằm xuống. Ông Tự thấy thế bèn đứng ở cửa nói vọng vào:

– Ơ, cán bộ mà không gương mẫu trước nhân dân à? Không chịu dậy à? Người ta sắp về đến ngõ rồi a..!

Nghe cha nói vậy, Mận tỉnh ngủ hẳn, cô bước xuống giường đi ra nhìn cha cười ngượng. Mận cũng mới ở ngoài đảo Bạch Long Vĩ về nhà được hai hôm nay. Ở ngoài đó cũng rét nhưng cô thấy thời tiết không buốt như ở quê mình. Bà Piến đặt chõ xôi lên bếp giữa nhà sàn rồi nổi lửa làm bữa ăn sáng. Hôm nay, ông Tự huy động cả nhà bắt đầu dọn dẹp nhà cửa, nương vườn thật sạch sẽ để ngày mai đón đoàn khách đặc biệt từ Hải Phòng vào. Đó là đoàn của gia đình cậu Thành, người yêu Mận vào làm lễ Dam xao (dạm ngõ).

Trong bữa cơm tối qua có cả mấy anh chị em ruột của ông tới dự, ông Tự báo với mọi người ý định sau lễ Dam xao vào ngày mai xong, hai gia đình sẽ bàn bạc, thống nhất chọn ngày tổ chức lễ Óc ná pợ, ná khươi (lễ ăn hỏi – lễ ra mắt cô dâu chú rể) sau đó một tháng. Sau khi đón Tết nguyên đán xong thì sẽ tiến hành lễ Ết đoong (lễ cưới).

Bà Piến nghe chồng nói vậy bèn thủng thẳng góp ý với ông Tự:

– Thời nay xã hội văn minh hiện đại rồi, nhà người ta lại là dân thành phố, ông xem làm như nào đó cho hài hòa, đừng nghiêng hẳn về phong tục của người Thái mình, kẻo gây khó cho người ta!

Ông Tự định giải thích cho vợ hiểu rằng chỉ thực hiện một số nghi lễ chính theo phong tục cưới xin của quê mình thôi, để con cái nó nhớ về truyền thống, nét đẹp của dân tộc. Thời buổi này làm gì cũng phải theo hương ước, theo nếp sống mới cả rồi. Ông chưa kịp nói thì bác Phiêng, anh trai cả ông Tự đặt chén rượu xuống ề à một câu luật tục của người Thái:

– Dụ khươi xam pi mết cá, dụ hạ pi đạy păn nừng khoong (ở rể 3 năm thì được trừ tiền cưới, ở rể 5 năm ra ở riêng được chia một phần tài sản). Đó là tục lệ ngày xưa của người Thái ta thôi, bây giờ khác rồi, con trai, con gái có thể tự do lựa chọn bạn đời của mình không cùng dân tộc rồi đưa về ra mắt gia đình và tiến hành đám cưới. Ta nghe cán bộ dạy rồi, không được rườm rà, lãng phí á..!

Cả nhà nghe bác cả nói đều gật đầu tán thành. Mận gắp thức ăn cho mọi người, trong lòng cảm thấy chộn rộn niềm vui. Cô đang mong chờ được gặp Thành và gia đình tại quê mình. Bà Piên vẫn chưa thực sự an lòng, ánh mắt bà hết nhìn con gái rồi lại trầm tư nhìn ra xa. Không phải bà không đồng ý cho hai đứa quen nhau nhưng trong sâu thẳm lòng mình, bà không bao giờ muốn Mận lấy chồng xa. Hai vợ chồng bà có bốn người con, duy chỉ có Mận là con gái. Xinh đẹp, học giỏi, ngoan ngoãn, lễ phép, ông bà luôn tự hào về cô con gái út của mình. Sau khi học hết chương trình tại trường Trung học phổ thông Dân tộc nội trú của tỉnh, Mận đã thi đỗ vào trường Đại học Vinh. Tốt nghiệp đại học, tưởng cũng giống như cái Xoan bạn thân sẽ trở về quê hương làm việc nhưng Mận lại thuyết phục gia đình để ra nhận công tác tại Tổng đội Thanh niên xung phong thành phố Hải Phòng. Sự việc này khiến vợ chồng bà quá bất ngờ. Bà Piên ra sức góp ý với con gái nên thay đổi quyết định để trở về với bản làng, với dòng sông Nậm Việc, với con thác Sao Va bao đời nay để được gần gũi mẹ cha, anh em, họ hàng. Mặc cho bà Piên khuyên can nhưng ý Mận đã chắc như cây lim, cây táu trên rừng. Hơn nữa, ông Tự cũng bảo với vợ, con nó đã quyết định rồi, ta nên tôn trọng con. Nghe vậy bà Piên đành phải đồng ý cho con gái đi xa.

Mận lên đường đem theo biết bao hăm hở và sức trẻ của mình ra nhận nhiệm vụ tại Liên đội Thanh niên xung phong huyện đảo Bạch Long Vĩ. Cô nhanh chóng hòa nhập với môi trường mới và tỏ ra là một cán bộ có trình độ, nhiệt huyết, năng nổ, luôn cùng tập thể đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ trên hòn đảo tiền tiêu này. Qua hai năm công tác tại đây, Mận đã quen và yêu Thành, một sĩ quan Hải quân công tác tại Trạm ra đa trên đảo. Thành cũng quê ở Hải Phòng. Tình yêu giữa chàng sĩ quan Hải quân và cô thanh niên xung phong cứ thế lớn dần lên theo ngày tháng và họ quyết tâm gắn kết với nhau để trụ lại mảnh đất nơi đầu sóng ngọn gió này. Nghe thông tin con gái gọi về tâm sự, ông Tự, bà Piên cũng vui và an tâm phần nào. Trong thâm tâm, ông bà cầu mong cho con gái được hạnh phúc, bình an. Sự xa xôi, cách trở giờ đây không còn là vấn đề lớn như ngày xưa nữa bởi mạng lưới giao thông phát triển. Ông bà có thể ra thăm con cháu bất kể lúc nào.

***

Chín giờ sáng, ông mặt trời đã lên cao, sương tan nhanh, cái nắng hanh của mùa Đông trải vàng khắp bản Cón. Đại gia đình ông Tự ăn mặc chỉnh tề, đứng dưới chân cầu thang nhà sàn chờ khách. Mận vừa nghe điện thoại và thông báo với mọi người, nhà trai đã đến đầu bản. Ông Tự cảm thấy hồi hộp không kém mấy lần trước đi hỏi vợ cho ba cậu con trai.

Chiếc xe 16 chỗ chạy từ từ rồi đỗ trước cổng. Ông Tự và mọi người đi ra đón khách. Gia đình Thành mặc vest, áo dài bước xuống xe. Ông Tự vội liếc nhanh cậu con rể tương lai xem người như thế nào. Cao to, đẹp trai, chững chạc, bề ngoài có vẻ hiền lành, lại là sĩ quan Hải quân, được, duyệt! Ông lẩm bẩm một mình. Mọi người cùng bắt tay nhau chào hỏi và nói cười thân thiện.

– Thưa bác, đây là bố con, còn đây là mẹ con ạ..! – Thành giới thiệu bố mẹ mình với vợ chồng ông Tự.

Ông Tự vừa đưa tay ra bắt tay bố Thành bỗng nhiên cả hai khựng lại nhìn nhau. Bố Thành lắp bắp:

– Tự… Tự Thái phải không???

– Anh là…. anh Phiệt, anh Phiệt đen phải không ạ?

– Đúng rồi, mình đây Tự ơi..!

– Anh Phiệt, hóa ra cháu Thành là con của anh ạ?

Sau phút giây bất ngờ, cả ông Tự và ông Phiệt ôm nhau vui sướng. Khóe mắt hai ông chợt rưng rưng giọt nước mắt cảm động. Không ngờ đồng đội của nhau sau hơn ba mươi năm bây giờ mới gặp lại nhau trong hoàn cảnh đầm ấm, thắm tình thông gia như thế này. Cả hai bên nhà trai và nhà gái cũng bất ngờ không kém. Sau khi biết được hai ông thông gia là bạn lính của nhau, họ đều cười nói vui vẻ và cùng nhau bước lên nhà sàn để làm lễ Dam xao.

***

Cách đây 32 năm, chàng trai Lô Văn Tự khi đó đang là Trung úy, công tác tại Binh chủng Công binh được cấp trên điều động về Hải quân nhận nhiệm vụ. Lần đầu tiên được thấy biển, Tự không khỏi ngỡ ngàng bởi anh là người con của núi rừng, của bản làng trên miền biên viễn. Con tàu nhỏ chở cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn Công binh Hải quân rời quân cảng Nha Trang để lên đường đi xây dựng công trình tại quần đảo Trường Sa vào một buổi chiều nắng nhạt. Thời điểm này, những ai đi Trường Sa đều sẵn sàng tư tưởng hi sinh vì Tổ quốc. Là người có tâm hồn lãng mạn, Tự đã kịp viết mấy vần thơ vào cuốn sổ tay đeo bên mình để có dịp sẽ đọc cho anh em nghe:

“Nhổ neo lên hỡi những chàng lính trẻ!

Lệnh truyền đi rung tám cụm máy tàu.

Thuyền quay lái, còi ngân lời tạm biệt

Xa bến dần… thành phố đã lùi sau…”(*)

Tự cùng đồng đội lên đường với ý chí, quyết tâm cao, không quản ngại gian khổ và có thể sẽ hi sinh giữa khơi xa. Khi đó, Phiệt là đại đội trưởng, còn Tự là trung đội trưởng công binh.

A colorful painting of a heart

Description automatically generatedTranh của họa sĩ Trần Thắng

Khó có thể nói hết nỗi vất vả, gian truân, cuộc sống khó khăn, thiếu thốn, hiểm nguy của người lính Trường Sa ở những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước. Thời điểm đó, các đảo lớn, nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa vẫn còn hoang sơ, chủ yếu là đảo chìm. Thời tiết vô cùng khắc nghiệt, ban ngày nắng cháy da, đêm phải đắp chăn chống lại sương biển và hơi muối mặn. Trên đảo thời gian đầu chỉ có nhà mái tôn dành cho bộ đội giữ đảo. Đại đội công binh của Tự nằm trong nhà tạm. Khi gió biển thổi mạnh, dãy nhà rung lên bần bật, đại đội trưởng Phiệt thường trấn an mọi người bình tĩnh, ngồi trong nhà sẽ an toàn.

Do ngâm trong nước biển mặn lâu ngày, chân, tay của các chiến sĩ đều bị bong tróc, tóc ai cũng cứng và đỏ quạch như rễ tre, da đen nhẻm. Dưới cái nắng 40 độ C và gió rát mặt, anh em chỉ nhận ra nhau qua nụ cười với hàm răng trắng xóa. Biệt danh Phiệt đen mà anh em yêu mến đặt cho đại đội trưởng Phiệt cũng ra đời từ đấy.

Tự nhớ lại, có những điểm đảo, do không có xuồng nên đại đội anh phải kết bè tre lại, chất nguyên vật liệu lên đó rồi đợi tới tối mới đẩy vào rồi vác đá đưa lên công trình. Đại đội trưởng Phiệt chỉ huy anh em lần theo sợi dây to bằng cổ tay mà đi. Không có đèn điện, đuốc cũng chẳng đốt được vì gió thổi quá lớn. Trời tối không nhìn thấy nhau, cả đại đội dựa vào ánh trăng lờ mờ mà nối đuôi nhau ra vào. Nước ngọt thiếu trầm trọng, thức ăn của chiến sĩ ngày ấy cũng chủ yếu là đồ hộp và rau muống phơi khô đem ra từ đất liền. Khó khăn vất vả là vậy nhưng anh em trong đại đội luôn yêu thương nhau, coi nhau như anh em ruột thịt. Phiệt rất mến Tự vì cả đại đội công binh này, chỉ mỗi Tự là người dân tộc. Và Tự cũng cảm nhận được tình cảm chân thành, quý mến mà người đại đội trưởng dành cho mình. Có nhiều đêm giông bão ầm ầm, anh em ngồi bên nhau kể chuyện quê nhà, cây đàn ghi ta bập bùng, tiếng Tự đọc những vần thơ cảu mình làm ngân lên trong màn đêm lẫn vào sóng nước. Sau những phút giây vui tươi ấy là khoảng lặng. Trong sâu thẳm trái tim mình, Tự cũng nhớ về quê hương, về người vợ và đứa con thơ của mình đang ngóng đợi.

Tự nhớ mãi một kỷ niệm, để đẩy nhanh tiến độ xây đảo, đại đội trưởng Phiệt động viên, giao nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ phải chạy đua với thời gian, bất chấp thời tiết nắng, mưa, hễ thủy triều xuống là đi vác đá từ tàu vào đảo và tiến hành xây dựng công trình. Sau hơn một tuần vật lộn với nắng gió, một “loa thành” trên đảo chìm gần hoàn thành. Bỗng nhiên, trời nổi cơn giông, sấm chớp ầm ầm, mưa như trút nước. Nhìn bức tường vừa xây xong chưa kịp ráo vữa bị mưa biển xói mòn, đổ sập xuống, anh em buồn thao thiết. Nước mắt đại đội trưởng Phiệt đã rơi, anh khóc vì công sức của cả đơn vị bỗng chốc tan tành. Sau cơn giông, anh lại chỉ huy các anh em khẩn trương bắc giàn giáo, trộn vữa để tiếp tục xếp từng viên đá vào lòng biển để kê cao thềm Tổ quốc.

Cuộc sống vất vả, gian khổ là vậy, làm việc trong điều kiện vô cùng khó khăn, nhưng đơn vị của Tự đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao với hàng loạt công trình xây dựng trên các đảo chìm như Cô Lin, Len Đao, Tiên Nữ, Thuyền Chài…

Cuối năm 1990, chiến dịch CQ tại Trường Sa kết thúc. Lúc này, thương người vợ tảo tần cũng đang hết sức khó khăn ở quê nhà, Tự đã xin phục viên, kết thúc mối duyên với biển sau 3 năm gắn bó. Do điều kiện cuộc sống, công việc và xa xôi cách trở nên mối liên lạc giữa anh và các đồng đội, trong đó có đại đội trưởng Phiệt cũng vì thế mà mất dần.

***

– Uống đi anh Phiệt, hôm nay anh em mình phải uống một bữa thật say, ba mươi hai năm rồi còn gì! – Ông Tự đưa chén rượu lên, tay kia bá vai ông Phiệt.

– Tự ơi, bây giờ ngoài tình đồng đội ra thì anh em mình còn là nghĩa thông gia nữa đấy nhé!- Ông Phiệt đưa chén rượu lên cụng với ông Tự và cười tươi.

– Thế thì càng bền chặt chứ sao anh!

– Vậy thì ta cùng uống nào..!

Bản Cón chưa bao giờ vui như hôm nay. Bà Piên hết nhìn chồng, nhìn Mận rồi nhìn mọi người, ánh mắt bà long lanh niềm vui. Mận và Thành ngồi bên nhau nghe hai ông bố trò chuyện, thỉnh thoảng cô cấu nhẹ vào tay Thành rồi ghé tai nói nhỏ “Sao lại có sự trùng hợp như thế này hả anh?”. “Anh còn bất ngờ hơn em ấy!”. Thành nháy mắt nhìn Mận trả lời.

Bác Phiêng lại cầm chén rượu đưa lên, vẫn giọng ề à:

– Đúng là đại hỉ, đại hỉ à…!

Tiếng cười nói cứ thế râm ran khắp ngôi nhà sàn. Ngoài kia, ánh nắng mùa Đông đã dần tắt. Chẳng mấy chốc nữa là Xuân sẽ trở về.

Chú thích:

(*) Trích thơ của CCB Hải quân Lương Viết Thoại (SN 1954, trú bản Còn, xã Châu Quang, huyện Quỳ Hợp, Nghệ An).

6/8/2024 

Lê Mạnh Thường

Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tiếng chuông tìm lên tháp chuông

Tiếng chuông tìm lên tháp chuông Con nhện gầy, thói quen cũ/ Giăng một sợi, nghe chừng là tơ,/ Sáng nay sáng, sáng không thấy điểm chạm/ P...