Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2024

Đi một ngày đường

Đi một ngày đường

Tôi điểm lại tất cả những điều bác kể, thì hình như bác không hề đả động đến Sài Gòn, tựa như bác chưa bao giờ đến đó. Còn điều gì nữa hệ trọng hơn trong chuyến đi của bác mà bác thấy nói ra bất tiện hoặc bác muốn giữ lấy cho riêng mình.
Ai cũng muốn mình trải qua kiếp người trong cõi đời một cách yên ổn, được sung sướng hạnh phúc là điều quý hóa, những bất trắc, gian nan, đau khaố là do số phận đưa đẩy vượt ngoài ý muốn của mình. Vậy mà, sau mấy mươi năm yên sống cùng vợ con trên mảnh đất làng quê thân thuộc, bác Hai của tôi bỗng “nứt niềng” giang hồ cất bước.
Sau khi cớ sự xảy ra, bác dâu của tôi đoán chắc là chồng của bà đi cùng với “mấy tay” lái buôn thường về làng mua lúa gạo. Bà quyết đoán như vậy bởi vì bà vẫn thường thấy mấy y to nhỏ với ông già, có lẽ, mấy y rủ rê ông già làm chuyện chi đó. Linh tính của đàn bà khiến bà lo ngại. Thật đúng như vậy! Có lần, bác Hai của tôi bỗng than thở:
– Buồn quá!
– Có chuyện gì mà ông buồn?
– Mình làm ruộng rẫy quanh năm, suốt tháng, mặt nám tay chai, da đen tóc cháy, gần hết đời người rồi mà chẳng thấy thảnh thơi. Biết làm sao mà đổi đời được đây?!
– Đổi sao?
Ậm ừ mãi, bác trai mới nói:
– Được như… thằng Năm Hàng Xáo cũng sướng!
Bác gái tôi vừa kể, vừa khóc:
– Chèn đéc ơi! Ổng mà đem bì với Năm Hàng Xáo?!
Rồi bà liệt kê bao nhiêu là thói hư tật xấu của người lái buôn ấy mà bà cho là trông thấy “nhãn tiền”. Năm Hàng Xáo tên thật là Năm Mèo. Y có bộ vó bảnh bao, lại quen thói ăn to, xài lớn. Dưới mắt bác gái tôi, y là người ranh mảnh, gian xảo, thường mua cân già, bán cân non, lấy đầu này đắp đầu kia, so hơn tính thiệt từng xu, từng cắc. Bác gái tôi kết luận “Người như vậy mà rộng rãi nỗi gì?!”, đó là chưa tính đến thói phóng đãng, trăng hoa của y, mặc dù đã có vợ đôi, vợ ba ở nhà, mà gặp đàn bà, con gái là y cứ cà rà, hí hửng. Như những người đàn bà an phận, bác gái tôi hài lòng với người chồng thật thà, chất phác của mình, là bác Hai của tôi. Bà thường nói với mọi người:
– Tui thấy ông Hai lo cần mẩn làm ăn, tui thương…
Bởi vậy, nghe bác Hai của tôi ao ước được như Năm Mèo, bà đã gạt đi:
– Ông lột lớp, thay hình đổi dạng, học đòi theo Năm Mèo thì cứ đi mà đổi đời. Tôi không biết tới!
Bác dâu của tôi vẫn khóc:
-Mình giận lẫy mới nói như vậy, không dè… ổng đi thiệt rồi!
Cứ để bác gái tôi khóc cho thỏa lòng. Trước sự tình ấy, ai còn biết nói gì hơn. Câu chuyện chẳng mấy chốc lan ra khắp đầu làng, cuối xóm. Ai cũng biết… Ngủ một đêm, sáng dậy, vợ con của bác Hai tôi không tìm thấy ông ở đâu cả. Cả nhà hô hoán lên, đi tìm. Bác gái tôi đâm nghi, hỏi anh Thắng, con trai cả của bác:
– Hôm qua, ba này có đong lúa bán cho chú Năm không?
-Dạ! Có! Lúc đó, má qua thăm ngoại. Con tưởng là ba có bàn với má rồi.
– Trời đất ơi!
Bác gái chạy ra bờ sông ngó xuống bến, chỗ Năm Mèo thường đậu ghe. Bến sông vắng ngắt, không một bóng người. Chiếc ghe chài của Năm Mèo đã nhổ neo từ hồi nảo, hồi nào rồi. Bây giờ, chắc họ đã đi xa lơ, xa lắc. Bác gái tôi than thở với đàn con của mình.
– Ba của tụi bây bán lúa, lấy tiền, đi theo… thằng Mèo rồi!!!
Mấy người hàng xóm nghe chuyện, thấy buồn cười, cũng lựa lời an ủi bác gái tôi:
– Anh Hai theo thằng Mèo, chớ có phải theo “con mèo” nào đâu, mà chị Hai khóc? Vài bữa, ảnh lại về…
– Theo thằng, rồi sẽ theo con… mấy hồi! Trời ơi, là trời! Ai coi, hông? Già rồi mà ổng còn sanh tật, sanh tâm…
***
– Đàn bà hay làm lớn chuyện! Ai mà làm gì đến nỗi tác tệ đâu!
Bác Hai của tôi khẳng định như vậy, sau chuyến “đi bụi” về. Bác Hai đi hai ngày, một đêm. Khi trở về, ông vẫn còn gói nguyên hai bộ đồ mang theo, chỉ thêm chiếc nón nỉ đen mà bác cầm tay chứ không đội bảo là mua cho anh Thắng, và thêm đôi dép nhựa đỏ dành cho con gái út. Bác gái cật vấn:
– Ông đi đâu?
– Đi chơi…  cho biết Sài Gòn!
– Sao ông không nói với tui?
– Nói với bà đặng… dễ đi được lắm!
Bác gái tôi thở hắt ra, như trút bao nỗi buồn lo đè nặng suốt hai ngày chồng mất tích, mất tăm. Bà không nói gì nữa, bỏ đi, lo việc nhà. Có lẽ, đối với bà, việc bác trai mau chóng trở về là đã quá đủ, hoặc là việc rầy rà chồng, bà dành thủ thỉ lúc về đêm.
Chúng tôi, anh Thắng và tôi, là những người tò mò về chuyến đi của bác Hai tôi hơn ai hết. Chúng tôi rất muốn biết điều gì đã xảy ra trong thời gian bác Hai tôi giong ruổi, và cái gì đã khiến bác Hai tôi cất bước giang hồ. Chỉ những khi vắng mặt bác gái tôi, bác Hai mới từng lúc hé mở với chúng tôi. Quả tình là sự việc không nghiêm trọng như bác gái tôi đã nghĩ. Chuyện đổi đời chỉ là ý tưởng mà bác Hai tôi đã diễn đạt không chính xác khiến bác gái hiểu lầm. Mọi sự bắt đầu chỉ từ một buổi chiều…
Đó là một buổi chiều rảnh rỗi hiếm có trong đời của bác Hai tôi. Là một lực điền, ngoài thời điểm gieo trồng, gặt hái, những công việc không tên của ruộng vườn, nhà cửa, gia đình thường chiếm hết thời gian còn lại của bác Hai. Lúc Tết nhất, giỗ đám lại là lúc bác sa vào trà rượu với chén chú, chén anh cùng thân bằng, quyến thuộc, bà con, hàng xóm. Vậy mà, có một buổi chiều, bác Hai của tôi không biết làm gì. Bác ngồi ngó mông ra dòng sông chảy qua trước cửa nhà, thấy đám lục bình trôi líu ríu, trôi miết về xa. Bác bỗng nghĩ về đám lục bình kia, dẫu nó là thân bèo dạt cũng đã trôi hết xứ này sang xứ khác, theo sông mà biết nơi gần, chốn xa. Bác lại ngẫm về mình, một đời chôn chân, mọc rễ trên mảnh đất này, đi chưa quá chợ huyện chợ xã, vui chơi chưa ra khỏi lũy tre đầu làng, con đường ra ruộng, về vườn, cả xóm, cả làng cả mái nhà, vợ con… đều quá quen thuộc, quá gần gủi đến mức bác cảm thấy không nghĩ, không nhìn, không sờ mó, không đụng đến cũng biết được. Ước muốn được biết về những điều mới lạ, những thứ ngoài mình, bỗng chốc xâm chiếm bác. Bác nghĩ đến Năm Mèo và chiếc ghe mua lúa của y. Vậy là bác gọi Năm Mèo, rồi bảo con trai bác đong và vác xuống ghe của y bốn mươi giạ lúa. Hai người đàn ông thì thầm với nhau. Hai giờ khuya đêm ấy, bác Hai của tôi xuống ghe của Năm Mèo. Vài phút sau, chiếc ghe chài chở lúa khẳm mẹp ấy được kéo neo, nhổ sào, từ từ tách bến.
Thật là, chúng tôi không hiểu được trong tâm hồn của một người đàn ông đã luống tuổi, có vẻ bên ngoài cục mịch như bác Hai tôi, lại có một khoảng dành cho niềm khao khát hết sức lãng mạn ấy. Chúng tôi cũng sẽ cạn nghĩ, khi cho rằng ông già chỉ bận tâm đến manh áo, chén cơm và nếu hơn nữa là đất đai, nhà cửa. Bốn chục giạ lúa để đổi lấy một chuyến đi chơi cho biết Sài Gòn là một sự kiện đặc biệt trong cuộc đời của bác Hai tôi. Vì vậy, chúng tôi càng háo hức muốn biết cụ thể về chuyến đi của bác. Bác tôi chỉ tủm tỉm cười, khi chúng tôi thúc giục:
– Từ từ… để “quỡn” việc, rồi tao kể cho mà nghe!
Nhằm lúc vui vẻ, bác nói cho chúng tôi biết thế nào là nằm trong khoang ghe chở lúa, thế nào là bồng bềnh sóng nước. Những lúc nhâm nhi bên mâm rượu, bác lại bật ra câu chuyện của Năm Mèo:
– Thằng đó, vậy mà bợm bẫy lắm!
– Bợm bẫy là sao, bác Hai?
– Nó gạt mấy bà vợ của nó, mà gạt theo kiểu… hàng xáo mới ngặt!
Tiếng tăm về Năm Mèo thì làng tôi, ai cũng biết, nhưng đến đoạn này, chúng tôi, ai cũng ngóng nghe.
“Nó khoe với tao là nó có một bà vợ ngon lắm, là chủ quán rượu bia ở Sài Gòn. Nó nói “Tui sẽ dắt anh Hai tới đó chơi, cho biết mặt bả”. Mới đi một đỗi, nó đã cho tắt máy, neo ghe đậu giữa sông. Tao tưởng máy hư, đang nằm trong khoang, lồm cồm bò dậy, định chui ra sau lái coi sự thể ra sao. Đang bò nửa chừng tao nghe có tiếng đàn bà. Hình như bà kia đứng trên xuồng nhỏ, cặp vô be ghe của Năm Mèo, giọng cằn nhằn, cẳng nhẳng:
– Ba nó đi cả chục ngày mà mặc dơ có một bộ đồ này hả?
– Mấy bộ mặc dơ bữa trước đã giặt hết rồi! Tiền gói ở trỏng, cầm coi chừng rớt!
Bà kia nghe nói có tiền gói theo, nín thinh không hỏi vặc mắc nữa.
Vậy rồi Năm Mèo cho nổ máy, ghe đi tiếp. Đi một quãng sông nữa, cỡ mấy tiếng đồng hồ, Năm Mèo lại cho ghe đậu lại. Nó lại gởi lên bờ cho bà vợ khác số quần áo dơ còn lại và tiền, số tiền chắc cũng không nhiều lắm. Rồi nó lại cho ghe đi tiếp. Nó cười hì hì với tao “Lót bến chuyến về, anh Hai, coi như mình lo trước nơi ăn, chốn ở mấy ngày đi lại để bán buôn”. Tao hỏi, nó có chừa bộ đồ dơ nào cho bà ở Sài Gòn không? Nó lắc đầu, nói tỉnh queo “Đàn bà ở chợ không chịu cực khổ giặt quần áo cho mình đâu. Với mấy bả mình có phép khác!”.
Bác Hai tôi nói tới đó thì dừng lại. Anh Thắng ngồi ở góc nhà, hỏi nôn tới:
– Phép gì vậy, ba?
Bác Hai tôi gằm mặt xuống, nói cộc lốc:
– Thôi! Bỏ đi!
Vậy là bác Hai của tôi không chịu kể tiếp nữa rồi. Chúng tôi lần lượt tan ra, chờ dịp khác.
Điều khiến tôi cứ thắc mắc là lần nào cũng vậy, cứ kể đến đọan đó là bác Hai đổ quạu. Tôi điểm lại tất cả những điều bác kể, thì hình như bác không hề đả động đến Sài Gòn, tựa như bác chưa bao giờ đến đó. Còn điều gì nữa hệ trọng hơn trong chuyến đi của bác mà bác thấy nói ra bất tiện hoặc bác muốn giữ lấy cho riêng mình. Tôi cứ theo đuổi ý nghĩ này nhưng không dám tỏ bày hoặc chia sẻ cùng anh Thắng, để giữ trọn vẹn tình cảm giữa cha con anh. Tôi lặng lẽ theo dõi bác Hai của tôi.
Nhà tôi và nhà của bác Hai tôi chỉ cách nhau một mảnh vườn nhỏ, cùng trên phần đất của ông nội tôi để lại cho con cháu, do đó, cả hai bên đều có thể trông sang và nhìn thấy nhau. Nhiều lúc, tôi trộm thấy bác Hai tôi cứ vào ra tư lự, có lúc, tôi lại thấy bác Hai của tôi ngó mông ra sông, chỗ Năm Mèo vẫn thường neo ghe mua lúa. Tôi cứ nơm nớp lo. Hay là bác Hai của tôi lại muốn một chuyến “giang hồ” nữa đây? Nếu như lần này, bác Hai của tôi lại đong lúa bán, lại… “đi bụi”, liệu bác dâu của tôi có im lặng mà chịu đựng nữa không? Là bà con ruột thịt, lẽ nào tôi lại làm ngơ nhìn bác tôi nát cửa, tan nhà?
Hôm ấy, gặp dịp hai bác cháu cùng đi sạ lúa trên đồng. Nhân lúc nghỉ tay, tôi lân la dò hỏi, định lựa lời mà khuyên can bác của tôi:
– Bác có định đi Sài Gòn chơi, chuyến nữa không?
– Không!
– Đi một lần, đã biết chán, còn đi chi nữa, phải không, bác Hai?
– Tao có biết Sài Gòn là gì đâu?!
– Vậy hôm trước, bác đi đâu?
– Thì đi… Sài Gòn!
Trước vẻ ngơ ngác của tôi, bác Hai bật cười. Thế là, vừa vấn thuốc hút, bác Hai tôi vừa kể, sau khi tôi hứa là không tiết lộ với ai, nhất là với bác gái, về câu chuyện tôi nghe được ở bờ ruộng này. Tôi đã chắp nối câu chuyện đứt khúc, đứt đoạn này.
“Chiếc ghe chài gắn máy bốn ngựa của Năm Mèo chạy đến chiều hôm đó là tới bến Sài Gòn. Sau khi nói chuyện buôn bán và giao cho bạn lái coi bốc dỡ hàng, Năm Mèo dắt tao đến ngay “quán nhà” của nó. Cái quán hơi tềnh toàng, nằm cách bến sông xuống hàng độ vài ba hơi thuốc, giống như các quán bên đường dành cho khách vãng lai như tài xế, lơ xe, chủ ghe, bạn lái… Quán có phòng tắm, nhà vệ sinh, có cả phòng trọ cho khách ngủ trọ qua đêm nữa. Tao vừa tắm xong, bước ra, đã thấy Năm Mèo ngồi chờ bên bàn rượu:
– Làm vài xị rượu thuốc cho giãn gân cốt, anh Hai, rồi tui kêu bả ra giới thiệu.
– Được!
…Tao gặp nó cũng ở quán rượu của vợ bé Năm Mèo. Nó chỉ trạc tuổi thằng Thắng thôi. Trong đám đông mấy đứa con gái son phấn, áo quần lòe loẹt, tấp nập ra vô tiếp khách, nó ăn mặc giản dị, sạch sẽ, chỉ đứng lấp ló trong góc bếp. Tao nhìn bộ dạng của nó, thấy nó giống mấy đứa con gái quê mình. Tao hỏi nhỏ Năm Mèo. Năm Mèo bảo nó là con nhỏ giúp việc vặt, việc quán, việc nhà, gọi nôm na là “người ở đợ”. Tao thấy hình như nét mặt của nó không vui. Năm Mèo bảo, nó đúng là gái quê, do Năm Mèo dẫn dắt lên làm mướn mà có sự đồng ý của ba má nó. Nghe nói, ba má nó nghèo lắm. Họ ở quê mà không có đất đai, ruộng rẫy chi cả, chỉ rặc đi làm mướn, làm thuê kiếm sống. Mấy tháng trước, má nó bệnh, thiếu tiền mua thuốc, mới mượn đỡ của Năm Mèo. Sau đó, không tiền trả, họ phải cho con gái đi ở giúp việc cho vợ Năm Mèo để trừ nợ lần hồi, trong vòng một năm. Nếu đã trừ dứt nợ mà con nhỏ muốn ở lại làm thêm, thì vợ chồng Năm Mèo sẽ tính tiếp.
Chuyện của người ta, tao chỉ hỏi thăm cho biết, biết rồi, cũng đành thôi. Cha mẹ nghèo khổ, buộc lòng phải “đợ” con, chớ biết làm sao? Cuộc đời là vậy! Quê mình, có tiếng là ruộng đất cò bay thẳng cánh nhưng cũng có kẻ no, người đói, kẻ dư dả bán lúa lấy tiền đi chơi như tao, cũng có kẻ nghèo khó phải đem con đi làm người hầu, người giúp việc như cha mẹ con nhỏ đó. Tao ngẫm, đất Sài Gòn phồn hoa đô hội, chắc cũng không thiếu gì người sang, kẻ hèn… Tao cứ nghĩ, mà thấy buồn. Buồn! Tao ngồi uống rượu tì tì với Năm Mèo, cho đến lúc trời tối mịt hồi nào chẳng biết.
Năm Mèo kêu mệt, đòi đi ngủ sớm, bỏ vô trong. Vợ bé của Năm Mèo đi ra, bảo vợ chồng nó dành cho tao một phòng bên cạnh. Ngồi một mình cũng buồn, tao cũng vô phòng nằm nghỉ. Tao nằm hoài không ngủ được, phần vì lạ chỗ, lại vì đã ngủ cả ngày trên ghe lúa lúc đi đường rồi. Phòng bên kia, vợ chồng Năm Mèo rọ rạy hồi lâu rồi tao nghe tiếng vợ nó nói nhỏ:
– Kêu đứa nào cho anh Hai không?
– Thôi! Ổng già rồi! Đừng làm gì… bậy bạ! Còn giữ đường cho tui về dưới làm ăn!
Bác Hai của tôi ngừng kể, cười khậc khậc:
– Thằng hàng xáo đó vậy mà khôn! Nó mà để vợ nó gạt tao trận đó là nó hết đường về BẾN NƯỚC. Nó gian xảo mà cũng biết lựa chỗ, lựa người. Còn tao tính đi vãng cảnh cho biết Sài Gòn, chớ đâu có tính chuyện bậy bạ đó! Mà mày nghĩ coi, tao già rồi, còn “củi lửa” gì đâu, mà ham hố?
… Rồi sao nữa hả? Ờ…! Tao nằm lăn qua, trở lại đến hơn nửa đêm. Bỗng tao nghe có tiếng động ngoài quán, rồi lại nghe có tiếng con gái khóc. Tao ngồi dậy, mở cửa phòng, bước ra. Tao thấy quán đã dẹp, vắng teo, mà con nhỏ giúp việc còn ngồi khóc trong góc bếp. Tao ra bàn ngồi, ngoắc nó lại, hỏi chuyện. Nó đến gần, không dám nói lớn, sợ người khác nghe thấy. Thì ra…Có thằng quỷ ôn nào đó, là khách ngủ trọ, mò vô mùng nó. Nó không chịu, giẫy được, chạy ra.
– Sao không la lên, méc bà chủ?
– Bà chủ dặn, nếu có như vậy, không chịu thì thôi, không được la. Nếu la lên, sẽ làm mất mặt khách, khách sẽ không đến quán nữa. Chừng ấy, bà chủ sẽ trừ lương, đuổi việc…
– Lỡ bây giẫy không khỏi, thì sao?
– Con không biết nữa! Lần nào cũng vậy, con ráng giẫy, chạy ra, không dám trở vô trỏng nữa.
– Vậy là xảy ra nhiều lần rồi, hả?
– Dạ!
Con nhỏ “dạ” rồi khóc nghẹn!
– Sao bây không trốn về quê?
– Dạ! Chú Năm biết nhà ba má con ở dưới quê. Con trốn về, thế nào chú Năm cũng theo bắt lại, vì ba má con còn nợ tiền của chú Năm. Con tính, con sẽ ráng ở đến trừ hết nợ, là con xin về…
– Lỡ, từ đây đến đó, bây giẫy không khỏi đám quỷ đó, rồi sao?
Con nhỏ làm thinh khóc.
– Liệu bề, bây trả hết nợ, vợ chồng Năm Mèo có cho bây về không?
– Dạ! Con không biết!
– Thôi! Từ từ… để tao tính cho.
Vậy rồi tao nhường cái phòng của tao cho nó vô nghỉ đỡ, còn phải dặn nó chốt trong cho chắc chắn. Tao ngồi lại ngoài quán với bình trà, chờ sáng.
Sáng ra, tao uống trà với Năm Mèo nói chuyện chuộc con nhỏ.
– Nhỏ nào, anh Hai?
– Con nhỏ giúp việc!
– Con Thơm, hả?
– Ờ! Chắc … con Thơm!
Tao kể hết sự tình của con nhỏ cho Năm Mèo nghe. Năm Mèo ngồi làm thinh nghe, rồi nói:
– Chuyện đó, để tui nói lại với bả, bả xếp chỗ ngủ lại cho nó, thì êm. Còn anh Hai cứ để tiền mà đi chơi…
– Thôi! Tao hết muốn đi chơi rồi! Giúp cho con Thơm rồi, tao về dưới quê liền. Sợ bả với mấy đứa nhỏ ở nhà rầu lo. Hồi đi, tao có nói với ai tiếng nào đâu?!
Năm Mèo ngồi dùng dằng một lát, rồi kêu con Thơm ra.
– Ông Hai trả nợ giùm cho ba má của mày. Mày chịu trở về dưới quê không?
– Dạ! Chịu!
Thấy con nhỏ mừng rơn mà tao bất nhẫn. Tính ra, vừa nợ, vừa tiền lời lãi, ngót nghét gần ba mươi lăm giạ lúa. Cũng may, tao đem vừa đủ, còn dư chút ít. Lúc ngồi một mình chờ sáng, tao đã tính: Nếu như, vợ Năm Mèo đã tính hết nợ mà tiền tao đem theo còn thiếu thì tao hẹn lại với Năm Mèo tới khi về dưới này tao sẽ đong lúa thêm, cho đủ số.
Tính tiền bạc với vợ chồng Năm Mèo xong xuôi, tao với con Thơm đi xích lô ra bến xe miền Tây. Con Thơm mua vé về quê nó. Tao mua vé về đây. Tao coi lại, thấy cũng còn dư chút ít tiền. Tao cho con Thơm thêm vài chục để ăn đi đường. Còn một ít, tao ra sạp hàng trước bến xe mua cho thằng Thắng cái nón và con mén đôi dép. Rồi tao và con Thơm, mạnh ai nấy lên xe về thẳng.
Ngồi xe dọc đường về, tao cứ nghĩ: Tao chuộc con Thơm giùm cho ba má nó, chẳng qua như thả cá về sông. Trong dòng sông mênh mông, hễ con cá này thóat thân thì con khác cũng dính câu, mắc lưới. Thế nào, Năm Mèo cũng tìm được đứa khác đem lên giúp việc cho vợ nó, cũng là con gái nhà nghèo khó ở quê mình. Rồi cảnh cũ lại diễn ra nữa thôi, vì trong cuộc đời rộng lớn này, không thiếu gì người còn phải lấy thân mình đổi miếng cơm, manh áo. Nghĩ như vậy, nhưng tao cũng chẳng tiếc số tiền đã bỏ ra để chuộc con Thơm giùm cho ba má nó. Coi như tao giúp người hoạn nạn vậy thôi!
… Chuyện như vậy, tao nói, mày tin không? Nếu mày không tin, thì đợi khi nào Năm Mèo về mua lúa ở làng mình, mà hỏi. Nhưng tao chắc rằng, dù Năm Mèo có đứng ra làm chứng, bác gái mày cũng không tin, bởi vì… bả đâu có tin Năm Mèo. Mà ai tin nó cho được? Nó là thằng bợm bẫy mà!”
Bác Hai tôi nói xong, ngửa mặt cười, cái cười đầy tự tin và mãn nguyện. Tôi cho rằng, bác Hai tôi hài lòng với việc đã làm. Và, tôi tin tất cả những gì mà bác Hai của tôi đã kể lại về chuyến đi ngắn ngủi của mình.
13/8/2024
Nguyễn Lập Em
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hoa Khích - Truyện ngắn của Nguyễn Khương Trung

Hoa Khích - Truyện ngắn của Nguyễn Khương Trung Thường thì những bài đồng dao khó hiểu, câu chữ nhiều đoạn như đánh đố, bí hiểm. Ấy nhưng ...