Thứ Tư, 13 tháng 11, 2024

Người con gái Thăng Long

Người con gái Thăng Long

Nhà văn Phù Ninh tên thật là Nguyễn Văn Mạch sinh năm 1942, quê ở huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ, gia đình chuyển đến sinh sống tại xã Trường Sinh, huyện Sơn Dương từ năm 3,4 tuổi và gắn bó với xứ Tuyên từ đó.
Nhà văn Phù Ninh từng làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Tuyên, Tổng biên tập Báo Tân Trào (1988-1991), Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Tuyên Quang (1991-1994), Tổng biên tập Báo Tuyên Quang (1994-1998), Chủ tịch Hội Văn nghệ Tuyên Quang (1991-2004)…
Năm 1964, ông nhận công tác tại Bảo tàng Tân Trào ở Sơn Dương, Tuyên Quang có cơ hội tiếp cận với những tư liệu về lịch sử. Qua những câu chuyện kể của người dân trong vùng, dần dần những sự kiện, nhân vật đã ngấm vào ông để làm nên những truyện ngắn, bút ký, tiểu thuyết… Ông đã xuất bản 7 cuốn tiểu thuyết, chủ yếu gắn với đề tài lịch sử như: Tân Trào rạng ngày độc lập, Người con gái Thăng Long, Trần Nhật Duật, Về Tân Trào, Dòng Lô êm trôi,… và được trao một số giải thưởng văn học của trung ương lẫn địa phương. Qua những trang viết của mình, ông đã đánh thức và gieo vào tâm trí người đọc tình yêu, lòng tự hào, tự tôn dân tộc.
Vanvn.vn trân trọng giới thiệu một số chương trong tiểu thuyết lịch sử của ông: Người con gái Thăng Long.
Chương Bốn 
1.
Có được bảo vật làm chỗ dựa tinh thần, Thổ Ty quay ra lo vật lực. Trước hết là việc lương, sức cho các làng mỗi mẫu ruộng nộp hai dậu thóc, hai dậu gạo để dùng vào việc quân. Cho em họ là Hà Đạt xuống các bản làng đôn đốc. Sau mùa gặt một tháng số thóc gạo đã nộp đủ. Cách hai mươi dặm dựng một nhà kho, giao cho trưởng bản phải lo canh giữ. Phòng thóc gạo chưa dùng đến để lâu trong kho bị mục ải, bèn truyền cho các trưởng bản giữ kho cứ một năm lại đem đổi  thóc mới.
Việc quân, Thổ Ty xuống lệnh cho các làng bản tuyển mộ Thổ Binh. Phàm trai tráng từ mười bẩy đến ba mươi tuổi phải ghi vào sổ đầy đủ bản quán cùng họ tên, ngày tháng năm sinh. Hẹn trong một tháng các làng bản phải đem sổ sách nộp lên châu. Lại sai gia nhân, thuộc hạ đến từng nhà căn cứ sổ sách tra xét đối chiếu rõ ràng. Những  người khỏe mạnh sức vóc cao to ghi vào sổ riêng.  Nội trong ba tháng làm xong việc kê biên danh tính tráng đinh.
Thổ Ty sai Hà Chương đi huấn luyện võ nghệ, tập bắn cung, cưỡi ngựa. Cứ mười làng bản gần nhau Hà Chương cho tụ họp về một nơi. Trai tráng đi tập luyện phải đem theo nỏ cứng cung mạnh với bó tên trăm chiếc và gạo thịt để tự nuôi, chỉ có muối là được Thổ Ty cấp. Tại mỗi nơi Chương bắt tập luyện ba tháng. Hết mỗi đợt tập luyện chia quân hai bên, đánh trận và thi bắn cung tên. Những người giỏi nhất cứ ba chọn một xung vào đạo quân Tồng, nghĩa đạo quân làm anh em với Thổ Ty. Quân Tồng đóng ở châu lỵ làm căn bản, cơm ăn áo mặc do Thổ Ty cấp. Những người khác về nhà làm ăn, lúc có việc binh sẽ gọi đầu quân. Nửa năm việc chiêu mộ và luyện tập Thổ binh đã thành. Cứ mười hai người thành một đội, mười đội thành một tốt, mười tốt thành một lữ. Thổ binh của cả châu có ba lữ, ba nghìn sáu trăm người. Lương thảo dữ trữ trong kho đã đủ.
Cuối năm, vào lúc nông nhàn, Thổ Ty xuống lệnh hội quân ở đất Thổ Bình.
Mỗi lữ cử một đội, cùng với quân Tồng tổng thao diễn binh mã chia quân đánh trận. Thổ Ty chỉ huy Bạch quân, Hà Chương chỉ huy Hắc quân. Bạch quân đóng đồn trại giữ châu. Hắc quân từ xa tiến về, giả như từ ngoài cõi đánh vào. Thổ Ty chia lực lượng Bạch quân làm hai. Một cánh phô trương thanh thế chặn con đường lớn, một cánh im lặng mai phục nẻo đường tắt. Tướng Hắc quân Hà Chương tính tình nóng nảy, lại sợ tiếp tế lương thảo khó khăn liền dùng kế tốc chiến, thúc quân tiến theo đường tắt hiểm yếu.
Không ngờ trúng kế của Bạch quân, bị vây chặt vào lũng hẹp, thế cùng quân tướng phải đầu hàng.
Lúc thu quân Hà Chương hỏi:
Sao Quằng chắc là Hắc quân sẽ đi đường hẻm? – Chú cũng là người hiểu việc. Quân từ xa đến tất cần thắng nhanh nhằm tránh cái họa về lương thảo. Vả chú vốn là người nóng tính lại không sợ nguy hiểm nên sẽ chọn đường gần.
Giả như Hắc quân đi đường bằng thì đã chiếm được bản doanh mà Bạch quân còn bị bao vây từ phía sau. Quằng có tiên liệu đến sự đó? – Cầm quân như người giỏi cờ. Đương nhiên là trù liệu mấy nước. Phải cho do thám biết rõ hành tung quân địch mà kịp thời ứng phó. Nếu kế mai phục không thành thì lập tức rút ngay đại quân về bảo vệ bản doanh. Đến nước ấy không có trận đại thắng nhưng bản doanh vẫn giữ được.
– Thắng trận cốt ở mưu kế chưa hẳn ở quân mạnh.
– Phải chăm lo cả hai, không một sự nào được lơ là.
2.
Trên đường từ Thổ Bình về, Thổ Ty được cấp báo có sứ nước Nam Chiếu đến xin tiếp kiến.
Thổ Ty hỏi:
– Sứ đoàn có bao nhiêu người? Gia nhân:
– Thưa có ba người.
– Quân hộ vệ nhiều hay ít? – Năm mươi
– Lễ vật có những gì? – Chỉ đếm thấy có năm mươi con ngựa tốt cùng nhiều kiện hàng.
Thổ Ty bảo Hà Chương cùng một đội quân kỵ về trước đón sứ đoàn ở nhà trạm, còn mình thong thả đi sau ngẫm nghĩ đối sách. Tới châu lỵ, chỉnh đốn binh mã làm thanh thế, thay đổi áo mới ra lệnh:
– Cho mời sứ đoàn vào, bảo với họ cho được đem theo mười quân hộ vệ. Số còn lại cứ ăn nghỉ tại nhà trạm. Bảo tộc trưởng ở đấy phải tiếp đãi tử tế, cấp đủ thóc ngô cho ngựa.
Cùng tiếp sứ với Thổ Ty có chú ruột là Hà Đốc. Người trong sứ đoàn đều mặc áo nhuộm chàm khuy vải cài ngang, thân áo phía trước thêu hình mây bay.
Thổ Ty hỏi:
– Thêu hình mây trên áo nghĩa lý thế nào?
Sứ Nam Chiếu nói:
– Thưa ngài châu mục Vị Long, xứ sở chúng tôi khí hậu mát mẻ, quanh năm mây phủ, lại ở về phương Nam, nên có tên là Vân Nam. Xứ Vân Nam người đông, địa thế hiểm yếu, bèn tự lập, lấy quốc hiệu là Nam Chiếu, không thần phục Nhà Tống.
Vào cuộc thương nghị, sứ Nam Chiếu nói:
– Hoàng thượng bản quốc gửi tặng Quý Châu hai mươi kiện lụa tốt và năm mươi ngựa giống của người Di làm quà ra mắt xin ngài châu mục nhận cho. Lụa đã mang theo đây, ngựa buộc ngoài dịch quán.
Thổ Ty sắc mặt không đổi, nói:
– Đa tạ nhà vua cùng sứ đoàn. Chỉ ngại là bản châu dân thưa, sản vật nghèo nàn, không có gì tặng lại.
– Xin ngài châu mục chớ băn khoăn, Hoàng thượng bản quốc chỉ mong kết thân với Quý Châu ta đây mà thôi. Người dặn sứ đoàn chúng tôi nói lại với ngài châu mục rằng: Bản quốc với Quý Châu Vị Long sông núi liền kề, từ canh tác đến y phục phong tục tuy có tiểu dị nhưng là đại đồng. Vua tôi nhà Tống trước sau vẫn coi bản quốc là ngụy triều lúc nào cũng lăm le khởi binh chinh phạt. Bản quốc ngày đêm phải đối địch với quân Tống ở mặt Bắc, còn Quý Châu ta canh cánh lo chống đỡ với Lý triều ở mặt Nam. Vậy hai bên há chẳng nên liên kết lại làm thành bè lớn. Như thế không còn phải lo phía sau có người đánh úp mà dốc toàn lực cự lại thế mạnh hai đầu. Xin được nghe cao kiến của ngài Thổ Ty và các mưu sĩ.
Thổ Ty hỏi lại ý đe dọa :
– Ngài lấy gì làm bằng cớ dám gán cho ta tội chống lại triều đình nhà Lý?
Sứ Nam Chiếu cười mà rằng:
– Thời trước Quý Châu chẳng đã từng không quy thuận nhà Đinh, nhà Lê đó sao. Nay lại tích trữ lương thảo, tuyển mộ thổ binh, luyện tập hàng năm trời là để làm gì vậy. Cái chí lớn của ngài Thổ Ty lồng lộng. Thiết nghĩ hà tất phải che dấu.
Thổ Ty vẫn nghiêm nét mặt:
– Việc nước Nam Sứ thần biết mà không biết. vua Lê Ngọa Triều làm việc càn dỡ, vô đạo, giết anh cướp ngôi thử hỏi ở vào địa vị của Hiển khảo ta sứ thần sẽ hành xử thế nào? Sứ thần cũng không biết Ngọa Triều đem quân lên Vị Long bắt được dân thường đem về kinh đánh đập dã man, nhiều người đã chết. Sao có thể đem so Ngọa Triều với đương kim Hoàng thượng nhà Lý? Sư thần Nam Chiếu biện bạch: – Nói về hai vua Lê, Lý đúng một đằng là nhân một đằng là quỷ. Còn nếu được ngồi vào chỗ của châu mục bản sứ nhất định không chịu để người sai khiến. Nhà vua bản quốc đã làm sẵn bản minh ước, tự tay ký một bên giao cho sứ đoàn đem sang đây, còn một bên dành cho ngài Thổ Ty.
Nói xong đưa bản minh ước cho Thổ Ty xem. Minh ước viết:
“ Ngày này tháng này năm này nước Nam Chiếu và Châu Vị Long nguyện kết liên minh. Hai bên cam kết rằng: không lấn đất, không bắt người, không cướp bóc của cải từ súc vật đến lương thực của nhau. Nếu một bên có biến, bên kia phải giúp binh lực. Trong một lúc hai bên cùng có biến thì đều phải cố giữ.
Thổ Ty xem xong đưa cho Hà Đốc. Đốc xem rồi không nói gì, ra hiệu cho cháu, ý phải cẩn trọng.
Trác Tuấn nói:
– Thành ý của nhà vua quý quốc cùng quý sứ đoàn ta đâu dám chối. Hiềm nỗi phụ thân qua đời chưa mãn tang, ta được tạm quyền coi giữ việc châu không thể tự quyết. Theo phong tục của bản châu những đại sự phải hỏi ý kiến ông cậu. Cậu ta hiện ở trang ấp riêng mãi trên Thổ Bình cách đây hai ngày đường mà lưu sứ đoàn bốn năm ngày e không tiện. Ngần ngừ một lúc Trác Tuấn nói tiếp:
– Hay là thế này, sứ đoàn để lại bản minh ước rồi về tâu lại với nhà vua bên đó rằng bản châu vui mừng được quý quốc kết liên minh. Mấy ngày nữa ta sẽ cho người mời ông cậu về. Việc tốt thế này chắc là ông cậu bằng lòng. Minh ước ký xong ta sẽ đưa sang, một là thỉnh an nhà vua hai là đáp lễ và thăm quý quốc.
Sứ giả tỏ vẻ băn khoăn, trao đổi với các liêu thuộc, hồi lâu nói:
– Ngài Thổ Ty đã nói hết lẽ thế, chúng tôi đành nghe theo. Chỉ mong ngài thu xếp công việc sớm sáng thăm bản quốc chúng tôi cùng là trao bản minh ước đầy đủ chữ ký. Trác Tuấn nói:
– Đa tạ! đa tạ. Rồi tiến sứ đoàn ra quán dịch.
3.
Sứ Nam Chiếu đi rồi Thổ Ty triệu em trai cùng Hà Đốc bàn định. Thổ Ty nói:
– Vua nhà Lý mới được nước và dời đô ra Đại La, đổi tên thành Thăng Long, thanh thế ngày càng mạnh. Thăng Long gần bản châu ta hơn Hoa Lư, sự ràng buộc sẽ càng chặt. Theo lệ các triều Đinh, Lê ngày trước hằng năm Vị Long phải đóng thuế, cống nạp sản vật sơn lâm. Mấy năm nhân triều đình có biến nên ta bèn tự bỏ. Nay thế nước đã định, sớm muộn triều đình cũng sẽ bắt nộp thuế, đòi cống. Ta nên khu xử thế nào cho phải?
Hà Chương nóng nảy, nói:
– Vị tất phải theo chuyện cũ. Bản châu ta tự cai quản mấy mươi đời nay, có thuế cống chỉ là làm lệ. Gần đây Thổ Ty chẳng đã lo việc phòng bị chu tất đó sao. Vậy nên theo ý của đệ ta luyện quân cho tinh nhuệ, mua nhiều ngựa tốt, tích trữ lương thảo, nếu triều đình khởi sự binh đao thì ta dùng binh đao mà địch lại. Ta có lợi là dựa vào thế núi khe hiểm trở, thông thuộc đường tiến thoái, lại không phải chuyên chở quân lương. Triều đình dẫu có vây đánh, lâu ngày cạn lương tất phải rút về. Ta như ngọn cỏ rạp xuống một thời, chờ cơn gió đi qua lại ngóc dậy.
Hà Đốc nói:
– Tuy nhiên dẫu nhiều lương, lắm ngựa, đông quân ta cũng chỉ là một châu, đâu phải một vương triều. Chống lại triều đình là chống lại một quốc gia. Chẳng những thế dân chúng truyền nhau rằng Vua Lý là người trí lự mà khoan dung, cái cơ thịnh vượng ngày càng hiện rõ. Động binh không phải là chuyện hay. Chi bằng luyện tập binh mã cốt giữ an nội châu, sức dân các bản nộp sản vật lên, hẹn ngày đem về kinh. Như thế người dân được yên ổn làm ăn mà vẫn có của cải cống nộp.
Hà Chương nói:
– Nước Nam Chiếu ở xa mà cũng phải đến tính chuyện lập liên minh. Tuy minh ước chưa ký, nhưng thế là đã có sự thỏa thuận. Từ nay mạn bắc không phải phòng bị nữa, hoặc giả thế núng ta còn có thể cầu viện họ.
Hà Đốc:
– Về lực mà nói ta chưa hẳn là yếu. Song xét về đại cục thì đất một châu sao có thể nên vương. Một châu chỉ có thể hưng thịnh lên trong một nước hưng thịnh. Vị Long ta tự xưa thuộc về Đại Việt. Nam Chiếu dầu gì cũng là người nước ngoài. Một khi họ trở mặt, hai bề ép lại ta trở tay sao kịp.
Vậy nên quy thuận về nhà Lý là thượng sách. Nếu một mực đối đầu việc chuốc lấy bại vong tất là sẽ đến.
Nghe bàn lý lẽ mỗi người mỗi phải, Thổ Ty im lặng hồi lâu, mãi sau nói:
– Này là việc lớn quan hệ đến chuyện tồn vong của Vị Long, đến cơ nghiệp tổ tông mười mấy đời để lại, phải suy ngẫm kỹ càng, không thể vội. Hôm nay hãy bàn đến đây đã.
Hà Đốc và Hà Chương đi rồi, Trác Tuấn châm hương thắp lên bàn thờ tổ, khấn rằng:
– Nay vua Lý ở ngôi đã vững, thế tất châu ta phải quy phục. Con cháu những muốn noi theo đường của khảo tổ, hiển tổ riêng đứng một góc trời, luyện tập Thổ binh, tích chứa lương thảo. Hòa hay chiến xin được bảo ban.
Khấn đến đó, bỗng nhiên bình hương bốc cháy. Trác Tuấn mừng, thầm nhủ quyết thực hiện cho được ý nguyện làm chủ một cõi của tổ tiên.
Tránh hội bàn nhiều lời khó quyết, Trác Tuấn gọi Hà Chương đến nói:
– Quân đã luyện, lương đã tích, hãy cứ thử sống mái một phen xem sao.
Nếu như chống không nổi khi đó xin hàng cũng chẳng sao, bất quá bị truất chức châu mục là cùng. Vậy giao cho chú dẫn ngay hai trăm Tồng binh ra đóng giữ Đèo Lửa. Nếu triều đình phái quan thu thuế đến thì nói thác mấy năm nay hạn hán, mất mùa, dân tình đói kém, xin triều đình tha cho ba năm. Họ cố vào bắt lại đưa về châu. Vạn nhất triều đình tiến đánh phải cố giữ lấy Đèo Lửa. Đấy là nơi hiểm yếu nhất của châu ta. Mất Đèo Lửa, châu lỵ khó mà giữ.
Nghe tin Hà Chương đêm quân ra Đèo Lửa, Hà Đốc lại đến can Trác Tuấn:
– Cháu nên cho người ra gọi Hà Chương quay lại. Triều trước nhà vua vô đạo, dân tình oán hận, trên dưới bất hòa mà ta chống không nổi. Nay đã sang đời vua sáng tôi hiền, ta nên qui thuận là hơn hết.
Trác Tuấn không nói lại nửa lời. Xem thể đủ biết để ngoài tai lời can, Trác Tuấn vẫn quyết chủ trương muốn xưng bá một vùng không quy phục triều Lý.
4.
Bấy giờ là niên hiệu Thuận Thiên thứ tư, Lý Thái Tổ ở ngôi được bốn năm. Triều đình sau khi thiên đô Tướng công Trần Cảo nhận trọng trách tổng quản xây dựng. Nào cung điện của nhà vua, hoàng hậu; lầu các của phi tần, hoàng tử, công chúa; phủ đệ của đại thần, hoàng thân, quốc thích; nào chùa chiền, miếu tháp ở kinh đô, ở các trấn thành. Từng đó công trình cần biết bao nhiêu công sức, của cải. Nào gỗ đá cống nạp từ miền ngược, nào gạch ngói lấy từ trung du và châu thổ.
Tướng công không đủ quyết bèn tâu lên:
– Thần đã chia các quan đem theo binh lính thúc giục các châu lộ gần xa nộp đủ thuế đinh, thuế điền. Song nhiều châu sách nguồn động xa xôi như Bình Nguyên, Đô Kim, Lạng Châu, Thang Châu, Diễn Châu triều trước đã quy thuộc triều đình nay dây dưa cống nộp. Đây đó có vài tù trưởng kéo kết nhau tính chuyện bạo nghịch. Có tin báo Châu mục Vị Long là Hà Trác Tuấn luyện binh, tích lương hùa với người Nam Chiếu kháng mệnh triều đình. Những nơi xa khuất ấy nếu không sớm thống suất sẽ xẩy đến hai việc khó. Một là không đủ tiền tài nhân lực kiến thiết quốc đô. Hai là đất đai bờ cõi khó định. Rồi ra phương Nam thì người Chiêm Thành quấy nhiễu, phương bắc thì người Tống nhòm ngó. Đến lúc đất đai bị ngoại xâm lấn chiếm, đặt quận huyện cai trị bấy giờ làm sao thu phục lại được.
Nhà vua cho thiết triều cùng các đại thần bàn định quốc sự.
Đào Hầu nói:
– Thần cho rằng châu mục mấy nơi ấy cho rằng vua ta mới ở ngôi, ngai vàng chưa vững, binh lực chưa mạnh, mới sinh sự nọ kia. Xin Bệ hạ cho chúng thần đem quân đi bảo cho kẻ kia biết rõ ân uy của triều đình. Nếu kẻ kia biết trời cao đất dày một lòng qui phục thì tốt. Nhược bằng có ý chống đối nghiêm trị để nêu gương. Đặt quan triều đình đến trị nhậm. Một vài nơi làm như thế những nơi khác tự nhiên phải theo về. Bờ cõi được giữ yên, triều đình mới cường thịnh.
Đình thần lại có người tâu:
– Thần nghĩ dân chúng đã nhiều phen hoảng loạn như gà phải cáo, nay nếu động binh lòng người lại nơm nớp lo sợ, hương thôn lại một lần tán tác, còn đâu chuyên chú việc nông tang. Ruộng hoang đồng vắng, đói rét cơ hàn sao gọi được là yên dân. Những lời bàn ấy, ai cũng có lý của mình, nhà vua để lọt tai, song le kế sách đã được trù hoạch bèn phán rằng:
– Mùa đông tháng mười năm nay trẫm sẽ thân cầm quân lên mạn ngược, lấy Dực Thánh Vương làm tướng tiên phong.
Trần Cảo tâu: – Xuất quân tuy là việc lớn song ngôi vua còn lớn hơn. Xin bệ hạ ban ấn tiên phong cho một đại tướng cầm quân đi là đủ. Mình rồng không nên khinh xuất. Kính mong bệ hạ tính đến đại cục.
Đào Hầu bàn: – Lời của Tướng công rất thấu đáo. Thần xin được đem quân vào chỗ đất hiểm nguyện không đánh thắng không trở về.
Nhà Vua nói: – Chí khí của các khanh rất đáng khen. Trẫm cũng rất tin ở tài thao lược của các khanh. Có điều xuất binh lần này thắng thua không phải nơi trận mạc mà chính ở lòng người. Trước là nhằm tuyên bố đức nhân từ giáo hóa của triều đình, sau là qui thuộc các châu lộ về một mối. Thắng trận bằng gươm giáo không bằng qui thuận được lòng dân. Đó mới thật là kế vẹn toàn dài lâu. Việc rất hệ trọng, trẫm phải thân cầm quân tỏ lòng khoan lượng, kẻ kia mới chịu theo về. Khi trẫm rời cung, việc triều chính giao cho Khai Quốc vương.
Chiếu chỉ đã ban, các khanh không bàn thêm nữa. Truyền Dực thánh vương chỉnh đốn quân ngũ sẵn sàng.
5.
Biết tin nhà Vua cầm quân lên mặt Bắc, công chúa Khâm Thánh nói với Hoàng hậu cùng mình vào tẩm điện. Đang lúc nhà Vua xem xét địa đồ định đường hành quân lần cuối. Công chúa vội thưa:
– Xin phụ hoàng cho con theo đi một chuyến. Khi ở lại Trường Yên đã được Dực Thánh dạy cưỡi ngưạ bắn cung, nay đứng vào hàng quân không có gì làm vướng bận. Hay ít ra cho con được hầu hạ phụ hoàng những ngày người hành quân khó nhọc.
Nhà vua lấy làm khó xử. Trước nay công chúa vốn được yêu chiều nhất trong số các con, tính tình công chúa ưa phóng khoáng, không thích giam mình nơi cung cấm. Tuy thế việc cho con gái theo đòi binh nhung nhà Vua chưa từng nghĩ tới. Lại nữa, mới đây tin từ phương Nam về, Triệu tướng đã tử trận trong khi đánh quân Chiêm vào xâm phạm bờ cõi. Tuy hai người chưa đính ước nhưng tình ý giữa họ đã đến tai nhà Vua và Hoàng hậu. Nhà Vua truyền hãy tạm giấu chưa cho công chúa biết. Nay công chúa đòi theo lên ngược, nhà Vua nửa muốn cho được thỏa nguyện bay nhảy, cũng là để khuây khỏa nỗi buồn về mối tình nửa chừng đứt đoạn với Trần tướng; nửa lo chốn lam chướng không hợp với thân gái liễu yếu tơ đào. Nhà Vua quay sang Hoàng hậu, nói:
– Ý hậu thế nào?
Dẫu chiều con còn hơn cả nhà Vua, Hoàng hậu cũng không thể thuận cho con gái đến nơi trận mạc, bèn nói:
– Lần cất quân này đường sá xa xôi, núi sông cách trở, thời hạn hồi cung còn chưa định, có biết bao nguy hiểm rình rập, thế nên nhất quyết không để công chúa đi cùng. Mai đây bình định xong miền biên viễn tất có ngày bệ hạ đi kinh lý. Lúc ấy công chúa theo xa giá du ngoạn cũng chưa muộn. Bệ hạ nên hứa cho con được vui.
Được lời Hoàng hậu gỡ bí, nhà Vua nói:
– Con hãy ở lại kinh bên mẫu hậu, sau này cha sẽ cho con du ngoạn không chỉ châu Vị Long mà còn nhiều vùng đất khác.
Tháng mười thời tiết khô ráo, mùa màng đã thu hoạch xong, quân lương tích trữ dễ dàng, huy động nhân lực vận chuyển lúc nông nhàn không mấy khó khăn. Ngày Kỷ Sửu, giờ Thìn ngót một trăm thuyền chiến, thuyền hàng tề tựu ở bến Bồ Đề. Nhà vua áo giáp màu cánh gián, mũ trụ, tay cầm cung bước xuống thuyền rồng. Những cánh buồm trắng, những cánh buồm nâu giương lên kín mặt sông. Hồi trống lệnh nổi lên dõng dạc báo lệnh xuất quân.
Quân bộ do Dực Thánh Vương chỉ huy ra khỏi cửa bắc cùng giờ. Tiền quân là Đội kỵ binh năm trăm ngựa. Quân bộ hai ngàn theo hướng Sơn Tây ngược lên. Hai quân thủy bộ hẹn gặp nhau ở bến Tam Kỳ bên bờ sông Lô.
6.
Thổ Ty vẫn khao khát chế tạo được tên cứng cung mạnh bèn cho thợ cả cầm đầu toán người về đồng bằng tìm chất kỳ thạch đúc đồng thau.
Ba người, nón lá, áo quần nâu, khoác tay nải ra khỏi châu lỵ lúc nửa đêm. Người trước người sau hàng một, lặng lẽ như đang cuộc săn. Không một ai được biết, không một ai nhìn thấy. Sương dày đặc, người sau nhìn người trước chỉ thấy lờ mờ. Đi đầu là chàng trai người Thổ có sức vật hổ. Anh chàng cao chân bước làm cho hai người Kinh có lúc phải chạy gằn mới kịp.
Mỗi khi lên dốc, chỉ nghe tiếng thở càng lúc càng gấp hơn. Lúc xuống dốc, người đi đầu bước chậm lại, khoảng cách giữa họ thu hẹp. Trời sáng dần, cây cỏ bên đường đã hiện rõ. Ông già đi sau hỏi:
– Đã sắp hết đất Vị Long chưa?
Chàng trai Thổ:
– Còn leo mấy con dốc nữa.
Vẫn hàng một bước, lầm lũi. Với chàng trai Thổ ngày mai ngày kia đến đâu không thể nghĩ ra. Ông già lo làm sao chuyến đi trót lọt. Chàng Thợ Hai mong chóng trở lại Vị Long. Hồn vía chàng đã bị cô gái Thổ tên Hân hút mất, chẳng biết hay là ăn phải bùa yêu. Thấy nói con gái Thổ thả bùa yêu cho ai, người ấy không thoát được.
– Tôi muốn nghỉ lắm rồi – Thợ Hai nói:
– Cố chút nữa đến chỗ có con suối nghỉ ăn cơm luôn thể tiện có nước uống.
Trời lạnh mà mồ hôi túa thấm ướt vai áo. Thợ Hai cởi phăng áo ra thắt ngang người. Lâu sau nghe tiếng suối rì rào, trước mặt hiện ra một thác nước trắng xóa giữa bốn bề xanh thẳm. Chẳng phải đợi ai ra lệnh, mỗi người tìm một chỗ bên bờ suối ngồi nghỉ. Chàng trai Thổ lấy từ trong tay nải ra ba ống cơm lam và một gói muối vừng. Chàng đưa cho ông già trước, rồi mới đến thợ Hai.
Ông già, chính là Thợ Cả. Ông loay hoay chưa biết cách bóc cơm lam nào. Chàng trai Thổ cầm con dao ngắn vừa chẻ vỏ ống cơm lam vừa nói một câu tiếng Thổ. Thợ cả nhắc:
– Bây giờ còn trong đất châu Vị Long nói tiếng Thổ bớt dần đi. Khi về xuôi nhớ không nói nữa. Nghe thấy tiếng Thổ có thể họ sẽ sinh nghi, bắt nộp quan, rắc rối to.
Chàng trai Thổ tạt vào ven đường bứt mấy tàu lá dong trải lên phiến đá, rồi đổ muối vừng ra. Cả ba quây lại quanh cái mâm bằng lá, bẻ cơm lam chấm muối ăn. Chừng một nửa ống cơm, thợ cả đã có vẻ ngắc ngứ. Tạng ông không ưa của nếp. Chàng trai Thổ nói:
– Chỉ được ăn cơm lam bữa này nữa thôi. Mai ngày xuống đồng bằng làm gì có. Ông cố ăn lấy sức mà đi.
Thợ Cả vẫn không dùng hết phần của mình, để mẩu cơm lại, đứng lên vục nước suối uống. Chàng trai Thổ tên Heng đã ăn xong, nhìn mẩu cơm tiếc rẻ lại cầm lên ăn nốt. Cơm nước xong xuôi, nải ai nấy khoắc họ bắt đầu lên đèo. Thợ Hai:
– Có chuyện gì vui vui kể đi.
Chàng trai Thổ nháy nháy mắt về phía thợ cả ra ý ngại. Không ngờ ông già tán thưởng ngay:
– Nói đi cho vui miệng vui chân.
Chàng trai Thổ cười cười nói dượm:
– Chỉ có chuyện đàn bà con gái mới vui.
– Thì cứ nói, có ai lạ đâu mà phải ngượng.
Chàng ta hắng giọng nói:
– Tôi kể một chuyện vui của người Thổ. Có một anh chàng mới lấy vợ. Mỗi đêm hai ba lần nằm lên bụng vợ vẫn chưa hết thèm. Cô vợ người phờ phạc nhưng không biết làm thế nào. Một hôm vừa đi chợ về, trời nóng nực, mồ hôi đầy người, chưa kịp đặt gánh xuống anh chồng đã đòi. Bực quá, cô ta nói bừa rằng lúc đi qua suối cái ấy rơi mất rồi còn đâu nữa mà đòi. Có muốn thì ra đấy mà tìm. Anh chồng tưởng thật vội chạy ra suối mò. Thoát được chồng, cô vợ mới đi lo cơm canh, rồi tắm rửa sạch sẽ đâu đấy. Vừa lúc anh chồng từ suối về vẻ mặt hớn hở, hai tay cầm hai con trai to kềnh. Đưa trai cho vợ anh ta nói, thấy rồi, những hai cái. Cô vợ cười mỉm cầm nó vào buồng, giả như trả về chỗ cũ. Ăn cơm xong là anh chàng đòi ngay. Cô vợ đã qua được cơn mệt nên bằng lòng. Phải chờ đợi lâu nên anh ta làm hùng hục như trâu húc mả. Anh ta nói với vợ: làm cái đánh rơi sướng thật. Cô vợ nhịn cười nói: Những hai cái làm sao không sướng. Anh chồng: Từ mai cứ đánh rơi để tôi đi mò.
Thợ hai hỏi:
– Chàng có đi mò không?
Cả bọn cười vang. Chàng vui miệng kể tiếp những câu chuyện cười của người Thổ. Họ đã đang ở lưng chừng Đèo Lửa. Con đèo cao nhất án ngữ đường vào Vị Long. Triền từ về châu lỵ lên dốc đứng, nhiều khúc gấp thành thử đi chóng mệt. Sang đến bên kia, triền xuôi nam thoải dài tới mấy dặm. Đến đoạn đường gấp khủy tay, chàng trai Thổ nói:
– Nghỉ chút nữa lấy sức, rồi đi một hồi dài là tới đỉnh.
Hai người kia đều mệt liền dừng cả lại. Đứng đây nhìn về chân đèo phía châu Vị Long cảnh sắc bày ra như một bức tranh. Nắng rực rỡ, cánh đồng với những thửa ruộng bậc thang đủ mọi hình dạng dài ngắn chen nhau. Đây đó vài chòm cây cọ giống những chiếc ô đứng lặng giữa đồng. Con đường vào làng màu nâu, phân cánh đồng làm hai nửa. Nơi cuối đồng về phía Đông là những ngôi nhà mái lá cọ màu xám nhạt, lửng lơ làn khói lam mờ. Đấy là bản Khuổi Trang. Dưới mái nhà kia, cô vợ trẻ của chàng giờ này chắc đã về đồng đang nhóm lửa nấu cơm trưa. Mẹ chàng địu cháu ra suối cắt về những cây rau cải tươi xanh. Chàng vừa kể chuyện vui đấy, phút chốc bỗng trở nên thờ thẫn, hồn vía phiêu diêu nơi những thửa ruộng, cánh rừng, con suối… Mẹ con bà cháu đang sống yên lành dưới mái nhà đầm ấm thì bỗng có lệnh đòi chàng về châu. Cứ tưởng bị vu tội trộm cướp, hay tụ tập chống lại Thổ Ty, mẹ anh một mực kêu oan. Đến châu mới hay Quằng giao cho đi cùng người Kinh về xuôi để mua thứ hàng gì thấy bảo là quốc cấm. Quằng còn nói, chàng là người khỏe mạnh, tháo vát, đời ông đã theo Thổ Ty đi công việc về xuôi. Là nói thế chứ khi chàng lớn lên đâu thấy mặt ông. Làm sao được ông truyền bảo cho về xuôi phải ăn nói đi đứng thế nào. Lệnh của Thổ Ty, người trong châu ai dám chống lại bao giờ.
Ông già thợ cả hiểu nỗi lòng người bạn trẻ đồng hành. Hãy để chàng ta ngoái nhìn quê hương làng bản lần nữa. Cuộc đời có biết bao nhiêu bất trắc rình rập phía trước. Ai dám chắc chuyến đi này có được ngày về. Còn bao nhiêu năm tháng nữa mới đến ngày ấy nếu có. Lúc bấy giờ liệu còn tay vững chân mạnh hay thân tàn ma dại lê bước như con chó bị đánh què. Tâm trạng của chàng trai Thổ, thợ cả đã nếm trải. Không riêng chàng trai Thổ cả chàng thợ hai mỗi bước đi trong lòng đều cảm thấy bất an. Sẽ là dang dở cho việc của Thổ Ty và cả đám thợ. Còn mối tình chớm nở …
Rồi cũng đến lúc họ phải cất bước. Cả bọn im lặng gắng sức lên đèo, lòng nặng trĩu. Chàng trai Thổ đôi mắt hoe hoe. Trong đầu Thợ cả hình dung ra con đường xa lắc. Từ bến Bạch Hạc sang đò lớn sông Cái hai ngày hai đêm cập bến Bồ Đề. Còn qua tỉnh Nam mới đi Thanh. Về Thanh nhưng chẳng thể ghé Đông Sơn. Khi ra đi lén lút nay việc chưa thành biết nói thế nào. Chẳng lẽ nói dối là đã tìm thấy mỏ, trong lúc đợi xin phép quan sở tại nên về xuôi mua muối mắm dùng dài ngày. Thôi đành tránh làng đi con đường khác. Rồi ra có hay không một lần đặt chân về làng. Lan man nghĩ đến chuyện kỳ thạch. Có thể tìm thấy. Chỉ lo số bạc lần nữa, cho vào bị cói mà đeo. Gỡ được một nút rối tưởng đã có thể chợp mắt thì một nút khác lại đã hiện ra, soắn suýt, chằng chịt, khó gỡ hơn. Thổ Ty gả em gái cho con mình, cấp ruộng tốt, trâu khỏe để làm ăn biến bọn thợ đúc thành người Thổ ăn đời ở kiếp chốn sơn lâm. Có nhà cửa trâu ruộng, ăn ở coi là sung túc, lúc dời quê ra đi cũng không mong gì hơn thế. Cái ơn lớn lắm, phải ghi nhớ mãi. Chiều thuận như thế. Còn chiều ngược.
Hai năm sống trên đất Vị Long, xem xét động tĩnh của Thổ Ty thấy nào đúc vạc đồng mười hai ngăn làm linh vật, nào chiêu mộ luyện tập dân binh, nào dạo mua ngựa tốt, giờ lại tìm đúc tên cứng. Cái ý mưu bá đồ vương, hùng cứ một phương không chịu qui phục triều đình ngày một rõ ràng. Việc ta đi mua kỳ thạch mà thành chẳng phải đã là giúp vào đó một tay hay sao. Dân binh của Thổ  Ty dẫu có đông, sản vật của một châu Vị Long dẫu có nhiều nhưng bì sao được với quân triều đình. Thổ Ty chống với nhà vua khác nào trứng chọi đá. Sớm muộn gì không tránh khỏi bại vong. Lúc bấy giờ hình quan truy xét ra thì cả cha con anh em mắc vào tội đại nghịch, cả làng cả họ tránh sao khỏi án chu di. Nhưng nếu ta không làm hẳn Thổ Ty sẽ chẳng để yên cho con trai và các người anh em. Nghĩ đến đó, việc đi tìm kỳ thạch vốn đã là sự cưỡng ép, niềm tin không mấy nay càng trở nên nao núng. Sự nao núng ngày một lớn dần. Có lẽ nào ta lao tâm khổ tứ lặn lội nơi rừng thiêng nước độc để nhận lấy kết cục thảm khốc ấy, kết cục không làm rạng danh cho làng mà còn trở thành chuyện trong thiên hạ mãi về sau.
Mỗi người trong số họ ý nghĩ miên man như kẻ mộng du lâu sau mới tỉnh, lầm lũi xuống đèo, bước chân nặng như bị buộc đá.
7.
Ngày thứ ba họ đến phố Bạch Hạc bên bờ sông Cái. Nhà cửa sát bờ sông, phần nhiều bằng tre, gỗ. Chỉ có dăm bảy nhà gạch. Chắc của quan lại và người buôn gỗ. Dặn hai chàng trai ngồi nghỉ chỗ gốc gạo cạnh ngã ba đường, Thợ Cả nói:
– Chờ tôi đi tìm nhà trọ. Một đêm nay ta ngủ trên bờ nữa thôi. Mai ngồi thuyền khỏi phải đi bộ mỏi chân, đỡ mệt, lại tránh được nhiều sự bị xét hỏi.
Chàng trai Thổ gần như không nói để tránh người khác phát hiện thấy giọng lạ. Lâu lâu chàng nài Thợ Hai kể chuyện vui cho đỡ sốt ruột.
– Kể thì kể, nhưng chỉ được nghe, không được hỏi lại. – Được.
– Làng nọ có chàng Ngốc. Đêm đầu tiên chàng ta cứ dí cái của mình vào rốn vợ. Hôm sau vợ đem chuyện kể với mẹ đẻ. Người mẹ dặn, lấy mỡ bôi lên bụng từ rốn trở xuống xuống. Cô vợ theo làm lời mẹ. Đêm đến lại như hôm trước, vừa đặt lên bụng vợ thì cái của chàng tuột vào của vợ. Cô ả mừng thầm phen này ăn chắc. Chẳng ngờ chàng Ngốc tưởng mình làm vợ thủng bụng, sợ quá vội vùng dậy chạy tuốt ra đường. Chạy mãi đến khi mệt quá mới dám đứng lại. Cô vợ không được được sung sướng vừa tức vừa buồn cười. Hai ba ngày sau chàng ngốc lần mò về làng nghe ngóng. Gặp ai cũng hỏi mấy hôm nay làng có đám tang nào không. Người nào được hỏi cũng nói, có ai chết đâu. Chàng ngốc đánh bạo về nhà thấy vợ vẫn sống nhăn răng mới thật hoàn hồn.
Chàng trai Thổ hỏi:
– Sau vợ chồng họ có làm được cái kia không?
– Đã dặn không được hỏi kia mà.
– Thôi không hỏi, kể đi.
Tối đến, cô vợ vẫn làm mẹo cũ, khi cái của chồng tuột vào cô ta liền ôm chặt lấy không cho chàng Ngốc vùng dậy nữa.
Cả hai phá ra cười, một phút quên đi những nỗi phiền muộn.
Tìm được nhà trọ, thợ cả dạo quanh phố chợ mua vài thứ lặt vặt. Ông chột dạ thấy quân lính lố nhố, có cả quân kỵ, ngựa chạy rầm rập bụi mù phố sá. Để ý thấy mỗi phố có đến hai chỗ gác. Giả làm bộ nghễnh ngãng thợ cả hỏi một người bán nước chè:
– Chẳng hay quan lính đi đánh dẹp phương nào mà đông làm vậy? Người này có vẻ thông tỏ:
– Nhà ông không biết sao là quân triều đình đi đánh Thổ Ty châu Vị Long trên mạn ngược. Nghe đâu ông ta liên kết với người Nam Chiếu kháng mệnh nhà Vua, không chịu nộp thuế. Thế nên nhà Vua mới cất quân đi hỏi tội.
Nghe đến đó Thợ Cả bủn rủn chân tay nhưng cố làm ra vẻ như không có chuyện gì, hỏi thêm:
– Quân triều đình trú lại phố ta bao ngày nữa? – Chắc độ hai ngày. Này nhé, từ kinh đô lên Hạc đã ba ngày, tất phải nghỉ độ một hai ngày mới đi tiếp. Quân lính đông thế này giá rau quả cá thịt bỗng chốc tăng lên trông thấy. Mong cho quan quân mau chóng lên ngược, phố phường trở lại bình an. Mà thôi ông đi đi đừng hỏi nữa. Ngộ nhỡ có người trông thấy nghi là kẻ gian dò xét binh tình mà bắt lại thì khốn. Chỉ chờ câu nói ấy thợ cả vội quay gót rảo bước. Trở lại chỗ gốc gạo, thợ cả giật áo nói nhỏ bảo hai chàng trai cùng về nhà trọ ngay.
Dưới ánh đèn dầu lạc khêu nhỏ, thợ cả kể lại vắn tắt sự tình cho hai người kia biết, rồi nói với chàng trai Thổ:
– Bây giờ chàng ngủ đi, chớ có ra ngoài nữa, để lão với thợ hai nghe ngóng thêm sẽ liệu bề lui tới. Ông già cùng thợ hai khép cửa đi ra bờ sông Cái. Những lời người dân bên đường nói làm ông rối trí, phải đến một nơi vắng vẻ để trấn tĩnh và bàn tính với người cùng làng. Bao nhiêu câu hỏi hiện lên. Ta có nên đem bàn với chàng trai Thổ? Ngộ nhỡ anh ta không chịu theo? Hay bảo anh ta lẻn trốn đi. Nhưng nếu để một người miền núi lớ ngớ giữa đồng bằng chỉ một hai ngày là bị bắt. Chàng ta cũng như con cháu mình. Chẳng qua tại số trời gắn buộc với mình, tại Thổ Ty bắt buộc nên phải đi thôi. Ở nhà mẹ già, vợ trẻ, con dại ngày đêm ngóng đợi chàng về với họ. Những người dân quê miền ngược ấy cũng giống người miền xuôi, họ có tội gì đâu.
Gió sông se se phả lên mùi tre nứa ngâm ngai ngái. Quê ông cũng ở bên con sông, là con sông Mã suốt năm cuồn cuộn. Sông không lớn thế này nhưng cùng đủ mênh mang và có vẻ hùng vĩ, dữ dằn hơn. Gió sông mát mẻ quạt ráo mồ hôi do lo sợ quá túa ra ướt đầm lưng áo lúc nào không biết. Tâm trí ông đỡ mù mịt đôi phần. Ông thì thầm với người đồng hương:
– Tình thế này xem ra là không thể đi tiếp được. Bởi chưng bác cháu ta thế là mắc vào trọng tội mất rồi. Là tội đồng lõa với kẻ phản nghịch chống lại triều đình. Có lẽ phải nói chàng trai Thổ rõ hết mọi lẽ an nguy mà cùng theo cách của ta.
– Thổ Ty cho người đi cùng vừa để thúc dục vừa theo dõi bác cháu ta, lại nắm lấy bí mật chỗ mua kỳ thạch nữa. Tuy thế trước lẽ sống chết chắc chàng ta cũng sẽ nhận ra mà nghe theo.
Bàn bạc đồng thuận được với nhau, hai người trở về nhà trọ. Nhìn chàng trai Thổ ngủ ngon lành. Thật đáng thương, anh ta đâu biết mối hiểm nguy đang kề cận. Ông già nằm ngửa nhìn lên trần nhà. Chiếc đèn treo trên tường leo lét tuồng sắp tắt. Thỉnh thoảng nghe rõ tiếng thạch sùng tắc muỗi. Trằn trọc mãi không chợp mắt được, chỉ mong trời mau sáng. Suy đi tính lại, nên thế này, lại nên thế kia. Đều là những sự nguy hiểm đến với mình. Chừng đến canh hai ông già mới thiếp đi.
Pháp trường đông nghịt. Người người chen lấn cố nghển cao để xem cho rõ. Hai cha con, thợ bạn, thợ hai, bị trói mỗi người một cọc. Cả đứa cháu nội của ông mới ba tuổi lẫm chẫm cũng bị dẫn ra đứng cạnh cha. Đao phủ mặc áo đen, quần đen, quấn khăn đen, tay lăm lăm thanh đao to bản, lưỡi sáng lóa. Chốc chốc hắn ta lại khua đao làm phát ra tiếng lạt sạt rợn người. Tiếng chiêng buông chậm rãi rầu rĩ như từ âm phủ vọng về. Chợt một hồi trống lệnh gắt gỏng, tiếng quan giám trường lạnh lùng ra lệnh xử trảm. Đầu con trai ông rơi xuống bãi cỏ, máu loang đỏ một vùng. Ông già thét lên một tiếng kinh hoàng. Cả ba người cùng thức. Ông già mồ hôi đẫm áo, không dám kể lại ác mộng với hai người trẻ. Sau giấc mơ khủng khiếp ông càng dứt khoát hành động theo cách của mình. Không thể ngủ tiếp, thợ cả nhẩm những lời sẽ nói chỗ cửa quan ngày mai sao cho trôi chảy, thông thoát.

Sáng ra cả bọn dậy sớm. Ăn sáng, thợ cả trả tiền trọ tiền cơm, cảm ơn nhà chủ xong cùng nhau ra bến sông. Chàng trai Thổ cứ ngỡ sẽ xuống thuyền đi tiếp nhưng thấy ông già dẫn đến một chỗ vắng người, bảo họ chụm lại gần, nói:
– Sự thể gay go lắm. Trên phố đâu đâu cũng có chỗ gác xét hỏi người qua lại. Bọn ta khó có thể đi lọt. Giả như ta có đi thoát rồi ra biết về đâu. Bởi lẽ Triều đình cất quân rầm rầm rộ rộ như thế dân binh của Thổ Ty chống sao nổi. Ta có lấy được kỳ thạch cũng khó quay về. Cho là về được đi chăng nữa, lúc bấy giờ Thổ Ty làm gì còn ngồi được ở chức châu mục?
Chàng trai Thổ hiểu ra tỏ vẻ lo lắng:
– Vậy ông tính thế nào?
– Chỉ còn cách ra đầu thú may ra mới thoát khỏi tội chết.
– Đã theo vào đến đây, mọi việc cháu xin nghe ông.
– Chàng đã hiểu rõ tình thế không oán trách gì ta. Vậy cứ để mặc già định liệu.
Họ đến một trạm gác, ông già nói với lính canh: – Chúng tôi có người miền ngược muốn bẩm báo lên quan trên nội tình nơi ấy. Nhìn bộ dạng chàng trai Thổ, lính canh tin ông già liền gọi đổi gác tự dẫn đi tiếp. Qua hai trạm nữa, cuối cùng cả bọn bị đưa sân một ngôi nhà lớn. Lúc sau một vị quan mặc võ phục oai phong từ trong nhà bước ra. Đó chính là Dực Thánh Vương. Người dẫn giải bảo họ lạy. Cả bọn nhất nhất làm theo.
Ông già lần lượt khai tên họ, tuổi tác quê quán từng người. Sau đó cứ sự thực kể lại từ khi lên ngược tìm mỏ, bị bắt nộp cho Thổ Ty; việc Thổ Ty sai đi mua kỳ thạch đúc mũi tên, đến khi gặp đại quân thì bàn nhau ra thú tội, mong được khoan hồng.
Dực Thánh Vương nét mặt không đổi, thỉnh thoảng hỏi cắt ngang. Khi ông già đã khai hết, Dực Thánh Vương hỏi:
– Chàng trai Thổ có biết nói tiếng Kinh không? – Bẩm đại quan, anh ta nghe được nhưng nói thì chậm. Dực Thánh Vương lại hỏi:
– Những điều ông nói có đúng sự thật không? Nếu các người dối trá tội sẽ càng nặng hơn. Chàng trai Thổ:
– Bẩm quan, ông già nói thật cả không có gì gian trá. Xin đại quan tha cho vì lệnh của Thổ Ty mà phải làm thôi.
Dực Thánh Vương mỉm cười nghĩ, người miền cao khéo ăn nói lại biết lấy lòng lắm lắm. Nhìn cô gái Thổ trẻ măng e thẹn Vương toan muốn nhận. Lại nghĩ, dân chúng sẽ chê cười cho là thắng trận lấy thê thiếp. Ham muốn lấy gái Thổ bây giờ không thể, đành phải gác lại.
8.
Bảy ngày sau khi rời kinh đô Thăng Long. Hai quân thủy bộ hội ở bến Tam Kỳ trấn Tuyên Quang. Dực Thánh Vương tâu:
– Thần đi đường bộ đến trước đã hai ngày. Ba hôm trước ở bến Bạch Hạc có một ông già dẫn theo hai người trẻ đến xin đầu thú. Ông già khai rằng hai năm trước bố con anh em liều vào châu ấy định tìm mỏ đồng. Mỏ chưa tìm được đã bị tù trưởng sở tại nộp lên Thổ Ty. Khi biết họ có nghề đúc đồng, Thổ Ty sai họ đúc một một chiếc vạc lớn bảo là để làm linh vật. Sau lại sai người Thợ Cả xuống đồng bằng tìm mua chất kỳ thạch đem về chế đồng thau đúc mũi tên. Lại sợ họ không trở lại nên cho một người Thổ đi cùng để tiện bề thông tin tức. Thấy quân quan triều đình trẩy ngược, dò hỏi biết là nhà vua đi hỏi tội kẻ phản nghịch, ông già sợ tội chu di nên ra đầu thú. Thần xin dẫn họ ra để hỏi về đường đi lối lại.
Toán người tìm kỳ thạch bị giải vào dưới trướng. Dực Thánh Vương chỉ tay vào chàng trai Thổ nói:
– Người dân Thổ này nói được tiếng kinh kỳ. Nhà Vua hỏi:
– Từ đây đi đường thủy đến châu lỵ mất bao nhiêu ngày? Các ngươi phải nói thật, không được dối trá.
thợ cả phủ phục thưa:
– Tâu bệ hạ, thảo dân ham bạc mà dấn thân vào chốn núi rừng lam chướng này, cúi xin bệ hạ tha tội. Thảo dân có đi lại trong châu ấy thấy thuyền chở muối cập bến châu lỵ nhưng không rõ từ đây đi mất mấy ngày.
Lại hỏi:
– Người Thổ kia có biết không?
Chàng trai Thổ cũng làm theo thợ cả quỳ xuống, thưa:
– Dạ bẩm con chưa từng đi thuyền bao giờ, chỉ biết đi bè đi mảng xuôi dòng mất ba ngày.
Nhà Vua ra hiệu cho dẫn ba người đi. Khi họ ra khỏi, Nhà Vua nói với Dực Thánh Vương:
– Vậy lại cứ hai đường thủy bộ mà tiến. Gặp quân kia chặn đường, trước là chiêu dụ nói rõ phải trái, hẹn ngày giờ lui binh. Nhược bằng cố tình chống cự mới khởi chiến. Tránh đuổi đến cùng. Bắt được quân lính tránh sát hại, kể cả những đứa chưa chịu hàng. Tránh làm chủ tướng của chúng bị thương, tốt nhất dùng kế mà bắt. Quân vào châu lỵ nghiêm cấm cướp bóc của dân, nghiêm cấm tròng ghẹo đàn bà con gái. Kẻ nào bất tuân quân lệnh tất giết không tha. Lấy người mới bắt được cho theo sang đạo quân thủy để tiện việc hỏi đường.
Theo lệnh, ông già thợ cả và thợ hai được dẫn xuống thuyền. Chàng trai Thổ theo quân của Dực Thánh Vương. Hai quân cùng lúc khởi hành, đường thủy ngược sông Lô, đường bộ cùng hướng tiếp tục tiến về Vị Long.
Dực Thánh Vương tiến quân đến chân Đèo Lửa gặp địa hình hiểm trở buộc phải thận trọng. Vương bèn cho hạ trại, truyền lệnh canh phòng cẩn mật. Một mặt phái toán do thám đi vào sâu đất Vị Long. Ba người lính đem theo muối, thuốc lào cải trang làm dân buôn vượt sang bên kia đèo. Đến một bản ở chân đèo, họ vào ngôi nhà to nhất. Hóa ra là nhà trưởng bản. Chủ nhà hỏi:
– Đang lúc binh đao thế này, các người vào đây dò la tin tức hay sao?
– Không, chúng tôi đi buôn.
– Buôn gì? hàng đâu sao không thấy?
– Buôn muối, hàng còn để bên kia đèo. Chỉ mang theo một ít chào hàng.
– Một cân bao nhiêu?
– Năm tiền. Thấp hơn không bán.
Thỏa thuận giá cả xong, bọn giả lái buôn, bán trước cho chủ nhà hai cân làm tin. Một người lân la hỏi:
– Chẳng hay quân nào với quân nào đánh nhau mà xẩy trận mạc thế?
– Là quân của Thổ Ty với quân triều đình.
– Thật may chúng tôi vào được đến đây, nếu không có khi người thì bị bắt, hàng thì bị tịch thu. Hai bên đánh nhau, rồi ra chẳng biết thắng thua thế nào.
– Quân triều đình từ xa đến nhiều ít không rõ. Quân Thổ Ty dễ có đến mấy nghìn. Hà Chương em trai Thổ Ty với hai trăm Thổ binh trong tay trấn giữ trên Đèo Lửa. Chiếm giữ đèo cao, quân giỏi cung nỏ, quân triều đình e khó vượt qua được.
– Đang lúc binh lửa chẳng cần nhiều muối sao. Ông hãy mua cả món của chúng tôi rồi bán lại lấy lời.
– Được mang hết sang đây.
Bọn giả buôn muối đi ra, hẹn ngày trở lại.
Mặt trời nằm ngang đỉnh núi phía tây. Rừng già nhiều cổ thụ phủ bóng âm u tưởng như đêm xuống. Bọn do thám tìm cách luồn rừng về doanh trại trước khi trời tối. Sau khi nghe quân do thám bẩm báo tình hình, Dực Thánh Vương triệu các tướng dưới quyền đến bàn định. Vương nói:
– Sự tình này ta đã đoán từ khi xuất quân. Thổ Ty sẽ cho quân trấn giữ những nơi hiểm yếu hoặc đèo cao trên đường bộ, hoặc ghềnh thác trên đường thủy. Một tướng nói:
– Quân kia cậy vào thế chiếm giữ đèo cao, thông thuộc địa hình chắc lơ là phòng bị. Bỉ chức nghĩ rằng nên dùng một đạo quân tinh nhuệ dáo ngắn đoản đao, ngựa buộc mõm, người ngậm tăm, canh hai âm thầm tiến đến, diệt lính canh xông thẳng vào dinh trướng bắt sống chủ tướng. Thừa thắng đại quân ta ồ ạt đánh vào châu lỵ, Trác Tuấn tất không chạy thoát.
Dực Thánh Vương nói: – Theo kế ấy có thể nắm chắc phần thắng. Song nhà Vua đã tuyên rằng, xuất chinh lần này không lấy võ công làm trọng mà chính là chinh phục lòng người. Trước phải làm cho kẻ kia phân rõ chính tà, cực chẳng đã mới dùng đến gươm đao. Vậy nên các tướng phải bảo ban quân sĩ khi xông trận không ra tay sát phạt, không hành hạ Thổ binh, nhẹ tay với kẻ đã đầu hàng, không được làm kinh động dân tình. Đêm nay nghỉ ngơi lấy sức, canh gác cẩn mật đề phòng quân kia đánh úp.
Trời sáng rõ, mây núi tản quang, tiếng loa truyền từ chân đèo:
– Dực Thánh Vương vâng mệnh triều đình lệnh cho Hà Chương cầm đầu Thổ binh châu Vị Long hãy mau triệt thoái khỏi đèo, báo về cho châu mục sắp sẵn tiền bạc lâm. Hẹn cho chậm nhất đến giờ Thìn phải mở đường để ta tiến về châu lỵ. Lệnh không tuân tất sẽ bị trừng phạt. Vài nghìn tay cung nỏ chống sao nổi binh mã hàng vạn của triều đình.
Tiếng loa ngừng. Trời lặng gió, cây cỏ im phắc. Không cả tiếng chim hót. Hai bên trận tuyến âm thầm chuẩn bị giáp chiến.
Bóng nắng báo đã quá giờ Thìn. Dực Thánh Vương cho một đội tiền quân mặc giáp che khiên theo đường mòn tiến lên đèo khiêu chiến. Những đội khác chia nhiều toán xuyên rừng mà đi. Từ trên đỉnh đèo Hà Chương chỉ huy Thổ binh bắn xuống từng chặp một nhằm ngăn cản bước tiến quân triều đình. Những mũi tên tre chạm phải khiên đồng rơi lả tả.
Dực Thánh Vương xuống lệnh:
– Tiền quân tiến cầm chừng vừa để tiêu hao mũi tên của Thổ binh vừa đợi đại quân xuyên rừng bao vây đỉnh đèo từ phía bên kia. Thấy quân triều đình tiến chậm Hà Chương tính rằng Dực Thánh Vương sợ mai phục liền cho Thổ binh tràn xuống giáp chiến. Không ngờ trúng kế, một số Thổ binh bị bắt. Thổ binh càng đánh càng lộ rõ thế yếu. Tên tre bắn không gây nhiều sát thương, quân triều đình càng lúc càng tiến gần đỉnh đèo. Thổ binh mất dần nhuệ khí. Liệu thế chống không nổi, Hà Chương liền ra lệnh rút lui chỉ để lại một đội nhỏ tiếp tục bắn tên làm kế nghi binh. Thấy tên nỏ bắn xuống thưa dần, Dực Thánh Vương đoán là Thổ binh đã rút lui bèn lệnh cho toàn quân nhanh chóng lên đèo. Đội Thổ binh cố thủ trên đỉnh đèo quân ít, tên hết, thấy bị vây từ ba phía đành đầu hàng. Tất cả bị trói lại. Dực Thánh Vương truyền cho đại quân không đuổi gấp, đề phòng Hà Chương dùng kế mai phục. Về đến chân đèo bên kia, thấy quân triều đình không truy kích ráo riết Hà Chương cũng cho Thổ binh nghỉ lại lấy sức, sai người phi ngựa đưa tin gấp về châu lỵ.
9.
Trong khi người của Hà Chương còn trên đường thì trưởng bản Tấu ở chân Đèo Lửa phóng ngựa cấp báo tin dữ rằng Hà Chương và Thổ binh thua trận đang bỏ chạy. Thổ Ty cho gọi chú là Hà Đốc, em họ là Hà Đạt đến bàn bạc. Thổ Ty nói:
– Hiện quân triều đình đang thẳng tiến về châu lỵ ta tính thế nào?
Hà Đốc nói:
– Hà Chương cứng cỏi thế mà không giữ nổi lấy một ngày thì rõ là quân triều đình thế như nước vỡ bờ. Ta còn ngờ chưa chừng có người thông tin tức dẫn lối đưa đường. Cả hai điều này đều rất bất lợi cho ta. Bây giờ nếu tiếp tục đánh nữa sợ khó thắng nổi. Chi bằng xin hàng là hơn, tuân theo lệ cũ mà nộp cống thuế.
Thổ Ty dục hỏi :
– Còn ý chú Đạt?
– Lúc binh mã còn mạnh đã hàng là một cách, lúc thế cùng lực kiệt mới hàng là một cách.
Hà Chương gắt: – Đều là hàng cả có gì khác nhau.
Hà Đạt:
– Có đấy, chưa thua mà hàng có thể đặt ra điều kiện này nọ. Thua trận phải hàng khó thoát khỏi bị cầm tù.
Trác Tuấn nói:
– Đánh không thắng, hàng thì bị bắt vậy chỉ còn đường chạy. Đường đất châu ta núi rừng rậm rạp khe suối rịt ràng kẻ kia dễ gì đuổi được. Một mặt cho chạy ngựa báo chú Chương không về châu lỵ nữa, hãy đi đường tắt giữ lấy Đèo Lai. Nhất Đèo Lai thứ hai Đèo Lửa. Mất Đèo Lửa ta còn Đèo Lai. Một mặt trong chiều nay đem gia quyến lập tức chạy cả lên Thổ Bình, làm kế cỏ rạp gặp gió.
Nói xong cả ba đứng lên ai nấy về nhà gấp gáp tập hợp thổ binh, sửa soạn ngựa chiến, ngựa thồ.
Giờ Dậu, Thổ binh hộ tống gia tộc họ Hà ra khỏi châu lỵ. Vừa đi, Hà Đốc bàn:
– Con nhím một hang là con nhím dễ bị bắt. Chạy cùng một đường thế này lỡ chẳng may không thoát là cả họ bị diệt. Vậy hãy cho tản ra lẩn vào các bản ven đường. Người chạy vào bản này bị bắt còn người chạy ở bản khác. Quân triều đình sức đâu mà lùng khắp các bản.
Thổ Ty cho là phải, lệnh cho làm theo lời Hà Đốc, tự mình cầm đầu Thổ binh chạy về Đèo Lai để hợp quân với Hà Chương.
Trời sẩm tối, quân tướng đến chân đèo, Thổ binh của Hà Chương tới trước lục tục hạ trại. Đội chặn hậu báo về là quân triều đình đóng lại châu lỵ. Thấy quãng cách hai quân còn xa, Thổ Ty cho binh lính lấy rơm rạ lợp lều lán, cắt cử canh gác phòng bị, nấu cơm tối. Sau bữa ăn, anh em họp bàn kế sách. Ngọn nến nhựa trám được đốt lên treo trên cành cây. Thổ Ty hỏi Hà Chương:
– Chú là người khí phách hùng hổ sao chưa đánh đã chạy?
– Triều đình đông quân là một nhẽ nhưng thua trận bởi tên tre của ta bắn vào thứ khiên đồng giáp sắt không làm xây sát gì. Quân triều đình thẳng tiến như đi vào chỗ không người. Nếu cố đánh chắc đã bị bắt sống hết cả, nói gì chạy được về đây.
Thổ Ty dậm chân nói như gào:
– Khiên đồng giáp sắt! Ta đã trù tính đến mũi tên đồng thau để chế ngự. Nhưng bây giờ mấy người đi tìm kỳ thạch mất tăm mất tích. Họ đã chết hay xiêu dạt ở phương nào ai mà biết được. Vậy binh mã của chú thiệt hại bao nhiêu?
– Số rút lui khoảng ba mươi đứa bị thương, số chết không đáng kể. Chỉ có hai mươi đứa ở lại đánh nghi binh chắc là bị bắt cả, không đứa nào thoát nổi.
Cả hai im lặng hồi lâu theo đuổi ý nghĩ của mình. Hà Chương gạt tàn cho ngọn nến sáng thêm, nói:
– Dầu gì cũng phải giữ lấy cơ nghiệp họ Hà. Ngày mai, khi trời sáng anh đem số ít Thổ binh lên Thổ Bình rồi trà trộn vào dân làng để sống cho qua đận này. Quân triều đình không thể đóng lâu ở nơi xa kinh đô rồi sẽ phải rút đi. Lúc đó anh trở về khôi phục cơ nghiệp. Tôi ở lại Đèo Lai xem tình thế ra sao sẽ liệu.
Thổ Ty ngẫm nghĩ mãi không tìm ra mưu gì hay hơn, nói:
– Thôi vẫn phải dùng kế tránh cơn gió mạnh vậy.
Bàn xong ai về trại nấy.
Đêm mùa đông miền rừng như được phủ bằng tấm chăn màu trắng. Rải rác chân đèo những đám lửa bập bùng do Thổ binh đốt lên sưởi cho đỡ lạnh. Bên đám lửa chỗ có tảng đá lớn là tốp Thổ binh làng Tạc. Người Thổ binh lớn tuổi nhất hút thuốc lào điếu này sang điếu khác. Người trẻ tuổi hơn nói:
– Sao anh không nằm ngủ lấy một lúc.
Người lớn tuổi đáp:
– Mắt cứ chong chong chẳng thấy giấc ngủ về cho. Bụng lo mẹ già ngã sàn gãy tay hàng ngày không có người cõng xuống bãi đại tiện. Chỉ mong đừng đánh nhau để được về nhà.
Người trẻ nói:
– Cung nỏ để bắn con hươu con nai lấy thịt ăn còn được chứ bắn người thì không nên chút nào. Quân triều đình đông như nước chảy, khiên đồng bền vững, giáp sắt, tên sắt cứng mạnh thổ binh ta làm sao đánh nổi. Phải chi có ai hiến cho Thổ Ty kế giảng hòa thì tốt biết mấy.
Người lớn tuổi vẻ ngao ngán:
– Cả như dân thường chúng ta đâu xảy chuyện binh đao. Đằng Nhà Vua thì muốn đất rộng dân đông thu được nhiều thuế chất đầy kho đụn, Nhà Thổ Ty muốn làm chúa một vùng không chịu qui phục, thế là đem quân đánh nhau. Có chết chóc thương vong cũng chỉ là quân lính với Thổ binh, Nhà Vua, Nhà Chúa chẳng mảy may sứt đầu mẻ trán.
Trác Tuấn về trại lòng dạ như có lửa, nghĩ đến cơ nghiệp tổ tông truyền lại nay bỗng chốc tiêu tan, một mình buồn rầu đi trong bóng đêm thành ra câu chuyện các thổ binh nói với nhau lọt cả vào tai. Thao thức toan tính mãi thành ra khó ngủ, khi gà gáy sang canh mới thiếp đi.
Hà Chương thấy trời sáng mà Thổ Ty chưa đi bèn sang trại. Hà Tuấn nằm trên sạp nứa, dáng mệt mỏi, thanh gươm một bên. Phút chốc Hà Chương ân hận về ý muốn tranh ngôi Thổ Ty với anh. Ngôi vị càng cao trách nhiệm càng lớn, quyền uy đâu phải có được dễ dàng. Mình chỉ có thể cầm quân trận mạc, không đủ mưu lược làm chúa. Đang định đánh thức anh thì Trác Tuấn giật mình vùng dậy, tay giữ chặt chuôi gươm, nét mặt căng thẳng. Nhận ra Hà Chương, Trác Tuấn bình tĩnh lại nói:
– Sau lúc bàn, đêm qua về tôi nghĩ lại để chú lại giữ Đèo Lai cũng không phải là kế vạn toàn. Trước sau chú đánh cũng không lại với quân triều đình. Kết cục là sẽ bị diệt, bị thương hoặc bị bắt. Vậy nên tôi tính thế này, ta xuống các bản lấy thêm người dồn sức lại đặt nhiều bẫy đá trên đèo này. Việc xong cả anh em ta kéo nhau đi, chú để lại hai chục đứa dũng mãnh, đợi quân triều đình lên đèo thì giật bẫy rồi chạy. Quân kia dính bẫy đá tất bị thương vong nhiều không dám đuổi tiếp.
Hà Chương cho là kế hay, liền đốc thúc Thổ Binh làm ngay. Một mặt Trác Tuấn xuống bản gọi người. Trong hai ngày mấy chục bẫy đá làm xong chờ sẵn trên đèo. Thấy chưa có động tĩnh truy đuổi Tuấn và Chương còn ở lại đèo, chưa rút đi Thổ Bình.
10.
Quân của Dực Thánh Vương vào châu lỵ dễ dàng. Toán do thám trình lên:
– Anh em Thổ Ty đem gia quyến thuộc hạ chạy lên cả phía Bắc. Có một đội phục binh đặt bẫy đá ở Đèo Lai. Dực thánh Vương không truy đuổi, đóng trại đợi thủy quân của nhà Vua, ngày đêm thân đi đốc thúc canh phòng để tránh bị Trác Tuấn tập kích bất ngờ. Vương ban bố mệnh lệnh cấm quân sĩ không được cướp bóc của cải, dọa nạt dân; không được chòng ghẹo đàn bà con gái.
Buổi sáng ngày thứ hai, Trưởng lão sở tại đến xin ra mắt Dực Thánh Vương. Trưởng lão nói:
– Thổ Ty bản châu lú lẫn mạo phạm đến oai trời, nay đã chạy xa không dám ngoái đầu lại. Chúng dân sở tại cử lão đến chúc mừng chủ tướng cùng đại quân xin được che chở cho yên phận làm ăn. Lòng thành dâng lên chủ tướng chút lễ mọn là sản vật chốn núi rừng. Sau nữa dâng cô gái Thổ, vốn con nhà lành để giải sầu khi trận mạc.
Dực Thánh Vương mỉm cười nghĩ, người miền cao khéo ăn nói lại biết lấy lòng lắm lắm. Nhìn cô gái Thổ trẻ măng e thẹn Vương toan muốn nhận. Lại nghĩ, dân chúng sẽ chê cười cho là thắng trận lấy thê thiếp. Ham muốn lấy gái Thổ bây giờ không thể, đành phải gác lại. Vương nói:
– Sợ rằng con gái miền ngược theo về xuôi không quen làm ăn. Hãy về gả chồng sớm đi cho có nơi có chốn.
Nói rồi bèn thưởng tiền lụa cho Trưởng lão.
Trưởng lão cùng người con gái lạy tạ ra về. Cô gái mừng rỡ, thế là thoát không phải xa quê hương bầu bạn đi làm thiếp hầu nơi xứ lạ.
Hai ngày sau quân thủy của Nhà Vua mới tới, Dực Thánh Vương ra bến sông đón vào châu lỵ. Nhà vua lệnh cho xuống bản mời người già cả trong lên triều kiến, dặn dò là nhất thiết không để họ phải lo sợ.
Người già các bản nghe Nhà Vua cho vời phần lo sợ, phần hiếu kỳ, cuối cùng dắt nhau đến đủ cả. Nhà Vua mặc áo vải, cho hết lính cấm vệ ra ngoài, chỉ để các văn thần cùng dự. Bước vào sảnh, các cụ phủ lạy cung chúc Nhà Vua an khang vạn thọ. Nhà Vua cảm ơn, sai văn thần đỡ dậy. Đợi cho các bậc cao niên bớt nỗi nghi ngại, Nhà Vua nói:
– Trẫm có lời chúc sức khỏe các cụ, xin chớ lấy gì làm lo lắng. Nay trẫm cất quân từ kinh thành xa xôi đến đây không phải để đánh dẹp bắt bớ thần dân của mình mà trước là để cho người Tống biết sức mạnh của dân Nam, đừng coi thường mà gây chuyện binh đao. Sau là bảo cho Thổ Ty châu Vị Long chớ bỏ cốt nhục mà kết bè với người ngoài hòng tính chuyện kia khác. Trẫm hỏi các bậc cao niên câu này, nếu châu lộ nào cũng như Vị Long thì khi giặc ngoài vào xâm lấn trẫm lấy đâu ra dũng tướng quân mạnh giáo cứng cung tốt để đánh lại. Nước đã về tay giặc liệu phủ lỵ này còn giữ được không? của cải mọi nhà có bị cướp đi không? trai tráng có bị bắt đi phu dịch ngoài biên ải hay không? Vị trưởng lão hôm trước ra mắt Dực Thánh Vương nói:
– Chúng dân biết tội, xin Bệ hạ gia ân.
Vì vậy sau khi trẫm hồi kinh, các bậc cao niên hãy khuyên can Thổ Ty họ Hà bỏ đường tối, theo đường sáng, quy thuận triều đình, cùng nhau giữ gìn cương giới để trăm họ yên ổn làm ăn. Được như thế là trẫm vui lòng.
Liền đó nhà Vua tặng mỗi phụ lão một tấm lụa hai thước để may áo. Các phụ lão đồng thanh hứa làm theo lời nhà Vua.
Ngày hôm sau quân triều đình dương cờ hiệu, chia hai đạo thủy bộ rút khỏi châu lỵ.
11 .
Quân do thám báo tin về là quân, triều đình đã rút. Hà Chương nói:
– Bất lợi về lương thảo, triều đình rút quân là việc ta nắm được từ trước. Nhân thời cơ này nếu ta đuổi theo đánh một trận tất sẽ thắng to. Để Nhà Vua bỏ thói thúc ép tuế cống chẳng phải là việc hay lắm sao!
Trác Tuấn bụng muốn đánh nhưng còn lưỡng lự:
– Trước hãy thu thập Thổ binh quay về lấy lại châu lỵ đã.
Hà Chương nói :
– Đã quyết phải đánh ngay trước khi quân triều đình qua Đèo Lửa. Tôi đã một lần thất trận, nay muốn đòi lại món nợ chính tại nơi này.
Nghe khẩu khí của Hà Chương, Trác Tuấn nói:
– Vậy chú đi trước làm tiền quân.
Lập tức lệnh cho Thổ Binh chỉnh đốn cung nỏ gươm giáo tiến về châu lỵ. Sĩ khí trong quân lấy lại được tám chín phần.
Đêm ấy Trác Tuấn về châu lỵ, hôm sau cùng Hà Chương khởi hết quân mã bản bộ truy kích. Đuổi đến chân Đèo Lửa thì gặp hậu quân của Dực Thánh Vương. Hai bên giao chiến ngay chân đèo, mạn bắc. Thế trận đã được bày trước, Dực Thánh Vương bèn đổi hậu quân làm tiền quân từ trên lưng đèo đánh trở lại. Thổ Binh của Hà Cương lại gặp phải thế bất lợi như lần trước. Mũi tên tre không cản được quân triều đình có khiên đồng che ngực. Trong khi mũi tên sắt đủ sức xuyên thủng khiên gỗ khiến nhiều Thổ Binh bị sát thương. Núng thế, Trác Tuấn bèn khua chiêng trống ra hiệu cho Hà Chương lui quân, nhanh chóng quay về giữ châu lỵ. Anh em Trác Tuấn, Hà Chương vừa lui được vài ba dặm, bất ngờ thấy quân triều đình dàn hàng ngang phía trước, lại thấy cả nghi trượng của Nhà Vua. Trác Tuấn giật mình biết là trúng kế. Cùng lúc Dực Thánh Vương thúc quân đánh mạnh. Anh em Trác Tuấn, Hà Cương bị kẹp ở giữa, phía đèo Lửa là cánh quân của Dực Thánh Vương, phía châu lỵ là đại quân của Nhà Vua. Dực Thánh Vương gọi to:
– Cả hai đường đều đã bị chặn, Hà Trác Tuấn xuống ngựa hàng đi sẽ được tha chết.
Trác Tuấn ra hiệu cho Hà Cương cùng xuống ngựa, rồi bất ngờ chạy tạt vào rừng. Thổ binh phần lớn nộp cung tên giáo mác qui hàng, số ít chạy theo hộ vệ chủ tướng.
Dực Thánh Vương hô to:
– Đuổi theo không để anh em Tuấn, Chương chạy thoát.
Chúng băng rừng đạp gai truy đuổi. Trác Tuấn, Hà Chương mỗi người một ngả. Cả hai đều vốn có sức khỏe, lại thông thuộc đường rừng nên sải bước rất nhanh. Trác Tuấn chạy sắp khuất tầm mắt toán quân đuổi phía sau, nhưng vừa lúc đó lại gặp một toán chặn phía trước. Trác Tuấn đứng lại tựa lưng vào gốc cây vung gươm gạt những mũi tên bắn đến. Vẫn có mũi tên trúng vào cánh tay, máu chảy thấm áo. Dực Thánh Vương đuổi tới đánh bay gươm của Tuấn. Chúng xô lại bắt được. Lúc sau, ở một hướng khác Hà Chương vướng phải dây rừng vấp ngã cũng bị bắt. Hai viên bại tướng được giải đến doanh trướng của nhà Vua vừa dựng ở chân đèo. Trước tiên Vua sai thầy thuốc trong quân bắng bó vết thương cho Trác Tuấn, lại ban hai bại tướng mỗi người một chén nước sâm uống cho lại sức. Nhà Vua nghĩ, lúc này phẫn khí còn hăng nên chưa phán hỏi phân xử điều gì.
Trác Tuấn, Hà Cương cùng hơn mười Tốt, Lữ trưởng bị giam trong cùng một lều bạt. Tất cả đều bị trói tay quặt về đằng sau. Trác Tuấn và Chương mỗi người lúc nào cũng có hai lính gác. Hai anh em đưa mắt nhìn nhau. Trác Tuấn vẻ bình thản chờ đón kết cục. Hà Chương nỗi hận hiện trên nét mặt. Đâu ngờ nhà Vua thong dong tiến quân lập mưu để anh em Thổ Ty sập bẫy.
Nguyên là trước đó nhà Vua và Dực Thánh Vương trương cờ lui quân để nhử Trác Tuấn đuổi theo. Thủy quân quay lại ngay trong đêm, đổ bộ chặn phía sau, án ngữ đường lui của Thổ binh còn Dực Thánh Vương từ trên đèo phía trước đánh xuống. Chung qui vẫn là do tính hiếu thắng, nếu không sao đến nỗi chịu bị trói chờ đưa đi xử trảm. Đám Tốt, Lữ trưởng lặng lẽ đợi cái chết sẽ đến muộn nhất là khi trời sáng.
Trời đất như trêu ngươi những kẻ bại trận. Gà gáy mấy lần, đợi mãi trời chưa sáng. Đằng nào cũng chẳng thoát, chết sớm đi cho khỏi phải lo, một Lữ trưởng nói.
Giờ Thìn, cả bọn được giải đến bản doanh của nhà Vua. Dực Thánh Vương cùng nhiều quan võ nét mặt nghiêm nghị đứng chầu. Nhà Vua ban lệnh cởi trói. Cả bọn quì xuống nghe chỉ:
– Nay ta thân đến nơi này để khuyến bảo cho các ngươi rõ, Vị Long là đất của Đại Việt, người Thổ, người Mán cũng như người Kinh đều là dân Đại Việt. Kẻ nào ngông cuồng nuôi mộng cát cứ, rắp tâm liên kết với ngoại bang tức là mang tội đại nghịch. Các ngươi không biết sao? Đi theo ngoại bang khác nào đem thịt nuôi hổ đói. Đến khi mắc vào vòng cương tỏa hỏi thoát ra sao nổi. Xét các ngươi nông nổi nhất thời bị Trác Tuấn sai khiến nên tha cho Hà Chương cùng các Lữ trưởng, Tốt trưởng. Đặc ân cho Hà Chương thay anh cai quản châu lỵ được giữ lại một ngàn Thổ binh cùng khí giới.
– Chúng tội thần đời đời cảm ân đức của Bệ hạ.
– Các ngươi đứng cả lên đi. Hà Chương nghe cho rõ đây. Cầm quyền cai quản phải khuyến dụ dân chúng chăm chỉ làm ăn, không bỏ ruộng hoang, nghiêm trị trộm cướp, cờ bạc. Hạn trong ba tháng phải nộp đủ số thuế hằng năm. Tất cả thổ binh còn lại nộp cung nỏ gươm dáo vào quân khố rồi cho về nhà làm ăn. Riêng kẻ cầm đầu Trác Tuấn đưa xuống thuyền đem về kinh đô xét xử.
Trác Tuấn lạy tạ.
Vanvn- Con vì giang sơn xã tắc mà đi làm dâu chốn rừng thiêng nước độc, trong lòng cha mẹ ngùi ngùi thương xót. Vợ chồng ăn ở hòa thuận con cái đề huề là điều cha mẹ không mong gì hơn. Vạn nhất chồng con còn mang lòng hùng cứ mãi mã chiêu binh tính chuyện kia khác thì con khéo lựa lời tìm mọi cách mà khuyên giải. Nếu khuyên giải không xong, đến nước con rể bố vợ thành hai bên đối địch thì phải sớm tìm cách báo về, chớ để xảy ra cảnh nuôi ong tay áo, dẫn lối cho chồng lấy trộm nỏ thần như trong truyện Mị Châu Trọng Thủy thời xưa…
Chương Năm
1.
Bị giam trong khoang cuối chiến thuyền. Khi rời bến, Trác Tuấn nao lòng nhìn qua cửa sổ, không thấy hết cảnh quê hương. Chỉ nhìn rõ cây đa sum xuê cùng vách đá trắng nơi bến sông. Nó là hình ảnh cuối cùng của quê hương in trong mắt. Sẽ là vĩnh biệt từ đây những ngày tháng phóng khoáng, vĩnh biệt núi rừng sông suối gắn bó từ thuở ấu thơ. Còn đâu những buổi săn mê mải rình bắn con thú trong tầm ngắm. Còn đâu những buổi đầu hè cùng đám trai quăng chài đem về hàng gánh cá.
Ngay ngày đầu tiên quan thái y đã đến chữa trị. Vết thương khá sâu, may chưa chạm vào xương. Hành trình về kinh một tuần, mỗi sáng thái y đều thăm khám, cho thuốc. Đến Thăng Long vết thương lành hẳn, cử động mạnh cũng không thấy đau nữa.
Nhà vua cho Tuấn ở trong một biệt điện. Tuy không bị gông cùm xiềng xích, được đi lại tự nhiên nhưng có lính canh nghiêm ngặt. Hàng ngày có người phục dịch cơm nước tươm tất. Trác Tuấn nghĩ chắc nhà Vua cho sống những ngày tự do trước khi vào tù. Vậy là cơ nghiệp họ Hà chắc không đến nỗi bị tan tành. Chỉ có điều giao vào tay Hà Chương thì khó giữ lâu bền. Ta năm nay ba mươi tư tuổi, thay cha làm châu mục năm năm. Trong từng ấy năm thóc lúa được mùa, dân tình yên ổn, trộm cướp dẹp yên, người châu khác không dám xâm phạm, cũng gọi được là không thẹn với tổ tiên. Chỉ vì ham muốn làm chúa một vùng không chịu thống thuộc, nghe bọn người Nam Chiếu xúi bẩy đến nỗi bị giải về đây. Phải chi biết nghe lời can ngăn của ông chú Hà Đốc. Vẫn có vị thế đứng đầu châu Vị Long, vẫn có cuộc sống tự do nơi đồng nội. Còn bây giờ thì chúa không thành mà thành kẻ tội đồ. Hẳn như Nhà Vua cứ giết quách cho rồi.
2.
Công chúa Khâm Thánh một mình trong cung Thúy Hoa. Tay cầm chiếc vòng ngọc bích thờ thẫn. Nó là di vật duy nhất của Trần Hạo. Sau khi nhà Vua khởi quân đi Vị Long, Hoàng hậu mới cho con gái hay tin về tướng quân Trần Hạo. Nghe viên bộ tướng trở về kể rằng, Trần Hạo chỉ huy một cánh quân vượt sông. Người bị trúng nhát đao hiểm của tướng Chiêm nhưng vẫn chỉ huy truy đuổi địch. Khi bắt được tướng giặc, do vết thương chảy máu nhiều quá, Trần tướng quân đã hi sinh ngay nơi ranh giới với đất Chiêm. Trước lúc nhắm mắt, Tướng quân giao chiếc vòng cẩm thạch khắc chữ Trần dặn dò gửi đến tay cho Công chúa Khâm Thánh. Nhận chiếc vòng Công chúa khóc không thành tiếng, hai hàng nước mắt cứ tuôn tràn xuống má. Nàng khóc thương con người anh dũng mà kiệm lời, thân xác vùi chốn sa trường; khóc cho mối tình đầu ngắn ngủi, chưa một lời trao duyên, chưa một lần trao cho nhau kỷ vật. Chiếc vòng này lại là kỷ vật cuối cùng. Nàng mong một ngày nào đất nước yên bình sẽ tìm đến thắp lên mộ nén nhang cầu nguyện cho chàng siêu thoát.
Đang khi nàng chìm trong hồi tưởng đa u buồn, thị nữ vào an ủi báo tin nhà Vua đã hồi cung bình an. Thị nữ còn kể rằng nhà Vua bắt được kẻ cầm đầu giải về kinh, hiện giam trong một biệt điện.
– Hay là các em dẫn Công chúa đi xem kẻ bị bắt kia một lần cho khuây khỏa.
– Được ta xem kẻ kia lớn mật chừng nào mà cả gan chống lại triều đình.
Công chúa cất chiếc vòng vào hòm khóa, cùng hai thị nữ đến biệt điện.

Trác Tuấn đang thẩn thơ đi lại nơi sân điện thì tiểu thư cùng hai thị nữ đi vào. Trác Tuấn nhìn sững sờ. Người đâu mà như tiên sa. Đôi mắt bồ câu đen láy, lông mày nét ngang dài tới chân tóc. Yếm thắm rực rỡ ôm lấy cổ cao ngần trắng, cằm hơi lẹm làm cho khuôn mặt thêm duyên, cứ như có nụ cười sắp nở. Hai vú dậy thì căng nịch nhô cao dưới làn áo lụa vàng. Tiểu thư đến thẳng chỗ Trác Tuấn lên tiếng:
– Xin chào ngài châu mục Vị Long.
Không rõ danh phận nhưng nhìn vào y phục, cử chỉ Trác Tuấn đoán là bậc tiểu thư khuê các, bèn đáp:
– Kẻ tội nhân xin kính chào tiểu thư.
Tiểu thư hỏi lại:
– Sao ngài châu mục nói vậy. Chỉ những kẻ phản tặc, làm điều ác phải giam trong ngục tối, ăn cơm hẩm, uống nước lạnh mới là tội nhân. Thử nghĩ xem thiên hạ có ai ở biệt điện, tự do tự tại như ngài mà gọi là tội nhân? Hẳn là chưa khi nào ngài tự hỏi, vì sao mình được đặc ân như thế.
Trác Tuấn càng thêm ngỡ ngàng. Tiểu thư mười phần xinh đẹp mà lời nói thấu đáo lý tình, khiến cho một kẻ từng là châu mục phải ấp úng hồi lâu.
– Ta tự biết là kẻ có tội. Đội ơn Hoàng thượng nhân từ cho giữ được mạng sống.
– Ta cho là từ trong thâm tâm ngài chưa thật thấu lòng nhân của Hoàng thượng nên mới có những lời lẽ hàm ý oán hận. Tin rằng rồi đây dần dần ngài sẽ nhận ra, mà cởi bỏ niềm mặc cảm. Từ hôm ngài về kinh ta muốn đến hỏi thăm chữa vết thương cho ngài. Vì ngày trước khi còn ở Trường Yên hay đi chơi núi, được bậc trưởng lão bày bảo cho một ít bài thuốc. Nhưng các quan nói đã có thái y làm việc đó tốt rồi. Thấy ngài đi lại nhanh nhẹn đủ biết vết thương không còn đáng ngại nữa, xin có lời mừng. Chúc ngài nhanh chóng bình phục.
– Đa tạ tiểu thư, tuy nhiên kẻ bị giam cầm này có khỏe cũng chẳng để làm gì. Có chăng chỉ là để kéo dài thêm những ngày chờ vào ngục tối.
– Cứ giả như ngài bị xử tù. Nhưng tù có hạn tù mà ngài thì còn trẻ thế kia. Ngài còn trở về Vị Long sống với vợ con nữa chứ. Ngài nghĩ sẽ không có ngày đó nữa sao?
– Những lời của tiểu thư làm cho nỗi lòng kẻ xa quê thấy như được sưởi ấm. Làm người ai chả mong muốn được cùng vợ con sớm hôm đoàn tụ. Nhất là khi ở vào cảnh cá chậu chim lồng như thế này người ta càng khao khát hơn bao giờ. Chỉ e nhà vua cùng các đại thần khó bè xét đến mà thôi.
– Ngài nên suy ngẫm trước sau, thành tâm qui phục, chắc triều đình không nỡ tuyệt đường sinh phúc. Đến lúc đó liệu ngài có vui lòng dẫn tôi đi cùng không? Tôi rất muốn được đến thăm quê hương ngài xem nơi ấy có giống núi rừng kinh đô Hoa Lư cũ?
– Nếu có ngày đó tôi nhất định xin tháp tùng tiểu thư lên chơi Vị Long một chuyến. Quê tôi có sông Gấm nước trong xanh, rất nhiều tôm cá. Lạ nhất là cá dầm xanh chỉ sống nơi nước chảy xiết, ăn rêu đá mà sống, thịt thơm chẳng bợn mùi tanh. Núi Chạm Chu, núi Thần, núi Khau Co quanh năm mây phủ, có thác nước Bản Ba dài mấy dặm. Lại có những hang, động màu sắc lung linh, hình thù kỳ ảo, như hang Pó Ngoặng, động Trâu Bạc. Chim muông trong rừng kể không xiết. Nào chim trĩ, chim công, chim phượng, gà gô; nào hổ báo hươu nai voi gấu tất thảy đều có. Chưa từng được đến Hoa Lư nên không biết để so hơn kém nhưng tôi chắc có thể làm vui lòng tiểu thư.
– Chỉ mới nghe ngài kể đã thấy nhiều sự lạ rồi. Ngày được trở về ngài đừng vì vui mừng quá mà quên lời hứa đấy nhé. Đã đến giờ tôi phải về rồi, xin chào ngài.
Tiểu thư cùng hai thị nữ quay gót. Trác Tuấn nhìn theo cho đến khi họ đi khuất. Phải chăng vừa qua một giấc mơ. Phải chăng vừa mới đây hiện lên một nàng tiên. Như được đấng thần linh khai mở. Tan đi thù hận, thất vọng, tan đi lòng ham muốn quyền lực, dấy lên nỗi nhớ quê hương, mái ấm gia đình. Từ khi bị bắt tới giờ chưa một ai nói với Trác Tuấn những lời tốt đẹp êm ái như tiểu thư này. Nàng là con vị đại thần nào. Một tiểu thư thật là xinh đẹp thông tuệ và nhân ái. Lẽ nào nàng thật sự cảm thông với nỗi niềm số phận cùng ta? Phút giây bàng hoàng không kịp hỏi tên nàng. Liệu tiên nữ có một lần tái thế. Nàng có trở lại thăm ta một lần nữa không? Trác Tuấn như mê đi giữa thực tại.
3.
Đoàn quân thắng trận lặng lẽ trở về. Trống im cờ ngả, chỉ giống một cuộc hành binh luyện tập. Nhà Vua không vui bao nhiêu. Anh em họ Hà chống cự quyết liệt đến khi bị bắt. Làm sao cảm hóa châu mục Vị Long? Người dân miền sơn cước chưa thấm chí lớn của Nhà Vua mong thiên hạ thái bình.. Nguyện vọng thống nhất giang sơn chưa thực hiện trọn vẹn. Nhà Vua vừa đến kinh đô tướng công Trần Cảo đã vào chầu tâu quốc sự:
– Bệ hạ hồi kinh, áo bào còn nhuốn bụi chưa kịp nghỉ ngơi, thần mang tội đầy mình nhưng vẫn phải bẩm tấu.
– Khanh nói đi, Trẫm đang muốn nghe xem những ngày qua ngươi giúp Thái tử việc triều chính ra sao?
– Tâu Bệ hạ, đêm hôm qua tin từ Trường An báo về, thời gian gần đây Khai Quốc Vương đóng ở Trường Yên, cậy có núi sông hiểm trở, tụ tập những kẻ trốn tránh, cướp bóc của dân mà tiêu dùng. Lại hiệu triệu quân sĩ dưới trướng rằng nhà vua cùng quần thần chỉ chăm chú vào việc xây đắp kinh đô Thăng Long, bỏ mặc Trường Yên, không cấp tiền sửa sang tu bổ. Vùng đất cố đô này thật sự bị lãng quên rồi. Nay ta chính đốn binh mã, dựa vào thế hiểm chia quyền trị nước với nhà vua há chẳng phải là việc nên làm sao. Mưu đồ phản nghịch đã rõ. Cúi xin Bệ hạ xuống chiếu cho bắt về triều định tội. Nhà Vua giữ vẻ trầm tĩnh nói:
– Trẫm ở ngôi lúc quốc sự bộn bề, phải đi bình định nhiều nơi, quả thật có chỗ chưa được chu toàn, việc ở Trường Yên phó mặc cả cho Vương. Trong lòng Vương có ý ghen với Thái tử mà sinh sự. Đã đến nước này Trẫm lại phải thân đem quân đi Trường Yên. Trần Cảo tâu:
– Việc Trường Yên xin Bệ hạ xuống chiếu sai một đại tướng cầm quân đi đánh dẹp là đủ. Mình rồng là trọng, Bệ hạ không cần mệt nhọc khởi giá một lần nữa.
Nhà Vua nói:
– Kẻ làm phản nếu là bọn thảo khấu chẳng nói làm gì, nay người đó lại liền khúc ruột với trẫm, tất trong lòng có điều ẩn ức nói không ra mới dẫn đến hành động mờ quáng. Trẫm phải thân đến đó, nghe hết sự giãi bày rồi mới định liệu. Còn như trẫm ngại khó nhọc, sai một đại tướng đem quân đi, Vương khó có thể hồi tâm chuyển ý. Như thế chỉ càng làm cho quân thần phụ tử thêm xa cách nhau mà thôi. Nói rồi nhà Vua xuống chiếu. Ra triều, đình thần lại dập đầu can. Nhà Vua đều bỏ qua.
Tháng tư ngày Nhâm thân giao cho nội thị là Lý Nhân Nghĩa ở lại giữ kinh sư đem thủy quân vào Trường Yên. Khai Quốc Bồ chia quân ra đóng ngoài thành Trường Yên hai mười dặm, lấy sông làm hào sẵn sàng nghênh chiến. Khi được tin người cầm quân không phải một đại tướng hay một trọng thần nào mà là đích thân nhà Vua, Vương lấy làm bối rối. Bèn truyền lệnh không khai chiến trước, tạm lui về giữ thành. Nhà Vua đến Trường Yên cũng không dàn trận, truyền chỉ: Trị tội nặng những kẻ cướp bóc quấy nhiễu dân lành. Tướng sĩ nghiêm theo quân lệnh không mảy may xâm phạm. Đại quân vào thành Trường Yên dân trong thành đem biếu trâu rượu đứng đầy đường. Vua sai sứ tuyên chỉ úy lạo. Người dân ai cũng vui mừng. Rồi cho người gọi Khai Quốc Vương tới trướng, nói rằng:
– Từ ngày dời đô công việc bộn bề nào mở mang xây đắp thành trì, nào bình định thổ tù, châu mục chưa thật lòng qui phục, nào tích lương luyện quân phòng bị người Chiêm, người Tống, thành ra đối với cố đô Trường Yên cũng để lơ là, thành ra con phải khổ sở. Nay Trẫm thân vào đây có việc gì trái ý thì hãy tỏ bày, hà tất phải dụng đến binh mã, để cớ cho thiên hạ chê cười về sau.
Quốc Vương cúi đầu không nói gì, hồi lâu quì xuống xin hàng.
Vua tha tội cho Quốc Vương, vẫn cho tước như cũ, xuống chiếu dời Quốc Vương cùng các liêu thuộc về kinh thành Thăng Long, truyền Dực Thánh Vương quản phủ Trường Yên.
Nhà vua hồi kinh liền thiết triều, Lý Nhân Nghĩa tâu các việc ở kinh đô:
– Đã qua thời hạn hai tháng chưa thấy Hà Cương đem nộp tiền thuế và lâm sản.
Tướng công Trần Cảo luận rằng:
– Kẻ kia chưa thấm ân đức của triều đình bụng còn toan tính chuyện này khác. Thần xin bệ hạ ban chỉ cho đem quân mã lên Vị Long bắt Hà Chương đem về trị tội. Cử một viên quan hàng tứ phẩm làm châu mục Vị Long, từ nay bãi bỏ việc cho người trong châu tự quản. Như thế phương ấy mới được yên ổn lâu dài.
Các đại thần khác bày tỏ sự đồng tình với chủ kiến của Trần Cảo, nhưng Thái Bảo Đào Thạc Phụ nói :
– Thần có ý khác với Trần tướng công và các vị. Phàm việc gươm đao đi liền với máu đổ xương tan. Mạng người là quý. Nếu như chúng là người Tống, người Chiêm động binh cướp nước ta thế đối đầu là không tránh khỏi. Còn như kẻ kia vốn dĩ là dân của triều đình nhất thời ngông ngổ làm càn thì lấy răn bảo làm đầu, sau là phủ dụ giáo hóa để họ cảm ơn sâu mới là kế sách lâu bền vậy.
Để cho các quan hai hàng văn võ bàn luận hết nhẽ, sau cùng nhà Vua truyền rằng:
– Đào Thái Bảo nói rất có lý. Đem quân đi bắt Hà Chương là việc dễ như lấy đồ trong túi. Bắt về rồi sẽ xử ra sao? Một Trác Tuấn ở đang đây Trẫm còn chưa quyết xử bề nào. Bắt thêm Hà Chương nữa mà làm gì. Phái một viên quan đi trị nhậm nơi rừng núi là việc tưởng dễ mà khó. Khó ở chỗ không thông thạo phong tục tập quán của dân bản địa, lời ăn tiếng nói không rành liệu người dân có chịu nghe theo? Trẫm muốn từ châu mục cho đến người dân thật bụng quy thuận triều đình, không dùng đến một mũi tên một ngọn dáo. Dân các châu miền ngược cũng như miền xuôi đều là dân Đại Việt, vậy nên động binh chẳng phải là kế hay. Các khanh hãy suy tính mưu lược lấy sự hòa mục làm đầu.
Bấy giờ Thái sư Lương Văn Nhậm bàn rằng:
– Phàm muốn tránh gươm đao trước là xá tội đổi oán làm ân, sau ban chức tước bổng lộc. Một khi được thụ hưởng ân sâu con người ta tất cảm phục mà theo về.
Đang khi triều đình nghị luận có tin báo tạm quyền Châu mục Vị Long Hà Chương đem nộp thuế cống, khố ty đã kiểm đếm đầy đủ. Nay Hà Chương muốn xin được vào thăm Trác Tuấn. Nhà vua truyền chỉ cho anh em được gặp nhau.
4.
Từ hôm được tiểu thư đài các đến thăm trong đầu Trác Tuấn sinh ra bao nhiêu câu hỏi, không tự trả lời. Cớ sao nàng cất công đến thăm một người bị giam lỏng như ta? Phải chăng vì sự hiếu kỳ muốn tận mắt thấy người miền núi gầy béo cao thấp ra sao, tận tai nghe giọng người vùng cao khàn trầm hay vang bổng; có gì giống, có gì khác người đồng bằng. Hay nàng có chút động lòng xót thương cho cảnh ngộ cá chậu chim lồng của ta? Bất luận là vì điều gì, được gặp nàng là chuyện phúc lớn đời ta. Nếu không bị bắt về đây chắc đâu đã có phúc ấy. Ta sẵn lòng đổi đất đai sản vật của cả châu để có được nàng. Làm chúa tể một vùng có nghĩa gì, công hầu khanh tướng triều đình cũng có nghĩa gì, có nàng ta sẽ làm một thường dân tự cày ruộng, săn thú để sinh sống. Ý nghĩ miên man, gương mặt Trác Tuấn như là khác hẳn đi. Giữa lúc ấy quan Nội hầu dẫn Hà Chương tới. Quan Nội hầu quay ra để anh em họ được tự nhiên trò chuyện. Anh em gặp nhau mừng mừng tủi tủi lặng một hồi lâu không nói được câu gì. Hà Chương thấy người anh bị giam mà béo khỏe hơn trước, duy thần thái có vẻ gì khác lạ mới hỏi:
– Vậy anh có bị tra khảo gì không ?
Trác Tuấn nói:
– Anh tuy bị bắt về kinh nhưng không bị đánh đập hay gông cùm xiềng xích lần nào. Những sự ăn uống được no đủ ngang như bậc quan triều đình. Hiềm điều mong nhớ quê nhà gia tộc mà không được tin tức gì, với lại luôn có lính canh gác suốt ngày chỉ quẩn quanh ra vào nơi ngôi điện này mà thôi. Vừa rồi…
Trác Tuấn toan kể chuyện có một tiểu thư đến thăm, nhưng kịp kìm lại.
Hà Chương kể:
– Sau khi nhà vua bắt anh đi, cả gia tộc ai ai cũng lo lắng nghĩ phen này chắc sẽ bị xử tội hình, hoặc là bị giam cầm khổ sở. Khi trở về đem chuyện anh vẫn được bình an ra kể hẳn từ già đến trẻ đều lấy làm lạ. Cũng từ ngày ấy dân tình được yên ổn, nhất nhất nộp đủ số thuế. Đường sá xa xôi chậm trễ nộp thuế cống cũng không bị nhà vua trách phạt.
Sau hết Chương nói:
– Hay là anh nên dâng sớ lên xin nhà vua ân xá để sớm được trở về bản châu ta, như thế chị dâu và mọi người đỡ phải lo lắng đêm ngày.
Tuấn thấy em tính tình có phần thay đổi, không còn một mực hung hăng cầm cung lên ngựa như trước nữa mới nói:
– Nếu chú thấy làm thế là phải thì để anh suy tính. Ngày mai trở về nói cho mọi người chớ bận tâm lo lắng quá. Xét mọi nhẽ nhà vua chẳng nỡ khép mình vào trọng tội, mạng sống chắc là giữ được, còn như bao giờ được tha về chưa thể nói trước.
Anh em chia tay, ngùi ngùi, mong sớm ngày gặp lại ở quê nhà.
5.
Từ đầu triều nhà vua đã sách lập sáu Hoàng Hậu. Duy có đích phu nhân là Lập Giáo Hoàng Hậu được đặc cách quy chế xe kiệu, y phục khác với các cung khác. Lập Giáo Hoàng Hậu sinh trưởng nam là Phật Mã được sách lập làm Hoàng thái tử. Đến năm Nhâm Tý lại phong Hoàng thái tử là Khai Thiên Vương, xây cung Long Đức ở ngoài thành cho ở, ý muốn để thái tử hiểu biết mọi việc của dân. Vì thế mà địa vị Lập Giáo Hoàng Hậu càng cao hơn hẳn các bà hậu kia. Lập Giáo Hoàng Hậu nghe đâu tin đồn nhà vua sẽ tha cho Trác Tuấn và còn gả con cho hắn thì lấy làm bức xúc bèn đến thẳng điện Càn Nguyên, đợi tan buổi chầu liền hỏi nhà Vua:
– Chẳng hay việc châu mục Vị Long bệ hạ tính thế nào?
Từ trước đến giờ ít khi Hoàng hậu can dự vào việc triều chính, nhà Vua nghe biết là có chuyện khác thường tìm cách nói lảng:
– Hậu lo việc nội cung yên ả thế là giúp ta nhiều lắm rồi hà tất phải bận tâm đến những việc ngoài cung thất.
Không để nhà vua tránh sang chuyện khác, Hoàng hậu liền nói:
– Thiếp nghe các đại thần truyền tai nhau rằng Trác Tuấn sẽ được nhà Vua tha bổng, lại còn được làm phò mã, chẳng biết chuyện thực hư thế nào. Thiếp sinh được hai mụn con gái. Để thưởng công phò giúp bệ hạ lên ngôi mà công chúa trưởng An Quân đã phải lấy chồng già hơn mười tuổi. Nay nhà vua lại định gả công chúa Khâm Thánh lên ngược làm dâu. Dứt ruột đẻ ra chúng, hỏi làm sao thiếp không xót cho được.
Những lời của Hoàng hậu làm nhà Vua thêm tỉnh táo. Tha cho Trác Tuấn quả là đã từng trù tính đến. Còn việc gả con gái thì chưa bao giờ. Nào ngờ Hoàng hậu hiến cho một diệu kế, nếu có việc như thế chẳng phải là tốt lắm sao?
Suy ngẫm hồi lâu nhà Vua nói:
– Ta lấy làm vui vì hôm nay Hậu giúp ta cởi được cái nút rối khó gỡ bấy lâu. Bắt giam Trác Tuấn đã hơn hai tháng trời việc xử trí chưa xong bề nào. Nghe lời Hậu sẽ thả cho hắn về quê. Nếu ta lại đem một công chúa gả cho hắn, hai nhà kết thân đời đời giao hảo là việc không gì hay hơn.
Lời khen khiến cơn giận của Hoàng Hậu càng nồng:
– Có trời cao đất dày chứng giám, bệ hạ không điếm xỉa gì đến thân phận đàn bà của mẹ con thiếp, lại còn nói là thiếp gỡ rối cho bệ hạ. Thế này thiếp đến đập đầu vào cột mà chết đi cho rồi.
Nhà vua giảng giải:
– Là hậu nói ra việc gả công chúa cho châu mục Vị Long chứ ta chưa khi nào nghĩ đến. Việc của An Quân ván đã đóng thuyền, vả bây giờ công chúa với Nghĩa Tín hầu con cháu đầy đàn phúc lộc phú quí mấy nhà sánh kịp. Trong triều đang còn năm công chúa đến tuổi cập kê, nay cho một công chúa lên ngược làm dâu cũng giống như việc gả An Quân cho Tín Nghĩa hầu, vừa là việc nhà vừa là việc nước. Việc nhà ngai vàng họ Lý thêm bền vững, việc nước cương vực đất đai ổn định, trăm họ miền xuôi miền ngược tránh được họa binh đao chí thú làm ăn vui hưởng thái bình. Đạo làm vua trị vì thiên hạ còn mong gì hơn thế nữa. Giả như lúc nước gặp nạn phải gả con cho tướng giặc để làm kế hoãn binh cũng còn phải gả nữa là. Huống hồ châu mục các miền đều là người một nước, cho con làm dâu những nơi đó là tìm cho chúng chỗ sung sướng phải đâu là bắt đi đày ải. Ta nói sự hơn thiệt như thế nhưng sẽ không bắt ép, công chúa nào thuận lòng mới gả, vậy nên hậu chớ quá lo lắng.
Hoàng Hậu nguôi được đôi phần nhưng vẫn nói thêm:
– Có công chúa nào dám cưỡng lệnh nhà vua sắp đặt bao giờ. Con cái của bệ hạ, người muốn gả cho ai thì tùy. Thiếp chỉ còn Công chúa Khâm Thánh, xin bệ hạ không bắt lấy chồng xa, để mẹ con thiếp được gần gũi bên nhau, phòng sau này về già đau yếu có mẹ có con. Nếu cho lên ngược làm dâu, vạn nhất lúc thiếp nhắm mắt xuôi tay về với tiên tổ Công chúa làm sao về kịp.
Hoàng Hậu nói đến đây hai hàng nước mắt lã chã. Nhà Vua nói:
– Trẫm hứa là không ép duyên con gái, còn như công chúa nào thuận lòng trẫm cũng sẽ không ngăn.
Hoàng Hậu lau nước mắt dời điện Càn Nguyên.
6.
Công chúa Khâm Thánh từ nơi Trác Tuấn về cung trong lòng xao động. Người trai miền sơn cước ấy vừa tuấn tú vừa mạnh mẽ, trí lự. Xem ra nhiều trang nam tử chốn triều trung còn lâu mới sánh kịp. Con người sinh ra nơi núi rộng sông dài tung hoành vó ngựa nay phải chôn chân trong bốn bức tường cung điện chắc là vô cùng buồn khổ. nhớ đến cố đô Hoa Lư sừng sững núi cao, lại nhớ con sóc được thả về rừng. Chàng trai kia cũng giống như con sóc ưa phóng khoáng sông núi mây trời. Đâu chỉ riêng chàng, chính là ta cũng mong được ra ngoài cung cấm sống ở nơi đồng nội cỏ hoa.
Phải chi nhà vua tha cho chàng trở về theo ý nguyện; phải chi ta được đi cùng chàng về chốn xa xôi ấy. Nghĩ đến đó bỗng dưng thấy trong người rạo rực. Năm nay ta đã đến tuổi lấy chồng. Vua cha sẽ gã ta cho công tử con một vị đại thần nào đấy. Thế là cuộc đời mãi trói buộc chốn kinh thành. Trong lòng chạo rạo công chúa lại một mình đến chỗ Trác Tuấn.
Được gặp lại cô tiểu thư Trác Tuấn vui mừng ra mặt. Chàng cảm tạ tiểu thư đến thăm lần nữa rồi nói:
– Ta có một việc muốn cậy nhờ tiểu thư chẳng hay là người có hạ cố giúp cho không?
– Vậy chàng cứ nói ra, nếu làm được tôi rất sẵn lòng.
Tuấn nói vẻ chân thành:
– Ta muốn dâng biểu tâu xin nhà vua mở lượng khoan từ cho được về bản quán, quản trị dân châu, cam kết từ nay một lòng qui thuận. Song hiềm vì từ nhỏ sống nơi thâm sơn cùng cốc, chỉ quen cưỡi ngựa cầm cung cam làm kẻ ngắn học, xem văn từ chữ nghĩa hiểu được đôi phần, còn như cầm bút viết ra là việc chưa từng làm đến. Tiểu thư thương tình …
Trác Tuấn nói đến đó, tiểu thư ngang lời:
– Tôi đã hiểu ý của ngài. Để về nhà sẵn giấy mực tôi sẽ viết, ngày mai đem sang. Còn điều gì muốn tâu, ngài cứ nói chớ ngại ngùng.
Bất chợt, Hà Tuấn hỏi:
– Chẳng hay quí danh tiểu thư là gì xin cho biết tiện bề thưa gửi.
Một giây ngần ngừ, tiểu thư nói:
– Gọi tôi là Trường Yên. Ngài vừa nói quen cưỡi ngựa cầm cung, sắp tới triều đình mở kỳ thi võ, ngài có muốn ghi tên hay chăng?
– Tiểu thư cứ hay nói giỡn, kẻ bị giam cầm sao được so tài cùng các võ tướng.
– Đã là mở cuộc thi thì người có tài đều được dự, ai tài hơn là người thắng cuộc đâu có sự phân biệt. Ngài có bụng muốn thứ sức để tôi viết luôn vào tờ biểu.
– Được như thế thì còn gì bằng, xin tiểu thư viết cho.
7.
Mùa hè năm Ất Sửu kỳ nhà Vua cho mở kỳ thi võ môn bắn cung. Thể lệ thi gồm ba tư thế: đứng bắn, phi ngựa bắn và đi thuyền bắn, mỗi tư thế bắn ba phát. Đã quá cận ngày, nhà Vua không xem đến những điều cầu xin khác, chỉ ban khẩu dụ cho Trác Tuấn được phép dự thi. Các Vương, các tướng là Khai Thiên vương, Dực Thánh Vương, Vũ Đức Vương, Khai Quốc Vương; Tả kim ngô Phí Xa Lỗi, Hữu kim ngô Vệ Trúc, Tả vũ vệ Đào Thản, Hữu vũ vệ Đỗ Giản đều ghi tên ứng thí. Sân điện Hàm Quang ngay bên bờ sông Nhị là nơi diễn ra cuộc so tài, người ngựa rộn ríp, cờ xí rợp trời. Tướng công Trần Cảo được giao làm chánh chủ khảo chủ khảo cùng hai quan võ hàng đại thần làm thành viên. Nhà Vua thân ra thị sát cuộc thi.
Giờ thìn, loa truyền dõng dạc: “ Bắt đầu thi môn bắn cung tư thế đứng tại chỗ, Tả kim ngô Phí Xa Lỗi bắn trước”. Tiếng hò reo vang dậy mỗi khi người thi bật dây cung. Quan giám khảo Khai Thiên Vương báo điểm: “ Hai mươi lăm điểm, hai vòng tám, một vòng chín ”. Các vương, tướng lần lượt vào thi. Người đạt điểm cao nhất là Khai Thiên Vương, hai mươi tám điểm, hai vòng chín, một vòng mười. Võ trường nhao cả lên khi loa xướng tên Trác Tuấn, không có chức vị gì đi kèm. Các phu nhân, công chúa, tiểu thư hầu không biết gì về danh phận người ứng thí này, ngoại trừ một người là công chúa Khâm Thánh. Công chúa mặc đúng bộ xiêm áo hôm đến thăm Trác Tuấn, ngồi trên khán đài cùng Lập Giáo hoàng hậu. Trác Tuấn bước từng bước dài thong thả vào vị trí, chưa vội giương cung, đưa mắt nhìn lên khán đài có ý tìm kiếm tiểu thư Trường Yên. Tuấn chắc thể nào tiểu thư cũng đến xem. Và quả nhiên họ đã nhận ra nhau, Công chúa còn nháy nháy mắt ra chiều khích lệ. Bấy giờ Trác Tuấn mới giương cung, bắn ba phát liền như là không ngắm. Ngồi trên đài Công chúa lo thót tim. Sau lời báo điểm của Khai Thiên Vương, võ trường lại nhao lên:
“ Hai vòng chín, một vòng mười ! Khai Thiên Vương và Trác Tuấn đạt điểm cao nhất ! ”
Sau mười khắc tạm nghỉ, loa truyền: “Tiếp tục thi môn bắn cung tư thế phi ngựa ”. Một cặp ngựa ô, một cặp ngựa nâu được dẫn ra để người dự thi tự chọn. Thứ tự vào thi không thay đổi, đầu tiên là Phí Xa Lỗi. Lần này Xa Lỗi tụt hai điểm. Những người tiếp theo phần lớn cũng mất điểm vì tư thế phi ngựa bắn khó hơn. Đến lượt Khai Thiên Vương, mọi cặp mắt chăm chú dõi theo để xem Vương có bị tụt điểm như người khác không. Vương vừa xuống ngựa, loa truyền: “ Hai mươi tám điểm, bằng lần trước ”. Cuối cùng Trác Tuấn xuất hiện trên lưng con ngựa ô mà Dực Thánh Vương vừa cưỡi, ra roi phi nước đại, trong nháy mắt đặt tên giương cung bắn liền. Công chúa Khâm Thánh càng lo, nhỡ đâu lần này chàng không bằng Khai Thiên Vương. Công chúa không phải đợi lâu, tiếng loa đã vang lên: “Hai mươi chín điểm, một vòng chín, hai vòng mười. Tư thế phi ngựa bắn cung Trác Tuấn đạt điểm cao nhất ! ”. Cả võ trường ầm vang lời khen ngợi, công chúa Khâm Thánh suýt nữa thì đứng lên để tán thưởng, nhưng chợt nhớ đến thân phận của Trác Tuấn nên ngồi yên. Vẻ vui mừng xem thi võ của công chúa Khâm Thánh làm Hoàng hậu để ý. Phải chăng là Công chúa muốn kén chồng qua cuộc thi này. Được thế thì tốt, trước nay Hoàng hậu có chút lo lắng về tính tình khác thường của Công chúa, thích bay nhảy phóng khoáng như đàn ông, đã đòi ở lại Hoa Lư, sau nhà vua truyền khẩu dụ mới chịu về kinh.
Đã đến lúc bước vào chặng thi đi thuyền bắn cung. Cả giám khảo lẫn người xem dời đến khán đài dựng bên bờ sông. Hai tấm bia một trắng, một xanh được neo ngoài giữa dòng. Hai chiến thuyền hạng nhẹ, một chiếc sơn trắng, chiếc kia sơn xanh, ứng với màu hai tấm bia. Mỗi thuyền tám đôi chèo lăm lăm đợi lệnh. Quan giám khảo cho năm người dự thi xuống một thuyền. Để phân biệt, mỗi người phải viết danh tính của mình lên cánh tên. Khi mọi người đã đứng vững trên thuyền, quan giám khảo phất cờ cho thuyền chèo ngược dòng nửa dặm rồi quay xuôi. Người thi sẽ bắn khi thuyền lướt đến tầm ngắm thuận lợi nhất. Với Trác Tuấn tư thế này có phần khó khăn vì ở miền núi sông suối chảy xiết ít đi đường thủy, nếu có thường dùng mảng mà không hay dùng thuyền. Giám khảo cho Trác Tuấn xuống cùng thuyền với Khai Thiên Vương, ý để được công bằng. Tuấn đứng trên thuyền thấy vững vàng hơn đi mảng càng vững dạ.
Hai chiến thuyền nối nhau xuôi dòng, tiếng mái chèo xô nước rào rào, tiếng dây cung phựt phựt dồn dập. Trong chốc lát thuyền cập bến, người dự thi xách cung lên bờ, chờ đợi. Lần này ban giám khảo phải chở hai tấm bia về, xem tên từng người để xét. Thời khắc làm Công chúa Khâm Thánh lòng như lửa đốt. Lần này chỉ cần chàng trai chốn sơn lâm không bị thấp quá là đủ để nhà Vua để mắt đến. Mọi người càng sốt ruột khi thấy quan giám khảo đi đến chỗ nhà vua, chừng như hỏi ý kiến, vậy chắc là có chỗ khó xử. Quan giám khảo tâu rằng:
– Thi đi thuyền bắn cung Khai Thiên Vương được hai mươi chín điểm, Trác Tuấn được hai mươi tám điểm, kém một điểm. Cộng cả ba lần thì điểm của hai người lại vừa ngang nhau, vậy có cho Trác Tuấn được lĩnh thưởng bằng với Khai Thiên Vương hay không? ”.
Nhà Vua vuốt râu, mỉm cười nói rằng:
– Các khanh sao bụng dạ hẹp hòi làm vậy. Đã cho dự thi, nay trao giải việc gì còn phải phân biệt.
Quan giám khảo dụt dè tâu lại:
– E rằng các vương, các tướng khác sẽ sinh lòng tự ái.
– Nếu ai cũng tự ái mà gắng gỏi cho bằng hoặc hơn Khai Thiên Vương và Trác Tuấn thì triều đình chẵng đã có thêm nhiều người giỏi hay sao? Nhà ngươi hãy đi mau xướng danh.
Quan giám khảo vừa lui được vài bước, nhà Vua gọi lại, truyền khẩu dụ:
– Lúc xướng danh, ngươi trả cho Trác Tuấn chức châu mục. Một là để người ấy thấy sự công bằng, khoan dung của trẫm, hai là không để các quan khanh có ai đó nghĩ mình phải đứng dưới thường dân.
Nhà vua và các quan khanh về lại sân điện Hàm Quang. Khi tất cả đã yên vị, loa truyền điểm trong lần thi đi thuyền bắn cung và tổng điểm của từng người.
Hai con tuấn mã lông tía pha hồng được dắt ra trước sân, trên bục đặt hai hộp gỗ hình chữ nhật sơn son thếp vàng. Quan giám khảo xướng loa:
– Đồng giải nhất thuộc về hai người. Một là Thái tử Khai Thiên Vương Lý Phật Mã, hai là châu mục Vị Long Hà Trác Tuấn.
Nhà vua dời khán đài xuống sân điện truyền quan cấm vệ cầm cương chuyển cho mỗi người một con tuấn mã. Nhà vua lại mở hai hộp gỗ lấy ra hai cây cung cánh nạm vàng lần lượt trao cho Thái tử và Trác Tuấn.
Công chúa Khâm Thánh không còn giữ ý liền đứng lên reo to để cổ vũ. Nàng mừng cho cả hai người, một người là anh trai, còn người kia không còn xa lạ mà đã trở nên mối quan tâm của nàng.
8.
Môn thi bắn cung kết thúc, mọi người lục tục ra về, Công chúa Khâm Thánh còn đứng lại trên khán đài đưa mắt nhìn đám đông khắp lượt có ý tìm kiếm. Dưới sân điện Trác Tuấn vai đeo cung, tay vuốt ve con tuấn mã lông tía. Nó cũng to cao và săn vó như con ngựa chiến ở trên quê, nhưng đẹp hơn về màu lông. Trác Tuấn muốn đem niềm vui thắng cuộc san chia đến người con gái mà đêm ngày hằng thương nhớ. Hãy chờ cho mọi người tản đi hết, biết đâu có thể gặp nàng. Chợt nhìn lên khán đài, chỉ còn một người đứng đó, không ai khác chính là tiểu thư Trường Yên bèn dắt ngựa đi tới. Tiểu thư
cũng đã nhìn thấy Trác Tuấn và con ngựa lông tía liền xăm xăm bước xuống.
– Trước xin chúc mừng chàng đã thắng cuộc. Tiểu thư nói khi chưa giáp mặt.
– Công này là của tiểu thư. Vậy xin tiểu thư nhận lấy con tuấn mã.
– Dù rất thích cưỡi ngựa, nhưng tôi nhận sao được. Nhà vua thưởng cho tài bắn cung của chàng, chứ tôi đâu có chút tài nào. Sau nữa chúc mừng chàng được Nhà vua cho phục chức châu mục.
– Nhưng nhà vua vẫn chưa ban chiếu tha cho tội cho ta – Trác Tuấn nói.
Công chúa cười to:
– Chuyện đó mà chàng vẫn còn lo hay sao. Một khi nhà vua cho làm châu mục thì có nghĩa chàng đã là mệnh quan triều đình, đâu còn tội tình gì. Nhà vua vì mến tài chàng mà làm tắt, chiếu xá tội chắc ban trong nay mai mà thôi. Ngày chàng được trở về Vị Long hẳn là không còn xa nữa – Giọng của tiểu thư đượm vẻ bùi ngùi.
– Từ khi bị bắt về đây, ngày đêm tôi mong được tha bổng để trở về quê nhà. Bây giờ được phục chức, ngày được tha cũng sắp đến tưởng là niềm vui khôn xiết, thế nhưng lại cảm thấy rất buồn vì sẽ không còn được gặp mặt tiểu thư. Người miền núi thẳng tính, hay nói thật, từ hôm trông thấy tiểu thư tôi một lòng mến mộ, ngày đêm mong nhớ muốn được kết duyên chồng vợ.
Đôi mắt tiểu thư ánh lên như mắt nai tơ. Từ lâu tiểu thư đã muốn nghe lời này, song còn ngần ngại:
– Cảm tạ tấm lòng chàng nhưng việc trăm năm thiếp là phận gái còn phải xem ý tứ người trên, chẳng thể nói một lời quyết đáp, chỉ e vì thương con nên cha mẹ muốn gả chồng gần. Lại nữa việc hôm nay chàng mới ngỏ thiếp đâu biết trên quê chính thất nhà chàng tính nết hiền dữ ra sao. Một xe hai ngựa kéo sợ là xe đổ ngựa ngã lại hóa dở dang.
– Dù trên quê ta đã có vợ nhưng về việc này chẳng có gì làm tiểu thư đáng phải lo lắng, tính nết cô ấy hiền lành, biết thuận theo ý chồng, hai con ngựa kéo chắc chắn cỗ xe sẽ chạy nhanh hơn. Xin tiểu thư hãy tin lời ta. Nhân ngày vui hôm nay cho tai theo chân đến thăm nhà tiểu thư được chăng?
– Chàng hãy nén đợi ngày được nhà Vua ân xá. Mọi người ra về đã lâu rồi, đến lúc thiếp cũng phải về, hẹn ngày gặp lại.
Nói rồi tiểu thư quay gót, một mình Trác Tuấn trên sân điện, gió từ sông thổi từng đợt làm tung bờm con tuấn mã.
9.
Trác Tuấn dắt con tuấn mã lững thững trở về biệt điện, đến nơi, thấy không còn một bóng lính canh, thay vào đó là những người phu dịch lễ phép cúi chào, hệt như chàng đang ở châu lỵ với chức vị châu mục như xưa. Một người chừng như là quản gia thưa rằng họ được tướng công phái đến sẵn sàng làm theo sự sai bảo của chàng. Một phu dịch khác tới dắt con ngựa vào tàu, rồi đem thóc đến cho nó. Trác Tuấn đặt cây cung lên giá ngắm nghía. Lòng nhân từ hay là sự xem trọng người tài của nhà vua mà ta được tha bổng? có lẽ cả hai. Nhưng bây giờ làm sao nói được sở nguyện của mình đến nhà Vua và phụ mẫu tiểu thư. Không lẽ đi hỏi tiểu thư. Biết nhà nàng ở nơi nào? Bèn gọi người quản gia trò chuyện, rồi nói:
– Xin hỏi nhà người có biết tiểu thư Trường Yên đôi lúc qua lại đây là con vị đại quan nào chăng? Nàng cổ cao ba ngấn, da trắng như trứng gà bóc, đi đứng khoan thai, nói tiếng dịu dàng.
Người quản gia thưa:
– Như tôn ông nói thì trong thành Thăng Long có biết bao nhiêu là tiểu thư mệnh phụ đều đẹp như tiên sa làm sao tiểu nhân nhận biết được. Nhưng có điều tiểu nhân biết rõ là chỉ các hoàng hậu, phi tần cùng các công chúa mới được đi lại nơi nội điện, mà các công chúa thì không một ai có tên là Trường Yên. Đó là tên mới của cố đô Hoa Lư. Có khi tiểu thư là một công chúa mà tôn ông không biết đó thôi.
Trác Tuấn nói:
– Không lẽ như thế.
Câu chuyện đang dở thì có chỉ gọi Trác Tuấn vào chầu. Người quản gia giúp mặc đồ lễ phục, rồi theo một công công dẫn vào chính điện Càn Nguyên. Nhà Vua ngự trên ngai vàng nét mặt khoan hòa, khác hẳn nhà Vua vẻ oai phong lẫm liệt mà Trác Tuấn từng giáp mặt những ngày chiến trận. Bá quan văn võ tề tựu hai hàng, thái sư tuyên Chiếu:
– Hoàng triều Đại Việt Thuận Thiên đệ tứ niên, nguyên châu mục Vị Long là Trác Tuấn mới rồi hồ đồ nghe lời xúi dục của người nước Nam Chiếu, tụ tập dân binh sinh lòng cát cứ, bỏ nộp thuế má khiến cho nhà vua phải cất quân bình định, bắt về kinh thành. Xét nay đã thật lòng hối cải, lại nghĩ đến tổ tông nhiều đời chăn dân được tiếng tốt nên xóa hết tội trạng, cho được giữ châu mục vị Long như cũ, hằng năm phải nộp đủ thuế cống, chăm lo phòng giữ biên cương, hết sức đề phòng người Nam Chiếu, người Tống xâm phạm bờ cõi. Từ nay về sau phải hết lòng trung, nếu còn tái phạm, tịch thu sản nghiệp, ba đời tội chết không tha. Truyền Hà Trác Tuấn lĩnh chỉ.
Trác Tuấn bước ra lạy tạ, nhà Vua cho được bình thân, nói:
– Trước khi trở về bản quán chăn dân có điều gì thỉnh cầu cho được nói.
Trác Tuấn phủ phục, ngửng lên tâu:
– Tiểu thần cảm tạ ơn đức cao dày của bệ hạ, nguyện tuân chỉ mà làm. Trong lòng run sợ nhưng đã được bệ hạ mở lượng nên mạo muội nói ra rằng tiểu thần có một sở nguyện được thành thân với tiểu thư Trường Yên, mãi mãi là tôi con triều đình.
Nhà vua và bá quan thảy đều ngỡ ngàng, không phải vì Trác Tuấn muốn lấy vợ người kinh thành mà vì không biết tiểu thư mà Tuấn nói đến là ai. Nhà Vua thì từ lâu tính kế lâu dài đã có chủ kiến muốn gả một trong số các công chúa lên ngược nên mới cho Trác Tuấn được thỉnh cầu. Nay nghe Trác Tuấn nói thế nhà vua liền làm kế hoãn binh, nói:
– Còn phải hỏi tiểu thư đó có thuận về chốn sơn lâm với ngươi không đã.
10.
Nhà vua truyền cho gọi ba công chúa vừa tuổi dậy thì là Khâm Thánh do Lập Giáo hoàng hậu sinh, Thủy Linh do Tá Quốc hoàng hậu và Thụy Bình do Lập Nguyên hoàng hậu sinh đến cung Thúy Hoa. Trong ba công chúa thì Khâm Thánh xinh đẹp nhất. Nhà Vua nói:
– Ơn trời nay cha mới thay nhà Lê trị vì thiên hạ, quốc sự còn lắm nỗi gian truân. Trong nước thì nhiều năm lo kiến thiết tân đô nên thuế má chưa giảm được cho muôn dân, đê điều canh nông không ít nơi còn bê trễ, người dân đói khổ còn nhiều. Triều chính chưa thật êm thuận đã lại nảy sinh nạn quan tham nhũng nhiễu, thổ hào miền biên viễn chưa qui về mối nhất thống. Ngoài cõi người Chiêm ở phương nam, người Nam Chiếu, người Tống ở phương bắc dòm dỏ nội tình, chỉ e họ nhân lúc triều ta mới lập, lòng dân chưa yên mà cất quân xâm lấn. Cơ sự như thế người làm vua hằng đêm ngủ không ngon giấc.
Nhà vua nói đến đó ngừng lại nhìn từng người chừng như muốn xem các con có thấm ý mình. Ba công chúa thấy vua cha nói những điều nghiêm trọng thì cúi đầu lắng nghe, len lén nhìn nhau.
Nhà vua nói tiếp:
– Ba con nay đều đã đến tuổi thành gia thất, mẹ cha chăm nuôi khôn lớn đã vậy còn lo gả con vào nhà tử tế mong để phúc lại cho cháu chắt mai sau. Phận làm con là phải biết nghe lời cha mẹ, các con tuy là phận gái cũng nên biết ghé vai cùng cha gánh vác việc nước. Mới rồi vì việc ở châu Vị Long mà cha lại phải một lần lên ngược đưa thủ lĩnh châu ấy về kinh. Xét nhân cách người này đàng hoàng chững chạc, có chí lự. Muốn cho bốn phương phẳng lặng, nuôi sự bình yên lâu dài, đổi sự đối địch sang hòa hiếu nên cha định gả một công chúa cho Trác Tuấn. Vậy trong các con ai có thể thuận theo ý cha, giúp giữ yên một phương bờ cõi?
Nhà vua vừa dứt lời, công chúa Khâm Thánh nói:
– Công ơn sinh thành dưỡng dục của phụ hoàng và mẫu hậu suốt đời chúng con ghi lòng tạc dạ. Phận làm con những mong báo đáp được muôn một. Hai em con tuy cũng đã đến tuổi thành gia thất, nhưng là chị nên con xin thuận lời phụ hoàng lên ngược làm dâu, dầu xa xôi cách trở cũng không quản ngại. Vả từ thuở nhỏ tính con thích ra chơi ngoài thôn dã, nay có đi lấy chồng xa âu cũng là duyên số tiền định vậy. Chỉ áy náy rằng sớm hôm không được hầu hạ phụ hoàng cùng mẫu hậu mà lỗi đạo làm con. Lại nữa chắc là mẫu thân con sẽ buồn nhiều, mong phụ hoàng lựa lời khuyên nhủ, được như thế con yên lòng xuất giá.
Nhà vua mừng thầm, việc tưởng khó mà nhẹ như lông hồng, công chúa Khâm Thánh thật biết nghĩ, tin chắc về sau sẽ cùng chồng làm cho phương ấy thành phên dậu vững chắc của giang sơn xã tắc. Hai công chúa Thủy Linh và Thụy Bình chưa hết ngỡ ngàng vì sự quả quyết của chị gái mà không phải gạn ép gì. Nhà vua lưu Khâm Thánh lại, cho Thủy Linh và Thụy Bình lui gót. Cầm tay con gái nhà vua dặn dò:
– Con vì giang sơn xã tắc mà đi làm dâu chốn rừng thiêng nước độc, trong lòng cha mẹ ngùi ngùi thương xót. Vợ chồng ăn ở hòa thuận con cái đề huề là điều cha mẹ không mong gì hơn. Vạn nhất chồng con còn mang lòng hùng cứ mãi mã chiêu binh tính chuyện kia khác thì con khéo lựa lời tìm mọi cách mà khuyên giải. Nếu khuyên giải không xong, đến nước con rể bố vợ thành hai bên đối địch thì phải sớm tìm cách báo về, chớ để xảy ra cảnh nuôi ong tay áo, dẫn lối cho chồng lấy trộm nỏ thần như trong truyện Mị Châu Trọng Thủy thời xưa. Chắc hẳn con không muốn cha phải lâm thế cùng tự vẫn nơi cửa biển như An Dương Vương thủa ấy. Cha mẹ cho con đem theo năm bảy thị nữ đỡ đần, Quỳnh Như là đứa thông minh có thể giúp con khi việc gấp.
Công chúa gạt nước mắt thưa:
– Dù yêu chồng bao nhiêu con cũng quyết không phụ công cha mẹ. Nếu có việc kia xẩy đến con sẽ hết sức khuyên can, không để đến nỗi cha phải động binh lần nữa.
Con nói vậy cha lấy làm yên lòng, cha đã truyền quan thái bảo làm chủ hôn. Ngày đón dâu chẳng còn bao xa, cha cho con viên ngọc minh châu có khắc hình kinh đô Thăng Long làm quà chúc phúc, để con luôn nhớ mình là công chúa nhà Lý, có bổn phận phò giúp cho vương triều được bền vững dài lâu, không bao giờ quên ơn cha mẹ.
14/7/2023
Phù Ninh
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Uống trà

Uống trà Một số người tìm sự bình an, sự tịnh tâm trong việc uống trà. Có thể vì vậy mà họ thường thuộc lứa tuổi đã cao, xế chiều. Thanh niê...