Thưa các Ngài,
Hôm nay là ngày giỗ cụ Tiên điền Nguyễn Tiên-sinh, là bậc đại thi nhân
của nước Nam ta, đã làm ra bộ văn chương tuyệt tác là truyện Kim Vân Kiều.
Ban Văn học Hội Khai trí chúng tôi muốn nhân ngày giỗ này đặt một
cuộc kỷ niệm để nhắc lại cho quốc dân nhớ đến công nghiệp [1] một
người đã gây dựng cho quốc âm ta thành văn chương, để lại cho chúng ta một cái
«hương hỏa» rất quí báu, đời đời làm vẻ vang cho cả giống nòi.
Chúng tôi thiết nghĩ một bậc có công với văn hóa nước nhà như thế,
không phải là ông tổ riêng của một nhà một họ nữa, mà là ông tổ chung của cả nước;
ngày giỗ ngài không phải là ngày kỷ niệm riêng của một nhà một họ nữa, chính là
ngày kỷ niệm chung của cả nước.
Hiện nay suốt quốc dân ta, trên từ hàng thượng lưu học thức, dưới đến
kẻ lam-lũ làm ăn, bất cứ già trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà, ai ai cũng biết truyện Kiều,
ai ai cũng thuộc truyện Kiều, ai ai cũng kể truyện Kiều, ai ai cũng
ngâm truyện Kiều, như vậy thời ai ai cũng đều hưởng cái công nghiệp của Cụ
Tiên điền ta, ai ai cũng phải nhớ ngày giỗ Cụ và nghĩ đến cái ơn của Cụ
tác thành cho tiếng nước nhà.
Muốn cảm cái ơn ấy cho đích đáng, hẵng thử giả thiết Cụ Tiên điền
không xuất thế [2], Cụ
Tiên-điền có xuất thế mà quyển truyện Kiều không xuất thế, quyển truyện Kiều có
xuất thế mà vì cớ gì không lưu truyền, thời tình cảnh tiếng An Nam đến thế nào,
tình cảnh dân tộc ta đến thế nào?
Văn chương người ta thiên kinh vạn quyển, dẫu có thiếu mất một quyển
cũng chẳng hại gì. Văn chương mình chỉ độc có một quyển, vừa là kinh, vừa là
truyện, vừa là Thánh-thư [3] Phúc-âm [4] của
cả một dân-tộc, ví lại khuyết nốt thì dân-tộc ấy đến thế nào?
Than ôi! mỗi lần nghĩ tới mà không khỏi rùng mình, chột dạ, sửng-sốt,
rụng-rời, tưởng như hòn ngọc ở trên tay bỗng rơi xuống vỡ tan-tành vậy. Rồi mới
tỉnh ra, sực nhớ đến mấy câu Kiều, vỗ bàn đập ghế, gõ dịp [5]rung
đùi, lên giọng cao-ngâm:
Lơ-thơ tơ liễu buông mành,
Con oanh học nói trên cành mỉa-mai,
Con oanh học nói trên cành mỉa-mai,
hay là:
Phong-trần mài một lưỡi gươm,
Những phường giá áo túi cơm xá gì,
Những phường giá áo túi cơm xá gì,
bỗng thấy trong lòng vui-vẻ, trong dạ vững-vàng, muốn nhẩy muốn
múa, muốn reo muốn hò, muốn ngạo-nghễ với non sông mà tự-phụ với người đời rằng:
Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, có gì mà
lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ!...
Có nghĩ cho xa-xôi, cho thấm-thía, mới hiểu rằng truyện Kiều đối
với vận-mệnh nước ta có một cái quí-giá vô-ngần.
Một nước không thể không có quốc-hoa, truyện Kiều là quốc-hoa
của ta; một nước không thể không có quốc-túy, truyện Kiều là quốc-túy
của ta; một nước không thể không có quốc-hồn, truyện Kiều là quốc hồn
của ta. Truyện Kiều là cái «văn-tự»[6] của
giống Việt-Nam ta đã «trước-bạ»[7] với
non sông đất nước này. Trong mấy nghìn năm ta chôn rau[8]cắt rốn,
gửi thịt gửi xương ở cõi đất này, mà ta vẫn hình như một giống ăn trọ ở nhờ, đối
với đất nước non sông vẫn chưa từng có một cái văn-tự văn-khế phân-minh, chứng-nhận
cho ta có cái quyền sở-hữu chính-đáng. Mãi đến thế-kỷ mới rồi mới có một đấng
quốc-sĩ[9], vì
nòi-giống, vì đồng-bào, vì tổ tiên, vì hậu-thế, rỏ máu làm mực, «tá-tả»[10] một
thiên văn-khế tuyệt-bút, khiến cho giống An-Nam được công-nhiên[11],nghiễm-nhiên[12],
rõ-ràng, đích-đáng làm chủ-nhân-ông một cõi sơn-hà gấm vóc.
Đấng quốc-sĩ ấy là ai? Là Cụ Tiên-điền ta vậy. Thiên văn-khế ấy là
gì? Là quyển truyện Kiều ta vậy.
Gẫm trong người ấy báu này,
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!
Báu ấy mà lọt đến tay ta, thật cũng là một cái phúc-duyên cho ta,
nhưng báu ấy ở trong tay Cụ lại chính là một cái túc duyên[13] của
Cụ. Thiên văn-tự tuyệt-bút kia là gồm bao nhiêu giọt máu, bao nhiêu giọt lệ kết-tinh
lại mà thành ra, những khi đêm khuya thanh-vắng vẫn thường tỉ-tê thánh-thót
trong lòng ta, như
Giọt sương gieo nặng cành xuân la-đà
vậy. Cái áng văn-chương tuyệt-tác cho người đời đó, an-tri lại không phải
là một thiên lịch-sử thống-thiết của tác-giả?
Truyện Kiều quan-hệ với thân-thế Cụ Tiên-điền thế nào,
lát nữa ông Trần Trọng-Kim sẽ diễn-thuyết tường để các ngài nghe.
Nay tôi chỉ muốn biểu-dương cái giá-trị của truyện Kiều đối
với văn-hóa nước ta, đối với văn-học thế-giới, để trong buổi kỷ-niệm này đồng-nhân
cảm biết cái công-nghiệp của bậc thi-bá nước ta lớn-lao to-tát là dường nào.
Đối với văn-hóa nước nhà, cái địa-vị truyện Kiều đã
cao-quí như thế; đối với văn-học thế-giới cái địa-vị truyện Kiều thế
nào?
Không thể so-sánh với văn-chương khắp các nước, ta hẵng so-sánh với
văn-chương hai nước có liền-tiếp quan-hệ với ta, là văn-chương Tàu và
văn-chương Pháp. Văn-chương Tàu thật là mông-mênh bát-ngát, như bể như rừng.
Nhưng trong rừng văn bể sách đó, tưởng cũng ít quyển sánh được với truyện Kiều,
mà xét cho kỹ có lẽ không có sách nào giống như truyện Kiều. Gốc truyện
tuy do một bộ tiểu-thuyết Tàu mà ra, nhưng vào tay Cụ Tiên-điền ta biến-hóa hẳn,
siêu-việt ra ngoài cả lề-lối văn-chương Tàu, đột-ngột như một ngọn cô-phong ở
giữa đám quần-sơn vạn-hác vậy. Có người sánh truyện Kiều với Li-tao,
nhưng Li-tao là một bài than, từ đầu đến cuối toàn một giọng bi-đát
thảm-thương, so với Cung-oán của ta có lẽ đúng hơn. Có người lại sánh
với Tây-xương, nhưng Tây-xương là một bản hát, từ-điệu có
véo-von, thanh-âm có réo-rắt, nhưng chẳng qua là một mớ ca-từ cho bọn con hát,
không phải là một nền văn-chương chân-chính. Cứ thực thì truyện Kiều dẫu
là đầm-thấm cái tinh-thần của văn-hóa Tàu, dẫu là dung-hòa những tài-liệu của
văn-chương Tàu, mà có một cái đặc-sắc văn-chương Tàu không có. Cái đặc sắc ấy
là sự «kết-cấu». Nhà văn, nhà thơ Tàu, ngoài những bài thơ bài văn
nho-nhỏ ngăn-ngắn, phàm làm sách chỉ biết cách biên-tập, không sành cách kết-cấu.
Biên-tập là cóp-nhặt mà đặt liền lại; kết-cấu là thu-xếp mà gây-dựng lên, thế
nào cho thành một cái toàn-bức các bộ-phận điều-hòa thích-hợp với nhau, không
thêm bớt được chút nào. Truyện Kiều là một cái toàn-bức như thế, mà
là một bức tranh thế-thái nhân-tình vẽ sự đời như cái gương tầy liếp vậy.
Xét về cách kết-cấu thì văn-chương nước Pháp lại là sở-trường lắm.
Cho nên truyện Kiều có thể sánh với những áng thi-văn kiệt-tác của
quí-quốc, như một bài bi-kịch của Racine hay một bài văn tế của Bossuet vậy.
Đó là nói về cái thể-tài văn-chương. Còn về đường tinh-thần thời trong văn-học
Pháp có hai cái tinh-thần khác nhau, là tinh-thần cổ-điển và tinh-thần lãng-mạn.
Tinh-thần cổ-điển là trọng sự lề-lối, sự phép-tắc; tinh-thần lãng-mạn là trong
sự khoáng-đãng, sự li-kỳ. Truyện Kiều gồm được cả hai cái tinh-thần ấy,
vì vừa có cái đạo-vị thâm-trầm của Phật-học, vừa có cái nghĩa-lý sáng-sủa của
Nho-học, vừa có cái phong-thú tiêu-dao của Trang Lão, lấy lẽ phải ông Khổng mà
chế lại sự thần-bí của nhà chùa, sự khoáng-dật của hai họ. Nhưng mà ngay trong
văn-chương nước Pháp tưởng cũng không có sách nào giống hẳn như truyện Kiều,
vì truyện Kiều có một cái đặc-sắc mà những nền kiệt-tác trong
văn-chương Pháp không có. Đặc-sắc ấy là sự « phổ-thông ». Phàm đại-văn-chương,
không những ở nước Pháp, ở nước nào cũng vậy, chỉ có những người thượng-lưu học-thức
mới thưởng-giám được, kẻ bình-dân không biết tới. Người Pháp không phải là ai
ai cũng biết đọc kịch Racine hay là đọc văn Bossuet. Người Nam
thời ai ai cũng biết ngâm Kiều, kể Kiều, «lẩy» Kiều để
ứng-dụng trong sự ngôn-ngữ thường, kẻ thông-minh hiểu cách thâm-trầm, kẻ tầm-thường
hiểu cách thô-thiển, nhưng ngâm-nga lên thảy đều lấy làm vui tai, sướng miệng,
khoái trí, tỉnh hồn.
Thử hỏi cổ kim Đông Tây đã có một áng văn-chương nào cảm người được
sâu và được rộng như thế chưa. Tưởng dễ chỉ có một truyện Kiều ta là
có thể tự-cao với thế-giới là văn-chương chung của cả một dân-tộc 18,20 triệu
người, già, trẻ, lớn, bé, giỏi, dốt, sang, hèn, đều thuộc lòng và đều biết hay
cả.
Như vậy thì truyện Kiều, không những đối với văn-hóa nước nhà,
mà đối với văn-học thế-giới cũng chiếm được một địa-vị cao-quí.
Văn-chương ta chỉ có một quyển sách mà sách ấy đủ làm cho ta vẻ-vang
với thiên-hạ, tưởng cũng là một cái kỳ-công có một trong cõi văn thế-giới vậy.
Cái kỳ-công ấy lại dũ-kỳ nữa là ngẫu-nhiên mà dựng ra, đột-nhiên mà
khởi lên, trước không có người khai đường mở lối, sau không có kẻ nối gót theo
chân, đột-ngột giữa trời Nam như cái đồng-trụ để tiêu-biểu tinh-hoa của cả một
dân-tộc. Phàm văn-chương các nước, cho được gây nên một nền thi-văn kiệt-tác,
phải bao nhiêu nhà thơ, bao nhiêu nhà văn, trong bao nhiêu năm lao-công lục-lực,
vun-trồng bón-xới mới thành được. Nay bậc thi-bá nước ta, đem cái thiên-tài ít
có trong trời đất, đúc cái khí thiêng bàng-bạc trong non sông, một mình làm nên
cái thiên-cổ-kỳ-công đó, dẫu khách thế-giới cũng phải bình-tình mà cảm-phục, huống
người nước Nam được trực-tiếp hưởng-thụ cái ơn huệ ấy lại chẳng nên ghi tạc
trong lòng mà thành-tâm thờ-kính hay sao?
Cuộc kỷ-niệm hôm nay là chủ ý tỏ lòng quốc-dân sùng-bái cảnh-mộ Cụ
Tiên điền ta; lại có các quí hội viên Tây và các quí-quan đến dự cuộc là để chứng kiến
cho tấm lòng thành thực đó. Nhưng còn có một cái ý nghĩa nữa, là nhân ngày giỗ
này, đốt lò hương, so phím đàn, chiêu hồn quốc-sĩ.
Thác là thể phách, còn là tinh anh,
Áng tinh trung thấp thoáng dưới bóng đèn, chập chừng trên ngọn
khói, xin chứng nhận cho lời thề của đồng nhân đây. Thề rằng: «Truyện Kiều còn,
tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, còn non còn nước còn dài, chúng
tôi là kẻ hậu sinh xin rầu lòng giốc chí cố gia công trau chuốt lấy tiếng quốc âm
nhà, cho quốc hoa ngày một rực rỡ, quốc hồn ngày một tỉnh táo, quốc bộ ngày một
tấn tới, quốc-vận ngày một vẻ vang, ngõ hầu khỏi phụ cái chi hoài bão của
tiên sinh, ngậm cười chín suối cũng còn thơm lây!».
Ghi chú:
Ghi chú:
Bài diễn thuyết về Truyện Kiều này được Phạm Quỳnh đọc nhân lễ kỷ niệm
ngày giỗ Nguyễn Du vào ngày 8 tháng 12 năm 1924, tức
ngày mồng 10 tháng 8 năm Giáp Tý do Hội Khai trí tiến đức của ông tổ chức. Bài
được đăng lại tại Tạp chí Nam Phong số 86. Bài diễn thuyết này mở đầu cho một
cuộc tranh cãi nổi tiếng vào đầu thế kỷ XX, được người sau mệnh danh là Vụ án truyện Kiều.
Phạm Quỳnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét