Sau tập Lửa lòng in năm 2001, bảy
năm sau (2008) Lưu Trọng Phú trình làng tập thứ hai - Nhịp thời gian. Với bốn
mươi bốn bài thơ lấy mốc từ cuối năm 2003 đến gần hết năm 2007, cũng đủ thấy
Lưu Trọng Phú có ý thức trách nhiệm với thơ như thế nào. Anh không chạy đua
theo số lượng như nhiều người đam mê thơ phú thời nay nôn nóng vẫn làm, mà cẩn
trọng tìm tòi, cố gắng vượt qua chính mình, vượt qua thời gian, lắng nghe những
rung động của cỏ cây, hoa lá mà nuôi lớn hồn thơ.
Phải chăng trước một mùa thu
lãng đãng với con nai vàng ngơ ngác/đạp lên lá vàng khô của tiền nhân ngày nào,
nay lại có dịp vận vào hậu thế, cũng bằng con mắt quan sát tỉ mỉ ấy, cũng bằng
những rung động thi sĩ ấy, có khác chăng là khác, thay vì con – nai - vàng – ngơ -
ngác, nay là con - kiến – đồng – dao “tí teo”. Anh viết:
Người ơi, quán dốc khó tìm
Để cho con kiến làm mềm cành đa
Cái quán – dốc – khó – tìm nào
đây? Niềm trắc – ẩn nào ám vào thi sĩ họ Lưu? Để rồi đến như loài kiến tí teo
“thấp bé nhẹ cân” cũng khiến cành đa to lớn, lực lưỡng, cứng rắn kia phải mủi
lòng. Người xưa có câu: “Nước chảy, đá mòn”; “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”!
Phải chăng sự mẫn cán, cần cù, tính kiên trì của loài kiến đã hóa giải, đã “thổi
lửa” làm rung động, làm mềm lòng cả cành đa vô vi vốn khô cứng, chai lỳ vì đời,
vì sương gió; đã làm “mềm hóa” tâm hồn vốn khô cảm, đặng thổi vào đấy luồng
sinh khí của đất trời? Cũng bởi chính có cái quán – dốc – khó – tìm đời sống ấy
mà hình ảnh cành đa- con kiến trong đồng dao xưa (Con kiến mà leo cành đa, leo
phải cành cụt leo ra leo vào) bỗng chốc biến thành thi ảnh, câu thơ trở nên hồn
vía. Lòng - kiến, lòng - đa hòa vào lòng cố nhân mà thổn thức. Trầm ngâm nhìn
dòng thời gian mải miết trôi để rồi nhận ra bao kỷ niệm vui buồn, bao khát vọng…
đang vội vã ngược về quá khứ mà cô đơn, tiếc nuối… để rồi tự vấn, tự dằn vặt, tự
trả lời:
Và cứ thế
Dòng thời gian vẫn chảy
Và cứ thế
Nhịp con tim vẫn đập
Và cứ thế
Ta và em tồn tại
Vậy mà
Sao lại chia xa?...
rồi lại buông mình trôi vào mộng
mơ mà quên đi tuổi tác:
Nửa đời ta chẳng thơ ngây
Bên em ta hớp men say mất rồi
(Hoa hậu)
rồi thót tỉnh, giật mình ngẩn
ngơ nhận ra thực tại mà bùi ngùi:
Bây giờ còn lại mình tôi
Giật mình. Ước trở lại thời đôi
mươi…
(Hoa hậu)
Cứ thế anh loay hoay như con
ong mộng du, gạn hết những phấn hoa mong manh của trần thế ngào trộn với bản
năng, với óng ánh tâm linh nhiều màu từ cõi xa xăm mà xây nên thành vách, mà
tinh luyện mật ngọt để sống hết mình với đời, hết mình với thơ:
Mùa xuân dường như mong manh
Như sợi tơ mành giăng mắc
Mùa xuân dường như rất thật
Dường như từ cõi xa xăm
(Bất chợt mùa xuân)
Lưu Trọng Phú người làng Cao
Lao Hạ, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Anh sinh ra bên dòng sông Gianh hiền
hòa, mộng mơ nhưng cũng lắng đầy nước mắt. Dòng sông thời Trịnh, Nguyễn phân
tranh nhận nỗi đau không muốn về mình làm nhát cắt ngăn giới tuyến chia đất mẹ
thành hai xứ: Xứ đàng ngoài và xứ đàng trong, mà trầm mình trong tiếng cuốc kêu
ai oán. Giờ đây, mỗi lần nhớ lại chuyện xưa, ta hãy còn thấy cay cay nơi khóe mắt.
Và có lẽ chính cái cay cay nơi khóe mắt một thời ấy đã hằn dấu lên bao thế hệ
quê anh, lên tuổi thơ anh, cho đến tận bây giờ sau những thăng trầm dẫu dòng
sông ấy lại hiền hòa, gần gũi như bao dòng sông chảy qua trên quê hương đất Việt
ta, nhưng đâu đó sâu thẳm trong tâm hồn anh, ở một góc khuất nào đó, người đọc
thường bắt gặp phảng phất một nỗi buồn man mác:
Khắc nào em của ngày qua
Khắc nào em vẫn còn là trong
tôi
Cũng như bao người làm thơ thời
nay, anh chăm chút nhiều cho mảng thơ tình. Anh say mê với một nắng cớm mà lòng
trống trải, chơi vơi để rồi ngờ vực chính mình Ai đem hồn tôi/ thả về miền nhớ/
ai đem hồn tôi/thả về gác trọ. Anh ngu ngơ trước vầng trăng đang lên để rồi mải
miết đuổi theo “bóng chim tăm cá" đã ở cuối trời. Anh mắc nợ một nụ hôn nửa
đời còn dằn vặt, đớn đau. Anh chỉ dám chiêm ngưỡng từ xa một tà áo trắng tinh
khiết để mong giữ lại được mãi một chút thương chút nhớ … Cứ thế mà làm nên
“vôi vữa” kết dính hồn thơ:
Từng nhát bay như múa
Trên đôi tay nhịp nhàng
Em say cùng vôi vữa
Khắc họa chiều không gian
(Tâm tình cô thợ xây)
Khắc họa chiều không gian hay
khắc họa thơ? Đó là những mảng của đời sống lung linh, là nhịp điệu của thời
gian mà Lưu Trọng Phú muốn giãi bày, muốn chạy đua, muốn thử sức, bằng tất cả
nhiệt huyết, bằng chính cả cuộc đời. Trong cuộc chạy maratông “hụt hơi” đến với
nàng thơ, tôi thấy Lưu Trọng Phú gần gũi biết bao, trân trọng biết bao… vẫn biết
đích cuối cùng còn nhiều bề lắm, nhưng tôi muốn nói với Lưu Trọng Phú một điều:
hãy đến với nàng một cách mạnh mẽ, tự tin chớ đừng đứng từ xa chỉ để chiêm ngưỡng,
chỉ để - giữ mãi một chút hương thương nhớ.
Quảng Bá, đầu tháng 3 năm 2008
- Đọc Nhịp thời gian của Lưu Trọng Phú - Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2008.
Lê Quang
Sinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét