Ca khúc Chiều vàng và
nỗi buồn còn lại...
OCHID
LÂM QUỲNH là ái nữ của nhà thơ Du Tử Lê và Hạnh Tuyền hiện đang sống tại Mỹ.
Trong dịp về Việt Nam, Quỳnh đã tìm gặp được một số bà vợ của các văn nghệ sĩ nổi
tiếng, và đã ghi lại những cuộc trò chuyện cùng họ với một giọng văn giản dị,
chân thực và thông minh. Sưu tầm giới thiệu cùng các bạn bài ghi chép dưới đây
của chị về phu nhân của nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, tác giả các ca khúc nổi tiếng
một thời như “Chiều Vàng”, “Nỗi Lòng”, “Nghệ Sĩ với Cây Ðàn”…
Sau
nhiều cố gắng tìm kiếm, với những giúp đỡ tận tình của nhiều nhân vật trong giới
văn nghệ sĩ của Hà Nội cũ, tôi vẫn không gặp được bà Nguyễn Văn Khánh. Người phụ
nữ được ghi nhận là nguồn cảm hứng dẫn tới việc ra đời một số ca khúc nổi tiếng
của nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, như “Chiều Vàng”, “Nỗi Lòng” hay “Nghệ Sĩ với Cây
Ðàn”… Tôi đã đinh ninh mình sẽ phải sắp xếp thời gian, công việc để trở lại Hà Nội một lần khác nữa.
Lý do
mạnh mẽ nhất, thôi thúc tôi phải gặp bà cho bằng được, có lẽ vì những điều tôi
nghe được từ phần đời thường lặng lẽ, ơ hờ, tưởng chừng tẻ nhạt, kéo dài trên nửa
thế kỷ của bà, chỉ là cái phần biểu bì, cái phần ngoài da, che đậy chịu đựng… Ở
lãnh vực này, tôi nghĩ, có phần vượt trên mức hy sinh, chịu đựng của bà Tú
Xương!
Sự ơ
hờ hay tẻ nhạt của một đời người, tôi trộm nghĩ, nó cũng giống như cái biểu hiện
bề mặt của hiện tại một địa danh từng một thời nổi tiếng. Cũng hệt như những du
khách đến với Hà Nội hôm nay, trong cung cách “cưỡi ngựa xem hoa,” sẽ chẳng ghi
nhận được gì nhiều, ngoài khu Phố Cổ, một số thắng tích đã xuống cấp như Tháp
Rùa, đền Ngọc Sơn, chùa Một Cột, đê Yên Phụ, chùa Quán Sứ…
Như mẹ
tôi từng bảo tôi rằng, bất cứ một đế đô, một thành phố lịch sử nào trên thế giới,
đều bị bụi, rác thời gian xóa nhòa, vùi lấp mọi hào quang quá khứ. Chỉ khi nào
ta lắng lòng, đào xới dĩ vãng, khi đó, ta mới có thể bắt gặp những trầm tích,
hay những kết tinh quý giá làm thành lịch sử nghìn năm của địa danh ấy. Với cá
nhân tôi, trường hợp bà Nguyễn Văn Khánh, nhũ danh Ðặng Thị Thuận, có lẽ cũng
là một điều gì tương tự…
Qua
chuyện kể và, nhất là qua những chi tiết tôi được nghe từ ông bà Hoàng Giác/
Kim Châu, thì đằng sau cái đời thường lặng lẽ, ơ hờ, tưởng chừng tẻ nhạt của bà
Nguyễn Văn Khánh/ Ðặng Thị Thuận, là cả một không gian dữ dội ngậm ngùi, đắng cay… tới độ tôi không dám tin có thật!
Vì thế,
tôi nghĩ “trời có mắt,” khi buổi chiều, định soạn hành lý, để trưa hôm sau, ra
phi trường, trở về Cali, thì một nhân viên khách sạn, đưa cho tôi tờ giấy viết
tay của nhạc sĩ Hoàng Giác. Ông viết:
“Cháu
Quỳnh,
“Ðã
tìm được địa chỉ của vợ nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, có người tình nguyện đưa các
cháu đến gặp gia đình tại ngõ Khâm Thiên. Sáng nay sang tìm cháu không gặp.
Vậy
cháu về thì hãy sang bác để gặp người họ hàng tới trực tiếp gia đình.”
Bác
Hoàng Giác.”
Tôi
và Hân, quyết định đổi vé, hoãn chuyến bay về Los Angeles.
Hôm
sau, trời mới hừng sáng, chúng tôi đã rời khách sạn, tới nhà nhạc sĩ Hoàng
Giác. Người phụ nữ tình nguyện dẫn đường cho chúng tôi, là một người trong gia
tộc của cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh. Cô sốt sắng, mau mắn và nhiệt tình. Tôi thấy
giống như chúng tôi được đưa đi… “tìm trầm” vậy. Trên đường đi, nửa đùa, nửa thật,
cô bảo, đường đến nhà nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, “Khó không thua gì đường lên…trời!”
Ðúng vậy! Tôi không nhớ chúng tôi được dẫn xuyên qua bao ngõ, trổ qua bao ngóc
ngách dích dắt… Nhiều lần theo chân cô, rẽ vào những con ngõ rất nhỏ, chỉ vừa đủ
cho một người đi. Tôi không biết người ta sẽ phải làm gì, nếu chẳng may, đang
đi, có một người ngược chiều?
Dường
như cảm được thắc mắc của tôi, người hướng dẫn chúng tôi trên đường “lên trời,”
hỏi tôi: “Cháu có biết chúng ta đang đi trên những đoạn đường hẹp này, gọi là
gì không?”
Tôi
đáp: “Không cô ạ!”
Cô bật
cười, bảo: “Ở đây, người ta gọi là cái… ngách đấy!”
Tôi
cũng bật cười, bất ngờ, thích thú. Hồi nào giờ, tôi vẫn nghĩ hai chữ “ngõ
ngách” chỉ là một danh từ kép. Ngôn ngữ Việt có nhiều, rất nhiều những danh từ
kép, như thế. Tôi nói ra với cô, sự “vỡ nhẽ” của mình, thay cho lời cảm ơn. Cô
vui lắm. Cô nhắn nhủ: “Còn nhiều đều ở đây đáng cho con học đấy. Con phải về
đây nhiều nhiều mới được.” Tôi đáp: “Vâng ạ,” và thấy “đường lên trời” dường
như đã phần nào ngắn bớt.
Cuối
cùng, như một phần thưởng xứng đáng cho lòng chân thành, tha thiết của mình,
chúng tôi cũng tìm ra chỗ ở đầu tiên, và sau chót của tác giả “Nỗi Lòng.”
Tôi
không biết cảm giác của Hân! Riêng tôi, ngay khi vừa bước chân vào căn nhà, như
một di tích của cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, tôi đã có cái cảm giác vắng vẻ,
bùi ngùi… Nó rất gần với một ca từ, trong ca khúc “Chiều Vàng” của ông: “Giờ đây viếng thầm hồn cố nhân - Năm tháng trôi
theo sóng gió đời…”
Nếu
tôi hiểu không lầm thì ca khúc này, nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh viết gửi cho linh
hồn một người yêu của ông, đã mất. (Hay ít ra thì, dù người đó vẫn còn sống,
nhưng với ông, kể như đã quá cố…!) Ngoài cụm từ “…viếng thầm hồn cố nhân,” trước
đó còn có một ca từ khác của ông, cho thấy tính cách này dứt khoát hơn, rõ ràng
hơn nữa, đó là câu:
“Hồn
em có cùng người chứng minh…”
Thêm
ca từ này, tôi nghĩ người nghe có thể khẳng định rằng “cố nhân”hay “người xưa”
của ông trong ca khúc đã đi khỏi cuộc đời này. Nếu suy nghĩ của tôi không sai,
thì “Chiều Vàng” có lẽ là ca khúc đầu tiên (và duy nhất?) của nền tân nhạc Việt Nam được viết cho một người tình đã
chết.
Mấy
chục năm sau, một người ngưỡng mộ tài hoa Nguyễn Văn Khánh, thuộc thế hệ 1,5 là
tôi, đâu ngờ, khi có cơ hội tìm thăm ông; thì chính ông, tác giả, cũng đã từ
lâu qua đời! Và tôi (chứ không phải ông,) tìm đến để thầm viếng linh hồn ông
(chứ không phải linh hồn cố nhân của ông!)
Tuy
thế, tôi vẫn thấy tôi may mắn. Tôi hạnh phúc hơn rất nhiều người khác. Ít ra
tôi vẫn có cơ hội được gặp gỡ, được nhìn tận mắt, được chạm bằng tay vào xương
thịt người bạn đời của ông: Bà Ðặng Thị Thuận. Bởi vì trước sau gì thời gian rồi
cũng sẽ đem bà về bên kia thế giớivới ông. Cũng như thời gian đã đem đi khỏi cuộc
đời này, khỏi chúng ta một Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Ðinh Hùng, Vũ Hoàng Chương,
Nguyễn Tuân, Văn Cao… Và, gần hơn, là một Phạm Ðình Chương, Lê Thương, Mai Thảo,
Nguyên
Sa, Văn Phụng, Tạ Tỵ, Ðỗ Ngọc Yến…
Sa, Văn Phụng, Tạ Tỵ, Ðỗ Ngọc Yến…
Tiếp
tôi trong căn nhà, nơi ở cuối cùng của tác giả “Nỗi Lòng,” là bà Nguyễn Văn
Khánh/ Ðặng Thị Thuận và, anh Nguyễn Mạnh Phú, trưởng nam của ông bà. Có thể
vì có chung với nhau một mẫu số, là lòng yêu mến, trân trọng tài năng người quá cố, nên dù chỉ là hàng con cháu, lại mới gặp lần
đầu, nhưng chúng tôi đã được bà Nguyễn Văn Khánh đối xử với một tinh thần cởi mở,
thoải mái. Giống như thể bà, cháu chúng tôi cùng hè nhau kể “chuyện xấu” người
ông thân yêu, vắng mặt.
Ở tuổi
86, vào mùa hè, Hà Nội, 2006, bà Nguyễn Văn Khánh/ Ðặng Thị Thuận đã tặng cho
chúng tôi những nụ cười móm mém hồn nhiên, những sôi nổi, hào hứng qua giọng
nói trầm bổng.
Tôi
cũng ghi nhận được, một cách hạnh phúc xen lẫn ngậm ngùi, khi đôi mắt già nua đục
lợ; khi lớp da nhăn mưu sinh, đã lên nước thời gian; và luôn cả những sợi tóc
mai bạc óng, phất phơ sót lại… chốc chốc lại ánh lên niềm hãnh diện, lấp lánh
niềm hân hoan họa hiếm…
Tôi
cũng hạnh phúc tới ước ao, phải chi những giây phút, những hình ảnh bất chợt
tôi ghi nhận được từ nơi bà, sẽ mãi còn. Tôi muốn nói những lần bà lấy tay
che…miệng! Cử chỉ tố cáo sự e thẹn, xấu hổ hay mắc cỡ nơi bà! Ðó là những lúc bà cười lớn tiếng. Và, khi tiếng cười dội lại,
có thể nó đã khiến bà giật mình, hoảng sợ? Ðó cũng là lúc, tôi chợt thấy hàm
răng đen lánh, hạt huyền còn giữ được của bà, mới đẹp làm sao! Cử chỉ, hàm răng
hạt huyền của bà Nguyễn Văn Khánh/ Ðăng Thị Thuận, giúp tôi hiểu rõ hơn, thấy
hay hơn, mấy câu ca dao sau đây:
“Năm
quan mua lấy miệng cười,
“Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen.”
“Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen.”
Với
những người của Hà Nội cũ, ở thập niên 1940, nhiều người, tới giờ còn nhớ thời
đó, ở khu Khâm Thiên, có một thiếu nữ nổi tiếng về nhan sắc và giỏi giang, nết
na, tên là Ðặng Thị Thuận. Khi ấy, dân số Hà Nội còn thưa thớt. Nên người con
gái họ Ðặng đã sớm được nhiều gia đình thế giá ngắm nghía, cầu cạnh cho con
trai họ.
Phần
mình, Ðặng Thị Thuận lại không một chút bận tâm về đường chồng con. Bố tôi nói
thời gian đó cũng là thời gian cơn bão Văn học lãng mạn Pháp đã thổi tới Việt
Nam. Hàng ngũ theo Tây học gia tăng. Các phong trào vận động xã hội xóa bỏ xiềng
xích giam cầm người phụ nữ Việt Nam, nói riêng; nếp sống của người Việt Nam,
nói chung, vốn bị trói giam trong bốn bức tường Khổng giáo, được các nhà trí thức,
nhất là giới văn nghệ sĩ nhiệt liệt, mạnh mẽ cổ võ. Ông bảo: “Ở lãnh vực văn học,
ngọn cờ đầu của cuộc cách mạng xanh này, thuộc về nhóm Tự Lực Văn Ðoàn.”
Những
tài năng, tên tuổi nổi bật ở ba lãnh vực: Thi ca, văn chương và âm nhạc, đã thắp
lên những ngọn lửa ngùn ngụt hưng phấn, ngây ngất khuấy động hàng ngàn trái tim
thiếu nữ mơ mộng, mới lớn. Những bài thơ, những bản nhạc, những truyện ngắn, truyện dài… ngợi ca tình yêu đau khổ, đổ
vỡ hay hạnh phúc, được các cô lén chép, dấu trong tập vở.
Hình ảnh
văn nghệ sĩ, được các cô cất giữ giấu kín trong đáy tim… Thời gian đó, những
văn nghệ sĩ nổi tiếng là hóa thân của những hoàng tử tài hoa và các cô gái mới
lớn, yêu văn nghệ, là những công chúa ngủ trong rừng… Nhưng người con gái họ Ðặng, không trong lớp người này. Nàng thuộc
thành phần thiếu nữ bên ngoài, rất xa tâm bão. Nàng cũng không màng tới những
trào lưu Văn học, Nghệ thuật phương Tây, đang thay da, đổi thịt Hà Nội. Nàng chỉ
chú tâm vào việc giúp cha mẹ, chăm lo gia đình. Nhưng một khi duyên số cầm sợi
dây hôn nhân, ràng buộc vợ chồng, tìm đến các thiếu nữ (nhất là thời đó,) thường
ít người thoát khỏi.
Cho
nên, đầu năm 1942, được bà dì mai mối cho nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, thoạt tiên,
người con gái họ Ðặng đã lạnh lùng từ chối. Thậm chí, nàng cũng chẳng có cái tò
mò lén coi mặt chàng trai đến nhà, cầu hôn mình. Bây giờ, nhớ lại, với nụ cười móm mém hân hoan, bà Nguyễn Văn Khánh/
Ðặng Thị Thuận kể tiếp:
“…Vì
bà dứt khoát không chịu, nên bà đâu có coi mặt ông! Ấy vậy mà bà chị dâu của bà
thì lại tò mò, hăng hái bảo với bà rằng: “Mày không chịu, nhưng cứ để tao ra
coi cái mặt mẹt của nó xem sao…” Và, con biết không, chỉ ít phút sau, bà ấy chạy
vào bếp, kháo với bà rằng, ‘Tao thấy mặt mũi nó được đấy, Thuận à.’ ”
Vì đã
được coi ảnh nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh trước khi gặp bà, tôi bèn ngắt lời bà, “đế”
một câu: “Chứ không phải bà đã biết rõ từ trước, là ông đẹp trai quá trời à?
Bây giờ ông mất rồi, bà nói thiệt con nghe đi!”
Người
bạn đời của tác giả “Chiều Vàng,” ở tuổi 86, cười thẹn lấy tay che miệng chối:
“Ối dào! Bà mà nói dối cho trời chu đất diệt bà đi…”
Tôi vội
ôm bà: “Bà ơi! Con chọc bà đó mà!”
Sau đấy,
khi biết cha mẹ, các anh các chị trong nhà cùng “chấm” nhạc sĩ Nguyễn Văn
Khánh, người con gái họ Ðặng cuối cùng nhận lời lên xe hoa. Năm đó, bà nói: “Bà
đúng 20 tuổi!”
Cuộc
hôn nhân thuở ban đầu, không được khởi dẫn từ một tình yêu có trước. Nhưng,
không vì thế mà, sau đó, người con gái họ Ðặng, một thời nổi tiếng nhan sắc khu
Khâm Thiên, không yêu thương chồng. Trái lại. Bà kể, những năm đầu của cuộc hôn
nhân, tác giả “Nỗi Lòng,” thường xuyên ở nhà. Ông tự tạo lấy cho mình một căn
nhà nhỏ, như một không gian riêng, để làm việc.
Căn
phòng, hay cái không gian riêng của nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, không xa ngôi nhà
chính bao nhiêu. Nhưng nó lúp xúp, nhỏ bé như một cái hang. Nó lại được làm dưới
gốc cây đa, cho nên sau này, mọi người cũng như gia đình và chính ông, cũng gọi một cách thân yêu là: “Cái Miếu.”
Theo
lời kể của anh Nguyễn Mạnh Phú, trưởng nam cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh thì
chính ở tại cái miếu kia, nhạc phẩm đầu tay, nhan đề “Thu” viết cho thân mẫu của
anh, ra đời năm 1946. Kế tiếp, là những ca khúc như “Chiều Vàng,” rồi “Nỗi
Lòng,” được thân phụ anh viết năm 1951.
Cũng
thời gian này, nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh đã viết ca khúc “Nghệ sĩ với cây đàn.”
Anh Phú kể: “Bản nhạc ấy, ông viết sau khi đi Bắc Ninh, thăm một người yêu cũ,
nhưng không gặp được…”
Cũng trong cái Miếu (bây giờ vẫn còn,) cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh đã sáng tác những ca khúc khác, tương đối cũng được nhiều người biết, như “Chiều Gặp Gỡ,” “Lời Thề Xưa,” hay “Tâm Sự với Cây Ðàn”…
Nhưng, điều mà bà Nguyễn Văn Khánh/ Ðặng Thị Thuận hãnh diện, hạnh phúc kể cho chúng tôi nghe, là:
Cũng trong cái Miếu (bây giờ vẫn còn,) cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh đã sáng tác những ca khúc khác, tương đối cũng được nhiều người biết, như “Chiều Gặp Gỡ,” “Lời Thề Xưa,” hay “Tâm Sự với Cây Ðàn”…
Nhưng, điều mà bà Nguyễn Văn Khánh/ Ðặng Thị Thuận hãnh diện, hạnh phúc kể cho chúng tôi nghe, là:
“Lúc
ông ngồi viết nhạc trong miếu, bao giờ bà cũng là người ngồi sau, cầm quạt, quạt
cho ông đấy, con ạ!”
Mặc
dù, bà cũng không quên nhấn mạnh rằng, bà không biết gì về âm nhạc. Bà cũng chẳng
quan tâm bao nhiêu tới các ca khúc của ông; ngoài ý thức tôn trọng chồng, tôn
trọng công việc và sự nghiệp của chồng.
Bên cạnh đó, bà cũng là người tần tảo, lặng lẽ tự lực nuôi ba người con bà có với ông.
Bên cạnh đó, bà cũng là người tần tảo, lặng lẽ tự lực nuôi ba người con bà có với ông.
Tính
tới ngày 20 tháng 8 năm 1976, là ngày tác giả “Chiều Vàng” từ trần, Tôi không
biết bà Nguyễn văn Khánh/ Ðặng Thị Thuận đã được sống bên chồng bao nhiêu năm
tháng! Ngay bà, khi được hỏi, bà cũng không biết. Chỉ biết như bà kể, thì rất ít.
Bà
nói, trong suốt 34 năm làm vợ tác giả “Nỗi Lòng,” trừ một thời gian ngắn, nhạc
sĩ Nguyễn Văn Khánh bị tù vì trốn lính thời Pháp thuộc; tổng số thời gian ông ở
nhà chỉ khoảng một phần ba, hai phần ba của quãng đời chồng vợ này là thời gian nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh rong ruổi theo những
đam mê tình ái, với nhiều phụ nữ khác!
Một
trong những phụ nữ khiến tác giả “Lời Thề Xưa,” quên bẵng lời… thề, bỏ nhà ra
đi dài lâu nhất; đến độ đã có với người đàn bà đó 7 người con; là người phụ nữ
tên Sâm, cô là một ca sĩ. Tôi đồ chừng, hình ảnh người đàn bà này, nhiều phần sẽ
mãi ở trong ký ức phong phú chịu đựng, nhẫn nhục của bà Nguyễn Văn Khánh/ Ðặng
Thị Thuận.
Sở dĩ
tôi có cho mình cảm tưởng này, bởi vì mùa hè năm 2006, dù đã ở tuổi 86, khi kể
tôi nghe, câu chuyện về người phụ nữ có tới 7 con với chồng mình, bà Nguyễn Văn
Khánh còn nhắc, từng tiếng: “… tên là Lê Thị Sâm!”
Bà
cũng kể thêm rằng, ba năm trước khi tác giả “Chiều Vàng” qua đời, bà Sâm đã quyết
liệt xua đuổi tác giả “Nỗi Lòng!” Không còn chọn lựa nào khác, nhạc sĩ Nguyễn
Văn Khánh buộc lòng phải trở về với vợ con; cùng chứng bệnh viêm quai hàm, giai
đoạn cuối. Ðó cũng là thời gian thân phụ của nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh năn nỉ cô
con dâu cả, họ Ðặng, đem hai đứa con nhỏ bệnh tật, quặt quẹo, còn sống sót trong số 7 đứa con của kẻ “cướp chồng” mình về nuôi, “làm phúc.”
Không
một ai biết được bà Nguyễn Văn Khánh/ Ðặng Thị Thuận có thực tâm tự nguyện
nuôi hai đứa con bệnh tật của “kẻ thù,” (chữ này của tôi,) lấy phước; hay chỉ
vì nể lời cha chồng? Nhưng, mọi người đều công nhận, nếu không có công sức chăm sóc ngày đêm, chạy chữa bác sĩ thuốc men…
của bà, thì hai người con của bà Sâm chắc chắn cũng đã chung số phận ngắn ngủi
như 5 anh chị của họ, trước đấy.
Trước
việc làm cực kỳ nhân đức, cao thượng của mình, bà Nguyễn Văn Khánh đã rất chân
thành, khiêm tốn khi nói: “Nhiều người bảo bà… ’mát’ tay nuôi con nhỏ…”
Anh
Nguyễn Mạnh Phú kể thêm: “Mẹ tôi đã cứu sống hai đứa con riêng của bố tôi và
người vợ lẽ như một phép lạ!”
Riêng
bà Sâm thì đã từ trần năm 1979, khoảng trên dưới 3 năm, sau cái chết của thân
phụ anh.
“Bà ấy
không được thấy hai đứa con còn lại của bà ấy với bố tôi, nay đã nên người…”
Anh Phú kết luận một cách hân hoan và tiếc rẻ.
Tôi
không thể hình dung, và cũng không thể tưởng tượng, sau chừng đó cay đắng chịu
đựng; sau chừng đó chập chùng ngậm ngùi, vậy mà mỗi lần khi tôi cố tình chọc ghẹo
bà, bằng những câu hỏi lập đi lập lại nhiều lần; đại ý như “Bà có ghen với ông
không?” “Ðã lần nào bà đi đánh… ghen chưa?” Hoặc, “Bà có biết bài này ông làm
cho cô nào không?” Thì bao giờ bà cũng đáp, trước nhất bằng những nụ cười móm
mém hồn nhiên, nét duyên dáng xưa cũ… Và sau đó là những lời nói ngắn gọn, dứt
khoát.
Thí dụ
như:
“Không.”
“Chả đời nào.”
“Chả đời nào.”
Hoặc:
“Không.”
“Chả bao giờ!”
“Chả bao giờ!”
Hay:
“Không.”
“Tôi không ghen.”
“Tôi mặc kệ.”
“Tôi không ghen.”
“Tôi mặc kệ.”
Bà
cũng kể, có lần các chị em bên chồng rủ bà đi đánh ghen…Nhưng bà từ chối. Bà bảo:
“Ai đi thì đi. Tôi í à… tôi chả đi đâu hết!” Trước khi chúng tôi phải chia tay,
bằng một giọng thản nhiên, với đôi
mắt đã đục nắng mưa, năm tháng, thỉnh thoảng, hướng về phía bàn thờ chồng, nơi mà sau di ảnh là bài hát “Nỗi Lòng,” do chính nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh kẻ nhạc, viết lời, bà tâm sự: “Vậy đó! Con biết không, sau những năm tháng bỏ vợ, bỏ con đi biền biệt như thế, nhưng mỗi khi ông đau ốm hay bị chúng nó đuổi ra khỏi nhà, trở về với bà, bà vẫn lo cơm nước chu đáo cho ông. Mỗi khi ông ra ngoài cái miếu viết nhạc, hay làm gì đó, chớ bao giờ bà quên mang ra cho ông một chai rượu… Bà cũng không ngừng tay quạt cho ông đâu nhé! Dù cho bà chẳng biết, và cũng chẳng bao giờ hỏi ông viết gì?…”
mắt đã đục nắng mưa, năm tháng, thỉnh thoảng, hướng về phía bàn thờ chồng, nơi mà sau di ảnh là bài hát “Nỗi Lòng,” do chính nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh kẻ nhạc, viết lời, bà tâm sự: “Vậy đó! Con biết không, sau những năm tháng bỏ vợ, bỏ con đi biền biệt như thế, nhưng mỗi khi ông đau ốm hay bị chúng nó đuổi ra khỏi nhà, trở về với bà, bà vẫn lo cơm nước chu đáo cho ông. Mỗi khi ông ra ngoài cái miếu viết nhạc, hay làm gì đó, chớ bao giờ bà quên mang ra cho ông một chai rượu… Bà cũng không ngừng tay quạt cho ông đâu nhé! Dù cho bà chẳng biết, và cũng chẳng bao giờ hỏi ông viết gì?…”
Bà
cho tôi cảm tưởng, nội việc bà là: “Bà Nguyễn Văn Khánh,” chừng đó thôi, đã quá
đủ!.
(May
2007)
Ochid Lâm Quỳnh
Lời ca khúc
Chiều vàng của Nguyễn Văn Khánh
Ochid Lâm Quỳnh
Lời ca khúc
Chiều vàng của Nguyễn Văn Khánh
Trên đồi
xanh chiều đã xuống dần
Mặt trời lấp ló sau đồi chiều vàng
Riêng mình ta ngồi ngắm quanh trời
lạnh lùng nghe tiếng chim chiều gọi đàn
buồn xa vắng buồn lòng thầm nhớ tới người
Chiều xưa cũng trên đồi cùng ta
Người đã ước nguyền rằng đời riêng có ta
Lời đó còn đâu?
Đường về lòng người tha phuơng nhớ
Chiều dần dần mờ cô thôn vắng
Người yêu dấu ngàn đời thấu chăng
Ta nén đau thương gắng bước hoài
Thuyền chèo tới đâu chưa ngừng bến
Lời thề nguyền ngờ đâu xa vắng
Tình tràn đầy sầu chung non nước
Hồn em có cùng người chứng minh
Anh bước ra đi luyến tiếc hoài
Đời còn có em nay mà thôi
Sương chiều buông rơi mờ mờ rừng chiều dần dần tối
Núi mây bốn phương giang hồ ngơi chân
Thuyền lênh đênh trên sông Đà sóng, lướt lướt trên sông
Nhìn chiều vàng đồi thông thưa thớt
Lòng bùi ngùi buồn trông theo bóng
Giờ đây viếng thầm hồn cố nhân
Năm tháng trôi qua sóng gió đời
Chiều chiều nhớ em khôn lòng nguôi.
Mặt trời lấp ló sau đồi chiều vàng
Riêng mình ta ngồi ngắm quanh trời
lạnh lùng nghe tiếng chim chiều gọi đàn
buồn xa vắng buồn lòng thầm nhớ tới người
Chiều xưa cũng trên đồi cùng ta
Người đã ước nguyền rằng đời riêng có ta
Lời đó còn đâu?
Đường về lòng người tha phuơng nhớ
Chiều dần dần mờ cô thôn vắng
Người yêu dấu ngàn đời thấu chăng
Ta nén đau thương gắng bước hoài
Thuyền chèo tới đâu chưa ngừng bến
Lời thề nguyền ngờ đâu xa vắng
Tình tràn đầy sầu chung non nước
Hồn em có cùng người chứng minh
Anh bước ra đi luyến tiếc hoài
Đời còn có em nay mà thôi
Sương chiều buông rơi mờ mờ rừng chiều dần dần tối
Núi mây bốn phương giang hồ ngơi chân
Thuyền lênh đênh trên sông Đà sóng, lướt lướt trên sông
Nhìn chiều vàng đồi thông thưa thớt
Lòng bùi ngùi buồn trông theo bóng
Giờ đây viếng thầm hồn cố nhân
Năm tháng trôi qua sóng gió đời
Chiều chiều nhớ em khôn lòng nguôi.
Chiều vàng – Khánh Ly
Trần Can
Theo https://dotchuoinon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét