Ðiển tích trong Truyện Kiều 2
Điển Tích Truyện Kiều - Nàng OanhDâng thư đã thẹn nàng Oanh
Lại thua ả Lý bán mình hay sao?
Đời nhà Hán có Thuần Vu Ý làm quan đất tề ; nhà không có con trai, chỉ sinh được 5 con gái, Đề Oanh là gái út.
Thuần Vu Ý mắc tội lớn phải thọ hình. Khi bắt giải tử tội về kinh, Đề Oanh đi theo cha. Đến kinh thành, nàng dâng thư lên Hán Văn Đế tâu rằng, nếu cha chết đi, cũng không mảy may đền được chút tội; nay thân gái này khẩn thiết xin vua được cho vào cung làm cung nhân thô (người làm sạch sẽ cho vua sau mỗi lần vua đi vệ sinh), để chuộc tội một phần nào cho cha. Hán Văn Đế đọc thư của nàng Oanh, cảm động vì lòng hiếu hạnh của nàng nên tha tội cho Thuần Vu Ý.
Điển Tích Truyện Kiều - Phiếu Mẫu
Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
Mà lòng Phiếu Mẫu, mấy vàng cho cân
Bà Phiếu Mẫu, nhà nghèo khó, đã giúp Hàn Tín trong cơn đói cơm rách áo.
Thuở hàn vi, Hàn Tín nghèo rớt mồng tơi, ngày ngày câu cá, nhưng cũng không kiếm đủ miếng ăn. Tuy vậy, Hàn Tín lại rất ham mê đèn sách, nghiên n cứu binh thư; lại muốn ra oai như mình là con nhà võ, đi đâu cũng lè kè mang theo cây kiếm. Bà Phiếu Mẫu ở cạnh nhà, kiếm ăn bằng nghề giặt thuệ Tuy miếng cơm vẫn thiếu trước hụt sau, nhưng thấy Hàn Tín quá đói khát, bà thường dẫn chàng dở hơi này về nhà cho cơm. Hàn Tín cảm động thưa:
- Xin cảm on bà đã quá tử tế với tôi. Sau này công thanh danh toại tôi nguyện sẽ không quên ơn bà.
Phiếu Mẫu cười hiền hậu:
- Ta thấy ngươi đói khát, nên chia sẻ miếng cơm giọt nước với ngươi, chứ đâu cần ngươi sẽ trả ơn sau này. Đàn ông gì như ngươi, tự nuôi thân không nổi thì noí chi đến quyền cao chức trọng sau này.
Hàn Tín hỗ thẹn vì lời chê trách, nên không dám tìm qua nhà Phiếu Mẫu kiếm cơm nữa. Bà già vẫn thương người cùng khổ, ngày ngày đem cơm đặt trước căn lều của Hàn Tín. Người trong làng xóm biết chuyện, gọi đó là "Bát cơm Phiếu Mẫu".
Một hôm ở ngoài chọ có gã bán thịt to lớn, trông thấy Hàn Tín bước đi xiêu vẹo nhưng vẫn lòng thòng thanh kiếm bên lưng. Gã trêu tức:
- Này tên ma đói kia, nam nhi như mày mà không kiếm ăn được, hằng bữa phải nhờ đến bát cơm Phiếu Mẫu, không biết nhục à? Có giỏi thì rút kiếm ra đấu, ta tay không. Thắng được ta thưởng cho cái đầu heo. Bằng không dám đấu, thì luồn dưới trôn của ông nội mày đây.
Sắc mặt Hàn Tín đã xanh này càng xanh hơn. Tần ngần một lúc, Hàn Tín khúm núm lòn qua trôn gã hàng thịt. Cả chợ nhốn nháo chê cười Hàn sĩ. Nhưng có một tiều phu là Hứa Phụ, tình cờ qua đó, dừng lại trước Hàn Tín:
- Huynh là người có tướng vương hầu; tuy nay khốn khổ nhưng hậu vận lại vinh hoa phú quí.
Hàn Tín trở vềtúp lều, ngày đêm vẫn miệt mài dùi mài kinh sử. Lúc Hạng Lương nước Sở khởi binh đánh Tần, Hàn Tín đứng chống gươm bên bờ sông Tứ Thủy, tự tìm cơ hội tiến thân. Trông thấy Hàn Tín ngoại hình xanh xao vàng vọt, Hạng Lương "dội" ngay. Nhưng quân sư Phạm Tăng vội khuyên:
- Tuy nhìn bề ngoài yếu đuối, nhưng chân tướng là người thao lược, ngài chớ nên bỏ
Hạng Lương miễn cưỡng nhận lời, cho Hàn Tín làm chấp kích lang, tức là vác giáo theo hầu.
Trong thơi gian này, Lưu bang đang dựng nghiệp đế ở Hán Trung, nhờ Trương Lương, giả lam lái buôn, đi chu du thiên hạ để chiêu hiền. Khi đến đất Sở, gặp được Hàn Tín, Trương Lương nhận ra ngay đây là một chân tài nhưng Sở không biết dùng người. Trương Lương bèn làm quen, và trao cho Hàn Tín một thanh kiếm báu, đề thơ tặng:
Kiếm báu lập lòe tay dũng sĩ
Non sông một giải chí hiên ngang.
Máu hồng, men rượu say băng tuyết
Muông dặm sơn hà một tấc gang.
Hàn Tín đang còn ngỡ ngàng, thì Trương Lương đã tiếp:
- Tại hạ biết được huynh là đấng hào kiệt nên đem kiếm báu tặng chứ không bán. Nay có chút quà mọn, xin huynh chớ từ chốị Hãy cùng nhau nhấp chén rượu mừng buổi sơ kiến. Hẹn ngày hội ngô trên đất Hán.
Sau chầu rượu, Trương Lương thuyết phục Hàn Tín nên bỏ Sở, về phò Lưu Bang, là người nhân đức biết trọng lương thần, xứng danh thiên tử. Hàn Tín thuận tình, nên bỏ trốn khỏi Sở. Mấy ngày lạc trong rừng không tìm đường để lần đến Hán Trung, đói khát lả người. May thay, gặp được một lão tiều, cho ăn uống và hướng dẫn đường đi nước bước chu đáọ Hàn Tín sụp lạy cảm ơn cứu tử, rồi nhanh nhẹn lên đường. Nhưng vừa qua được một khúc quanh, Hàn Tín chợt nghĩ:
- Ta đang bị Sở Bá Vương truy nã. Nếu chẳng may quan quân Sở cũng lần ra dấu vết đến đây, hỏi lão tiều phu này, thì tính mạng ta khó thoát. Lão già suốt ngày lẫm lũi trong rừng sâu, rồi cực khổ cũng chết khô xương , còn ta, cả cơ đồ sáng lạng trước mắt. Thôi thì, ta đành làm người vong ơn bội nghĩa..
Hàn Tín quay trở lạị Kiếm vung lên, thân lão tiều phu đứt làm đôị Hàn Tín đem xác vùi bên sườn núi.
Khi đến Hán Trung, Hàn Tín được Tiêu Hà - cận thần của Hán Vương tiếp kiến, liền tiến cử với Hán Vương. Vừa nghe đến tên Hàn Tín, Hán Vương đã cười khẩy:
- Khi còn ở huyện Bái, ta đã nghe tiếng người này lòn trôn Đỗ Trung, xin cơm Phiếu Mẫu, làng nước ai cũng khinh bỉ. Con người như vậy thì làm sao mà làm được việc lớn?.
Tiêu Hà bào chữa:
- Xin Chúa công hãy suy xét, nhiều người bần tiện thuở thiếu thời nhưng sau vẫn dựng nên sự nghiệp, như Y Doãn là người sơn dã, Thái Công là kẻ đi câu ở sông Vị, Ninh Thích là gã buôn xe, Quản Trọng là kẻ tội đồ, đến lúc gặp thời đều làm nên đại sự. Hàn Tín tuy đã lòn trôn mưu sống, xin cơm cứu đói, giết ân nhân để trừ hậu hoạn..nhưng đó vẫn là người uyên bác, mưu lược; không dùng, tất hắn sẽ bỏ đi tìm nơi khác trọng dụng.
Nể lời tấu trình của cận thần, Hán Vương giữ Hàn Tín lại, cho làm thủ kho lương thực. Tiêu Hà không đồng ý vì cho rằng Hàn Tín là người trí dũng, đem dùng vào việc nhỏ không xứng với tài năng. Phần Hàn Tín cũng chán nản; nấn ná một hai hôm lại trốn đi, để lại ít câu thơ, thảo trên vách:
Anh hùng lỡ vận bước long đong
Thà chịu an thân khỏi thẹn lòng
Vó ngựa xa vời trông cố quận
Công danh chán ngắt mộng anh hùng.
Tiêu Hà hay tin Hàn Tín đã bỏ đi, dậm chân kêu trời, tiếc thay người tài không có đất dụng võ. Không nản lòng, Tiêu Hà đem theo ít quân hầu lần theo dấu tích Hàn Tín. Khi tìm gặp được, Tiê Hà cầm tay Hàn Tín ân cần:
- Cổ nhân có câu: Sĩ vị tri kỷ giả tử (kẻ sĩ có thể chết theo người tri kỷ). Tại hạ hiểu huyng là người tài, đã quyết tâm tiến cử, nhu8ng Chúc công vần chưa tin dùng. Nay nếu một lần tiến cử nữa, mà Chúa công vẫn không nhận, thì Tiêu Hà này cũng từ chức mà lui về vườn.
Hàn Tín cảm kích lòng thành của Tiêu Hà, nên lại lên ngựa quay trở về Hán Trung. Nghĩ đến số phận mình còn long đong, Hàn Tín đề thơ:
Mây gió phôi pha bóng nguyệt tà
Vận thời chưa gặp khó bôn ba
Nghèo hèn phận bạc đơì dang dở
Con tạo trêu ngươi mãi thế à!
Chợt, Hàn Tín nhớ mấy câu thơ của "anh lái buôn" Trương Lương đã đề tặng mình. Lúc đó, Trương Lương vẫn còn chu du chiêu hiền chưa về đến. Hàn Tín đưa thơ cho Tiêu Hà xem. Tiêu Hà mừng rỡ:
- Trời đất, thư giới thiệu của Tử Phòng, sao tướng công đã không trình cho Chúa công.
Khi xem thơ của Trương Lương, Hán Vương giật mình:
- Ôi chao, thì ra người của Trương Tử Phòng tiến cử. Ta thật không biết nhìn người.
Theo đề cử của Tiêu Hà, Hán vương phong Hàn Tín làm Đại Nguyên Soáị Hàn Tín đã đem tài năng mình phò Lưu Bang, tóm thâu thiên hạ, dựng nên nhà Hán.
Trong khi danh vọng ngất trời, Hàn Tín vẫn hãnh diện vì cái quá khứ bát cơm Phiếu Mẫu của mình và cũng từ đó, lưu truyền trong dân gian điển tích này.
Chỉ tiếc khi tài - danh lên tột đỉnh, Hàn Tín vẫn không hượm chân, nên đã chết thảm dưới tay Lữ Hậu.
Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
Mà lòng Phiếu Mẫu, mấy vàng cho cân
Bà Phiếu Mẫu, nhà nghèo khó, đã giúp Hàn Tín trong cơn đói cơm rách áo.
Thuở hàn vi, Hàn Tín nghèo rớt mồng tơi, ngày ngày câu cá, nhưng cũng không kiếm đủ miếng ăn. Tuy vậy, Hàn Tín lại rất ham mê đèn sách, nghiên n cứu binh thư; lại muốn ra oai như mình là con nhà võ, đi đâu cũng lè kè mang theo cây kiếm. Bà Phiếu Mẫu ở cạnh nhà, kiếm ăn bằng nghề giặt thuệ Tuy miếng cơm vẫn thiếu trước hụt sau, nhưng thấy Hàn Tín quá đói khát, bà thường dẫn chàng dở hơi này về nhà cho cơm. Hàn Tín cảm động thưa:
- Xin cảm on bà đã quá tử tế với tôi. Sau này công thanh danh toại tôi nguyện sẽ không quên ơn bà.
Phiếu Mẫu cười hiền hậu:
- Ta thấy ngươi đói khát, nên chia sẻ miếng cơm giọt nước với ngươi, chứ đâu cần ngươi sẽ trả ơn sau này. Đàn ông gì như ngươi, tự nuôi thân không nổi thì noí chi đến quyền cao chức trọng sau này.
Hàn Tín hỗ thẹn vì lời chê trách, nên không dám tìm qua nhà Phiếu Mẫu kiếm cơm nữa. Bà già vẫn thương người cùng khổ, ngày ngày đem cơm đặt trước căn lều của Hàn Tín. Người trong làng xóm biết chuyện, gọi đó là "Bát cơm Phiếu Mẫu".
Một hôm ở ngoài chọ có gã bán thịt to lớn, trông thấy Hàn Tín bước đi xiêu vẹo nhưng vẫn lòng thòng thanh kiếm bên lưng. Gã trêu tức:
- Này tên ma đói kia, nam nhi như mày mà không kiếm ăn được, hằng bữa phải nhờ đến bát cơm Phiếu Mẫu, không biết nhục à? Có giỏi thì rút kiếm ra đấu, ta tay không. Thắng được ta thưởng cho cái đầu heo. Bằng không dám đấu, thì luồn dưới trôn của ông nội mày đây.
Sắc mặt Hàn Tín đã xanh này càng xanh hơn. Tần ngần một lúc, Hàn Tín khúm núm lòn qua trôn gã hàng thịt. Cả chợ nhốn nháo chê cười Hàn sĩ. Nhưng có một tiều phu là Hứa Phụ, tình cờ qua đó, dừng lại trước Hàn Tín:
- Huynh là người có tướng vương hầu; tuy nay khốn khổ nhưng hậu vận lại vinh hoa phú quí.
Hàn Tín trở vềtúp lều, ngày đêm vẫn miệt mài dùi mài kinh sử. Lúc Hạng Lương nước Sở khởi binh đánh Tần, Hàn Tín đứng chống gươm bên bờ sông Tứ Thủy, tự tìm cơ hội tiến thân. Trông thấy Hàn Tín ngoại hình xanh xao vàng vọt, Hạng Lương "dội" ngay. Nhưng quân sư Phạm Tăng vội khuyên:
- Tuy nhìn bề ngoài yếu đuối, nhưng chân tướng là người thao lược, ngài chớ nên bỏ
Hạng Lương miễn cưỡng nhận lời, cho Hàn Tín làm chấp kích lang, tức là vác giáo theo hầu.
Trong thơi gian này, Lưu bang đang dựng nghiệp đế ở Hán Trung, nhờ Trương Lương, giả lam lái buôn, đi chu du thiên hạ để chiêu hiền. Khi đến đất Sở, gặp được Hàn Tín, Trương Lương nhận ra ngay đây là một chân tài nhưng Sở không biết dùng người. Trương Lương bèn làm quen, và trao cho Hàn Tín một thanh kiếm báu, đề thơ tặng:
Kiếm báu lập lòe tay dũng sĩ
Non sông một giải chí hiên ngang.
Máu hồng, men rượu say băng tuyết
Muông dặm sơn hà một tấc gang.
Hàn Tín đang còn ngỡ ngàng, thì Trương Lương đã tiếp:
- Tại hạ biết được huynh là đấng hào kiệt nên đem kiếm báu tặng chứ không bán. Nay có chút quà mọn, xin huynh chớ từ chốị Hãy cùng nhau nhấp chén rượu mừng buổi sơ kiến. Hẹn ngày hội ngô trên đất Hán.
Sau chầu rượu, Trương Lương thuyết phục Hàn Tín nên bỏ Sở, về phò Lưu Bang, là người nhân đức biết trọng lương thần, xứng danh thiên tử. Hàn Tín thuận tình, nên bỏ trốn khỏi Sở. Mấy ngày lạc trong rừng không tìm đường để lần đến Hán Trung, đói khát lả người. May thay, gặp được một lão tiều, cho ăn uống và hướng dẫn đường đi nước bước chu đáọ Hàn Tín sụp lạy cảm ơn cứu tử, rồi nhanh nhẹn lên đường. Nhưng vừa qua được một khúc quanh, Hàn Tín chợt nghĩ:
- Ta đang bị Sở Bá Vương truy nã. Nếu chẳng may quan quân Sở cũng lần ra dấu vết đến đây, hỏi lão tiều phu này, thì tính mạng ta khó thoát. Lão già suốt ngày lẫm lũi trong rừng sâu, rồi cực khổ cũng chết khô xương , còn ta, cả cơ đồ sáng lạng trước mắt. Thôi thì, ta đành làm người vong ơn bội nghĩa..
Hàn Tín quay trở lạị Kiếm vung lên, thân lão tiều phu đứt làm đôị Hàn Tín đem xác vùi bên sườn núi.
Khi đến Hán Trung, Hàn Tín được Tiêu Hà - cận thần của Hán Vương tiếp kiến, liền tiến cử với Hán Vương. Vừa nghe đến tên Hàn Tín, Hán Vương đã cười khẩy:
- Khi còn ở huyện Bái, ta đã nghe tiếng người này lòn trôn Đỗ Trung, xin cơm Phiếu Mẫu, làng nước ai cũng khinh bỉ. Con người như vậy thì làm sao mà làm được việc lớn?.
Tiêu Hà bào chữa:
- Xin Chúa công hãy suy xét, nhiều người bần tiện thuở thiếu thời nhưng sau vẫn dựng nên sự nghiệp, như Y Doãn là người sơn dã, Thái Công là kẻ đi câu ở sông Vị, Ninh Thích là gã buôn xe, Quản Trọng là kẻ tội đồ, đến lúc gặp thời đều làm nên đại sự. Hàn Tín tuy đã lòn trôn mưu sống, xin cơm cứu đói, giết ân nhân để trừ hậu hoạn..nhưng đó vẫn là người uyên bác, mưu lược; không dùng, tất hắn sẽ bỏ đi tìm nơi khác trọng dụng.
Nể lời tấu trình của cận thần, Hán Vương giữ Hàn Tín lại, cho làm thủ kho lương thực. Tiêu Hà không đồng ý vì cho rằng Hàn Tín là người trí dũng, đem dùng vào việc nhỏ không xứng với tài năng. Phần Hàn Tín cũng chán nản; nấn ná một hai hôm lại trốn đi, để lại ít câu thơ, thảo trên vách:
Anh hùng lỡ vận bước long đong
Thà chịu an thân khỏi thẹn lòng
Vó ngựa xa vời trông cố quận
Công danh chán ngắt mộng anh hùng.
Tiêu Hà hay tin Hàn Tín đã bỏ đi, dậm chân kêu trời, tiếc thay người tài không có đất dụng võ. Không nản lòng, Tiêu Hà đem theo ít quân hầu lần theo dấu tích Hàn Tín. Khi tìm gặp được, Tiê Hà cầm tay Hàn Tín ân cần:
- Cổ nhân có câu: Sĩ vị tri kỷ giả tử (kẻ sĩ có thể chết theo người tri kỷ). Tại hạ hiểu huyng là người tài, đã quyết tâm tiến cử, nhu8ng Chúc công vần chưa tin dùng. Nay nếu một lần tiến cử nữa, mà Chúa công vẫn không nhận, thì Tiêu Hà này cũng từ chức mà lui về vườn.
Hàn Tín cảm kích lòng thành của Tiêu Hà, nên lại lên ngựa quay trở về Hán Trung. Nghĩ đến số phận mình còn long đong, Hàn Tín đề thơ:
Mây gió phôi pha bóng nguyệt tà
Vận thời chưa gặp khó bôn ba
Nghèo hèn phận bạc đơì dang dở
Con tạo trêu ngươi mãi thế à!
Chợt, Hàn Tín nhớ mấy câu thơ của "anh lái buôn" Trương Lương đã đề tặng mình. Lúc đó, Trương Lương vẫn còn chu du chiêu hiền chưa về đến. Hàn Tín đưa thơ cho Tiêu Hà xem. Tiêu Hà mừng rỡ:
- Trời đất, thư giới thiệu của Tử Phòng, sao tướng công đã không trình cho Chúa công.
Khi xem thơ của Trương Lương, Hán Vương giật mình:
- Ôi chao, thì ra người của Trương Tử Phòng tiến cử. Ta thật không biết nhìn người.
Theo đề cử của Tiêu Hà, Hán vương phong Hàn Tín làm Đại Nguyên Soáị Hàn Tín đã đem tài năng mình phò Lưu Bang, tóm thâu thiên hạ, dựng nên nhà Hán.
Trong khi danh vọng ngất trời, Hàn Tín vẫn hãnh diện vì cái quá khứ bát cơm Phiếu Mẫu của mình và cũng từ đó, lưu truyền trong dân gian điển tích này.
Chỉ tiếc khi tài - danh lên tột đỉnh, Hàn Tín vẫn không hượm chân, nên đã chết thảm dưới tay Lữ Hậu.
Ðiển Tích Truyện Kiều - Quạt Nồng Ấp Lạnh
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Tích quạt nồng ấp lạnh có trong sách "Nhị thập tứ hiếu" của Quách Cự Nghiệp đời Hậu Hán có đứa trẻ là họ Hương. Mẹ mất quá sớm Hương ở vơi cha; cậu bé thờ cha một mực hiếu đễ.
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Tích quạt nồng ấp lạnh có trong sách "Nhị thập tứ hiếu" của Quách Cự Nghiệp đời Hậu Hán có đứa trẻ là họ Hương. Mẹ mất quá sớm Hương ở vơi cha; cậu bé thờ cha một mực hiếu đễ.
Điển Tích Truyện Kiều - Sâm Thương
Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non
Lâm Truy người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân
Sâm Thương, tên gọi trong dân gian là sao Hôm, sao Mai, là hai vì sao chẳng bao giờ trông thấy nhau, một đằng Đông buổi tối, một phía Tây ban sáng.. Truyện Thần tiên kể rằng:
Hàng năm, tại Thiên đình có hội Bàn Đào, tiên ông tiên nữ tề tựu dâng lễ vật, hái đào tiên chúc tụng Ngọc Hoàng. Tiên đồng Bảo Sâm theo hầu một tiên ông, ngọc nữ Thanh Thương theo hầu một tiên cô. Hai trẻ tình cờ, gặp gỡ, quen biết nhau rồi sinh tình. Trước ngày mở hội, đôi trẻ có chút thời gian bên nhau tình tự.
Một nhân vật thứ ba, tiểu đồng Trường Quang, cũng tình cờ gặp gỡ Thanh Thương, nhưng tình chỉ sinh một hướng, Thanh Thương đã yêu đậm Bảo Sâm mất rồi. Bị tình lờ, Trường Quang sầu thảm.
Đến ngày Bàn Đào khai hội, đàn ca xướng hát rộn ràng. Các tiểu đồng, ngọc nữ nhịp nhàng như vũ điệu, tay bưng khay, tay nâng chén ngọc hầu rượu các tiên ông tiên bà.
Thanh Thương, là ngọc nữ hát hay múa đẹp nhất, nên được chọn dâng chén cho Ngọc Hoàng. Nhưng tâm hồn nàng để lạc đâu đâu, đôi mắt cứ dõi tìm Bảo Sâm, nên sẩy tay đánh rơi cả khay ngà chén ngọc. Thanh âm ngọc vỡ tan hoang. Từ bàn dưới nhìn lên, Bảo Sâm thấy tai hoạ đang giáng xuống cho người yêu cũng sửng hồn, khay chén trên tay cũng đánh xoảng rơi xuống đất. Đàn ca xướng hát thanh thoát, bỗng nín bặt.,
Ngọc Hoàng xử tội ngay đôi trẻ:
- Đôi tiên đồng, ngọc nữ còn non tuổi mà lại dám bày trò yêu đương nơi cõi, tội đáng đày xuống trần gian cho làm một kiếp thú, sống trong núi thẳm rừng sâu, kiếp sau mới được đầu thai làm người ở luôn dưới cõi trần...
Trường Quang không phạm lỗi chi cũng run lập cập khi Ngọc Hoàng đang xử tội người yêụ. một chiều; khi vưa nghe lơì kết tội đày xuống trần gian làm thú, không nén được đau thương, Trường Quang đã thét lớn: "Thanh Thương ơi, Thanh Thương ơi, ta nguyện theo nàng xuống trần gian. Ngọc Hoàng thêm giận, ừ thì muốn theo thì ta cho thỏa ước mơ, truyền cho đày tiểu đồng tình dại này đi chung một chuyến.
Các tiên ông tiên bà, thương cho ba trẻ tình si, chỉ vì thương yêu mà chuốc họạ Họ đồng thanh xin Ngọc Hoàng nương tay, chớ đày xuống trần gian, mà hãy cho ở lưu lạc đâu đó trên trời.
Lời câu xin của các tiên, Ngọc Hoàng nguôi ngoai cơn giận, phán lại lần cuối cho chúng làm hai ngôi sao, tuy ở chung cùng trời, nhưng không bao giờ được gặp nhau.
Nàng Thanh Thương làm sao Thương, là sao hôm, chỉ mọc lên ở hướng đông lúc về đêm; Bảo Sâm trở thành sao Sâm, là sao mai, mọc ở phía tây lúc trời hửng sáng.
Còn Trường Quang, sẽ được như ý, suốt đời tìm kiếm tình yêu, thì biến thành sao "vượt", bay đi xẹt lại trọn kiêp mà kiếm tìm.
Ca dao Việt Nam ta có câu:
Sao hôm chờ đợi sao mai
Trách lòng sao vượt nhớ ai băng chừng.
Sao vượt (sao băng) muôn đời vẫn mang theo điều mơ ước.
Ngày nay, có ai mong mỏi điều gì, hãy ngước nhìn lên trời đón ánh sao băng, điều ước mơ sẽ được toại nguyện. Nhưng còn sao Sâm, sao Thương, theo phán xử của Ngọc Hoàng phải ngàn nghìn trùng xa cách, đông tây, đêm ngày đuổi bắt nhau mà không gặp được.
Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non
Lâm Truy người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân
Sâm Thương, tên gọi trong dân gian là sao Hôm, sao Mai, là hai vì sao chẳng bao giờ trông thấy nhau, một đằng Đông buổi tối, một phía Tây ban sáng.. Truyện Thần tiên kể rằng:
Hàng năm, tại Thiên đình có hội Bàn Đào, tiên ông tiên nữ tề tựu dâng lễ vật, hái đào tiên chúc tụng Ngọc Hoàng. Tiên đồng Bảo Sâm theo hầu một tiên ông, ngọc nữ Thanh Thương theo hầu một tiên cô. Hai trẻ tình cờ, gặp gỡ, quen biết nhau rồi sinh tình. Trước ngày mở hội, đôi trẻ có chút thời gian bên nhau tình tự.
Một nhân vật thứ ba, tiểu đồng Trường Quang, cũng tình cờ gặp gỡ Thanh Thương, nhưng tình chỉ sinh một hướng, Thanh Thương đã yêu đậm Bảo Sâm mất rồi. Bị tình lờ, Trường Quang sầu thảm.
Đến ngày Bàn Đào khai hội, đàn ca xướng hát rộn ràng. Các tiểu đồng, ngọc nữ nhịp nhàng như vũ điệu, tay bưng khay, tay nâng chén ngọc hầu rượu các tiên ông tiên bà.
Thanh Thương, là ngọc nữ hát hay múa đẹp nhất, nên được chọn dâng chén cho Ngọc Hoàng. Nhưng tâm hồn nàng để lạc đâu đâu, đôi mắt cứ dõi tìm Bảo Sâm, nên sẩy tay đánh rơi cả khay ngà chén ngọc. Thanh âm ngọc vỡ tan hoang. Từ bàn dưới nhìn lên, Bảo Sâm thấy tai hoạ đang giáng xuống cho người yêu cũng sửng hồn, khay chén trên tay cũng đánh xoảng rơi xuống đất. Đàn ca xướng hát thanh thoát, bỗng nín bặt.,
Ngọc Hoàng xử tội ngay đôi trẻ:
- Đôi tiên đồng, ngọc nữ còn non tuổi mà lại dám bày trò yêu đương nơi cõi, tội đáng đày xuống trần gian cho làm một kiếp thú, sống trong núi thẳm rừng sâu, kiếp sau mới được đầu thai làm người ở luôn dưới cõi trần...
Trường Quang không phạm lỗi chi cũng run lập cập khi Ngọc Hoàng đang xử tội người yêụ. một chiều; khi vưa nghe lơì kết tội đày xuống trần gian làm thú, không nén được đau thương, Trường Quang đã thét lớn: "Thanh Thương ơi, Thanh Thương ơi, ta nguyện theo nàng xuống trần gian. Ngọc Hoàng thêm giận, ừ thì muốn theo thì ta cho thỏa ước mơ, truyền cho đày tiểu đồng tình dại này đi chung một chuyến.
Các tiên ông tiên bà, thương cho ba trẻ tình si, chỉ vì thương yêu mà chuốc họạ Họ đồng thanh xin Ngọc Hoàng nương tay, chớ đày xuống trần gian, mà hãy cho ở lưu lạc đâu đó trên trời.
Lời câu xin của các tiên, Ngọc Hoàng nguôi ngoai cơn giận, phán lại lần cuối cho chúng làm hai ngôi sao, tuy ở chung cùng trời, nhưng không bao giờ được gặp nhau.
Nàng Thanh Thương làm sao Thương, là sao hôm, chỉ mọc lên ở hướng đông lúc về đêm; Bảo Sâm trở thành sao Sâm, là sao mai, mọc ở phía tây lúc trời hửng sáng.
Còn Trường Quang, sẽ được như ý, suốt đời tìm kiếm tình yêu, thì biến thành sao "vượt", bay đi xẹt lại trọn kiêp mà kiếm tìm.
Ca dao Việt Nam ta có câu:
Sao hôm chờ đợi sao mai
Trách lòng sao vượt nhớ ai băng chừng.
Sao vượt (sao băng) muôn đời vẫn mang theo điều mơ ước.
Ngày nay, có ai mong mỏi điều gì, hãy ngước nhìn lên trời đón ánh sao băng, điều ước mơ sẽ được toại nguyện. Nhưng còn sao Sâm, sao Thương, theo phán xử của Ngọc Hoàng phải ngàn nghìn trùng xa cách, đông tây, đêm ngày đuổi bắt nhau mà không gặp được.
Điển Tích Truyện Kiều - Sân Hòe
Sân hòe đôi chút thơ ngây
Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình
Sân hòe đôi chút thơ ngây. Cây hòe, loại cây gỗ quí, được trồng trước mặt các vị Tam công (Thái Sư, Thái Phó và Thái Bảo) đứng chầu, trong sân Ngoại triều của vuạ Tam triều của vua: Yến triều, Nội triều và Ngoại triều.
Đời nhà Tống, có Vương Hựu, tự tay trồng ba cây Hòe trong sân nhà và nói rằng:
- Con cháu ta sau này sẽ có đứa làm đến chức Tam công.
Quả đúng về sau, con của Vương Hựu là Vương Đán làm đến Tam Công
Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình. Trân cam là vị ngon vị ngọt, ý nói sớm tối chiều hôm trông nom thức ăn hầu cha mẹ.
Sân hòe đôi chút thơ ngây
Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình
Sân hòe đôi chút thơ ngây. Cây hòe, loại cây gỗ quí, được trồng trước mặt các vị Tam công (Thái Sư, Thái Phó và Thái Bảo) đứng chầu, trong sân Ngoại triều của vuạ Tam triều của vua: Yến triều, Nội triều và Ngoại triều.
Đời nhà Tống, có Vương Hựu, tự tay trồng ba cây Hòe trong sân nhà và nói rằng:
- Con cháu ta sau này sẽ có đứa làm đến chức Tam công.
Quả đúng về sau, con của Vương Hựu là Vương Đán làm đến Tam Công
Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình. Trân cam là vị ngon vị ngọt, ý nói sớm tối chiều hôm trông nom thức ăn hầu cha mẹ.
Điển Tích Truyện Kiều - Sân Lai
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Tích Sân Lai cũng có trong "Nhị thập tứ hiếu".
Lai Tử người nước Sở thời Đông Châu liệt quốc, bảy mươi tuổi vẫn con cha mẹ già.
Để làm trò cho cha mẹ vui, ông thường mặc áo ngũ sắc sặc sỡ, giả làm trẻ nhỏ, múa may đùa giỡn. Có khi làm bộ vấp bực thềm, té lăn ra đất rồi nhại tiếng khóc con nít cho cha mẹ cười.
Có khi nhìn đứa trẻ thơ 70 tuổi, cha mẹ tuổi đã tròn thế kỷ bỗng quay về thuở trung niên.
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Tích Sân Lai cũng có trong "Nhị thập tứ hiếu".
Lai Tử người nước Sở thời Đông Châu liệt quốc, bảy mươi tuổi vẫn con cha mẹ già.
Để làm trò cho cha mẹ vui, ông thường mặc áo ngũ sắc sặc sỡ, giả làm trẻ nhỏ, múa may đùa giỡn. Có khi làm bộ vấp bực thềm, té lăn ra đất rồi nhại tiếng khóc con nít cho cha mẹ cười.
Có khi nhìn đứa trẻ thơ 70 tuổi, cha mẹ tuổi đã tròn thế kỷ bỗng quay về thuở trung niên.
Điển Tích Truyện Kiều - Tất Giao
Một lời gắn bó tất giao
Mái sau dường có xôn xao tiếng người.
Tất giao nghĩa là sơn và keo, dính chặt vào nhaụ
Theo truyện Truyền kỳ Trung Quốc, xưa có hai người bạn học tên là Lôi Nghĩa và Trần Trọng chơi thân với nhau. Cả hai cùng ứng thí. Lôi Nghĩa thi đậu, nhưng Trần Trọng lại trượt.
Lôi Nghĩa thương bạn còn gia cảnh ngặt nghèo, muốn nhường tên bảng vàng cho Trần Trọng, nhưng không được quan trường chấp thuận. Lôi Nghĩa bèn giả điên để khỏi bị bổ làm quan.
Đến khoa thi sau, cả hai lại cùng đi thi và đều đỗ. Bấy giờ cả hai mới nhận áo mão triều đình cùng ra làm quan.
Người đời đã có câu ca ngợi tình bạn Lôi Nghĩa và Trần Trọng:
Tất giao vi kiên, bất như Lôi dữ Trần
Keo sơn bảo là bền, chẳng bằng Lôi với Trần
Một lời gắn bó tất giao
Mái sau dường có xôn xao tiếng người.
Tất giao nghĩa là sơn và keo, dính chặt vào nhaụ
Theo truyện Truyền kỳ Trung Quốc, xưa có hai người bạn học tên là Lôi Nghĩa và Trần Trọng chơi thân với nhau. Cả hai cùng ứng thí. Lôi Nghĩa thi đậu, nhưng Trần Trọng lại trượt.
Lôi Nghĩa thương bạn còn gia cảnh ngặt nghèo, muốn nhường tên bảng vàng cho Trần Trọng, nhưng không được quan trường chấp thuận. Lôi Nghĩa bèn giả điên để khỏi bị bổ làm quan.
Đến khoa thi sau, cả hai lại cùng đi thi và đều đỗ. Bấy giờ cả hai mới nhận áo mão triều đình cùng ra làm quan.
Người đời đã có câu ca ngợi tình bạn Lôi Nghĩa và Trần Trọng:
Tất giao vi kiên, bất như Lôi dữ Trần
Keo sơn bảo là bền, chẳng bằng Lôi với Trần
Điển Tích Truyện Kiều - Thang Mây
Thang mây dón bước ngọn tường,
Phải người hâm mộ rõ ràng, chăng nhe
Thang bằng mây dùng để leo thành cao.
Theo điển tích thời Chiến Quốc, lúc Sở Kinh Vương chuẩn bị đánh Tống, bèn cho lệnh Công Thâu Ban, người thợ mộc giỏi nhất nước, chế tạo loại thang mây để công hãm thành trì nước Tống.
Mặc Tử biết sắp có chuyện đao binh, vội đến ngăn vua Sở:
- Nước Sở lớn, nước Tống nhỏ. Nay Chúa công lấy lớn hiếp nhỏ thì phỏng hay ho gì?.
Sở Kinh Vương chưa kịp trả lời thì Mặc Tử đã tiếp:
- Nước Sở giàu, nước Tống nghèo. Chúa công đánh nước Tống thì được lợi lộc gì.
Vua Sở hăm hở:
- Nhưng ta đã chế tạo được thang mây thì phải đi công phá thành chứ.
Mặc Tử cười khẩy:
- Có thang mây đâu phải là chiếm được nước Tống.
Vua Sở bực tức:
- Công Thâu Ban là thợ giỏi nhất thiên hạ, chiến cụ của ông ta chế tạo ra há không công phá được thành nước Tống ư?
Mặc Tử đáp:
- Vậy hãy thử để tôi thủ thành, cho quân dùng thang mây của Công Thâu Ban tấn công, thử xem có thể phá thành được không?
Vua Sở đồng ý cho thử trận.
Đúng như lời Mặc Tử, quân lính đã dùng thang mây, khí cụ mới sáng chế, nhưng không sao công phá được thành.
Sở Kinh Vương cả giận, nói vo('i Mặc Tử:
- Dù vậy, ta đây vẫn có cách để thắng được.
Mặc Tử hiểu ý vua Sở, trả lời:
- Cách của nhà vua là giết chết tôi chứ gì? Nhưng cũng chẳng có lợi gì đâu. Tôi chết đi còn có đám học trò, chúng đã học được cách thủ thành của tôi và làm vô hiệu hoá cái thang mây sáng chế của nhà vua rồi.
Sở Kinh Vương đành phải nghe theo lời của Mặc Tử, bỏ ý định đánh Tống.
Thang mây dón bước ngọn tường,
Phải người hâm mộ rõ ràng, chăng nhe
Thang bằng mây dùng để leo thành cao.
Theo điển tích thời Chiến Quốc, lúc Sở Kinh Vương chuẩn bị đánh Tống, bèn cho lệnh Công Thâu Ban, người thợ mộc giỏi nhất nước, chế tạo loại thang mây để công hãm thành trì nước Tống.
Mặc Tử biết sắp có chuyện đao binh, vội đến ngăn vua Sở:
- Nước Sở lớn, nước Tống nhỏ. Nay Chúa công lấy lớn hiếp nhỏ thì phỏng hay ho gì?.
Sở Kinh Vương chưa kịp trả lời thì Mặc Tử đã tiếp:
- Nước Sở giàu, nước Tống nghèo. Chúa công đánh nước Tống thì được lợi lộc gì.
Vua Sở hăm hở:
- Nhưng ta đã chế tạo được thang mây thì phải đi công phá thành chứ.
Mặc Tử cười khẩy:
- Có thang mây đâu phải là chiếm được nước Tống.
Vua Sở bực tức:
- Công Thâu Ban là thợ giỏi nhất thiên hạ, chiến cụ của ông ta chế tạo ra há không công phá được thành nước Tống ư?
Mặc Tử đáp:
- Vậy hãy thử để tôi thủ thành, cho quân dùng thang mây của Công Thâu Ban tấn công, thử xem có thể phá thành được không?
Vua Sở đồng ý cho thử trận.
Đúng như lời Mặc Tử, quân lính đã dùng thang mây, khí cụ mới sáng chế, nhưng không sao công phá được thành.
Sở Kinh Vương cả giận, nói vo('i Mặc Tử:
- Dù vậy, ta đây vẫn có cách để thắng được.
Mặc Tử hiểu ý vua Sở, trả lời:
- Cách của nhà vua là giết chết tôi chứ gì? Nhưng cũng chẳng có lợi gì đâu. Tôi chết đi còn có đám học trò, chúng đã học được cách thủ thành của tôi và làm vô hiệu hoá cái thang mây sáng chế của nhà vua rồi.
Sở Kinh Vương đành phải nghe theo lời của Mặc Tử, bỏ ý định đánh Tống.
Điển Tích Truyện Kiều - Thôi, Trương
Gẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương
Thôi, Trương tên của Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy. Theo chuyện "Hội Chân ký" đời Đường, Trương Quân Thụy gặp Thôi Oanh Oanh ở chùa Phổ Cứu đang lúc nàng thọ tang cho cha. Vậy mà tình yêu cũng nẩy lộc, đêm đêm hai người hẹn nhau ra mái phía Tây của chùa mà tình tự.
Tình yêu đã thắm đậm, nhưng sau đó hôn nhân không thành, chàng lấy vợ và nàng cũng đi lấy chồng...
"Hội Chân ký" kết thúc khi mối tình tan vỡ.
Đến đời Nguyên, nhà văn Vương Thực Phủ đã phóng tác, viết thành tuồng Tây Sương ký. Theo đánh giá của Kim Thánh Thán, nhà phê bình văn học lừng danh cuối đời Minh, đầu đời Thanh, thì Tây Sương ký là một trong " Lục tài tử thư " của Trung Quốc, gồm có:
1. Nam Hoa kinh của Trang Tử
2. Sử ký của Tư Mã Thiên.
3. Thơ Đỗ Phủ đời Đường
4. Ly Tao của Khuất Nguyên
5. Thủy Hử của Thi Nại Am
6. Tây Sương ký của Vương Thực Phủ.
Tóm tắt tuồng "Tây Sương ký":
Góa phụ Thôi tướng quốc cùng ái nữ là Thôi Oanh Oanh xin trú ngụ mái Tây chùa Phổ Cứu để cư tang cho Thôi Tướng quốc.
Trên đường về kinh đô thi Hội, thư sinh Trương Quân Thụy ghé lại tham quan cảnh chùa và gặp gỡ Thôi Oanh Oanh. Diện kiến nhan sắc tuyệt trần , chàng Trương bèn xin trọ lại chùa để có dịp tỏ tình với giai nhân.
Gặp lúc có giặc Tôn Phi Hổ vây chùa và bắt nàng Thôi Oanh Oanh đem đi. Mẹ nàng không biết cầu cứu ai, chỉ biết hứa là ai cứu nguy được cho gia đình thì gả con gái. Trương Quân Thụy cấp tốc gởi thư cho một người bạn học cũ là tướng quân Đỗ Quân Thực đem binh đuổi giặc, cứu nạn cho gia đình Thôi Oanh Oanh.
Nhưng sau khi tai qua nạn khỏi, bà mẹ Oanh Oanh thất hứa, không cho đôi trẻ kết hôn mà chỉ cho kết nghĩa anh em. Trương Quân Thụy phẫn uất, buồn bã rồi sinh trọng bệnh. Thị nữ của Thôi Oanh Oanh là Hồng Nương hay tin, về báo cho cô chủ. Thôi Oanh Oanh đang đêm, cùng Hồng Nương tìm đến thăm chàng. Thị nữ đứng trông chừng bên ngoài, trong thư phòng đôi lứa đã ..gẫm duyên kỳ ngộ, đẹp tày Thôi Trương.
Chuyện "tiết trăm năm, nỡ bỏ đi một ngày" của nàng Thôi bị đổ bể. Mẹ nàng đành phải chấp thuận cho đôi trẻ se duyên, nhưng buộc Trương Quân Thụy phải lên đường về kinh ngay cho kịp kỳ thi Hội, khi bảng vàng có tên rồi hãy quay về làm lễ thành hôn. Trên đường tiến kinh, chàng Trương ghé lại một quán trọ qua đêm. Trong giấc ngủ, chàng mơ thấy Thôi Oanh Oanh...
Theo Hội Chân ký, thì khi giấc mơ qua rồi cũng là lúc cuộc tình ra đi. Nửa đường đứt gánh, chàng theo đường chàng lấy vợ, nàng theo đường nàng lấy chồng.
Nhưng trong tuồng Tây Sương ký thì tình duyên hai người không đứt đoạn, Trương Quân Thụy thi đỗ Thám Hoa, vinh qui trở về cưới nàng Thôi Oanh Oanh. Kim Thánh Thán đã đặt nghi vấn, cho rằng 4 hồi sau của Tây Sương ký không phải do Vương Thực Phủ viết, mà có thể do Quan Hán Khanh, một nhà văn cùng thời với Vương Thực Phủ. Bản dịch của Nhượng Tống cùng chỉ dịch 16 hồi, đến lúc tan vỡ mối tình Thôi Trương thì kết thúc.
Gẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương
Thôi, Trương tên của Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy. Theo chuyện "Hội Chân ký" đời Đường, Trương Quân Thụy gặp Thôi Oanh Oanh ở chùa Phổ Cứu đang lúc nàng thọ tang cho cha. Vậy mà tình yêu cũng nẩy lộc, đêm đêm hai người hẹn nhau ra mái phía Tây của chùa mà tình tự.
Tình yêu đã thắm đậm, nhưng sau đó hôn nhân không thành, chàng lấy vợ và nàng cũng đi lấy chồng...
"Hội Chân ký" kết thúc khi mối tình tan vỡ.
Đến đời Nguyên, nhà văn Vương Thực Phủ đã phóng tác, viết thành tuồng Tây Sương ký. Theo đánh giá của Kim Thánh Thán, nhà phê bình văn học lừng danh cuối đời Minh, đầu đời Thanh, thì Tây Sương ký là một trong " Lục tài tử thư " của Trung Quốc, gồm có:
1. Nam Hoa kinh của Trang Tử
2. Sử ký của Tư Mã Thiên.
3. Thơ Đỗ Phủ đời Đường
4. Ly Tao của Khuất Nguyên
5. Thủy Hử của Thi Nại Am
6. Tây Sương ký của Vương Thực Phủ.
Tóm tắt tuồng "Tây Sương ký":
Góa phụ Thôi tướng quốc cùng ái nữ là Thôi Oanh Oanh xin trú ngụ mái Tây chùa Phổ Cứu để cư tang cho Thôi Tướng quốc.
Trên đường về kinh đô thi Hội, thư sinh Trương Quân Thụy ghé lại tham quan cảnh chùa và gặp gỡ Thôi Oanh Oanh. Diện kiến nhan sắc tuyệt trần , chàng Trương bèn xin trọ lại chùa để có dịp tỏ tình với giai nhân.
Gặp lúc có giặc Tôn Phi Hổ vây chùa và bắt nàng Thôi Oanh Oanh đem đi. Mẹ nàng không biết cầu cứu ai, chỉ biết hứa là ai cứu nguy được cho gia đình thì gả con gái. Trương Quân Thụy cấp tốc gởi thư cho một người bạn học cũ là tướng quân Đỗ Quân Thực đem binh đuổi giặc, cứu nạn cho gia đình Thôi Oanh Oanh.
Nhưng sau khi tai qua nạn khỏi, bà mẹ Oanh Oanh thất hứa, không cho đôi trẻ kết hôn mà chỉ cho kết nghĩa anh em. Trương Quân Thụy phẫn uất, buồn bã rồi sinh trọng bệnh. Thị nữ của Thôi Oanh Oanh là Hồng Nương hay tin, về báo cho cô chủ. Thôi Oanh Oanh đang đêm, cùng Hồng Nương tìm đến thăm chàng. Thị nữ đứng trông chừng bên ngoài, trong thư phòng đôi lứa đã ..gẫm duyên kỳ ngộ, đẹp tày Thôi Trương.
Chuyện "tiết trăm năm, nỡ bỏ đi một ngày" của nàng Thôi bị đổ bể. Mẹ nàng đành phải chấp thuận cho đôi trẻ se duyên, nhưng buộc Trương Quân Thụy phải lên đường về kinh ngay cho kịp kỳ thi Hội, khi bảng vàng có tên rồi hãy quay về làm lễ thành hôn. Trên đường tiến kinh, chàng Trương ghé lại một quán trọ qua đêm. Trong giấc ngủ, chàng mơ thấy Thôi Oanh Oanh...
Theo Hội Chân ký, thì khi giấc mơ qua rồi cũng là lúc cuộc tình ra đi. Nửa đường đứt gánh, chàng theo đường chàng lấy vợ, nàng theo đường nàng lấy chồng.
Nhưng trong tuồng Tây Sương ký thì tình duyên hai người không đứt đoạn, Trương Quân Thụy thi đỗ Thám Hoa, vinh qui trở về cưới nàng Thôi Oanh Oanh. Kim Thánh Thán đã đặt nghi vấn, cho rằng 4 hồi sau của Tây Sương ký không phải do Vương Thực Phủ viết, mà có thể do Quan Hán Khanh, một nhà văn cùng thời với Vương Thực Phủ. Bản dịch của Nhượng Tống cùng chỉ dịch 16 hồi, đến lúc tan vỡ mối tình Thôi Trương thì kết thúc.
Điển Tích Truyện Kiều - Tiểu Lân
Còn chi nữa, cánh hoa tàn
Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân
Nàng Tiểu Lân, tài sắc vẹn toàn, đàn giỏi hát hay , là ái phi của vua Trần Hậu Chủ, đời Nam Bắc triều.
Hai nước Trần, Chu giao tranh. Trần thua. Chu Vũ Đế bắt được Tiểu Lân đem về, gả cho Đại vương Đạt. Đạt thương yêu lắm, nhưng biết Tiểu Lân vẫn một lòng thủy chung với Hậu Chủ, nên không nỡ ép duyên.
Một hôm, Đạt muốn nghe Tiểu Lân đàn; tỳ bà, nửa chừng đứt dây, nàng tiếp lời thơ:
Thiết thừa kim nhật sủng
Do ức tích thơì duyên
Dục tri tâm đoạn tuyệt
Ưng khán tất thượng huyền.
Thánh thượng có lòng thương
Nhưng tình cũ đong đầy
Thiếp tơ lòng đứt đoạn
Như dây đàn đứt ngang
Còn chi nữa, cánh hoa tàn
Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân
Nàng Tiểu Lân, tài sắc vẹn toàn, đàn giỏi hát hay , là ái phi của vua Trần Hậu Chủ, đời Nam Bắc triều.
Hai nước Trần, Chu giao tranh. Trần thua. Chu Vũ Đế bắt được Tiểu Lân đem về, gả cho Đại vương Đạt. Đạt thương yêu lắm, nhưng biết Tiểu Lân vẫn một lòng thủy chung với Hậu Chủ, nên không nỡ ép duyên.
Một hôm, Đạt muốn nghe Tiểu Lân đàn; tỳ bà, nửa chừng đứt dây, nàng tiếp lời thơ:
Thiết thừa kim nhật sủng
Do ức tích thơì duyên
Dục tri tâm đoạn tuyệt
Ưng khán tất thượng huyền.
Thánh thượng có lòng thương
Nhưng tình cũ đong đầy
Thiếp tơ lòng đứt đoạn
Như dây đàn đứt ngang
Điển Tích Truyện Kiều - Tống Ngọc
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh.
Nói về Tống Ngọc, tình sử Trung Quốc viết: Vuơng Trung là một đại thần của nước Sở. Một lần vua cho lĩnh ấn tiên phong đi dẹp loạn, bị thất trận. Vương Quân bị giáng chức, được bổ làm thiên hộ vệ quân tại Nam Dương. Ái nữ là Vương Kiêù Loan cũng theo cha về nhiệm sở mới.
Kiều Loan là một giai nhân tuyệt sắc đang độ tuổi trăng tròn, bản chất thông minh, lại được cha mẹ cưng chìu, từ nhỏ đã thông làu kinh sử, văn hay chữ tốt. Năm tháng nàng chỉ quẩn quanh chốn khuê phòng. Tài sắc vẹn toàn, lại là con nhà trâm anh thế phiệt, nên khó mà tìm cho được người môn đăng hộ đối. Nàng có một người cô là Tào Di, góa chồng. Mẹ nàng đưa bà vềsống chung với gia đình để sớm hôm bầu bạn với Kiều Loan.
Một hôm, trong tiết thanh minh, hai cô cháu cùng đám thị nữ tản bộ đến hoa viên thưởng ngoạn. Đang mải ngắm hoa xuân, Kiều Loan linh cảm có ai từ bên kia bức tường đang đăm đăm nhìn mình. Chỉ đôi mắt ai đó thôi, Kiều Loan đã thẹn thùng đỏ mặt, đôi chân líu quíu không dời bươc được. Nàng níu lấy áo bà cô, giục đưa về phòng; các thị nữ cũng líu ríu về theo.
Vườn hoa đã vắng bóng giai nhân, nhưng hương thơm còn đọng lại. Đôi mắt, chàng trai lần bước ra, tẩn ngẩn như mất hồn; chợt trông thây chiếc khăn tay của ai còn vướng trên cành hoa, chàng cầm lấy áp vaò môi. Một thị nữ của Kiều Koan quay trở lại tìm chiếc khăn cho chủ. Chàng trai tư giới thiệu tên là Tống Ngọc và biết tên của thị nữ là Minh Hà và dò được quí danh của cô chủ. Tống Ngọc không trả lại khăn, mà chỉ năn nỉ nhờ thị nữ trao lại cho chủ một tấm hoa tiên, bài thơ vừa mới viết:
Phạ xuất quí nhân phận ngoại hương
Thiên công giao phó hữu tình lang
Ân cần ky thủ tương tư cú
Nghi xuất hồng ty xuất động phòng
Khăn rơi mỹ nữ đượm hơi hương
Tạo hóa khiến xui kẻ vấn vương
Gởi khúc tương tư tình tha thiết
Chỉ hồng buộc chặt mối lương duyên
Từ tuổi dậy thì vừa chớm, giai nhân chỉ ẩn mình phòng the, chỉ biết vui cùng đèn sách. Nay nhận được lời tỏ tình tuy quá đường đột nhưng chao ôi là tình. Trong lòng như sóng dậy, Kiều Loan không chợp mắt, cuối cùng không nén được rộn ràng, tấm hoa tiên đề thư phúc đáp:
Thiếp thân nhất điểm ngọc vô hà
Linh thi hầu môn tướng tướng gia
Tinh lý hữu thân đồng đối nguyệt
Nhàn trung vô sự độc khán hoa
Biết ngô chi hứa lại kỳ phương
Thúy trúc nang dung nhập lãi nha
Kỳ dữ dị hương cô lãnh khách
Mặc tướng tâm sự loạn như ma
Thân em như khôi ngọc trong lành
Khuê các ẩn mình kín cửa quan
Ngày vắng dạo xem hoa dưới mái
Đêm thanh bầu bạn trăng bên mành.
Một mình ngắm hoa nào ai tỏ
Cành ngô phượng vĩ chen màu biếc
Khóm trúc ô môn đượm mảnh tình
Nhắn nhủ phượng xe người lữ khách
Đừng trao tâm sự rối ren lòng.
Tống Ngọc nhận được thơ từ tay Minh Hà, chàng lại phúc đáp. Từ đó , tỳ nữ Minh Hà là chim xanh, thơ đi tình về cho đôi lứạ Thời gian qua, đến lúc yêu đương đã chín mọng rồi, vậy mà Tống Ngọc vẫn phớt lờ chuyện mai mối, Kiều Loan phải thúc giục. Chàng trai viện cớ này , cớ nọ để trì hoãn. Rồi một chiều, Tống Ngọc lén đến bên tường đông, tỏ ý muốn vào tận sâu khuê phòng. Nàng từ chối; nhưng khi Tống Ngọc tiu nghỉu ra về, thì Kiều Loan lại sai Minh Hà đem đến một tấm hoa tiên:
Ám tương tế ngữ ký anh tài
Thảng hướng nhân tiện mạc loạn khaị
Kim dạ hương khuê xuân bất toả
Nguyệt di hoa ảnh, ngọc nhân lai
Đôi lời xin ngỏ cùng ai
Nỗi riêng chớ để người ngoài thị phi
Phòng xuân mở rộng đêm nay
Trăng đưa hoa bóng gót lài rẽ sang
Vầng trăng vừa ló đầu núi, Tống Ngọc đã vội vàng nhẹ bước đến tường đông. Tỳ nữ Minh Hà đứng đợi ở cửa phòng. Lúc được đưa vào gặp, Kiều Loan cho mời bà cô Tào Di đến, rồi quay lại nhỏ nhẹ cùng Tống Ngọc:
- Thiếp là người đoan chính, chàng đâu phải là kẻ phàm phu. Chúng ta đã yêu nhau là do tài sắc, đã thành keo sơn gắn bó. Yêu chàng, thiếp đâu còn tiếc lấy thân, nhưng chỉ sợ vườn xuân cánh bướm, biết rồi có giữ được nguyện ước hay không. Vây chúng ta hãy nguyện lời thề thủy chung đầu bạc răng long. Nếu không, chẳng hóa ra vì ham mê muội ái ân mà chúng ta quên nghĩa đá vàng.
Đôi uyên ương nhờ bà cô đứng ra chứng dám lời thề nguyền. Làm chứng xong, bà cô rút êm, để lại phòng the cho gió trăng. Ngoài phòng, Minh Hà ngồi canh cửạ Sáng tinh mơ, Kiều Loan đã đánh thức tình lang dậy, thủ thỉ bên tai chàng:
- Đời con gái, thiếp' đã trao trọn cho chàng rồị Thiếp chỉ mong chàng giữ trọn lời thề, sống chết có nhau đến trọn kiếp.. Từ đây về sau, khi nào có thể gặp nhau được, thiếp sẽ sai bảo Minh Hà đến đón chàng.
Từ đó, đôi trai gái không còn kín đáo trao cho nhau những vần thơ tình ủ ấp' hương , mà chỉ cách khoảng một hai hôm, lại được sự dẫn dắt cuả cô thị nữ Minh Hà, để tìm gặp nhau trong ái ân hoan lạc. Tường đông rộn ràng hoa bướm, nào đâu ngờ càng rộn ràng hơn trong lòng thiếu nữ Minh Hà, đang xuân thì phơi phới, cứ phải lấp ló trộm nhìn cảnh dập dìu gái traị Và, thời gian không lặng lẽ qua đi , trong suốt ba năm, những khoản hở không gặp Kiêù Loan, Tống Ngọc lại lén lút dan díu với Minh Hà. Sau rồi, Kiều Loan cũng hay chuyện, đau đớn không lường, nhưng chuyện đã rồi, đành ngậm đắng, và hối thúc Tống Ngọc phải làm lễ thành hôn với mình.
Từ lâu, Vương Thiên Hộ đã lợm danh Tống Ngọc, chàng trai khôi ngô tuấn tú, văn chuơng uyên bác, nhưng lại chuyên bề trăng gió , đã làm cho biết bao giai nhân bẽ bàng, nên quyết liệt từ chối lơì cầu hôn. Bị từ hôn, vui hay buồn không biết, Tống Ngọc lặng lẽ ra đi, nối tiếp cuộc sống ngắt hoa bẻ cành. Đau thương cho Kiều Loan, vò võ trông ngóng người yêu quay trởlại, rồi đau tình đến chết. Trước khi lìa đời, nàng đã để lại bản Trường hận ca và ba mươi bài thơ tuyệt mệnh.
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh.
Nói về Tống Ngọc, tình sử Trung Quốc viết: Vuơng Trung là một đại thần của nước Sở. Một lần vua cho lĩnh ấn tiên phong đi dẹp loạn, bị thất trận. Vương Quân bị giáng chức, được bổ làm thiên hộ vệ quân tại Nam Dương. Ái nữ là Vương Kiêù Loan cũng theo cha về nhiệm sở mới.
Kiều Loan là một giai nhân tuyệt sắc đang độ tuổi trăng tròn, bản chất thông minh, lại được cha mẹ cưng chìu, từ nhỏ đã thông làu kinh sử, văn hay chữ tốt. Năm tháng nàng chỉ quẩn quanh chốn khuê phòng. Tài sắc vẹn toàn, lại là con nhà trâm anh thế phiệt, nên khó mà tìm cho được người môn đăng hộ đối. Nàng có một người cô là Tào Di, góa chồng. Mẹ nàng đưa bà vềsống chung với gia đình để sớm hôm bầu bạn với Kiều Loan.
Một hôm, trong tiết thanh minh, hai cô cháu cùng đám thị nữ tản bộ đến hoa viên thưởng ngoạn. Đang mải ngắm hoa xuân, Kiều Loan linh cảm có ai từ bên kia bức tường đang đăm đăm nhìn mình. Chỉ đôi mắt ai đó thôi, Kiều Loan đã thẹn thùng đỏ mặt, đôi chân líu quíu không dời bươc được. Nàng níu lấy áo bà cô, giục đưa về phòng; các thị nữ cũng líu ríu về theo.
Vườn hoa đã vắng bóng giai nhân, nhưng hương thơm còn đọng lại. Đôi mắt, chàng trai lần bước ra, tẩn ngẩn như mất hồn; chợt trông thây chiếc khăn tay của ai còn vướng trên cành hoa, chàng cầm lấy áp vaò môi. Một thị nữ của Kiều Koan quay trở lại tìm chiếc khăn cho chủ. Chàng trai tư giới thiệu tên là Tống Ngọc và biết tên của thị nữ là Minh Hà và dò được quí danh của cô chủ. Tống Ngọc không trả lại khăn, mà chỉ năn nỉ nhờ thị nữ trao lại cho chủ một tấm hoa tiên, bài thơ vừa mới viết:
Phạ xuất quí nhân phận ngoại hương
Thiên công giao phó hữu tình lang
Ân cần ky thủ tương tư cú
Nghi xuất hồng ty xuất động phòng
Khăn rơi mỹ nữ đượm hơi hương
Tạo hóa khiến xui kẻ vấn vương
Gởi khúc tương tư tình tha thiết
Chỉ hồng buộc chặt mối lương duyên
Từ tuổi dậy thì vừa chớm, giai nhân chỉ ẩn mình phòng the, chỉ biết vui cùng đèn sách. Nay nhận được lời tỏ tình tuy quá đường đột nhưng chao ôi là tình. Trong lòng như sóng dậy, Kiều Loan không chợp mắt, cuối cùng không nén được rộn ràng, tấm hoa tiên đề thư phúc đáp:
Thiếp thân nhất điểm ngọc vô hà
Linh thi hầu môn tướng tướng gia
Tinh lý hữu thân đồng đối nguyệt
Nhàn trung vô sự độc khán hoa
Biết ngô chi hứa lại kỳ phương
Thúy trúc nang dung nhập lãi nha
Kỳ dữ dị hương cô lãnh khách
Mặc tướng tâm sự loạn như ma
Thân em như khôi ngọc trong lành
Khuê các ẩn mình kín cửa quan
Ngày vắng dạo xem hoa dưới mái
Đêm thanh bầu bạn trăng bên mành.
Một mình ngắm hoa nào ai tỏ
Cành ngô phượng vĩ chen màu biếc
Khóm trúc ô môn đượm mảnh tình
Nhắn nhủ phượng xe người lữ khách
Đừng trao tâm sự rối ren lòng.
Tống Ngọc nhận được thơ từ tay Minh Hà, chàng lại phúc đáp. Từ đó , tỳ nữ Minh Hà là chim xanh, thơ đi tình về cho đôi lứạ Thời gian qua, đến lúc yêu đương đã chín mọng rồi, vậy mà Tống Ngọc vẫn phớt lờ chuyện mai mối, Kiều Loan phải thúc giục. Chàng trai viện cớ này , cớ nọ để trì hoãn. Rồi một chiều, Tống Ngọc lén đến bên tường đông, tỏ ý muốn vào tận sâu khuê phòng. Nàng từ chối; nhưng khi Tống Ngọc tiu nghỉu ra về, thì Kiều Loan lại sai Minh Hà đem đến một tấm hoa tiên:
Ám tương tế ngữ ký anh tài
Thảng hướng nhân tiện mạc loạn khaị
Kim dạ hương khuê xuân bất toả
Nguyệt di hoa ảnh, ngọc nhân lai
Đôi lời xin ngỏ cùng ai
Nỗi riêng chớ để người ngoài thị phi
Phòng xuân mở rộng đêm nay
Trăng đưa hoa bóng gót lài rẽ sang
Vầng trăng vừa ló đầu núi, Tống Ngọc đã vội vàng nhẹ bước đến tường đông. Tỳ nữ Minh Hà đứng đợi ở cửa phòng. Lúc được đưa vào gặp, Kiều Loan cho mời bà cô Tào Di đến, rồi quay lại nhỏ nhẹ cùng Tống Ngọc:
- Thiếp là người đoan chính, chàng đâu phải là kẻ phàm phu. Chúng ta đã yêu nhau là do tài sắc, đã thành keo sơn gắn bó. Yêu chàng, thiếp đâu còn tiếc lấy thân, nhưng chỉ sợ vườn xuân cánh bướm, biết rồi có giữ được nguyện ước hay không. Vây chúng ta hãy nguyện lời thề thủy chung đầu bạc răng long. Nếu không, chẳng hóa ra vì ham mê muội ái ân mà chúng ta quên nghĩa đá vàng.
Đôi uyên ương nhờ bà cô đứng ra chứng dám lời thề nguyền. Làm chứng xong, bà cô rút êm, để lại phòng the cho gió trăng. Ngoài phòng, Minh Hà ngồi canh cửạ Sáng tinh mơ, Kiều Loan đã đánh thức tình lang dậy, thủ thỉ bên tai chàng:
- Đời con gái, thiếp' đã trao trọn cho chàng rồị Thiếp chỉ mong chàng giữ trọn lời thề, sống chết có nhau đến trọn kiếp.. Từ đây về sau, khi nào có thể gặp nhau được, thiếp sẽ sai bảo Minh Hà đến đón chàng.
Từ đó, đôi trai gái không còn kín đáo trao cho nhau những vần thơ tình ủ ấp' hương , mà chỉ cách khoảng một hai hôm, lại được sự dẫn dắt cuả cô thị nữ Minh Hà, để tìm gặp nhau trong ái ân hoan lạc. Tường đông rộn ràng hoa bướm, nào đâu ngờ càng rộn ràng hơn trong lòng thiếu nữ Minh Hà, đang xuân thì phơi phới, cứ phải lấp ló trộm nhìn cảnh dập dìu gái traị Và, thời gian không lặng lẽ qua đi , trong suốt ba năm, những khoản hở không gặp Kiêù Loan, Tống Ngọc lại lén lút dan díu với Minh Hà. Sau rồi, Kiều Loan cũng hay chuyện, đau đớn không lường, nhưng chuyện đã rồi, đành ngậm đắng, và hối thúc Tống Ngọc phải làm lễ thành hôn với mình.
Từ lâu, Vương Thiên Hộ đã lợm danh Tống Ngọc, chàng trai khôi ngô tuấn tú, văn chuơng uyên bác, nhưng lại chuyên bề trăng gió , đã làm cho biết bao giai nhân bẽ bàng, nên quyết liệt từ chối lơì cầu hôn. Bị từ hôn, vui hay buồn không biết, Tống Ngọc lặng lẽ ra đi, nối tiếp cuộc sống ngắt hoa bẻ cành. Đau thương cho Kiều Loan, vò võ trông ngóng người yêu quay trởlại, rồi đau tình đến chết. Trước khi lìa đời, nàng đã để lại bản Trường hận ca và ba mươi bài thơ tuyệt mệnh.
Điển Tích Truyện Kiều - Trao Tơ
Nuôi con vẫn ước về sau
Trao tơ phải lứa gieo cầu phải nơi.
Có nhiều điển tích trong việc kén chọn kết duyên, trao thân gởi phận giữa đôi trai gáị Trao tơ là trao sợi chỉ tơ hồng, còn gọi là hồng ti, cho người đính ước.
Tích trao tơ có từ đời Đường. Trương Gia Trinh có năm người con gái sắc nước hương trời đều đang đến tuổi cập kệ Vương tôn công tử gần xa đều ngấp nghé muốn xin, nhưng các chàng trai đều hoa mắt, vì các giai nhân trang sức ăn mặc rất giống nhau, đi đứng nói cười như hệt, ngày đêm quanh quẩn khuê phòng như các hằng nga vờn trong mây.
Có chàng nho sĩ tài danh tên là Quách Nguyễn Chấn thương lui tới gia trang đối ẩm với Gia Trinh. Mến mộ tài năng đức hạnh của chàng nho sĩ, ông già ngỏ ý muốn gả một trong năm cô con gái của mình. Nguyễn Chấn mừng khấp khởi, nhưng cả năm cô gái đều đẹp như tiên giáng trần, trông giống nhau quá thì biết chọn ai đây. Gia Trinh nghĩ ra một kế, cho năm ái nữ ngồi sau một bức mành, mỗi người cầm một sợi tơ màu khác nhau. Duyên số cho màu tơ người nào được chọn. Và Nguyễn Chấn đã chọn sợi tơ màu hồng. Từ đó trao tơ hồng có nghĩa là lời đính ước chuyện trăm năm.
Nuôi con vẫn ước về sau
Trao tơ phải lứa gieo cầu phải nơi.
Có nhiều điển tích trong việc kén chọn kết duyên, trao thân gởi phận giữa đôi trai gáị Trao tơ là trao sợi chỉ tơ hồng, còn gọi là hồng ti, cho người đính ước.
Tích trao tơ có từ đời Đường. Trương Gia Trinh có năm người con gái sắc nước hương trời đều đang đến tuổi cập kệ Vương tôn công tử gần xa đều ngấp nghé muốn xin, nhưng các chàng trai đều hoa mắt, vì các giai nhân trang sức ăn mặc rất giống nhau, đi đứng nói cười như hệt, ngày đêm quanh quẩn khuê phòng như các hằng nga vờn trong mây.
Có chàng nho sĩ tài danh tên là Quách Nguyễn Chấn thương lui tới gia trang đối ẩm với Gia Trinh. Mến mộ tài năng đức hạnh của chàng nho sĩ, ông già ngỏ ý muốn gả một trong năm cô con gái của mình. Nguyễn Chấn mừng khấp khởi, nhưng cả năm cô gái đều đẹp như tiên giáng trần, trông giống nhau quá thì biết chọn ai đây. Gia Trinh nghĩ ra một kế, cho năm ái nữ ngồi sau một bức mành, mỗi người cầm một sợi tơ màu khác nhau. Duyên số cho màu tơ người nào được chọn. Và Nguyễn Chấn đã chọn sợi tơ màu hồng. Từ đó trao tơ hồng có nghĩa là lời đính ước chuyện trăm năm.
Điển Tích Truyện Kiều - Tràng Khanh
Phương Tây có Casanova, có Don Juan, nhưng đào hoa, đa tình e còn thua xa Tống Ngọc, Tràng Khanh... Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh. Chỉ một khúc nhạc Phượng Cầu trầm tư để "làm vốn" mà Tràng Khanh đã làm rơi rụng biết bao con tim. Tiếng đàn của Kiều cũng nặng u sầu khúc nhạc này:
Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu
Nghe ra như oán như sầu phải chăng?.
Trường Khanh, tức Tư mã Tương Như có tiếng đàn tuyệt chiêu, đặc biệt là khi gảy khúc Phượng Cầu, trong lòng thiếu phụ, gái thanh xuân bỗng như sóng trào.
Thời ấy có nàng Trác Văn Quân thuộc hàng quốc sắc thiên hương, con của tri huyện Thiểm Tây Trác Bá Lộc. Nàng được gã cho thư sinh Vương Hàm Tân, đỗ tú tài rồi nhu(ng vẫn tiếp tục việc bút nghiên. Nửa năm hương lửa đang nồng, Hàm Tân bỗng lâm bạo bệnh từ trần. Nửa đời hồng nhan dang dở. Trong suốt thời gian làm tuần , nàng ngồi rũ rượi bên bàn thờ chồng. Bỗng một đêm, văng vẳng từ bên kia sông, tiếng đàn ai theo với lời ca não nùng:
Tình yêu là mối dây oan
Hoa tươi nghĩ lúc hoa tàn tủi thân.
Hoa tàn hoa rụng - Hoa héo đầu cành
Hận ngày xanh - Tủi ngày xanh
Kiếp hoa ngắn ngủi
Mưa gió tan tành
Nguyệt đan mành
Hoa tàn tạ
Cảnh bâng khuâng
Yêu nhau không trọn
Đời bạc như vôi
Tình xưa ai đã phụ rồi
Người xưa như thế thì thôi còn gì
Mối tình si - lệ lâm ly
Thà rằng quen biết nhau chi
Biết nhau như thế ước gì mà mong
Ôi tiếng đàn câu ca như xé tâm can. Trác Văn Quân gọi tỳ nữ Thanh Mai vào thơ phòng, hỏi:
- Tiếng đàn của ai bên sông sao nghe buồn bã quá, lòng ta xao động khôn cùng. Người hãy sang sông tìm thử ai đang réo rắt tiếng tơ trùng này.
Đêm đã khuya, nhưng may con ánh trăng vằng vặc. Thanh Mai vâng lời chủ, gọi đò sang sông. Cô lái đò giải thích cho Thanh Mai:
- Có chàng trai từ phương xa đến đây tên là Tư Mã Tương Như Trường Khanh. Chàng có khúc nhạc mê hồn Phượng Cầu Hoàng, đàn bà con gái không sao cưỡng lại sức quyến rũ, mê mẫn khi nghe khúc nhạc này.
Thanh Mai chỉ hiểu mơ hồ lời giải thích của cô lái đò và tìm đến gần phía trang viên. Bên trong thấp thoáng nhiều bóng hồng đang đùa cợt lả lơi quanh một chàng trai trẻ đẹp. Sửng sờ, cô tỳ nữ bị chôn cứng chân đến gần tảng sáng mới lần bướ ra về, thưa chuyện cho cô chủ:
- Em đã tìm đến trang viên.. Ở đó có vườn hoa đẹp, có chàng trai tên là Trường Khanh, có tiếng đàn làm mê hoặc đàn bà con gái khắp vùng này.
Trác Văn Quân bỗng hở dài, nét hoa thêm phần ủ dột, thảo nào, lòng tạ. Suốt ngày hôm đó, nàng ngồi câm nín bên lan can, vành khăn tang trễ xuống ngang vai, khói hương bàn thờ chồng cũng tắt ngấm. Rồi ngày một ngày hai, tiếng đàn sao im bặt.. Qua đêm thứ ba, Văn Quân không dìm được nỗi lòng, gọi Thanh Mai vào:
- Đã hai đêm ta không nghe được tiếng đàn, trong người khó thở. Người hãy tìm đến chàng, trao thư này cho tạ Thanh Mai ngập ngừng can ngăn:
- Tiểu thư chưa quen biết, sao lại trao thơ cho người tạ Lệnh lang cũng vừa mệnh chung...
Văn Quân như mất hồn, ừ thì thôi vậy, nếu người không trao thư cho ta, thì hãy đưa ta đến tìm gặp người đó.
Nói xong. vội vàng Van Quân cởi bỏ tang phục, ăn mặc cực kỳ diêm dúa, kéo xệch Thanh Mai xuống đò, sang ngang. Gần đến trang thanh viên, Văn Quan hối hả bước vộị Nhưng khi đến gần, được Thanh Mai chỉ cho trông thấy dung mạo người trong mộng, Văn Quân bỗng thẹn thùng; con người đàn bà đoan chính, một thoáng chốc ... Nàng run rẩy quay gót chạy trở về. Tràng Khanh cũng biết có nguời đang nhìn trộm mình rồi bỏ chạy, nhưng vướng víu các kiều nữ đang quấn chặt lấy mình, nên không theo đuổi kịp. Sau đó, tuy trễ một chuyến đò, Tràng Khanh cũng tìm đến được bên ngoài phủ quan, biết ngươì thiếu phụ là Trác Văn Quân, góa phụ trẻ đẹp tuyệt tác trần gian. Tràng Khanh nghĩ, ta sẽ có nàng.
Trác Văn Quân về đến thơ phong, vất bỏ xiêm ỵ mặc lại tang phục, đến ngồi lặng yên bên bàn thờ chồng. Nửa đêm về sáng, bỗng tiếng đàn lại vọng lên. Ôi nó réo rắt mời gọị Người góa phụ cố bịt kín lấy đôi tai, nhưng âm thanh lại càng xoáy vào hồn. Nàng dẫy dụa trong dằn vặt nhưng thôi ; ánh trăng mờ dần .. nàng thẩn thờ đứng dậy, lại cởi bỏ tang phục, thay đổi xiêm y sặc sỡ, nhanh bước ra bờ sông. Khi đã đưa nàng sang bên kia bờ, cô lái đò hỏi:
- Thưa bà, tiện nữ sẽ đợi đến bao giờ để đưa bà về.
- Không, đừng hoài công chờđợi . Ta đã vào khúc Phượng Cầu, e không có ngày trở lại.
Phương Tây có Casanova, có Don Juan, nhưng đào hoa, đa tình e còn thua xa Tống Ngọc, Tràng Khanh... Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh. Chỉ một khúc nhạc Phượng Cầu trầm tư để "làm vốn" mà Tràng Khanh đã làm rơi rụng biết bao con tim. Tiếng đàn của Kiều cũng nặng u sầu khúc nhạc này:
Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu
Nghe ra như oán như sầu phải chăng?.
Trường Khanh, tức Tư mã Tương Như có tiếng đàn tuyệt chiêu, đặc biệt là khi gảy khúc Phượng Cầu, trong lòng thiếu phụ, gái thanh xuân bỗng như sóng trào.
Thời ấy có nàng Trác Văn Quân thuộc hàng quốc sắc thiên hương, con của tri huyện Thiểm Tây Trác Bá Lộc. Nàng được gã cho thư sinh Vương Hàm Tân, đỗ tú tài rồi nhu(ng vẫn tiếp tục việc bút nghiên. Nửa năm hương lửa đang nồng, Hàm Tân bỗng lâm bạo bệnh từ trần. Nửa đời hồng nhan dang dở. Trong suốt thời gian làm tuần , nàng ngồi rũ rượi bên bàn thờ chồng. Bỗng một đêm, văng vẳng từ bên kia sông, tiếng đàn ai theo với lời ca não nùng:
Tình yêu là mối dây oan
Hoa tươi nghĩ lúc hoa tàn tủi thân.
Hoa tàn hoa rụng - Hoa héo đầu cành
Hận ngày xanh - Tủi ngày xanh
Kiếp hoa ngắn ngủi
Mưa gió tan tành
Nguyệt đan mành
Hoa tàn tạ
Cảnh bâng khuâng
Yêu nhau không trọn
Đời bạc như vôi
Tình xưa ai đã phụ rồi
Người xưa như thế thì thôi còn gì
Mối tình si - lệ lâm ly
Thà rằng quen biết nhau chi
Biết nhau như thế ước gì mà mong
Ôi tiếng đàn câu ca như xé tâm can. Trác Văn Quân gọi tỳ nữ Thanh Mai vào thơ phòng, hỏi:
- Tiếng đàn của ai bên sông sao nghe buồn bã quá, lòng ta xao động khôn cùng. Người hãy sang sông tìm thử ai đang réo rắt tiếng tơ trùng này.
Đêm đã khuya, nhưng may con ánh trăng vằng vặc. Thanh Mai vâng lời chủ, gọi đò sang sông. Cô lái đò giải thích cho Thanh Mai:
- Có chàng trai từ phương xa đến đây tên là Tư Mã Tương Như Trường Khanh. Chàng có khúc nhạc mê hồn Phượng Cầu Hoàng, đàn bà con gái không sao cưỡng lại sức quyến rũ, mê mẫn khi nghe khúc nhạc này.
Thanh Mai chỉ hiểu mơ hồ lời giải thích của cô lái đò và tìm đến gần phía trang viên. Bên trong thấp thoáng nhiều bóng hồng đang đùa cợt lả lơi quanh một chàng trai trẻ đẹp. Sửng sờ, cô tỳ nữ bị chôn cứng chân đến gần tảng sáng mới lần bướ ra về, thưa chuyện cho cô chủ:
- Em đã tìm đến trang viên.. Ở đó có vườn hoa đẹp, có chàng trai tên là Trường Khanh, có tiếng đàn làm mê hoặc đàn bà con gái khắp vùng này.
Trác Văn Quân bỗng hở dài, nét hoa thêm phần ủ dột, thảo nào, lòng tạ. Suốt ngày hôm đó, nàng ngồi câm nín bên lan can, vành khăn tang trễ xuống ngang vai, khói hương bàn thờ chồng cũng tắt ngấm. Rồi ngày một ngày hai, tiếng đàn sao im bặt.. Qua đêm thứ ba, Văn Quân không dìm được nỗi lòng, gọi Thanh Mai vào:
- Đã hai đêm ta không nghe được tiếng đàn, trong người khó thở. Người hãy tìm đến chàng, trao thư này cho tạ Thanh Mai ngập ngừng can ngăn:
- Tiểu thư chưa quen biết, sao lại trao thơ cho người tạ Lệnh lang cũng vừa mệnh chung...
Văn Quân như mất hồn, ừ thì thôi vậy, nếu người không trao thư cho ta, thì hãy đưa ta đến tìm gặp người đó.
Nói xong. vội vàng Van Quân cởi bỏ tang phục, ăn mặc cực kỳ diêm dúa, kéo xệch Thanh Mai xuống đò, sang ngang. Gần đến trang thanh viên, Văn Quan hối hả bước vộị Nhưng khi đến gần, được Thanh Mai chỉ cho trông thấy dung mạo người trong mộng, Văn Quân bỗng thẹn thùng; con người đàn bà đoan chính, một thoáng chốc ... Nàng run rẩy quay gót chạy trở về. Tràng Khanh cũng biết có nguời đang nhìn trộm mình rồi bỏ chạy, nhưng vướng víu các kiều nữ đang quấn chặt lấy mình, nên không theo đuổi kịp. Sau đó, tuy trễ một chuyến đò, Tràng Khanh cũng tìm đến được bên ngoài phủ quan, biết ngươì thiếu phụ là Trác Văn Quân, góa phụ trẻ đẹp tuyệt tác trần gian. Tràng Khanh nghĩ, ta sẽ có nàng.
Trác Văn Quân về đến thơ phong, vất bỏ xiêm ỵ mặc lại tang phục, đến ngồi lặng yên bên bàn thờ chồng. Nửa đêm về sáng, bỗng tiếng đàn lại vọng lên. Ôi nó réo rắt mời gọị Người góa phụ cố bịt kín lấy đôi tai, nhưng âm thanh lại càng xoáy vào hồn. Nàng dẫy dụa trong dằn vặt nhưng thôi ; ánh trăng mờ dần .. nàng thẩn thờ đứng dậy, lại cởi bỏ tang phục, thay đổi xiêm y sặc sỡ, nhanh bước ra bờ sông. Khi đã đưa nàng sang bên kia bờ, cô lái đò hỏi:
- Thưa bà, tiện nữ sẽ đợi đến bao giờ để đưa bà về.
- Không, đừng hoài công chờđợi . Ta đã vào khúc Phượng Cầu, e không có ngày trở lại.
Điển Tích Truyện Kiều - Trúc Mai
Kim lang ơi hỡi Kim Lang, khóc chi cho xiết sự tình. Ngày mai, tên lái người Mã Giám Sinh sẽ dắt thiếp đi, như dắt trâu ngựa, về Lâm Trị Chàng đang ở Liêu Dương, nơi xa xôi ngàn dặm, có thấu chăng nỗi lòng nàỵ Một mình, một bóng thiếp đang khóc cho tình đôi ta:
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ chàng với hoạ
Trời Liêu non nước bao xa
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà từ tôi
Biết bao duyên nợ thề bồi
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì
Tái sinh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
Trong các tranh thủy mạc của Trung Quốc thường vẽ bụi trúc bên cành maị Hai loại cây này, dù trong đông giá vẫn không tàn úạ Đông đi xuân đến, mai lan cúc trúc, 4 muà của trời đất. Chuyện Trúc Mai được chép trong sách Lưỡng ban thư vũ tùy bút:
Huyện Long Môn, tỉnh Quảng Đông có một cái đầm nước rất đẹp.Vào dịp thu sang, lá vàng xào xạc, thân cây trơ trụi, riêng chỉ có hai loài mai và trúc thì lá vẫn xanh tươi. Các gia đình quyền quí, thường đến đó ngoạn cảnh trong tiết thu sang. Trong tình cơ, có hai trai gái quen nhau, rồi yêu nhaụ Đô^i uyên ương đều là con nhà gia phong thế phiệt. Chàng là Lâm Bá Trúc, nàng là Hoàng Kỳ Maị Ngươì xưa, khi nói người con gái có cốt cách cao sang thì được tả là mình hạc xương maị Hai chị em Kiều cũng được cụ Nguyễn chấm phá đôi nét:
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Còn cây trúc được ví với các nho sinh, công tử. Ngày ngày Kỳ Mai, Bá Trúc đều hẹn nhau dạo chơi trên đầm. Những ngày thơ mộng. Nhưng rồi muà thu cũng ra đị Đôi uyên ương trao lời từ biệt. Buổi chiều cuối dạo thuyền trên đầm. Trúc bẻ một cành mai, Mai bẻ nhánh trúc, rồi cùng thành tâm khấn nguyện:
Hai cành trúc mai là đôi chúng tạ Chúng ta ném hai cành cây này xuống nước theo hướng khác nhaụ Nếu là duyên trời định thì giòng nước sẽ đưa đẩy hai cành cây này đến với nhau, thì đó là trúc mai hòa hợp, chúng ta sẽ nên duyên vợ chồng. Xin đất trời chứng giám. Một cơn gió nổi lên, mặt nước đang lặng lờ bỗng gợn sóng. Chỉ một lúc sau, sóng gió đưa đẩy hai cành trúc mai đến gối đầu lên nhau.
Lời nguyện đã linh ứng. Đôi trẻ trở về thưa chuyện với lệnh đường đôi bên. Hai họ cho đó là duyên tiền định, nên hoan hỷ tác hợp cho Trúc Mai thành duyên vợ chồng.
Đời sau, khi nói trúc mai là nói đến tình nghĩa vợ chồng . Kim Kiều chỉ mới thề ước, nhưng đã như phu thê tình nồng. Nay thiếp tròn chữ hiếu, biết kiếp nào đền nghì trúc mai, thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây...
Kim lang ơi hỡi Kim Lang, khóc chi cho xiết sự tình. Ngày mai, tên lái người Mã Giám Sinh sẽ dắt thiếp đi, như dắt trâu ngựa, về Lâm Trị Chàng đang ở Liêu Dương, nơi xa xôi ngàn dặm, có thấu chăng nỗi lòng nàỵ Một mình, một bóng thiếp đang khóc cho tình đôi ta:
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ chàng với hoạ
Trời Liêu non nước bao xa
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà từ tôi
Biết bao duyên nợ thề bồi
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì
Tái sinh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
Trong các tranh thủy mạc của Trung Quốc thường vẽ bụi trúc bên cành maị Hai loại cây này, dù trong đông giá vẫn không tàn úạ Đông đi xuân đến, mai lan cúc trúc, 4 muà của trời đất. Chuyện Trúc Mai được chép trong sách Lưỡng ban thư vũ tùy bút:
Huyện Long Môn, tỉnh Quảng Đông có một cái đầm nước rất đẹp.Vào dịp thu sang, lá vàng xào xạc, thân cây trơ trụi, riêng chỉ có hai loài mai và trúc thì lá vẫn xanh tươi. Các gia đình quyền quí, thường đến đó ngoạn cảnh trong tiết thu sang. Trong tình cơ, có hai trai gái quen nhau, rồi yêu nhaụ Đô^i uyên ương đều là con nhà gia phong thế phiệt. Chàng là Lâm Bá Trúc, nàng là Hoàng Kỳ Maị Ngươì xưa, khi nói người con gái có cốt cách cao sang thì được tả là mình hạc xương maị Hai chị em Kiều cũng được cụ Nguyễn chấm phá đôi nét:
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Còn cây trúc được ví với các nho sinh, công tử. Ngày ngày Kỳ Mai, Bá Trúc đều hẹn nhau dạo chơi trên đầm. Những ngày thơ mộng. Nhưng rồi muà thu cũng ra đị Đôi uyên ương trao lời từ biệt. Buổi chiều cuối dạo thuyền trên đầm. Trúc bẻ một cành mai, Mai bẻ nhánh trúc, rồi cùng thành tâm khấn nguyện:
Hai cành trúc mai là đôi chúng tạ Chúng ta ném hai cành cây này xuống nước theo hướng khác nhaụ Nếu là duyên trời định thì giòng nước sẽ đưa đẩy hai cành cây này đến với nhau, thì đó là trúc mai hòa hợp, chúng ta sẽ nên duyên vợ chồng. Xin đất trời chứng giám. Một cơn gió nổi lên, mặt nước đang lặng lờ bỗng gợn sóng. Chỉ một lúc sau, sóng gió đưa đẩy hai cành trúc mai đến gối đầu lên nhau.
Lời nguyện đã linh ứng. Đôi trẻ trở về thưa chuyện với lệnh đường đôi bên. Hai họ cho đó là duyên tiền định, nên hoan hỷ tác hợp cho Trúc Mai thành duyên vợ chồng.
Đời sau, khi nói trúc mai là nói đến tình nghĩa vợ chồng . Kim Kiều chỉ mới thề ước, nhưng đã như phu thê tình nồng. Nay thiếp tròn chữ hiếu, biết kiếp nào đền nghì trúc mai, thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây...
Điển Tích Truyện Kiều - Tựa Cửa Hôm Mai
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Tích tựa cửa từ thời Chiến Quốc. Vương Tôn Giả làm quan dưới triều Tề Mân Vương. Tôn Giả mồ côi cha sớm, chỉ còn mẹ già. Gặp cơn chinh chiến, Tề Mân Vương thua trận, bỏ kinh thành mà chạỵ Vương Tôn Giả phò vua, chạy đến nước Tề thì vua tôi lạc mất nhau, nên ông lại quay về quê nhà tìm mẹ
Bà mẹ thấy con về, bèn hỏi:
- Sao con không phò tá chúa công mà lại quay về đây?
Vương Tôn Giảng thưa:
- Thua trận, vua tôi cùng chạy đến nước Vệ thì lạc nhau. Không biết giờ này vua lưu lạc nơi nào.
Bà mẹ nổi giận:
- Mày sớm đi chiều về, ta tựa cửa trông; mày chiều đi mà tối không về thì ta vẫn tựa cửa mà ngóng đợi. Vua trông đợi bề tôi chẳng khác chi mẹ mong con. Mày là phận làm tôi, mà vua lạc đi đâu mất không hay lại bỏ về nhà ư?. Có phải là ta có đứa con bất trung không?
Vương Tôn Giả nghe lời mẹ dạy, không dám bịn rịn tình mầu tử, liền lên đường tìm vuạ Khi biết tin Tề Mân Công đã bị giết, Vương Tôn Giả qui nạp dân chúng lại, tìm giết được kẻ giết vua, báo thù cho Tề Mân Công.
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Tích tựa cửa từ thời Chiến Quốc. Vương Tôn Giả làm quan dưới triều Tề Mân Vương. Tôn Giả mồ côi cha sớm, chỉ còn mẹ già. Gặp cơn chinh chiến, Tề Mân Vương thua trận, bỏ kinh thành mà chạỵ Vương Tôn Giả phò vua, chạy đến nước Tề thì vua tôi lạc mất nhau, nên ông lại quay về quê nhà tìm mẹ
Bà mẹ thấy con về, bèn hỏi:
- Sao con không phò tá chúa công mà lại quay về đây?
Vương Tôn Giảng thưa:
- Thua trận, vua tôi cùng chạy đến nước Vệ thì lạc nhau. Không biết giờ này vua lưu lạc nơi nào.
Bà mẹ nổi giận:
- Mày sớm đi chiều về, ta tựa cửa trông; mày chiều đi mà tối không về thì ta vẫn tựa cửa mà ngóng đợi. Vua trông đợi bề tôi chẳng khác chi mẹ mong con. Mày là phận làm tôi, mà vua lạc đi đâu mất không hay lại bỏ về nhà ư?. Có phải là ta có đứa con bất trung không?
Vương Tôn Giả nghe lời mẹ dạy, không dám bịn rịn tình mầu tử, liền lên đường tìm vuạ Khi biết tin Tề Mân Công đã bị giết, Vương Tôn Giả qui nạp dân chúng lại, tìm giết được kẻ giết vua, báo thù cho Tề Mân Công.
Điển Tích Truyện Kiều - Tú Khẩu Cẩm Tâm
Xem thơ nức nở khen thầm
Giá đành tú khẩu, cẩm tâm khác thường
Tú khẩu, cẩm tâm; miệng thêu, lòng gấm ý nói người có tài văn chương, lời hay ý đẹp. Trong văn học Trung Quốc, bốn người văn chương trác tuyệt được đời xưng danh là "tú khẩu, cẩm tâm" là Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên, Âu Dương Tu và Tô Tuân.
Hàn Dũ (768 - 824) tự là Thoái Chi, người đơi sau thường gọi là Hàn Xương Lê, quê quán Nam Dương, tỉnh Hồ Nam, mồ côi sớm, học rất giỏị Năm 25 tuổi đỗ tiến sĩ, làm Giám sát Ngự sử, Sử quán Tu soạn rồi Hình bộ Thị Lang. Hàn Dũ là người tôn sùng giáo lý Khổng Mạnh, nhưng vua Đường Hiến Tông lại sùng đạo Phật. Hàn Dũ làm sớ khuyên vua bài xích đạo Phật và đốt xương Phật. Vua giáng chức làm Thứ sử Triều Châu, nhưng rồi sau đó cũng được triệu về kinh phục chức.
Liễu Tôn Nguyên (773 - 819) tự là Tử hậu, quê quán Hà Đông, người cùng thời với Hàn Dũ và cũng chủ trương tôn Khổng Mạnh, bài triết lý Phật. Ông đỗ Tiến sĩ và Bác học Hoằng từ, làm quan đến Giám sát ngự sử. Sau bị tội, nên bị giáng xuống làm Tư mã Vĩnh Châu, rồi Liễu Châu thứ sử.
Âu Dương Tu (1007 - 1072) tự Vĩnh Thúc, quê quán đất Tô Lăng đời Tống, đỗ Tiến sĩ, học rộng, văn tài trác tuyệt, làm quan đến Binh bộ Thượng thư. Tính tình ngay thẳng, nên quan Dương Tu bị nhiều người ghét. Ông thuộc phái "Cựu đảng" của Tư Mã Quang chống "Tân pháp" của Tể tướng Vương An Thạch, nên phải lui về vườn sớm khi chưa tới tuổi hưụ Ông là tác giả bô Tân Ngũ Đại Sử và biên soạn chung với Tống Kỳ bộ Tân Đường thi.
Tô Tuân (1009 - 1066) tự Minh Doãn, quê ở My Sơn
đời Tống. Tô Tuân không xuất thân khoa bảng nhưng ông lại là một danh sĩ. Năm 27 tuổi ông mới bắt đầu học, năm 37 tuổi có đi thi một lần, không đỗ. Buồn, đi ngao du đây đó mấy năm mới chịu quay về nhà và từ đó không thi cử gì nữa. Ông là thân phụ của Tô Thức (Tô Đông Pha) và Tô Triệt. Năm 1059, ông được triều đình đặc cách chức Hiệu Thư lang, chuyên chép chuyện các đời vua nhà Tống, nhưng chỉ được khen chứ không chê. Ông tỏ ra không thích công việc này, nên được đổi làm Chủ Bạ huyện Văn An. Ở đó ông soạn bộ Thái thường nhân cách lễ, gồm một trăm quyển. Sách vừa soạn xong thì ông qua đời.
Xem thơ nức nở khen thầm
Giá đành tú khẩu, cẩm tâm khác thường
Tú khẩu, cẩm tâm; miệng thêu, lòng gấm ý nói người có tài văn chương, lời hay ý đẹp. Trong văn học Trung Quốc, bốn người văn chương trác tuyệt được đời xưng danh là "tú khẩu, cẩm tâm" là Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên, Âu Dương Tu và Tô Tuân.
Hàn Dũ (768 - 824) tự là Thoái Chi, người đơi sau thường gọi là Hàn Xương Lê, quê quán Nam Dương, tỉnh Hồ Nam, mồ côi sớm, học rất giỏị Năm 25 tuổi đỗ tiến sĩ, làm Giám sát Ngự sử, Sử quán Tu soạn rồi Hình bộ Thị Lang. Hàn Dũ là người tôn sùng giáo lý Khổng Mạnh, nhưng vua Đường Hiến Tông lại sùng đạo Phật. Hàn Dũ làm sớ khuyên vua bài xích đạo Phật và đốt xương Phật. Vua giáng chức làm Thứ sử Triều Châu, nhưng rồi sau đó cũng được triệu về kinh phục chức.
Liễu Tôn Nguyên (773 - 819) tự là Tử hậu, quê quán Hà Đông, người cùng thời với Hàn Dũ và cũng chủ trương tôn Khổng Mạnh, bài triết lý Phật. Ông đỗ Tiến sĩ và Bác học Hoằng từ, làm quan đến Giám sát ngự sử. Sau bị tội, nên bị giáng xuống làm Tư mã Vĩnh Châu, rồi Liễu Châu thứ sử.
Âu Dương Tu (1007 - 1072) tự Vĩnh Thúc, quê quán đất Tô Lăng đời Tống, đỗ Tiến sĩ, học rộng, văn tài trác tuyệt, làm quan đến Binh bộ Thượng thư. Tính tình ngay thẳng, nên quan Dương Tu bị nhiều người ghét. Ông thuộc phái "Cựu đảng" của Tư Mã Quang chống "Tân pháp" của Tể tướng Vương An Thạch, nên phải lui về vườn sớm khi chưa tới tuổi hưụ Ông là tác giả bô Tân Ngũ Đại Sử và biên soạn chung với Tống Kỳ bộ Tân Đường thi.
Tô Tuân (1009 - 1066) tự Minh Doãn, quê ở My Sơn
đời Tống. Tô Tuân không xuất thân khoa bảng nhưng ông lại là một danh sĩ. Năm 27 tuổi ông mới bắt đầu học, năm 37 tuổi có đi thi một lần, không đỗ. Buồn, đi ngao du đây đó mấy năm mới chịu quay về nhà và từ đó không thi cử gì nữa. Ông là thân phụ của Tô Thức (Tô Đông Pha) và Tô Triệt. Năm 1059, ông được triều đình đặc cách chức Hiệu Thư lang, chuyên chép chuyện các đời vua nhà Tống, nhưng chỉ được khen chứ không chê. Ông tỏ ra không thích công việc này, nên được đổi làm Chủ Bạ huyện Văn An. Ở đó ông soạn bộ Thái thường nhân cách lễ, gồm một trăm quyển. Sách vừa soạn xong thì ông qua đời.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Dùng lối ước lệ, thi hào Nguyễn Du miêu tả sắc đẹp của Vương Thuý Kiều, có câu:
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai
Khi tả Kim Trọng mơ nhớ, tương tư Kiều:
Phòng văn, hơi giá như đồng
Trúc se ngọn thỏ ta chùng phím loan
Mành tương phân phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình
Ví chăng duyên nợ ba sinh
Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi
Và, khi tả Thúc Sinh say mê Kiều:
Miệt mài trong cuộc truy hoan
Càng quen thuộc nết càng dan díu tình
Lạ cho cái sóng khuynh thành
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi
Ðời nhà Hán, Vua Võ Ðế (140- 86 trước Dương lịch) vốn người háo sắc. Vua không than thở vì mình chưa làm gì cho dân được hạnh phúc cơm no áo ấm, mà ngược lại thường than thở trong đời mình chưa được người đẹp nào vừa lòng để âu yếm trong vòng tay. Nhà vua thường trách:
- Trẫm xây đền Minh Quang kén hai ngàn gái đẹp ở vùng Yên, Triệu. Qúa 30 tuổi sa thải, cho về quê. Thế mà trong dịch đình có trên mười ngàn gái đẹp nhưng chưa có một ai đẹp cho vừa lòng trẫm. Thật là thiên hạ thiếu giai nhân tuyệt sắc!
Bấy giờ có người phường chèo danh tiếng tên Lý Diên Niên hầu trong nội điện, có người em gái sắc đẹp tuyệt vời đương làm nàng hầu cho công chúa Bình Dương. Nghe Vua than như thế, nhân một hôm hát chầu Vua, Lý hát một bài:
Bắc phương hữu giai nhân
Tuyệt thế nhi độc lập
Nhứt cố khuynh nhân thành
Tái cố khuynh nhân quốc
Khởi bất tri
Khuynh thành dữ khuynh quốc
Giai nhân nan tái đắc
Nghĩa là:
Phương Bắc có giai nhân
Tuyệt vời đứng riêng bực
Một nhìn người nghiêng thành
Nhìn lại người nghiêng nước
Lẽ nào không biết được
Người đẹp thành nước nghiêng
Người đẹp khó tìm gặp
Nghe hát, nhà Vua thở dài:
- Thế gian quả có người đẹp đến thế chăng?
Công chúa Bình Dương nhân đứng hầu bên cạnh, tâu:
- Diên Niên có người em gái đẹp tuyệt trần, còn hơn người trong bài hát ấy nữa.
Nhà Vua truyền đòi vào xem mặt. Quả là một giai nhân tuyệt sắc. Nàng lại còn giỏi nghề múa hát. Nhà Vua đắm đuối say mê, liền phong nàng làm phu nhân, từ ấy quyến luyến không lúc nào rời.
Sau khi sinh một đứa con trai, một hôm nàng lâm bệnh nặng, nhà Vua đến tận giường bệnh thăm hỏi. Nàng kéo mền che kín mặt, tâu:
- Thiếp bệnh từ lâu, hình dung tiều tuỵ, không dám đem cái nhan sắc ủ dột tàn phai ra mắt đấng quân vương. Thiếp xin gởi lại nhà Vua một đứa con bé nhỏ và mấy người anh em của thiếp.
Võ Ðế ngậm ngùi, bảo:
- Phu nhân bịnh nặng khó qua khỏi được, thì hãy dở mền cho ta nhìn mặt há chẳng làm cho ta được thoả lòng sao?
Nàng vẫn che kín mặt, từ chối:
- Theo lẽ Vua tôi, chồng vợ, đàn bà mặt không sạch tất không được ra mắt vua hay chồng. Vậy thiếp mong nhà Vua tha thứ.
Vua cố nài nỉ. Nàng vẫn thở dài úp mặt vào trong, không nói gì, vẫn giữ chặt lấy mền. Võ Ðế tức quá, đứng phắt dậy ra về. Nhiều người sợ nhà Vua giận nên có ý trách nàng. Nàng trả lời:
[i]- Ðàn bà thường lấy nhan sắc thờ chồng. Nhan sắc kém, tình yêu dễ sinh phai lạt. Nhà Vua quyến luyến ta chỉ vì nhan sắc xinh đẹp lúc ta mạnh. Nay ta đau, nhan sắc suy kém, so với thiên hạ, ta là kẻ xấu xa. Bấy giờ nhìn mặt ta, nhà Vua sẽ chán thì khi nào người còn tưởng nhớ đến ta mà ban ân huệ cho anh em ta nữa.
Thật đúng như lời than của Khổng Tử "Ta chưa thấy ai yêu cái đức tốt như yêu cái sắc đẹp vậy" (Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả dã)
Sau đó nàng chết. Hán Võ Ðế chôn cất rất long trọng, lại truyền thợ hoạ vẽ hình nàng- tất nhiên tưởng nhớ lại hình dáng khi nàng chưa bịnh- để treo ở cung Cam Tuyền, và phong cho anh em nàng quan tước cao. Ngày tháng trôi qua, nhưng hình bóng người đẹp vẫn lởn vởn trước mắt.
Ðời nhà Ðường (618- 907), Vua Ðường Minh Hoàng dắt Dương Ngọc Hoàn (tức Dương Quý Phi) thưởng hoa ở đình Cẩm Hương. Trong lúc cảm hứng, Vua cho vời Lý Bạch đến bảo làm ngay ba bài thơ "Thanh bình điệu". Thi hào họ Lý còn say rượu, nhưng cầm bút viết luôn một mạch ba bài thơ. Mỗi bài 4 câu. Bài thứ ba có câu:
Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan
Thường đắc quân vương đái tiểu khan
Ngô Tất Tố dịch:
Danh hoa nghiêng nước sánh đòi vai
Ðể xứng quân vương một nụ cười
"Nghiêng nước nghiêng thành" hay "khuynh quốc khuynh thành" xuất xứ ở điển tích trên, để chỉ một người con gái có sắc đẹp tuyệt thế.
Trong Truyện Kiều, tác giả mượn điển tích theo thiên nhiên (trời ban cho) thì "sắc đành đòi một tài đành hoạ hai". Khi chuyển sang đối với Kim Trọng vì tương tư Kiều nên trách mình bằng một lời trống không (hay trách trời, hay trách Kiều cũng thế), nếu không duyên số thì đem thói "khuynh thành" trêu ngươi làm gì?. Ðặc biệt và khác hơn, khi chuyển sang Thúc Sinh- một tên đi buôn đã có vợ, sợ vợ mà còn muốn gái đẹp làng chơi, muốn lấy vợ lẽ- thì tác giả lại cực tả "làm cho đổ quán xiêu đình như chơi". Nhất là tác giả dùng tiếng "sóng" (sóng khuynh thành) để chỉ một sức mạnh dữ dội của sắc đẹp qua câu thành ngữ Việt Nam
"Gái quốc sắc như cơn sóng lượn
Trai anh hùng như chiếc thuyền nghiêng"
hay
"Sắc bất ba đào dị nịch nhân" (sắc đẹp không có sóng mà dễ nhận chìm người).
Qua bút pháp của tác giả, chúng ta thấy: Sắc đẹp mà trời đã ban cho Kiều, đối với thiên nhiên hay đối với Kiều:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai
thì thực là hồn nhiên, êm ả.
Ðối với Kim Trọng, ý trung nhân của Kiều, mơ nhớ tương tư Kiều:
Ví chăng duyên nợ ba sinh
Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi
thì thực là ai oán, não nùng
Ðối với Thúc Sinh, một thương buôn "trăm nghìn đổ một trận cười như không"
Lạ chi cái sóng khuynh thành
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi
thì thực là mãnh liệt
Cũng một điển tích để chỉ một sắc đẹp tuyệt vời của một người con gái, nhưng tác giả sử dụng ba nơi tạo thành ba trạng thái chuyển biến của ba đối tượng chủ quan và khách quan, thực là một dụng ý sâu sắc với một bút pháp sáng tạo linh hoạt, phong phú, tài tình.
"Một hai nghiêng nước nghiêng thành", có thể tác giả Truyện Kiều thấy chưa đủ. Vì sắc đẹp ấy chỉ có tính tổng quát qua hình dáng bên ngoài bằng một bút pháp ước lệ, trừu tượng. Cho nên tác giả không thể bỏ qua hay không thể quên mà cần thêm một lần nữa- có phần cụ thể hơn về vẻ đẹp toàn diện con người của Kiều bằng một bút pháp miêu tả tuyệt diệu, làm cân xứng hay làm tăng cho cái vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành
Khi Kiều đã phải sa vào lầu xanh ở Lâm tri huyện, đời nhà Minh thuộc phủ Thanh Châu, tỉnh Sơn Ðông gặp Thúc Sinh. Nhân Kiều tắm, Thúc Sinh tò mò:
Buồng the phải buổi thong dong
Thang lang rủ bước trướng hồng tẩm hoa
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên
Sinh càng tỏ nét càng khen
Ngụ tình tay thảo một thiên luật Ðường
"Một tòa thiên nhiên" tác giả dùng chữ "tòa" thật không quá đáng, mà còn rất tuyệt.
Người ta, thân thể ai cũng có chê hoặc về mặt này hay mặt khác. Riêng Kiều là hoàn toàn. Vì chỉ có "tòa" tức là một hình tượng được đúc nên hoàn toàn khi được nghiên cứu, sửa chữa đến chỗ hoàn mỹ mới đúc. Sắc đẹp của Kiều hay con người Kiều quả là một tác phẩm nghệ thuật tạo hình tuyệt kỹ: ngoại thân nội thể phù hợp và chung nhứt qua bút pháp miêu tả từ hư đến thực.
(Theo Ðiển tích Truyện Kiều)
Dùng lối ước lệ, thi hào Nguyễn Du miêu tả sắc đẹp của Vương Thuý Kiều, có câu:
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai
Khi tả Kim Trọng mơ nhớ, tương tư Kiều:
Phòng văn, hơi giá như đồng
Trúc se ngọn thỏ ta chùng phím loan
Mành tương phân phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình
Ví chăng duyên nợ ba sinh
Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi
Và, khi tả Thúc Sinh say mê Kiều:
Miệt mài trong cuộc truy hoan
Càng quen thuộc nết càng dan díu tình
Lạ cho cái sóng khuynh thành
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi
Ðời nhà Hán, Vua Võ Ðế (140- 86 trước Dương lịch) vốn người háo sắc. Vua không than thở vì mình chưa làm gì cho dân được hạnh phúc cơm no áo ấm, mà ngược lại thường than thở trong đời mình chưa được người đẹp nào vừa lòng để âu yếm trong vòng tay. Nhà vua thường trách:
- Trẫm xây đền Minh Quang kén hai ngàn gái đẹp ở vùng Yên, Triệu. Qúa 30 tuổi sa thải, cho về quê. Thế mà trong dịch đình có trên mười ngàn gái đẹp nhưng chưa có một ai đẹp cho vừa lòng trẫm. Thật là thiên hạ thiếu giai nhân tuyệt sắc!
Bấy giờ có người phường chèo danh tiếng tên Lý Diên Niên hầu trong nội điện, có người em gái sắc đẹp tuyệt vời đương làm nàng hầu cho công chúa Bình Dương. Nghe Vua than như thế, nhân một hôm hát chầu Vua, Lý hát một bài:
Bắc phương hữu giai nhân
Tuyệt thế nhi độc lập
Nhứt cố khuynh nhân thành
Tái cố khuynh nhân quốc
Khởi bất tri
Khuynh thành dữ khuynh quốc
Giai nhân nan tái đắc
Nghĩa là:
Phương Bắc có giai nhân
Tuyệt vời đứng riêng bực
Một nhìn người nghiêng thành
Nhìn lại người nghiêng nước
Lẽ nào không biết được
Người đẹp thành nước nghiêng
Người đẹp khó tìm gặp
Nghe hát, nhà Vua thở dài:
- Thế gian quả có người đẹp đến thế chăng?
Công chúa Bình Dương nhân đứng hầu bên cạnh, tâu:
- Diên Niên có người em gái đẹp tuyệt trần, còn hơn người trong bài hát ấy nữa.
Nhà Vua truyền đòi vào xem mặt. Quả là một giai nhân tuyệt sắc. Nàng lại còn giỏi nghề múa hát. Nhà Vua đắm đuối say mê, liền phong nàng làm phu nhân, từ ấy quyến luyến không lúc nào rời.
Sau khi sinh một đứa con trai, một hôm nàng lâm bệnh nặng, nhà Vua đến tận giường bệnh thăm hỏi. Nàng kéo mền che kín mặt, tâu:
- Thiếp bệnh từ lâu, hình dung tiều tuỵ, không dám đem cái nhan sắc ủ dột tàn phai ra mắt đấng quân vương. Thiếp xin gởi lại nhà Vua một đứa con bé nhỏ và mấy người anh em của thiếp.
Võ Ðế ngậm ngùi, bảo:
- Phu nhân bịnh nặng khó qua khỏi được, thì hãy dở mền cho ta nhìn mặt há chẳng làm cho ta được thoả lòng sao?
Nàng vẫn che kín mặt, từ chối:
- Theo lẽ Vua tôi, chồng vợ, đàn bà mặt không sạch tất không được ra mắt vua hay chồng. Vậy thiếp mong nhà Vua tha thứ.
Vua cố nài nỉ. Nàng vẫn thở dài úp mặt vào trong, không nói gì, vẫn giữ chặt lấy mền. Võ Ðế tức quá, đứng phắt dậy ra về. Nhiều người sợ nhà Vua giận nên có ý trách nàng. Nàng trả lời:
[i]- Ðàn bà thường lấy nhan sắc thờ chồng. Nhan sắc kém, tình yêu dễ sinh phai lạt. Nhà Vua quyến luyến ta chỉ vì nhan sắc xinh đẹp lúc ta mạnh. Nay ta đau, nhan sắc suy kém, so với thiên hạ, ta là kẻ xấu xa. Bấy giờ nhìn mặt ta, nhà Vua sẽ chán thì khi nào người còn tưởng nhớ đến ta mà ban ân huệ cho anh em ta nữa.
Thật đúng như lời than của Khổng Tử "Ta chưa thấy ai yêu cái đức tốt như yêu cái sắc đẹp vậy" (Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả dã)
Sau đó nàng chết. Hán Võ Ðế chôn cất rất long trọng, lại truyền thợ hoạ vẽ hình nàng- tất nhiên tưởng nhớ lại hình dáng khi nàng chưa bịnh- để treo ở cung Cam Tuyền, và phong cho anh em nàng quan tước cao. Ngày tháng trôi qua, nhưng hình bóng người đẹp vẫn lởn vởn trước mắt.
Ðời nhà Ðường (618- 907), Vua Ðường Minh Hoàng dắt Dương Ngọc Hoàn (tức Dương Quý Phi) thưởng hoa ở đình Cẩm Hương. Trong lúc cảm hứng, Vua cho vời Lý Bạch đến bảo làm ngay ba bài thơ "Thanh bình điệu". Thi hào họ Lý còn say rượu, nhưng cầm bút viết luôn một mạch ba bài thơ. Mỗi bài 4 câu. Bài thứ ba có câu:
Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan
Thường đắc quân vương đái tiểu khan
Ngô Tất Tố dịch:
Danh hoa nghiêng nước sánh đòi vai
Ðể xứng quân vương một nụ cười
"Nghiêng nước nghiêng thành" hay "khuynh quốc khuynh thành" xuất xứ ở điển tích trên, để chỉ một người con gái có sắc đẹp tuyệt thế.
Trong Truyện Kiều, tác giả mượn điển tích theo thiên nhiên (trời ban cho) thì "sắc đành đòi một tài đành hoạ hai". Khi chuyển sang đối với Kim Trọng vì tương tư Kiều nên trách mình bằng một lời trống không (hay trách trời, hay trách Kiều cũng thế), nếu không duyên số thì đem thói "khuynh thành" trêu ngươi làm gì?. Ðặc biệt và khác hơn, khi chuyển sang Thúc Sinh- một tên đi buôn đã có vợ, sợ vợ mà còn muốn gái đẹp làng chơi, muốn lấy vợ lẽ- thì tác giả lại cực tả "làm cho đổ quán xiêu đình như chơi". Nhất là tác giả dùng tiếng "sóng" (sóng khuynh thành) để chỉ một sức mạnh dữ dội của sắc đẹp qua câu thành ngữ Việt Nam
"Gái quốc sắc như cơn sóng lượn
Trai anh hùng như chiếc thuyền nghiêng"
hay
"Sắc bất ba đào dị nịch nhân" (sắc đẹp không có sóng mà dễ nhận chìm người).
Qua bút pháp của tác giả, chúng ta thấy: Sắc đẹp mà trời đã ban cho Kiều, đối với thiên nhiên hay đối với Kiều:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai
thì thực là hồn nhiên, êm ả.
Ðối với Kim Trọng, ý trung nhân của Kiều, mơ nhớ tương tư Kiều:
Ví chăng duyên nợ ba sinh
Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi
thì thực là ai oán, não nùng
Ðối với Thúc Sinh, một thương buôn "trăm nghìn đổ một trận cười như không"
Lạ chi cái sóng khuynh thành
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi
thì thực là mãnh liệt
Cũng một điển tích để chỉ một sắc đẹp tuyệt vời của một người con gái, nhưng tác giả sử dụng ba nơi tạo thành ba trạng thái chuyển biến của ba đối tượng chủ quan và khách quan, thực là một dụng ý sâu sắc với một bút pháp sáng tạo linh hoạt, phong phú, tài tình.
"Một hai nghiêng nước nghiêng thành", có thể tác giả Truyện Kiều thấy chưa đủ. Vì sắc đẹp ấy chỉ có tính tổng quát qua hình dáng bên ngoài bằng một bút pháp ước lệ, trừu tượng. Cho nên tác giả không thể bỏ qua hay không thể quên mà cần thêm một lần nữa- có phần cụ thể hơn về vẻ đẹp toàn diện con người của Kiều bằng một bút pháp miêu tả tuyệt diệu, làm cân xứng hay làm tăng cho cái vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành
Khi Kiều đã phải sa vào lầu xanh ở Lâm tri huyện, đời nhà Minh thuộc phủ Thanh Châu, tỉnh Sơn Ðông gặp Thúc Sinh. Nhân Kiều tắm, Thúc Sinh tò mò:
Buồng the phải buổi thong dong
Thang lang rủ bước trướng hồng tẩm hoa
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên
Sinh càng tỏ nét càng khen
Ngụ tình tay thảo một thiên luật Ðường
"Một tòa thiên nhiên" tác giả dùng chữ "tòa" thật không quá đáng, mà còn rất tuyệt.
Người ta, thân thể ai cũng có chê hoặc về mặt này hay mặt khác. Riêng Kiều là hoàn toàn. Vì chỉ có "tòa" tức là một hình tượng được đúc nên hoàn toàn khi được nghiên cứu, sửa chữa đến chỗ hoàn mỹ mới đúc. Sắc đẹp của Kiều hay con người Kiều quả là một tác phẩm nghệ thuật tạo hình tuyệt kỹ: ngoại thân nội thể phù hợp và chung nhứt qua bút pháp miêu tả từ hư đến thực.
(Theo Ðiển tích Truyện Kiều)
Tiểu sinh đã đọc những điển tích về truyện Kiều của bằng hữu
Bạch Vân Phi thấy rằng rất bổ ích, nay tiểu sinh xin mạn phép góp ý kiến nhỏ về
bài thơ "Đề đô thành nam trang" của Thôi Hộ được trích dẫn theo điển
tích "Hoa đào năm ngoái vẫn cười gió đông".
Bạch Vân Phi xuất chiêu ở trên:
Khứ niên kim nhựt thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Ðào hoa y cựu tiếu đông phong
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Ðào hoa y cựu tiếu đông phong
Có bản chép Nguyên văn chữ Hán như sau:
題都城南莊
去年今日此門中,
人面桃花相映紅;
人面不知何處去,
桃花依舊笑春風。
Dịch âm:
Khứ niên kim nhựt thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Ðào hoa y cựu tiếu xuân phong
Theo tiểu sinh nghĩ câu thứ tư theo nguyên tác phải dịch là "Đào hoa y cựu tiếu xuân phong".
題都城南莊
去年今日此門中,
人面桃花相映紅;
人面不知何處去,
桃花依舊笑春風。
Dịch âm:
Khứ niên kim nhựt thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Ðào hoa y cựu tiếu xuân phong
Theo tiểu sinh nghĩ câu thứ tư theo nguyên tác phải dịch là "Đào hoa y cựu tiếu xuân phong".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét