Ả Lý (Lại thua ả Lý bán mình hay sao)
Ấp cây (Trần trần một phận ấp cây đã liều)
Ba đào (Gặp cơn bình địa ba đào)
Ba sinh (Ví chăng duyên nợ Ba sinh)
Bảy chữ, tám nghề (Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề)
Băng nhân (Sự lòng ngỏ với băng nhân)
Bể dâu (Trải qua một cuộc bể dâu)
Bố kinh (Đã cho vào bậc Bố kinh)
Ấp cây (Trần trần một phận ấp cây đã liều)
Ba đào (Gặp cơn bình địa ba đào)
Ba sinh (Ví chăng duyên nợ Ba sinh)
Bảy chữ, tám nghề (Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề)
Băng nhân (Sự lòng ngỏ với băng nhân)
Bể dâu (Trải qua một cuộc bể dâu)
Bố kinh (Đã cho vào bậc Bố kinh)
Cầm đài (Rằng nge: Nổi tiếng cầm đài
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ)
Chàng Tiêu (Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu)
Châu sa (Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa)
[*] Đào nguyên (Ðào nguyên lạc lối đâu mà đến đây)
Đỉnh Giáp, non Thần (Bâng khuâng đỉnh Giáp, non Thần)
Đoạn trường (Mà xem trong sổ Ðoạn trường có tên)
Ðồng tước (Một nền Ðồng tước khoá xuân hai Kiều)
Gieo thoi (Gieo thoi trước chẳng giữ giàng)
Giọt hồng (Nhìn càng lã chã giọt hồng)
Gương Vỡ Lại Lành
Hán Sở chiến trường (Khúc đâu Hán Sở chiến trường)
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Hoa Tàn Mà Lại Thêm Tươi
Hồ cầm (Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương)
Kết Cỏ
Khúc Quảng Lăng
Lam Kiều (Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang)
Lá thắm, chim xanh (Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh)
Liễu Chương Đài
Mạch Tương (Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương)
Mạt Cưa Mướp Đắng
Nàng Ban ả Tạ (Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này)
Nàng Oanh
Nhà huyên (Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì)
Nghiêng nước nghiêng thành (Một hai nghiêng nước nghiêng thành)
Phiếu Mẫu
Quạt Nồng Ấp Lạnh
Sâm Thương
Sân Hoè
Sân Lai
Sông Tương (Sông Tương một dải nông sờ)
Sống làm vợ khắp người ta
Khéo thay chết xuống làm ma không chồng
Suối vàng (Họa là người dưới suối vàng biết cho)
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm
Tất Giao
Thang Mây
Thiên thai (Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai)
Thôi, Trương
Thục đế, đỗ quyên (Ấy hồn Thục Ðế hay mình Ðỗ Quyên)
Tiểu Lân
Tống Ngọc
Trao Tơ
Trang Sinh (Ấy là Hồ Điệp hay là Trang Sinh)
Tràng Khanh
Trúc Mai
Tựa Cửa Hôm Mai
Tú Khẩu Cẩm Tâm
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ)
Chàng Tiêu (Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu)
Châu sa (Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa)
[*] Đào nguyên (Ðào nguyên lạc lối đâu mà đến đây)
Đỉnh Giáp, non Thần (Bâng khuâng đỉnh Giáp, non Thần)
Đoạn trường (Mà xem trong sổ Ðoạn trường có tên)
Ðồng tước (Một nền Ðồng tước khoá xuân hai Kiều)
Gieo thoi (Gieo thoi trước chẳng giữ giàng)
Giọt hồng (Nhìn càng lã chã giọt hồng)
Gương Vỡ Lại Lành
Hán Sở chiến trường (Khúc đâu Hán Sở chiến trường)
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Hoa Tàn Mà Lại Thêm Tươi
Hồ cầm (Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương)
Kết Cỏ
Khúc Quảng Lăng
Lam Kiều (Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang)
Lá thắm, chim xanh (Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh)
Liễu Chương Đài
Mạch Tương (Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương)
Mạt Cưa Mướp Đắng
Nàng Ban ả Tạ (Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này)
Nàng Oanh
Nhà huyên (Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì)
Nghiêng nước nghiêng thành (Một hai nghiêng nước nghiêng thành)
Phiếu Mẫu
Quạt Nồng Ấp Lạnh
Sâm Thương
Sân Hoè
Sân Lai
Sông Tương (Sông Tương một dải nông sờ)
Sống làm vợ khắp người ta
Khéo thay chết xuống làm ma không chồng
Suối vàng (Họa là người dưới suối vàng biết cho)
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm
Tất Giao
Thang Mây
Thiên thai (Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai)
Thôi, Trương
Thục đế, đỗ quyên (Ấy hồn Thục Ðế hay mình Ðỗ Quyên)
Tiểu Lân
Tống Ngọc
Trao Tơ
Trang Sinh (Ấy là Hồ Điệp hay là Trang Sinh)
Tràng Khanh
Trúc Mai
Tựa Cửa Hôm Mai
Tú Khẩu Cẩm Tâm
Ðào nguyên lạc lối đâu mà đến đây
Sau khi du Thanh minh về Kiều nằm mộng:
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều
Có chiều phong vận có chiều thanh tân
Sương in mặt tuyết pha thân
Sen vàng lững thững như gần như xa.
Rước nàng đón hỏi dò la:
Ðào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?
Và, nhân lúc cha mẹ vắng nhà Kiều sang phòng văn của Kim Trọng:
"Lần theo núi giả đi vòng,
Cuối tường dường có nẻo thông mới vào.
Xắn tay mở khoá động Ðào,
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai".
"Ðào nguyên", "động đào" hay "động Bích" chỉ nơi tiên ở cũng như "Thiên thai".
Theo "Ðào hoa nguyên ký" của Ðào Tiềm (365 -427), một nhà thơ văn đời Ðồng Tấn, có một ngư phủ huyện Vũ Lăng, một hôm chèo thuyền đi ngược theo bờ suối. Càng đi xa chừng nào thì thấy càng có nhiều hoa đào trôi theo dòng nước đổ xuống. Ðến một quãng bỗng thấy trước mặt hiện ra một rừng đào. Hoa đào đỏ rực rỡ làm cho ngư phủ càng thấy say sưa, thích thú. Ðịnh có người ở gần đấy nên bỏ thuyền lên bờ. Vượt qua rừng đào đến một ngọn núi, dưới chân núi có một cái hang nhỏ hẹp vừa một người chui được, bên trong thấy thoáng có ánh sáng.
Gợi tính tò mò, ngư phủ lách mình vào cửa hang. Lúc đầu cửa hang còn hẹp, sau rộng dần. Rồi cả một thế giới hiện ra: ruộng vườn tươi tốt, thôn ấp, nhà cửa liên tiếp nhau. Gà gáy, chó sủa nghe rõ mồn một. Trai gái đều say sưa công việc đồng áng. Trên mặt mọi người hiện vẻ vui tươi, chất phát, hồn nhiên. Người già, trẻ con đều có vẻ ung dung, thanh thản. Họ thấy ngư phủ thì lấy làm kinh ngạc hỏi làm sao đến được chốn này? Ngư phủ trình bày sự thật. Các phụ lão đem vợ con ra chào mừng khách lạ, dọn cơm rượu thịnh soạn đãi đằng. Ngư phủ ăn uống lấy làm ngon lạ, vì tuy cơm rượu mà tính chất khác thường. Các phụ lão lại nói: "Ðây là động Ðào nguyên. Tổ tiên chúng tôi tránh học đời Tần, đem cả gia đình vào ở đây, từ đó cách biệt với bên ngoài..."
Cuối cùng họ dặn ngư phủ: sau khi ra khỏi chốn này, xin đừng cho ai biết có họ ở đây. Lão ngư phủ ở chơi một hôm rồi cáo biệt. Ngư phủ cho mình may mắn gặp được tiên. Khi trở về nhiều người đến thăm hỏi, trước đó còn tìm cách giấu quanh. Chuyện thấu đến quan Thái thú sở tại, ngư phủ đành phải thuật cả việc lại. Có tính hiếu kỳ, viên Thái thú sai người đi theo ngư phủ tìm lại động Ðào nguyên nhưng bị lạc đường đành phải trở về.
Nước ta có chuyện "Ðộng Bích Ðào"
Ðộng ở xã Trị Nội, huyện Nga Sơn, bên mặt núi Trần Phù thuộc tỉnh Thanh Hoá. Tương truyền đời nhà Trần, niên hiệu Quang Thái (1388 - 1398) có ông Từ Thức làm quan Tể huyện Tiên du (tỉnh Bắc Ninh). Bên cạnh huyện có một ngôi chùa có trồng một cây mẫu đơn. Mỗi khi nở hoa thì người các nơi đổ đến, xe ngựa dập dìu.
Trong khi mọi người nhìn ngắm hoa đẹp, bỗng có một thiếu nữ dung nhan diễm lệ bước đến, đưa tay ve vuốt lấy hoa. Nhưng chẳng may khi vịn lấy một cành mẫu đơn thì cành giòn bị gãy. Người giữ hoa giữ nàng lại, bắt đền. Nàng không có vật gì đền. Và, mãi đến tối cũng không có người quen đến nhận. Nàng khóc. Từ Thức thấy thế động lòng thương xót, liền cởi áo bạch cẩm cừu đưa cho nàng chuộc tội, để được thả về.
Một thời gian sau vì không muốn ràng buộc bởi lợi danh, Từ Thức trả ấn từ quan về ở huyện Tống Sơn. Rồi ngày ngày, Từ với một con thuyền, một bầu rượu, túi thơ chu du khắp danh lam thắng cảnh. Một hôm nhìn thấy cửa biển Thần Phù có đám mây năm sắc kết tụ hình hoa sen, Từ vội chèo thuyền đến, thấy một hòn núi rất đẹp, lòng sinh cảm khái, nhân đề một bài thơ. Từ đề thơ xong nhưng bỡ ngỡ chưa biết đường nào đi, thoạt thấy vách đá tách mở ra một chỗ tròn khoảng trên một thước. Từ đi bộ chen mình vào, nhưng được vài bước thì vách đá khép kín lại. Ði được vài dặm thấy sườn đá đứng thẳng như bức tường. Từ lần leo lên, mỗi bước thấy đường càng rộng. Ðến chót núi thì thấy có ánh mặt trời chiếu xuống. Nhìn quanh bốn phía thấy một dãy lâu đài cực kỳ lộng lẫy như tranh vẽ. Từ đương lấy làm ngạc nhiên, bỗng thấy có một đồng nữ áo xanh đến bảo:
- Phu nhân tôi xin mời tướng công vào!
Từ mừng rỡ vâng lời. Thẳng vào thì thấy một phu nhân đương ngồi trên giừơng chạm thất bảo, bên cạnh có đặt một cái tháp nhỏ bằng đàn hương. Phu nhân mời Từ ngồi ung dung bảo:
- Ðây là hang động thứ sáu trong số 36 động ở Phù Lai. Ta đây là Ngụy phu nhân địa tiên Nam nhạc , nghe nhà ngươi có cao nghĩa hay cứu trợ người khốn đốn nên mới cho rước đến đây.
Ðoạn, phu nhân gọi một cô gái đến.
Từ liếc nhìn, nhận ra là thiếu nữ làm gãy hoa ngày trước. Phu nhân chỉ cô gái, bảo Từ:
- Ðó là con ta tên Giáng Hương. Khi truớc nhờ ngươi cứu việc làm gãy hoa, ơn ấy không quên nên ta muốn kết làm giai ngẫu để trả.
Từ rất vui mừng. Ngay trong đêm ấy, phu nhân truyền thắp đèn mở phụng, trải phụng, trải chiếu vũ rồng, cho Từ cùng Giáng Hương làm lễ giao bôi.
Thấm thoát đã được một năm. Nhưng cảnh tiên không khuây khoả được lòng trần, Từ bỗng dưng động lòng nhớ cố hương nên ngỏ ý với Giáng Hương cho về thăm. Biết không giữ được, nàng đành thưa với mẹ. Phu nhân biết Từ còn nặng lòng trần nên bằng lòng, cho Từ một chiếc xe bằng mây "Cẩm xa vân" để đưa về. Riêng Giáng Hương giao cho Từ một phong thư, dặn về đến nhà hãy mở ra xem.
Ðến nhà, nhìn quanh cảnh cũ không còn như xưa, thành quách nhân dân không còn như trước, duy cảnh núi sông thì còn như độ nào. Từ đem tên họ mình mà hỏi thăm người già, thì có người bảo:
- Thuở tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay có gần trăm năm rồi.
Từ Thức bấy giờ mới bỡ ngỡ, bùi ngùi, muốn lên xe mây để về chốn cũ thì xe đã hoá thành con trường loan bay mất. Buồn tủi, Từ mở thư của Giáng Hương xem, chỉ có câu ngắn ngủi:
"Kết loan lữ ư vân trung, tiền duyên dĩ đoạn;
phỏng trên sơn ư hải thượng, hậu hội vô nhân".
(Kết bạn loan trong mây, duyên trước đã dứt, tìm núi tiên ở trên biển, hội sau khôn cẩu).
ý nói, duyên trước kết đôi loan phụng cùng nhau nay đã đoạn tuyệt rồi; ngày sau muốn tìm lại núi tiên cũng không được nữa.
Tuyệt vọng hoàn toàn. Từ đó, Từ Thức mặc áo Khinh cừu, đội nón lá vào núi Hoàng Sơn ở huyện Nông Cống (tỉnh Thanh Hoá) rồi biệt tích.
Ðào nguyên, Ðộng Ðào, Thiên Thai, động Bích là tiên cảnh, nơi tiên ở...dùng lối thậm xưng để chỉ chỗ ở xinh đẹp, thanh cao.
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều
Có chiều phong vận có chiều thanh tân
Sương in mặt tuyết pha thân
Sen vàng lững thững như gần như xa.
Rước nàng đón hỏi dò la:
Ðào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?
Và, nhân lúc cha mẹ vắng nhà Kiều sang phòng văn của Kim Trọng:
"Lần theo núi giả đi vòng,
Cuối tường dường có nẻo thông mới vào.
Xắn tay mở khoá động Ðào,
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai".
"Ðào nguyên", "động đào" hay "động Bích" chỉ nơi tiên ở cũng như "Thiên thai".
Theo "Ðào hoa nguyên ký" của Ðào Tiềm (365 -427), một nhà thơ văn đời Ðồng Tấn, có một ngư phủ huyện Vũ Lăng, một hôm chèo thuyền đi ngược theo bờ suối. Càng đi xa chừng nào thì thấy càng có nhiều hoa đào trôi theo dòng nước đổ xuống. Ðến một quãng bỗng thấy trước mặt hiện ra một rừng đào. Hoa đào đỏ rực rỡ làm cho ngư phủ càng thấy say sưa, thích thú. Ðịnh có người ở gần đấy nên bỏ thuyền lên bờ. Vượt qua rừng đào đến một ngọn núi, dưới chân núi có một cái hang nhỏ hẹp vừa một người chui được, bên trong thấy thoáng có ánh sáng.
Gợi tính tò mò, ngư phủ lách mình vào cửa hang. Lúc đầu cửa hang còn hẹp, sau rộng dần. Rồi cả một thế giới hiện ra: ruộng vườn tươi tốt, thôn ấp, nhà cửa liên tiếp nhau. Gà gáy, chó sủa nghe rõ mồn một. Trai gái đều say sưa công việc đồng áng. Trên mặt mọi người hiện vẻ vui tươi, chất phát, hồn nhiên. Người già, trẻ con đều có vẻ ung dung, thanh thản. Họ thấy ngư phủ thì lấy làm kinh ngạc hỏi làm sao đến được chốn này? Ngư phủ trình bày sự thật. Các phụ lão đem vợ con ra chào mừng khách lạ, dọn cơm rượu thịnh soạn đãi đằng. Ngư phủ ăn uống lấy làm ngon lạ, vì tuy cơm rượu mà tính chất khác thường. Các phụ lão lại nói: "Ðây là động Ðào nguyên. Tổ tiên chúng tôi tránh học đời Tần, đem cả gia đình vào ở đây, từ đó cách biệt với bên ngoài..."
Cuối cùng họ dặn ngư phủ: sau khi ra khỏi chốn này, xin đừng cho ai biết có họ ở đây. Lão ngư phủ ở chơi một hôm rồi cáo biệt. Ngư phủ cho mình may mắn gặp được tiên. Khi trở về nhiều người đến thăm hỏi, trước đó còn tìm cách giấu quanh. Chuyện thấu đến quan Thái thú sở tại, ngư phủ đành phải thuật cả việc lại. Có tính hiếu kỳ, viên Thái thú sai người đi theo ngư phủ tìm lại động Ðào nguyên nhưng bị lạc đường đành phải trở về.
Nước ta có chuyện "Ðộng Bích Ðào"
Ðộng ở xã Trị Nội, huyện Nga Sơn, bên mặt núi Trần Phù thuộc tỉnh Thanh Hoá. Tương truyền đời nhà Trần, niên hiệu Quang Thái (1388 - 1398) có ông Từ Thức làm quan Tể huyện Tiên du (tỉnh Bắc Ninh). Bên cạnh huyện có một ngôi chùa có trồng một cây mẫu đơn. Mỗi khi nở hoa thì người các nơi đổ đến, xe ngựa dập dìu.
Trong khi mọi người nhìn ngắm hoa đẹp, bỗng có một thiếu nữ dung nhan diễm lệ bước đến, đưa tay ve vuốt lấy hoa. Nhưng chẳng may khi vịn lấy một cành mẫu đơn thì cành giòn bị gãy. Người giữ hoa giữ nàng lại, bắt đền. Nàng không có vật gì đền. Và, mãi đến tối cũng không có người quen đến nhận. Nàng khóc. Từ Thức thấy thế động lòng thương xót, liền cởi áo bạch cẩm cừu đưa cho nàng chuộc tội, để được thả về.
Một thời gian sau vì không muốn ràng buộc bởi lợi danh, Từ Thức trả ấn từ quan về ở huyện Tống Sơn. Rồi ngày ngày, Từ với một con thuyền, một bầu rượu, túi thơ chu du khắp danh lam thắng cảnh. Một hôm nhìn thấy cửa biển Thần Phù có đám mây năm sắc kết tụ hình hoa sen, Từ vội chèo thuyền đến, thấy một hòn núi rất đẹp, lòng sinh cảm khái, nhân đề một bài thơ. Từ đề thơ xong nhưng bỡ ngỡ chưa biết đường nào đi, thoạt thấy vách đá tách mở ra một chỗ tròn khoảng trên một thước. Từ đi bộ chen mình vào, nhưng được vài bước thì vách đá khép kín lại. Ði được vài dặm thấy sườn đá đứng thẳng như bức tường. Từ lần leo lên, mỗi bước thấy đường càng rộng. Ðến chót núi thì thấy có ánh mặt trời chiếu xuống. Nhìn quanh bốn phía thấy một dãy lâu đài cực kỳ lộng lẫy như tranh vẽ. Từ đương lấy làm ngạc nhiên, bỗng thấy có một đồng nữ áo xanh đến bảo:
- Phu nhân tôi xin mời tướng công vào!
Từ mừng rỡ vâng lời. Thẳng vào thì thấy một phu nhân đương ngồi trên giừơng chạm thất bảo, bên cạnh có đặt một cái tháp nhỏ bằng đàn hương. Phu nhân mời Từ ngồi ung dung bảo:
- Ðây là hang động thứ sáu trong số 36 động ở Phù Lai. Ta đây là Ngụy phu nhân địa tiên Nam nhạc , nghe nhà ngươi có cao nghĩa hay cứu trợ người khốn đốn nên mới cho rước đến đây.
Ðoạn, phu nhân gọi một cô gái đến.
Từ liếc nhìn, nhận ra là thiếu nữ làm gãy hoa ngày trước. Phu nhân chỉ cô gái, bảo Từ:
- Ðó là con ta tên Giáng Hương. Khi truớc nhờ ngươi cứu việc làm gãy hoa, ơn ấy không quên nên ta muốn kết làm giai ngẫu để trả.
Từ rất vui mừng. Ngay trong đêm ấy, phu nhân truyền thắp đèn mở phụng, trải phụng, trải chiếu vũ rồng, cho Từ cùng Giáng Hương làm lễ giao bôi.
Thấm thoát đã được một năm. Nhưng cảnh tiên không khuây khoả được lòng trần, Từ bỗng dưng động lòng nhớ cố hương nên ngỏ ý với Giáng Hương cho về thăm. Biết không giữ được, nàng đành thưa với mẹ. Phu nhân biết Từ còn nặng lòng trần nên bằng lòng, cho Từ một chiếc xe bằng mây "Cẩm xa vân" để đưa về. Riêng Giáng Hương giao cho Từ một phong thư, dặn về đến nhà hãy mở ra xem.
Ðến nhà, nhìn quanh cảnh cũ không còn như xưa, thành quách nhân dân không còn như trước, duy cảnh núi sông thì còn như độ nào. Từ đem tên họ mình mà hỏi thăm người già, thì có người bảo:
- Thuở tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay có gần trăm năm rồi.
Từ Thức bấy giờ mới bỡ ngỡ, bùi ngùi, muốn lên xe mây để về chốn cũ thì xe đã hoá thành con trường loan bay mất. Buồn tủi, Từ mở thư của Giáng Hương xem, chỉ có câu ngắn ngủi:
"Kết loan lữ ư vân trung, tiền duyên dĩ đoạn;
phỏng trên sơn ư hải thượng, hậu hội vô nhân".
(Kết bạn loan trong mây, duyên trước đã dứt, tìm núi tiên ở trên biển, hội sau khôn cẩu).
ý nói, duyên trước kết đôi loan phụng cùng nhau nay đã đoạn tuyệt rồi; ngày sau muốn tìm lại núi tiên cũng không được nữa.
Tuyệt vọng hoàn toàn. Từ đó, Từ Thức mặc áo Khinh cừu, đội nón lá vào núi Hoàng Sơn ở huyện Nông Cống (tỉnh Thanh Hoá) rồi biệt tích.
Ðào nguyên, Ðộng Ðào, Thiên Thai, động Bích là tiên cảnh, nơi tiên ở...dùng lối thậm xưng để chỉ chỗ ở xinh đẹp, thanh cao.
Họa là người dưới suối vàng biết cho
Trước nấm mồ của Ðạm Tiên hoang vắng, Kiều cảm động than thở, có câu:
"Nào người phượng chạ loan chung,
Nào ai tiếc lục tham hồng là ai?
Ðã không kẻ đoái người hoài
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Hoạ là người dưới suối vàng biết cho"
Và, khi bán mình lo hối lộ quan lại để cứu cha mắc tội oan, Kiều làm thơ than thở với em là Thuý Vân nhờ thay mình để kết duyên với Kim Trọng, có câu:
"Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"
"Suối vàng", nguyên từ Hán Việt là "Hoàng (huỳnh) tuyền"; "Chín suối" là "Cửu tuyền" hay "Cửu nguyên" đều chỉ cõi âm phủ. Theo mê tín, đây là một cái suối màu vàng ở dưới lòng đất, người ta lúc chết chôn xuống dưới đất nên dùng chữ "suối vàng" để chỉ chỗ ở của người chết. Sách Tả truyện có câu: "Bất cập hoàng tuyền vô tương kiến giã", nghĩa là "Không đến suối vàng thì không gặp nhau được".
Nguyên đời Xuân Thu (722-749 trước D.L), Vũ công nước Trịnh có vợ là Khương Thị sinh ra con trưởng là Ngộ Sinh và con thứ là Ðoạn. Vì sinh Ngộ Sinh do sự đẻ ngang làm Khương Thị khổ sở nên bà không ưa. Trái lại, Ðoạn mặt mũi khôi ngô, sức mạnh hơn người lại có tài thiện xạ nên Khương Thị rất yêu chiều. Muốn cho Ðoạn sau này nối ngôi, nên trước mặt Trịnh Vũ công, bà thường khen Ðoạn là người hiền đức và tỏ ý muốn lập Ðoạn làm thế tử. Trịnh Vũ công bảo:
- Anh em có thứ bậc, không nên xáo trộn đạo lý. Hơn nữa, Ngộ Sinh không có tội lỗi gì thì sao bỏ trưởng lập thứ được?
Thế là Trịnh Vũ Công lập Ngộ Sinh làm Thế tử. Còn Ðoạn thì được phong cho đất Cung, gọi là Cung Thúc Ðoạn, Khương Thị lấy làm bất bình. Trịnh Vũ công mất, Ngộ Sinh lên kế vị tức Trịnh Trang Công, lại tiếp tục kiêm chức Khanh Sĩ nhà Châu thay cha. Dương Thị thấy Ðoạn không quyền hành, lấy làm buồn bã, bảo Trịnh Trang công:
- Con nối ngôi cha làm chủ nước Trịnh, đất rộng ngoài mấy trăm dặm, thế mà nỡ cho người em ruột thịt một chỗ đất nhỏ mọn không đủ để dung thân, sao yên lòng được?
Trịnh Trang Công thưa:
- Vậy xin mẫu thân cho biết ý muộn
- Sao không lấy đất Chế ấp mà phong cho em con.
- Chế ấp là một nơi hiểm yếu, tiên vương ngày xưa có di mạng cấm phong cho ai. Trừ đất ấy, mẫu thân mẫu thân muốn chỗ nào con cũng sẽ vâng lời.
- Nếu vậy thì phong cho nó đất Kinh Thành.
Trịnh Trang công im lặng. Khương thị thấy thế nổi giận bảo:
- Nếu con không nhận như vậy thì cứ đuổi Ðoạn đi nước khác, để nó tìm cách gì làm ăn được thì nó làm.
- Con đâu thể làm thế được.
Hôm sau, Trịnh Trang Công vời Ðoạn vào phong cho đất Kinh Thành. Quan Ðại phu là Sái Túc Can, cho rằng Kinh thành là một ấp lớn, đất rộng người đông, nếu đem phong cho Cung Thúc Ðoạn thì mai hậu Ðoạn sẽ cậy thế chuyên quyền. Nhưng Trang Công bảo:
- Mẫu thân ta đã muốn vậy thì ta phải làm theo vậy.
Thế là Ðoạn ra ở đất Kinh Thành. Trước khi đi, Ðoạn vào cáo biệt mẹ. Khương thị nói riêng với Ðoạn:
- Anh con không nghĩ đến tình ruột thịt, đãi con lắm điều tệ bạc. Nhờ ta ba lần khẩn khoản nó mới phong đất Kinh thành cho con, ấy là vị nể chưa chắc thành thật. Con về Kinh thành nên lo luyện tập binh mã, chuẩn bị sẵn sàng, nếu có cơ hội thì đem quân lại đánh, ta sẽ nội ứng mà lấy nước Trịnh. Nếu con đoạt được ngôi của Ngộ Sinh thì ta có có chết cũng đành hả dạ.
Cung Thúc Ðoạn lãnh lịnh mẹ đóng ở đất Kinh thành, đổi hiệu Cung Thúc ra Thái Thúc. Từ đấy, Ðoạn ngày ngày đem quân vào rừng săn bắn nhưng kỳ thực là đi luyện tập, lại chiếm lấy hai ấp gần đó. Hai quan ấp tể trốn về triều kêu cứu. Trịnh Trang Công không nói gì chỉ mỉm cười. Quan Thượng khanh công tử Lã kêu lên:
- Tội Thái Thúc Ðoạn thực đáng giết.
Trang Công hỏi có ý kiến gì không, thì Lã nói:
- Thái Thúc Ðoạn ỷ lại trong có quốc mẫu yêu vì, ngoài cậy vào đất hiểm yếu của Kinh thành mà đêm ngày luyện tập binh mã, tất cố ý đoạt ngôi . Xin chúa công cho tôi đem quân đi đánh Kinh thành, bắt Ðoạn để trừ hậu hoạn.
Trang công bảo:
- Tội của Thúc Đoạn chưa có gì rõ rệt, không nên vội.
- Ðoạn đã chiếm lấy hai ấp. Không lẽ chúa công để đất của Tiên công hao mòn mãi sao?
Trang công cười nói:
- Ðoạn là con cưng của mẫu thân ta, ta thà mất bờ cõi còn hơn mất tình anh em và để mẫu thân ta phải buồn.
- Sợ mất bờ cõi thì không nói làm gì, e có ngày mất luôn cả nước. Nay Thúc Ðoạn ngày một cường thịnh, dân tình sợ uy mà sinh hai lòng. Bây giờ chúa công còn dung sau này Thúc Ðoạn không dung, chúa công hối thì làm sao kịp nữa?
Trang Công nghiêm giọng:
- Nhà ngươi không nên nói càn, để mặc ta lo nghĩ.
Công tử Lã đi ra, và nói với quan đại phu Sái Túc:
- Chúa công ta bịn rịn tình riêng mà quên việc nước. Tôi lấy làm lo lắm!
Sái Túc cười bảo:
- Chúa công là một người tài trí, há lại không biết điều ấy. Có lẽ vì chỗ đông người không tiện nói ra, vậy ông nên vào hầu riêng mà bàn chuyện, dò xem ý chúa công ra sao.
Công tử Lã cho là phải, bèn vào yết kiến Trang công, Trang công nói:
- Ta nghĩ kỹ lắm. Ðoạn dù vô đạo nhưng chưa rõ tội. Nếu ta đem quân đánh thì quốc mẫu ta ắt tìm cách ngăn cản. Người ngoài không biết lại bảo ta bất hữu và bất hiếu. Chi bằng cứ để thế, Ðoạn tất làm càn, không kiêng nể ai, lúc ấy ta sẽ kể tội trạng đem quân đi đánh thì người trong nước không ai giúp Ðoạn, mà đến mẫu thân ta cũng không oán trách gì được.
- Nếu quả vậy, chúa công cao kiến lắm, chúng tôi chưa nghĩ đến kịp. Dù vậy, tôi sợ thế lực Ðoạn ngày một to, lan ra như cỏ mọc, cắt không hết được thì mới làm sao? Chúa công nên mưu nghĩ cách gì cho Ðoạn phản nghịch nổi loạn sớm thì đánh hắn mới chắc được.
- Vậy thì ta phải làm cách nào?
Thế là sáng hôm sau, Trang công giao việc quốc chính cho quan Ðại Phu Sái Túc để vào triều nhà Châu. Khương Thị nghe biết mừng lắm cho là dịp tốt đã đến, liền viết thư sai kẻ tâm phúc đem đến Kinh thành, hẹn với Thúc Ðoạn đem quân về đánh. Nhưng Công tử Lã đã cho người đón đường bắt được thư và giết ngay tên ấy, rồi đem thư dâng lên Trang công. Trang công xem thư, niêm lại rồi sai người giả làm người của Khương Thị đưa thư đến cho Ðoạn, và lấy thư trả lời đem về. Trang công được thư mừng lắm nói:
- Tờ cung chiêu của Ðoạn sẵn có đây rồi. Thế thì mẫu thân ta không bênh vực thế nào được nữa.
Trang công liền vào cáo từ Khương Thị, giả nói vào nhà Châu triều kiến, rồi đem quân theo đường tắt sang Kinh thành.
Thái Thúc Ðoạn từ khi tiếp được thư của mẹ, liền sai con là Hoạt sang nước Vệ mượn binh, rồi phao tin rằng phụng mạng về triều tạm thay coi việc quốc chính, đoạn mở cửa thành tiến quân.
Công tử Lã mưu cho quân giả làm lái buôn trà trộn vào thành trước, đợi khi Ðoạn cất quân đi thì đốt lửa làm hiệu cho Lã biết đem quân đến, trong thành mở cửa ra đón. Lã vào thành rồi liền kể tội Ðoạn trước quân dân, và đem đức tính của Trang công yết cho nhân dân biết. Người trong thành cho là phải.
Thái Thúc Ðoạn bắt được tin Kinh thành có biến, không dám trở lại, rút quân về Cung thành. Trịnh trang công xua quân đánh, Thúc Ðoạn nghe tin thở dài, than: "Chính mẹ ta giết chết ta rồi. ta còn mặt mũi nào nhìn thấy anh ta nữa!". Ðoạn tự tử chết.
Trang công vào thành, ôm thây Thúc Ðoạn khóc kể: "Ta đã giết chết em ta rồi. Em ta quá lo, chớ ta đâu nỡ giết em ta!". Bấy giờ Trang công thu lấy đồ đạc, tìm thấy bức thư của mẹ gởi cho Ðoạn liền lấy gói lại cùng bức thư trả lời của Ðoạn, sai Sái Túc đem về Trịnh dâng cho Khương Thị xem, lại truyền đem Khương Thị an trí sang đất Dĩnh. Trang công uất ức việc mẹ làm nên thề rằng: "Không đến suối vàng thì chẳng gặp nhau được". (Bất cập hoàng tuyền vô tương kiến giã). Riêng Khương Thị thấy hai bức thư lấy làm thẹn, tự nghĩ không còn mặt mũi nào nhìn thấy Trịnh Trang công nữa bèn dọn đồ đi ở ấp Dĩnh. Trang công trở về triều, vào cung không thấy mẹ lấy làm đau lòng: "Ta ép lòng để em ta chết, nay nỡ lòng nào để lìa mẹ nữa. Ta thật có tội!".
Quan trấn ấp Dĩnh là Ðinh Khảo Thúc vốn người chí hiếu và trung trực, thấy Trang công đem an trí mẹ thì không bằng lòng, nên có ý tìm cách khuyên can, nên một hôm bắt mấy con chim cú vào dâng cho Trang công để làm thịt. Trang công hỏi chim gi? Thúc thưa:
- Ðây là giống chim cú. Ban ngày, vật gì lớn bằng quả núi cũng không thấy, mà ban đêm vật gì nhỏ như sợi tóc dù ở xa cũng trông thấy rõ. Thật là một con vật trông được sự nhỏ mà không trông được sự lớn. Vả lại, chim nầy khi con nhỏ thì mẹ kiếm mồi cho ăn, nhưng khi lớn lên lại không biết mẹ, vậy nên bắt nó mà ăn thịt.
Trang công im lặng. Nhân lúc ấy có người dâng một con dê chín để vua nhắm rượu. Trang công sai cắt một miếng cho Ðinh Khảo Thúc ăn. Thúc liền chọn chỗ thịt ngon, tự cắt lấy một miếng gói lại trong giấy, đút vào tay áo. Trang công lấy làm lạ hỏi, thì Khảo Thúc thưa:
- Mẹ tôi đã già, nhà lại bần bạc, ngày ngày chỉ cơm rau dưa muối, chưa hề được vật nầy. Nay chúa công ban cho mà mẹ già không được hưởng thì con không sao nuốt trôi được, nên trộm đem về cho mẹ. Trang công nói:
- Ngươi thật là một người con chí hiếu.
Trang công lại ngậm ngùi nghĩ đến việc mình, thở dài. Khảo Thúc hỏi tại sao thở dài? Trang công đáp:
- Nhà ngươi có mẹ già được phụng dưỡng để trọn đạo làm con. Còn ta làm vua mà không được bằng người.
Khảo Thúc giả vẻ ngơ ngẩn, hỏi:
- Quốc mẫu hiện đang mạnh giỏi, sao chúa công lại nói thế?
Trang công liền đem việc mưu loạn xảy ra đến việc đày mẹ và cả lời thề, nay hối lại thì đã muộn. Khảo Thúc thưa:
[i]- Thái thúc Ðoạn đã đành mất rồi, nay chỉ còn lại quốc mẫu. Nếu chúa công còn lo nổi lời thề nặng "suối vàng", thì tôi xin hiến một cách có thể giải được. Chúa công cho người đào đất đến tận mạch nước, đặt thang, làm một cái nhà dưới hầm, rồi rước quốc mẫu đến ở đó. Thế rồi chúa công xuống dưới, kể lại tình nhớ mong mẹ bấy lâu. Tôi tin rằng chúa công nhớ mẹ bao nhiêu thì quốc mẫu cũng nhớ chúa công như thế. Cả hai gặp nhau dưới nhà hầm ấy khỏi trái với lời thề suối vàng được.
Trang công rất mừng, liền thực hiện ngay.
Khương Thị bằng lòng. Trang công theo bậc thang xuống hầm trông thấy mẹ, vội sụp lạy nói:
- Ngộ Sinh nầy bất hiếu, lâu nay thiếu phụng thờ mẹ. Mẹ tha tội cho.
Khương Thị ngậm ngùi, đỡ Trang công dậy:
- Ðó là lỗi của mẹ. Con đâu có tội gì.
Thế rồi hai mẹ con cùng khóc nức nở.
Trang công dắt mẹ lên thang, cùng ngồi xe và tự cầm cương đưa mẹ về cung.
"Suối vàng" là như vậy.
Trước nấm mồ của Ðạm Tiên hoang vắng, Kiều cảm động than thở, có câu:
"Nào người phượng chạ loan chung,
Nào ai tiếc lục tham hồng là ai?
Ðã không kẻ đoái người hoài
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Hoạ là người dưới suối vàng biết cho"
Và, khi bán mình lo hối lộ quan lại để cứu cha mắc tội oan, Kiều làm thơ than thở với em là Thuý Vân nhờ thay mình để kết duyên với Kim Trọng, có câu:
"Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"
"Suối vàng", nguyên từ Hán Việt là "Hoàng (huỳnh) tuyền"; "Chín suối" là "Cửu tuyền" hay "Cửu nguyên" đều chỉ cõi âm phủ. Theo mê tín, đây là một cái suối màu vàng ở dưới lòng đất, người ta lúc chết chôn xuống dưới đất nên dùng chữ "suối vàng" để chỉ chỗ ở của người chết. Sách Tả truyện có câu: "Bất cập hoàng tuyền vô tương kiến giã", nghĩa là "Không đến suối vàng thì không gặp nhau được".
Nguyên đời Xuân Thu (722-749 trước D.L), Vũ công nước Trịnh có vợ là Khương Thị sinh ra con trưởng là Ngộ Sinh và con thứ là Ðoạn. Vì sinh Ngộ Sinh do sự đẻ ngang làm Khương Thị khổ sở nên bà không ưa. Trái lại, Ðoạn mặt mũi khôi ngô, sức mạnh hơn người lại có tài thiện xạ nên Khương Thị rất yêu chiều. Muốn cho Ðoạn sau này nối ngôi, nên trước mặt Trịnh Vũ công, bà thường khen Ðoạn là người hiền đức và tỏ ý muốn lập Ðoạn làm thế tử. Trịnh Vũ công bảo:
- Anh em có thứ bậc, không nên xáo trộn đạo lý. Hơn nữa, Ngộ Sinh không có tội lỗi gì thì sao bỏ trưởng lập thứ được?
Thế là Trịnh Vũ Công lập Ngộ Sinh làm Thế tử. Còn Ðoạn thì được phong cho đất Cung, gọi là Cung Thúc Ðoạn, Khương Thị lấy làm bất bình. Trịnh Vũ công mất, Ngộ Sinh lên kế vị tức Trịnh Trang Công, lại tiếp tục kiêm chức Khanh Sĩ nhà Châu thay cha. Dương Thị thấy Ðoạn không quyền hành, lấy làm buồn bã, bảo Trịnh Trang công:
- Con nối ngôi cha làm chủ nước Trịnh, đất rộng ngoài mấy trăm dặm, thế mà nỡ cho người em ruột thịt một chỗ đất nhỏ mọn không đủ để dung thân, sao yên lòng được?
Trịnh Trang Công thưa:
- Vậy xin mẫu thân cho biết ý muộn
- Sao không lấy đất Chế ấp mà phong cho em con.
- Chế ấp là một nơi hiểm yếu, tiên vương ngày xưa có di mạng cấm phong cho ai. Trừ đất ấy, mẫu thân mẫu thân muốn chỗ nào con cũng sẽ vâng lời.
- Nếu vậy thì phong cho nó đất Kinh Thành.
Trịnh Trang công im lặng. Khương thị thấy thế nổi giận bảo:
- Nếu con không nhận như vậy thì cứ đuổi Ðoạn đi nước khác, để nó tìm cách gì làm ăn được thì nó làm.
- Con đâu thể làm thế được.
Hôm sau, Trịnh Trang Công vời Ðoạn vào phong cho đất Kinh Thành. Quan Ðại phu là Sái Túc Can, cho rằng Kinh thành là một ấp lớn, đất rộng người đông, nếu đem phong cho Cung Thúc Ðoạn thì mai hậu Ðoạn sẽ cậy thế chuyên quyền. Nhưng Trang Công bảo:
- Mẫu thân ta đã muốn vậy thì ta phải làm theo vậy.
Thế là Ðoạn ra ở đất Kinh Thành. Trước khi đi, Ðoạn vào cáo biệt mẹ. Khương thị nói riêng với Ðoạn:
- Anh con không nghĩ đến tình ruột thịt, đãi con lắm điều tệ bạc. Nhờ ta ba lần khẩn khoản nó mới phong đất Kinh thành cho con, ấy là vị nể chưa chắc thành thật. Con về Kinh thành nên lo luyện tập binh mã, chuẩn bị sẵn sàng, nếu có cơ hội thì đem quân lại đánh, ta sẽ nội ứng mà lấy nước Trịnh. Nếu con đoạt được ngôi của Ngộ Sinh thì ta có có chết cũng đành hả dạ.
Cung Thúc Ðoạn lãnh lịnh mẹ đóng ở đất Kinh thành, đổi hiệu Cung Thúc ra Thái Thúc. Từ đấy, Ðoạn ngày ngày đem quân vào rừng săn bắn nhưng kỳ thực là đi luyện tập, lại chiếm lấy hai ấp gần đó. Hai quan ấp tể trốn về triều kêu cứu. Trịnh Trang Công không nói gì chỉ mỉm cười. Quan Thượng khanh công tử Lã kêu lên:
- Tội Thái Thúc Ðoạn thực đáng giết.
Trang Công hỏi có ý kiến gì không, thì Lã nói:
- Thái Thúc Ðoạn ỷ lại trong có quốc mẫu yêu vì, ngoài cậy vào đất hiểm yếu của Kinh thành mà đêm ngày luyện tập binh mã, tất cố ý đoạt ngôi . Xin chúa công cho tôi đem quân đi đánh Kinh thành, bắt Ðoạn để trừ hậu hoạn.
Trang công bảo:
- Tội của Thúc Đoạn chưa có gì rõ rệt, không nên vội.
- Ðoạn đã chiếm lấy hai ấp. Không lẽ chúa công để đất của Tiên công hao mòn mãi sao?
Trang công cười nói:
- Ðoạn là con cưng của mẫu thân ta, ta thà mất bờ cõi còn hơn mất tình anh em và để mẫu thân ta phải buồn.
- Sợ mất bờ cõi thì không nói làm gì, e có ngày mất luôn cả nước. Nay Thúc Ðoạn ngày một cường thịnh, dân tình sợ uy mà sinh hai lòng. Bây giờ chúa công còn dung sau này Thúc Ðoạn không dung, chúa công hối thì làm sao kịp nữa?
Trang Công nghiêm giọng:
- Nhà ngươi không nên nói càn, để mặc ta lo nghĩ.
Công tử Lã đi ra, và nói với quan đại phu Sái Túc:
- Chúa công ta bịn rịn tình riêng mà quên việc nước. Tôi lấy làm lo lắm!
Sái Túc cười bảo:
- Chúa công là một người tài trí, há lại không biết điều ấy. Có lẽ vì chỗ đông người không tiện nói ra, vậy ông nên vào hầu riêng mà bàn chuyện, dò xem ý chúa công ra sao.
Công tử Lã cho là phải, bèn vào yết kiến Trang công, Trang công nói:
- Ta nghĩ kỹ lắm. Ðoạn dù vô đạo nhưng chưa rõ tội. Nếu ta đem quân đánh thì quốc mẫu ta ắt tìm cách ngăn cản. Người ngoài không biết lại bảo ta bất hữu và bất hiếu. Chi bằng cứ để thế, Ðoạn tất làm càn, không kiêng nể ai, lúc ấy ta sẽ kể tội trạng đem quân đi đánh thì người trong nước không ai giúp Ðoạn, mà đến mẫu thân ta cũng không oán trách gì được.
- Nếu quả vậy, chúa công cao kiến lắm, chúng tôi chưa nghĩ đến kịp. Dù vậy, tôi sợ thế lực Ðoạn ngày một to, lan ra như cỏ mọc, cắt không hết được thì mới làm sao? Chúa công nên mưu nghĩ cách gì cho Ðoạn phản nghịch nổi loạn sớm thì đánh hắn mới chắc được.
- Vậy thì ta phải làm cách nào?
Thế là sáng hôm sau, Trang công giao việc quốc chính cho quan Ðại Phu Sái Túc để vào triều nhà Châu. Khương Thị nghe biết mừng lắm cho là dịp tốt đã đến, liền viết thư sai kẻ tâm phúc đem đến Kinh thành, hẹn với Thúc Ðoạn đem quân về đánh. Nhưng Công tử Lã đã cho người đón đường bắt được thư và giết ngay tên ấy, rồi đem thư dâng lên Trang công. Trang công xem thư, niêm lại rồi sai người giả làm người của Khương Thị đưa thư đến cho Ðoạn, và lấy thư trả lời đem về. Trang công được thư mừng lắm nói:
- Tờ cung chiêu của Ðoạn sẵn có đây rồi. Thế thì mẫu thân ta không bênh vực thế nào được nữa.
Trang công liền vào cáo từ Khương Thị, giả nói vào nhà Châu triều kiến, rồi đem quân theo đường tắt sang Kinh thành.
Thái Thúc Ðoạn từ khi tiếp được thư của mẹ, liền sai con là Hoạt sang nước Vệ mượn binh, rồi phao tin rằng phụng mạng về triều tạm thay coi việc quốc chính, đoạn mở cửa thành tiến quân.
Công tử Lã mưu cho quân giả làm lái buôn trà trộn vào thành trước, đợi khi Ðoạn cất quân đi thì đốt lửa làm hiệu cho Lã biết đem quân đến, trong thành mở cửa ra đón. Lã vào thành rồi liền kể tội Ðoạn trước quân dân, và đem đức tính của Trang công yết cho nhân dân biết. Người trong thành cho là phải.
Thái Thúc Ðoạn bắt được tin Kinh thành có biến, không dám trở lại, rút quân về Cung thành. Trịnh trang công xua quân đánh, Thúc Ðoạn nghe tin thở dài, than: "Chính mẹ ta giết chết ta rồi. ta còn mặt mũi nào nhìn thấy anh ta nữa!". Ðoạn tự tử chết.
Trang công vào thành, ôm thây Thúc Ðoạn khóc kể: "Ta đã giết chết em ta rồi. Em ta quá lo, chớ ta đâu nỡ giết em ta!". Bấy giờ Trang công thu lấy đồ đạc, tìm thấy bức thư của mẹ gởi cho Ðoạn liền lấy gói lại cùng bức thư trả lời của Ðoạn, sai Sái Túc đem về Trịnh dâng cho Khương Thị xem, lại truyền đem Khương Thị an trí sang đất Dĩnh. Trang công uất ức việc mẹ làm nên thề rằng: "Không đến suối vàng thì chẳng gặp nhau được". (Bất cập hoàng tuyền vô tương kiến giã). Riêng Khương Thị thấy hai bức thư lấy làm thẹn, tự nghĩ không còn mặt mũi nào nhìn thấy Trịnh Trang công nữa bèn dọn đồ đi ở ấp Dĩnh. Trang công trở về triều, vào cung không thấy mẹ lấy làm đau lòng: "Ta ép lòng để em ta chết, nay nỡ lòng nào để lìa mẹ nữa. Ta thật có tội!".
Quan trấn ấp Dĩnh là Ðinh Khảo Thúc vốn người chí hiếu và trung trực, thấy Trang công đem an trí mẹ thì không bằng lòng, nên có ý tìm cách khuyên can, nên một hôm bắt mấy con chim cú vào dâng cho Trang công để làm thịt. Trang công hỏi chim gi? Thúc thưa:
- Ðây là giống chim cú. Ban ngày, vật gì lớn bằng quả núi cũng không thấy, mà ban đêm vật gì nhỏ như sợi tóc dù ở xa cũng trông thấy rõ. Thật là một con vật trông được sự nhỏ mà không trông được sự lớn. Vả lại, chim nầy khi con nhỏ thì mẹ kiếm mồi cho ăn, nhưng khi lớn lên lại không biết mẹ, vậy nên bắt nó mà ăn thịt.
Trang công im lặng. Nhân lúc ấy có người dâng một con dê chín để vua nhắm rượu. Trang công sai cắt một miếng cho Ðinh Khảo Thúc ăn. Thúc liền chọn chỗ thịt ngon, tự cắt lấy một miếng gói lại trong giấy, đút vào tay áo. Trang công lấy làm lạ hỏi, thì Khảo Thúc thưa:
- Mẹ tôi đã già, nhà lại bần bạc, ngày ngày chỉ cơm rau dưa muối, chưa hề được vật nầy. Nay chúa công ban cho mà mẹ già không được hưởng thì con không sao nuốt trôi được, nên trộm đem về cho mẹ. Trang công nói:
- Ngươi thật là một người con chí hiếu.
Trang công lại ngậm ngùi nghĩ đến việc mình, thở dài. Khảo Thúc hỏi tại sao thở dài? Trang công đáp:
- Nhà ngươi có mẹ già được phụng dưỡng để trọn đạo làm con. Còn ta làm vua mà không được bằng người.
Khảo Thúc giả vẻ ngơ ngẩn, hỏi:
- Quốc mẫu hiện đang mạnh giỏi, sao chúa công lại nói thế?
Trang công liền đem việc mưu loạn xảy ra đến việc đày mẹ và cả lời thề, nay hối lại thì đã muộn. Khảo Thúc thưa:
[i]- Thái thúc Ðoạn đã đành mất rồi, nay chỉ còn lại quốc mẫu. Nếu chúa công còn lo nổi lời thề nặng "suối vàng", thì tôi xin hiến một cách có thể giải được. Chúa công cho người đào đất đến tận mạch nước, đặt thang, làm một cái nhà dưới hầm, rồi rước quốc mẫu đến ở đó. Thế rồi chúa công xuống dưới, kể lại tình nhớ mong mẹ bấy lâu. Tôi tin rằng chúa công nhớ mẹ bao nhiêu thì quốc mẫu cũng nhớ chúa công như thế. Cả hai gặp nhau dưới nhà hầm ấy khỏi trái với lời thề suối vàng được.
Trang công rất mừng, liền thực hiện ngay.
Khương Thị bằng lòng. Trang công theo bậc thang xuống hầm trông thấy mẹ, vội sụp lạy nói:
- Ngộ Sinh nầy bất hiếu, lâu nay thiếu phụng thờ mẹ. Mẹ tha tội cho.
Khương Thị ngậm ngùi, đỡ Trang công dậy:
- Ðó là lỗi của mẹ. Con đâu có tội gì.
Thế rồi hai mẹ con cùng khóc nức nở.
Trang công dắt mẹ lên thang, cùng ngồi xe và tự cầm cương đưa mẹ về cung.
"Suối vàng" là như vậy.
Ấy là Hồ Điệp hay là Trang Sinh
Qua lời yêu cầu tha thiết của Kim Trọng và "hai thân cũng quyết theo một bài"... Kiều đành phải chấp thuận, và cả hai làm lễ động phòng. Nhưng rồi cũng trong đêm động phòng "bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa", Kiều lại tủi thẹn, than thở phận mình, khiến chàng Kim phải an ủi "lọ là chăn gối mới ra sắt cầm", nên chuyện sang xin Kiều cho mình thưởng thức ngón đàn ngày xưa. Kiều vâng lời "phím đàn dìu dặt tay tiên" với:
Khúc đâu đầm ấm dượng hoà,
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh
Khúc đàn êm ái xuân tình
Ấy là Thục Ðế hay mình Ðỗ quyên?
Trong sao châu rõ duềnh quyên?
Ốm sao hạt ngọc Lam điền mới đông
Trang sinh tên Trang Chu cũng gọi là Trang Tử, học đạo Lão Tử, người đời Chiến Quốc.
Ðời ông, về sau, có người thêu dệt lắm chuyện huyền hoặc, vô lý gọi là "Trang Tử thử vợ". Chuyện rằng:
Một hôm, Trang Tử đi chơi ngang một nghĩa địa, thấy một người đàn bà đang ngồi cầm quạt , quạt một nấm mồ còn ướt. Ông lấy làm lạ hỏi thì người đàn bà ấy cho biết: đó là mộ của chồng. Vì khi gần chết, chồng có trối lúc nào muốn tái giá thì phải đợi mộ chồng khô. Nay có người đến hỏi, nàng muốn tái giá nhưng giữa lúc mộ chưa khô nên phải quạt cho mau khô, để kịp thời gian lấy chồng.
Trang Tử bật cười. Mãi về đến nhà vẫn còn cười. Vợ ngạc nhiên hỏi, ông thuật cả sự việc. Vợ bật cười, bảo: "Sao có người tệ bạc lắm vậy!" Trang Tử không nói gì.
Một hôm, Trang Tử đột ngột lâm bệnh chết! Ðám tang được quàn trong ba hôm. Vợ Trang Tử khóc lóc kể lể, lúc nào cũng đầm đìa nước mắt. Ðến ngày thứ hai, bỗng có một chàng thanh niên đến nhà, xưng là học trò của Trang Tử ở xa đến thăm thầy, nhưng chẳng may thầy mất, vậy xin điếu tang và ở lại lo việc ma chay cho thầy được trọn tình sư đệ.
Người học trò của chồng sao mà khôi ngô tuấn tú quá, lời nói sao mà ấm áp dịu dàng khiến vợ Trang Tử phải lòng, rồi cả hai dan díu tư tình nhau... Nhưng đến nửa đêm, chàng rên rỉ quằn quại kêu đau bụng, đau một cách dữ dội. Vợ Trang Tử lấy làm lo sợ, hỏi cách chạy chữa thì chàng bảo chỉ cần có sọ người mới chết đem mài uống thì bệnh hết ngay, nếu không sẽ chết mất. Thấy chàng sao thương quá, sợ mất chàng lại nghĩ chồng mới chết, sọ chồng hẳn có hiệu nghiệm, nên vợ Trang Tử không còn phải đắn đo gì nữa, nàng liền lấy vồ đập vỡ nắp săng (quan tài) định lấy sọ chồng làm thuốc cho tình nhân.
Nhưng nắp săng vừa bật lên thì Trang Tử cũng ngồi bật dậy, và cũng vừa lúc ấy chàng thanh niên biến mất. Thì ra, Trang Tử có phép thuật, giả chết để thử vợ. Người vợ lấy làm xấu hổ quá, tự tử. Trang Tử không buồn, tay vỗ cổ bồn, hát:
Kham ta phù thế sự
Hữu như hoa khai tạ
Thê tử ngã tất mai
Ngã tử thê tất giá
Ngã nhược tiên tử thì
Nhất trường đại tiếu hoạ
Ðiền bị tha nhân canh
Mã bị tha nhân khoá
Thê bị tha nhân luyến
Tứ bị tha nhân mạ
Suy thử đổng thường tình
Tương khan luỵ bất hạ
Thế nhân tiếu ngã bất bi thương
Ngã tiểu thế nhân thống đoạn trường
Thế sự nhược hoàn khốc đắc chuyển
Ngã diệc thiên thu luỵ vạn hàng
Tạm dịch:
Nên than ôi, thế sự
Ðường hoa đơm lại rã
Vợ chết ắt ta chôn
Ta chết vợ cải giá
Ví bằng ta chết trước
Một cuộc cười ha hả
Ruộng phải người khác cày
Ngựa phải người khác cưỡi
Vợ phải người khác lấy
Con phải người khác mắng
Nghĩ lại chạnh tấm lòng
Nhìn nhau khôn tuôn lệ
Ðời cười ta chẳng bi thương
Ta cười đời luống đoạn trường
Việc đời khóc mà chuyển biến được
Ta cũng ngàn thu khóc vạn hàng
Do câu chuyện trên nên trong dân gian có câu:
Thương thay cho kẻ quạt mồ
Ghét thay cho kẻ cầm vồ bửa săng
"Quạt mồ, bửa săng" hẳn là chuyện bịa nhằm để châm biếm một số đàn bà, một số người vợ không tốt, không thuộc hạng "tiết hạnh khả phong". Giả chết để thử vợ âu cũng là một điều hay. Hẳn Trang Tử không cần.
Trang Tử tức Trang Chu là một nhà đạo học, vốn có tư tưởng xuất thế bắt nguồn tư tư tưởng vô vi của Lão Tử mà suy diễn ra. Ông chủ trương không tham sống, không sợ chết, không vui, không buồn, không dụng tâm vực đạo, không gắng sức giúp đời. Vì cái nhân sinh quan tự nhiên nhi nhiên đó, nên theo ông hễ gặp lúc nào sống mà sống là hợp thời, gặp lúc nào chết mà chết là thuận cảnh. Trang Tử bảo "Kẻ chân nhân ở đời xưa không tham sống, ghét chết. Sinh ra ai cũng không mừng, chết đi cũng không chống, thoắt qua thoắt lại, không quên lúc mới sinh, chết cũng mặc kệ, sinh ra rồi thì thường tự đắc, có chết đi thì cũng là trở lại với trời, không cần dụng tâm mà vực đạo, không cần lấy sức người mà giúp trời, như thế gọi là chân nhân vậy?" Ông có để lại bộ "Nam hoa Kinh". Về mặt văn học, lời mạnh mẽ, tư tưởng tân kỳ, tưởng tượng dồi dào, phép ngụ ngôn tuyệt khéo.
Vợ ông chết. Bạn ông là Huệ Tử đến viếng, thấy chỗ ông ngồi duỗi xoạc hai chân, tay gõ nhịp vào bồn nước mà hát. Huệ Tử bảo:
- Mình đã ăn ở với người ta, có con với người ta, bây giờ người ta chết, mình không khóc cũng là đủ. Thế mà ngồi gõ bồn hát, chẳng là quá lắm ư!
Trang Tử đáp:
- Không phải thế. Lúc vợ tôi mới chết, tôi cũng lấy làm thương tiếc lắm. Nhưng xét cho cùng thì vốn không có gì cả. Chẳng những không có hình lại cũng không có khí. Con người ấy chẳng qua là tạp chất biến mà hoá ra có khí; khí biến ra hình, hình biến mà hoá ra sinh, có sinh lại biến ra có tử khác nào Xuân, Hạ, Thu, Ðông bốn mùa cứ tuần hoàn đi lại không? Vả lại, người ta chết là trở về với tạo hoá, cũng như người đi ra ngoài rồi về nhà, thế mà ta cứ còn theo đuổi nghêu ngao khóc lóc thì chính ta chẳng hoá ra không biết mạng trời ư? Cho nên ta không khóc mà lại còn hát nữa.
Vì quan niệm về vũ trụ và nhân sinh như vậy nên sách Trang Tử thiên "Tề vật luận" có chép: Trang Sinh (tức Trang Chu) có lúc nằm mộng thấy mình hoá con bướm (hồ điệp) thong dong bay lượn, đoạn chợt tỉnh dậy, ông tự hỏi: Không biết mình hoá làm bướm hay bướm hoá làm mình?
Tư tưởng của Trang Tử cũng như của Lão Tử (thường gọi là tư tưởng Lão Trang) là một thứ triết học cao siêu, khiến trí não của con người mờ mờ ảo ảo, mơ màng như bay bổng lên những cảnh giới siêu nhiên huyền dịu.
"Ông là hồ điệp hay là Trang Sinh", vốn mượn ý Trang Chu để tả vẻ mơ màng thánh thoát của khúc đàn. Khúc đàn sum họp của buổi giao hoan tình ái nghe mơ mơ màng màng, hoặc nghe khúc đàn, người thưởng thức cảm thấy mình như lâng lâng tha thướt, nhẹ ru đi vào cõi mộng ÊM ĐỀM... Ý CÂU NÀY LẠI ĐI LIỀN VỚI Ý CÂU TRÊN "KHÚC ĐÂU đầm ấm dương hoà".
Tác giả Truyện Kiều chỉ mượn ý giấc mộng êm dịu mơ màng của Trang Chu đến đỗi "Không biết mình hoá làm bướm hay bướm hoá làm mình" hàm súc một triết lý vô vi, xuất thế của đạo Lão, để diễn tả tiếng đàn có mãnh lực truyền cảm cho người nghe đàn.
Qua lời yêu cầu tha thiết của Kim Trọng và "hai thân cũng quyết theo một bài"... Kiều đành phải chấp thuận, và cả hai làm lễ động phòng. Nhưng rồi cũng trong đêm động phòng "bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa", Kiều lại tủi thẹn, than thở phận mình, khiến chàng Kim phải an ủi "lọ là chăn gối mới ra sắt cầm", nên chuyện sang xin Kiều cho mình thưởng thức ngón đàn ngày xưa. Kiều vâng lời "phím đàn dìu dặt tay tiên" với:
Khúc đâu đầm ấm dượng hoà,
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh
Khúc đàn êm ái xuân tình
Ấy là Thục Ðế hay mình Ðỗ quyên?
Trong sao châu rõ duềnh quyên?
Ốm sao hạt ngọc Lam điền mới đông
Trang sinh tên Trang Chu cũng gọi là Trang Tử, học đạo Lão Tử, người đời Chiến Quốc.
Ðời ông, về sau, có người thêu dệt lắm chuyện huyền hoặc, vô lý gọi là "Trang Tử thử vợ". Chuyện rằng:
Một hôm, Trang Tử đi chơi ngang một nghĩa địa, thấy một người đàn bà đang ngồi cầm quạt , quạt một nấm mồ còn ướt. Ông lấy làm lạ hỏi thì người đàn bà ấy cho biết: đó là mộ của chồng. Vì khi gần chết, chồng có trối lúc nào muốn tái giá thì phải đợi mộ chồng khô. Nay có người đến hỏi, nàng muốn tái giá nhưng giữa lúc mộ chưa khô nên phải quạt cho mau khô, để kịp thời gian lấy chồng.
Trang Tử bật cười. Mãi về đến nhà vẫn còn cười. Vợ ngạc nhiên hỏi, ông thuật cả sự việc. Vợ bật cười, bảo: "Sao có người tệ bạc lắm vậy!" Trang Tử không nói gì.
Một hôm, Trang Tử đột ngột lâm bệnh chết! Ðám tang được quàn trong ba hôm. Vợ Trang Tử khóc lóc kể lể, lúc nào cũng đầm đìa nước mắt. Ðến ngày thứ hai, bỗng có một chàng thanh niên đến nhà, xưng là học trò của Trang Tử ở xa đến thăm thầy, nhưng chẳng may thầy mất, vậy xin điếu tang và ở lại lo việc ma chay cho thầy được trọn tình sư đệ.
Người học trò của chồng sao mà khôi ngô tuấn tú quá, lời nói sao mà ấm áp dịu dàng khiến vợ Trang Tử phải lòng, rồi cả hai dan díu tư tình nhau... Nhưng đến nửa đêm, chàng rên rỉ quằn quại kêu đau bụng, đau một cách dữ dội. Vợ Trang Tử lấy làm lo sợ, hỏi cách chạy chữa thì chàng bảo chỉ cần có sọ người mới chết đem mài uống thì bệnh hết ngay, nếu không sẽ chết mất. Thấy chàng sao thương quá, sợ mất chàng lại nghĩ chồng mới chết, sọ chồng hẳn có hiệu nghiệm, nên vợ Trang Tử không còn phải đắn đo gì nữa, nàng liền lấy vồ đập vỡ nắp săng (quan tài) định lấy sọ chồng làm thuốc cho tình nhân.
Nhưng nắp săng vừa bật lên thì Trang Tử cũng ngồi bật dậy, và cũng vừa lúc ấy chàng thanh niên biến mất. Thì ra, Trang Tử có phép thuật, giả chết để thử vợ. Người vợ lấy làm xấu hổ quá, tự tử. Trang Tử không buồn, tay vỗ cổ bồn, hát:
Kham ta phù thế sự
Hữu như hoa khai tạ
Thê tử ngã tất mai
Ngã tử thê tất giá
Ngã nhược tiên tử thì
Nhất trường đại tiếu hoạ
Ðiền bị tha nhân canh
Mã bị tha nhân khoá
Thê bị tha nhân luyến
Tứ bị tha nhân mạ
Suy thử đổng thường tình
Tương khan luỵ bất hạ
Thế nhân tiếu ngã bất bi thương
Ngã tiểu thế nhân thống đoạn trường
Thế sự nhược hoàn khốc đắc chuyển
Ngã diệc thiên thu luỵ vạn hàng
Tạm dịch:
Nên than ôi, thế sự
Ðường hoa đơm lại rã
Vợ chết ắt ta chôn
Ta chết vợ cải giá
Ví bằng ta chết trước
Một cuộc cười ha hả
Ruộng phải người khác cày
Ngựa phải người khác cưỡi
Vợ phải người khác lấy
Con phải người khác mắng
Nghĩ lại chạnh tấm lòng
Nhìn nhau khôn tuôn lệ
Ðời cười ta chẳng bi thương
Ta cười đời luống đoạn trường
Việc đời khóc mà chuyển biến được
Ta cũng ngàn thu khóc vạn hàng
Do câu chuyện trên nên trong dân gian có câu:
Thương thay cho kẻ quạt mồ
Ghét thay cho kẻ cầm vồ bửa săng
"Quạt mồ, bửa săng" hẳn là chuyện bịa nhằm để châm biếm một số đàn bà, một số người vợ không tốt, không thuộc hạng "tiết hạnh khả phong". Giả chết để thử vợ âu cũng là một điều hay. Hẳn Trang Tử không cần.
Trang Tử tức Trang Chu là một nhà đạo học, vốn có tư tưởng xuất thế bắt nguồn tư tư tưởng vô vi của Lão Tử mà suy diễn ra. Ông chủ trương không tham sống, không sợ chết, không vui, không buồn, không dụng tâm vực đạo, không gắng sức giúp đời. Vì cái nhân sinh quan tự nhiên nhi nhiên đó, nên theo ông hễ gặp lúc nào sống mà sống là hợp thời, gặp lúc nào chết mà chết là thuận cảnh. Trang Tử bảo "Kẻ chân nhân ở đời xưa không tham sống, ghét chết. Sinh ra ai cũng không mừng, chết đi cũng không chống, thoắt qua thoắt lại, không quên lúc mới sinh, chết cũng mặc kệ, sinh ra rồi thì thường tự đắc, có chết đi thì cũng là trở lại với trời, không cần dụng tâm mà vực đạo, không cần lấy sức người mà giúp trời, như thế gọi là chân nhân vậy?" Ông có để lại bộ "Nam hoa Kinh". Về mặt văn học, lời mạnh mẽ, tư tưởng tân kỳ, tưởng tượng dồi dào, phép ngụ ngôn tuyệt khéo.
Vợ ông chết. Bạn ông là Huệ Tử đến viếng, thấy chỗ ông ngồi duỗi xoạc hai chân, tay gõ nhịp vào bồn nước mà hát. Huệ Tử bảo:
- Mình đã ăn ở với người ta, có con với người ta, bây giờ người ta chết, mình không khóc cũng là đủ. Thế mà ngồi gõ bồn hát, chẳng là quá lắm ư!
Trang Tử đáp:
- Không phải thế. Lúc vợ tôi mới chết, tôi cũng lấy làm thương tiếc lắm. Nhưng xét cho cùng thì vốn không có gì cả. Chẳng những không có hình lại cũng không có khí. Con người ấy chẳng qua là tạp chất biến mà hoá ra có khí; khí biến ra hình, hình biến mà hoá ra sinh, có sinh lại biến ra có tử khác nào Xuân, Hạ, Thu, Ðông bốn mùa cứ tuần hoàn đi lại không? Vả lại, người ta chết là trở về với tạo hoá, cũng như người đi ra ngoài rồi về nhà, thế mà ta cứ còn theo đuổi nghêu ngao khóc lóc thì chính ta chẳng hoá ra không biết mạng trời ư? Cho nên ta không khóc mà lại còn hát nữa.
Vì quan niệm về vũ trụ và nhân sinh như vậy nên sách Trang Tử thiên "Tề vật luận" có chép: Trang Sinh (tức Trang Chu) có lúc nằm mộng thấy mình hoá con bướm (hồ điệp) thong dong bay lượn, đoạn chợt tỉnh dậy, ông tự hỏi: Không biết mình hoá làm bướm hay bướm hoá làm mình?
Tư tưởng của Trang Tử cũng như của Lão Tử (thường gọi là tư tưởng Lão Trang) là một thứ triết học cao siêu, khiến trí não của con người mờ mờ ảo ảo, mơ màng như bay bổng lên những cảnh giới siêu nhiên huyền dịu.
"Ông là hồ điệp hay là Trang Sinh", vốn mượn ý Trang Chu để tả vẻ mơ màng thánh thoát của khúc đàn. Khúc đàn sum họp của buổi giao hoan tình ái nghe mơ mơ màng màng, hoặc nghe khúc đàn, người thưởng thức cảm thấy mình như lâng lâng tha thướt, nhẹ ru đi vào cõi mộng ÊM ĐỀM... Ý CÂU NÀY LẠI ĐI LIỀN VỚI Ý CÂU TRÊN "KHÚC ĐÂU đầm ấm dương hoà".
Tác giả Truyện Kiều chỉ mượn ý giấc mộng êm dịu mơ màng của Trang Chu đến đỗi "Không biết mình hoá làm bướm hay bướm hoá làm mình" hàm súc một triết lý vô vi, xuất thế của đạo Lão, để diễn tả tiếng đàn có mãnh lực truyền cảm cho người nghe đàn.
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Kim Trọng về hộ tang chú ở Liêu Dương thì nửa năm sau, chàng trở về đến chốn cũ tìm Kiều, nhìn thấy cảnh đã khác xưa:
Ðầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rả rời
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày
Thôi Hộ, một danh sĩ đời nhà Ðường trẻ tuổi đẹp trai, nhân dự hội Ðạp Thanh đến một xóm trồng toàn hoa đào (Ðào hoa trang), gõ cửa một nhà xin giải khát. Bên cửa cổng, một thiếu nữ thập thò đưa nước cho chàng. Nàng đẹp, duyên dáng, e lệ. Chàng đưa tay tiếp lấy bát nước. Hai bàn tay trai gái chạm nhau. Nàng ngượng ngùng, cúi mặt xuống. Ðôi má hây hây đỏ như đoá hoa đào. Chàng rụt rè, ngượng nghịu đoạn từ giã ra đi.
Nhưng rồi đèn sách và mộng công hầu không xoá mờ hình bóng giai nhân. Xóm hoa đào và con người đẹp vẫn gợi lên một hình ảnh đầm ấm trong trí não, khiến nhà thơ lãng mạn chan chứa biết bao tình cảm lưu luyến mặn nồng. Rồi năm sau, ngày hội du xuân đến, Thôi Hộ tìm đến xóm hoa đào. Cảnh cũ còn đó nhưng người xưa lại vắng bóng. Cửa đóng then cài. Chỉ có ngàn hoa đào rực rỡ, phe phẩy theo gió xuân như mỉm cười chào đón khách du xuân.
Ngẩn ngơ, thờ thẩn trước cảnh cũ quạnh hiu, Thôi Hộ ngậm ngùi:
- Hay là nàng đã về nhà chồng?
Từng bước một, chàng quay gót trở ra. Lòng cảm xúc vô hạn, rồi muốn ghi lại mấy dòng tâm tư của mình, Thôi Hộ lấy bút mực trong bị ra, đề mấy câu thơ trên cửa cổng.
Chiều đến, nàng thiếu nữ họ Ðào cùng thân phụ viếng người thân trở về. Nàng theo sau cha, chợt nhìn trên cổng thấy bốn câu thơ:
Khứ niên kim nhựt thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Ðào hoa y cựu tiếu đông phong
Nghĩa:
Năm ngoái ngày này vẫn cửa trong
Hoa đào mặt ngọc gợn ánh hồng
Mặt người nay biết đi đâu vắng
Chỉ thấy hoa đào cợt gió đông
Nét chữ tinh xảo, ý tứ dồi dào chan chứa một tình cảm đậm đà khiến nàng thiếu nữ họ Ðào cảm thấy lòng xao xuyến và quả tim tình bắt đầu vỗ đập theo một nhịp yêu đương. Nàng ngậm ngùi thở dài, luyến tiếc duyên vừa gặp gỡ lại khéo bẽ bàng.
Rồi ngày này sang ngày khác, nàng vẫn tựa mình bên cửa cổng mong đợi và hy vọng gặp lại người khách tài hoa xin nước năm xưa. Nhưng ngày lại ngày qua, mấy lần bóng chiều tắt lịm sau dãy đồi xa mà bóng người xưa chẳng thấy, chỉ thấy vài cánh chim chiều lẻ bạn, bạt gió từ ngàn phương kêu bạn đổ về với một giọng não nùng.
Rồi từ đó, nàng bỏ ăn bỏ ngủ, thân hình tiều tuỵ, dung nhan võ vàng. Thân phụ nàng ngày đêm lo lắng, tìm thầy thuốc thang nhưng vô hiệu.
Biết không sống được, nàng đành thuật lại tâm sự của mình cho cha già và xin tha tội bất hiếu. Nhìn đứa con thiêm thiếp trên giường bệnh như chờ đợi tử thần, ông lão thương con, nóng lòng chạy tìm người đề thơ trên cổng. Nhưng hạc nội mây ngàn, tìm đâu cho thấy.
Người cha đau khổ ấy bối rối, cứ chạy ra chạy vào, lòng mang một mong mỏi yếu đuối. Trong giờ phút cuối cùng, mong gặp chàng thi sĩ trẻ tuổi xa lạ đã gây sóng gió, bão tố trong gia đình ông, thì giờ phút này, ông cho là một vị cứu tinh của gia đình, nên ông lại chạy tìm nữa. Ông chạy tìm một cách cầu may!
Vừa ra khỏi cổng nhà một quãng, bỗng chạm phải một người, ông ngẩng mặt nhìn. Ðó là một thư sinh tuấn tú. Thấy ông mặt mày ràn rụa nước mắt, cử chỉ hốt hoảng, chàng thư sinh lấy làm lạ hỏi. Ông vừa bươn bả đi vừa kể lể thành thực sự tình. Nghe kể chưa hết câu chuyện, chàng thư sinh bỗng bưng mặt khóc. Ông lão bấy giờ lấy làm ngạc nhiên, chưa kịp hỏi rõ thì chàng thư sinh nói:
- Tôi là Thôi Hộ, người đã đề thơ trên cổng...
Ông lão mừng rú lên, rồi lôi xềnh xệch chàng vào nhà, đưa thẳng đến phòng.
Nhưng người thiếu nữ vừa trút hơi thở cuối cùng.
Nhìn người mang nặng tình yêu đã vì chàng mà phải vóc liễu tiều tuỵ, chết một cách đau đớn, chàng quá cảm động, quỳ bên giường, cầm lấy tay nàng. Chàng áp mặt chàng vào mặt nàng, khóc nức nở... không ngờ nước mắt và hơi ấm của chàng thi sĩ rỏ trên mặt và ủ ấp người nàng có mãnh lực kỳ diệu thế nào, khiến nàng từ từ mở mắt ra, đăm đăm tha thiết nhìn chàng. Nàng thiếu nữ Ðào Hoa trang sống lại, và kết duyên với chàng thi sĩ tài danh Thôi Hộ.
"Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông"
Năm năm trước có người có hoa đào
Năm nay vắng người chỉ còn có hoa đào
Hoa đào còn đó phe phẩy trước gió như cười với gió. Cảnh cũ nhưng lại vắng người xưa, nhà thơ Thôi Hộ đã ghi lại xúc cảm của mình bằng bốn câu thơ. Liêu Dương cách trở nửa năm, Kim Trọng quay lại tìm người yêu thì người yêu vắng bóng, trước cảnh đìu hiu, quạnh quẽ, hoa đào vẫn mơn mởn tươi cười
Sao lại có hoa đào cười?
Sao lại có nụ cười ở đây?
Nhìn người đương buồn bã đau khổ mà lại cười, phải chăng là nụ cười vô duyên đến quái dị!
Trước cảnh bất công của xã hội, giữa lúc nơi lầu son gác tía lại rượu thịt ê hề, thừa thải đến hôi thối thì ngoài đường xương kẻ chết vì đói lạnh chất chồng phơi trắng ra, Ðỗ Phủ, một thi hào đời nhà Ðường cực tả bằng hai câu:
Chu môn tửu nhục xú
Lộ hữu đống tử cốt
Hai cảnh tượng tương phản.
Tình cảm thương nhớ, hy vọng của Kim Trọng mong gặp lại Kiều ở một nơi mà ngày xưa được gọi là "thiên thai", "động Ðào"... thực hạnh phúc biết mấy; thế mà nay "vách mưa rã rời", "rêu phong mặt đất"... thì cái tình cảm hy vọng đột nhiên trở thành tuyệt vọng. Cực tả trạng thái tình cảm tuyệt vọng này, tác giả dùng lối nhân hình hoá với thế tương phản "hoa đào cười" thì không còn gì tuyệt diệu hơn là làm tăng nỗi đau đớn, tuyệt vọng thêm lên.
Tác giả Truyện Kiều dùng điển tích bằng hai câu thơ cuối của Thôi Hộ, nhưng không phải làm một việc "nhai lại" mà vốn chuyển hoá điển tích này một cách có khác hơn để phù hợp với hoàn cảnh, tâm tình của Kim Trọng có một ý tình khá sâu sắc.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Ðào hoa y cựu tiếu đông phong
(Mặt người nay biết đi đâu vắng
Chỉ thấy hoa đào cợt gió đông)
Với Thôi Hộ, thì "người không biết đi đâu" tức tác giả nhận định tình trạng dĩ nhiên như thế một cách khách quan. Và, "hoa đào như cũ, cười với gió đông" tức tả cái cảnh thấy đó, chớ thiếu hẳn một ý tình chứa chan sâu sắc.
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Ðối với Nguyễn Du, qua những từ "trước, sau, nào" đã cho ta thấy một hình ảnh của một con người đương chăm chú, để ý nhìn trước nhìn sau tìm kiếm, cuối cùng hoàn toàn tuyệt vọng... nào thấy bóng người xưa. Và, những từ "năm ngoái", "còn" khiến cho người đọc có thể nhận thức được chàng Kim nhìn hoa đào cười mà chỉ thấy hoa đào năm ngoái là cái hoa đào có Kiều đứng ở bên còn đó, và nụ cười của người yêu xưa cùng với hoa đào xưa, sao nay chỉ còn có hoa phe phẩy nụ cười với gió... Trong một thời gian ngắn ngủi xa cách mà hoa vẫn còn đó nhưng người xưa lại đâu rồi!
Có khác hơn nhà thơ Thôi Hộ, tác giả Truyện Kiều tả cảnh phối hợp tình, nhưng đi sâu vào tâm tình của đối tượng với tính chủ quan hơn. Tuy cùng mong nhớ một giai nhân, nhưng mối tình của nhà thơ Thôi Hộ đối với cô gái vườn đào không giống mối tình giữa chàng Kim và nàng Kiều. Tình cảm mong nhớ một giai nhân không giống được tình cảm mong nhớ một tình nhân. Mối tình đầu giữa chàng Kim và nàng Kiều đã gắn bó, đương gắn bó.... mà điều này Thôi Hộ chưa có- nên đã tạo được một tình cảm sâu sắc biến động trong tâm tư trước cảnh vật, tất nhiên chất liệu của thơ đã được phát huy- hay tiếng lòng của đương sự đã được rung động với một nhịp độ dồn dập lên cao. Tác giả cực tả cái trạng thái tình cảm và tâm lý chủ quan này.
Bài thơ của Thôi Hộ cũng như của bao nhiêu bài thơ trữ tình khác. Nhưng sở dĩ còn được người đời nhắc nhở, truyền tụng phải chăng một phần lớn quyết định là do bút pháp điêu luyện, sáng tạo của tác giả Truyện Kiều tạo nên. Cũng như không có tác phẩm Ðoạn trường tân thanh hay Truyện Kiều của Nguyễn Du thì quyển Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Hoa, hẳn không ai tìm biết làm gì?
Mượn của người xưa mà không làm nô lệ của người xưa, trái lại làm sáng danh cho người xưa mới thực là tuyệt diệu.
Tuy nhiên, ở đoạn miêu tả này có điểm đem lại nhiều thắc mắc. Tác giả Truyện Kiều đã xác định:
Từ ngày muôn dặm phù tang
Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà
Vội sang vường Thuý dò la
Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa
Như vậy, chỉ thời gian trong vòng nửa năm mà gia đình của Vương ông (đã vắng Kiều) lại tàn lụi đến thế sao? Phải chăng đây là một kẽ hở còn có thể phê bình được.
"Ðiển tích Truyện Kiều" chỉ chú trọng về điển tích và chỉ phát triển hay giải thích ý nghĩa sự việc có liên hệ đến phần điển tích, chớ không phê phán đi sâu vào những sự kiện do tác giả Truyện Kiều sắp xếp trong truyện. Những điểm trên được trích lại, xin làm tư liệu cho phần tham khảo được phong phú, ngoài phạm vi của quyển biên khảo này. Hay nhà thơ giàu cảm nhìn cảnh vật bằng tâm hồn, và đây mới là cái thực chất đặc biệt của nhà thơ?
Kim Trọng về hộ tang chú ở Liêu Dương thì nửa năm sau, chàng trở về đến chốn cũ tìm Kiều, nhìn thấy cảnh đã khác xưa:
Ðầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rả rời
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày
Thôi Hộ, một danh sĩ đời nhà Ðường trẻ tuổi đẹp trai, nhân dự hội Ðạp Thanh đến một xóm trồng toàn hoa đào (Ðào hoa trang), gõ cửa một nhà xin giải khát. Bên cửa cổng, một thiếu nữ thập thò đưa nước cho chàng. Nàng đẹp, duyên dáng, e lệ. Chàng đưa tay tiếp lấy bát nước. Hai bàn tay trai gái chạm nhau. Nàng ngượng ngùng, cúi mặt xuống. Ðôi má hây hây đỏ như đoá hoa đào. Chàng rụt rè, ngượng nghịu đoạn từ giã ra đi.
Nhưng rồi đèn sách và mộng công hầu không xoá mờ hình bóng giai nhân. Xóm hoa đào và con người đẹp vẫn gợi lên một hình ảnh đầm ấm trong trí não, khiến nhà thơ lãng mạn chan chứa biết bao tình cảm lưu luyến mặn nồng. Rồi năm sau, ngày hội du xuân đến, Thôi Hộ tìm đến xóm hoa đào. Cảnh cũ còn đó nhưng người xưa lại vắng bóng. Cửa đóng then cài. Chỉ có ngàn hoa đào rực rỡ, phe phẩy theo gió xuân như mỉm cười chào đón khách du xuân.
Ngẩn ngơ, thờ thẩn trước cảnh cũ quạnh hiu, Thôi Hộ ngậm ngùi:
- Hay là nàng đã về nhà chồng?
Từng bước một, chàng quay gót trở ra. Lòng cảm xúc vô hạn, rồi muốn ghi lại mấy dòng tâm tư của mình, Thôi Hộ lấy bút mực trong bị ra, đề mấy câu thơ trên cửa cổng.
Chiều đến, nàng thiếu nữ họ Ðào cùng thân phụ viếng người thân trở về. Nàng theo sau cha, chợt nhìn trên cổng thấy bốn câu thơ:
Khứ niên kim nhựt thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Ðào hoa y cựu tiếu đông phong
Nghĩa:
Năm ngoái ngày này vẫn cửa trong
Hoa đào mặt ngọc gợn ánh hồng
Mặt người nay biết đi đâu vắng
Chỉ thấy hoa đào cợt gió đông
Nét chữ tinh xảo, ý tứ dồi dào chan chứa một tình cảm đậm đà khiến nàng thiếu nữ họ Ðào cảm thấy lòng xao xuyến và quả tim tình bắt đầu vỗ đập theo một nhịp yêu đương. Nàng ngậm ngùi thở dài, luyến tiếc duyên vừa gặp gỡ lại khéo bẽ bàng.
Rồi ngày này sang ngày khác, nàng vẫn tựa mình bên cửa cổng mong đợi và hy vọng gặp lại người khách tài hoa xin nước năm xưa. Nhưng ngày lại ngày qua, mấy lần bóng chiều tắt lịm sau dãy đồi xa mà bóng người xưa chẳng thấy, chỉ thấy vài cánh chim chiều lẻ bạn, bạt gió từ ngàn phương kêu bạn đổ về với một giọng não nùng.
Rồi từ đó, nàng bỏ ăn bỏ ngủ, thân hình tiều tuỵ, dung nhan võ vàng. Thân phụ nàng ngày đêm lo lắng, tìm thầy thuốc thang nhưng vô hiệu.
Biết không sống được, nàng đành thuật lại tâm sự của mình cho cha già và xin tha tội bất hiếu. Nhìn đứa con thiêm thiếp trên giường bệnh như chờ đợi tử thần, ông lão thương con, nóng lòng chạy tìm người đề thơ trên cổng. Nhưng hạc nội mây ngàn, tìm đâu cho thấy.
Người cha đau khổ ấy bối rối, cứ chạy ra chạy vào, lòng mang một mong mỏi yếu đuối. Trong giờ phút cuối cùng, mong gặp chàng thi sĩ trẻ tuổi xa lạ đã gây sóng gió, bão tố trong gia đình ông, thì giờ phút này, ông cho là một vị cứu tinh của gia đình, nên ông lại chạy tìm nữa. Ông chạy tìm một cách cầu may!
Vừa ra khỏi cổng nhà một quãng, bỗng chạm phải một người, ông ngẩng mặt nhìn. Ðó là một thư sinh tuấn tú. Thấy ông mặt mày ràn rụa nước mắt, cử chỉ hốt hoảng, chàng thư sinh lấy làm lạ hỏi. Ông vừa bươn bả đi vừa kể lể thành thực sự tình. Nghe kể chưa hết câu chuyện, chàng thư sinh bỗng bưng mặt khóc. Ông lão bấy giờ lấy làm ngạc nhiên, chưa kịp hỏi rõ thì chàng thư sinh nói:
- Tôi là Thôi Hộ, người đã đề thơ trên cổng...
Ông lão mừng rú lên, rồi lôi xềnh xệch chàng vào nhà, đưa thẳng đến phòng.
Nhưng người thiếu nữ vừa trút hơi thở cuối cùng.
Nhìn người mang nặng tình yêu đã vì chàng mà phải vóc liễu tiều tuỵ, chết một cách đau đớn, chàng quá cảm động, quỳ bên giường, cầm lấy tay nàng. Chàng áp mặt chàng vào mặt nàng, khóc nức nở... không ngờ nước mắt và hơi ấm của chàng thi sĩ rỏ trên mặt và ủ ấp người nàng có mãnh lực kỳ diệu thế nào, khiến nàng từ từ mở mắt ra, đăm đăm tha thiết nhìn chàng. Nàng thiếu nữ Ðào Hoa trang sống lại, và kết duyên với chàng thi sĩ tài danh Thôi Hộ.
"Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông"
Năm năm trước có người có hoa đào
Năm nay vắng người chỉ còn có hoa đào
Hoa đào còn đó phe phẩy trước gió như cười với gió. Cảnh cũ nhưng lại vắng người xưa, nhà thơ Thôi Hộ đã ghi lại xúc cảm của mình bằng bốn câu thơ. Liêu Dương cách trở nửa năm, Kim Trọng quay lại tìm người yêu thì người yêu vắng bóng, trước cảnh đìu hiu, quạnh quẽ, hoa đào vẫn mơn mởn tươi cười
Sao lại có hoa đào cười?
Sao lại có nụ cười ở đây?
Nhìn người đương buồn bã đau khổ mà lại cười, phải chăng là nụ cười vô duyên đến quái dị!
Trước cảnh bất công của xã hội, giữa lúc nơi lầu son gác tía lại rượu thịt ê hề, thừa thải đến hôi thối thì ngoài đường xương kẻ chết vì đói lạnh chất chồng phơi trắng ra, Ðỗ Phủ, một thi hào đời nhà Ðường cực tả bằng hai câu:
Chu môn tửu nhục xú
Lộ hữu đống tử cốt
Hai cảnh tượng tương phản.
Tình cảm thương nhớ, hy vọng của Kim Trọng mong gặp lại Kiều ở một nơi mà ngày xưa được gọi là "thiên thai", "động Ðào"... thực hạnh phúc biết mấy; thế mà nay "vách mưa rã rời", "rêu phong mặt đất"... thì cái tình cảm hy vọng đột nhiên trở thành tuyệt vọng. Cực tả trạng thái tình cảm tuyệt vọng này, tác giả dùng lối nhân hình hoá với thế tương phản "hoa đào cười" thì không còn gì tuyệt diệu hơn là làm tăng nỗi đau đớn, tuyệt vọng thêm lên.
Tác giả Truyện Kiều dùng điển tích bằng hai câu thơ cuối của Thôi Hộ, nhưng không phải làm một việc "nhai lại" mà vốn chuyển hoá điển tích này một cách có khác hơn để phù hợp với hoàn cảnh, tâm tình của Kim Trọng có một ý tình khá sâu sắc.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Ðào hoa y cựu tiếu đông phong
(Mặt người nay biết đi đâu vắng
Chỉ thấy hoa đào cợt gió đông)
Với Thôi Hộ, thì "người không biết đi đâu" tức tác giả nhận định tình trạng dĩ nhiên như thế một cách khách quan. Và, "hoa đào như cũ, cười với gió đông" tức tả cái cảnh thấy đó, chớ thiếu hẳn một ý tình chứa chan sâu sắc.
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Ðối với Nguyễn Du, qua những từ "trước, sau, nào" đã cho ta thấy một hình ảnh của một con người đương chăm chú, để ý nhìn trước nhìn sau tìm kiếm, cuối cùng hoàn toàn tuyệt vọng... nào thấy bóng người xưa. Và, những từ "năm ngoái", "còn" khiến cho người đọc có thể nhận thức được chàng Kim nhìn hoa đào cười mà chỉ thấy hoa đào năm ngoái là cái hoa đào có Kiều đứng ở bên còn đó, và nụ cười của người yêu xưa cùng với hoa đào xưa, sao nay chỉ còn có hoa phe phẩy nụ cười với gió... Trong một thời gian ngắn ngủi xa cách mà hoa vẫn còn đó nhưng người xưa lại đâu rồi!
Có khác hơn nhà thơ Thôi Hộ, tác giả Truyện Kiều tả cảnh phối hợp tình, nhưng đi sâu vào tâm tình của đối tượng với tính chủ quan hơn. Tuy cùng mong nhớ một giai nhân, nhưng mối tình của nhà thơ Thôi Hộ đối với cô gái vườn đào không giống mối tình giữa chàng Kim và nàng Kiều. Tình cảm mong nhớ một giai nhân không giống được tình cảm mong nhớ một tình nhân. Mối tình đầu giữa chàng Kim và nàng Kiều đã gắn bó, đương gắn bó.... mà điều này Thôi Hộ chưa có- nên đã tạo được một tình cảm sâu sắc biến động trong tâm tư trước cảnh vật, tất nhiên chất liệu của thơ đã được phát huy- hay tiếng lòng của đương sự đã được rung động với một nhịp độ dồn dập lên cao. Tác giả cực tả cái trạng thái tình cảm và tâm lý chủ quan này.
Bài thơ của Thôi Hộ cũng như của bao nhiêu bài thơ trữ tình khác. Nhưng sở dĩ còn được người đời nhắc nhở, truyền tụng phải chăng một phần lớn quyết định là do bút pháp điêu luyện, sáng tạo của tác giả Truyện Kiều tạo nên. Cũng như không có tác phẩm Ðoạn trường tân thanh hay Truyện Kiều của Nguyễn Du thì quyển Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Hoa, hẳn không ai tìm biết làm gì?
Mượn của người xưa mà không làm nô lệ của người xưa, trái lại làm sáng danh cho người xưa mới thực là tuyệt diệu.
Tuy nhiên, ở đoạn miêu tả này có điểm đem lại nhiều thắc mắc. Tác giả Truyện Kiều đã xác định:
Từ ngày muôn dặm phù tang
Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà
Vội sang vường Thuý dò la
Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa
Như vậy, chỉ thời gian trong vòng nửa năm mà gia đình của Vương ông (đã vắng Kiều) lại tàn lụi đến thế sao? Phải chăng đây là một kẽ hở còn có thể phê bình được.
"Ðiển tích Truyện Kiều" chỉ chú trọng về điển tích và chỉ phát triển hay giải thích ý nghĩa sự việc có liên hệ đến phần điển tích, chớ không phê phán đi sâu vào những sự kiện do tác giả Truyện Kiều sắp xếp trong truyện. Những điểm trên được trích lại, xin làm tư liệu cho phần tham khảo được phong phú, ngoài phạm vi của quyển biên khảo này. Hay nhà thơ giàu cảm nhìn cảnh vật bằng tâm hồn, và đây mới là cái thực chất đặc biệt của nhà thơ?
KHÚC ĐÂU HÁN SỞ CHIẾN TRƯỜNG
Chiều theo lời yêu cầu của Kim Trọng, Kiều liền cầm lấy đàn:
"So dần dây vũ, dây văn
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương
Khúc đâu Hán, Sở chiến trường
Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau
Khúc đâu Tư Mã phượng cầu
Nghe ra như oán, như sầu phải chăng
Kê Khang này khúc Quảng lăng
Một rằng Lưu thuỷ, hai rằng Hành văn
Qúa quan này khúc Chiêu Quân
Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia
Ðây là những bản nhạc: Khúc chiến trường giữa Hán và Sở, khúc Tư Mã phượng cầu của Tư Mã Tương Như, khúc Quảng lăng của Kê Khang, khúc đi cống Hồ của Chiêu Quân. Mỗi khúc có một tính chất đặc biệt.
Khúc "Hán Sở chiến trường"
Tần Thuỷ Hoàng sau khi dẹp tan 6 nước: Yên, Tề, Sở, Nguỵ, Triệu, Hàn chấm dứt thời Chiến quốc (479- 220 trước DL)- cũng gọi là Thất hùng- thống nhất đất nước, lập nên nhà Tần. Nhưng vì chế độ nhà Tần quá khắc nghiệt, dân chúng nổi dậy chống lại. Trước có Trần Thắng, Ngô Quảng. Bước đầu dân nghèo chỉ chặt cây làm binh khí và dùng gậy làm cờ. Nhưng đều bị quân Tần đánh vỡ. Chỉ còn lại lực lượng của Lưu Bang ở đất Bái và hạng Võ ở đất Ngô chống cự được với quân Tần. Sau Hạng Võ đánh bại được tướng Tần là Chương Hàm ở đất Cự Lộc (tỉnh Hà Bắc), Lưu Bang thừa dịp, đem binh thẳng đến Hàm Dương (kinh đô nhà Tần) dứt được nhà Tần. Nhưng rồi qua phân làm hai nhà: Hán (Lưu Bang) và Sở (Hạng Võ) tương tranh.
Sở Hạng Võ có tướng tài, tham mưu giỏi mà không biết dùng. Hán Lưu Bang nhờ biết dùng người nên có nhiều bực hiền tài đến phò tá, như Tiêu Hà, Hàn Tín, Trương Lương được gọi là Tam Kiệt... nên đánh thắng được Sở, lên ngôi Vua, thống nhất đất nước (206 trước DL)
Cuộc tương tranh giữa Hán, Sở chỉ khoảng 10 năm nhưng cường độ chiến tranh lúc nào cũng khốc liệt. Cuối cùng, Sở Hạng Võ bị tướng soái của Hán Lưu Bang là Hàn Tín bao vây tại núi Cửu lý ở phía bắc thành Từ Châu. Tuy lâm vào tình thế nguy ngập, thiếu lương thảo nhưng bên cạnh vua Sở còn 8.000 tử đệ theo từ lúc ban đầu, ở vào lúc cùng, họ quyết tử chiến mở con đường máu, thẳng về Giang Ðông tức đất cũ, tu chỉnh binh mã, dựng lại thế lực để tiếp tục cuộc chiến đấu.
Như vậy là một bất lợi cho Hán, dầu có đại thắng bằng binh lực nhưng phải trả một giá rất đắt bằng xương máu. Vì thế, Trương Lương hiến kế là tìm cách phân tán 8.000 tử đệ để cô lập Hạng Võ. Có thế cuộc chiến thắng đỡ bớt hao sinh mạng. Trương Lương liền thừa lúc đêm khuya thanh vắng của tiết cuối thu lạnh lẽo, đi qua lại từ trên núi Kê Minh đến núi Cửu lý, thổi tiêu rồi hát. Trương Lương lại tuyển quân Hán học tiếng nước Sở cho hát bài "Bi ca tán Sở" do Trương soạn lấy.
Canh khuya đêm vắng, tiết trời lạnh lẽo, lá vàng rụng bay lả tả, tiếng tiêu thâm trầm, giọng hát ai oán gợi lòng thương nhớ gia đình cha mẹ già, vợ yếu con thơ... vọng vào dinh Sở. Quân Sở , tám ngàn tử đệ vốn người nước Sở, lìa quê nhà theo Hạng Võ nay gặp phải gian nguy, mạng sống như ngàn cân treo phải chỉ mành... nên trước chỉ buồn bã than thở, sau cùng càng thấm thía nước mắt đầm đìa, rồi bàn nhau bỏ trốn. Bên ngoài, Hàn Tín khéo léo nới rộng vòng vây để quân Sở tự do ra đi.
Chỉ trong ba đêm, tám ngàn tử đệ cùng quân sĩ các dinh trại của Sở, mười phần bỏ trốn hết bảy, tám. Cuối cùng, Hạng Võ phải từ biệt vợ là Ngu Cơ, cùng uống chén rượu buồn, cất tiếng hát một cách tuyệt vọng:
Lực bạt sơn hề khí cái thế
Thời bất lợi hề chuy bất thệ
Chuỳ bất thệ hề khả nại hà?
Ngu hề Ngu hề khả nại hà?
Tạm dịch:
Sức nhổ núi chừ khí hơn đời
Thời bất lợi chừ ngựa chẳng đi
Ngựa chẳng đi chừ biết làm sao?
Ngu chừ, Ngu chừ biết làm sao?
Ngu Cơ càng cảm động, cất giọng hoà lại:
Hán binh dĩ lược địa
Tứ diện Sở ca thinh
Ðại vương ý khí tận
Tiện thiếp hà biểu sinh
Tạm dịch:
Binh Hán chiếm lấy đất
Bốn mặt tiếng Sở kêu
Ðại vương y khí hết
Mạng sống thiếp phải liều
Ngu Cơ cầm gươm tự tử
Thế rồi Vua Sở Hạng Võ một người một ngựa đánh mở con đường máu, thoát khỏi vòng vây chạy đến bên sông Ô, nhưng không qua được sông, cuối cùng tự tử.
"Khúc Hán Sở chiến trường", "tiếng sắt tiếng vàng" là tiếng những binh khí bằng kim loại va chạm nhau. Tiếng đục (sắt), tiếng trong (vàng), nghe đàn mà cảm thấy như nghe TIẾNG GƯƠM GIÁO CHẠM MẠNH, SÁT PHẠT GIỮA CHIẾN TRƯỜNG.Ý nói khúc đàn hùng tráng, rộn rã hoà hợp với tâm hồn rộn rã, tưng bừng của người gảy đàn như mở màn, chào đón một cuộc hội ngộ của đôi bạn son trẻ đắm đuối yêu nhau.
Chiều theo lời yêu cầu của Kim Trọng, Kiều liền cầm lấy đàn:
"So dần dây vũ, dây văn
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương
Khúc đâu Hán, Sở chiến trường
Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau
Khúc đâu Tư Mã phượng cầu
Nghe ra như oán, như sầu phải chăng
Kê Khang này khúc Quảng lăng
Một rằng Lưu thuỷ, hai rằng Hành văn
Qúa quan này khúc Chiêu Quân
Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia
Ðây là những bản nhạc: Khúc chiến trường giữa Hán và Sở, khúc Tư Mã phượng cầu của Tư Mã Tương Như, khúc Quảng lăng của Kê Khang, khúc đi cống Hồ của Chiêu Quân. Mỗi khúc có một tính chất đặc biệt.
Khúc "Hán Sở chiến trường"
Tần Thuỷ Hoàng sau khi dẹp tan 6 nước: Yên, Tề, Sở, Nguỵ, Triệu, Hàn chấm dứt thời Chiến quốc (479- 220 trước DL)- cũng gọi là Thất hùng- thống nhất đất nước, lập nên nhà Tần. Nhưng vì chế độ nhà Tần quá khắc nghiệt, dân chúng nổi dậy chống lại. Trước có Trần Thắng, Ngô Quảng. Bước đầu dân nghèo chỉ chặt cây làm binh khí và dùng gậy làm cờ. Nhưng đều bị quân Tần đánh vỡ. Chỉ còn lại lực lượng của Lưu Bang ở đất Bái và hạng Võ ở đất Ngô chống cự được với quân Tần. Sau Hạng Võ đánh bại được tướng Tần là Chương Hàm ở đất Cự Lộc (tỉnh Hà Bắc), Lưu Bang thừa dịp, đem binh thẳng đến Hàm Dương (kinh đô nhà Tần) dứt được nhà Tần. Nhưng rồi qua phân làm hai nhà: Hán (Lưu Bang) và Sở (Hạng Võ) tương tranh.
Sở Hạng Võ có tướng tài, tham mưu giỏi mà không biết dùng. Hán Lưu Bang nhờ biết dùng người nên có nhiều bực hiền tài đến phò tá, như Tiêu Hà, Hàn Tín, Trương Lương được gọi là Tam Kiệt... nên đánh thắng được Sở, lên ngôi Vua, thống nhất đất nước (206 trước DL)
Cuộc tương tranh giữa Hán, Sở chỉ khoảng 10 năm nhưng cường độ chiến tranh lúc nào cũng khốc liệt. Cuối cùng, Sở Hạng Võ bị tướng soái của Hán Lưu Bang là Hàn Tín bao vây tại núi Cửu lý ở phía bắc thành Từ Châu. Tuy lâm vào tình thế nguy ngập, thiếu lương thảo nhưng bên cạnh vua Sở còn 8.000 tử đệ theo từ lúc ban đầu, ở vào lúc cùng, họ quyết tử chiến mở con đường máu, thẳng về Giang Ðông tức đất cũ, tu chỉnh binh mã, dựng lại thế lực để tiếp tục cuộc chiến đấu.
Như vậy là một bất lợi cho Hán, dầu có đại thắng bằng binh lực nhưng phải trả một giá rất đắt bằng xương máu. Vì thế, Trương Lương hiến kế là tìm cách phân tán 8.000 tử đệ để cô lập Hạng Võ. Có thế cuộc chiến thắng đỡ bớt hao sinh mạng. Trương Lương liền thừa lúc đêm khuya thanh vắng của tiết cuối thu lạnh lẽo, đi qua lại từ trên núi Kê Minh đến núi Cửu lý, thổi tiêu rồi hát. Trương Lương lại tuyển quân Hán học tiếng nước Sở cho hát bài "Bi ca tán Sở" do Trương soạn lấy.
Canh khuya đêm vắng, tiết trời lạnh lẽo, lá vàng rụng bay lả tả, tiếng tiêu thâm trầm, giọng hát ai oán gợi lòng thương nhớ gia đình cha mẹ già, vợ yếu con thơ... vọng vào dinh Sở. Quân Sở , tám ngàn tử đệ vốn người nước Sở, lìa quê nhà theo Hạng Võ nay gặp phải gian nguy, mạng sống như ngàn cân treo phải chỉ mành... nên trước chỉ buồn bã than thở, sau cùng càng thấm thía nước mắt đầm đìa, rồi bàn nhau bỏ trốn. Bên ngoài, Hàn Tín khéo léo nới rộng vòng vây để quân Sở tự do ra đi.
Chỉ trong ba đêm, tám ngàn tử đệ cùng quân sĩ các dinh trại của Sở, mười phần bỏ trốn hết bảy, tám. Cuối cùng, Hạng Võ phải từ biệt vợ là Ngu Cơ, cùng uống chén rượu buồn, cất tiếng hát một cách tuyệt vọng:
Lực bạt sơn hề khí cái thế
Thời bất lợi hề chuy bất thệ
Chuỳ bất thệ hề khả nại hà?
Ngu hề Ngu hề khả nại hà?
Tạm dịch:
Sức nhổ núi chừ khí hơn đời
Thời bất lợi chừ ngựa chẳng đi
Ngựa chẳng đi chừ biết làm sao?
Ngu chừ, Ngu chừ biết làm sao?
Ngu Cơ càng cảm động, cất giọng hoà lại:
Hán binh dĩ lược địa
Tứ diện Sở ca thinh
Ðại vương ý khí tận
Tiện thiếp hà biểu sinh
Tạm dịch:
Binh Hán chiếm lấy đất
Bốn mặt tiếng Sở kêu
Ðại vương y khí hết
Mạng sống thiếp phải liều
Ngu Cơ cầm gươm tự tử
Thế rồi Vua Sở Hạng Võ một người một ngựa đánh mở con đường máu, thoát khỏi vòng vây chạy đến bên sông Ô, nhưng không qua được sông, cuối cùng tự tử.
"Khúc Hán Sở chiến trường", "tiếng sắt tiếng vàng" là tiếng những binh khí bằng kim loại va chạm nhau. Tiếng đục (sắt), tiếng trong (vàng), nghe đàn mà cảm thấy như nghe TIẾNG GƯƠM GIÁO CHẠM MẠNH, SÁT PHẠT GIỮA CHIẾN TRƯỜNG.Ý nói khúc đàn hùng tráng, rộn rã hoà hợp với tâm hồn rộn rã, tưng bừng của người gảy đàn như mở màn, chào đón một cuộc hội ngộ của đôi bạn son trẻ đắm đuối yêu nhau.
ẤY HỒN THỤC ÐẾ HAY MÌNH ÐỖ QUYÊN
"Ðỗ Quyên" là một loại chim cũng còn gọi là Tử Quy, tiếng nôm na là chim Cuốc. Ðầu mỏ chim hơi cong, miệng to, đuôi dài, lông lưng màu tro, bụng trắng có một đường đen thẳng ngang. Nó thường lủi trong bụi rậm, dưới ao sâu hoặc hồ rộng. Cuối Xuân sang Hè thì bắt đầu kêu vào đêm trăng mờ tịch mịch ở nông thôn. Giọng kêu buồn thảm, gợi lòng lữ khách nhớ nhà, nhớ quê hương.
"Thục Ðế" là vua nước Thục tên Ðỗ Vũ thấy vợ của một bề tôi là Biết Linh, người rất đẹp nên tìm cách thông dâm. Tức giận, Biết Linh dấy loạn, đem quân đánh phá kinh thành. Thục Ðế thất bại, mất ngôi, chạy trốn vào rừng, khổ sở quá rồi chết. Ðoạn này, sách "Thành đô ký" chép có khác là vua Thục thông dâm với vợ Biết Linh. Biết chuyện, Biết Linh bắt buộc vợ nói khích vua Thục nhường ngôi cho Biết Linh, rồi cùng vợ Biết Linh bỏ nước ra đi để sống cho trọn tình chung thuỷ. Thục Ðế say mê vợ Biết Linh quá, thà mất ngôi vàng hơn mất người đẹp nên nghe theo. Nhưng thảm cho Thục Ðế đã mất ngai vàng cuốn theo mất người đẹp, vì vợ của Biết Linh quay trở lại sống với chồng.
Nhục nhã, buồn tủi, vào rừng ở, nhớ ngai vàng, nhớ nước, Thục Ðế chết hoá thành chim Ðỗ quyên ngày đêm kêu "cuốc, cuốc" hay "quốc, quốc" (nước, nước). "Quốc, quốc" do tá âm "cuốc, cuốc".
Trong bài "Qua đèo Ngang" của Bà huyện Thanh Quan, có câu:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Thi ca cổ điển Việt Nam dùng rất nhiều điển tích về hai chim này.
Trần Danh Án, một di thần nhà Hậu Lê (1423- 1788), nghe tiếng cuốc kêu cũng cảm xúc, nhớ lại một triều đại hưng thịnh... mà cuối cùng vua Lê Chiêu Thống lại hèn nhát đầu hàng ngoại quốc, khiến lòng ái quốc tha thiết sống động trong tâm hồn thi sĩ, nhưng cảm thấy mình bất lực trước thời cuộc, nên đành gói gém tâm sự di thần của mình trong mấy vần thơ:
Giá cô tại giang Nam
Ðỗ Quyên tại giang Bắc
Giá cô minh gia gia
Ðỗ Quyên minh quốc quốc
Vi cầm do hữu quốc gia thanh
Cô thần đối thử tình vô cực
Nghĩa:
Chim Giá cô ở bờ sông Nam
Chim Ðỗ Quyên ở bờ sông Bắc
Giá cô kêu gia gia
Ðỗ Quyên kêu quốc quốc
Chim nhỏ còn kêu tiếng nước nhà
Cô thần đối cảnh tình man mác!
Ðứng trước thành Cổ Loa, xưa nơi đây là cung miếu của vua Thục An Dương Vương, nhà thơ Chu Mạnh Trinh bất giác sinh lòng hoài cổ. Cung miếu đó, xưa tráng lệ huy hoàng bao nhiêu thì nay điêu tàn quạnh quẽ bấy nhiêu. Trong cảnh vắng vẻ lạnh lùng này, dưới ánh trăng mờ nhạt, tiếng Cuốc khắc khoải năm canh vọng lên buồn bã:
Tịch mịch tiền triều cung ngoại miếu
Ðỗ Quyên đề đoạn nguyệt âm âm
Nghĩa:
Cung miếu triều xưa đây vắng ngắt
Trăng mở khắc khoải Cuốc kêu thâu
Tiếng Cuốc của Chu Mạnh Trinh tuy có não ruột, nhưng chưa sâu xa thấm thía và bi ai bằng tiếng Cuốc của nhà thơ Yên Ðổ Nguyễn Khuyến. Tiếng Cuốc của Nguyễn là tất cả tiếng nói của lòng, của một người dân yêu nước bị mất nước. Tiếng Cuốc đó còn nói lên một nỗi đau buồn, uất hận của tác giả vì bất lực trước cảnh đen tối của đất nước bị nạn ngoại xâm. Và, đó cũng là tiếng nói của lương tâm đương thôi thúc của tác giả xông vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc:
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục Ðế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Ban đêm ròng rã kêu ai đó
Giục khách gian hồ dạ ngẩn ngơ!
Mượn tiếng Cuốc kêu hay Ðỗ Quyên, hay Thục Ðế... để diễn tả tâm sự của một người dân vong quốc vẫn là một thông lệ trong văn chương.
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục Ðế hay mình Ðỗ Quyên
Lẽ tất nhiên khúc đàn của Kiều ở đây không phải để tỏ lòng nhớ nước, mà là lòng thương tiếc thời tuổi trẻ với mối tình xuân nồng nàn thâm thuý ở buổi đầu "có phải tiếc xuân mà đứng gọi..."
Khúc đàn "đầm ấm dương hoà" lâng lâng mơ màng đến nỗi tưởng "mình hoá làm bướm hay bướm hoá làm mình" qua một cơn mộng đẹp. Ðoạn kế tiếp, khúc đàn êm ái xuân tình cũng lâng lâng mơ màng, không biết phải Thục Ðế hoá thành Ðỗ Quyên hay Ðỗ Quyên hoá làm Thục Ðế. Tác giả mượn hư nói thực, mượn thực nói hư.
Trên là tính chất của bản đàn.
Tiếp đến, tác giả tả tính chất của tiếng đàn.
Tiếng đàn rất trong và rất ấm.
Trong sao châu rỏ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam Ðiền mới đông
Tiếng đàn sao mà trong trẻo thế. Trong như hạt châu rỏ xuống vung nước (duềnh) đẹp (quyên) của đêm trăng. Hạt châu đã trong rỏ nước xuống dưới ánh trăng trong càng trong thêm. Cũng như hạt châu, tiếng đàn như hạt châu rỏ xuống duềnh quyên với một âm điệu trong sáng, êm ái, nhẹ nhàng.
Tiếng đàn ấm là tiếng đàn còn dư sức ngân mà chỉ ngân vừa chừng để dư âm lại sau. Tác giả cụ thể hoá sức ấm của tiếng đàn, ví như hạt ngọc Lam Ðiền mới đông.
Phê bình tiếng đàn, người ta thường cho rằng: tiếng đàn trong là tiếng đàn của người nhàn nhã, thanh tao; tiếng đàn ấm là tiếng đàn của người có hậu tức là có tướng tốt đẹp. Tác giả muốn tiếng đàn của Kiều, tỏ ra lúc này là tiếng đàn của người được hưởng thụ hạnh phúc sau 15 năm chịu cảnh đoạ đày, thuyết minh một định luật "bĩ cực thái lai", khác những khúc đàn trước!
Một điều cần tìm hiểu thêm- cũng như một số nhà nghiên cứu "Truyện Kiều"- là tác giả đã dịch thoát ý một số câu trong bài thơ "Cẩm Sắt" của Lý Thương Ẩn đời Ðường
Nguyên bài thơ "Cẩm sắt" có 8 câu:
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp
Thục Ðế xuân tầm thác Ðỗ Quyên
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ
Lam Ðiền nhựt noãn ngọc sinh yên
Thử tình khả đãi thành truy ức
Chỉ thị đương thời dĩ vãng nhiên
Nghĩa:
Cẩm sắt năm mươi chẵn sợi mành
Mỗi dây một trụ nhớ ngày xanh
Mơ màng bướm lẫn Trang sinh mộng
áo não quyên kêu Thục Ðế tình
Thương hải lệ châu trăng chiếu suốt
Lam Ðiền hơi ngọc nắng hun thành
Tình này đợi nhớ trong mai hậu
Chán nản giờ đây khổ nỗi mình
(Bản dịch của Bửu Cầm và Tạ Quang Phát)
Như vậy, ta thấy tác giả Truyện Kiều không mượn ý của toàn bài mà chỉ mượn có 4 câu (thứ ba, tư, năm, sáu). Tại sao chỉ lấy 4 câu?
Ðây là một dụng ý sâu xa của tác giả. Trong bài "Cẩm sắt": câu 3 tả tiếng đàn mơ màng; câu 4 tả tiếng đàn áo não; câu 5 tả tiếng đàn trong trẻo; câu 6 tả tiếng đàn ấm áp. Phải chăng tính chất của những tiếng đàn ấy thể hiện được cuộc đời của Kiều theo từng giai đoạn. Hay nói một cách khác, ngược lại, cuộc đời của Kiều đã trải qua những giai đoạn được thể hiện qua tiếng đàn.
"Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp" (câu 3): tiếng đàn có một âm điệu mơ màng, lâng lâng như một giấc mộng mà Trang Tử đến nỗi không biết mình hoá làm bướm hay bướm hoá làm mình. Cũng như Kiều sống mơ màng huyền ảo với hương vị của mối tình đầu lúc Kiều và Kim Trọng mới yêu nhau. Ðôi trai tài gái sắc này lúc trao kỷ vật, cắt tóc thề nguyền, lúc đề thơ hội hoạ, lúc đánh đàn- tuy thời gian ngắn ngủi- nhưng đã xây nhiều mộng đẹp. Thực và ảo ảnh dường như trùng hợp có một liên hệ chặt chẽ.
"Thục Ðế xuân tầm thác đỗ quyên" (câu 4): tiếng đàn có một âm điệu não nuột, ai cảm như nỗi uất hận của vua Thục nhớ nước nhớ nhà gởi vào tiếng nấc nghẹn ngào, thảm não của Kiều khi lưu lạc, nhớ quê, nhớ cảnh, nhớ cha mẹ, người yêu, sống đoạ đày trong kiếp phong trần vùi hoa dập liễu.
"Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ" (câu 5): tiếng đàn đến đây thì trong trẻo như ánh trăng vằng vặc chiếu xuống biển xanh qua suốt lớp nước sâu đến những hạt châu long lanh như đẫm lệ. Cái trong trẻo thanh tao ấy chẳng khác gì tấm thân tài sắc và lòng trinh trắng của Kiều được chìm sâu dưới nước sông Tiền Ðường để rửa sạch hết bụi trần nhơ, và để rồi sống một cuộc đời thanh u, nhàn nhã dưới của thiền bên cạnh vãi Giác Duyên.
"Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên" (câu 6): tiếng đàn cuối cùng với một âm điệu nồng nàn, ấm áp như ánh nắng nhẹ, êm ả chiếu xuống núi Lam điền khiến cho ngọc quý nơi đây bốc lên hơi. Cái ấm áp ấy thực nồng nàn, thắm thiết, thi vị như Kiều đoàn tụ với gia đình, gặp lại người yêu, nối lại khúc tình xưa. Ngọc lên hơi thoang thoảng như ái tình lên hương thấm thía đậm đà.
Qua 4 câu trong bài thơ "Cẩm sắt" của Lý Thương Ẩn và ngẫm lại cuộc đời của Kiều, chúng ta thấy sự ngẫu hợp thích thú và cũng lạ kỳ giữa tiếng đàn của một nhà thơ đời Ðường với cuộc đời của một giai nhân đời Minh, và sử dụng ý khéo léo của tác giả Truyện Kiều, một thi hài cận đại của Việt Nam chúng ta.
Vì cuộc đời của Kiều- nhân vật chính của truyện- phải trải qua bốn giai đoạn có tính cách khác nhau, mơ màng , ảo não , trong trẻo và ấm áp.Ý tứ trong 4 câu (3, 4, 5, 6) của bài "Cẩm sắt" của Lý Thương Ẩn phải được đặt đúng chỗ kết cuộc của truyện , để người đọc thoả lòng, mừng cho một khách má hồng tài sắc được sống một cuộc đời đáng sống trong hương vị ngây ngất ấm êm. Và, cũng để tạo cho người đọc một tư tưởng lạc quan, yêu đời, không vì thuyết "tài mạng tương đố, tạo vật đố hồng nhan" quá máy móc mà đâm ra bi quan, yếm thế, tiêu cực. Và, cái số kiếp đoạn trường của con người đâu phải là một định luật bất di bất dịch.
Mượn ý của 4 câu thơ "Cẩm sắt", cũng như tác giả Truyện Kiều tuy phóng tác của một truyện của Trung Hoa nhưng tác giả đã chuyển hoá, sáng tạo chẳng những để cho tác phẩm của mình được rực rỡ, phong phú mà còn làm cho điển tích được sáng thêm với tính phổ cập và đề cao.
"Ðỗ Quyên" là một loại chim cũng còn gọi là Tử Quy, tiếng nôm na là chim Cuốc. Ðầu mỏ chim hơi cong, miệng to, đuôi dài, lông lưng màu tro, bụng trắng có một đường đen thẳng ngang. Nó thường lủi trong bụi rậm, dưới ao sâu hoặc hồ rộng. Cuối Xuân sang Hè thì bắt đầu kêu vào đêm trăng mờ tịch mịch ở nông thôn. Giọng kêu buồn thảm, gợi lòng lữ khách nhớ nhà, nhớ quê hương.
"Thục Ðế" là vua nước Thục tên Ðỗ Vũ thấy vợ của một bề tôi là Biết Linh, người rất đẹp nên tìm cách thông dâm. Tức giận, Biết Linh dấy loạn, đem quân đánh phá kinh thành. Thục Ðế thất bại, mất ngôi, chạy trốn vào rừng, khổ sở quá rồi chết. Ðoạn này, sách "Thành đô ký" chép có khác là vua Thục thông dâm với vợ Biết Linh. Biết chuyện, Biết Linh bắt buộc vợ nói khích vua Thục nhường ngôi cho Biết Linh, rồi cùng vợ Biết Linh bỏ nước ra đi để sống cho trọn tình chung thuỷ. Thục Ðế say mê vợ Biết Linh quá, thà mất ngôi vàng hơn mất người đẹp nên nghe theo. Nhưng thảm cho Thục Ðế đã mất ngai vàng cuốn theo mất người đẹp, vì vợ của Biết Linh quay trở lại sống với chồng.
Nhục nhã, buồn tủi, vào rừng ở, nhớ ngai vàng, nhớ nước, Thục Ðế chết hoá thành chim Ðỗ quyên ngày đêm kêu "cuốc, cuốc" hay "quốc, quốc" (nước, nước). "Quốc, quốc" do tá âm "cuốc, cuốc".
Trong bài "Qua đèo Ngang" của Bà huyện Thanh Quan, có câu:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Thi ca cổ điển Việt Nam dùng rất nhiều điển tích về hai chim này.
Trần Danh Án, một di thần nhà Hậu Lê (1423- 1788), nghe tiếng cuốc kêu cũng cảm xúc, nhớ lại một triều đại hưng thịnh... mà cuối cùng vua Lê Chiêu Thống lại hèn nhát đầu hàng ngoại quốc, khiến lòng ái quốc tha thiết sống động trong tâm hồn thi sĩ, nhưng cảm thấy mình bất lực trước thời cuộc, nên đành gói gém tâm sự di thần của mình trong mấy vần thơ:
Giá cô tại giang Nam
Ðỗ Quyên tại giang Bắc
Giá cô minh gia gia
Ðỗ Quyên minh quốc quốc
Vi cầm do hữu quốc gia thanh
Cô thần đối thử tình vô cực
Nghĩa:
Chim Giá cô ở bờ sông Nam
Chim Ðỗ Quyên ở bờ sông Bắc
Giá cô kêu gia gia
Ðỗ Quyên kêu quốc quốc
Chim nhỏ còn kêu tiếng nước nhà
Cô thần đối cảnh tình man mác!
Ðứng trước thành Cổ Loa, xưa nơi đây là cung miếu của vua Thục An Dương Vương, nhà thơ Chu Mạnh Trinh bất giác sinh lòng hoài cổ. Cung miếu đó, xưa tráng lệ huy hoàng bao nhiêu thì nay điêu tàn quạnh quẽ bấy nhiêu. Trong cảnh vắng vẻ lạnh lùng này, dưới ánh trăng mờ nhạt, tiếng Cuốc khắc khoải năm canh vọng lên buồn bã:
Tịch mịch tiền triều cung ngoại miếu
Ðỗ Quyên đề đoạn nguyệt âm âm
Nghĩa:
Cung miếu triều xưa đây vắng ngắt
Trăng mở khắc khoải Cuốc kêu thâu
Tiếng Cuốc của Chu Mạnh Trinh tuy có não ruột, nhưng chưa sâu xa thấm thía và bi ai bằng tiếng Cuốc của nhà thơ Yên Ðổ Nguyễn Khuyến. Tiếng Cuốc của Nguyễn là tất cả tiếng nói của lòng, của một người dân yêu nước bị mất nước. Tiếng Cuốc đó còn nói lên một nỗi đau buồn, uất hận của tác giả vì bất lực trước cảnh đen tối của đất nước bị nạn ngoại xâm. Và, đó cũng là tiếng nói của lương tâm đương thôi thúc của tác giả xông vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc:
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục Ðế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Ban đêm ròng rã kêu ai đó
Giục khách gian hồ dạ ngẩn ngơ!
Mượn tiếng Cuốc kêu hay Ðỗ Quyên, hay Thục Ðế... để diễn tả tâm sự của một người dân vong quốc vẫn là một thông lệ trong văn chương.
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục Ðế hay mình Ðỗ Quyên
Lẽ tất nhiên khúc đàn của Kiều ở đây không phải để tỏ lòng nhớ nước, mà là lòng thương tiếc thời tuổi trẻ với mối tình xuân nồng nàn thâm thuý ở buổi đầu "có phải tiếc xuân mà đứng gọi..."
Khúc đàn "đầm ấm dương hoà" lâng lâng mơ màng đến nỗi tưởng "mình hoá làm bướm hay bướm hoá làm mình" qua một cơn mộng đẹp. Ðoạn kế tiếp, khúc đàn êm ái xuân tình cũng lâng lâng mơ màng, không biết phải Thục Ðế hoá thành Ðỗ Quyên hay Ðỗ Quyên hoá làm Thục Ðế. Tác giả mượn hư nói thực, mượn thực nói hư.
Trên là tính chất của bản đàn.
Tiếp đến, tác giả tả tính chất của tiếng đàn.
Tiếng đàn rất trong và rất ấm.
Trong sao châu rỏ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam Ðiền mới đông
Tiếng đàn sao mà trong trẻo thế. Trong như hạt châu rỏ xuống vung nước (duềnh) đẹp (quyên) của đêm trăng. Hạt châu đã trong rỏ nước xuống dưới ánh trăng trong càng trong thêm. Cũng như hạt châu, tiếng đàn như hạt châu rỏ xuống duềnh quyên với một âm điệu trong sáng, êm ái, nhẹ nhàng.
Tiếng đàn ấm là tiếng đàn còn dư sức ngân mà chỉ ngân vừa chừng để dư âm lại sau. Tác giả cụ thể hoá sức ấm của tiếng đàn, ví như hạt ngọc Lam Ðiền mới đông.
Phê bình tiếng đàn, người ta thường cho rằng: tiếng đàn trong là tiếng đàn của người nhàn nhã, thanh tao; tiếng đàn ấm là tiếng đàn của người có hậu tức là có tướng tốt đẹp. Tác giả muốn tiếng đàn của Kiều, tỏ ra lúc này là tiếng đàn của người được hưởng thụ hạnh phúc sau 15 năm chịu cảnh đoạ đày, thuyết minh một định luật "bĩ cực thái lai", khác những khúc đàn trước!
Một điều cần tìm hiểu thêm- cũng như một số nhà nghiên cứu "Truyện Kiều"- là tác giả đã dịch thoát ý một số câu trong bài thơ "Cẩm Sắt" của Lý Thương Ẩn đời Ðường
Nguyên bài thơ "Cẩm sắt" có 8 câu:
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp
Thục Ðế xuân tầm thác Ðỗ Quyên
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ
Lam Ðiền nhựt noãn ngọc sinh yên
Thử tình khả đãi thành truy ức
Chỉ thị đương thời dĩ vãng nhiên
Nghĩa:
Cẩm sắt năm mươi chẵn sợi mành
Mỗi dây một trụ nhớ ngày xanh
Mơ màng bướm lẫn Trang sinh mộng
áo não quyên kêu Thục Ðế tình
Thương hải lệ châu trăng chiếu suốt
Lam Ðiền hơi ngọc nắng hun thành
Tình này đợi nhớ trong mai hậu
Chán nản giờ đây khổ nỗi mình
(Bản dịch của Bửu Cầm và Tạ Quang Phát)
Như vậy, ta thấy tác giả Truyện Kiều không mượn ý của toàn bài mà chỉ mượn có 4 câu (thứ ba, tư, năm, sáu). Tại sao chỉ lấy 4 câu?
Ðây là một dụng ý sâu xa của tác giả. Trong bài "Cẩm sắt": câu 3 tả tiếng đàn mơ màng; câu 4 tả tiếng đàn áo não; câu 5 tả tiếng đàn trong trẻo; câu 6 tả tiếng đàn ấm áp. Phải chăng tính chất của những tiếng đàn ấy thể hiện được cuộc đời của Kiều theo từng giai đoạn. Hay nói một cách khác, ngược lại, cuộc đời của Kiều đã trải qua những giai đoạn được thể hiện qua tiếng đàn.
"Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp" (câu 3): tiếng đàn có một âm điệu mơ màng, lâng lâng như một giấc mộng mà Trang Tử đến nỗi không biết mình hoá làm bướm hay bướm hoá làm mình. Cũng như Kiều sống mơ màng huyền ảo với hương vị của mối tình đầu lúc Kiều và Kim Trọng mới yêu nhau. Ðôi trai tài gái sắc này lúc trao kỷ vật, cắt tóc thề nguyền, lúc đề thơ hội hoạ, lúc đánh đàn- tuy thời gian ngắn ngủi- nhưng đã xây nhiều mộng đẹp. Thực và ảo ảnh dường như trùng hợp có một liên hệ chặt chẽ.
"Thục Ðế xuân tầm thác đỗ quyên" (câu 4): tiếng đàn có một âm điệu não nuột, ai cảm như nỗi uất hận của vua Thục nhớ nước nhớ nhà gởi vào tiếng nấc nghẹn ngào, thảm não của Kiều khi lưu lạc, nhớ quê, nhớ cảnh, nhớ cha mẹ, người yêu, sống đoạ đày trong kiếp phong trần vùi hoa dập liễu.
"Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ" (câu 5): tiếng đàn đến đây thì trong trẻo như ánh trăng vằng vặc chiếu xuống biển xanh qua suốt lớp nước sâu đến những hạt châu long lanh như đẫm lệ. Cái trong trẻo thanh tao ấy chẳng khác gì tấm thân tài sắc và lòng trinh trắng của Kiều được chìm sâu dưới nước sông Tiền Ðường để rửa sạch hết bụi trần nhơ, và để rồi sống một cuộc đời thanh u, nhàn nhã dưới của thiền bên cạnh vãi Giác Duyên.
"Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên" (câu 6): tiếng đàn cuối cùng với một âm điệu nồng nàn, ấm áp như ánh nắng nhẹ, êm ả chiếu xuống núi Lam điền khiến cho ngọc quý nơi đây bốc lên hơi. Cái ấm áp ấy thực nồng nàn, thắm thiết, thi vị như Kiều đoàn tụ với gia đình, gặp lại người yêu, nối lại khúc tình xưa. Ngọc lên hơi thoang thoảng như ái tình lên hương thấm thía đậm đà.
Qua 4 câu trong bài thơ "Cẩm sắt" của Lý Thương Ẩn và ngẫm lại cuộc đời của Kiều, chúng ta thấy sự ngẫu hợp thích thú và cũng lạ kỳ giữa tiếng đàn của một nhà thơ đời Ðường với cuộc đời của một giai nhân đời Minh, và sử dụng ý khéo léo của tác giả Truyện Kiều, một thi hài cận đại của Việt Nam chúng ta.
Vì cuộc đời của Kiều- nhân vật chính của truyện- phải trải qua bốn giai đoạn có tính cách khác nhau, mơ màng , ảo não , trong trẻo và ấm áp.Ý tứ trong 4 câu (3, 4, 5, 6) của bài "Cẩm sắt" của Lý Thương Ẩn phải được đặt đúng chỗ kết cuộc của truyện , để người đọc thoả lòng, mừng cho một khách má hồng tài sắc được sống một cuộc đời đáng sống trong hương vị ngây ngất ấm êm. Và, cũng để tạo cho người đọc một tư tưởng lạc quan, yêu đời, không vì thuyết "tài mạng tương đố, tạo vật đố hồng nhan" quá máy móc mà đâm ra bi quan, yếm thế, tiêu cực. Và, cái số kiếp đoạn trường của con người đâu phải là một định luật bất di bất dịch.
Mượn ý của 4 câu thơ "Cẩm sắt", cũng như tác giả Truyện Kiều tuy phóng tác của một truyện của Trung Hoa nhưng tác giả đã chuyển hoá, sáng tạo chẳng những để cho tác phẩm của mình được rực rỡ, phong phú mà còn làm cho điển tích được sáng thêm với tính phổ cập và đề cao.
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa
Ba chị em Thuý Kiều, Thuý Vân và Vương Quan đi du xuân nhân tiết Thanh minh, khi trở về giữa đường gặp một nấm mồ không nhan khói, không ai đắp điếm. Kiều cảm động, lấy làm lạ hỏi. Vương Quan cho biết: có một ca nhi tên Ðạm Tiên đã từng "nổi danh tài sắc một thì", đến khi chết vì không có chồng, phải nhờ người khách phương xa nghe tiếng tìm chơi, lỡ cơ nên xuất tiền sắm sanh lễ vật chôn cất. Nay là mồ vô chủ, không ai viếng thăm. Nghe kể, Kiều xót xa thương cảm người bạt mạng:
"Lòng đâu sẵn nỗi thương tâm
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
Ðau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung...
"Châu sa" là hột ngọc (châu) rơi xuống (sa), nghĩa bóng chỉ nước mắt rơi. Trong "Truyện Kiều" còn có những câu:
"Lại cùng ủ dột nét hoa
Sầu tuôn dứt nối châu sa vắn dài".
"Ngại ngùng một bước một xa
Một lời trân trọng châu sa mấy hàng"
Trong "Thần thoại ký" của Trung Hoa có chép: đời Thượng cổ có loài giao long hoá người gọi là giao nhân. Ðầu và mình giao nhân giống như người, nhưng đít giống đuôi cá. Giống này cũng có đực, cái từ dưới nước lên ở thế gian, buôn bán giao thiệp lẫn lộn với người thường. Giao nhân rất xinh đẹp và thông minh, lại giàu tình cảm luyến ái nên được người ở mặt đất thương mến.
Giao nhân ở trên đất thời gian chỉ được một năm là phải về thuỷ cung chầu Long vương theo luật định. Khi trở về, vì quyến luyến cõi trần thế, nhứt là tình đối xử giữa người với giao nhân nên lúc từ giã, giao nhân khóc lóc thảm thiết. Những giọt nước mắt rơi xuống lại hoá thành hột ngọc (châu).
Truyện thần thoại chép như vậy.
Có điều cụ thể, giọt nước mắt hình giống hột châu nên mới gọi giọt châu hay giọt ngọc. Từ Hán Việt gọi là "lệ châu". Có câu:
"Nàng càng giọt ngọc như chan,
Nỗi lòng luống những bàn hoàn niềm tây".
"Sợ quen dám hở ra lời
Khôn ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa"
Ba chị em Thuý Kiều, Thuý Vân và Vương Quan đi du xuân nhân tiết Thanh minh, khi trở về giữa đường gặp một nấm mồ không nhan khói, không ai đắp điếm. Kiều cảm động, lấy làm lạ hỏi. Vương Quan cho biết: có một ca nhi tên Ðạm Tiên đã từng "nổi danh tài sắc một thì", đến khi chết vì không có chồng, phải nhờ người khách phương xa nghe tiếng tìm chơi, lỡ cơ nên xuất tiền sắm sanh lễ vật chôn cất. Nay là mồ vô chủ, không ai viếng thăm. Nghe kể, Kiều xót xa thương cảm người bạt mạng:
"Lòng đâu sẵn nỗi thương tâm
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
Ðau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung...
"Châu sa" là hột ngọc (châu) rơi xuống (sa), nghĩa bóng chỉ nước mắt rơi. Trong "Truyện Kiều" còn có những câu:
"Lại cùng ủ dột nét hoa
Sầu tuôn dứt nối châu sa vắn dài".
"Ngại ngùng một bước một xa
Một lời trân trọng châu sa mấy hàng"
Trong "Thần thoại ký" của Trung Hoa có chép: đời Thượng cổ có loài giao long hoá người gọi là giao nhân. Ðầu và mình giao nhân giống như người, nhưng đít giống đuôi cá. Giống này cũng có đực, cái từ dưới nước lên ở thế gian, buôn bán giao thiệp lẫn lộn với người thường. Giao nhân rất xinh đẹp và thông minh, lại giàu tình cảm luyến ái nên được người ở mặt đất thương mến.
Giao nhân ở trên đất thời gian chỉ được một năm là phải về thuỷ cung chầu Long vương theo luật định. Khi trở về, vì quyến luyến cõi trần thế, nhứt là tình đối xử giữa người với giao nhân nên lúc từ giã, giao nhân khóc lóc thảm thiết. Những giọt nước mắt rơi xuống lại hoá thành hột ngọc (châu).
Truyện thần thoại chép như vậy.
Có điều cụ thể, giọt nước mắt hình giống hột châu nên mới gọi giọt châu hay giọt ngọc. Từ Hán Việt gọi là "lệ châu". Có câu:
"Nàng càng giọt ngọc như chan,
Nỗi lòng luống những bàn hoàn niềm tây".
"Sợ quen dám hở ra lời
Khôn ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa"
"Sống làm vợ khắp người ta,
Khéo thay chết xuống làm ma không chồng".
Hai câu này thoát dịch rất tài do hai câu thơ cổ:
"Sinh vi vạn nhân thể,
Tử vi vô phu quỷ".
Nghĩa là:
"Sống làm vợ muôn người
"Khéo thay mà không chồng"
("Khéo thay" có bản chép là "Hại thay")
Bản dịch của Ðào Duy Anh và của Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu chép là "Khéo thay" dựa theo bản Liễu Văn Đường ( chữ Nôm khắc năm 1871) và bản của Kiều Oanh chú thích là "tình cờ như có bàn tay khéo léo xếp đặt, nói mỉa" và cho rằng "nhiều bản Nôm khác cho là "hại là lầm chữ..". Bản của Vân Hạc - Lê Văn Hoè chép "hại thay", chú thích là: "Thương hại thay cũng như ta nói tội nghiệp thay".
Sống thì làm vợ mọi người nhưng đến khi chết - thực thảm thay, thương hại thay - làm ma không chồng. Sống thì làm vợ mọi người nhưng đến khi chết - ôi, khéo thay ( do bàn tay nào xếp đặt) để phải - làm ma không chồng. Hai từ " khéo thay", " hại thay" đều diễn tả tình cảm. Tất cả đều có ý nghĩa sâu sắc.
" Hại thay" chỉ tỏ tình cảm thương xót, thương hại.
" Khéo thay" chỉ tỏ tình cảm thương sót nhưng hàm súc một ý nghĩa mỉa mai, trách móc số kiếp của một con người hồng nhan bạc mệnh, bị đời ruồng rẫy, phũ phàng...
Tác giả "Truyện Kiều" còn dùng nhiều từ "khéo".
...."Chữ tài chữ mạng khéo là ghét nhau".
Khéo thay chết xuống làm ma không chồng".
Hai câu này thoát dịch rất tài do hai câu thơ cổ:
"Sinh vi vạn nhân thể,
Tử vi vô phu quỷ".
Nghĩa là:
"Sống làm vợ muôn người
"Khéo thay mà không chồng"
("Khéo thay" có bản chép là "Hại thay")
Bản dịch của Ðào Duy Anh và của Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu chép là "Khéo thay" dựa theo bản Liễu Văn Đường ( chữ Nôm khắc năm 1871) và bản của Kiều Oanh chú thích là "tình cờ như có bàn tay khéo léo xếp đặt, nói mỉa" và cho rằng "nhiều bản Nôm khác cho là "hại là lầm chữ..". Bản của Vân Hạc - Lê Văn Hoè chép "hại thay", chú thích là: "Thương hại thay cũng như ta nói tội nghiệp thay".
Sống thì làm vợ mọi người nhưng đến khi chết - thực thảm thay, thương hại thay - làm ma không chồng. Sống thì làm vợ mọi người nhưng đến khi chết - ôi, khéo thay ( do bàn tay nào xếp đặt) để phải - làm ma không chồng. Hai từ " khéo thay", " hại thay" đều diễn tả tình cảm. Tất cả đều có ý nghĩa sâu sắc.
" Hại thay" chỉ tỏ tình cảm thương xót, thương hại.
" Khéo thay" chỉ tỏ tình cảm thương sót nhưng hàm súc một ý nghĩa mỉa mai, trách móc số kiếp của một con người hồng nhan bạc mệnh, bị đời ruồng rẫy, phũ phàng...
Tác giả "Truyện Kiều" còn dùng nhiều từ "khéo".
...."Chữ tài chữ mạng khéo là ghét nhau".
..."Khéo vô duyên bấy là mình với ta"...để tỏ tình thương xót, mỉa
mai cay đắng ấy.
Mà xem trong sổ Ðoạn trường có tên
Thi hào Nguyễn Du khi viết "Truyện Kiều" đã định lấy hai tiếng "Ðoạn trường" đặt tên cho tác phẩm là "Ðoạn trường tân thanh", nên nhân đó đặt luôn ra những chữ "Sổ Ðoạn trường", "Số Ðoạn trường", "Tập Ðoạn trường", "Hội Ðoạn trường", "Khúc Ðoạn trường"... từ chỗ không mà làm ra có cho mặn mà, ly kỳ của truyện với một dụng ý thâm thuý đặc biệt. Ðếm kỹ, chúng ta thấy có 17 tiếng "Ðoạn trường" trong 17 câu- hơn tất cả những từ và những câu khác:
Mà xem trong sổ Ðoạn trường có tên
Ví đem vào tập Ðoạn trường
Ðoạn trường là số thế nào
Ðoạn trường lại chọn mặt người vô duyên
Ðoạn trường thay lúc phân kỳ
Ðã toan trốn nợ Ðoạn trường được sao?
Xót người trong hội Ðoạn trường đòi cơn
Ðoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh
Cuộc vui gẩy khúc Ðoạn trường ấy chi
Sụt sùi dở nỗi Ðoạn trường
Này thôi hết kiếp Ðoạn trường là đây
Kiếp sao rặt những Ðoạn trường thế thôi
Lại tìm những chốn Ðoạn trường mà đi
Ðoạn trường cho hết kiếp này mới thôi
Ðoạn trường sổ rút tên ra
Ðoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau
Ðoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu
"Ðoạn trường" nghĩa đen là ruột đứt, chỉ sự đau đớn bi thảm cùng cực.
Ở đất Vũ Bình thuộc địa phận phủ Ðịnh Châu tỉnh Phúc Kiến, có giống vượn đỏ như vang, nơn như tơ, xa trông lấp lánh rất đẹp. Có người thợ săn tên Trương Mậu Hiệp đánh bẫy bắt được vượn con nhưng không bắt được vượn mẹ. Biết vượn mẹ thương con nên đem vượn con ra làm mồi nhử để đánh bẫy. Vượn con kêu gào thảm thiết, nhưng vượn mẹ ở trên cây cứ từ cành này nhảy chuyền sang cành kia qua lại rối rít như con thoi tỏ vẻ muốn xuống cứu con, nhưng tinh khôn không xuống.
Người thợ săn họ Trương lấy roi quật vào vượn con, khiến nó kêu la thê thảm lên. Vượn mẹ trên cây cuống cuồng tuột xuống cứu con nhưng rồi lại trèo lên, cứ như vậy mãi. Có lúc lại ngồi trên cây nhìn xuống mặt mày buồn bã, kêu gào lên một giọng bi thảm rồi té xuống chết. Họ Trương đem về mổ thịt, thấy ruột của vượn mẹ đứt ra từng đoạn.
Trong bài "Trường hận ca" của Bạch Cư Dị, một thi hào đời nhà Ðường, diễn tả lại mối tình vương giả bi ai của vua Ðường Minh Hoàng với Dương Quý Phi bị loạn An Lộc Sơn, phải bỏ chạy vào đất Thục, quân sĩ nổi loạn giết anh của Dương Quý Phi là Dương Quốc Trung, lại còn kết án Dương Quý Phi gây cuộc bạo loạn nên buộc thắt cổ chết tại Mã Ngôi, có câu:
Thục giang thuỷ bích Thục sơn thanh
Thánh chúa triêu triêu mộ mộ tình
Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc
Dạ vũ vạn linh trường đoạn thanh
Tạm dịch:
Nước non Ba Thục xanh xanh biếc
Sớm tối nhà vua trĩ nhớ nhung
Quạnh quẽ hành cung trăng gợi thảm
Ðêm mưa chuông vẳng tiếng đau lòng
(Bản dịch của Yã Hạc và Trinh Nguyên)
"Tổng vịnh truyện Kiều" của Phạm Quý Thích, có câu:
Ðoạn trường mộng lý căn duyên liễu
Bạc mạng cầm chung oán hận trường
Thoát dịch:
Nửa giấc Ðoạn trường tan gối điệp
Một dây bạc mạng dứt cầm loan
Ðái Ðức Tuấn (bút hiệu Tchye), một nhà thơ trữ tình, cũng có những câu cực kỳ não nuột với thể thơ mới:
Hững hờ xách gói qua đường vậy
Còn biết làm sao với Ðoạn trường
Ðời tựa bánh xe lăn chuyển mãi
Phong trần chọn mặt khách tang thương
"Ðoạn trường": nỗi đau đớn quằn quại như đứt từng khúc ruột.
Thi hào Nguyễn Du khi viết "Truyện Kiều" đã định lấy hai tiếng "Ðoạn trường" đặt tên cho tác phẩm là "Ðoạn trường tân thanh", nên nhân đó đặt luôn ra những chữ "Sổ Ðoạn trường", "Số Ðoạn trường", "Tập Ðoạn trường", "Hội Ðoạn trường", "Khúc Ðoạn trường"... từ chỗ không mà làm ra có cho mặn mà, ly kỳ của truyện với một dụng ý thâm thuý đặc biệt. Ðếm kỹ, chúng ta thấy có 17 tiếng "Ðoạn trường" trong 17 câu- hơn tất cả những từ và những câu khác:
Mà xem trong sổ Ðoạn trường có tên
Ví đem vào tập Ðoạn trường
Ðoạn trường là số thế nào
Ðoạn trường lại chọn mặt người vô duyên
Ðoạn trường thay lúc phân kỳ
Ðã toan trốn nợ Ðoạn trường được sao?
Xót người trong hội Ðoạn trường đòi cơn
Ðoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh
Cuộc vui gẩy khúc Ðoạn trường ấy chi
Sụt sùi dở nỗi Ðoạn trường
Này thôi hết kiếp Ðoạn trường là đây
Kiếp sao rặt những Ðoạn trường thế thôi
Lại tìm những chốn Ðoạn trường mà đi
Ðoạn trường cho hết kiếp này mới thôi
Ðoạn trường sổ rút tên ra
Ðoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau
Ðoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu
"Ðoạn trường" nghĩa đen là ruột đứt, chỉ sự đau đớn bi thảm cùng cực.
Ở đất Vũ Bình thuộc địa phận phủ Ðịnh Châu tỉnh Phúc Kiến, có giống vượn đỏ như vang, nơn như tơ, xa trông lấp lánh rất đẹp. Có người thợ săn tên Trương Mậu Hiệp đánh bẫy bắt được vượn con nhưng không bắt được vượn mẹ. Biết vượn mẹ thương con nên đem vượn con ra làm mồi nhử để đánh bẫy. Vượn con kêu gào thảm thiết, nhưng vượn mẹ ở trên cây cứ từ cành này nhảy chuyền sang cành kia qua lại rối rít như con thoi tỏ vẻ muốn xuống cứu con, nhưng tinh khôn không xuống.
Người thợ săn họ Trương lấy roi quật vào vượn con, khiến nó kêu la thê thảm lên. Vượn mẹ trên cây cuống cuồng tuột xuống cứu con nhưng rồi lại trèo lên, cứ như vậy mãi. Có lúc lại ngồi trên cây nhìn xuống mặt mày buồn bã, kêu gào lên một giọng bi thảm rồi té xuống chết. Họ Trương đem về mổ thịt, thấy ruột của vượn mẹ đứt ra từng đoạn.
Trong bài "Trường hận ca" của Bạch Cư Dị, một thi hào đời nhà Ðường, diễn tả lại mối tình vương giả bi ai của vua Ðường Minh Hoàng với Dương Quý Phi bị loạn An Lộc Sơn, phải bỏ chạy vào đất Thục, quân sĩ nổi loạn giết anh của Dương Quý Phi là Dương Quốc Trung, lại còn kết án Dương Quý Phi gây cuộc bạo loạn nên buộc thắt cổ chết tại Mã Ngôi, có câu:
Thục giang thuỷ bích Thục sơn thanh
Thánh chúa triêu triêu mộ mộ tình
Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc
Dạ vũ vạn linh trường đoạn thanh
Tạm dịch:
Nước non Ba Thục xanh xanh biếc
Sớm tối nhà vua trĩ nhớ nhung
Quạnh quẽ hành cung trăng gợi thảm
Ðêm mưa chuông vẳng tiếng đau lòng
(Bản dịch của Yã Hạc và Trinh Nguyên)
"Tổng vịnh truyện Kiều" của Phạm Quý Thích, có câu:
Ðoạn trường mộng lý căn duyên liễu
Bạc mạng cầm chung oán hận trường
Thoát dịch:
Nửa giấc Ðoạn trường tan gối điệp
Một dây bạc mạng dứt cầm loan
Ðái Ðức Tuấn (bút hiệu Tchye), một nhà thơ trữ tình, cũng có những câu cực kỳ não nuột với thể thơ mới:
Hững hờ xách gói qua đường vậy
Còn biết làm sao với Ðoạn trường
Ðời tựa bánh xe lăn chuyển mãi
Phong trần chọn mặt khách tang thương
"Ðoạn trường": nỗi đau đớn quằn quại như đứt từng khúc ruột.
MỘT NỀN ĐỒNG TƯỚC KHOÁ XUÂN HAI KIỀU
Sau khi dự hội Ðạp thanh, ba chị em Thuý Kiều, Thuý Vân và Vương Quan trên đường trở về, gặp Kim Trọng:
Chung quanh vẫn đất nước nhà
Với Vương Quan trước vốn là đồng thân
Trộm nghe thơm nức hương lân
Một nền Ðồng tước khoá xuân hai Kiều
Ðời Tam Quốc (220- 280), Chúa Nguỵ là Tào Tháo có xây một đài bên sông Chương (huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam), đặt tên là Ðồng Tước. Ðài cực kỳ tráng lệ, trang hoàng lộng lẫy. Tháo lại tuyển gái đẹp khắp vùng cho chứa vào trong. Vậy mà Tháo còn tham ....
Nhân một dịp du thuyền trên sông Trường Giang, rượu ngà say, Tháo cao hứng nói với các quan:
- Ta năm nay đã 54 tuổi. Nếu chiếm xong Giang Nam, ta cũng được chút vui mừng riêng. Số là trước kia, ta có quen thân cụ Kiều công, được biết cụ có hai cô gái đều là trang quốc sắc. Không ngờ về sau Tôn Sách và Châu Du cưới mất. Nay ta xây đài Ðồng Tước bên sông Chương, nếu hạ được Giang Nam, ta sẽ đem hai nàng họ Kiều về đó ở để vui thú năm tháng về già. Thế là ta mãn nguyện.
Nguyên Tào Tháo có đứa con nhỏ tên Tào Thực tự Tử Kiến có tài hạ bút thành văn. Khi xây xong đài Ðồng Tước, Tháo sai con làm bài phú "Ðồng Tước đài" để ca tụng công nghiệp của nhà họ Tào. Bài phú rất đặc sắc.
Ðể khích Châu Du là Ðô đốc nhà Ðông Ngô đánh Tào Tháo, chúa nhà Bắc Nguỵ, Quân sư nhà Tây Thục là Gia Cát Lượng (Khổng Minh) sửa đổi câu thứ bảy của bài phú. Nguyên văn là:
Liên nhị Kiều vu đông tây hề, nhược trường không chi đế đống
Nghĩa là:
Bắc hai cây cầu tây đông nối lại, như cầu vồng sáng chói không gian
Nhưng Khổng Minh lại đổi ra:
Lãm nhị Kiều vu đông nam hề, lạc triêu tịch chi dữ cộng
Nghĩa là:
Tìm hai Kiều Nam phương về sống, vui cùng nhau giấc mộng hồi xuân
Khổng Minh đem chữ "Kiều" là "cầu" đổi ra chữ "Kiều" là nàng họ Kiều; và đổi cả toàn vế sau để cố ý chỉ vào Tào Tháo muốn bắt hai nàng Kiều: Ðại Kiều (vợ của Tôn Sách) và Tiểu Kiều (vợ của Châu Du) về làm thiếp cho ở đài Ðồng Tước. Nhưng vì cuộc liên minh giữa Ðông Ngô và Tây Thục, lại nhờ Khổng Minh cầu gió Ðông lúc trái mùa, nên Châu Du- Ðô đốc của Ngô- dùng hoả công đốt phá 83 vạn quân của chúa Nguỵ Tào Tháo tại trận Xích Bích. Nguỵ thua to. Mộng chiếm đất Giang Nam để đoạt lấy hai nàng Kiều xinh đẹp làm thiếp của chúa Nguỵ Tào Tháo hoàn toàn tan vỡ.
Nhân đó, nhà thơ Ðỗ Mục đời nhà Ðường có bài "Xích Bích hoài cổ":
Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu
Tự tương ma tẩy nhận tiền triều
Ðông phong bất dữ Châu lang tiện
Ðồng tước xuân thâm toả nhị Kiều
Tạm dịch:
Kích gãy cát chìm sắt chửa tiêu
Rửa mài nhận thấy dấu tiền triều
Gío Ðông chẳng giống chàng Chân thắng
Ðồng tước đài xuân nhốt hai Kiều
Cũng đoạn hai bên gặp nhau này giữa chị em Kiều với Kim Trọng, có câu:
Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa
Và, đến đoạn diễn tả khi Kiều trở về nhà, đêm lại trằn trọc mộng thấy Ðạm Tiên:
Thoắt đâu thấy một Tiểu Kiều
Có chiều phong vận có chiều thanh tân
Sương in mặt tuyết pha thân
Sen vàng lững thững như gần như xa
"Kiều" này là từ chung, chỉ người gái đẹp (viết không hoa). "Hai Kiều" tức là Thuý Kiều và Thuý Vân, vì cả hai đều có sắc đẹp; "tiểu kiều" tức là Ðạm Tiên, một ca nhi nổi danh tài sắc một thời.
"Một nền Ðồng tước khoá xuân hai Kiều", Kiều này là tên "Kiều" đi đôi với nền "Ðồng tước". Ðây là từ riêng chỉ nhân vật (viết hoa), tức là hai nàng Ðại Kiều và Tiểu Kiều con của Kiều quốc lão (kiều công) ở đất Ngô đời Tam quốc. Hai nàng đều tuyệt sắc giai nhân. Ngay cả hai đã có chồng rồi mà chúa Nguỵ Tào Tháo- tuy đã tuyển được nhiều gái đẹp để ở đài Ðồng Tước- nhưng vẫn mơ tưởng ước ao, mong được "mãn nguyện, để vui thú năm tháng về già"!...
Tác giả lấy cái riêng (nhị Kiều) bằng điển tích để dẫn đến cái chung (hai Kiều), chẳng những ý nói nhà họ Vương có hai người gái đẹp kín cổng cao tường (khoá xuân), vừa đề cao cái đẹp của cả hai xứng đáng là tuyệt thế giai nhân.
Sau khi dự hội Ðạp thanh, ba chị em Thuý Kiều, Thuý Vân và Vương Quan trên đường trở về, gặp Kim Trọng:
Chung quanh vẫn đất nước nhà
Với Vương Quan trước vốn là đồng thân
Trộm nghe thơm nức hương lân
Một nền Ðồng tước khoá xuân hai Kiều
Ðời Tam Quốc (220- 280), Chúa Nguỵ là Tào Tháo có xây một đài bên sông Chương (huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam), đặt tên là Ðồng Tước. Ðài cực kỳ tráng lệ, trang hoàng lộng lẫy. Tháo lại tuyển gái đẹp khắp vùng cho chứa vào trong. Vậy mà Tháo còn tham ....
Nhân một dịp du thuyền trên sông Trường Giang, rượu ngà say, Tháo cao hứng nói với các quan:
- Ta năm nay đã 54 tuổi. Nếu chiếm xong Giang Nam, ta cũng được chút vui mừng riêng. Số là trước kia, ta có quen thân cụ Kiều công, được biết cụ có hai cô gái đều là trang quốc sắc. Không ngờ về sau Tôn Sách và Châu Du cưới mất. Nay ta xây đài Ðồng Tước bên sông Chương, nếu hạ được Giang Nam, ta sẽ đem hai nàng họ Kiều về đó ở để vui thú năm tháng về già. Thế là ta mãn nguyện.
Nguyên Tào Tháo có đứa con nhỏ tên Tào Thực tự Tử Kiến có tài hạ bút thành văn. Khi xây xong đài Ðồng Tước, Tháo sai con làm bài phú "Ðồng Tước đài" để ca tụng công nghiệp của nhà họ Tào. Bài phú rất đặc sắc.
Ðể khích Châu Du là Ðô đốc nhà Ðông Ngô đánh Tào Tháo, chúa nhà Bắc Nguỵ, Quân sư nhà Tây Thục là Gia Cát Lượng (Khổng Minh) sửa đổi câu thứ bảy của bài phú. Nguyên văn là:
Liên nhị Kiều vu đông tây hề, nhược trường không chi đế đống
Nghĩa là:
Bắc hai cây cầu tây đông nối lại, như cầu vồng sáng chói không gian
Nhưng Khổng Minh lại đổi ra:
Lãm nhị Kiều vu đông nam hề, lạc triêu tịch chi dữ cộng
Nghĩa là:
Tìm hai Kiều Nam phương về sống, vui cùng nhau giấc mộng hồi xuân
Khổng Minh đem chữ "Kiều" là "cầu" đổi ra chữ "Kiều" là nàng họ Kiều; và đổi cả toàn vế sau để cố ý chỉ vào Tào Tháo muốn bắt hai nàng Kiều: Ðại Kiều (vợ của Tôn Sách) và Tiểu Kiều (vợ của Châu Du) về làm thiếp cho ở đài Ðồng Tước. Nhưng vì cuộc liên minh giữa Ðông Ngô và Tây Thục, lại nhờ Khổng Minh cầu gió Ðông lúc trái mùa, nên Châu Du- Ðô đốc của Ngô- dùng hoả công đốt phá 83 vạn quân của chúa Nguỵ Tào Tháo tại trận Xích Bích. Nguỵ thua to. Mộng chiếm đất Giang Nam để đoạt lấy hai nàng Kiều xinh đẹp làm thiếp của chúa Nguỵ Tào Tháo hoàn toàn tan vỡ.
Nhân đó, nhà thơ Ðỗ Mục đời nhà Ðường có bài "Xích Bích hoài cổ":
Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu
Tự tương ma tẩy nhận tiền triều
Ðông phong bất dữ Châu lang tiện
Ðồng tước xuân thâm toả nhị Kiều
Tạm dịch:
Kích gãy cát chìm sắt chửa tiêu
Rửa mài nhận thấy dấu tiền triều
Gío Ðông chẳng giống chàng Chân thắng
Ðồng tước đài xuân nhốt hai Kiều
Cũng đoạn hai bên gặp nhau này giữa chị em Kiều với Kim Trọng, có câu:
Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa
Và, đến đoạn diễn tả khi Kiều trở về nhà, đêm lại trằn trọc mộng thấy Ðạm Tiên:
Thoắt đâu thấy một Tiểu Kiều
Có chiều phong vận có chiều thanh tân
Sương in mặt tuyết pha thân
Sen vàng lững thững như gần như xa
"Kiều" này là từ chung, chỉ người gái đẹp (viết không hoa). "Hai Kiều" tức là Thuý Kiều và Thuý Vân, vì cả hai đều có sắc đẹp; "tiểu kiều" tức là Ðạm Tiên, một ca nhi nổi danh tài sắc một thời.
"Một nền Ðồng tước khoá xuân hai Kiều", Kiều này là tên "Kiều" đi đôi với nền "Ðồng tước". Ðây là từ riêng chỉ nhân vật (viết hoa), tức là hai nàng Ðại Kiều và Tiểu Kiều con của Kiều quốc lão (kiều công) ở đất Ngô đời Tam quốc. Hai nàng đều tuyệt sắc giai nhân. Ngay cả hai đã có chồng rồi mà chúa Nguỵ Tào Tháo- tuy đã tuyển được nhiều gái đẹp để ở đài Ðồng Tước- nhưng vẫn mơ tưởng ước ao, mong được "mãn nguyện, để vui thú năm tháng về già"!...
Tác giả lấy cái riêng (nhị Kiều) bằng điển tích để dẫn đến cái chung (hai Kiều), chẳng những ý nói nhà họ Vương có hai người gái đẹp kín cổng cao tường (khoá xuân), vừa đề cao cái đẹp của cả hai xứng đáng là tuyệt thế giai nhân.
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
Ðoạn diễn tả về sắc và tài của Kiều, ngoài sắc đẹp "một hai nghiêng nước nghiêng thành", Kiều còn:
Thông minh vốn sẵn tư trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bực ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân
"Hồ Cầm" là một thứ đàn giống đàn nhị của ta, kéo bằng cung căng mã vĩ. Kiểu giống đàn tỳ bà, gọi là Nguyệt cầm (đàn nguyệt). Ðàn này do ở Tây vực du nhập Trung Hoa nên gọi là Hồ cầm.
Sách "Uyên giám" cho rằng: người Hồ lấy gỗ ngô đồng chế ra đàn Tỳ bà. Ðàn có bốn dây. Ðầu cung có khắc đầu chim Phượng hoặc đầu con Rồng uốn vào nhau rất mỹ thuật. Cổ đàn dài, mặt phẳng, lưng tròn, thùng rộng và dẹt. Trong thùng đàn có buộc một sợi dây đồng. Khi gảy sợi tơ bên ngoài phát âm, đàn rung thì sợi dây đồng bên trong cũng rung theo, phụ hoạ thành một âm thanh tuyệt diệu. Trên mặt đàn có bốn phím bằng ngà là phím thấp, chín phím bằng trúc là phím cao. Tất cả là 13 phím ở vào một vị trí nhất định. Cung đàn có thước tấc quy định rõ rệt để làm tiết độ cho âm thanh khi trong, khi đục, khi réo rắt, khi trầm buồn, khi hùng tráng, khi thánh thót, lửng lơ...
Năm 33 trước Dương lịch, triều Hán Nguyên đế, Vương Tường tức Vương Chiêu Quân lúc xa lìa tổ quốc sang cống chúa nước Hồ đến ải Nhạn môn, nàng dùng đàn này gảy một khúc đàn có 24 câu rất ai oán. Ngày xưa, gảy đàn Tỳ bà- cũng gọi là đánh đàn- tức là dùng gỗ tròn để buông bắt tiếng rung trên phím đàn như cách đánh đàn Hạ- uy- di (guitare Harwaiene) ngày nay. Về sau, đến đời nhà Ðường (618- 904), triều Ðường Thái Tông (627- 650) có người nhạc trưởng tên Bùi Ngọc Nhi tìm cách bỏ gỗ dùng tay mà vuốt, nắm lấy phím rung vừa nhẹ vừa thanh hơn.
Trong bài "Vịnh Minh phi thôn" của thi hào Ðỗ Phủ đời nhà Ðường, khi đi ngang qua thôn Minh Phi, quê hương của Chiêu Quân, có câu (câu 7 và 8):
Thiên tải Tỳ bà tác Hồ ngữ
Phân minh oán hận khúc trung lôn"
Bùi Khánh Ðản dịch:
Muôn thuở tiếng Hồ trong khúc nhạc
Ðàn Tỳ oán hận vẳng dư thanh
Bạch Cư Dị (772- 846)- một thi hào danh tiếng thời Thịnh Ðường làm Hàn lâm học sĩ bị Vua nghe lời gièm pha biếm làm Tư mã đất Giang Châu. Một đêm khuya mùa thu vắng lạnh, trên bến Tầm Dương, Bạch tiễn chân người bạn ra bến nước, bỗng nghe tiếng tỳ bà văng vẳng trên sông. Vốn sẵn tâm hồn nghệ sĩ, ông liền tìm đến. Nghe tiếng động, tiếng Tỳ bà dứt. Người đánh đàn trên thuyền là một phụ nữ. Trước, nàng là một ca kỹ "nổi danh tài sắc một thời" nhưng thời vàng son trôi qua nhanh chóng, ngày càng nhạt phấn tàn hương, kiếp hoa xuân sớm tàn, rồi khách du cũng dần thưa vắng... Gia đình nàng lại gặp nhiều biến cố: dì chết, em đi lính xa xôi...
Bấy giờ, nàng phải gởi thân cho khách buôn trà. Nhưng cuộc sống quá ghẻ lạnh. Chồng mãi đeo đuổi lợi lộc, bỏ nàng chiếc bóng thui thủi với chiếc thuyền không giữa dòng sông nước mênh mông. Rồi đêm đêm, chạnh nghĩ đến thời quá khứ vàng son trẻ đẹp mà nhìn về tương lai lại mịt mù, nàng chỉ còn biết mượn tiếng tơ đồng của đàn Tỳ bà, để gởi mối sầu cô quạnh chan chứa ở lòng mình!
Bạch Cư Dị nghe tâm sự của nàng ca kỹ mà bắt nao lòng. Nghĩ tâm sự của nàng với tâm sự của mình có điểm tương đồng, vì:
Ðồng thị thiên nhai luân lạc nhân
Tương phùng hà tất tằng tương thức
Phan Huy Vịnh dịch:
Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau
Nhân đó, Bạch Cư Dị viết thành bài "Tỳ bà hành":
Kim dạ văn quân Từ bà ngữ
Như thỉnh tiên nhạc nhĩ tạm minh
Mạc từ cánh toạ đàn nhứt khúc
Vị quân phiên tác Tỳ bà hành
Võ Danh dịch:
Ðêm nay nghe được Tỳ bà khúc
Nư nghe tiên nhạc mở thông minh
Chớ từ gảy lại cho nghe nữa
Vì mình ta làm Tỳ bà hành...
Kiều có tài về âm nhạc. "Cung thương làu bực ngũ âm". Ngũ âm tức là năm cung, năm bực trong âm giai: cung, thương, giốc, truỷ, vũ. Cung là tiếng to, nặng, rất thấp, rất đục, chậm. Thương là tiếng hơi đục, hơi thấy, mau lẹ. Giốc là tiếng lơ lửng, không cao, không thấp, không trong, không đục, tiếng tròn và kéo dài. Truỷ là tiếng hơi cao, hơi trong như tiếng chim hót. Vũ là tiếng rất cao, rất trong như tiếng chim vỗ cánh. "Làu bực ngũ âm" tức là sành (rành) âm nhạc. Và, Kiều chuyên sử dụng đàn Hồ rất tuyệt vời, không ai bằng được (nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương). Lại chính tay Kiều soạn lấy bản nhạc và lời (khúc nhà tay lựa nên chương) đều sầu thảm, nhứt là bài "Bạc mạng" càng làm cho người nghe thêm não lòng.
Mở đầu truyện, tác giả "Truyện Kiều" chú trọng giới thiệu Kiều- nhân vật chính- về sắc và tài với số phận của nàng..
Sắc "một hai nghiêng nước nghiêng thành", tài "thi hoạ ca ngâm". Ðặc biệt là âm nhạc. Bản nhạc buồn thảm, lời nhạc ảo não với "thiên bạc mệnh". Hồ cầm, bắt người nhớ đến Chiêu Quân gảy đàn Tỳ bà khi phải sang cống Hồ, lại liên tưởng đến nàng ca kỹ bến Tầm dương... qua bài "Tỳ bà hành" của Bạch Cư Dị.
Từ cách dùng điển cố, dùng vật, dùng từ... mới xem cho là những chi tiết tầm thường, nhưng vốn có mối liên hệ chặt chẽ nhau có tính nhứt quán, trở nên quan trọng để báo hiệu cho cuộc đời của một con người theo chủ thuyết "Tài mạng tương đố", "Tạo vật đố hồng nhan", "Nhứt phiến tài tình thiên cổ luỵ"!.
Ðoạn diễn tả về sắc và tài của Kiều, ngoài sắc đẹp "một hai nghiêng nước nghiêng thành", Kiều còn:
Thông minh vốn sẵn tư trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bực ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân
"Hồ Cầm" là một thứ đàn giống đàn nhị của ta, kéo bằng cung căng mã vĩ. Kiểu giống đàn tỳ bà, gọi là Nguyệt cầm (đàn nguyệt). Ðàn này do ở Tây vực du nhập Trung Hoa nên gọi là Hồ cầm.
Sách "Uyên giám" cho rằng: người Hồ lấy gỗ ngô đồng chế ra đàn Tỳ bà. Ðàn có bốn dây. Ðầu cung có khắc đầu chim Phượng hoặc đầu con Rồng uốn vào nhau rất mỹ thuật. Cổ đàn dài, mặt phẳng, lưng tròn, thùng rộng và dẹt. Trong thùng đàn có buộc một sợi dây đồng. Khi gảy sợi tơ bên ngoài phát âm, đàn rung thì sợi dây đồng bên trong cũng rung theo, phụ hoạ thành một âm thanh tuyệt diệu. Trên mặt đàn có bốn phím bằng ngà là phím thấp, chín phím bằng trúc là phím cao. Tất cả là 13 phím ở vào một vị trí nhất định. Cung đàn có thước tấc quy định rõ rệt để làm tiết độ cho âm thanh khi trong, khi đục, khi réo rắt, khi trầm buồn, khi hùng tráng, khi thánh thót, lửng lơ...
Năm 33 trước Dương lịch, triều Hán Nguyên đế, Vương Tường tức Vương Chiêu Quân lúc xa lìa tổ quốc sang cống chúa nước Hồ đến ải Nhạn môn, nàng dùng đàn này gảy một khúc đàn có 24 câu rất ai oán. Ngày xưa, gảy đàn Tỳ bà- cũng gọi là đánh đàn- tức là dùng gỗ tròn để buông bắt tiếng rung trên phím đàn như cách đánh đàn Hạ- uy- di (guitare Harwaiene) ngày nay. Về sau, đến đời nhà Ðường (618- 904), triều Ðường Thái Tông (627- 650) có người nhạc trưởng tên Bùi Ngọc Nhi tìm cách bỏ gỗ dùng tay mà vuốt, nắm lấy phím rung vừa nhẹ vừa thanh hơn.
Trong bài "Vịnh Minh phi thôn" của thi hào Ðỗ Phủ đời nhà Ðường, khi đi ngang qua thôn Minh Phi, quê hương của Chiêu Quân, có câu (câu 7 và 8):
Thiên tải Tỳ bà tác Hồ ngữ
Phân minh oán hận khúc trung lôn"
Bùi Khánh Ðản dịch:
Muôn thuở tiếng Hồ trong khúc nhạc
Ðàn Tỳ oán hận vẳng dư thanh
Bạch Cư Dị (772- 846)- một thi hào danh tiếng thời Thịnh Ðường làm Hàn lâm học sĩ bị Vua nghe lời gièm pha biếm làm Tư mã đất Giang Châu. Một đêm khuya mùa thu vắng lạnh, trên bến Tầm Dương, Bạch tiễn chân người bạn ra bến nước, bỗng nghe tiếng tỳ bà văng vẳng trên sông. Vốn sẵn tâm hồn nghệ sĩ, ông liền tìm đến. Nghe tiếng động, tiếng Tỳ bà dứt. Người đánh đàn trên thuyền là một phụ nữ. Trước, nàng là một ca kỹ "nổi danh tài sắc một thời" nhưng thời vàng son trôi qua nhanh chóng, ngày càng nhạt phấn tàn hương, kiếp hoa xuân sớm tàn, rồi khách du cũng dần thưa vắng... Gia đình nàng lại gặp nhiều biến cố: dì chết, em đi lính xa xôi...
Bấy giờ, nàng phải gởi thân cho khách buôn trà. Nhưng cuộc sống quá ghẻ lạnh. Chồng mãi đeo đuổi lợi lộc, bỏ nàng chiếc bóng thui thủi với chiếc thuyền không giữa dòng sông nước mênh mông. Rồi đêm đêm, chạnh nghĩ đến thời quá khứ vàng son trẻ đẹp mà nhìn về tương lai lại mịt mù, nàng chỉ còn biết mượn tiếng tơ đồng của đàn Tỳ bà, để gởi mối sầu cô quạnh chan chứa ở lòng mình!
Bạch Cư Dị nghe tâm sự của nàng ca kỹ mà bắt nao lòng. Nghĩ tâm sự của nàng với tâm sự của mình có điểm tương đồng, vì:
Ðồng thị thiên nhai luân lạc nhân
Tương phùng hà tất tằng tương thức
Phan Huy Vịnh dịch:
Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau
Nhân đó, Bạch Cư Dị viết thành bài "Tỳ bà hành":
Kim dạ văn quân Từ bà ngữ
Như thỉnh tiên nhạc nhĩ tạm minh
Mạc từ cánh toạ đàn nhứt khúc
Vị quân phiên tác Tỳ bà hành
Võ Danh dịch:
Ðêm nay nghe được Tỳ bà khúc
Nư nghe tiên nhạc mở thông minh
Chớ từ gảy lại cho nghe nữa
Vì mình ta làm Tỳ bà hành...
Kiều có tài về âm nhạc. "Cung thương làu bực ngũ âm". Ngũ âm tức là năm cung, năm bực trong âm giai: cung, thương, giốc, truỷ, vũ. Cung là tiếng to, nặng, rất thấp, rất đục, chậm. Thương là tiếng hơi đục, hơi thấy, mau lẹ. Giốc là tiếng lơ lửng, không cao, không thấp, không trong, không đục, tiếng tròn và kéo dài. Truỷ là tiếng hơi cao, hơi trong như tiếng chim hót. Vũ là tiếng rất cao, rất trong như tiếng chim vỗ cánh. "Làu bực ngũ âm" tức là sành (rành) âm nhạc. Và, Kiều chuyên sử dụng đàn Hồ rất tuyệt vời, không ai bằng được (nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương). Lại chính tay Kiều soạn lấy bản nhạc và lời (khúc nhà tay lựa nên chương) đều sầu thảm, nhứt là bài "Bạc mạng" càng làm cho người nghe thêm não lòng.
Mở đầu truyện, tác giả "Truyện Kiều" chú trọng giới thiệu Kiều- nhân vật chính- về sắc và tài với số phận của nàng..
Sắc "một hai nghiêng nước nghiêng thành", tài "thi hoạ ca ngâm". Ðặc biệt là âm nhạc. Bản nhạc buồn thảm, lời nhạc ảo não với "thiên bạc mệnh". Hồ cầm, bắt người nhớ đến Chiêu Quân gảy đàn Tỳ bà khi phải sang cống Hồ, lại liên tưởng đến nàng ca kỹ bến Tầm dương... qua bài "Tỳ bà hành" của Bạch Cư Dị.
Từ cách dùng điển cố, dùng vật, dùng từ... mới xem cho là những chi tiết tầm thường, nhưng vốn có mối liên hệ chặt chẽ nhau có tính nhứt quán, trở nên quan trọng để báo hiệu cho cuộc đời của một con người theo chủ thuyết "Tài mạng tương đố", "Tạo vật đố hồng nhan", "Nhứt phiến tài tình thiên cổ luỵ"!.
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh
Tưởng nhớ Thuý Kiều, Kim Trọng thẫn thờ đi tìm chỗ ở của Kiều. Nhìn cảnh vật, bóng người đâu chẳng thấy, lòng mang một thất vọng nặng nề:
"Thẳm nghiêm kín cổng cao tường
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh"
Và, khi Kim Trọng may mắn gặp Kiều tại vườn hoa, chàng tỏ tình thương nhớ, yêu đương thì Kiều:
"Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong
Dầu khi lá thắm chỉ hồng
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha
Nặng lòng xót liễu vì hoa
Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa"
"Lá thắm" là lá đỏ, do chữ "hồng diệp"
Ngày xưa, triều vua nào cũng vậy, nhiều giai nhân tuyệt sắc trong nước bị tuyển vào cung làm cung hầu vua. Họ có đi mà chẳng có về, suốt đời chịu cảnh lạnh lùng, buồn duyên tủi phận gối lẻ chiếc bóng trong thâm cung. Chỉ có khi nào bị sa thải vì hết đẹp, vì già...
Ðời Ðường (618- 907), triều Hy tông, có nàng cung nữ tên Hàn Thuý Tần cũng như bao cung nữ khác sống cô lạnh trong thâm cung. Buồn tủi cho số kiếp của mình, nàng thường nhặt những chiếc lá đỏ rồi đề thơ trên lá, thả xuống ngòi nước như mong nước trôi xuôi cuốn đi nỗi tâm sự u uất của mình:
"Lưu thuỷ hà thái cấp
Cung trung tân nhiệt nhân
Ân cần tạ hồng diệp
Hảo khư đảo nhân gian"
Tạm dịch:
"Nước chảy sao mà vội
Cung sâu suốt buổi nhàn
Ân cần nhờ lá thắm
Trôi đến tận nhân gian"
Chiếc lá chở bài thơ theo dòng nước chảy xuôi ra ngoài vòng cấm luỹ. Lúc bấy giờ có người môn khách của quan Tể tướng Hàn Vinh tên Vu Hựu vốn người phong lưu tài tử, thơ hay chữ tốt, chỉ hiềm nỗi vận chưa đạt nên đành chịu sống nhờ nơi quan Tể tướng họ Hàn. Ðương thơ thẩn ngắm dòng nước chảy, Vu Hựu bỗng nhìn thấy chiếc lá có bài thơ, lấy làm lạ liền vớt lên xem. Cảm tình chan chứa với người gởi thơ lạ mặt, chàng cũng nhặt một chiếc lá, viết một bài thơ vào đấy, đợi dòng nước xuôi mới thả lá xuống cho trôi trở vào cung:
"Sầu kiến oanh đề liễu nhứ phi
Thượng đương cung nữ đoạn trường thì
Tư quân bất cấm đông lưu thuỷ
Diệp thượng đề thi ký giữ thuỳ"
Phan Như Xuyên dịch:
"Nghe oanh thấy liễu chạnh lòng thương
Thương kẻ trong cung lúc đoạn trường
Chiếc lá đề thơ trôi mặt nước
Gởi cho ai đó nói không tường"
Nàng cung nữ họ Hàn thường ngồi thơ thẩn nhìn dòng nước chảy, bỗng bắt được chiếc lá chở bài thơ của người không quen biết, vừa mừng, vừa lấy làm lạ, liền đem cất vào rương son phấn.
Non mười năm sau, vua mới lên ngôi, sa thải một số cung nữ cũ, trong đó có Hàn Thuý Tần. Nàng đến ở tạm dinh quan Tể tướng họ Hàn là chú họ của nàng, để chờ chuyến thuyền trở về quê nhà. Gặp Vu Hựu, cả hai trò chuyện hợp ý tâm đầu. Tể tướng họ Hàn thấy cả hai xứng lứa vừa đôi nên làm mối cho kết thành duyên giai ngẫu.
Ðêm tân hôn, Hựu chợt mở rương son phấn của vợ, thấy chiếc lá của mình ngày xưa, chàng cũng đem chiếc lá của mình vớt được, đem cho vợ xem. Cả hai lấy làm lạ, đoạn nhìn nhau âu yếm mĩm cười. Thì ra cả hai giữ hai chiếc lá của nhau, cho là duyên trời định.
Cảm xúc cảm tình, cổ thi có bài- nhưng có sách lại cho bài sau này do Hàn Thuý Tần làm ra:
"Nhứt liên giai cú tuỳ lưu thuỷ
Thập tải ưu tư mãn tố hoài
Kim nhựt khước thành loan phượng lữ
Phương tri hồng diệp thị lương môi
Nghĩa:
"Một đôi thi cú theo dòng nước
Mười mấy năm qua nhớ dẫy đầy
Mừng bấy ngày nay loan sánh phượng
Cũng nhờ lá thắm khéo làm mai"
"Chim xanh" tức là chim báo tin.
Nguyên vua Võ Ðế đời nhà Hán đương ngự chơi ở vườn Thượng uyển, bỗng thấy có hai con chim xanh bay đến. Ðông Phương Sóc hầu bên tâu rằng: đó là sứ giả của Tây vương mẫu đến trước báo tin Tây vương mẫu sắp đến. Qủa nhiên, một lúc sau, Tây vương mẫu đến thăm nhà vua.
"Chim xanh" được mượn chỉ sứ giả, người đưa tin.
"Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh" có nghĩa là không có dòng sông thả lá thắm, không có lối chim xanh bay vào, ý nói không thông tin tức được với người bên trong. Xem như tất cả nỗi chờ mong gặp gỡ hay tin tức đều hoàn toàn tuyệt vọng.
Ðoạn tả Kim Trọng có vẻ suồng sã, lả lơi với Kiều, Kiều khuyên có câu:
"Vẻ chi một đoá yêu đào
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh"
"Chim xanh" ở đây không còn có ý nghĩa chỉ sứ giả nữa, mà chỉ người mai mối. Kiều nói nhún mình: "Thân em là (một hoa đào) tầm thường trong vườn đào đáng giá gì mà không bằng lòng chấp nhận người mai mối (một khi chàng yêu) được chàng đưa đến... Vậy là Thuý Kiều "buộc" Kim Trọng phải thực hiện điều quan trọng đầu tiên hơn hết, rồi sau sẽ muốn gì thì muốn. "Ai lại tiếc gì với ai", chớ giờ thì "Chữ trinh đáng giá ngàn vàng"...
Tưởng nhớ Thuý Kiều, Kim Trọng thẫn thờ đi tìm chỗ ở của Kiều. Nhìn cảnh vật, bóng người đâu chẳng thấy, lòng mang một thất vọng nặng nề:
"Thẳm nghiêm kín cổng cao tường
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh"
Và, khi Kim Trọng may mắn gặp Kiều tại vườn hoa, chàng tỏ tình thương nhớ, yêu đương thì Kiều:
"Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong
Dầu khi lá thắm chỉ hồng
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha
Nặng lòng xót liễu vì hoa
Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa"
"Lá thắm" là lá đỏ, do chữ "hồng diệp"
Ngày xưa, triều vua nào cũng vậy, nhiều giai nhân tuyệt sắc trong nước bị tuyển vào cung làm cung hầu vua. Họ có đi mà chẳng có về, suốt đời chịu cảnh lạnh lùng, buồn duyên tủi phận gối lẻ chiếc bóng trong thâm cung. Chỉ có khi nào bị sa thải vì hết đẹp, vì già...
Ðời Ðường (618- 907), triều Hy tông, có nàng cung nữ tên Hàn Thuý Tần cũng như bao cung nữ khác sống cô lạnh trong thâm cung. Buồn tủi cho số kiếp của mình, nàng thường nhặt những chiếc lá đỏ rồi đề thơ trên lá, thả xuống ngòi nước như mong nước trôi xuôi cuốn đi nỗi tâm sự u uất của mình:
"Lưu thuỷ hà thái cấp
Cung trung tân nhiệt nhân
Ân cần tạ hồng diệp
Hảo khư đảo nhân gian"
Tạm dịch:
"Nước chảy sao mà vội
Cung sâu suốt buổi nhàn
Ân cần nhờ lá thắm
Trôi đến tận nhân gian"
Chiếc lá chở bài thơ theo dòng nước chảy xuôi ra ngoài vòng cấm luỹ. Lúc bấy giờ có người môn khách của quan Tể tướng Hàn Vinh tên Vu Hựu vốn người phong lưu tài tử, thơ hay chữ tốt, chỉ hiềm nỗi vận chưa đạt nên đành chịu sống nhờ nơi quan Tể tướng họ Hàn. Ðương thơ thẩn ngắm dòng nước chảy, Vu Hựu bỗng nhìn thấy chiếc lá có bài thơ, lấy làm lạ liền vớt lên xem. Cảm tình chan chứa với người gởi thơ lạ mặt, chàng cũng nhặt một chiếc lá, viết một bài thơ vào đấy, đợi dòng nước xuôi mới thả lá xuống cho trôi trở vào cung:
"Sầu kiến oanh đề liễu nhứ phi
Thượng đương cung nữ đoạn trường thì
Tư quân bất cấm đông lưu thuỷ
Diệp thượng đề thi ký giữ thuỳ"
Phan Như Xuyên dịch:
"Nghe oanh thấy liễu chạnh lòng thương
Thương kẻ trong cung lúc đoạn trường
Chiếc lá đề thơ trôi mặt nước
Gởi cho ai đó nói không tường"
Nàng cung nữ họ Hàn thường ngồi thơ thẩn nhìn dòng nước chảy, bỗng bắt được chiếc lá chở bài thơ của người không quen biết, vừa mừng, vừa lấy làm lạ, liền đem cất vào rương son phấn.
Non mười năm sau, vua mới lên ngôi, sa thải một số cung nữ cũ, trong đó có Hàn Thuý Tần. Nàng đến ở tạm dinh quan Tể tướng họ Hàn là chú họ của nàng, để chờ chuyến thuyền trở về quê nhà. Gặp Vu Hựu, cả hai trò chuyện hợp ý tâm đầu. Tể tướng họ Hàn thấy cả hai xứng lứa vừa đôi nên làm mối cho kết thành duyên giai ngẫu.
Ðêm tân hôn, Hựu chợt mở rương son phấn của vợ, thấy chiếc lá của mình ngày xưa, chàng cũng đem chiếc lá của mình vớt được, đem cho vợ xem. Cả hai lấy làm lạ, đoạn nhìn nhau âu yếm mĩm cười. Thì ra cả hai giữ hai chiếc lá của nhau, cho là duyên trời định.
Cảm xúc cảm tình, cổ thi có bài- nhưng có sách lại cho bài sau này do Hàn Thuý Tần làm ra:
"Nhứt liên giai cú tuỳ lưu thuỷ
Thập tải ưu tư mãn tố hoài
Kim nhựt khước thành loan phượng lữ
Phương tri hồng diệp thị lương môi
Nghĩa:
"Một đôi thi cú theo dòng nước
Mười mấy năm qua nhớ dẫy đầy
Mừng bấy ngày nay loan sánh phượng
Cũng nhờ lá thắm khéo làm mai"
"Chim xanh" tức là chim báo tin.
Nguyên vua Võ Ðế đời nhà Hán đương ngự chơi ở vườn Thượng uyển, bỗng thấy có hai con chim xanh bay đến. Ðông Phương Sóc hầu bên tâu rằng: đó là sứ giả của Tây vương mẫu đến trước báo tin Tây vương mẫu sắp đến. Qủa nhiên, một lúc sau, Tây vương mẫu đến thăm nhà vua.
"Chim xanh" được mượn chỉ sứ giả, người đưa tin.
"Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh" có nghĩa là không có dòng sông thả lá thắm, không có lối chim xanh bay vào, ý nói không thông tin tức được với người bên trong. Xem như tất cả nỗi chờ mong gặp gỡ hay tin tức đều hoàn toàn tuyệt vọng.
Ðoạn tả Kim Trọng có vẻ suồng sã, lả lơi với Kiều, Kiều khuyên có câu:
"Vẻ chi một đoá yêu đào
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh"
"Chim xanh" ở đây không còn có ý nghĩa chỉ sứ giả nữa, mà chỉ người mai mối. Kiều nói nhún mình: "Thân em là (một hoa đào) tầm thường trong vườn đào đáng giá gì mà không bằng lòng chấp nhận người mai mối (một khi chàng yêu) được chàng đưa đến... Vậy là Thuý Kiều "buộc" Kim Trọng phải thực hiện điều quan trọng đầu tiên hơn hết, rồi sau sẽ muốn gì thì muốn. "Ai lại tiếc gì với ai", chớ giờ thì "Chữ trinh đáng giá ngàn vàng"...
Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này
Kiều đến phòng văn của Kim Trọng. Thuý Kiều chú ý đến bức tranh, Kim Trọng cho biết là chàng mới vẽ xong, và xin Kiều đề cho mấy câu thơ vào tranh cho tăng giá trị. Kiều liền nhanh nhẹn cầm bút "tay tiên gió táp mưa sa; khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu". Kim Trọng thấy ý thơ đã nhanh, văn hay chữ đẹp, chàng tán dương hết lời:
Khen tài nhả ngọc phun châu
Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này
Kiếp tu xưa ví chẳng dày
Phúc nào nhắc được giá này cho ngang
Nàng Ban tức là nàng Ban Chiêu, con gái của Ban Bưu, em gái của Ban Cố và Ban Siêu, một danh tướng đời Ðông Hán (25- 196)
Sinh trong gia đình Nho học, cha anh đều là bậc tài danh, Ban Chiêu rất thông minh, 13 tuổi đã giỏi thi phú. Ðến tuổi cài trâm, Ban Chiêu sáng duyên cùng Tào Thế Thức, cũng là một nhà Nho lỗi lạc. Nhưng phận đẹp duyên ưa của đôi vợ chồng trẻ tuổi tài hoa này lại quá phũ phàng. Chỉ vòng 10 năm, Ban Chiêu trở thành goá bụa, thủ tiết chờ chồng.
Vua Hoà đế nghe danh nàng Ban học rộng tài cao nên cho dời vào cung để dạy các hoàng tử, cung phi. Ai cũng tôn trọng xứng đáng là bậc thầy.
Lúc bấy giờ, Ban Bưu đương làm quan tại triều, được nhà vua cử soạn thảo bộ Hán thư. Nhưng làm chưa xong , Ban Bưu chết. Anh của nàng là Ban Cố được lệnh kế nghiệp cha, nhưng sự nghiệp chưa xong lại bị lao tù bạo bịnh rồi mất! Thấy cha và anh chẳng may bỏ dỡ công việc, Ban Chiêu tâu xin nhà Vua cho nàng được nối tiếp công việc dở dang của cha anh. Nhà Vua bằng lòng. Thế là nàng được vào Ðăng quan tàng thư để tiếp tục công việc biên soạn. Trong thời gian này, Ban Chiêu còn trứ tác tập "Nữ giới" gồm có 7 thiên. Danh tiếng của nàng càng lẫy lừng.
Cũng nàng Ban, lại có một điển tích khác.
Nàng họ Ban, không biết tên, vốn là một cung phi của vua Thành đế (32- 08 trước DL) đời nhà Hán. Nàng làm nữ quan Tiệp Dư nên thường gọi là Ban Tiệp Dư.
Nàng đẹp, duyên dáng có tài văn học được vua sủng ái.
Một hôm vua Thành đế đi du ngoạn ngoài thành, gọi Ban Tiệp Dư cùng ngồi chung xe. Nàng vốn tính khiêm tốn với thân phận và chức vụ của mình, sợ bên ngoài dị nghị, trong cung nội ghét ghen nên từ chối. Không ngờ thái độ khiêm tốn này bị một thứ phi là Triệu Phi Yến gièm pha, tâu với vua khép nàng vào tội khi quân.
Vua Thành đế nghe lời Triệu Phi Yến liền phế Ban Tiệp Dư ra cung Trường Tín chầu bà Thái hậu, không được ở trong cung hầu hạ nhà Vua. Bấy giờ, nhà vua say mê Triệu Phi Yến. Sự sủng hạnh của nhà vua đối với Ban Tiệp Dư ngày càng phai dần.
Tủi cho thân phận lâm cảnh phủ phàng, nàng buồn bã, lấy một thứ lụa trắng gọi là Tề hoàn (lụa nước Tề) do nàng tự dệt lấy làm thành một cây quạt tròn, gọi là quạt Hợp hoan. Trên quạt đề một bài thơ để tự ví thân phận mình:
Tân chế Tề hoàn tố
Hạo khiết như sương tuyết
Tái thành Hợp hoan phiến
Ðoàn đoàn tự minh nguyệt
Xuất nhập quân hoài tụ
Ðông dao vi phong phát
Thường thủng thu tiết chí
Lương viêm đoạt viêm nhiệt
Khí nguyên giáp tư trung
Ân tình trung đạo tuyệt
Phỏng dịch:
Mới chế lụa Tề trắng
Trong sạch như tuyết sương
Làm thành quạt Hợp hoan
Tròn như vành trăng sáng
Ra vào trong tay vua
Phe phẩy sinh gió mát
Thường sợ tiết thu sang
Khí mát đoạt nồng nhiệt
Ném bỏ vào xó rương
Ân tình nửa đường tuyệt
Ả Tạ tức là nàng Tạ Ðạo Uẩn, con của Tạ Dịch, người đất Dương Hạ đời nhà Tấn (265- 419). Nàng lúc nhỏ đã nổi tiếng thông minh, học rộng lại có thêm tài biện luận. Cha mẹ mất sớm, ở với chú. Nhân một hôm về mùa đông, tuyết rơi lả tả, chú của Tạ Ðạo Uẩn là Tạ An ngồi uống rượu nóng có cả hai cháu là Ðạo Uẩn và Tạ Lãng hầu bên. Tạ An liền chỉ tuyết hỏi:
- Tuyết rơi giống cái gì nhỉ?
Tạ Lãng đáp:
- Muối trắng ném giữa trời
Tạ Ðạo Uẩn bảo:
- Chưa bằng gió tung tơ liễu
Tạ An khen nàng thông minh có nhiều ý hay, tư tưởng đẹp. Ông thường chỉ Tạ Ðạo Uẩn bảo con cháu: "Nếu là trai, Tạ Ðạo Uẩn sẽ vào hàng công khanh".
Tạ Ðạo Uẩn sau kết duyên với Vương Ngưng Chi, cũng là một nhà Nho lỗi lạc đương thời. Làm vợ Vương, nàng thường thay chồng tiếp khách văn chương, luận bàn thi phú. Nàng còn là người hoạt bát, thông suốt nhiều vấn đề, lập luận vững chắc làm nhiều tay danh sĩ đương thời phải phục. Em chồng của nàng là Vương Thiếu Chi, học giỏi nhưng lập luận kém, thiếu hoạt bát nên khi lập luận thường bị khách áp đảo. Tạ Ðạo Uẩn sợ em chồng bị mất giá trị nên bảo thị tì thưa với Thiếu Chi, trong khi biện luận với khách cho nàng ngồi sau màn để nhắc. Thiếu Chi vui lòng; nhờ đó mà khuất phục được khách và nổi danh.
Nàng Ban, ả Tạ là hai người phụ nữ (kể như ba: hai nàng Ban) có tài danh về văn chương thi phú. Về sau các nhà văn học thường dùng tiếng "Nàng Ban, ả Tạ" để chỉ người phụ nữ có tài danh về văn chương.
Ngày xưa, chế độ phong kiến, giới nữ bị kiềm chế đủ mặt. Trường học, trường thi tức phương diện văn chương, khoa cử ... để mở mang trí thức, để làm quan "dân chi phụ mẫu" đều dành riêng cho nam giới. Tức quá, phải giả trai đi đến trường học (như Chúc Anh Ðài), phải giả trai đi thi (như Mạnh Lệ Quân)... nhưng quá hiếm. Thành thử phải học ở nhà, học lóm, học mót... thế mà đã xuất hiện nhiều bực tài danh lỗi lạc trên địa hạt văn chương như ở nước ta có bà Ðoàn thị Ðiểm, bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương... Như Nàng Ban, ả Tạ; và cũng như nàng Kiều mà Kim Trọng đã hết mực tán dương cái tài "nhả ngọc phun châu" của nàng. Tự học, chịu khổ công tự rèn luyện mình cộng với "thông minh vốn sẵn tư trời" thì so sánh với Kiều chỉ trên địa hạt văn chương, tài năng của Nàng Ban, ả Tạ có kiệt xuất cũng chỉ đến thế mà thôi.
Kiều đến phòng văn của Kim Trọng. Thuý Kiều chú ý đến bức tranh, Kim Trọng cho biết là chàng mới vẽ xong, và xin Kiều đề cho mấy câu thơ vào tranh cho tăng giá trị. Kiều liền nhanh nhẹn cầm bút "tay tiên gió táp mưa sa; khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu". Kim Trọng thấy ý thơ đã nhanh, văn hay chữ đẹp, chàng tán dương hết lời:
Khen tài nhả ngọc phun châu
Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này
Kiếp tu xưa ví chẳng dày
Phúc nào nhắc được giá này cho ngang
Nàng Ban tức là nàng Ban Chiêu, con gái của Ban Bưu, em gái của Ban Cố và Ban Siêu, một danh tướng đời Ðông Hán (25- 196)
Sinh trong gia đình Nho học, cha anh đều là bậc tài danh, Ban Chiêu rất thông minh, 13 tuổi đã giỏi thi phú. Ðến tuổi cài trâm, Ban Chiêu sáng duyên cùng Tào Thế Thức, cũng là một nhà Nho lỗi lạc. Nhưng phận đẹp duyên ưa của đôi vợ chồng trẻ tuổi tài hoa này lại quá phũ phàng. Chỉ vòng 10 năm, Ban Chiêu trở thành goá bụa, thủ tiết chờ chồng.
Vua Hoà đế nghe danh nàng Ban học rộng tài cao nên cho dời vào cung để dạy các hoàng tử, cung phi. Ai cũng tôn trọng xứng đáng là bậc thầy.
Lúc bấy giờ, Ban Bưu đương làm quan tại triều, được nhà vua cử soạn thảo bộ Hán thư. Nhưng làm chưa xong , Ban Bưu chết. Anh của nàng là Ban Cố được lệnh kế nghiệp cha, nhưng sự nghiệp chưa xong lại bị lao tù bạo bịnh rồi mất! Thấy cha và anh chẳng may bỏ dỡ công việc, Ban Chiêu tâu xin nhà Vua cho nàng được nối tiếp công việc dở dang của cha anh. Nhà Vua bằng lòng. Thế là nàng được vào Ðăng quan tàng thư để tiếp tục công việc biên soạn. Trong thời gian này, Ban Chiêu còn trứ tác tập "Nữ giới" gồm có 7 thiên. Danh tiếng của nàng càng lẫy lừng.
Cũng nàng Ban, lại có một điển tích khác.
Nàng họ Ban, không biết tên, vốn là một cung phi của vua Thành đế (32- 08 trước DL) đời nhà Hán. Nàng làm nữ quan Tiệp Dư nên thường gọi là Ban Tiệp Dư.
Nàng đẹp, duyên dáng có tài văn học được vua sủng ái.
Một hôm vua Thành đế đi du ngoạn ngoài thành, gọi Ban Tiệp Dư cùng ngồi chung xe. Nàng vốn tính khiêm tốn với thân phận và chức vụ của mình, sợ bên ngoài dị nghị, trong cung nội ghét ghen nên từ chối. Không ngờ thái độ khiêm tốn này bị một thứ phi là Triệu Phi Yến gièm pha, tâu với vua khép nàng vào tội khi quân.
Vua Thành đế nghe lời Triệu Phi Yến liền phế Ban Tiệp Dư ra cung Trường Tín chầu bà Thái hậu, không được ở trong cung hầu hạ nhà Vua. Bấy giờ, nhà vua say mê Triệu Phi Yến. Sự sủng hạnh của nhà vua đối với Ban Tiệp Dư ngày càng phai dần.
Tủi cho thân phận lâm cảnh phủ phàng, nàng buồn bã, lấy một thứ lụa trắng gọi là Tề hoàn (lụa nước Tề) do nàng tự dệt lấy làm thành một cây quạt tròn, gọi là quạt Hợp hoan. Trên quạt đề một bài thơ để tự ví thân phận mình:
Tân chế Tề hoàn tố
Hạo khiết như sương tuyết
Tái thành Hợp hoan phiến
Ðoàn đoàn tự minh nguyệt
Xuất nhập quân hoài tụ
Ðông dao vi phong phát
Thường thủng thu tiết chí
Lương viêm đoạt viêm nhiệt
Khí nguyên giáp tư trung
Ân tình trung đạo tuyệt
Phỏng dịch:
Mới chế lụa Tề trắng
Trong sạch như tuyết sương
Làm thành quạt Hợp hoan
Tròn như vành trăng sáng
Ra vào trong tay vua
Phe phẩy sinh gió mát
Thường sợ tiết thu sang
Khí mát đoạt nồng nhiệt
Ném bỏ vào xó rương
Ân tình nửa đường tuyệt
Ả Tạ tức là nàng Tạ Ðạo Uẩn, con của Tạ Dịch, người đất Dương Hạ đời nhà Tấn (265- 419). Nàng lúc nhỏ đã nổi tiếng thông minh, học rộng lại có thêm tài biện luận. Cha mẹ mất sớm, ở với chú. Nhân một hôm về mùa đông, tuyết rơi lả tả, chú của Tạ Ðạo Uẩn là Tạ An ngồi uống rượu nóng có cả hai cháu là Ðạo Uẩn và Tạ Lãng hầu bên. Tạ An liền chỉ tuyết hỏi:
- Tuyết rơi giống cái gì nhỉ?
Tạ Lãng đáp:
- Muối trắng ném giữa trời
Tạ Ðạo Uẩn bảo:
- Chưa bằng gió tung tơ liễu
Tạ An khen nàng thông minh có nhiều ý hay, tư tưởng đẹp. Ông thường chỉ Tạ Ðạo Uẩn bảo con cháu: "Nếu là trai, Tạ Ðạo Uẩn sẽ vào hàng công khanh".
Tạ Ðạo Uẩn sau kết duyên với Vương Ngưng Chi, cũng là một nhà Nho lỗi lạc đương thời. Làm vợ Vương, nàng thường thay chồng tiếp khách văn chương, luận bàn thi phú. Nàng còn là người hoạt bát, thông suốt nhiều vấn đề, lập luận vững chắc làm nhiều tay danh sĩ đương thời phải phục. Em chồng của nàng là Vương Thiếu Chi, học giỏi nhưng lập luận kém, thiếu hoạt bát nên khi lập luận thường bị khách áp đảo. Tạ Ðạo Uẩn sợ em chồng bị mất giá trị nên bảo thị tì thưa với Thiếu Chi, trong khi biện luận với khách cho nàng ngồi sau màn để nhắc. Thiếu Chi vui lòng; nhờ đó mà khuất phục được khách và nổi danh.
Nàng Ban, ả Tạ là hai người phụ nữ (kể như ba: hai nàng Ban) có tài danh về văn chương thi phú. Về sau các nhà văn học thường dùng tiếng "Nàng Ban, ả Tạ" để chỉ người phụ nữ có tài danh về văn chương.
Ngày xưa, chế độ phong kiến, giới nữ bị kiềm chế đủ mặt. Trường học, trường thi tức phương diện văn chương, khoa cử ... để mở mang trí thức, để làm quan "dân chi phụ mẫu" đều dành riêng cho nam giới. Tức quá, phải giả trai đi đến trường học (như Chúc Anh Ðài), phải giả trai đi thi (như Mạnh Lệ Quân)... nhưng quá hiếm. Thành thử phải học ở nhà, học lóm, học mót... thế mà đã xuất hiện nhiều bực tài danh lỗi lạc trên địa hạt văn chương như ở nước ta có bà Ðoàn thị Ðiểm, bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương... Như Nàng Ban, ả Tạ; và cũng như nàng Kiều mà Kim Trọng đã hết mực tán dương cái tài "nhả ngọc phun châu" của nàng. Tự học, chịu khổ công tự rèn luyện mình cộng với "thông minh vốn sẵn tư trời" thì so sánh với Kiều chỉ trên địa hạt văn chương, tài năng của Nàng Ban, ả Tạ có kiệt xuất cũng chỉ đến thế mà thôi.
Nhà huyên
Kiều nằm mộng thấy Ðạm Tiên đến trao hoạ mười bài thơ "Ðoạn trường", lúc tỉnh dậy nhớ đến lời nói của Ðạm Tiên và nghĩ đến thân phận duyên kiếp của mình, tương lai sẽ ra sao nên sụt sùi:
Giọng Kiều rền rĩ trướng loan
Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì?
"Cớ sao trằn trọc canh khuya
Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?"
"Nhà huyên" chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì?"
"Nhà huyên" tức là "huyên đường", là nhà trồng cây huyên, do phép chuyển nghĩa dùng để chỉ người mẹ. Có những câu:
Ngoài thì chủ khách dập dìu
Một nhà huyên với một Kiều ở trong
Thưa nhà huyên hết mọi tình
Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen
Xót thay huyên cỗi xuân già
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi!
Huyên là một giống cỏ, tục gọi là cây hiên (hoa gọi là hoa hiên hay Kim châm), còn có tiếng gọi văn vẻ "vong ưu thảo", cho rằng ăn nó giải được nỗi buồn phiền. Huyên được dùng để chỉ do chữ trong Kinh thi: "Yên đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bối", nghĩa là: ước gì được cây hoa hiên trồng ở chái phía bắc (chỗ mẹ ở). Theo phương hướng kiến trúc Trung Hoa là chái nhà phía Bắc gọi là "bắc đường". Những việc tế tự lễ bái thì địa vị người mẹ ở bắc đường nên "bắc đường" chỉ chỗ ở của người mẹ; và ở bắc đường có trồng cỏ huyên nên gọi là "Huyên đường". Cỏ huyên có tên "Vong ưu thảo" nói lên vai trò của người mẹ đối với con, thường gần gũi bên con, an ủi vỗ về khi con có điều đau khổ.
Kiều nằm mộng thấy Ðạm Tiên đến trao hoạ mười bài thơ "Ðoạn trường", lúc tỉnh dậy nhớ đến lời nói của Ðạm Tiên và nghĩ đến thân phận duyên kiếp của mình, tương lai sẽ ra sao nên sụt sùi:
Giọng Kiều rền rĩ trướng loan
Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì?
"Cớ sao trằn trọc canh khuya
Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?"
"Nhà huyên" chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì?"
"Nhà huyên" tức là "huyên đường", là nhà trồng cây huyên, do phép chuyển nghĩa dùng để chỉ người mẹ. Có những câu:
Ngoài thì chủ khách dập dìu
Một nhà huyên với một Kiều ở trong
Thưa nhà huyên hết mọi tình
Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen
Xót thay huyên cỗi xuân già
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi!
Huyên là một giống cỏ, tục gọi là cây hiên (hoa gọi là hoa hiên hay Kim châm), còn có tiếng gọi văn vẻ "vong ưu thảo", cho rằng ăn nó giải được nỗi buồn phiền. Huyên được dùng để chỉ do chữ trong Kinh thi: "Yên đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bối", nghĩa là: ước gì được cây hoa hiên trồng ở chái phía bắc (chỗ mẹ ở). Theo phương hướng kiến trúc Trung Hoa là chái nhà phía Bắc gọi là "bắc đường". Những việc tế tự lễ bái thì địa vị người mẹ ở bắc đường nên "bắc đường" chỉ chỗ ở của người mẹ; và ở bắc đường có trồng cỏ huyên nên gọi là "Huyên đường". Cỏ huyên có tên "Vong ưu thảo" nói lên vai trò của người mẹ đối với con, thường gần gũi bên con, an ủi vỗ về khi con có điều đau khổ.
Mạch Tương
Nghe mẹ khuyên, Kiều chưa biết nghĩ ra thế nào cho phải thì nước mắt lại dạt
dào ra "Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương", "Mạch
Tương" chỉ nước mắt.
Theo truyền thuyết đời Thượng cổ Trung Hoa, ông Thuấn họ Hữu Ngu vốn người hiền đức. Tương truyền mẹ ông nằm mộng thấy cầu vồng (cái xuống) xuất hiện, màu sắc rực rỡ rồi tượng thai. Nhưng mẹ mất sớm. Cha là Cổ Tẩu có vợ khác, sinh một con tên là Tượng. Cha và mẹ ghẻ cả Tượng đều ghét ông Thuấn. Nhiều lúc Cổ Tẩu nghe lời vợ, tìm cách mưu hại ông. Có lần bảo ông lên lợp chòi nhà, lại rút thang rồi phóng lửa đốt, ông sáng ý lột nón lá đội đầu cầm tay nhảy xuống, thoát nạn...
Ðày đoạ ông, Cổ Tẩu bảo ông đến cạnh núi lịch, cày vỡ đất để trồng lúa. Ông tuân theo lịnh cha. Nơi đây toàn đá sỏi, cỏ lác... sức ông có hạn, nhưng lòng hiếu đạo của ông cảm động lòng trời nên có voi ra cày giúp, chim từng bầy đáp xuống mổ bức cả cỏ, làm cho Cổ Tẩu không lấy cớ gì để làm tội ông. Ông không oán hận cha, mẹ ghẻ và em mà vẫn một lòng giữ đạo hiếu để. Do đó, dần dần ông cảm hoá được cả gia đình, bấy giờ cả cha, mẹ ghẻ và Tượng trở lại thương mến ông.
Vua Nghiêu (2357- 2257 trước Dương Lịch) có chín trai hai gái, muốn tìm người hiền đức để kế vị. Nghe ông Thuấn là bực đại hiền nên cho vời đến truyền ngôi và gả hai người con gái Nga Hoàng và Nữ Anh cho ông, tức Vua Thuấn hay Ðế Thuấn (2256- 2208)
Vua Thuấn là một người đức hạnh lại có tài trị nước. Cho nên từ quan lại đến dân chúng, mỗi đêm khi nghe gà gáy sáng là vội vàng thức dậy để làm điều lành (Thuấn chi đồ kê minh vi thiện). Ông dùng những người có tài đức như ông Võ, ông Tiết, ông Cao Dao, ông Ích, ông Khí... để trông coi mọi việc. Từ vua Nghiêu đến vua Thuấn, đời rất bình trị. Nhà nhà đều không cần đóng cửa, không trộm cướp, của đánh rơi ngoài đường không bị mất, trai gái đi đường có trật tự, trẻ kính già, già mến trẻ... Sử Trung Hoa gọi là thời đại Hoàng kim.
Vua Thuấn sai ông Võ trị thuỷ (đào kinh tháo nước lụt sông Hoàng Hà) thành công nên dân rất mang ơn. Cũng như vua Nghiêu, vua Thuấn không truyền ngôi cho con, thấy ông Võ có công và có đức nên truyền ngôi (2205- 2197 trước Dương lịch)
Vua Thuấn đi tuần thú đất Thương ngô ở miền sông Tương không may bị bịnh chết. Hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm vua đến bên sông Tương, ngồi bên bờ sông khóc lóc thảm thiết rồi trầm mình dưới sông tự tử.
"Truyện Kiều", đoạn diễn tả khi Kiều bị Hoạn Thư, vợ của Thúc Sinh âm mưu bắt Kiều về làm hoa nô, rồi bắt buộc Kiều đánh đàn hầu tiệc trước mặt Thúc Sinh, khiến Thúc Sinh đau lòng, có câu:
Giọt châu lã chã khôn cầm
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương!
Trong tác phẩm "Bích Câu kỳ ngộ", tác giả Vô Danh, đoạn diễn tả Tú Uyên tương tư nàng Giáng Kiều, cũng có câu:
Ỏi tai những tiếng đoạn trường
Lửa tình dễ nguội sóng Tương khôn hàn
Mạch Tương, sông Tương, giọt Tương đều chỉ nước mắt cũng như "giọt châu" (giọt châu lã chã khôn cầm).
Theo truyền thuyết đời Thượng cổ Trung Hoa, ông Thuấn họ Hữu Ngu vốn người hiền đức. Tương truyền mẹ ông nằm mộng thấy cầu vồng (cái xuống) xuất hiện, màu sắc rực rỡ rồi tượng thai. Nhưng mẹ mất sớm. Cha là Cổ Tẩu có vợ khác, sinh một con tên là Tượng. Cha và mẹ ghẻ cả Tượng đều ghét ông Thuấn. Nhiều lúc Cổ Tẩu nghe lời vợ, tìm cách mưu hại ông. Có lần bảo ông lên lợp chòi nhà, lại rút thang rồi phóng lửa đốt, ông sáng ý lột nón lá đội đầu cầm tay nhảy xuống, thoát nạn...
Ðày đoạ ông, Cổ Tẩu bảo ông đến cạnh núi lịch, cày vỡ đất để trồng lúa. Ông tuân theo lịnh cha. Nơi đây toàn đá sỏi, cỏ lác... sức ông có hạn, nhưng lòng hiếu đạo của ông cảm động lòng trời nên có voi ra cày giúp, chim từng bầy đáp xuống mổ bức cả cỏ, làm cho Cổ Tẩu không lấy cớ gì để làm tội ông. Ông không oán hận cha, mẹ ghẻ và em mà vẫn một lòng giữ đạo hiếu để. Do đó, dần dần ông cảm hoá được cả gia đình, bấy giờ cả cha, mẹ ghẻ và Tượng trở lại thương mến ông.
Vua Nghiêu (2357- 2257 trước Dương Lịch) có chín trai hai gái, muốn tìm người hiền đức để kế vị. Nghe ông Thuấn là bực đại hiền nên cho vời đến truyền ngôi và gả hai người con gái Nga Hoàng và Nữ Anh cho ông, tức Vua Thuấn hay Ðế Thuấn (2256- 2208)
Vua Thuấn là một người đức hạnh lại có tài trị nước. Cho nên từ quan lại đến dân chúng, mỗi đêm khi nghe gà gáy sáng là vội vàng thức dậy để làm điều lành (Thuấn chi đồ kê minh vi thiện). Ông dùng những người có tài đức như ông Võ, ông Tiết, ông Cao Dao, ông Ích, ông Khí... để trông coi mọi việc. Từ vua Nghiêu đến vua Thuấn, đời rất bình trị. Nhà nhà đều không cần đóng cửa, không trộm cướp, của đánh rơi ngoài đường không bị mất, trai gái đi đường có trật tự, trẻ kính già, già mến trẻ... Sử Trung Hoa gọi là thời đại Hoàng kim.
Vua Thuấn sai ông Võ trị thuỷ (đào kinh tháo nước lụt sông Hoàng Hà) thành công nên dân rất mang ơn. Cũng như vua Nghiêu, vua Thuấn không truyền ngôi cho con, thấy ông Võ có công và có đức nên truyền ngôi (2205- 2197 trước Dương lịch)
Vua Thuấn đi tuần thú đất Thương ngô ở miền sông Tương không may bị bịnh chết. Hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm vua đến bên sông Tương, ngồi bên bờ sông khóc lóc thảm thiết rồi trầm mình dưới sông tự tử.
"Truyện Kiều", đoạn diễn tả khi Kiều bị Hoạn Thư, vợ của Thúc Sinh âm mưu bắt Kiều về làm hoa nô, rồi bắt buộc Kiều đánh đàn hầu tiệc trước mặt Thúc Sinh, khiến Thúc Sinh đau lòng, có câu:
Giọt châu lã chã khôn cầm
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương!
Trong tác phẩm "Bích Câu kỳ ngộ", tác giả Vô Danh, đoạn diễn tả Tú Uyên tương tư nàng Giáng Kiều, cũng có câu:
Ỏi tai những tiếng đoạn trường
Lửa tình dễ nguội sóng Tương khôn hàn
Mạch Tương, sông Tương, giọt Tương đều chỉ nước mắt cũng như "giọt châu" (giọt châu lã chã khôn cầm).
Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai
Nhân lúc cha mẹ và hai em vắng nhà, Kiều đáng bạo sang phòng văn của Kim Trọng:
Lần theo núi giả đi vòng
Cuối tường dường có nẻo thông mới vào
Xắn tay mở khoá động Ðào
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên thai
Thiên thai là tên một hòn núi thuộc huyện Thiên thai, tỉnh Chiết Giang ở Trung Hoa.
Sách "Thần tiên truyện" chép:
Ðời Hán Minh đế, niên hiệu Vĩnh bình (58 sau DL) có hai chàng nho sĩ tên Lưu Thần và Nguyễn Triệu quê đất Diêm Khê. Gặp tiết Ðoan Ngọ cũng gọi Ðoan dương (mùng 5 tháng 5 âm lịch), theo tục lệ, người ta thường vào núi Thiên thai hái thuốc chữa bệnh. Hai chàng Lưu, Nguyễn cùng đi. Nhưng chẳng may bị lạc, không tìm được lối về.
Vơ vẩn trong núi gần tháng trời mà không tìm được lối ra. Lương thực mang theo đã hết đành phải hái những quả đào chín mọng hai bên bờ suối hay ven chân núi để ăn đỡ đói, rồi vốc nước khe mà uống.
Nhìn dòng nước trong núi chảy ra, hai chàng Lưu, Nguyễn thấy có những hột cơm vừng và lá rau tươi lững lờ trôi, nên đoán chắc cách chỗ người ở không xa nữa. Cả hai bèn lần mò theo đường nước chảy, vượt qua mấy ngọn núi liền mới đến đầu ngọn khe thì thấy cây cỏ xinh tươi, phong cảnh cực kỳ đẹp đẽ. Ðương ngẩn ngơ đứng nhìn bỗng nghe tiếng gọi, giọng rất thanh tao:
- Lưu, Nguyễn hai chàng sao mà đến chậm thế!
Nghe gọi đích danh mình, hai chàng cực kỳ ngạc nhiên, thì vừa lúc ấy hai cô gái rẽ hoa đi ra. Thực là đôi giai nhân tuyệt thế. Như quen biết nhau từ xưa, hai nàng ân cần mời hai chàng vào động, và xưng tên là Ngọc Kiều và Giáng Tiên. Lưu Thần và Nguyễn Triệu mừng rỡ vì được gặp người- lại người đẹp nữa, nên bằng lòng ngay.
Ðến động bước vào nhìn thấy chung quanh toàn trang trí cực kỳ mỹ lệ, đâu đây thoang thoảng mùi hương. Ðến bữa cơm, hai nàng dọn cơm vừng và nem dê rừng mùi vị thơm phức, mời hai chàng dùng. Tối lại, một đoàn mỹ nữ đêm mâm đào chín và rượu ngọt đến, đoạn múa hát dưng đào và rượu, chúc tụng "Chúng em xin có lời mừng tân lang và tân giai nhân nên duyên cầm sắt". Nói xong, họ lại họp nhau vừa múa vừa hát. Xiêm y lộng lẫy, điệu múa uyển chuyển, giọng hát trong trẻo dưới ánh đèn rực rỡ kết tụi ngũ sắc, hai chàng Lưu, Nguyễn say sưa cho mình hạnh phúc lạc vào cảnh tiên.
Ðến khuya, tiệc tàn khách về. Hai nàng Ngọc Kiều và Giáng Tiên mời hai chàng Lưu Thần và Nguyễn Triệu cùng nâng ly chúc tụng nhau đêm tân hôn mặn nồng giữa hai nàng và hai chàng bền duyên giai ngẫu.
Say mê cảnh đẹp, đầm ấm trong tình vợ chồng, hai chàng Lưu, Nguyễn hầu như quên hẳn cảnh trần gian.
Ở đây, ngày ngày tháng tháng, tiết trời ấm áp hơn xuân. Không Hạ, không Thu, không Ðông, đâu đâu cũng cỏ xanh hoa đẹp, bướm muôn màu nhởn nhơ bay lượn, chim hót véo von, trôi trong mây thanh gió mát đượm mùi hương phảng phất phảng phất quanh mình. Nhưng thời gian hai năm trôi qua, cảnh dầu đẹp, vợ dầu xinh, khí trời đầm ấm, cỏ có xanh, hoa có đẹp, bướm lượn, chim hót... cũng không sao xoá được nỗi nhớ quê nhà, nên hai chàng thỏ thẻ với vợ xin về thăm, hẹn thời gian ngắn sẽ quay trở lại. Hai nàng buồn bã ngăn hai chàng, không cho về. Nhưng lòng mơ nhớ cố hương ray rứt người lữ thứ, hai chàng cứ năn nỉ mãi. Biết không lưu chồng được, hai nàng ngậm ngùi, thở dài bảo:
- Nhờ hồng phúc tiền thân mà hai chàng được cùng chị em chúng tôi kết duyên chồng vợ, kẻ tiên người tục hoà hợp chốn Thiên thai. Tưởng rằng duyên ưa phận đẹp, trăm ngàn năm giữ một chữ đồng. Nào ngờ hai chàng căn trần chưa dứt nên mới luyến nhớ đòi về quê cũ. Cõi trần nhỏ nhen, kiếp trần ngắn ngủi đầy hệ luỵ, hai chàng có trở về chốn trần gian thì liễu cũ hoa xưa chắc không còn được như ngày trước nữa. Chia ly ai chẳng não lòng nhưng nghiệp chướng khó mà diệt nổi.
Thế rồi hai nàng tiễn chân hai chàng ra khỏi động, bịn rịn đưa tận xuống núi. Nhìn xa xa khói lam phủ nóc nhà ai, quanh đi quẩn lại hai chàng ra khỏi núi Thiên thai, chẳng mấy chốc xuống về quê cũ.
Cây đa cổ thụ đầu làng còn kia nhưng cảnh vật đã khác hẳn trước. Làng xóm toàn người xa lạ, không còn ai có thể nhận ra hai chàng Lưu, Nguyễn là người đồng hương nữa. Cả hai cực kỳ làm lạ. Mới cách chỉ có hai năm, sao cảnh vật lại đổi thay một cách lạ kỳ. Lối cũ không còn. Trừ cây cổ thụ đầu làng giờ đã già cỗi, cành lá úa vàng chứng tỏ đã xa lâu lắm rồi và bao lần biến đổi. Bỗng gặp một cụ già tuổi đã gần trăm, hai chàng Lưu, Nguyễn đến hỏi thăm. Cụ già bèn kể lại cách đây độ 400 năm, cụ có một ông tổ bảy đời tên Nguyễn Triệu. Nhân tiết Ðoan Ngọ cùng bạn là Lưu Thần vào núi hái thuốc rồi biệt tích.
Bấy giời Lưu Thần, Nguyễn Triệu mới biết một ngày trên tiên giới bằng một năm ở trần gian. Cả hai bơ vơ, lấy làm hối tiếc bèn rủ nhau trở lại động Thiên thai. Nhưng thảm thay, đi vòng vo, quanh quẩn... cuối cùng lại lủi thủi tở về , vì lối xưa đã lạc mất rồi. Ở quâ cũ cho đến đời Tấn Võ đế (265- 275), Lưu Thần và Nguyễn Triệu mới bỏ đi, không ai còn gặp nữa.
Ðời nhà Ðường, Tào Ðường có làm 5 bài thơ thuộc loại thơ "du tiên" miêu tả phỏng chừng sự gặp gỡ và sự cách biệt giữa Lưu Thần, Nguyễn Triệu cùng hai nàng tiên ở núi Thiên thai!
- Bài một: Lưu, Nguyễn du Thiên thai (Lưu, Nguyễn đi chơi núi Thiên thai)
- Bài hai: Lưu, Nguyễn động trung ngộ tiên nhân (Lưu, Nguyễn trong động gặp nàng tiên)
- Bài ba: Tiên tử tống Lưu, Nguyễn xuất động (Hai nàng tiên tiễn Lưu, Nguyễn ra động)
- Bài bốn: Tiên tử động trung hữu hoài Lưu, Nguyễn (Nàng tiên trong động nhớ Lưu, Nguyễn)
- Bài năm: Lưu, Nguyễn tái đáo Thiên thai bất phục Kiến chư tiên tử (Lưu, Nguyễn trở lại Thiên thai không gặp các nàng tiên)
Nàng Kiều và chàng Kim gặp nhau thì cái phòng văn của chàng Kim đối với đôi bạn tình son trẻ- trai tài gái sắc này nào có khác gì các động Thiên thai.
Nhân lúc cha mẹ và hai em vắng nhà, Kiều đáng bạo sang phòng văn của Kim Trọng:
Lần theo núi giả đi vòng
Cuối tường dường có nẻo thông mới vào
Xắn tay mở khoá động Ðào
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên thai
Thiên thai là tên một hòn núi thuộc huyện Thiên thai, tỉnh Chiết Giang ở Trung Hoa.
Sách "Thần tiên truyện" chép:
Ðời Hán Minh đế, niên hiệu Vĩnh bình (58 sau DL) có hai chàng nho sĩ tên Lưu Thần và Nguyễn Triệu quê đất Diêm Khê. Gặp tiết Ðoan Ngọ cũng gọi Ðoan dương (mùng 5 tháng 5 âm lịch), theo tục lệ, người ta thường vào núi Thiên thai hái thuốc chữa bệnh. Hai chàng Lưu, Nguyễn cùng đi. Nhưng chẳng may bị lạc, không tìm được lối về.
Vơ vẩn trong núi gần tháng trời mà không tìm được lối ra. Lương thực mang theo đã hết đành phải hái những quả đào chín mọng hai bên bờ suối hay ven chân núi để ăn đỡ đói, rồi vốc nước khe mà uống.
Nhìn dòng nước trong núi chảy ra, hai chàng Lưu, Nguyễn thấy có những hột cơm vừng và lá rau tươi lững lờ trôi, nên đoán chắc cách chỗ người ở không xa nữa. Cả hai bèn lần mò theo đường nước chảy, vượt qua mấy ngọn núi liền mới đến đầu ngọn khe thì thấy cây cỏ xinh tươi, phong cảnh cực kỳ đẹp đẽ. Ðương ngẩn ngơ đứng nhìn bỗng nghe tiếng gọi, giọng rất thanh tao:
- Lưu, Nguyễn hai chàng sao mà đến chậm thế!
Nghe gọi đích danh mình, hai chàng cực kỳ ngạc nhiên, thì vừa lúc ấy hai cô gái rẽ hoa đi ra. Thực là đôi giai nhân tuyệt thế. Như quen biết nhau từ xưa, hai nàng ân cần mời hai chàng vào động, và xưng tên là Ngọc Kiều và Giáng Tiên. Lưu Thần và Nguyễn Triệu mừng rỡ vì được gặp người- lại người đẹp nữa, nên bằng lòng ngay.
Ðến động bước vào nhìn thấy chung quanh toàn trang trí cực kỳ mỹ lệ, đâu đây thoang thoảng mùi hương. Ðến bữa cơm, hai nàng dọn cơm vừng và nem dê rừng mùi vị thơm phức, mời hai chàng dùng. Tối lại, một đoàn mỹ nữ đêm mâm đào chín và rượu ngọt đến, đoạn múa hát dưng đào và rượu, chúc tụng "Chúng em xin có lời mừng tân lang và tân giai nhân nên duyên cầm sắt". Nói xong, họ lại họp nhau vừa múa vừa hát. Xiêm y lộng lẫy, điệu múa uyển chuyển, giọng hát trong trẻo dưới ánh đèn rực rỡ kết tụi ngũ sắc, hai chàng Lưu, Nguyễn say sưa cho mình hạnh phúc lạc vào cảnh tiên.
Ðến khuya, tiệc tàn khách về. Hai nàng Ngọc Kiều và Giáng Tiên mời hai chàng Lưu Thần và Nguyễn Triệu cùng nâng ly chúc tụng nhau đêm tân hôn mặn nồng giữa hai nàng và hai chàng bền duyên giai ngẫu.
Say mê cảnh đẹp, đầm ấm trong tình vợ chồng, hai chàng Lưu, Nguyễn hầu như quên hẳn cảnh trần gian.
Ở đây, ngày ngày tháng tháng, tiết trời ấm áp hơn xuân. Không Hạ, không Thu, không Ðông, đâu đâu cũng cỏ xanh hoa đẹp, bướm muôn màu nhởn nhơ bay lượn, chim hót véo von, trôi trong mây thanh gió mát đượm mùi hương phảng phất phảng phất quanh mình. Nhưng thời gian hai năm trôi qua, cảnh dầu đẹp, vợ dầu xinh, khí trời đầm ấm, cỏ có xanh, hoa có đẹp, bướm lượn, chim hót... cũng không sao xoá được nỗi nhớ quê nhà, nên hai chàng thỏ thẻ với vợ xin về thăm, hẹn thời gian ngắn sẽ quay trở lại. Hai nàng buồn bã ngăn hai chàng, không cho về. Nhưng lòng mơ nhớ cố hương ray rứt người lữ thứ, hai chàng cứ năn nỉ mãi. Biết không lưu chồng được, hai nàng ngậm ngùi, thở dài bảo:
- Nhờ hồng phúc tiền thân mà hai chàng được cùng chị em chúng tôi kết duyên chồng vợ, kẻ tiên người tục hoà hợp chốn Thiên thai. Tưởng rằng duyên ưa phận đẹp, trăm ngàn năm giữ một chữ đồng. Nào ngờ hai chàng căn trần chưa dứt nên mới luyến nhớ đòi về quê cũ. Cõi trần nhỏ nhen, kiếp trần ngắn ngủi đầy hệ luỵ, hai chàng có trở về chốn trần gian thì liễu cũ hoa xưa chắc không còn được như ngày trước nữa. Chia ly ai chẳng não lòng nhưng nghiệp chướng khó mà diệt nổi.
Thế rồi hai nàng tiễn chân hai chàng ra khỏi động, bịn rịn đưa tận xuống núi. Nhìn xa xa khói lam phủ nóc nhà ai, quanh đi quẩn lại hai chàng ra khỏi núi Thiên thai, chẳng mấy chốc xuống về quê cũ.
Cây đa cổ thụ đầu làng còn kia nhưng cảnh vật đã khác hẳn trước. Làng xóm toàn người xa lạ, không còn ai có thể nhận ra hai chàng Lưu, Nguyễn là người đồng hương nữa. Cả hai cực kỳ làm lạ. Mới cách chỉ có hai năm, sao cảnh vật lại đổi thay một cách lạ kỳ. Lối cũ không còn. Trừ cây cổ thụ đầu làng giờ đã già cỗi, cành lá úa vàng chứng tỏ đã xa lâu lắm rồi và bao lần biến đổi. Bỗng gặp một cụ già tuổi đã gần trăm, hai chàng Lưu, Nguyễn đến hỏi thăm. Cụ già bèn kể lại cách đây độ 400 năm, cụ có một ông tổ bảy đời tên Nguyễn Triệu. Nhân tiết Ðoan Ngọ cùng bạn là Lưu Thần vào núi hái thuốc rồi biệt tích.
Bấy giời Lưu Thần, Nguyễn Triệu mới biết một ngày trên tiên giới bằng một năm ở trần gian. Cả hai bơ vơ, lấy làm hối tiếc bèn rủ nhau trở lại động Thiên thai. Nhưng thảm thay, đi vòng vo, quanh quẩn... cuối cùng lại lủi thủi tở về , vì lối xưa đã lạc mất rồi. Ở quâ cũ cho đến đời Tấn Võ đế (265- 275), Lưu Thần và Nguyễn Triệu mới bỏ đi, không ai còn gặp nữa.
Ðời nhà Ðường, Tào Ðường có làm 5 bài thơ thuộc loại thơ "du tiên" miêu tả phỏng chừng sự gặp gỡ và sự cách biệt giữa Lưu Thần, Nguyễn Triệu cùng hai nàng tiên ở núi Thiên thai!
- Bài một: Lưu, Nguyễn du Thiên thai (Lưu, Nguyễn đi chơi núi Thiên thai)
- Bài hai: Lưu, Nguyễn động trung ngộ tiên nhân (Lưu, Nguyễn trong động gặp nàng tiên)
- Bài ba: Tiên tử tống Lưu, Nguyễn xuất động (Hai nàng tiên tiễn Lưu, Nguyễn ra động)
- Bài bốn: Tiên tử động trung hữu hoài Lưu, Nguyễn (Nàng tiên trong động nhớ Lưu, Nguyễn)
- Bài năm: Lưu, Nguyễn tái đáo Thiên thai bất phục Kiến chư tiên tử (Lưu, Nguyễn trở lại Thiên thai không gặp các nàng tiên)
Nàng Kiều và chàng Kim gặp nhau thì cái phòng văn của chàng Kim đối với đôi bạn tình son trẻ- trai tài gái sắc này nào có khác gì các động Thiên thai.
SÔNG TƯƠNG MỘT DẢI NÔNG SỜ
Trong buổi sơ ngộ tại vườn hoa, Kim Trọng và Thuý Kiều trao tặng kỷ vật cho nhau: khăn hồng cành thoa, quạt quì... nhưng những lời tâm sự trao đổi chưa dứt, thì bỗng có tiếng động khiến cả hai phải quay trở về, lòng càng ôm ấp nỗi niềm mong nhớ:
"Từ khi đá biết tuổi vàng
Tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ
Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia"
Nhà Hậu Châu đời Ngũ Quý (907- 955), ở tỉnh Hồ Nam vùng sông Tiêu Tương có gia đình họ Lương sinh một cô gái tên Ý Nương. Nàng có sắc đẹp lại hay chữ . Ở trọ nhà có chàng Lý Sinh, một hàn sĩ vẻ người thanh tú. Nhân một đêm Trung Thu, Ý Nương thưỡng trăng bỗng gặp Lý Sinh. Trai tài gái sắc gặp nhau, trao đổi tâm tình. Từ đó cả hai thường tìm cách lui tới, quyến luyến không muốn xa nhau.
Cụ Lương biết được đuổi Lý Sinh đi. Ý Nương lấy làm đau khổ sinh bệnh tương tư, mới làm bài khúc "Trường tương tư" mong gởi nguồn tâm sự cho người yêu biết. Lời cực kỳ ai oán não nuột:
"Nhân đạo Tương giang thâm
Vị để tương tư bán
Giang thâm chung hữu để
Tương tư vô biên ngạn
Quân tại Tương giang đầu
Thiếp tại Tương giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Ðầng ẩm Tương giang thuỷ
Mộng hồn phi bát đáo
Sở khiếm duy nhứt tử
Nhập ngã tương tư môn
Tri ngã tương tư khổ!"
Tạm dịch:
"Nguời bảo sông Tương sâu
Nhưng chưa bằng nguồn tương tư
Sông sâu còn có đáy
Tương tư không bến bờ
Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Tương tư không gặp mặt
Cùng uống nước sông Tương
Hồn mơ bay chẳng đến
Chỉ thiếu một điều chết
Ta vào cửa tương tư
Mới biết tương tư đau khổ!"
Lý Sinh tiếp được thơ, đọc xong cảm xót vô cùng, đầm đìa nước mắt. Chàng chạy nhờ mai mối đến năn nỉ cụ Lương, kể lể mối tình đầu, xin hỏi nàng làm vợ. Cụ Lương trước còn dùng dằng, sau được đọc khúc "Trường tương tư" của con, lấy làm cảm động nên bằng lòng cho Sinh cùng nàng Ý Nương kết duyên
Tác dụng của văn chương
Tác dụng mạnh mẽ của một bài thơ
Bài khúc "Trường tương tư" gồm 12 câu, mỗi câu 5 chữ toàn giọng lâm ly ai oán não nùng. Nhưng tác giả "Truyện Kiều" chuyển hoá chỉ bằng 2 câu lục bát điêu luyện:
"Sông Tương một dải nông sờ
Bên trong đầu nọ bên chờ cuối kia"
Thực là tuyệt diệu!.
Trong buổi sơ ngộ tại vườn hoa, Kim Trọng và Thuý Kiều trao tặng kỷ vật cho nhau: khăn hồng cành thoa, quạt quì... nhưng những lời tâm sự trao đổi chưa dứt, thì bỗng có tiếng động khiến cả hai phải quay trở về, lòng càng ôm ấp nỗi niềm mong nhớ:
"Từ khi đá biết tuổi vàng
Tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ
Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia"
Nhà Hậu Châu đời Ngũ Quý (907- 955), ở tỉnh Hồ Nam vùng sông Tiêu Tương có gia đình họ Lương sinh một cô gái tên Ý Nương. Nàng có sắc đẹp lại hay chữ . Ở trọ nhà có chàng Lý Sinh, một hàn sĩ vẻ người thanh tú. Nhân một đêm Trung Thu, Ý Nương thưỡng trăng bỗng gặp Lý Sinh. Trai tài gái sắc gặp nhau, trao đổi tâm tình. Từ đó cả hai thường tìm cách lui tới, quyến luyến không muốn xa nhau.
Cụ Lương biết được đuổi Lý Sinh đi. Ý Nương lấy làm đau khổ sinh bệnh tương tư, mới làm bài khúc "Trường tương tư" mong gởi nguồn tâm sự cho người yêu biết. Lời cực kỳ ai oán não nuột:
"Nhân đạo Tương giang thâm
Vị để tương tư bán
Giang thâm chung hữu để
Tương tư vô biên ngạn
Quân tại Tương giang đầu
Thiếp tại Tương giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Ðầng ẩm Tương giang thuỷ
Mộng hồn phi bát đáo
Sở khiếm duy nhứt tử
Nhập ngã tương tư môn
Tri ngã tương tư khổ!"
Tạm dịch:
"Nguời bảo sông Tương sâu
Nhưng chưa bằng nguồn tương tư
Sông sâu còn có đáy
Tương tư không bến bờ
Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Tương tư không gặp mặt
Cùng uống nước sông Tương
Hồn mơ bay chẳng đến
Chỉ thiếu một điều chết
Ta vào cửa tương tư
Mới biết tương tư đau khổ!"
Lý Sinh tiếp được thơ, đọc xong cảm xót vô cùng, đầm đìa nước mắt. Chàng chạy nhờ mai mối đến năn nỉ cụ Lương, kể lể mối tình đầu, xin hỏi nàng làm vợ. Cụ Lương trước còn dùng dằng, sau được đọc khúc "Trường tương tư" của con, lấy làm cảm động nên bằng lòng cho Sinh cùng nàng Ý Nương kết duyên
Tác dụng của văn chương
Tác dụng mạnh mẽ của một bài thơ
Bài khúc "Trường tương tư" gồm 12 câu, mỗi câu 5 chữ toàn giọng lâm ly ai oán não nùng. Nhưng tác giả "Truyện Kiều" chuyển hoá chỉ bằng 2 câu lục bát điêu luyện:
"Sông Tương một dải nông sờ
Bên trong đầu nọ bên chờ cuối kia"
Thực là tuyệt diệu!.
tay tiên một gẫy đủ mười khúc ngâm
Sau khi du Thanh minh về, Kiều nhớ đến nấm mồ vô chủ của Ðạm Tiên càng cảm thấy một nỗi buồn man mác xâm chiếm cõi lòng. Nghĩ phận người lại nghĩ phận mình, hay kiếp hồng nhan rồi phải chung một mạng bạc. Ðêm đến, Kiều nằm mộng thấy Ðạm Tiên đến nói chuyện với mình. Ðoạn nầy, Truyện Kiều có câu:
Hàn gia ở mái tây thiên
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu
Mấy lòng hạ cố đến nhau
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng
Vâng trình Hội chủ xem tường
Mà xem trong sổ Ðoạn trường có tên
Âu đành quả kiếp nhân duyên
Cũng người một hội một thuyền đâu xa!
Này mười bài mới mới ra
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời
Kiều vâng lãnh ý đề bài
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm
"Mười bài mới mới ra" tức là mười đề thơ của Hội chủ hội Ðoạn trường mới ra cho các hội viên làm. Nay đưa cho Kiều làm. Theo nguyên truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, thì mười đề ấy là:
1. Tích đa tài (tiếc người đa tài);
2. Liên bạc mạng (xót người bạc mạng);
3. Bi kỳ lộ (buồn chi đường);
4. Ức cố nhân (nhớ người xưa);
5. Niệm nô Kiều (nhớ cô hầu);
6. Ai thanh xuân (thương tuổi xanh);
7. Ta kiển ngộ (than vận rủi);
8. Khổ linh bạc (khổ suy tàn);
9. Mộng cố viên (mơ quê nhà);
10. Khốc tương tư (khóc tương tư)
Với mười đầu đề, Kiều lấy giấy bút viết thao thao bất tuyệt. Chỉ trong giây lát, đủ mười bài từ khúc theo lối hồi văn.
1. Tiếc đa tài:
Tờ oanh nỡ bỏ hoài
Hợp hoan ngày tháng phổ cho ai?
Tương tư mình gác để ngày mai.
Ðể ngày mai!
Tiếc cho tài!
2. Xót bạc mạng:
Ðêm đêm một mình lạnh
Nhà vàng nghe nói để A Kiều
Một mặt nghe chừng khó hân hạnh
Khó hân hạnh!
Xót bạc mạng!
3. Buồn chia đường:
Khúc đường quanh co thực khổ đi
Ðường khổ chưa bằng lòng em khổ!
Một bước sai thì ngàn bước lỡ!
Ngàn bước lỡ
Buồn chia đường!
4. Nhớ người xưa:
Tóc bạc nhưng tình vẫn chưa thân
Cần gì trước phải lên tận mây xanh
Ngồi xe đội nón mới là chân
Mới là chân
Nhớ cố nhân!
5. Nhớ cô hầu:
Soi gương hồn biến đâu?
Ta thấy ai vẫn còn than thở!
Son phấn thôi đừng giễu cợt nhau
Giễu cợt nhau
Nhớ cô hầu
6. Xót tuổi xuân:
Cành hoa giống mỹ nhân
Xuân sắc núi rừng ôi đẹp đẽ
Muốn mượn mưa xuân tưới hoa thần
Tưới hoa thần
Xót tuổi xuân!
7. Than vận rủi:
Giấc mơ tỉnh rồi đó,
Ðâu phải gặp ai cũng kêu thương
Chỉ vì lầu son lối chưa tỏ
Lối chưa tỏ
Than vận rủi!
8. Khổ suy tàn:
Thân này hết đường bước
Lìa cành hoa rụng khắp đông tây
Nhạn lạc đàn bay quanh hiên trước
Quanh hiên trước
Khổ suy tàn!
9. Mơ quê nhà:
Hồ về cậy ai đưa?
Cảnh cũ cúc tùng không thấy nữa
Mây trắng cỏ thơm lặng như tờ.
Lặng như tờ
Nhớ quê nhà!
10. Khóc tương tư:
Nghẹn ngào đã lắm khi
Lòng đau không giữ nổi tiếng khóc
Ðất cũ tình thâm luống sầu bi
Luống sầu bi
Khóc tương tư!
Kiều viết xong, trao lại cho Ðạm Tiên. Xem qua, Ðạm Tiên tấm tắc khen:
- Qủa thực mỗi chữ khác gì ôm khối hận. Nếu đem vào tập "Ðoạn trường", chắc chắn sẽ đoạt giải nhất!
Ðoạn này trong Truyện Kiều có câu:
Xem thơ nức nở khen thầm
Gía đành tú khẩu cẩn tâm khác thường!
Ví đem vào tập Ðoạn trường
Thì treo giải nhất chi nhường cho ai?
Sau khi du Thanh minh về, Kiều nhớ đến nấm mồ vô chủ của Ðạm Tiên càng cảm thấy một nỗi buồn man mác xâm chiếm cõi lòng. Nghĩ phận người lại nghĩ phận mình, hay kiếp hồng nhan rồi phải chung một mạng bạc. Ðêm đến, Kiều nằm mộng thấy Ðạm Tiên đến nói chuyện với mình. Ðoạn nầy, Truyện Kiều có câu:
Hàn gia ở mái tây thiên
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu
Mấy lòng hạ cố đến nhau
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng
Vâng trình Hội chủ xem tường
Mà xem trong sổ Ðoạn trường có tên
Âu đành quả kiếp nhân duyên
Cũng người một hội một thuyền đâu xa!
Này mười bài mới mới ra
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời
Kiều vâng lãnh ý đề bài
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm
"Mười bài mới mới ra" tức là mười đề thơ của Hội chủ hội Ðoạn trường mới ra cho các hội viên làm. Nay đưa cho Kiều làm. Theo nguyên truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, thì mười đề ấy là:
1. Tích đa tài (tiếc người đa tài);
2. Liên bạc mạng (xót người bạc mạng);
3. Bi kỳ lộ (buồn chi đường);
4. Ức cố nhân (nhớ người xưa);
5. Niệm nô Kiều (nhớ cô hầu);
6. Ai thanh xuân (thương tuổi xanh);
7. Ta kiển ngộ (than vận rủi);
8. Khổ linh bạc (khổ suy tàn);
9. Mộng cố viên (mơ quê nhà);
10. Khốc tương tư (khóc tương tư)
Với mười đầu đề, Kiều lấy giấy bút viết thao thao bất tuyệt. Chỉ trong giây lát, đủ mười bài từ khúc theo lối hồi văn.
1. Tiếc đa tài:
Tờ oanh nỡ bỏ hoài
Hợp hoan ngày tháng phổ cho ai?
Tương tư mình gác để ngày mai.
Ðể ngày mai!
Tiếc cho tài!
2. Xót bạc mạng:
Ðêm đêm một mình lạnh
Nhà vàng nghe nói để A Kiều
Một mặt nghe chừng khó hân hạnh
Khó hân hạnh!
Xót bạc mạng!
3. Buồn chia đường:
Khúc đường quanh co thực khổ đi
Ðường khổ chưa bằng lòng em khổ!
Một bước sai thì ngàn bước lỡ!
Ngàn bước lỡ
Buồn chia đường!
4. Nhớ người xưa:
Tóc bạc nhưng tình vẫn chưa thân
Cần gì trước phải lên tận mây xanh
Ngồi xe đội nón mới là chân
Mới là chân
Nhớ cố nhân!
5. Nhớ cô hầu:
Soi gương hồn biến đâu?
Ta thấy ai vẫn còn than thở!
Son phấn thôi đừng giễu cợt nhau
Giễu cợt nhau
Nhớ cô hầu
6. Xót tuổi xuân:
Cành hoa giống mỹ nhân
Xuân sắc núi rừng ôi đẹp đẽ
Muốn mượn mưa xuân tưới hoa thần
Tưới hoa thần
Xót tuổi xuân!
7. Than vận rủi:
Giấc mơ tỉnh rồi đó,
Ðâu phải gặp ai cũng kêu thương
Chỉ vì lầu son lối chưa tỏ
Lối chưa tỏ
Than vận rủi!
8. Khổ suy tàn:
Thân này hết đường bước
Lìa cành hoa rụng khắp đông tây
Nhạn lạc đàn bay quanh hiên trước
Quanh hiên trước
Khổ suy tàn!
9. Mơ quê nhà:
Hồ về cậy ai đưa?
Cảnh cũ cúc tùng không thấy nữa
Mây trắng cỏ thơm lặng như tờ.
Lặng như tờ
Nhớ quê nhà!
10. Khóc tương tư:
Nghẹn ngào đã lắm khi
Lòng đau không giữ nổi tiếng khóc
Ðất cũ tình thâm luống sầu bi
Luống sầu bi
Khóc tương tư!
Kiều viết xong, trao lại cho Ðạm Tiên. Xem qua, Ðạm Tiên tấm tắc khen:
- Qủa thực mỗi chữ khác gì ôm khối hận. Nếu đem vào tập "Ðoạn trường", chắc chắn sẽ đoạt giải nhất!
Ðoạn này trong Truyện Kiều có câu:
Xem thơ nức nở khen thầm
Gía đành tú khẩu cẩn tâm khác thường!
Ví đem vào tập Ðoạn trường
Thì treo giải nhất chi nhường cho ai?
Trần trần một phận ấp cây đã liều
Chờ đón và đón chờ, Kim Trọng may mắn gặp Kiều bên hiên Lãm thuý giữa lúc Kiều đương tìm cành hoa đánh rơi ở vườn hoa, chàng tỏ tình mong nhớ tương tư Kiều:
"Rằng: Từ ngẫu nhĩ gặp nhau
Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn
Xương mai tính đã rũ mòn
Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay
Tháng tròn như gởi cung mây
Trần trần một phận ấp cây đã liều
Tiện đây xin một hai điều
Ðài gương soi thấu dấu bèo cho chăng?"
"Ấp cây " là ôm cây cột cầu
"Tình sử Trung Hoa" có chuyện chàng Vĩ Sinh, người nước Lỗ, vốn một nho sinh, tính tình thuận hậu, luôn luôn giữ lấy chữ tín dầu đối với một cậu bé con.
Vĩ Sinh nổi tiếng chữ tốt văn hay.
Trong trường, bài của Sinh thường được thầy đem ra bình. Giọng đọc của Sinh trong trẻo được nhiều người chú ý ngợi khen. Gần trường là nhà viên ngoại họ Triệu có nàng con gái tên Thường Khanh. Gìơ bình văn, nàng thường sang trường, đứng sau vách nghe trộm
Nghe tiếng, thấy người, thưởng thức văn chương... nàng Thường Khanh cảm thấy con tim mình bắt đầu đập một điệu lâng lâng khó tả. Vĩ Sinh dường như có linh tính, biết có người đẹp nghe trộm, nên vừa đọc văn vừa thỉnh thoảng liếc nhìn phía sau vách. Bốn mắt chạm nhau, bấy giờ giọng của Sinh càng ngân vang lên như gởi cả tâm hồn mong được người đẹp nghe lén kia thưởng thức...
Rồi từ đó, Vĩ Sinh đi đến trường sang ngang vườn hoa của viên ngoại họ Triệu, chàng nhìn thấy thấp thoáng bóng nàng tha thướt hái hoa, chàng bạo dạn đứng lại, thỏ thẻ xin nàng một cành hoa.. Thường Khanh nhoẻn nụ cười e lệ, cầm hoa trao tặng chàng.
Cứ thế và ngày nào cũng thế. Chàng sang ngang vườn thì đã có nàng dường như nàng sẵn đón chờ nơi ấy. Họ không hẹn gặp nhau nhưng gặp nhau như hẹn. Tuy có một đôi khi vắng nàng, chàng cảm thấy một nỗi nhớ nhung, bâng khuâng vô cùng. Một hôm gặp nhau, chàng đánh bạo nói với nàng sẽ gặp nhau trong đêm bên một đầu cầu phía tây thôn, để có thì giờ trao đổi tâm sự kết niềm giao ước. Nàng rất vui vẻ bằng lòng.
Chàng chờ tối mau đến
Chàng đến bên cầu chờ nàng
Gìơ khắc chờ đợi của kẻ mong ngóng đợi chờ như ngưng đọng lại. Sao bóng người yêu lại vắng bặt. Bỗng mây kéo đen kịt một góc trời rồi tối sầm lại. Mưa rơi mỗi lúc càng nặng hột. Vì giữ chữ tín, Vĩ Sinh vẫn đứng chờ. Chàng xuống dạ cầu để tránh đỡ. Gío giật mạnh từng hồi như muốn xô đổ cả cây cối. Vĩ Sinh phải ôm lấy cột cầu mà chịu. Mưa băng gió quật, sét nổ từng lúc vang vầy, nước dưới cầu mỗi lúc một dâng cao. Dòng nước siết chảy như muốn lôi phăng đi tất cả những gì bên cầu.
Tấm thân chàng nho sĩ yếu đuối không chịu đựng nổi trước sự tàn phá hung hãn của tạo hoá trớ trêu, cuối cùng đành chịu chết đuối dưới sông bên cột cầu chờ đợi, để mặc thân xác lôi cuốn theo dòng.
"Trần trần một phận ấp cây đã liều" được coi như một lời thề. Kim Trọng quyết định cái số phận mình như Vĩ Sinh thề đợi Kiều, dầu lâm phải bao cảnh gian nguy thà chết thì thôi!
Chờ đón và đón chờ, Kim Trọng may mắn gặp Kiều bên hiên Lãm thuý giữa lúc Kiều đương tìm cành hoa đánh rơi ở vườn hoa, chàng tỏ tình mong nhớ tương tư Kiều:
"Rằng: Từ ngẫu nhĩ gặp nhau
Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn
Xương mai tính đã rũ mòn
Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay
Tháng tròn như gởi cung mây
Trần trần một phận ấp cây đã liều
Tiện đây xin một hai điều
Ðài gương soi thấu dấu bèo cho chăng?"
"Ấp cây " là ôm cây cột cầu
"Tình sử Trung Hoa" có chuyện chàng Vĩ Sinh, người nước Lỗ, vốn một nho sinh, tính tình thuận hậu, luôn luôn giữ lấy chữ tín dầu đối với một cậu bé con.
Vĩ Sinh nổi tiếng chữ tốt văn hay.
Trong trường, bài của Sinh thường được thầy đem ra bình. Giọng đọc của Sinh trong trẻo được nhiều người chú ý ngợi khen. Gần trường là nhà viên ngoại họ Triệu có nàng con gái tên Thường Khanh. Gìơ bình văn, nàng thường sang trường, đứng sau vách nghe trộm
Nghe tiếng, thấy người, thưởng thức văn chương... nàng Thường Khanh cảm thấy con tim mình bắt đầu đập một điệu lâng lâng khó tả. Vĩ Sinh dường như có linh tính, biết có người đẹp nghe trộm, nên vừa đọc văn vừa thỉnh thoảng liếc nhìn phía sau vách. Bốn mắt chạm nhau, bấy giờ giọng của Sinh càng ngân vang lên như gởi cả tâm hồn mong được người đẹp nghe lén kia thưởng thức...
Rồi từ đó, Vĩ Sinh đi đến trường sang ngang vườn hoa của viên ngoại họ Triệu, chàng nhìn thấy thấp thoáng bóng nàng tha thướt hái hoa, chàng bạo dạn đứng lại, thỏ thẻ xin nàng một cành hoa.. Thường Khanh nhoẻn nụ cười e lệ, cầm hoa trao tặng chàng.
Cứ thế và ngày nào cũng thế. Chàng sang ngang vườn thì đã có nàng dường như nàng sẵn đón chờ nơi ấy. Họ không hẹn gặp nhau nhưng gặp nhau như hẹn. Tuy có một đôi khi vắng nàng, chàng cảm thấy một nỗi nhớ nhung, bâng khuâng vô cùng. Một hôm gặp nhau, chàng đánh bạo nói với nàng sẽ gặp nhau trong đêm bên một đầu cầu phía tây thôn, để có thì giờ trao đổi tâm sự kết niềm giao ước. Nàng rất vui vẻ bằng lòng.
Chàng chờ tối mau đến
Chàng đến bên cầu chờ nàng
Gìơ khắc chờ đợi của kẻ mong ngóng đợi chờ như ngưng đọng lại. Sao bóng người yêu lại vắng bặt. Bỗng mây kéo đen kịt một góc trời rồi tối sầm lại. Mưa rơi mỗi lúc càng nặng hột. Vì giữ chữ tín, Vĩ Sinh vẫn đứng chờ. Chàng xuống dạ cầu để tránh đỡ. Gío giật mạnh từng hồi như muốn xô đổ cả cây cối. Vĩ Sinh phải ôm lấy cột cầu mà chịu. Mưa băng gió quật, sét nổ từng lúc vang vầy, nước dưới cầu mỗi lúc một dâng cao. Dòng nước siết chảy như muốn lôi phăng đi tất cả những gì bên cầu.
Tấm thân chàng nho sĩ yếu đuối không chịu đựng nổi trước sự tàn phá hung hãn của tạo hoá trớ trêu, cuối cùng đành chịu chết đuối dưới sông bên cột cầu chờ đợi, để mặc thân xác lôi cuốn theo dòng.
"Trần trần một phận ấp cây đã liều" được coi như một lời thề. Kim Trọng quyết định cái số phận mình như Vĩ Sinh thề đợi Kiều, dầu lâm phải bao cảnh gian nguy thà chết thì thôi!
Ví chăng duyên nợ Ba sinh
Kim Trọng nhân gặp Thuý Kiều du xuân trở về mang nặng mối tình nhớ nhung, tương tư Kiều, có câu:
"Mành tương phân phát gió đàn
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình
Ví chăng duyên nợ ba sinh,
làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi."
Và, khi Kim Trọng tìm thuê được nhà ở gần nhà của Kiều, có hiên Lãm Thuý, chàng lấy làm mừng rỡ:
"Mừng thầm chốn ấy chữ bài,
Ba sinh âu cũng duyên trời chi đây."
"Ba sinh" dịch chữ "tam sinh" tức là ba kiếp chuyển sinh: quá khứ, hiện tại và vị lai. Sách " Trần Ðăng Lục" và sách " Quần Ngọc Chú" có chép:
Xưa có chàng Tỉnh Lang, một hôm đến chùa Nam Huệ nằm chơi bỗng ngủ quên, mộng thấy mình đi chơi non bồng. Tỉnh Lang trông thấy một nhà sư đương ngồi niệm kinh trước một cây nhang đương cháy. Tỉnh Lang thấy lạ hỏi. Nhà sư nói:
- Khi trước có một người đi cúng chùa, thắp cây nhang này, khấn nguyện. Nhang hãy còn cháy mà người ấy đã sinh ra ba kiếp rồi. Kiếp đầu, triều vua Huyền Tông nhà Ðường, người ấy làm quan phủ sứ đất Kiến Nam. Kiếp thứ hai cùng đời nhà Ðường, triều vua Hiến Tông, làm quan đất Tây Thục. Kiếp thứ ba sinh ra Tỉnh Lang. Tỉnh Lang nghe nói đến tên mình, giật mình thức dậy nhưng lòng nửa tin, nửa ngờ.
"Truyện Kiều" đoạn diễn tả tâm sự của Kiều nhớ cha mẹ, nhớ Kim Trọng khi ở lầu xanh tại Lâm Tri, có câu:
"Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?
Ðoạn diễn tả Hồ Tôn Hiến bắt Kiều đánh đàn hầu rượu, nghe xong:
"Dạy rằng: "Hương lửa ba sinh
Dây loan xin nối cầm lành cho ai?"
Ðến lúc Kiều tái hợp cùng Kim Trọng, có câu:
"Ba sinh đã phỉ lời nguyền
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy"
"Duyên nợ ba sinh" tức duyên nợ từ ba kiếp với nhau. Ðây nói duyên nợ phải làm vợ chồng với nhau do tiền định.
"Tình sử" Trung Hoa có câu:
"Kim sinh dỉ quý hỉ
Trùng kết hậu sinh duyên,"
Tạm dịch: " iếp này duyên đã dở
Kiếp khác nguyện đền bồi"
Hay là:
"Kiếp này duyên đã muộn rồi,
Thề xin kiếp khác đền bồi duyên sau."
Hay: "Kiếp này duyên đã dở dang (lỡ làng)
Thề xin dệt mối duyên vàng kiếp sau
"Kiếp", theo Phật giáo, chỉ đời người có kiếp này liên hệ với kiếp khác, kiếp trước với kiếp sau. Duyên nợ vợ chồng cũng có tiền định từ kiếp được nối tiếp. "Nước non để chữ tương phùng kiếp sau"
Ðoạn nói về Kiều bị Tú bà cưỡng bách tiếp khách, Kiều tự an ủi:
"Kiếp xưa đã vụng đường tu,
Kiếp này chẳng kẻi đền bù mới xuôi".
Kim Trọng nhân gặp Thuý Kiều du xuân trở về mang nặng mối tình nhớ nhung, tương tư Kiều, có câu:
"Mành tương phân phát gió đàn
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình
Ví chăng duyên nợ ba sinh,
làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi."
Và, khi Kim Trọng tìm thuê được nhà ở gần nhà của Kiều, có hiên Lãm Thuý, chàng lấy làm mừng rỡ:
"Mừng thầm chốn ấy chữ bài,
Ba sinh âu cũng duyên trời chi đây."
"Ba sinh" dịch chữ "tam sinh" tức là ba kiếp chuyển sinh: quá khứ, hiện tại và vị lai. Sách " Trần Ðăng Lục" và sách " Quần Ngọc Chú" có chép:
Xưa có chàng Tỉnh Lang, một hôm đến chùa Nam Huệ nằm chơi bỗng ngủ quên, mộng thấy mình đi chơi non bồng. Tỉnh Lang trông thấy một nhà sư đương ngồi niệm kinh trước một cây nhang đương cháy. Tỉnh Lang thấy lạ hỏi. Nhà sư nói:
- Khi trước có một người đi cúng chùa, thắp cây nhang này, khấn nguyện. Nhang hãy còn cháy mà người ấy đã sinh ra ba kiếp rồi. Kiếp đầu, triều vua Huyền Tông nhà Ðường, người ấy làm quan phủ sứ đất Kiến Nam. Kiếp thứ hai cùng đời nhà Ðường, triều vua Hiến Tông, làm quan đất Tây Thục. Kiếp thứ ba sinh ra Tỉnh Lang. Tỉnh Lang nghe nói đến tên mình, giật mình thức dậy nhưng lòng nửa tin, nửa ngờ.
"Truyện Kiều" đoạn diễn tả tâm sự của Kiều nhớ cha mẹ, nhớ Kim Trọng khi ở lầu xanh tại Lâm Tri, có câu:
"Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?
Ðoạn diễn tả Hồ Tôn Hiến bắt Kiều đánh đàn hầu rượu, nghe xong:
"Dạy rằng: "Hương lửa ba sinh
Dây loan xin nối cầm lành cho ai?"
Ðến lúc Kiều tái hợp cùng Kim Trọng, có câu:
"Ba sinh đã phỉ lời nguyền
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy"
"Duyên nợ ba sinh" tức duyên nợ từ ba kiếp với nhau. Ðây nói duyên nợ phải làm vợ chồng với nhau do tiền định.
"Tình sử" Trung Hoa có câu:
"Kim sinh dỉ quý hỉ
Trùng kết hậu sinh duyên,"
Tạm dịch: " iếp này duyên đã dở
Kiếp khác nguyện đền bồi"
Hay là:
"Kiếp này duyên đã muộn rồi,
Thề xin kiếp khác đền bồi duyên sau."
Hay: "Kiếp này duyên đã dở dang (lỡ làng)
Thề xin dệt mối duyên vàng kiếp sau
"Kiếp", theo Phật giáo, chỉ đời người có kiếp này liên hệ với kiếp khác, kiếp trước với kiếp sau. Duyên nợ vợ chồng cũng có tiền định từ kiếp được nối tiếp. "Nước non để chữ tương phùng kiếp sau"
Ðoạn nói về Kiều bị Tú bà cưỡng bách tiếp khách, Kiều tự an ủi:
"Kiếp xưa đã vụng đường tu,
Kiếp này chẳng kẻi đền bù mới xuôi".
XĂM XĂM ĐÈ NẺO LAM KIỀU LẦN SANG
Ðoạn diễn tả Kim Trọng mong nhớ Kiều, đi tìm chỗ ở của Kiều, có câu:
"Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người
Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu
Gío chiều như giục cơn sầu
Vi lô hiu hắt như màu khẩy trêu
Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang"
Và, khi Kiều sang tiếp xúc với Kim Trọng, có câu:
"Sinh rằng: Gió mát trăng trong
Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam
Chày sương chưa nện cầu Lam
Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?"
"Lam Kiều" là một cái cầu bắc trên sông Lam thuộc huyện Lam Ðiền, tỉnh Thiểm Tây.
Ðời nhà Ðường, triều Mục Tông (821- 825) có một chàng nho sĩ tên Bùi Hàng, lều chơng đi thi mấy lần đều hỏng. Buồn cho thân thế sự nghiệp, Bùi rày đây mai đó ngao du danh lam thắng cảnh. Một hôm, Bùi thuê đò đi Tương Hán, định sang ghé Ngọc Kinh để xem phong cảnh. Cùng đáp một chuyến đò có một mỹ nhân tên Vân Kiều, người đẹp lại đoan trang, thuỳ mị. Bùi sinh cảm mến, lòng tha thiết mong được kết duyên, mới mượn thơ thay lời, bạo dạn nhờ nữ tỳ của giai nhân đưa giúp:
"Ðồng vi Hồ Việt do hoài tưởng
Huống hồ thiên tiên cách cẩm bình
Thảng nhược Ngọc Kinh triều hội khứ
Nguyện tuỳ loan hạc nhập thanh vân"
Phan Như Xuyên dịch:
"Kẻ Hồ người Việt còn thương nhớ
Huống cách người tiên chỉ bức mành
Ví được Ngọc Kinh cùng nối gót
Xin theo loan hạc đến mây xanh"
Vân Kiều xem thơ, vui vẻ mĩm cười.
Nhưng thơ gởi đi mà thơ hồi âm chẳng có. Bùi Hàng lòng áy náy, băn khoăn. Khi đò sắp ghé bến chia tay, Bùi bỗng tiếp được thơ do nữ tỳ của giai nhân đưa đến:
"Nhứt ẩm Quỳnh tương bách cảnh sinh
Huyền sương đáo tận kiến Vân Anh
Lam kiều tự hữu thần tiên quật
Hà tất khi khu thượng Ngọc Kinh"
Phan Như Xuyên dịch:
"Uống rượu quỳnh tương trăm cảnh sinh
Huyền sương giã thuốc thấy Vân Anh
Lam Kiều vốn thực nơi tiên ở
Hà tất nhọc nhằn đến Ngọc Kinh"
Bùi không hiểu ý nghĩa ra sao, định hỏi. Nhưng thuyền vừa ghé bến thì Vân Kiều và nữ tỳ thoáng mất. Bùi bồi hồi lại nghiền ngẫm hai câu thơ cuối, Bùi không đến Ngọc Kinh mà hỏi dò người đến Lam Kiều.
Trời trưa nắng gắt, Bùi mệt lả người liền ghé vào một hàng nước nghỉ chân, hỏi nước uống. Bà lão gọi người con gái bưng nước ra. Nàng rất đẹp, trông dáng tựa vẻ Vân Kiều. Bùi bạo dạn hỏi, thì ra nàng là em của Vân Kiều tên Vân Anh. Bùi mừng rỡ cho là gặp duyên trời định, mới thuật lại chuyện bài thơ cho bà lão nghe. Bà cười bảo:
- Hẳn là con Vân Kiều muốn xe duyên cho cậu đấy
Bùi nghe nói nỗi mừng biết lấy chi cân. Nhưng bà cho biết là hiện bà có cái cối mà còn thiếu chiếc chày ngọc để giã thuốc Huyền sương, nếu Bùi tìm được chày này thì bà mới bằng lòng cho hai đàng kết duyên tơ tóc. Bùi ưng chịu. Nhưng tìm mãi mà không nơi đâu có chày ngọc. Lòng buồn tha thiết nhưng vẫn không nản chí. Tưởng đã thất vọng, một hôm may mắn Bùi gặp một cụ già bán ngọc mách rằng: tại phố hàng thuốc bắc ở Quắc Châu có một nhà muốn bán một cái chày ngọc, giá đến 200 lượng vàng, nếu cần mua cụ sẽ viết thư giới thiệu. Bùi Hàng mừng rỡ, trở về quê nhà bán tất cả tài sản được 200 lượng vàng, rồi sang Quắc Châu mua được chày ngọc. Lại đem đến Lam Kiều dưng cho bà lão. Bà vô cùng khen ngợi.
Vân Anh lại bảo:
- Ðã có chày ngọc nhưng phải ra công giã thuốc Huyền sương một trăm ngày cho thuốc trường sinh được nhuyễn, thì mới làm lễ thành hôn.
Bùi Hàng vâng theo. Kết quả, Bùi Hàng và Vân Anh nên vợ chồng. Sau cả hai đều thành tiên.
"Chày sương" là chày ngọc dùng để giã thuốc trường sinh "Huyền sương". "Lam Kiều" chỉ chỗ tiên ở hay người đẹp ở, hoặc chỉ duyên tốt đẹp như gặp duyên với... Tiên.
Trước kia, tác giả "Truyện Kiều" diễn tả Kiều sang chỗ ở của Kim Trọng:
"Xắn tay mở khoá động Ðào
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên thai"
Như vậy, Kiều cho chỗ ở của Kim Trọng như một cảnh tiên. Còn Kim Trọng đối với chỗ ở của Kiều như thế nào?
"Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang"
Như vậy, chỗ ở của Kiều cũng là cảnh tiên nữa.
Mối tình đầu của đôi trai tài gái sắc tuyệt đẹp. Họ rất giàu tình cảm, tưởng tượng khá phong phú: tình phối hợp cảnh, cảnh phối hợp tình. Dùng lối thậm xưng, tác giả "Truyện Kiều" diễn tả cảnh và tình của đôi trai gái rất chung nhứt.
Nhà thơ Xuân Diệu đã có câu:
"Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát cả hồn tôi"
Ðương lúc tha thiết yêu đương tất cả đều đẹp, đều là ... tiên một cõi.
Ðoạn diễn tả Kim Trọng mong nhớ Kiều, đi tìm chỗ ở của Kiều, có câu:
"Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người
Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu
Gío chiều như giục cơn sầu
Vi lô hiu hắt như màu khẩy trêu
Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang"
Và, khi Kiều sang tiếp xúc với Kim Trọng, có câu:
"Sinh rằng: Gió mát trăng trong
Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam
Chày sương chưa nện cầu Lam
Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?"
"Lam Kiều" là một cái cầu bắc trên sông Lam thuộc huyện Lam Ðiền, tỉnh Thiểm Tây.
Ðời nhà Ðường, triều Mục Tông (821- 825) có một chàng nho sĩ tên Bùi Hàng, lều chơng đi thi mấy lần đều hỏng. Buồn cho thân thế sự nghiệp, Bùi rày đây mai đó ngao du danh lam thắng cảnh. Một hôm, Bùi thuê đò đi Tương Hán, định sang ghé Ngọc Kinh để xem phong cảnh. Cùng đáp một chuyến đò có một mỹ nhân tên Vân Kiều, người đẹp lại đoan trang, thuỳ mị. Bùi sinh cảm mến, lòng tha thiết mong được kết duyên, mới mượn thơ thay lời, bạo dạn nhờ nữ tỳ của giai nhân đưa giúp:
"Ðồng vi Hồ Việt do hoài tưởng
Huống hồ thiên tiên cách cẩm bình
Thảng nhược Ngọc Kinh triều hội khứ
Nguyện tuỳ loan hạc nhập thanh vân"
Phan Như Xuyên dịch:
"Kẻ Hồ người Việt còn thương nhớ
Huống cách người tiên chỉ bức mành
Ví được Ngọc Kinh cùng nối gót
Xin theo loan hạc đến mây xanh"
Vân Kiều xem thơ, vui vẻ mĩm cười.
Nhưng thơ gởi đi mà thơ hồi âm chẳng có. Bùi Hàng lòng áy náy, băn khoăn. Khi đò sắp ghé bến chia tay, Bùi bỗng tiếp được thơ do nữ tỳ của giai nhân đưa đến:
"Nhứt ẩm Quỳnh tương bách cảnh sinh
Huyền sương đáo tận kiến Vân Anh
Lam kiều tự hữu thần tiên quật
Hà tất khi khu thượng Ngọc Kinh"
Phan Như Xuyên dịch:
"Uống rượu quỳnh tương trăm cảnh sinh
Huyền sương giã thuốc thấy Vân Anh
Lam Kiều vốn thực nơi tiên ở
Hà tất nhọc nhằn đến Ngọc Kinh"
Bùi không hiểu ý nghĩa ra sao, định hỏi. Nhưng thuyền vừa ghé bến thì Vân Kiều và nữ tỳ thoáng mất. Bùi bồi hồi lại nghiền ngẫm hai câu thơ cuối, Bùi không đến Ngọc Kinh mà hỏi dò người đến Lam Kiều.
Trời trưa nắng gắt, Bùi mệt lả người liền ghé vào một hàng nước nghỉ chân, hỏi nước uống. Bà lão gọi người con gái bưng nước ra. Nàng rất đẹp, trông dáng tựa vẻ Vân Kiều. Bùi bạo dạn hỏi, thì ra nàng là em của Vân Kiều tên Vân Anh. Bùi mừng rỡ cho là gặp duyên trời định, mới thuật lại chuyện bài thơ cho bà lão nghe. Bà cười bảo:
- Hẳn là con Vân Kiều muốn xe duyên cho cậu đấy
Bùi nghe nói nỗi mừng biết lấy chi cân. Nhưng bà cho biết là hiện bà có cái cối mà còn thiếu chiếc chày ngọc để giã thuốc Huyền sương, nếu Bùi tìm được chày này thì bà mới bằng lòng cho hai đàng kết duyên tơ tóc. Bùi ưng chịu. Nhưng tìm mãi mà không nơi đâu có chày ngọc. Lòng buồn tha thiết nhưng vẫn không nản chí. Tưởng đã thất vọng, một hôm may mắn Bùi gặp một cụ già bán ngọc mách rằng: tại phố hàng thuốc bắc ở Quắc Châu có một nhà muốn bán một cái chày ngọc, giá đến 200 lượng vàng, nếu cần mua cụ sẽ viết thư giới thiệu. Bùi Hàng mừng rỡ, trở về quê nhà bán tất cả tài sản được 200 lượng vàng, rồi sang Quắc Châu mua được chày ngọc. Lại đem đến Lam Kiều dưng cho bà lão. Bà vô cùng khen ngợi.
Vân Anh lại bảo:
- Ðã có chày ngọc nhưng phải ra công giã thuốc Huyền sương một trăm ngày cho thuốc trường sinh được nhuyễn, thì mới làm lễ thành hôn.
Bùi Hàng vâng theo. Kết quả, Bùi Hàng và Vân Anh nên vợ chồng. Sau cả hai đều thành tiên.
"Chày sương" là chày ngọc dùng để giã thuốc trường sinh "Huyền sương". "Lam Kiều" chỉ chỗ tiên ở hay người đẹp ở, hoặc chỉ duyên tốt đẹp như gặp duyên với... Tiên.
Trước kia, tác giả "Truyện Kiều" diễn tả Kiều sang chỗ ở của Kim Trọng:
"Xắn tay mở khoá động Ðào
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên thai"
Như vậy, Kiều cho chỗ ở của Kim Trọng như một cảnh tiên. Còn Kim Trọng đối với chỗ ở của Kiều như thế nào?
"Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang"
Như vậy, chỗ ở của Kiều cũng là cảnh tiên nữa.
Mối tình đầu của đôi trai tài gái sắc tuyệt đẹp. Họ rất giàu tình cảm, tưởng tượng khá phong phú: tình phối hợp cảnh, cảnh phối hợp tình. Dùng lối thậm xưng, tác giả "Truyện Kiều" diễn tả cảnh và tình của đôi trai gái rất chung nhứt.
Nhà thơ Xuân Diệu đã có câu:
"Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát cả hồn tôi"
Ðương lúc tha thiết yêu đương tất cả đều đẹp, đều là ... tiên một cõi.
Điển Tích Truyện Kiều - Cầm Đài (Bá Nha Tử Kỳ)
Rằng nghe: Nổi tiếng cầm đài
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ
Cầm đài: cái đài để Tư Mã Tương Như ngồi gảy đàn. Tri âm: hiểu biết nhau qua tiếng nhạc; từ chuyện Tử Kỳ tri âm Bá Nha thời Chiến Quốc, tri âm đã là nghĩa chung của một tình bạn thiết thân, thông hiểu được ý nhau.
Theo sách Lã thị xuân thu: "Bá Nha cổ cầm, Chung Tử Kỳ tại ngoại thiết tính chi viết: nguy nguy hồ như thái sơn, dương dương hồ như lưu thủy" (Bá Nha gảy đàn, Chung Tử Kỳ ở ngoài nghe trộm , khen rằng: ngun ngút như núi Thái Sơn, cuồn cuộn như dòng nước chảy.
Vào lúc Tấn, Sở đang giao hảo nhau. Bá Nha là người nước Sở, nhưng lại làm quan đến chức Thượng đại phu của nước Tấn. Bá Nha nổi tiếng là một khách phong lưu văn mặc, lại có ngón đàn tuyệt diệu nhất đời; ngày liền đêm, Bá Nha không bao giờ rời cây Dao cầm thiết thân của mình.
Năm ấy, trên đường từ Sở về lại Tấn sau sau chuyến công cán, Bá Nha cho thuyền đỗ lại bến Hàm Dương vào một đêm trăng thanh gió mát. Bá Nha cho đồng tử đốt lư trầm trước thuyền, rồi lấy Dao cầm ra so phi'm thử dâỵ Dưới ánh trăng trong, tiếng đàn quyện lấy hương trầm đang cất vút lên cao giữa đêm thu thanh vắng, bỗng một tiếng " bựt " khô khan, dây tơ đồng đứt. Bá Nha nghĩ dây đàn đứt ắt có quân tử nào nghe lén đây, bèn sang sảng cất tiếng:
- Có cao nhân nào trên bờ lắng nghe tiếng đàn của tại hạ, xin vui lòng ra mặt.
Từ trên vách núị có tiếng vọng xuống:
- Xin đại nhân thứ lỗi cho, tiểu dân này đi kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây, nghe tiếng đàn tuyệt diệu quá, nên cất bước đi không đành.
Bá Nha cười lớn:
- Tiều phu nào mà lại dám nói chuyện nghe đàn với ta?.
Tiếng nói từ trên núi lại đáp lại:
- Đại nhân nói vậy, kẻ hèn này trộm nghĩ là không đúng. Há đại nhân không nhớ câu nói của người xưa: "Thập nhất chi ấp tất hữu trung tín" (Trong một ấp có mười nhà ắt có người trung tín). Hễ trong nhà có quân tử thì ngoài cửa ắt có người quân tử đến...
Bá Nha có vẻ ngượng khi nghe câu nói của người tiều phu. Biết mình lỡ lời, ông tiến sát đến mũi thuyền nói lớn:
- Nếu thật là người trên bờ biết nghe đàn, thì xin cho biết lúc nãy tại hạ đã đàn khúc gì?.
Giọng trên bờ bình thản vọng xuống:
- Đó là Khổng Vọng Vi, Đức Khổng Tử khóc thầy Nhan Hồi. Hồi nãy, đại nhân đang đàn thì đứt dây, nên còn thiếu mất câu chót.
Nghe xong, Bá Nha thấy lòng phơi phới lạ, vội sai tùy tùng lên bờ rước người tiều phu xuống thuyền. Bá Nha trân trọng đón tiếp:
- Quý hữu biết nghe đàn, vậy chắc cũng rõ được xuất xứ của cây Dao cầm?
Tiều phu không ngập ngừng:
- Nghe nói, thuở xưa vua Phục Hy tình cờ trông thấy có năm sắc sao rơi xuống cụm ngô đồng và chim phượng hoàng đến đó đậụ Vua biêt cây ngô đồng là thứ gỗ quý, hấp thụ tinh hoa của trơi đất, có thể dùng để làm nhạc khí được, liền cho người hạ cây, cắt làm ba đoạn Đoạn ngọn, tiếng quá trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng đục và nặng, chỉ có đoa,n giữa tiếng vừa trong vừa đục. có thể dùng được. Nhà vua cho ngâm đoạn giữa thân cây giữa dòng nươc, đúng bảy mươi hai ngày đêm, vớt lên phơi trong mát cho thật khô rồi gọi người thợ giỏi Lưu Tử Kỳ đẻo thành cây Dao cầm. Dao cầm dài ba thước sáu tấc, một phần án theo ba trăm sáu mươi mốt độ chu thiên, mặt trước rộng tám tấc, án theo tám tiết, mặt sau rộng bốn tấc án theo bốn mùa, bề dày hai tấc án theo lưỡng nghị Đàn gồm mười hai phi'm, tượng trưng cho mười hai tháng trong năm , lại có thêm một phi'm phụ tượng trưng cho tháng nhuận. Đàn có năm dây án theo ngũ hành tượng trưng cho năm âm: cung, thương, giốc, thủy, vũ. Xưa, vua Thuấn gảy đàn Ngũ huyền, thiên hạ thái bình. Khi vua Văn Vương bị ngồi tù nơi DũLý, Bá Âp Khảo thêm một dây oán, gọi là văn huyền (dây văn). Về sau, khi VũVương đánh nước Trụ, thêm môt dây nữa gia tăng kích động gọi là vũ huyền (dây vũ). Do đó, Dao cầm lúc đầu có năm dây, sau có bảy dâỵ Dao cầm có bốn điều kỵ là: rét lớn, nắng lớn, gió lớn và tuyết lớn; và bảy điều không nên là: không đàn ở đám tang, không đàn lúc lòng rối loạn, không đàn lúc lòng không thanh bạch, không đàn lúc bận rộn nhiều việc, không đàn lúc y trang không chỉnh tề, không đàn lúc không có trầm hương và không đàn lúc không có bạn tri âm.
Bá Nha nghe nói, biết tiều phu là bậc kỳ tài, đem lòng kính thương:
- Hiền hữu quả là người tinh thông nhạc lý. Xưa kia, Khổng Tử đang gảy đàn, thầy Nhan Hồi bước vào, nghe thanh âm sao mà u trầm, biết là trong tâm Khổng Tử đang giao động. Hỏi ra, mới hay là trong khi Khổng Tử đàn, thấy con mèo đang bắt chuột, nên tâm tư đã chùng tiếng tơ đồng. Trước kia, Nhan Hồi nghe tiếng đàn mà biết được lòng học trò, còn ngày nay, nghe tiếng đàn Bá Nha này , hiền hữu có biết lòng ta đang tư lự gì không?
- Xin đại nhân cho nghe một vài khúc nhạc nữa
Bá Nha thay dây đàn, gảy khúc Ý tại non cao.
Tiều phu ngẩng mặt mỉm cười:
- Tuyệt thay, ý chí cao vút. Ý tại non cao.
Bá Nha giật mình ngưng đàn. Một lúc sau gảy thêm khúc Ý tại lưu thủy.
Tiều phu khua tay xuống dòng nước:
- Trời nước bao lạ. Ý tại lưu thủy.
Bá Nha thất kinh, nhìn người tiều phu không ngớt mắt, sao lại có người cảm thấu được tiếng đàn của minh như vậỵ Ông sai nguời hầu dẹp trà, bày tiệc rưọụ Xong, ông đứng lên trước mặt người tiều phu, kính cẩn hỏi:
- Dám hỏi tiên sinh quý danh và quê quán.
Tiều phu vội đứng lên, chắp tay thi lễ:
- Tiện dân họ Chung, tên Tử Kỳ, người thôn Tập Hiền gần núi Mã Yên nàỵ Còn đại nhân, chẳng hay cao danh quý tánh là gì, hiện đi trấn nhậm nơi đâu mà ghé thuyền lại đây vãng cảnh.
- Tại hạ họ Du tên Thụy, là Đại phu nuớc Tấn, nhân đi sứ nước Sở về, thấy cảnh Hàm Dương trăng thanh gió mát, nên ghé thuyền thưởng lãm. Tại hạ chỉ là một kể tài hèn đức bạc mà thôị Còn như tiên sinh đây học thức uyên bác cớ sao không xuất thân lập công danh, phò vua giúp nước, mà lại sống ẩn dật chốn núi non hẻo lánh này.
- Tôi còn cha mẹ già, không có anh em, phận làm con phải lo tròn chữ hiếu, dẫu cho công hầu khanh tướng cũng không thể đổi được một ngày báo hiếu của tại hạ
Tử Kỳ hai mươi bảy tuổị Bá Nha trân trọng nói:
- Tiện chức hơn tiên sinh những mười tuổị Nếu tiên sinh không chê tôi đức mọn tài hèn thì xin kết làm anh em để khỏi phụ duyên tri âm.
Chung Tử Kỳ khiêm nhượng đáp:
- Đại nhân là bậc công khanh nơi triều đình, tại hạ là kẻ áo vải chốn sơn lâm thì làm sao kết bạn với nhau được, xin đại nhân miễn cho.
- Giá trị con người đâu ở chỗ giàu sang phú quý, mà ở đức hạnh tài năng. Nay nếu tiện sinh chịu nhận làm anh em thì thật là vạn hạnh cho tiện chức.
Bá Nha đã có thành tâm, Tử Kỳ không từ chối nữa.. Bá Nhà sai người hầu đốt lò hương mới, lập hương án trước thuyền, cùng Tử Kỳ lạy trời đất tám lạy, nhận nhau làm anh em khác họ Rồi hai bạn cùng đối ẩm chuyện trò với nhau rất chi là tương đắc.
Đến lúc ánh trăng nhạt nhòa, tiếng gà eo óc gọi ánh nắng mai, đoi bạn đành phải chia taỵ Bá Nhà giọng run run, nhìn Tử Kỳ:
- Lòng huynh quá cảm mộ, chưa nỡ rỡi hiền đệ Hiền đệ có thể cùng huynh đi thêm một đoạn đường để thêm đước một khúc chuyện trò cho thỏa mối tâm tình.
Chung Tử Kỳ cũng không dấu được xúc động:
- Theo lễ, tiểu đệ phải tiễn hiền huynh vài dặm đường mới phải, ngặt vì song thân của tiểu đệ đang trông ngóng ở nhà, xin hiền huynh thứ lỗi.
- Vậy thì hiền đệ về nhà xin với song đường qua nước Tấn thăm chơi, chắc là sẽ được nhận lời.
"Phụ mẫu tồn, bất khả viễn du", làm sao Tử Kỳ có thể rời cha mẹ để vui chơi cùng bạn được. Cuối cùng, Bá Nha nắm tay Tử kỳ, giọng khẩn thiết:
- Sang năm, cũng vào giờ này, xin hẹn hiền đệ tại đây.
Rồi lấy ra hai nén vàng, hai tay dâng cao lên trước mặt:
- Đây là món lễ vật mọn của ngu huynh làm quà cho bá phụ, bá mẫu, đã xem nhau là cốt nhục xin hiền đệ chớ từ chối.
Cảm tình tri ngộ, Tử Kỳ không từ chối Lưu luyến chia tay, đôi bạn bịn rịn không thốt lên nỗi lời tạm biệt.
Thấm thoắt một năm qua, ngọn gió heo may từ phương Bắc về đem mùa thu đến. Bá Nha vào triều kiến vua Tấn xin được phép về Sở thăm quê nhà. Thuyền đến bến Hàm Dương, Bá Nha cho dừng lại dưới núi Mã Yên. Lòng bồn chồn trông ngóng. Vừng kim ô đã ngả bóng xuống lòng sông, khói sóng dâng lên nghi ngút, sao mãi vẫn không thấy bạn tri âm. Bá Nha cho đồng tử đốt lò hương, rồi lấy Dao cầm đàn một khúc. Trong cơn gió nhẹ đầu thu, Bá Nha bỗng nghe tiếng đàn của mình sao mà ai oán, não nùng. Bá Nha thất kinh, ngừng tay đàn, tâm thần rối bời ; cung thương bỗng nghe sầu thảm như thế này thì chắc là Chung Tử Kỳ gặp nạn lớn rồị Cả đêm, Bá Nha trăn trở, nhớ thương và âu lo cho bạn. Trời chưa sáng, Bá Nha đã khoác cây Dao cầm lên lưng, bỏ vào túi mười nén vàng ròng rồi cùng vài tên hầu tìm đến chân núi Mã Yên . Dọc đường. gặp một ông lão, tay xách giỏ mây, tay cầm gậy trúc. Bá Nha lễ phép thưa:
- Xin lão trượng chỉ đường đi đến Tập Hiền thôn.
- Có Tập Hiền thông thượng, Tập Hiền thôn hạ. Tiên sinh cần đến thôn nào?
- Thưa lão trượng, ngư+ời Tử Kỳ họ Chung ở thôn nào?
Vừa nghe nhắc đến tên Chung Tử Kỳ, lão ông sa sầm nét mặt, đôi mắt trũng sâu chảy dài hai hàng lệ. Lão ông sụt sùi, giọng ngắt đoạn:
- Chung Tử Kỳ là con lão. Năm ngoái cũng vào ngày này, nó đi củi về, gặp một vị quan nước Tấn tên là Bá Nha và kết nghĩa huynh đệ vì chỗ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Lúc chia tay, vị quan có tặng cho vợ chồng lão hai nén vàng. Ở nơi núi non heo hút thế này, vợ chồng lão chưa cần đến số vàng đó, nên con lão đã dùng đổi lấy sách, đọc bất kể ngày đêm, giờ giấc , ngoài việc đốn củi mưu sinh. Có thể vì quá lao nhọc, con lão đã lâm bệnh mà qua đời...
Chưa kịp nghe hết lời, Bá Nha đã bật òa khóc, ôm chầm lấy ông lão, hậu sinh này chính là người bạn kết giao của Chung Tử Kỳ đây. Ông lão thảng thốt, trời ơi:
- Mang ơn đại nhân không chê trách cảnh bần cùng, đã cùng con lão kết nghĩa tâm giao. Lúc lâm chung, con lão đã trối trăn lại: " Sống không trọn đạo làm con, chết xin được chôn dưới chân núi Mã Yên để trọn đạo nghĩa với bạn, nằm bên triền dốc chờ đúng lời hẹn mùa thu này" Con đường mà đại nhân vừa đi quạ phía bên phải có nấm đất nhỏ là ngôi mộ của Tử Kỳ. Hôm nay đúng một trăm ngày mất, lão vừa đi viếng mộ con về thì gặp đại nhân.
Trước mộ Tử Kỳ, Bá Nha vừa lạy bạn xong, truyền đem đàn đến, ngồi trên tảng đá tấu khúc "Thiên thu trương hận". Tiếng đàn đang réo rắt bỗng trầm hẳn xuống. Tiếng gió ngàn rít mạnh, bầu trời trở màu tối sẩ?m và tiếng tiếng chim từ xa vọng vềnghe u uất não nùng. Bá Nha ngưng đàn. Gió ngừng rít, trời trong sáng trở lại, chim ai oán lặng tiếng. Bá Nha nhìn Chung lão thưa:
- Tử Kỳ đã về đây chứng giám cho lòng thành của tiểu sinh. Cháu vừa đàn khúc đoản ca để viếng người tri âm tài hoa mệnh yểu, và xin đọc thành thơ đoản ca này:
Ức tính khi niên xuân
Giang thượng tằng hội quân
Kim nhật trùng lai phỏng
Bất kiến tri ân nhân
Đản kiến nhất phân thổ
An nhiên thương ngã tâm
Bất giác lệ phân phân
Lai hoan khứ hà khổ
Giang ban khởi sầu vân.
Tử Ky, Tử kỳ hề !
Nhĩ, ngã thiên kim nghĩa
Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ
Thử khúc chung hề bất phụ đàn
Tam xích Dao cầm vị quân tử
(Từ nhớ đến muà thu năm trước
Bến trường giang gặp bạn cố nhân
Năm nay lại đến Giang Tân
Giòng sông lạnh ngắt cố nhân đâu rồi
Buồn chỉ thấy nấm mồ bên núi
Cõi ngàn năm chia cắt đau lòng
Ôi thương tâm, ôi thương tâm
Sụt sùi lai láng bao hàng lệ rơi
Mây sầu thấp thoáng chân trời
Đêm vui đổi lấy một đời khổ đaụ
Tử Kỳ ơi, Tử Kỳ ơi Ngàn vàng khôn chuộc được bầu tâm can
Thôi từ nay, thôi phi'm đàn
Ngàn thu thôi hết mơ mòng cố nhân...)
Lời thơ vừa dứt, Bá Nha nâng Dao cầm lên cao, đập mạnh xuống tảng đá. Dao cầm vỡ tung từng mãnh, trụ ngọc, phi'm đồng rơi lả tả. Lão ông hoảng kinh, sao đại nhân lại đập vỡ đàn quí. Bá Nha đáp lời bằng bài thơ tứ tuyệt:
Thốt đoái Dao cầm phượng vĩ hàn
Tử Kỳ bất tại, hướng thùy đàn ?
Xuân phong mãn diện giai bằng hữu
Dục mịch tri âm, nan thượng nan
(Dao cầm đập nát đau lòng phượng
Đã vắng Tử Kỳ đàn với ai
Gió xuân bốn phía bao bè bạn
Khó thay tìm được bạn tri âm
Bốn câu thơ là bài văn tế cho bạn. Bá Nha quay lại phía lão ông, sụp quỳ xuống:
- Bá Kỳ Tử Nha đã y lời hẹn đến đây rồị Nay tiểu sinh có đem theo ít nén vàng, xin thành tâm dâng lên bá phụ cùng bá mẫu để cung dưỡng tuổi già và tạo mươi mẫu ruộng làm tự cho Tử Kỳ. Bốn năm nữa hạ quan sẽ dâng biểu từ quan, về đây chung sống với bá phụ bá mẫu, với người bạn tri âm.
Chung lão không từ chốị Bá Nha lạy Chung lão, lạy tạ từ bạn rồi quay xuống cho thuyền nhổ sào, trở về nước Tấn.
Rằng nghe: Nổi tiếng cầm đài
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ
Cầm đài: cái đài để Tư Mã Tương Như ngồi gảy đàn. Tri âm: hiểu biết nhau qua tiếng nhạc; từ chuyện Tử Kỳ tri âm Bá Nha thời Chiến Quốc, tri âm đã là nghĩa chung của một tình bạn thiết thân, thông hiểu được ý nhau.
Theo sách Lã thị xuân thu: "Bá Nha cổ cầm, Chung Tử Kỳ tại ngoại thiết tính chi viết: nguy nguy hồ như thái sơn, dương dương hồ như lưu thủy" (Bá Nha gảy đàn, Chung Tử Kỳ ở ngoài nghe trộm , khen rằng: ngun ngút như núi Thái Sơn, cuồn cuộn như dòng nước chảy.
Vào lúc Tấn, Sở đang giao hảo nhau. Bá Nha là người nước Sở, nhưng lại làm quan đến chức Thượng đại phu của nước Tấn. Bá Nha nổi tiếng là một khách phong lưu văn mặc, lại có ngón đàn tuyệt diệu nhất đời; ngày liền đêm, Bá Nha không bao giờ rời cây Dao cầm thiết thân của mình.
Năm ấy, trên đường từ Sở về lại Tấn sau sau chuyến công cán, Bá Nha cho thuyền đỗ lại bến Hàm Dương vào một đêm trăng thanh gió mát. Bá Nha cho đồng tử đốt lư trầm trước thuyền, rồi lấy Dao cầm ra so phi'm thử dâỵ Dưới ánh trăng trong, tiếng đàn quyện lấy hương trầm đang cất vút lên cao giữa đêm thu thanh vắng, bỗng một tiếng " bựt " khô khan, dây tơ đồng đứt. Bá Nha nghĩ dây đàn đứt ắt có quân tử nào nghe lén đây, bèn sang sảng cất tiếng:
- Có cao nhân nào trên bờ lắng nghe tiếng đàn của tại hạ, xin vui lòng ra mặt.
Từ trên vách núị có tiếng vọng xuống:
- Xin đại nhân thứ lỗi cho, tiểu dân này đi kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây, nghe tiếng đàn tuyệt diệu quá, nên cất bước đi không đành.
Bá Nha cười lớn:
- Tiều phu nào mà lại dám nói chuyện nghe đàn với ta?.
Tiếng nói từ trên núi lại đáp lại:
- Đại nhân nói vậy, kẻ hèn này trộm nghĩ là không đúng. Há đại nhân không nhớ câu nói của người xưa: "Thập nhất chi ấp tất hữu trung tín" (Trong một ấp có mười nhà ắt có người trung tín). Hễ trong nhà có quân tử thì ngoài cửa ắt có người quân tử đến...
Bá Nha có vẻ ngượng khi nghe câu nói của người tiều phu. Biết mình lỡ lời, ông tiến sát đến mũi thuyền nói lớn:
- Nếu thật là người trên bờ biết nghe đàn, thì xin cho biết lúc nãy tại hạ đã đàn khúc gì?.
Giọng trên bờ bình thản vọng xuống:
- Đó là Khổng Vọng Vi, Đức Khổng Tử khóc thầy Nhan Hồi. Hồi nãy, đại nhân đang đàn thì đứt dây, nên còn thiếu mất câu chót.
Nghe xong, Bá Nha thấy lòng phơi phới lạ, vội sai tùy tùng lên bờ rước người tiều phu xuống thuyền. Bá Nha trân trọng đón tiếp:
- Quý hữu biết nghe đàn, vậy chắc cũng rõ được xuất xứ của cây Dao cầm?
Tiều phu không ngập ngừng:
- Nghe nói, thuở xưa vua Phục Hy tình cờ trông thấy có năm sắc sao rơi xuống cụm ngô đồng và chim phượng hoàng đến đó đậụ Vua biêt cây ngô đồng là thứ gỗ quý, hấp thụ tinh hoa của trơi đất, có thể dùng để làm nhạc khí được, liền cho người hạ cây, cắt làm ba đoạn Đoạn ngọn, tiếng quá trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng đục và nặng, chỉ có đoa,n giữa tiếng vừa trong vừa đục. có thể dùng được. Nhà vua cho ngâm đoạn giữa thân cây giữa dòng nươc, đúng bảy mươi hai ngày đêm, vớt lên phơi trong mát cho thật khô rồi gọi người thợ giỏi Lưu Tử Kỳ đẻo thành cây Dao cầm. Dao cầm dài ba thước sáu tấc, một phần án theo ba trăm sáu mươi mốt độ chu thiên, mặt trước rộng tám tấc, án theo tám tiết, mặt sau rộng bốn tấc án theo bốn mùa, bề dày hai tấc án theo lưỡng nghị Đàn gồm mười hai phi'm, tượng trưng cho mười hai tháng trong năm , lại có thêm một phi'm phụ tượng trưng cho tháng nhuận. Đàn có năm dây án theo ngũ hành tượng trưng cho năm âm: cung, thương, giốc, thủy, vũ. Xưa, vua Thuấn gảy đàn Ngũ huyền, thiên hạ thái bình. Khi vua Văn Vương bị ngồi tù nơi DũLý, Bá Âp Khảo thêm một dây oán, gọi là văn huyền (dây văn). Về sau, khi VũVương đánh nước Trụ, thêm môt dây nữa gia tăng kích động gọi là vũ huyền (dây vũ). Do đó, Dao cầm lúc đầu có năm dây, sau có bảy dâỵ Dao cầm có bốn điều kỵ là: rét lớn, nắng lớn, gió lớn và tuyết lớn; và bảy điều không nên là: không đàn ở đám tang, không đàn lúc lòng rối loạn, không đàn lúc lòng không thanh bạch, không đàn lúc bận rộn nhiều việc, không đàn lúc y trang không chỉnh tề, không đàn lúc không có trầm hương và không đàn lúc không có bạn tri âm.
Bá Nha nghe nói, biết tiều phu là bậc kỳ tài, đem lòng kính thương:
- Hiền hữu quả là người tinh thông nhạc lý. Xưa kia, Khổng Tử đang gảy đàn, thầy Nhan Hồi bước vào, nghe thanh âm sao mà u trầm, biết là trong tâm Khổng Tử đang giao động. Hỏi ra, mới hay là trong khi Khổng Tử đàn, thấy con mèo đang bắt chuột, nên tâm tư đã chùng tiếng tơ đồng. Trước kia, Nhan Hồi nghe tiếng đàn mà biết được lòng học trò, còn ngày nay, nghe tiếng đàn Bá Nha này , hiền hữu có biết lòng ta đang tư lự gì không?
- Xin đại nhân cho nghe một vài khúc nhạc nữa
Bá Nha thay dây đàn, gảy khúc Ý tại non cao.
Tiều phu ngẩng mặt mỉm cười:
- Tuyệt thay, ý chí cao vút. Ý tại non cao.
Bá Nha giật mình ngưng đàn. Một lúc sau gảy thêm khúc Ý tại lưu thủy.
Tiều phu khua tay xuống dòng nước:
- Trời nước bao lạ. Ý tại lưu thủy.
Bá Nha thất kinh, nhìn người tiều phu không ngớt mắt, sao lại có người cảm thấu được tiếng đàn của minh như vậỵ Ông sai nguời hầu dẹp trà, bày tiệc rưọụ Xong, ông đứng lên trước mặt người tiều phu, kính cẩn hỏi:
- Dám hỏi tiên sinh quý danh và quê quán.
Tiều phu vội đứng lên, chắp tay thi lễ:
- Tiện dân họ Chung, tên Tử Kỳ, người thôn Tập Hiền gần núi Mã Yên nàỵ Còn đại nhân, chẳng hay cao danh quý tánh là gì, hiện đi trấn nhậm nơi đâu mà ghé thuyền lại đây vãng cảnh.
- Tại hạ họ Du tên Thụy, là Đại phu nuớc Tấn, nhân đi sứ nước Sở về, thấy cảnh Hàm Dương trăng thanh gió mát, nên ghé thuyền thưởng lãm. Tại hạ chỉ là một kể tài hèn đức bạc mà thôị Còn như tiên sinh đây học thức uyên bác cớ sao không xuất thân lập công danh, phò vua giúp nước, mà lại sống ẩn dật chốn núi non hẻo lánh này.
- Tôi còn cha mẹ già, không có anh em, phận làm con phải lo tròn chữ hiếu, dẫu cho công hầu khanh tướng cũng không thể đổi được một ngày báo hiếu của tại hạ
Tử Kỳ hai mươi bảy tuổị Bá Nha trân trọng nói:
- Tiện chức hơn tiên sinh những mười tuổị Nếu tiên sinh không chê tôi đức mọn tài hèn thì xin kết làm anh em để khỏi phụ duyên tri âm.
Chung Tử Kỳ khiêm nhượng đáp:
- Đại nhân là bậc công khanh nơi triều đình, tại hạ là kẻ áo vải chốn sơn lâm thì làm sao kết bạn với nhau được, xin đại nhân miễn cho.
- Giá trị con người đâu ở chỗ giàu sang phú quý, mà ở đức hạnh tài năng. Nay nếu tiện sinh chịu nhận làm anh em thì thật là vạn hạnh cho tiện chức.
Bá Nha đã có thành tâm, Tử Kỳ không từ chối nữa.. Bá Nhà sai người hầu đốt lò hương mới, lập hương án trước thuyền, cùng Tử Kỳ lạy trời đất tám lạy, nhận nhau làm anh em khác họ Rồi hai bạn cùng đối ẩm chuyện trò với nhau rất chi là tương đắc.
Đến lúc ánh trăng nhạt nhòa, tiếng gà eo óc gọi ánh nắng mai, đoi bạn đành phải chia taỵ Bá Nhà giọng run run, nhìn Tử Kỳ:
- Lòng huynh quá cảm mộ, chưa nỡ rỡi hiền đệ Hiền đệ có thể cùng huynh đi thêm một đoạn đường để thêm đước một khúc chuyện trò cho thỏa mối tâm tình.
Chung Tử Kỳ cũng không dấu được xúc động:
- Theo lễ, tiểu đệ phải tiễn hiền huynh vài dặm đường mới phải, ngặt vì song thân của tiểu đệ đang trông ngóng ở nhà, xin hiền huynh thứ lỗi.
- Vậy thì hiền đệ về nhà xin với song đường qua nước Tấn thăm chơi, chắc là sẽ được nhận lời.
"Phụ mẫu tồn, bất khả viễn du", làm sao Tử Kỳ có thể rời cha mẹ để vui chơi cùng bạn được. Cuối cùng, Bá Nha nắm tay Tử kỳ, giọng khẩn thiết:
- Sang năm, cũng vào giờ này, xin hẹn hiền đệ tại đây.
Rồi lấy ra hai nén vàng, hai tay dâng cao lên trước mặt:
- Đây là món lễ vật mọn của ngu huynh làm quà cho bá phụ, bá mẫu, đã xem nhau là cốt nhục xin hiền đệ chớ từ chối.
Cảm tình tri ngộ, Tử Kỳ không từ chối Lưu luyến chia tay, đôi bạn bịn rịn không thốt lên nỗi lời tạm biệt.
Thấm thoắt một năm qua, ngọn gió heo may từ phương Bắc về đem mùa thu đến. Bá Nha vào triều kiến vua Tấn xin được phép về Sở thăm quê nhà. Thuyền đến bến Hàm Dương, Bá Nha cho dừng lại dưới núi Mã Yên. Lòng bồn chồn trông ngóng. Vừng kim ô đã ngả bóng xuống lòng sông, khói sóng dâng lên nghi ngút, sao mãi vẫn không thấy bạn tri âm. Bá Nha cho đồng tử đốt lò hương, rồi lấy Dao cầm đàn một khúc. Trong cơn gió nhẹ đầu thu, Bá Nha bỗng nghe tiếng đàn của mình sao mà ai oán, não nùng. Bá Nha thất kinh, ngừng tay đàn, tâm thần rối bời ; cung thương bỗng nghe sầu thảm như thế này thì chắc là Chung Tử Kỳ gặp nạn lớn rồị Cả đêm, Bá Nha trăn trở, nhớ thương và âu lo cho bạn. Trời chưa sáng, Bá Nha đã khoác cây Dao cầm lên lưng, bỏ vào túi mười nén vàng ròng rồi cùng vài tên hầu tìm đến chân núi Mã Yên . Dọc đường. gặp một ông lão, tay xách giỏ mây, tay cầm gậy trúc. Bá Nha lễ phép thưa:
- Xin lão trượng chỉ đường đi đến Tập Hiền thôn.
- Có Tập Hiền thông thượng, Tập Hiền thôn hạ. Tiên sinh cần đến thôn nào?
- Thưa lão trượng, ngư+ời Tử Kỳ họ Chung ở thôn nào?
Vừa nghe nhắc đến tên Chung Tử Kỳ, lão ông sa sầm nét mặt, đôi mắt trũng sâu chảy dài hai hàng lệ. Lão ông sụt sùi, giọng ngắt đoạn:
- Chung Tử Kỳ là con lão. Năm ngoái cũng vào ngày này, nó đi củi về, gặp một vị quan nước Tấn tên là Bá Nha và kết nghĩa huynh đệ vì chỗ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Lúc chia tay, vị quan có tặng cho vợ chồng lão hai nén vàng. Ở nơi núi non heo hút thế này, vợ chồng lão chưa cần đến số vàng đó, nên con lão đã dùng đổi lấy sách, đọc bất kể ngày đêm, giờ giấc , ngoài việc đốn củi mưu sinh. Có thể vì quá lao nhọc, con lão đã lâm bệnh mà qua đời...
Chưa kịp nghe hết lời, Bá Nha đã bật òa khóc, ôm chầm lấy ông lão, hậu sinh này chính là người bạn kết giao của Chung Tử Kỳ đây. Ông lão thảng thốt, trời ơi:
- Mang ơn đại nhân không chê trách cảnh bần cùng, đã cùng con lão kết nghĩa tâm giao. Lúc lâm chung, con lão đã trối trăn lại: " Sống không trọn đạo làm con, chết xin được chôn dưới chân núi Mã Yên để trọn đạo nghĩa với bạn, nằm bên triền dốc chờ đúng lời hẹn mùa thu này" Con đường mà đại nhân vừa đi quạ phía bên phải có nấm đất nhỏ là ngôi mộ của Tử Kỳ. Hôm nay đúng một trăm ngày mất, lão vừa đi viếng mộ con về thì gặp đại nhân.
Trước mộ Tử Kỳ, Bá Nha vừa lạy bạn xong, truyền đem đàn đến, ngồi trên tảng đá tấu khúc "Thiên thu trương hận". Tiếng đàn đang réo rắt bỗng trầm hẳn xuống. Tiếng gió ngàn rít mạnh, bầu trời trở màu tối sẩ?m và tiếng tiếng chim từ xa vọng vềnghe u uất não nùng. Bá Nha ngưng đàn. Gió ngừng rít, trời trong sáng trở lại, chim ai oán lặng tiếng. Bá Nha nhìn Chung lão thưa:
- Tử Kỳ đã về đây chứng giám cho lòng thành của tiểu sinh. Cháu vừa đàn khúc đoản ca để viếng người tri âm tài hoa mệnh yểu, và xin đọc thành thơ đoản ca này:
Ức tính khi niên xuân
Giang thượng tằng hội quân
Kim nhật trùng lai phỏng
Bất kiến tri ân nhân
Đản kiến nhất phân thổ
An nhiên thương ngã tâm
Bất giác lệ phân phân
Lai hoan khứ hà khổ
Giang ban khởi sầu vân.
Tử Ky, Tử kỳ hề !
Nhĩ, ngã thiên kim nghĩa
Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ
Thử khúc chung hề bất phụ đàn
Tam xích Dao cầm vị quân tử
(Từ nhớ đến muà thu năm trước
Bến trường giang gặp bạn cố nhân
Năm nay lại đến Giang Tân
Giòng sông lạnh ngắt cố nhân đâu rồi
Buồn chỉ thấy nấm mồ bên núi
Cõi ngàn năm chia cắt đau lòng
Ôi thương tâm, ôi thương tâm
Sụt sùi lai láng bao hàng lệ rơi
Mây sầu thấp thoáng chân trời
Đêm vui đổi lấy một đời khổ đaụ
Tử Kỳ ơi, Tử Kỳ ơi Ngàn vàng khôn chuộc được bầu tâm can
Thôi từ nay, thôi phi'm đàn
Ngàn thu thôi hết mơ mòng cố nhân...)
Lời thơ vừa dứt, Bá Nha nâng Dao cầm lên cao, đập mạnh xuống tảng đá. Dao cầm vỡ tung từng mãnh, trụ ngọc, phi'm đồng rơi lả tả. Lão ông hoảng kinh, sao đại nhân lại đập vỡ đàn quí. Bá Nha đáp lời bằng bài thơ tứ tuyệt:
Thốt đoái Dao cầm phượng vĩ hàn
Tử Kỳ bất tại, hướng thùy đàn ?
Xuân phong mãn diện giai bằng hữu
Dục mịch tri âm, nan thượng nan
(Dao cầm đập nát đau lòng phượng
Đã vắng Tử Kỳ đàn với ai
Gió xuân bốn phía bao bè bạn
Khó thay tìm được bạn tri âm
Bốn câu thơ là bài văn tế cho bạn. Bá Nha quay lại phía lão ông, sụp quỳ xuống:
- Bá Kỳ Tử Nha đã y lời hẹn đến đây rồị Nay tiểu sinh có đem theo ít nén vàng, xin thành tâm dâng lên bá phụ cùng bá mẫu để cung dưỡng tuổi già và tạo mươi mẫu ruộng làm tự cho Tử Kỳ. Bốn năm nữa hạ quan sẽ dâng biểu từ quan, về đây chung sống với bá phụ bá mẫu, với người bạn tri âm.
Chung lão không từ chốị Bá Nha lạy Chung lão, lạy tạ từ bạn rồi quay xuống cho thuyền nhổ sào, trở về nước Tấn.
Người cười ta cuồng ngông khờ khạo,
Ta cười người điên đảo ngược xuôi.
Ta cười người điên đảo ngược xuôi.
Điển Tích Truyện Kiều - Ả Lý
Dâng thư đã thẹn nàng Oanh
Lại thua ả Lý bán mình hay sao?
Sách "Sưu Thần ký" có chuyện nàng Lý Ký:
Thời Hán Vũ Đế, ở quận Mân Trung đất Đông Việt., trong một cái hang sâu có con rắn khổng lồ; dân chúng trong vùng rất kinh hãi, gọi là thần rắn. Hàng năm phải cung cho thần rắn một người con gái đồng trinh thì dân mới yên ổn làm ăn. Nhưng dần cũng hết, tìm đâu ra con gái.
Bấy giờ ở huyện Tương Lạc, có nàng Lý Ký, nhà nghèo xơ xác, cả cha mẹ đều bệnh năng không tiền thuốc thang. Nàng Lý đã trốn cha mẹ, đến cửa quan tự nguyện bán mình nộp mạng cho rắn, rồi nhờ chuyển tiền về cho cha mẹ.
Nàng xin quan lệnh ban cho một cây gươm bén và một con chó dữ. Vào bên trong hang, nàng thả chó dữ ra chiến đấu với rắn, và dùng gươm chém rắn từng khúc.
Dư Thiện là cháu lâu đời của Việt Câu Tiễn được Hán Vũ Đế phong vương ở đất Đông Việt. Biết được chuyện người con gái hiếu thảo, can trường, Đông Việt vương đã đón ả Lý về làm vợ.
Dâng thư đã thẹn nàng Oanh
Lại thua ả Lý bán mình hay sao?
Sách "Sưu Thần ký" có chuyện nàng Lý Ký:
Thời Hán Vũ Đế, ở quận Mân Trung đất Đông Việt., trong một cái hang sâu có con rắn khổng lồ; dân chúng trong vùng rất kinh hãi, gọi là thần rắn. Hàng năm phải cung cho thần rắn một người con gái đồng trinh thì dân mới yên ổn làm ăn. Nhưng dần cũng hết, tìm đâu ra con gái.
Bấy giờ ở huyện Tương Lạc, có nàng Lý Ký, nhà nghèo xơ xác, cả cha mẹ đều bệnh năng không tiền thuốc thang. Nàng Lý đã trốn cha mẹ, đến cửa quan tự nguyện bán mình nộp mạng cho rắn, rồi nhờ chuyển tiền về cho cha mẹ.
Nàng xin quan lệnh ban cho một cây gươm bén và một con chó dữ. Vào bên trong hang, nàng thả chó dữ ra chiến đấu với rắn, và dùng gươm chém rắn từng khúc.
Dư Thiện là cháu lâu đời của Việt Câu Tiễn được Hán Vũ Đế phong vương ở đất Đông Việt. Biết được chuyện người con gái hiếu thảo, can trường, Đông Việt vương đã đón ả Lý về làm vợ.
Người cười ta cuồng ngông khờ khạo,
Ta cười người điên đảo ngược xuôi.
Ta cười người điên đảo ngược xuôi.
Điển Tích Truyện Kiều - Ba Đào
Gặp cơn bình địa ba đào
Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em.
Các văn nhân xưa có câu đối:
Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách.
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.
Gió mưa không có then khóa mà giữ được khách.
Nhan sắc không phải sóng lớn mà dìm chết người.
Điển tích "Ba đào"- sóng lớn - trong sách Dị Văn lục: Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hoá Chiêu, Lương Tiểu Ngạ Tiểu Nga là con một gia đình thúc nho lễ giáo, nổi tiếng là một trang quốc sắc thiên hương; thuở nhỏ được cha mẹ cho theo đòi bút nghiên, mười hai tuổi đã biết làm thơ phú, đọc thông các sách thánh hiền. Hoá Chiêu là học trò của cha Tiểu Nga; cậu học trò nghèo, mồ côi cha, thông minh, ham học, mặt mày khôi ngô, được thầy thương, gả con gái và cho ở rể. Sống chung với nhau được ba năm, thì bố mẹ vơ, lần lượt qua đời, để lại cho vợ chồng một căn phố và ít vốn liéng để mở một tiệm tạp hóa.
Đời sống cũng được êm đềm. Trong vùng, các văn nhân thỉnh thoảng đến mua hàng và cùng vợ chồng Trần Hóa Chiêu xướng họa ngâm thơ. Cũng không ít khách lai vãng thường xuyên đến đó vờ vĩnh mua hàng, để được dịp chiêm ngưỡng dung nhan Tiểu Nga; có phú hộ Trát Hiếu Sắc cũng thuộc loại khách này.
Nhưng không như những mối tình câm kia, đến nhìn để rồi thầm yêu trộm nhớ, Hiiếu Sắc đã manh tâm chiếm hữu người đàn ba này cho được. Phú hộ tìm hiểu, biết vợ chồng vì ham thích thơ văn , nên buông lỏng chuyện mua bán, vốn liếng cụt dần. Phú hộ ra tay hào hiệp, cho mượn vàng bạc để gầy dựng lại. Ngại ngùng lần đầu, nhưng rồi tiếp những lần sau, Hoá Chiêu cầm vàng bạc mượn đi buôn bán xa, chuyến nào cũng lời khẫm. Lần nào, vợ chồng cũng nài nỉ hoàn lại vốn và trả lời, nhưng Hiếu Săc đều từ chối lấy lãi.
Cứ vậy, hai năm họ trở thành bạn thâm giao. Hiếu Sắc luôn tỏ ra mình là người đàng hoàng, nghiêm túc, không bao giờ đến nhà bạn trong lúc vắng mặt Hoá Chiêu; những lúc tiếp chuyện với Lương Tiểu Nga, luôn luôn giữ thái độ đứng đắn. Vợ chồng Hoá Chiêu vui mừng có được người bạn hiền, hào phóng. Khi tự xét lý lịch "nằm vùng" của mình đã đến lúc kết nạp được, Hiếu Sắc đề nghị chung vốn làm ăn lớn. Vợ chồng Hóa Chiêu hoàn toàn tin tưởng, hớn hở nhận lời ngay.
Việc buôn bán phất lên nhanh, nhưng Hiếu Sắc vẫn cương quyết không bao giờ nhận chia lãi, nại lý do để giúp vợ chồng bạn.
Một lần, Hiếu Sắc bàn với Hóa Chiêu phải đi buôn một chuyến lớn ở Hàng Châu xa xôi và thuê thuyền xong, cả hai cùng lên đường. Ròng rã cả tháng trời thuyền mới đến Hàng Châu vào một đêm trăng thanh gió mát. Hai người đem rượu ra mũi thuyền đối ẩm tâm sự Hoá Chiêu, tình thật, ngâm một câu thơ, lại ngậm một chén rượu ; Hiếu Sắc thì cứ làm động tác giả, hắt rượu qua vai. Quá nửa đêm, Hoá Chiêu rụng, người mềm nhũn. Lúc bấy giờđám gia nhân dưới thuyền cũng đã ngủ saỵ Hiếu Sắc lôi Hóa Chiêu, xô xuống sông. Đôi ba lần Hoá Chiêu ngoai ngóp trồi đầu lên, Hiếu Sắc lại dùng sào dìm xuống cho đến khi mặt nước không còn sủi bọt nữa.
Không cần phải buôn bán chi, Hiếu Sắc cho thuyền quay về Tề Hàng ngay. Mẹ Hoá Chiêu và Tiểu Nga đau lòng với nỗi bất hạnh, nhưng vần cảm kích Hiếu Sắc đã bỏ cả chuyến hàng lớn để vội vàng trở về báo hung tin.
Rồi sau đó, đều đều, Hiếu Sắc lui tới thăm viếng và cấp dưỡng cho mẹ Hoá Chiêu và cô vợ góa trẻ. Và lần nào nước mắt phú hộ hào phóng cũng đầm đìa.
Người đời càng nể trọng hơn khi thấy Hiếu Sắc ân cần chăm sóc mẹ của Hoá Chiêu chu đáo hơn vợ bạn, khiến mẹ già cũng có phần đăm chiêu.
Ba năm sau, mãn tang. Hiếu Sắc cho người đến thưa chuyện với mẹ Hóa Chiêu xin cưới Tiểu Nga lam vợ. Bà mẹ đã đăm chiêu nhiều, nên thuận tình ngay, khuyên nhủ con dâu nên bước thêm bước nữa.
Lương Tiểu Nga vốn là gái hiền thục, vẫn còn thương yêu người chồng vắn số, nhưng vẫn phải vâng lời mẹ chồng, tái giá.
Cưới được Lương Tiểu Nga rồi, Hiếu Sắc vẫn một mực chăm sóc mẹ Hoá Chiêu; bà cũng an lòng nghĩ rằng con dâu mình có được bóng mát cho cuộc đời còn lại.
Vợ chồng ăn ở vơi nhau được mười năm, sinh được hai mụn con. Đời sống an nhàn. Một đêm trăng vào hạ, vợ chồng ra ngồi hóng mát bên ao sen. Hiếu Sắc nhấm rượu, và ngấm rượu; Đương lúc đó, có con ếch nhảy lên một lá sen. Tiểu Nga đưa cây sào thọc cho con ếch nhảy đi. Sào thọc xuống thì con ếch lặn, cất sào lên, nó lại trồi lên. Tiểu Nga phải thọc vào con ếch mấy lần nữa, nó mới chịu lặn chìm mất.
Bất giác, Hiếu Sắc buột miệng ngâm:
"Hồi ức thập tam niên tiền sự
Huyên tợ hà mô lục thủy thờị.
Nhớ chuyện mươi ba năm trước đây
Mường tượng ngày nay ếch ngóp ngoai
Nghe lời thơ lạ, Tiểu Nga bảo chồng lập lại để mình họa theo. Hiếu Sắc lè nhè đọc lại rồi cao hứng nói vợ lấy giấy bút cho mình chép lại làm thủ bút. Thôi rồi, kẻ hào hiệp chung chăn gối với mình mười năm nay, thì ra là một kẻ nham hiểm thâm độc.
Không thể để cho Hoá Chiêu chết oan, Tiểu Nga đã nắ lấy vật chứng là hai câu thơ thủ bút của Hiều Sắc, đem đi trình quan.
Bị bắt tra vấn, Hiếu Sắc khai hết sự thật câu chuyện hơn mười ba năm trước, vì đã cuồng si nhan sắc của Lương Tiểu Nga nên đóng trò đạo đức, rồi bày mưu giết chồng đoạt vợ Trát Hiếu Sắc bị xử tội tử hình.
Đúng là sắc bất ba đào dị nịch nhân, nhan sắc đâu phải là sóng lớn mà cũng dìm chết người, hai người chồng đều phải tức tưởi lìa đời.
Sắc đẹp là tội lỗi, nàng đã đến công đường, xin xử tội cái nhan săc nàỵ Nhưng luật pháp có bao giờ lại tử hình một hồng nhan. Có chăng thì lạ gì bỉ sắc tư phong, hồng nhan phải tự mang lấy cái nghiệp chướng đa truân.
Gặp cơn bình địa ba đào
Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em.
Các văn nhân xưa có câu đối:
Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách.
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.
Gió mưa không có then khóa mà giữ được khách.
Nhan sắc không phải sóng lớn mà dìm chết người.
Điển tích "Ba đào"- sóng lớn - trong sách Dị Văn lục: Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hoá Chiêu, Lương Tiểu Ngạ Tiểu Nga là con một gia đình thúc nho lễ giáo, nổi tiếng là một trang quốc sắc thiên hương; thuở nhỏ được cha mẹ cho theo đòi bút nghiên, mười hai tuổi đã biết làm thơ phú, đọc thông các sách thánh hiền. Hoá Chiêu là học trò của cha Tiểu Nga; cậu học trò nghèo, mồ côi cha, thông minh, ham học, mặt mày khôi ngô, được thầy thương, gả con gái và cho ở rể. Sống chung với nhau được ba năm, thì bố mẹ vơ, lần lượt qua đời, để lại cho vợ chồng một căn phố và ít vốn liéng để mở một tiệm tạp hóa.
Đời sống cũng được êm đềm. Trong vùng, các văn nhân thỉnh thoảng đến mua hàng và cùng vợ chồng Trần Hóa Chiêu xướng họa ngâm thơ. Cũng không ít khách lai vãng thường xuyên đến đó vờ vĩnh mua hàng, để được dịp chiêm ngưỡng dung nhan Tiểu Nga; có phú hộ Trát Hiếu Sắc cũng thuộc loại khách này.
Nhưng không như những mối tình câm kia, đến nhìn để rồi thầm yêu trộm nhớ, Hiiếu Sắc đã manh tâm chiếm hữu người đàn ba này cho được. Phú hộ tìm hiểu, biết vợ chồng vì ham thích thơ văn , nên buông lỏng chuyện mua bán, vốn liếng cụt dần. Phú hộ ra tay hào hiệp, cho mượn vàng bạc để gầy dựng lại. Ngại ngùng lần đầu, nhưng rồi tiếp những lần sau, Hoá Chiêu cầm vàng bạc mượn đi buôn bán xa, chuyến nào cũng lời khẫm. Lần nào, vợ chồng cũng nài nỉ hoàn lại vốn và trả lời, nhưng Hiếu Săc đều từ chối lấy lãi.
Cứ vậy, hai năm họ trở thành bạn thâm giao. Hiếu Sắc luôn tỏ ra mình là người đàng hoàng, nghiêm túc, không bao giờ đến nhà bạn trong lúc vắng mặt Hoá Chiêu; những lúc tiếp chuyện với Lương Tiểu Nga, luôn luôn giữ thái độ đứng đắn. Vợ chồng Hoá Chiêu vui mừng có được người bạn hiền, hào phóng. Khi tự xét lý lịch "nằm vùng" của mình đã đến lúc kết nạp được, Hiếu Sắc đề nghị chung vốn làm ăn lớn. Vợ chồng Hóa Chiêu hoàn toàn tin tưởng, hớn hở nhận lời ngay.
Việc buôn bán phất lên nhanh, nhưng Hiếu Sắc vẫn cương quyết không bao giờ nhận chia lãi, nại lý do để giúp vợ chồng bạn.
Một lần, Hiếu Sắc bàn với Hóa Chiêu phải đi buôn một chuyến lớn ở Hàng Châu xa xôi và thuê thuyền xong, cả hai cùng lên đường. Ròng rã cả tháng trời thuyền mới đến Hàng Châu vào một đêm trăng thanh gió mát. Hai người đem rượu ra mũi thuyền đối ẩm tâm sự Hoá Chiêu, tình thật, ngâm một câu thơ, lại ngậm một chén rượu ; Hiếu Sắc thì cứ làm động tác giả, hắt rượu qua vai. Quá nửa đêm, Hoá Chiêu rụng, người mềm nhũn. Lúc bấy giờđám gia nhân dưới thuyền cũng đã ngủ saỵ Hiếu Sắc lôi Hóa Chiêu, xô xuống sông. Đôi ba lần Hoá Chiêu ngoai ngóp trồi đầu lên, Hiếu Sắc lại dùng sào dìm xuống cho đến khi mặt nước không còn sủi bọt nữa.
Không cần phải buôn bán chi, Hiếu Sắc cho thuyền quay về Tề Hàng ngay. Mẹ Hoá Chiêu và Tiểu Nga đau lòng với nỗi bất hạnh, nhưng vần cảm kích Hiếu Sắc đã bỏ cả chuyến hàng lớn để vội vàng trở về báo hung tin.
Rồi sau đó, đều đều, Hiếu Sắc lui tới thăm viếng và cấp dưỡng cho mẹ Hoá Chiêu và cô vợ góa trẻ. Và lần nào nước mắt phú hộ hào phóng cũng đầm đìa.
Người đời càng nể trọng hơn khi thấy Hiếu Sắc ân cần chăm sóc mẹ của Hoá Chiêu chu đáo hơn vợ bạn, khiến mẹ già cũng có phần đăm chiêu.
Ba năm sau, mãn tang. Hiếu Sắc cho người đến thưa chuyện với mẹ Hóa Chiêu xin cưới Tiểu Nga lam vợ. Bà mẹ đã đăm chiêu nhiều, nên thuận tình ngay, khuyên nhủ con dâu nên bước thêm bước nữa.
Lương Tiểu Nga vốn là gái hiền thục, vẫn còn thương yêu người chồng vắn số, nhưng vẫn phải vâng lời mẹ chồng, tái giá.
Cưới được Lương Tiểu Nga rồi, Hiếu Sắc vẫn một mực chăm sóc mẹ Hoá Chiêu; bà cũng an lòng nghĩ rằng con dâu mình có được bóng mát cho cuộc đời còn lại.
Vợ chồng ăn ở vơi nhau được mười năm, sinh được hai mụn con. Đời sống an nhàn. Một đêm trăng vào hạ, vợ chồng ra ngồi hóng mát bên ao sen. Hiếu Sắc nhấm rượu, và ngấm rượu; Đương lúc đó, có con ếch nhảy lên một lá sen. Tiểu Nga đưa cây sào thọc cho con ếch nhảy đi. Sào thọc xuống thì con ếch lặn, cất sào lên, nó lại trồi lên. Tiểu Nga phải thọc vào con ếch mấy lần nữa, nó mới chịu lặn chìm mất.
Bất giác, Hiếu Sắc buột miệng ngâm:
"Hồi ức thập tam niên tiền sự
Huyên tợ hà mô lục thủy thờị.
Nhớ chuyện mươi ba năm trước đây
Mường tượng ngày nay ếch ngóp ngoai
Nghe lời thơ lạ, Tiểu Nga bảo chồng lập lại để mình họa theo. Hiếu Sắc lè nhè đọc lại rồi cao hứng nói vợ lấy giấy bút cho mình chép lại làm thủ bút. Thôi rồi, kẻ hào hiệp chung chăn gối với mình mười năm nay, thì ra là một kẻ nham hiểm thâm độc.
Không thể để cho Hoá Chiêu chết oan, Tiểu Nga đã nắ lấy vật chứng là hai câu thơ thủ bút của Hiều Sắc, đem đi trình quan.
Bị bắt tra vấn, Hiếu Sắc khai hết sự thật câu chuyện hơn mười ba năm trước, vì đã cuồng si nhan sắc của Lương Tiểu Nga nên đóng trò đạo đức, rồi bày mưu giết chồng đoạt vợ Trát Hiếu Sắc bị xử tội tử hình.
Đúng là sắc bất ba đào dị nịch nhân, nhan sắc đâu phải là sóng lớn mà cũng dìm chết người, hai người chồng đều phải tức tưởi lìa đời.
Sắc đẹp là tội lỗi, nàng đã đến công đường, xin xử tội cái nhan săc nàỵ Nhưng luật pháp có bao giờ lại tử hình một hồng nhan. Có chăng thì lạ gì bỉ sắc tư phong, hồng nhan phải tự mang lấy cái nghiệp chướng đa truân.
Điển Tích Truyện Kiều - Băng Nhân
Sự lòng ngỏ với băng nhân
Tin sương đồn đại, xa gần xôn xao
Băng nhân, người mối lái chuyện cưới hỏi, gả bán, từ một điển tích đời Tấn:
Văn nhân Linh Hồ Sách nằm mơ thấy mình đứng trên băng tuyết nói chuyện với một người lạ nằm dưới băng tuyết. Linh Hồ Sách đem chuyện năm mơ của mình thuật lại cho Sách Thẩm, một người rất giỏi về thuật số. Sách Thẩm giải mộng:
- Băng thượng nhân ngữ băng hạ nhân, tức là dương nói chuyện với âm. Điềm này tất có chuyện mai mối đây. Vậy nếu có ai nhờ tiên sinh se duyên, thì cứ nhận lời. Đến khi băng tan, thì lương duyên thành.
Mấy hôm saụ Linh Hồ Sách đưọc Điền Báo nhờ làm mối lái xin hỏi cưới con gái của Trương Công Vị. Linh Hồ Sách nhận làm mai và được Trương Công Vi đồng ý. Quả đúng, đến mùa xuân, khi băng tan hết thì hôn lễ của Điền Báo với con gái Trương Công Vi được cử hành.
Sự lòng ngỏ với băng nhân
Tin sương đồn đại, xa gần xôn xao
Băng nhân, người mối lái chuyện cưới hỏi, gả bán, từ một điển tích đời Tấn:
Văn nhân Linh Hồ Sách nằm mơ thấy mình đứng trên băng tuyết nói chuyện với một người lạ nằm dưới băng tuyết. Linh Hồ Sách đem chuyện năm mơ của mình thuật lại cho Sách Thẩm, một người rất giỏi về thuật số. Sách Thẩm giải mộng:
- Băng thượng nhân ngữ băng hạ nhân, tức là dương nói chuyện với âm. Điềm này tất có chuyện mai mối đây. Vậy nếu có ai nhờ tiên sinh se duyên, thì cứ nhận lời. Đến khi băng tan, thì lương duyên thành.
Mấy hôm saụ Linh Hồ Sách đưọc Điền Báo nhờ làm mối lái xin hỏi cưới con gái của Trương Công Vị. Linh Hồ Sách nhận làm mai và được Trương Công Vi đồng ý. Quả đúng, đến mùa xuân, khi băng tan hết thì hôn lễ của Điền Báo với con gái Trương Công Vi được cử hành.
Điển Tích Truyện Kiều - Bảy Chữ, Tám Nghề
Này con thuộc lấy làm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời
Khi khóe hạnh, lúc nét ngài
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa
Điều là nghệ - nghiệp trong nhà
Đủ ngần ấy nết mới là làng chơi
Theo truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc): Tú bà hỏi Kiều: Tiếp khách thế nào mới lưu được khách?. Kiều trả lời: ngủ với ngươì ta chớ gì?; Tú bà giẫy nẫy: con này mới ngu làm sao! Nếu con gái nhà thổ cũng như con gái nhà lương gia thì ai buồn chơi. Nghề chơi ở trong còn lắm điều hay, khi khách lên giường, thì mày nhường khách nằm trong, mày nằm ngoài, ngoảnh mặt lại chầu khách; tay khách tất sờ vào mình mày, mày phải sờ hạ thể khách..
Bảy chữ vành ngoaì là:
1. Khốc: khóc lóc giả bộ thương yêu, khách quyến luyến không rời được
2. Tiễn: cắt tóc mày và tóc khách, se vào nhau; mỗi người buộc vào cánh tay như thề nguyện kết tóc se tơ.
3. Thích: khi đã thỏa thê tình dục rồi, lấy kim chích tên của khách lên cánh tay hay đùi mày, lấy mực xoa vàọ Khách sẽ trút hết tiền vì nghĩ rằng mày đã chết mê chết mệt nó, mới xăm tên nó lên thân thể mày như vậỵ Khách sau đến, trông thấy ắt phải nghĩ rằng: không biết người đi trước đãi mày thế nào mà mày yêu đến thế. Tất nhiên sau đó sẽ hậu đãi mày để được lòng mày, yêu hơn người trước. Nhân thể phải biết chau mày, nói: khách đi trước đã tiêu phí không biết bao nhiêu tiền mới được lạc thú tuyệt đỉnh, do đó mới xăm tên, nay muốn được thích thú hơn, tất nhiên phải quăng tiền cho mày.
4. Thiêu: là khổ nhục kế, hai đứa đều chích máu trong người ra để thề, phỏng gặp thằng ngu, mày cùng nó đốt huơng thề, như thế thì nó táng gia bại sản cũng đáng đời.
5. Giá: dùng mẹo để lừa, cứ như mong được làm vợ, suốt ngày chỉ nói chuyện mơ ươc về nhà chồng và các điều thề thốt. Hễ nó đã mê, tự nhiên bỏ của ra; tiền đã hết rồi, nó muốn cưới, mày giả đau không dậy, thế thì chẳng phải đợi mày đuổi, nó tự động cũng cút xéo.
6. Tẩu: khách chơi đã hết của, mày phải đuổi nó ra khỏi cửạ Nếu nó vẫn đeo, thì vờ hẹn nó đến một nơi nào đó, rồi nắm áo lại, dọa sẽ tri hô lên cho quan đến bắt kẻ lưu manh có ý cưỡng bức màỵ Tự khắc nó phải bỏ mày.
7. Tử: dẫu biết nó có vợ có hầu, mày vẫn thế thốt sống chết nếu không được sống chung thì tự vẫn; vậy nó có tiêu pha hết của cho mày thì cũng phải.
Bảy chữ mới chỉ là mánh khóe bên ngoài để dụ dỗ khách. Còn khi hành lạc, thì vành trong phải đủ tám nghề:
1. Với khách có hạ thân nhỏ thì dùng phép "đánh trống giục hoa" (kích cổ thôi hoa).
2. Với khách có hạ thân lớn thì dùng phép "sen vàng khóa xiết" (kim liên song tỏa).
3. Nếu khách hối hả, lụp chụp thì dùng phép "mở cờ đánh trống" (đại chiến kỳ cổ)
4. Nếu khách khoan thai thìdùng phép "đánh chậm gõ sẽ" (mạn đả khinh sao)
5. Với người mới "vỡ lòng "thì dùng phép "ba bậc đổi thế" (khẩn thuyên tam trật).
6. Gặp khách sành sỏi thì dùng phép "tỏa tâm truy hồn"
7. Gặp khách tay ngang tì dùng phép "tả chi hữu chì"
8. Đối với khách đam mê nhan sắc thì dùng phép "dềnh dàng hớp vía" (nhiếp thần phiến tỏa).
Này con thuộc lấy làm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời
Khi khóe hạnh, lúc nét ngài
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa
Điều là nghệ - nghiệp trong nhà
Đủ ngần ấy nết mới là làng chơi
Theo truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc): Tú bà hỏi Kiều: Tiếp khách thế nào mới lưu được khách?. Kiều trả lời: ngủ với ngươì ta chớ gì?; Tú bà giẫy nẫy: con này mới ngu làm sao! Nếu con gái nhà thổ cũng như con gái nhà lương gia thì ai buồn chơi. Nghề chơi ở trong còn lắm điều hay, khi khách lên giường, thì mày nhường khách nằm trong, mày nằm ngoài, ngoảnh mặt lại chầu khách; tay khách tất sờ vào mình mày, mày phải sờ hạ thể khách..
Bảy chữ vành ngoaì là:
1. Khốc: khóc lóc giả bộ thương yêu, khách quyến luyến không rời được
2. Tiễn: cắt tóc mày và tóc khách, se vào nhau; mỗi người buộc vào cánh tay như thề nguyện kết tóc se tơ.
3. Thích: khi đã thỏa thê tình dục rồi, lấy kim chích tên của khách lên cánh tay hay đùi mày, lấy mực xoa vàọ Khách sẽ trút hết tiền vì nghĩ rằng mày đã chết mê chết mệt nó, mới xăm tên nó lên thân thể mày như vậỵ Khách sau đến, trông thấy ắt phải nghĩ rằng: không biết người đi trước đãi mày thế nào mà mày yêu đến thế. Tất nhiên sau đó sẽ hậu đãi mày để được lòng mày, yêu hơn người trước. Nhân thể phải biết chau mày, nói: khách đi trước đã tiêu phí không biết bao nhiêu tiền mới được lạc thú tuyệt đỉnh, do đó mới xăm tên, nay muốn được thích thú hơn, tất nhiên phải quăng tiền cho mày.
4. Thiêu: là khổ nhục kế, hai đứa đều chích máu trong người ra để thề, phỏng gặp thằng ngu, mày cùng nó đốt huơng thề, như thế thì nó táng gia bại sản cũng đáng đời.
5. Giá: dùng mẹo để lừa, cứ như mong được làm vợ, suốt ngày chỉ nói chuyện mơ ươc về nhà chồng và các điều thề thốt. Hễ nó đã mê, tự nhiên bỏ của ra; tiền đã hết rồi, nó muốn cưới, mày giả đau không dậy, thế thì chẳng phải đợi mày đuổi, nó tự động cũng cút xéo.
6. Tẩu: khách chơi đã hết của, mày phải đuổi nó ra khỏi cửạ Nếu nó vẫn đeo, thì vờ hẹn nó đến một nơi nào đó, rồi nắm áo lại, dọa sẽ tri hô lên cho quan đến bắt kẻ lưu manh có ý cưỡng bức màỵ Tự khắc nó phải bỏ mày.
7. Tử: dẫu biết nó có vợ có hầu, mày vẫn thế thốt sống chết nếu không được sống chung thì tự vẫn; vậy nó có tiêu pha hết của cho mày thì cũng phải.
Bảy chữ mới chỉ là mánh khóe bên ngoài để dụ dỗ khách. Còn khi hành lạc, thì vành trong phải đủ tám nghề:
1. Với khách có hạ thân nhỏ thì dùng phép "đánh trống giục hoa" (kích cổ thôi hoa).
2. Với khách có hạ thân lớn thì dùng phép "sen vàng khóa xiết" (kim liên song tỏa).
3. Nếu khách hối hả, lụp chụp thì dùng phép "mở cờ đánh trống" (đại chiến kỳ cổ)
4. Nếu khách khoan thai thìdùng phép "đánh chậm gõ sẽ" (mạn đả khinh sao)
5. Với người mới "vỡ lòng "thì dùng phép "ba bậc đổi thế" (khẩn thuyên tam trật).
6. Gặp khách sành sỏi thì dùng phép "tỏa tâm truy hồn"
7. Gặp khách tay ngang tì dùng phép "tả chi hữu chì"
8. Đối với khách đam mê nhan sắc thì dùng phép "dềnh dàng hớp vía" (nhiếp thần phiến tỏa).
Điển Tích Truyện Kiều - Bể Dâu
Mở đầu Truyện Kiều:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Bể dâu là biển cả và bãi dâu, dịch nghĩa từ câu Thương hải tang điền, nói về những biến động đổi thay trong vũ trụ, trong đời sống con người.
Nhân sanh bách tuế chi kỳ. đời sống con người hữu hạn trăm năm, Nguyễn Đu đã diễn ra thơ nôm:
Trăm năm trong cõi người ta.
Trong Thần tiên truyện có viết: tam thập niên vi nhất, thương hải biến vi tang điền nghĩa là cứ ba mươi năm một lần vũ trụ lại chuyển hóa, biển cả hóa thành nương dâu, nương dâu hóa thành biển cả. Chu kỳ 30 năm một lần. biển cả còn biến thàn h ruộng đất huống chi con người chỉ là hạt bụi trong vũ trụ của tạo hóa, thì sự chuyển dịch từ cõi này qua cõi khác, vận này qua vận kia là chuyện bình thường, sông có khúc, người có lúc.
Mở đầu Truyện Kiều:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Bể dâu là biển cả và bãi dâu, dịch nghĩa từ câu Thương hải tang điền, nói về những biến động đổi thay trong vũ trụ, trong đời sống con người.
Nhân sanh bách tuế chi kỳ. đời sống con người hữu hạn trăm năm, Nguyễn Đu đã diễn ra thơ nôm:
Trăm năm trong cõi người ta.
Trong Thần tiên truyện có viết: tam thập niên vi nhất, thương hải biến vi tang điền nghĩa là cứ ba mươi năm một lần vũ trụ lại chuyển hóa, biển cả hóa thành nương dâu, nương dâu hóa thành biển cả. Chu kỳ 30 năm một lần. biển cả còn biến thàn h ruộng đất huống chi con người chỉ là hạt bụi trong vũ trụ của tạo hóa, thì sự chuyển dịch từ cõi này qua cõi khác, vận này qua vận kia là chuyện bình thường, sông có khúc, người có lúc.
Điển Tích Truyện Kiều - Bố Kinh
Đã cho vào bậc Bố kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu
Bố kinh là hai chữ thu ngắn, Bố quần là chiếc quần bằng vải, kinh thoa là cái trâm cài đầu bằng gaị Bố kinh lấy từ chuyện Lương Hồng Mạnh Quang trong sách Di Uyển của Trung Quốc:
Lương Hồng là một hàn sĩ ơ Giang Nam, nhà nghèo xơ xác, hiếu học, trọng đạo đức nhân nghĩạ Nhiều người rất cảm phục nhân cách của chàng, trong đó có một phú hộ thật tâm muốn tìm cách giúp đỡ. Lần đầu tiên tìm đến gặp Lương Hồng, phú hộ muốn tặng chàng hai gói chè quí ngọn hái từ đỉnh núi Vũ Di. Lương Hồng nhẹ nhàng thưa:
- Nếu có gì cần dạy bảo xin ngài vui lòng chỉ giáo, còn lễ vật ngài cho tôi xin được phép từ chối.
Phú hộ đành cầm lễ vật ra về, trong lòng nghĩ hay là chàng nho sĩ kia vì nghĩ phận mình nghèo hèn không dám giao tiếp với người giàu sang như ta. Nghĩ vậy nên ít ngày sau, phú hộ lại tìm đến, chân đi giày cỏ, cẩn thận buộc ngưa từ ngoài xa. Trong lều tranh, Lương Hồng vẫn mải mê đọc sách; phú hộ kiên nhẫn chắp tay đứng đợi ngoài sân. Sau mấy canh giờ, Lương Hồng chợt gấp sách, nhìn ra ngoài, trông thấy vị khách đang đứng chờ. Chàng cung kính mời vào. Lần này phú hộ chỉ xin tặng một gói trà ngang, nhưng bên trong lại có mấy nén vàng, gọi là chút tiền độ nhật cho hàn sĩ. Lương Hồng nhất mực từ chối:
- Nếu ngài có ý coi trọng kẻ hèn nay thìhãy cư xử nhau bằng tình nghĩa; xin bảo trọng tình nghĩa trong sáng này, đừng để lễ vật làm hoen ố đi.
Phú hộ lại phải đem lễ vật về và vẫn không nghĩ ra cách gì để giúp đỡ con ngươì liêm khiết này. Và không những chỉ có phú hộ này, nhiều danh gia khác cũng nghe tiếng thơm Lương Hồng, muốn muốn đem gả ái nữ chọ Trong số này, có nhà họ Mạnh, giòng dõi nho gia, giàu có mấy đời, có tiểu thư Mạnh Quang, sắc nước khuynh thành, vương tôn công tử gần xa đều ngấp nghé. Nhà họ Mạnh chủ động muốn nhận Lương Hồng làm rể. Lương Hồng cũng nghe tiếng gia đình họMạnh tuy giàu có, nhưng nổi tiếng mấy đời lương thiện, nên bằng lòng kết nghĩa trăm năm với nàng Mạnh Quang.
Ngày hợp hôn, Mạnh Quang muốn làm đẹp lòng chồng, trang điểm má phấn tô son, xiêm y lộng lẫy, vàng ngọc sáng ngờị Nào ngờ, trông thấy tân nương rực rỡ như vậy, tân lang lại tiu nghỉu, suốt bảy ngày đêm ủ ê không buồn động phòng hoa chúc. Thoạt đầu, Mạnh Quang đã quá lo âu, không hiểu mình đã lời ăn tiếng nói như thế nào để chàng phải phật ý; cuối cùng thì nàng cũng nghĩ ra và đã vất bỏ hết các xiêm y, trang sức sặc sỡ đó, mà chỉ mặc quần áo vải và đầu cài thoa gai đến bên chồng. Đến đây, Lương Hồng mơi bật lên mừng rỡ, ôm chầm lấy tân nương:
- Đây mới thật là vợ của Lương Hồng. Trong phú quý', giàu sang, thường người ta không giữ được nhân nghĩạ Ta chỉ muốn sống trong thanh bần, tự mình cày ruộng mà ăn, dệt vải mà mặc, cuộc sống đạm bạc nhưng vợ chồng luôn có nhau, tương kính nhau.
Người đời sau lấy chữ Bố kinh trong điển tích này để nói đến các bà vợ hiền thục.
Trong truyện Kiều, khi giai nhân vượt thành lễ giáo tìm đến thư phòng Kim Trọng trong đêm. Đã có lúc, chàng Kim ra chiều lả lơị Kiều khoan nhặt ..
Thưa rằng: đừng lấy làm chơi
Giả chưa hết một lời đã nao
Vẻ chi một đóa yêu đào
Buồng hồng chi dám ngăn rào chim xanh
Đã cho vào bậc Bố Kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu
Ra tuồng trên bộc trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi.
Đã cho vào bậc Bố kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu
Bố kinh là hai chữ thu ngắn, Bố quần là chiếc quần bằng vải, kinh thoa là cái trâm cài đầu bằng gaị Bố kinh lấy từ chuyện Lương Hồng Mạnh Quang trong sách Di Uyển của Trung Quốc:
Lương Hồng là một hàn sĩ ơ Giang Nam, nhà nghèo xơ xác, hiếu học, trọng đạo đức nhân nghĩạ Nhiều người rất cảm phục nhân cách của chàng, trong đó có một phú hộ thật tâm muốn tìm cách giúp đỡ. Lần đầu tiên tìm đến gặp Lương Hồng, phú hộ muốn tặng chàng hai gói chè quí ngọn hái từ đỉnh núi Vũ Di. Lương Hồng nhẹ nhàng thưa:
- Nếu có gì cần dạy bảo xin ngài vui lòng chỉ giáo, còn lễ vật ngài cho tôi xin được phép từ chối.
Phú hộ đành cầm lễ vật ra về, trong lòng nghĩ hay là chàng nho sĩ kia vì nghĩ phận mình nghèo hèn không dám giao tiếp với người giàu sang như ta. Nghĩ vậy nên ít ngày sau, phú hộ lại tìm đến, chân đi giày cỏ, cẩn thận buộc ngưa từ ngoài xa. Trong lều tranh, Lương Hồng vẫn mải mê đọc sách; phú hộ kiên nhẫn chắp tay đứng đợi ngoài sân. Sau mấy canh giờ, Lương Hồng chợt gấp sách, nhìn ra ngoài, trông thấy vị khách đang đứng chờ. Chàng cung kính mời vào. Lần này phú hộ chỉ xin tặng một gói trà ngang, nhưng bên trong lại có mấy nén vàng, gọi là chút tiền độ nhật cho hàn sĩ. Lương Hồng nhất mực từ chối:
- Nếu ngài có ý coi trọng kẻ hèn nay thìhãy cư xử nhau bằng tình nghĩa; xin bảo trọng tình nghĩa trong sáng này, đừng để lễ vật làm hoen ố đi.
Phú hộ lại phải đem lễ vật về và vẫn không nghĩ ra cách gì để giúp đỡ con ngươì liêm khiết này. Và không những chỉ có phú hộ này, nhiều danh gia khác cũng nghe tiếng thơm Lương Hồng, muốn muốn đem gả ái nữ chọ Trong số này, có nhà họ Mạnh, giòng dõi nho gia, giàu có mấy đời, có tiểu thư Mạnh Quang, sắc nước khuynh thành, vương tôn công tử gần xa đều ngấp nghé. Nhà họ Mạnh chủ động muốn nhận Lương Hồng làm rể. Lương Hồng cũng nghe tiếng gia đình họMạnh tuy giàu có, nhưng nổi tiếng mấy đời lương thiện, nên bằng lòng kết nghĩa trăm năm với nàng Mạnh Quang.
Ngày hợp hôn, Mạnh Quang muốn làm đẹp lòng chồng, trang điểm má phấn tô son, xiêm y lộng lẫy, vàng ngọc sáng ngờị Nào ngờ, trông thấy tân nương rực rỡ như vậy, tân lang lại tiu nghỉu, suốt bảy ngày đêm ủ ê không buồn động phòng hoa chúc. Thoạt đầu, Mạnh Quang đã quá lo âu, không hiểu mình đã lời ăn tiếng nói như thế nào để chàng phải phật ý; cuối cùng thì nàng cũng nghĩ ra và đã vất bỏ hết các xiêm y, trang sức sặc sỡ đó, mà chỉ mặc quần áo vải và đầu cài thoa gai đến bên chồng. Đến đây, Lương Hồng mơi bật lên mừng rỡ, ôm chầm lấy tân nương:
- Đây mới thật là vợ của Lương Hồng. Trong phú quý', giàu sang, thường người ta không giữ được nhân nghĩạ Ta chỉ muốn sống trong thanh bần, tự mình cày ruộng mà ăn, dệt vải mà mặc, cuộc sống đạm bạc nhưng vợ chồng luôn có nhau, tương kính nhau.
Người đời sau lấy chữ Bố kinh trong điển tích này để nói đến các bà vợ hiền thục.
Trong truyện Kiều, khi giai nhân vượt thành lễ giáo tìm đến thư phòng Kim Trọng trong đêm. Đã có lúc, chàng Kim ra chiều lả lơị Kiều khoan nhặt ..
Thưa rằng: đừng lấy làm chơi
Giả chưa hết một lời đã nao
Vẻ chi một đóa yêu đào
Buồng hồng chi dám ngăn rào chim xanh
Đã cho vào bậc Bố Kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu
Ra tuồng trên bộc trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi.
Điển Tích Truyện Kiều - Chàng Tiêu
Có điều chi nữa mà ngờ
Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu
Hững hờ chàng Tiêu chuyện được ghi trong sách Tình sử Trung Quốc:
Thời Khai Nguyên nhà Đường, có chàng Tú tài Thôi Giao, văn tài trác tuyệt, nhưng thế cô, nhà lại nghèo xơ xác nên khó bề lập thân. Tuy vậy chàng Tú vẫn thiết tha yêu đời vì có người yêu Lục Châu, một dung nhan kiều diễm đang tuổi trăng tròn, giỏi thi phú, đàn ca xướng hát.
Gia cảnh Lục Châu cũng vào thuộc loại bần hàn, nên nàng phải làm thị tỳ cho người cô của Thôi Giao. Cũng là một cơ may để cho đôi lứa có nơi chốn mà tình tự. Bà cô cũng có ý muốn tác hợp cho hai trẻ, nên cô gắng buôn bán vài chuyến lớn kiếm lãi, tổ chức hôn lễ đàng hoàng và cho đôi tân hôn chút của hồi môn.
Chẳng may, chuyến buôn này rồi chuyến buôn khác cứ bị lỗ lã nặng. Gia sản bà sa sút quá nhanh chóng, rồi sinh nợ chồng chất. Đường cùng, để khỏi bị con nợ tịch biên nhà cửạ bà cô phải bán Lục Châu cho quan Liên súy Vũ Địch, giá bốn mươi vạn tiền.
Vậy là từ đó, đôi uyên ương như chim cụt cánh, như cây cụt cành.
Quan Vũ Địch đưa nàng Lục Châu vào dinh nhưng vẫn không làm điêù chi sỗ sàng quá đáng. Còn chàng Thôi Giao thì lang thang thất thểu đó đây, tự đặt tên cho mình là Tiêu Lang. Nhưng dù có nghêu ngao ở đâu, sáng nào chàng ta cũng đứng ngấp nghé ngoài cổng dinh phủ, mong được nhìn thấy người yêu. Nhưng mỗi lần may mắn gặp mặt, Tiêu Lang lại phải nén lòng, quay mặt đi nơi khác, làm ra vẻ hờ hững. Lục Châu cũng bị xé nát tâm cang, cắn răng cúi đầu, lẫm lũi bỏ đi. Giọt châu lã chã khôn cầm.
Một hôm, vào tiết hàn thực trời rét như cắt, Lục Châu có việc ra ngoài, phải mặc đến hai áo bông; nàng chợt trông thấy Tiêu Lang đứng dưới gốc liễu rũ, thân thể gầy gò run rẩy trong trong chiếc áo rách mỏng manh. Không cầm lòng được, nàng chạy đến ôm chầm lấy chàng. Thôi thì tha hồ mà khóc, kể lễ nỗi nhớ thương. Lâm ly lắm rồi cũng phải ngậm ngùi chia tay. Lục Châu choàng áo bông ôm ấp hơi ấm cho chàng. Thôi Giao cỡi chiếc áo rách lổ chổ, viết lên đó mấy câu thơ tặng nàng:
"Công tử vương tôn trực hậu trần
Lục Châu thúy lệ thấu la cân
Hầu môn nhất nhập thâm như hải
Tòng thử Tiêu Lang thị lộ nhân"
Ngô Tất Tố dịch:
Theo chân bao kẻ ngộp mùi hương
Tầm tã khăn the lệ mấy hàng
Một tới cửa hầu sâu tợ biển
Chàng Tiêu từ đó khách qua đường.
Lục Châu ôm thơ về, đêm đêm gối đầu chờ mộng.
Trong phủ Liên Súy Vũ Địch có một tên hầu, ngày trước đã từng rắp' tâm bắn sẻ Lục Châu, nhưng đâu được toại nguyên, nên sinh thù ghét. Gặp dịp may đưa đến, hắn trộm chép bài thơ, dán gần cửa thư phòng Vũ Địch. Quan đọc được thơ, tra hỏi kẻ hầu người hạ, biết được tác giả là Tiêu Lang Thôi Giao. Vũ Địch cho lính truy tìm, đưa được Thôi Giao vào phủ đường. Tiêu Lang nghĩ rằng mạng sống sắp tiêu tùng, nhưng dù có được chết vì tình, cũng không khỏi run sợ. Nhưng khi tiếp kiến Vũ Địch, quan không bắt quì chịu tội, mà lại chỉ ghế mời ngồi. Quan bước lại gần, cầm lấy tay Tiêu Lang, cười độ lượng:
- Một tới cửa hầu sầu tợ biển, Chàng Tiêu từ đó khách qua đường. Hai câu thơ này hẳn làcủa Tiêu Lang rồi. Từ lâu ta vẫn nghe danh Tú tài Thôi Giao tài hoa. Nhưng chỉ vì tội nghèo mà không tiến thân được, lại không giữ được người yêu. Sá gì bốn mươi vạn tiền mà ta phải làm tan nát một mối tình.
Vũ Địch cho người hầu chuẩn bị một số tiền bạc, nữ trang và một cổ xe ngưa, rồi cho mời Lục Châu:
- Nay ta ban tặng cho người con gái thủy chung chút vốn liếng và lễ vật. Nàng hãy lên xe cùng với Thôi Giao, về quê cũ xây tổ ấm.
Có điều chi nữa mà ngờ
Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu
Hững hờ chàng Tiêu chuyện được ghi trong sách Tình sử Trung Quốc:
Thời Khai Nguyên nhà Đường, có chàng Tú tài Thôi Giao, văn tài trác tuyệt, nhưng thế cô, nhà lại nghèo xơ xác nên khó bề lập thân. Tuy vậy chàng Tú vẫn thiết tha yêu đời vì có người yêu Lục Châu, một dung nhan kiều diễm đang tuổi trăng tròn, giỏi thi phú, đàn ca xướng hát.
Gia cảnh Lục Châu cũng vào thuộc loại bần hàn, nên nàng phải làm thị tỳ cho người cô của Thôi Giao. Cũng là một cơ may để cho đôi lứa có nơi chốn mà tình tự. Bà cô cũng có ý muốn tác hợp cho hai trẻ, nên cô gắng buôn bán vài chuyến lớn kiếm lãi, tổ chức hôn lễ đàng hoàng và cho đôi tân hôn chút của hồi môn.
Chẳng may, chuyến buôn này rồi chuyến buôn khác cứ bị lỗ lã nặng. Gia sản bà sa sút quá nhanh chóng, rồi sinh nợ chồng chất. Đường cùng, để khỏi bị con nợ tịch biên nhà cửạ bà cô phải bán Lục Châu cho quan Liên súy Vũ Địch, giá bốn mươi vạn tiền.
Vậy là từ đó, đôi uyên ương như chim cụt cánh, như cây cụt cành.
Quan Vũ Địch đưa nàng Lục Châu vào dinh nhưng vẫn không làm điêù chi sỗ sàng quá đáng. Còn chàng Thôi Giao thì lang thang thất thểu đó đây, tự đặt tên cho mình là Tiêu Lang. Nhưng dù có nghêu ngao ở đâu, sáng nào chàng ta cũng đứng ngấp nghé ngoài cổng dinh phủ, mong được nhìn thấy người yêu. Nhưng mỗi lần may mắn gặp mặt, Tiêu Lang lại phải nén lòng, quay mặt đi nơi khác, làm ra vẻ hờ hững. Lục Châu cũng bị xé nát tâm cang, cắn răng cúi đầu, lẫm lũi bỏ đi. Giọt châu lã chã khôn cầm.
Một hôm, vào tiết hàn thực trời rét như cắt, Lục Châu có việc ra ngoài, phải mặc đến hai áo bông; nàng chợt trông thấy Tiêu Lang đứng dưới gốc liễu rũ, thân thể gầy gò run rẩy trong trong chiếc áo rách mỏng manh. Không cầm lòng được, nàng chạy đến ôm chầm lấy chàng. Thôi thì tha hồ mà khóc, kể lễ nỗi nhớ thương. Lâm ly lắm rồi cũng phải ngậm ngùi chia tay. Lục Châu choàng áo bông ôm ấp hơi ấm cho chàng. Thôi Giao cỡi chiếc áo rách lổ chổ, viết lên đó mấy câu thơ tặng nàng:
"Công tử vương tôn trực hậu trần
Lục Châu thúy lệ thấu la cân
Hầu môn nhất nhập thâm như hải
Tòng thử Tiêu Lang thị lộ nhân"
Ngô Tất Tố dịch:
Theo chân bao kẻ ngộp mùi hương
Tầm tã khăn the lệ mấy hàng
Một tới cửa hầu sâu tợ biển
Chàng Tiêu từ đó khách qua đường.
Lục Châu ôm thơ về, đêm đêm gối đầu chờ mộng.
Trong phủ Liên Súy Vũ Địch có một tên hầu, ngày trước đã từng rắp' tâm bắn sẻ Lục Châu, nhưng đâu được toại nguyên, nên sinh thù ghét. Gặp dịp may đưa đến, hắn trộm chép bài thơ, dán gần cửa thư phòng Vũ Địch. Quan đọc được thơ, tra hỏi kẻ hầu người hạ, biết được tác giả là Tiêu Lang Thôi Giao. Vũ Địch cho lính truy tìm, đưa được Thôi Giao vào phủ đường. Tiêu Lang nghĩ rằng mạng sống sắp tiêu tùng, nhưng dù có được chết vì tình, cũng không khỏi run sợ. Nhưng khi tiếp kiến Vũ Địch, quan không bắt quì chịu tội, mà lại chỉ ghế mời ngồi. Quan bước lại gần, cầm lấy tay Tiêu Lang, cười độ lượng:
- Một tới cửa hầu sầu tợ biển, Chàng Tiêu từ đó khách qua đường. Hai câu thơ này hẳn làcủa Tiêu Lang rồi. Từ lâu ta vẫn nghe danh Tú tài Thôi Giao tài hoa. Nhưng chỉ vì tội nghèo mà không tiến thân được, lại không giữ được người yêu. Sá gì bốn mươi vạn tiền mà ta phải làm tan nát một mối tình.
Vũ Địch cho người hầu chuẩn bị một số tiền bạc, nữ trang và một cổ xe ngưa, rồi cho mời Lục Châu:
- Nay ta ban tặng cho người con gái thủy chung chút vốn liếng và lễ vật. Nàng hãy lên xe cùng với Thôi Giao, về quê cũ xây tổ ấm.
Điển Tích Truyện Kiều - Đỉnh Giáp Non Thần
Bâng khuâng đỉnh Giáp, non Thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
*Đỉnh Giáp là núi Vu Giáp
*non Thần là núi Thần Châu.
Thời Chiến quốc, một hôm vua Sở Tương Vương cùng Tống Ngọc đến vãng cảnh vùng Cao Đường, ở đó có đầm Vân Mộng dưới chân núi Vu Giáp. Nhà vua nhìn lên lưng núi thấy mây ngùn ngụt luôn thay đổi hình dạng, lúc dồn dập dày đặc, khi tan loãng như mây trời. Nhà vua hỏi Tống Ngọc:
- Khí gì vậy?
Tống Ngọc thưa:
- Tâu Chúa công, đó là mây sớm. Ngày trước , tiên đế một hôm đến chơi Cao Đường, giữa ban ngày ngủ quên. Tiên đế nằm mơ thấy một người con gái tuyệt sắc, xưng là thần núi Vu Giáp, rồi bày cuộc ái ân với tiên đế. Đến khi từ biệt, nàng nói: "Thiếp' ở trên núi Vu Giáp, nơi cao sơn, sớm làm mây, tối làm mưa; sớm ở Vu Sơn, tối ở Dương đài.
Từ điển tích này, người đời sau, giao hoan giữa gái trai còn nói là vu sơn, hay chuyện "mây mưa".
Bâng khuâng đỉnh Giáp, non Thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
*Đỉnh Giáp là núi Vu Giáp
*non Thần là núi Thần Châu.
Thời Chiến quốc, một hôm vua Sở Tương Vương cùng Tống Ngọc đến vãng cảnh vùng Cao Đường, ở đó có đầm Vân Mộng dưới chân núi Vu Giáp. Nhà vua nhìn lên lưng núi thấy mây ngùn ngụt luôn thay đổi hình dạng, lúc dồn dập dày đặc, khi tan loãng như mây trời. Nhà vua hỏi Tống Ngọc:
- Khí gì vậy?
Tống Ngọc thưa:
- Tâu Chúa công, đó là mây sớm. Ngày trước , tiên đế một hôm đến chơi Cao Đường, giữa ban ngày ngủ quên. Tiên đế nằm mơ thấy một người con gái tuyệt sắc, xưng là thần núi Vu Giáp, rồi bày cuộc ái ân với tiên đế. Đến khi từ biệt, nàng nói: "Thiếp' ở trên núi Vu Giáp, nơi cao sơn, sớm làm mây, tối làm mưa; sớm ở Vu Sơn, tối ở Dương đài.
Từ điển tích này, người đời sau, giao hoan giữa gái trai còn nói là vu sơn, hay chuyện "mây mưa".
Điển Tích Truyện Kiều - Đoạn Trường
"Làm cho sống đọa thác đày
Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi
Đoạn trường nghĩa là đứt từng khúc ruột. Khi chịu sự đau khổ cùng cực, nỗi đau có thể làm cho người đứt từng khúc ruột hay có thể lìa đời.
Sách "Đường thi kỷ sự" đã chép chuyện nàng Mạnh Tài Nhân của vua Đường Vũ Tông:
Khi lâm chung. biết mình không qua khỏi, Đường Vũ Tông nắm chặt tay Mạnh Tài Nhân mà rằng:
- Ta chết đi cũng đành, nhưng thương cho người rồi sẽ ra sao..
Mạnh Tài Nhân nấc từng tiếng, chỉ vào chiếc túi vải đựng ống sáo:
- Thần thiếp xin lấy chiếc túi đó để tự vẫn, theo cùng quân vương.
Vũ Tông bật khóc. Mạnh Tài Nhân thưa:
- Xin bệ hạ hãy nghe thiếp ca bài Cung từ của Trương Hộ để tiễn đưa thiêp cùng bệ hạ xa lìa cõi đời này.
Tiếng hát cất lên cao vút, cao vút nghe quá i ai, đến hết bài thì nàng đứt hơi, đứng bất động trước vua. Nhà vua gọi ngự y khám và được tâu lại: Mạch của tài nhân vẫn còn ấm, nhưng nàng đã đứt ruột mà chết rồi.
Vua thương xót quá đỗi và rồi cũng theo nàng đi luôn.
Đến khi di quan, thì linh cữu nhà vua như trì xuống quá nặng, đội quân khiêng không nhắc lên nỗị Hay là Hoàng thượng còn muốn đợi tài nhân? các quan bèn sai đưa quan tài của Mạnh Tài Nhân rạ Quả nhiên, quan tài của hai người được khiêng đi rất đằm.
Cảm kích cho mối tình thắm thiết Trương Hộ viết bài thơ, đề tựa: "Tài nhân vì lòng thanh nên đứt ruột mà chết, nhà vua vì lòng thành mà mệnh chung; những kẻ khích liệt ngày trước vì nghĩa mà chết cũng không hơn được."
Thơ rằng:
"Ngẫu nhiên ca bãi vịnh kiều tần
Truyền xướng cung trung nhị thập xuân
Khước vị nhất thanh Hà Mãn Tử
Hạ tuyền tu điếu cựu Tài nhân
Ngẫu nhiên tàn tiệc vịnh đôi vần
Truyền tới trong cung hai chục xuân
Lại bởi một câu Hà Mãn Tử
Tuyền đài phái điếu bậc Tài nhân
"Làm cho sống đọa thác đày
Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi
Đoạn trường nghĩa là đứt từng khúc ruột. Khi chịu sự đau khổ cùng cực, nỗi đau có thể làm cho người đứt từng khúc ruột hay có thể lìa đời.
Sách "Đường thi kỷ sự" đã chép chuyện nàng Mạnh Tài Nhân của vua Đường Vũ Tông:
Khi lâm chung. biết mình không qua khỏi, Đường Vũ Tông nắm chặt tay Mạnh Tài Nhân mà rằng:
- Ta chết đi cũng đành, nhưng thương cho người rồi sẽ ra sao..
Mạnh Tài Nhân nấc từng tiếng, chỉ vào chiếc túi vải đựng ống sáo:
- Thần thiếp xin lấy chiếc túi đó để tự vẫn, theo cùng quân vương.
Vũ Tông bật khóc. Mạnh Tài Nhân thưa:
- Xin bệ hạ hãy nghe thiếp ca bài Cung từ của Trương Hộ để tiễn đưa thiêp cùng bệ hạ xa lìa cõi đời này.
Tiếng hát cất lên cao vút, cao vút nghe quá i ai, đến hết bài thì nàng đứt hơi, đứng bất động trước vua. Nhà vua gọi ngự y khám và được tâu lại: Mạch của tài nhân vẫn còn ấm, nhưng nàng đã đứt ruột mà chết rồi.
Vua thương xót quá đỗi và rồi cũng theo nàng đi luôn.
Đến khi di quan, thì linh cữu nhà vua như trì xuống quá nặng, đội quân khiêng không nhắc lên nỗị Hay là Hoàng thượng còn muốn đợi tài nhân? các quan bèn sai đưa quan tài của Mạnh Tài Nhân rạ Quả nhiên, quan tài của hai người được khiêng đi rất đằm.
Cảm kích cho mối tình thắm thiết Trương Hộ viết bài thơ, đề tựa: "Tài nhân vì lòng thanh nên đứt ruột mà chết, nhà vua vì lòng thành mà mệnh chung; những kẻ khích liệt ngày trước vì nghĩa mà chết cũng không hơn được."
Thơ rằng:
"Ngẫu nhiên ca bãi vịnh kiều tần
Truyền xướng cung trung nhị thập xuân
Khước vị nhất thanh Hà Mãn Tử
Hạ tuyền tu điếu cựu Tài nhân
Ngẫu nhiên tàn tiệc vịnh đôi vần
Truyền tới trong cung hai chục xuân
Lại bởi một câu Hà Mãn Tử
Tuyền đài phái điếu bậc Tài nhân
Điển Tích Truyện Kiều - Gieo Thoi
Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,
Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
Gieo thoi, ý muốn nói người con gái ném con thoi của khung dệt để bảo toàn tiết hạnh.
Trong tích Tây Sương ký cũng có lời nàng Thôi Oanh Oanh "gợi ý" cho Trương Quân Thụy vì có tình ý cùng chàng:
"Quân tử hữu viện cầm chi khiêu, bỉ nhân vô đầu thoa chi cự
quân tử có ôm đàn mà bỡn cợt, bỉ nhân này không dám quăng thoi mà cự tuyệt
Theo chuyện đời nhà Tấn, Tạ Côn có cô hàng xóm họ Cao nhan sắc khó ai bì, chuyên nghề dệt cửi. Tạ Côn thường hay tìm qua nhà cô gái thả lời ong bướm. Có lần, cô gái ngưng dệt, cầm con thoi ném vào mặt Tạ Côn, làm chàng ta gãy mất hai cái răng. Từ đó hết lời trêu ghẹo.
Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,
Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
Gieo thoi, ý muốn nói người con gái ném con thoi của khung dệt để bảo toàn tiết hạnh.
Trong tích Tây Sương ký cũng có lời nàng Thôi Oanh Oanh "gợi ý" cho Trương Quân Thụy vì có tình ý cùng chàng:
"Quân tử hữu viện cầm chi khiêu, bỉ nhân vô đầu thoa chi cự
quân tử có ôm đàn mà bỡn cợt, bỉ nhân này không dám quăng thoi mà cự tuyệt
Theo chuyện đời nhà Tấn, Tạ Côn có cô hàng xóm họ Cao nhan sắc khó ai bì, chuyên nghề dệt cửi. Tạ Côn thường hay tìm qua nhà cô gái thả lời ong bướm. Có lần, cô gái ngưng dệt, cầm con thoi ném vào mặt Tạ Côn, làm chàng ta gãy mất hai cái răng. Từ đó hết lời trêu ghẹo.
Điển Tích Truyện Kiều - Giọt Hồng
Nhìn càng lã chã giọt hồng
Rỉ tai, nàng mới giãi bày trước sau:
Hổ sinh ra phận thơ đào
Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?
Trong sách thuốc có viết: Nhân hữu vựng uất, hốt hôn mê bất tỉnh nhân sự (người có chứng vựng uất thường hay bị ngất).
Giọt hồng, giọt nước mắt có màu hồng như máu, người đời còn gọi là huyết lệ khóc cho nổi đau khổ cùng cực trong những hòan cảnh khốn cùng. Điển tích Giọt hồng có trong trong Ngụy Thư:
Đời vua Ngụy Văn Đế có vị quan Tiết Hằng tuổi già về quê ở huyện Lộc Nam cùng với vợ và con gái Tiết Linh Vân. Linh Vân đang tuổi trăng tròn, nổi tiếng là một trang thiên hương quốc sắc, học giỏi, lại rất hiếu thảọ Hai năm sau khi Tiết Hằng về quê, trong vùng Lộc Nam nạn cướp bóc hoành hành, giáp biên giới giặc giã lại nổi lên. Triều đình sai Trương Bá Sanh, một vị quan trẻ kiêu ngạo, tham lam, về dẹp loạn. Tình hình tạm yên; Bá Sanh được bổ nhiệm làm tri huyện Lộc Nam.
Nghe tiếng nhan sắc Linh Vân, quan huyện mon men tìm đến. Khi trở về, tức tốc huyện ta cho người mai mối. Cha con Linh Vân từ chối. Bá Sanh sinh thù. Nhân lúc giặc giã lại nổi lên, Bá Sanh lập mưu vu cáo lão quan về hưu tư thông giặc rồi sai nha quân đến nhà bắt Tiết Hằng dẫn lên huyện đường, giam vào ngục, nói là chờ ngày xét xử nhưng thật ra để ép duyên Linh Vân. Linh Vân quá đau đớn vì nỗi hàm oan của cha, đánh liều gởi thư về triều kêu oan. Làm sao thư đến được tay vua. Linh Vân lại thư cầu cứu đến vị quan thứ sử họ Huỳnh, là một người bạn cũ của cha nàng. Huỳnh Thứ sử vào chầu vua xin chiếu chỉ, phái Mạnh Quang, một viện sĩ Hàn Lâm giỏi văn chương thi phú, về huyện Lộc Nam tuần tra.
Hai tháng về Lộc Nam thanh tra, hồ sơ kêu oan của người dân đã chất cao ngất, vậy mà hàn sĩ Mạnh Quang không hề ngó ngàng tới. Suốt này quan thanh tra chỉ thơ thới với gió núi mây ngàn, chẳng buồn quan tâm đến chuyện thế sự.
Một hôm Mạnh Quang lang thang xuống đường. Phố chợ sao mà đìu hiu, dân tình xơ xác. Mạnh Quang ghé vào một quán nước chè, bỗng gặp một giai nhân, áo quần xốc xếch, không chút phấn son, đang ngồi khóc tấm tức. Mạnh Quang hỏi dò bà lão chủ quán, mới hay người đẹp là Tiết Linh Vân đang khóc cho nỗi oan khiên của cha. Bấy giờ Mạnh Quang mới chợt nhớ nhiệm vụ của mình là về đây giải oan cho gia đình người con gái hiếu thảo này.
Mạnh Quang đi thẳng đến huyện đường Lộc Nam, vào nhà tù thăm các phạm nhân. Mạnh Quang đòi quan huyện Trương Bá Sanh trình những hồ sơ của các phạm nhân có quan hệ với giặc. Xét xong hồ sơ, Mạnh Quang chỉ thị phóng thích hết các tù nhân loại này vì không đủ chứng cứ buộc tội.
Huyện quan chấp hành lệnh quan triều đình. Ít hôm sau, Mạnh Quang lại xuống chợ, ghé lại quán nước chè của bà lão, lại vẫn thấy nàng Tiết Linh Vân ngồi khóc tức tưởi. Hỏi ra mới hay, nhiều tù nhân đã được về đoàn tụ gia đình, nhưng phụ thân của nàng bị hàm oan, vẫn chưa được cứu xét. Mạnh Quang hộc tốc quay về nha phủ gặp quan huyện:
- Ta được chiếu chỉ về huyện Lộc Nam này xét lại các vụ án kêu oan. Nay, ta muốn thẩm tra hồ sơ của Tiết Hằng, người bị kết tôi tư thông với giặc.
Thì ra, Bá Quang đã dấu nhẹm hồ sơ của Tiết lão. Bây giờ quan khâm sai của triều đình đã gọi đích danh thì phải trình rạ Bá Quang đem hồ sơ về, ngày sau trả lại cho Bá Sanh với lời phê: không nhân chứng, không vật chứng sao lại kết tội người ta, lệnh phải tức tốc phóng thích nghi can.. Bá Sanh hận vô cùng, nhưng đành cắn răng chấp lệnh của quan khâm sai.
Hai ngày sau, Bá Quang tìm đến thăm gia đình Tiết Hằng. Một già một trẻ, mới gặp nhau lần đầu mà đã tâm đắc, văn chương thi phú đối đáp đến sáng đêm. Tiết Hằng ngỏ ý muốn gả con gái mình cho Bá Quang. Quan khâm sai hân hoan nhận lời. Bá Qung cáo từ phải về kinh trình tấu kết luận thanh tra và xin hẹn tháng sau sẽ trở lại lam lễ thành hôn cùng Tiết Linh Vân.
Phần quan huyện Bá Sanh, vì oán thù cha con Tiết Hằng, nay lại được tin tình địch của mình là Bá Quang sắp ẵm nàng Tiết Linh Vân đi, đâu được, ta phải cho chúng bây tan tác. Trương Bá Sanh liền thư về triều đình, dâng lên vua, xin đề cử tiế'n cung một nhan sắc tuyệt trần chim sa cá lặn. Vua Ngụy Văn Đế thích ý, liền ra chỉ dụ, triệu Tiết Linh Vân nhập cung.
Ôi thôi, lại một kiếp hồng nhan. Ngày phải bước lên kiêu về cung, Tiết Linh Vân đã khóc như mưa, nước mắt uớt cả xiêm y. Lòng quặn đau thương cha . nhớ mẹ, nặng tình quê hương. Hai tì nữ theo hầu, phải dùng một bình sứ để hứng nước mắt cho nàng. Khi về đến kinh thành, bình sứ đã đầy quá nửa nước mắt hồng, cô đặc lại như máu, gọi là huyết lệ.
Nhìn càng lã chã giọt hồng
Rỉ tai, nàng mới giãi bày trước sau:
Hổ sinh ra phận thơ đào
Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?
Trong sách thuốc có viết: Nhân hữu vựng uất, hốt hôn mê bất tỉnh nhân sự (người có chứng vựng uất thường hay bị ngất).
Giọt hồng, giọt nước mắt có màu hồng như máu, người đời còn gọi là huyết lệ khóc cho nổi đau khổ cùng cực trong những hòan cảnh khốn cùng. Điển tích Giọt hồng có trong trong Ngụy Thư:
Đời vua Ngụy Văn Đế có vị quan Tiết Hằng tuổi già về quê ở huyện Lộc Nam cùng với vợ và con gái Tiết Linh Vân. Linh Vân đang tuổi trăng tròn, nổi tiếng là một trang thiên hương quốc sắc, học giỏi, lại rất hiếu thảọ Hai năm sau khi Tiết Hằng về quê, trong vùng Lộc Nam nạn cướp bóc hoành hành, giáp biên giới giặc giã lại nổi lên. Triều đình sai Trương Bá Sanh, một vị quan trẻ kiêu ngạo, tham lam, về dẹp loạn. Tình hình tạm yên; Bá Sanh được bổ nhiệm làm tri huyện Lộc Nam.
Nghe tiếng nhan sắc Linh Vân, quan huyện mon men tìm đến. Khi trở về, tức tốc huyện ta cho người mai mối. Cha con Linh Vân từ chối. Bá Sanh sinh thù. Nhân lúc giặc giã lại nổi lên, Bá Sanh lập mưu vu cáo lão quan về hưu tư thông giặc rồi sai nha quân đến nhà bắt Tiết Hằng dẫn lên huyện đường, giam vào ngục, nói là chờ ngày xét xử nhưng thật ra để ép duyên Linh Vân. Linh Vân quá đau đớn vì nỗi hàm oan của cha, đánh liều gởi thư về triều kêu oan. Làm sao thư đến được tay vua. Linh Vân lại thư cầu cứu đến vị quan thứ sử họ Huỳnh, là một người bạn cũ của cha nàng. Huỳnh Thứ sử vào chầu vua xin chiếu chỉ, phái Mạnh Quang, một viện sĩ Hàn Lâm giỏi văn chương thi phú, về huyện Lộc Nam tuần tra.
Hai tháng về Lộc Nam thanh tra, hồ sơ kêu oan của người dân đã chất cao ngất, vậy mà hàn sĩ Mạnh Quang không hề ngó ngàng tới. Suốt này quan thanh tra chỉ thơ thới với gió núi mây ngàn, chẳng buồn quan tâm đến chuyện thế sự.
Một hôm Mạnh Quang lang thang xuống đường. Phố chợ sao mà đìu hiu, dân tình xơ xác. Mạnh Quang ghé vào một quán nước chè, bỗng gặp một giai nhân, áo quần xốc xếch, không chút phấn son, đang ngồi khóc tấm tức. Mạnh Quang hỏi dò bà lão chủ quán, mới hay người đẹp là Tiết Linh Vân đang khóc cho nỗi oan khiên của cha. Bấy giờ Mạnh Quang mới chợt nhớ nhiệm vụ của mình là về đây giải oan cho gia đình người con gái hiếu thảo này.
Mạnh Quang đi thẳng đến huyện đường Lộc Nam, vào nhà tù thăm các phạm nhân. Mạnh Quang đòi quan huyện Trương Bá Sanh trình những hồ sơ của các phạm nhân có quan hệ với giặc. Xét xong hồ sơ, Mạnh Quang chỉ thị phóng thích hết các tù nhân loại này vì không đủ chứng cứ buộc tội.
Huyện quan chấp hành lệnh quan triều đình. Ít hôm sau, Mạnh Quang lại xuống chợ, ghé lại quán nước chè của bà lão, lại vẫn thấy nàng Tiết Linh Vân ngồi khóc tức tưởi. Hỏi ra mới hay, nhiều tù nhân đã được về đoàn tụ gia đình, nhưng phụ thân của nàng bị hàm oan, vẫn chưa được cứu xét. Mạnh Quang hộc tốc quay về nha phủ gặp quan huyện:
- Ta được chiếu chỉ về huyện Lộc Nam này xét lại các vụ án kêu oan. Nay, ta muốn thẩm tra hồ sơ của Tiết Hằng, người bị kết tôi tư thông với giặc.
Thì ra, Bá Quang đã dấu nhẹm hồ sơ của Tiết lão. Bây giờ quan khâm sai của triều đình đã gọi đích danh thì phải trình rạ Bá Quang đem hồ sơ về, ngày sau trả lại cho Bá Sanh với lời phê: không nhân chứng, không vật chứng sao lại kết tội người ta, lệnh phải tức tốc phóng thích nghi can.. Bá Sanh hận vô cùng, nhưng đành cắn răng chấp lệnh của quan khâm sai.
Hai ngày sau, Bá Quang tìm đến thăm gia đình Tiết Hằng. Một già một trẻ, mới gặp nhau lần đầu mà đã tâm đắc, văn chương thi phú đối đáp đến sáng đêm. Tiết Hằng ngỏ ý muốn gả con gái mình cho Bá Quang. Quan khâm sai hân hoan nhận lời. Bá Qung cáo từ phải về kinh trình tấu kết luận thanh tra và xin hẹn tháng sau sẽ trở lại lam lễ thành hôn cùng Tiết Linh Vân.
Phần quan huyện Bá Sanh, vì oán thù cha con Tiết Hằng, nay lại được tin tình địch của mình là Bá Quang sắp ẵm nàng Tiết Linh Vân đi, đâu được, ta phải cho chúng bây tan tác. Trương Bá Sanh liền thư về triều đình, dâng lên vua, xin đề cử tiế'n cung một nhan sắc tuyệt trần chim sa cá lặn. Vua Ngụy Văn Đế thích ý, liền ra chỉ dụ, triệu Tiết Linh Vân nhập cung.
Ôi thôi, lại một kiếp hồng nhan. Ngày phải bước lên kiêu về cung, Tiết Linh Vân đã khóc như mưa, nước mắt uớt cả xiêm y. Lòng quặn đau thương cha . nhớ mẹ, nặng tình quê hương. Hai tì nữ theo hầu, phải dùng một bình sứ để hứng nước mắt cho nàng. Khi về đến kinh thành, bình sứ đã đầy quá nửa nước mắt hồng, cô đặc lại như máu, gọi là huyết lệ.
Điển Tích Truyện Kiều - Gương Vỡ Lại Lành
Bây giờ gương vỡ lại lành,
Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi
Còn duyên may lại còn người
Còn lời trăng bạc, còn lời nguyền xưa
Quả mai ba bảy đương vừa
Đào non sớm lựa xe tơ kịp thì
Thời Nam Bắc triều, Trần Hậu Chủ là một hôn quân, ham mê tửu sắc, không màng chi việc triều chính. Trong lúc đó, nước Tùy ở phương Bắc đang trổi dậy, thanh thế lớn nhanh; Từ Văn Đế Dương Kiên ngấp' nghé mưu toan diệt Trần.
Em gái Trần Hậu Chủ là quận chúa Lạc Xương, một giai nhân tuyệt sắc, có chồng là nho sĩ Từ Đức Ngôn. Tuy sống trong phú quí hoàng cung, nhưng vợ chồng Từ Đức Ngôn cứ phập phồng lo sợ, một ngày nào đó ngoại xâm sẽ giày xéo giang sơn nhà Trần.
Ngày đó không xa, quân Tùy đã tràn vào như thác lũ. Đức Ngôn vội vàng thu quén ít tiền bạc, định đưa cả gia đình bỏ trốn khỏi kinh thành. Nhưng Lạc Xương đã ngăn lại:
- Chàng là bậc nam nhi, gặp lúc loạn ly, phải xả thân cứu quốc. Thiếp sẽ luôn ở bên chàng, thà chết vinh hơn là sống nhục.
- Đúng, ta phải ở lại góp sức diệt giặc. Nhưng nàng, một nhan sắc không khỏi bị nhục khi giặc tràn vàọ Vây nàng hãy vâng lời ta, một mình trốn đi.
Lạc Xương thuận theo lời chồng, rồi cầm lấy chiếc gương hàng ngày mình vẫn soi bóng, đập vỡ làm đôi:
- Chàng hãy cầm lấy nửa mảnh gương này, thiếp giữ một nửa. Nước sẽ mất, nhà sẽ tan, nhưng tình đôi ta không có gì có thể chia cắt được. Chúng mình phải sống cho nhau; hẹn chàng, đến ngày thượng nguyên, không được năm nay, thì qua năm khác, qua năm nữa..., vợ chồng mình đem mảnh gương này ra chợ Tràng An bán. Nếu trời thương cho vợchồng mình còn gặp nhau, thì hai mảnh gương sẽ đuợc ghép khít vào , gương vỡ lại lành, đôi ta sum vầy.
Vợ chồng bùi ngùi chia tay.
Chưa đầy một tháng, kinh thành nước Trần thất thủ, vua tôi lưu lạc tán loạn. Tướng Tùy là Việt Công xua quân, tha hồ càn quét. Lạc Xương, từ ngày chia tay chồng đã chạy thoát gần đến biên giới an toàn, nhưng vì lo âu cho chồng, nên lại quay trở về kinh thanh dò la tin tức, không may lọt vào vòng vây của giặc. Một nhan sắc giữa rừng gươm, hỏi ra lại là dòng dõi trâm anh thế phiệt, thì làm sao Việt Công lại không rúng động. Tên tướng Tùy liền giành lấy cánh hoa này, đem về ép làm hầu thiếp. Lạc Xương kháng cự mãnh liệt, hoặc là giữ được tiết hạnh hoặc chọn lấy cái chết. Cũng may, Việt Công không phải là tên võ biền háo sắc, hạ tiện nên đã không cố ép liễu nài hoa. Nghĩ rằng rồi thời gian, giai nhân sẽ xiêu lòng nên cho nàng cấm cung, có đàn cung nữ hầu hạ, canh giữ ngày đêm.
Rồi xuân đến, lơi hẹn hò Tết nguyên tiêu hãy tìm đến nhau, nhưng giờ này đôi uyên ương lưu lạc nơi nào. Phần nàng, bị vây trùng trong cung cấm, làm sao đem mảnh gương tìm ra chợ đây?.
Phần Từ Đức Ngôn, từ khi kinh thanh thất thủ, bôn ba chạy đi khắp nơi; kịp lúc xuân về, chàng hồi hộp đem mảnh gương vỡ ra chợ, giả vờ bán.
Trong cung cấm. Lạc Xương may mắn đã thuyết phục được một nàng hầu, nên đúng ngày rằm tháng giêng nàng đã nhờ hầu nữ này cầm mảnh gương ra chợ Tràng An tìm Đức Ngôn. Đến chợ, hầu nữ thấy đám đông đang đứng vây quanh một anh chàng, trêu chọc thằng điên đang đòi bán một tấm gương vỡ với giá ngàn vàng.
Biết là gặp đươc người đang tìm, cô hầu đưa ngay nửa mảnh gương cho thằng điên. Hai mảnh gương ghép khít vào nhau, Từ Đức Ngôn bật khóc như đứa trẻ. Chàng hôn hít tấm gương rồi viết vào mặt sau, bài thơ gởi người tình:
Ảnh dữ nhân câu khứ
Ảnh qui nhân vị qui
Vô phục hằng nga ảnh
Không lưu minh nguyệt huỵ
Theo người gương vỡ mắt sâu
Gương đà về đó, nhưng đâu thấy nàng
Chị Hằng cũng quạnh tâm cang
Vầng trăng sầu muộn úa vàng năm canh.
Nàng hầu lật bật đem gương về. Lạc Xương đọc được thơ, ôm lấy hai mảnh gương vào lòng mà khóc tức tưởi. Việt Công tình cờ đi vào, trông thấy, gạn hỏi sự tình. Lạc Xương phải tình thật, kể lại hết chuyện tình của mình. Nghe xong chuyện, Việt Công giả vờ nghiêm giọng thét to:
- Gương đã vỡ..
Lạc Xương hoảng hốt:
- Nhưng...
Sắc diện của Việt Công bỗng hiền hòa, đôn hậu:
- Nhưng ..giờ nay lại lành. Ta cảm phục mối tình của hai ngườị Dù lòng dạ lang sói cũng phải động lòng...
Rồi Việt Công sai quân hầu lập tức chạy ra chợ rước Từ Đức Ngôn vào thành, đãi đằng trọng thể, trao trả hạnh phú c cho tình yêu.
Bây giờ gương vỡ lại lành,
Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi
Còn duyên may lại còn người
Còn lời trăng bạc, còn lời nguyền xưa
Quả mai ba bảy đương vừa
Đào non sớm lựa xe tơ kịp thì
Thời Nam Bắc triều, Trần Hậu Chủ là một hôn quân, ham mê tửu sắc, không màng chi việc triều chính. Trong lúc đó, nước Tùy ở phương Bắc đang trổi dậy, thanh thế lớn nhanh; Từ Văn Đế Dương Kiên ngấp' nghé mưu toan diệt Trần.
Em gái Trần Hậu Chủ là quận chúa Lạc Xương, một giai nhân tuyệt sắc, có chồng là nho sĩ Từ Đức Ngôn. Tuy sống trong phú quí hoàng cung, nhưng vợ chồng Từ Đức Ngôn cứ phập phồng lo sợ, một ngày nào đó ngoại xâm sẽ giày xéo giang sơn nhà Trần.
Ngày đó không xa, quân Tùy đã tràn vào như thác lũ. Đức Ngôn vội vàng thu quén ít tiền bạc, định đưa cả gia đình bỏ trốn khỏi kinh thành. Nhưng Lạc Xương đã ngăn lại:
- Chàng là bậc nam nhi, gặp lúc loạn ly, phải xả thân cứu quốc. Thiếp sẽ luôn ở bên chàng, thà chết vinh hơn là sống nhục.
- Đúng, ta phải ở lại góp sức diệt giặc. Nhưng nàng, một nhan sắc không khỏi bị nhục khi giặc tràn vàọ Vây nàng hãy vâng lời ta, một mình trốn đi.
Lạc Xương thuận theo lời chồng, rồi cầm lấy chiếc gương hàng ngày mình vẫn soi bóng, đập vỡ làm đôi:
- Chàng hãy cầm lấy nửa mảnh gương này, thiếp giữ một nửa. Nước sẽ mất, nhà sẽ tan, nhưng tình đôi ta không có gì có thể chia cắt được. Chúng mình phải sống cho nhau; hẹn chàng, đến ngày thượng nguyên, không được năm nay, thì qua năm khác, qua năm nữa..., vợ chồng mình đem mảnh gương này ra chợ Tràng An bán. Nếu trời thương cho vợchồng mình còn gặp nhau, thì hai mảnh gương sẽ đuợc ghép khít vào , gương vỡ lại lành, đôi ta sum vầy.
Vợ chồng bùi ngùi chia tay.
Chưa đầy một tháng, kinh thành nước Trần thất thủ, vua tôi lưu lạc tán loạn. Tướng Tùy là Việt Công xua quân, tha hồ càn quét. Lạc Xương, từ ngày chia tay chồng đã chạy thoát gần đến biên giới an toàn, nhưng vì lo âu cho chồng, nên lại quay trở về kinh thanh dò la tin tức, không may lọt vào vòng vây của giặc. Một nhan sắc giữa rừng gươm, hỏi ra lại là dòng dõi trâm anh thế phiệt, thì làm sao Việt Công lại không rúng động. Tên tướng Tùy liền giành lấy cánh hoa này, đem về ép làm hầu thiếp. Lạc Xương kháng cự mãnh liệt, hoặc là giữ được tiết hạnh hoặc chọn lấy cái chết. Cũng may, Việt Công không phải là tên võ biền háo sắc, hạ tiện nên đã không cố ép liễu nài hoa. Nghĩ rằng rồi thời gian, giai nhân sẽ xiêu lòng nên cho nàng cấm cung, có đàn cung nữ hầu hạ, canh giữ ngày đêm.
Rồi xuân đến, lơi hẹn hò Tết nguyên tiêu hãy tìm đến nhau, nhưng giờ này đôi uyên ương lưu lạc nơi nào. Phần nàng, bị vây trùng trong cung cấm, làm sao đem mảnh gương tìm ra chợ đây?.
Phần Từ Đức Ngôn, từ khi kinh thanh thất thủ, bôn ba chạy đi khắp nơi; kịp lúc xuân về, chàng hồi hộp đem mảnh gương vỡ ra chợ, giả vờ bán.
Trong cung cấm. Lạc Xương may mắn đã thuyết phục được một nàng hầu, nên đúng ngày rằm tháng giêng nàng đã nhờ hầu nữ này cầm mảnh gương ra chợ Tràng An tìm Đức Ngôn. Đến chợ, hầu nữ thấy đám đông đang đứng vây quanh một anh chàng, trêu chọc thằng điên đang đòi bán một tấm gương vỡ với giá ngàn vàng.
Biết là gặp đươc người đang tìm, cô hầu đưa ngay nửa mảnh gương cho thằng điên. Hai mảnh gương ghép khít vào nhau, Từ Đức Ngôn bật khóc như đứa trẻ. Chàng hôn hít tấm gương rồi viết vào mặt sau, bài thơ gởi người tình:
Ảnh dữ nhân câu khứ
Ảnh qui nhân vị qui
Vô phục hằng nga ảnh
Không lưu minh nguyệt huỵ
Theo người gương vỡ mắt sâu
Gương đà về đó, nhưng đâu thấy nàng
Chị Hằng cũng quạnh tâm cang
Vầng trăng sầu muộn úa vàng năm canh.
Nàng hầu lật bật đem gương về. Lạc Xương đọc được thơ, ôm lấy hai mảnh gương vào lòng mà khóc tức tưởi. Việt Công tình cờ đi vào, trông thấy, gạn hỏi sự tình. Lạc Xương phải tình thật, kể lại hết chuyện tình của mình. Nghe xong chuyện, Việt Công giả vờ nghiêm giọng thét to:
- Gương đã vỡ..
Lạc Xương hoảng hốt:
- Nhưng...
Sắc diện của Việt Công bỗng hiền hòa, đôn hậu:
- Nhưng ..giờ nay lại lành. Ta cảm phục mối tình của hai ngườị Dù lòng dạ lang sói cũng phải động lòng...
Rồi Việt Công sai quân hầu lập tức chạy ra chợ rước Từ Đức Ngôn vào thành, đãi đằng trọng thể, trao trả hạnh phú c cho tình yêu.
Điển Tích Truyện Kiều - Hoa Tàn Mà Lại Thêm Tươi
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tà mà lại hơn mười rằm xưa
Hoa tàn mà lại thêm tươi điển tích trong sách Tam ngôn truyện.
Thời Tống Nhân Tông có chàng Thu Tiên uyên bác, nhưng không màng công danh, sống ẩn nhẫn cùng hoa thơm cỏ lạ.
Vợ mất sớm, không có con, từa tự được mấy mẫu đất, chàng không canh tác màu, mà chỉ trồng hoa. Cơm không đủ ăn, áo không có mặc, được đồng nào chàng dành để mua những giống hoa quí. Vườn hoa của Thu Tiên đẹp nổi tiếng ở đất Giang Nam.
Bấy giờ trong thành Bình Giang có tên Trương Ủy ngang tàng, độc ác, chẳng coi ai ra gì. Một hôm hắn ta cùng bọn thủ hạ đi ngang qua nhà của Thu Tiên, nhìn thấy vườn hoa quí bạt ngàn màu sắc rực rỡ. Trương Ủy chẳng cần hỏi han chủ nhân, sai bọn thuộc đạp đổ hàng giậu, xông thẳng vào trong tha hồ bẻ, ngắt hoa. Thu Tiên quá đau lòng, nhưng càng van xin thì tên Trương Ủy và thuộc hạ càng làm tới:
- Mày không biết ta là ai à? Hôm này có ta đây đặt chân đến vườn hoa này là vinh hạnh cho mày đấy. A kìa, loại hoa mẫu đơn kia mới đẹp làm sao. Thật là uổng phí loài hoa quí phải yên phận trên mảnh đất của tên ngốc nghếch này. Khu vườn này phải thuộc về ta.
Nói xong, tên côn đồ lại giang tay bứt hết những cánh hoa mẫu đơn. Vì quá thương yêu hoa, Thu Tiên đã phải chắp tay van xin:
- Xin công tử hãy nương tay, đừng hủy hoại hoa tội nghiệp. Loài mẫu đơn này đơn này tôi đã phải ngày đêm chăm sóc, nâng niu.
Trương Ủy cười ha hả, bóp nghiến cánh hoa trong tay:
- Mày yêu hoa, mày chăm sóc nâng niu. Ta yêu trăng hoa ta thích dày vò tan nát. Vườn hoa này phải là của ta. Ta cho mày ít thời gian để lo cuốn gói đi ở nơi khác. Ta sẽ trở lại đây sau hai ngày nữa, không để tao phải trông thây các mặt thằng yêu hoa ngu si như mày.
Bọn Trương Ủy bỏ đị Thu Tiên nằm vật xuống lăn lộn, người xác xơ còn hơn cả những cánh hoa tơi tả trên đất. Chàng khóc tức tưởi như chàng thư sinh đánh mất mối tình đầu. Bỗng có ai đó khẽ động trên vai. Thu Tiên quay lại; một tiểu thư kiều diễm đang nhìn chàng ngời thương cảm.
- Xin hỏi tiểu thư từ đâu đến đây?
- Thiếp ở cach đây không xa. Nghe chàng khóc thương cho loài hoa, thiếp xin đến đây được chia sẻ nỗi niềm. Hoa đã rơi rụng hết rồi. Nhưng xin chàng chớ quá âu sầu. Chàng đã yêu hoa như thế thì muốn hoa tàn mà lại thêm tươi cũng chẳng khó gì...
Đang lúc buồn bã , người đẹp lại nói chuyện phong thần, Thu Tiên càng rầu rĩ thêm. Tiểu thư biết Thu Tiên không tin, cũng chẳng phân giải; nàng nói Thu Tiên hãy thu nhặt nhữ`ng cánh hoa tàn gom lại, rồi đi gánh nước. Thu Tiên miễn cưỡng làm theo. Khi đôi thùng nước quay lại, thì kỳ diệu thay cả vườn hoa bừng sống lại, nở rộ hương sắc. Người đẹp đã biến mất.
Thu Tiên quá đỗi mừng rỡ, chàng đưa tay nựng từng cánh hoa mà cứ tưởng như trong mợ Nàng ấy chăc hẳn là từ cõi trần tiên về đây ban phép lành cho chàng.
Lòng thành, Thu Tiên thắp nén hương, quỳ xuống van vái:
- Xin tạ ơn tiên nữ giáng trần thương cho kẻ trần gian này....
Lâng lâng với niềm vui dào dạt, chàng nằm xuống giữa hai luống hoa, kê đầu bên một gốc mẫu đơn rồi ngủ thiếp đi giữa áng mây chiều. Chập chùng trong giấc mơ, Thu Tiên thấy mình đang gối đầu trên chân một thiếu nữ; đúng là tiểu thư lúc ban ngày. Nàng cúi xuống thủ thỉ bên tai chàng... thiếp nào đâu phải là tiên nữ, mà chỉ là một kiếp hoa. Cảm ơn chàng đã nâng niu đời hoa. Từ đây thiếp sẽ mãi ở bên chàng. Sẽ không có kẻ phàm phu nào đến quấy nhiễu chàn g nữa. Chàng nặng tình với hoa, thì thiếp mãi bên chàng, mãi bên chàng....
Tiếng noí nhỏ nhỏ dần, nhỏ dần rồi cùng với hình dáng yêu kiều hút vào lòng đất
..Thu Tiên chợt tỉnh giấc mơ hoa; đầu chàng đang kề sát một gốc mẫu đơn, thoang thoảng tỏa hương thơm dìu dặt. Trên cao xa lắc, ánh sao hôm đang lấp lánh.
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tà mà lại hơn mười rằm xưa
Hoa tàn mà lại thêm tươi điển tích trong sách Tam ngôn truyện.
Thời Tống Nhân Tông có chàng Thu Tiên uyên bác, nhưng không màng công danh, sống ẩn nhẫn cùng hoa thơm cỏ lạ.
Vợ mất sớm, không có con, từa tự được mấy mẫu đất, chàng không canh tác màu, mà chỉ trồng hoa. Cơm không đủ ăn, áo không có mặc, được đồng nào chàng dành để mua những giống hoa quí. Vườn hoa của Thu Tiên đẹp nổi tiếng ở đất Giang Nam.
Bấy giờ trong thành Bình Giang có tên Trương Ủy ngang tàng, độc ác, chẳng coi ai ra gì. Một hôm hắn ta cùng bọn thủ hạ đi ngang qua nhà của Thu Tiên, nhìn thấy vườn hoa quí bạt ngàn màu sắc rực rỡ. Trương Ủy chẳng cần hỏi han chủ nhân, sai bọn thuộc đạp đổ hàng giậu, xông thẳng vào trong tha hồ bẻ, ngắt hoa. Thu Tiên quá đau lòng, nhưng càng van xin thì tên Trương Ủy và thuộc hạ càng làm tới:
- Mày không biết ta là ai à? Hôm này có ta đây đặt chân đến vườn hoa này là vinh hạnh cho mày đấy. A kìa, loại hoa mẫu đơn kia mới đẹp làm sao. Thật là uổng phí loài hoa quí phải yên phận trên mảnh đất của tên ngốc nghếch này. Khu vườn này phải thuộc về ta.
Nói xong, tên côn đồ lại giang tay bứt hết những cánh hoa mẫu đơn. Vì quá thương yêu hoa, Thu Tiên đã phải chắp tay van xin:
- Xin công tử hãy nương tay, đừng hủy hoại hoa tội nghiệp. Loài mẫu đơn này đơn này tôi đã phải ngày đêm chăm sóc, nâng niu.
Trương Ủy cười ha hả, bóp nghiến cánh hoa trong tay:
- Mày yêu hoa, mày chăm sóc nâng niu. Ta yêu trăng hoa ta thích dày vò tan nát. Vườn hoa này phải là của ta. Ta cho mày ít thời gian để lo cuốn gói đi ở nơi khác. Ta sẽ trở lại đây sau hai ngày nữa, không để tao phải trông thây các mặt thằng yêu hoa ngu si như mày.
Bọn Trương Ủy bỏ đị Thu Tiên nằm vật xuống lăn lộn, người xác xơ còn hơn cả những cánh hoa tơi tả trên đất. Chàng khóc tức tưởi như chàng thư sinh đánh mất mối tình đầu. Bỗng có ai đó khẽ động trên vai. Thu Tiên quay lại; một tiểu thư kiều diễm đang nhìn chàng ngời thương cảm.
- Xin hỏi tiểu thư từ đâu đến đây?
- Thiếp ở cach đây không xa. Nghe chàng khóc thương cho loài hoa, thiếp xin đến đây được chia sẻ nỗi niềm. Hoa đã rơi rụng hết rồi. Nhưng xin chàng chớ quá âu sầu. Chàng đã yêu hoa như thế thì muốn hoa tàn mà lại thêm tươi cũng chẳng khó gì...
Đang lúc buồn bã , người đẹp lại nói chuyện phong thần, Thu Tiên càng rầu rĩ thêm. Tiểu thư biết Thu Tiên không tin, cũng chẳng phân giải; nàng nói Thu Tiên hãy thu nhặt nhữ`ng cánh hoa tàn gom lại, rồi đi gánh nước. Thu Tiên miễn cưỡng làm theo. Khi đôi thùng nước quay lại, thì kỳ diệu thay cả vườn hoa bừng sống lại, nở rộ hương sắc. Người đẹp đã biến mất.
Thu Tiên quá đỗi mừng rỡ, chàng đưa tay nựng từng cánh hoa mà cứ tưởng như trong mợ Nàng ấy chăc hẳn là từ cõi trần tiên về đây ban phép lành cho chàng.
Lòng thành, Thu Tiên thắp nén hương, quỳ xuống van vái:
- Xin tạ ơn tiên nữ giáng trần thương cho kẻ trần gian này....
Lâng lâng với niềm vui dào dạt, chàng nằm xuống giữa hai luống hoa, kê đầu bên một gốc mẫu đơn rồi ngủ thiếp đi giữa áng mây chiều. Chập chùng trong giấc mơ, Thu Tiên thấy mình đang gối đầu trên chân một thiếu nữ; đúng là tiểu thư lúc ban ngày. Nàng cúi xuống thủ thỉ bên tai chàng... thiếp nào đâu phải là tiên nữ, mà chỉ là một kiếp hoa. Cảm ơn chàng đã nâng niu đời hoa. Từ đây thiếp sẽ mãi ở bên chàng. Sẽ không có kẻ phàm phu nào đến quấy nhiễu chàn g nữa. Chàng nặng tình với hoa, thì thiếp mãi bên chàng, mãi bên chàng....
Tiếng noí nhỏ nhỏ dần, nhỏ dần rồi cùng với hình dáng yêu kiều hút vào lòng đất
..Thu Tiên chợt tỉnh giấc mơ hoa; đầu chàng đang kề sát một gốc mẫu đơn, thoang thoảng tỏa hương thơm dìu dặt. Trên cao xa lắc, ánh sao hôm đang lấp lánh.
Điển Tích Truyện Kiều - Kết Cỏ
Rằng: Tôi bèo bọt chút thân,
Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh
Dám nhờ cốt nhục tử sinh
Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau
"Kết thảo, hàm hoàn" là nói sự đền ơn đáp nghĩa.
Kết thảo - kết cỏ lấy điển tích từ thời Chiến quốc Xuân Thu. Vua Cảnh Nông nước Tấn sai Tuần Lâm Phủ làm đại tướng, Ngụy Khỏa là phó tướng đem quân đánh Lộ, là nước nhỏ. Nước Lộ khồng chống cựnổi, chúa là Anh Nhi bị bắt giải về nước Tấn. Ngụy Khỏa được lệnh ở lại trị vì nước Lộ Cảnh Nông không giết Anh Nhi, nhưng lại đối đãi tử tế, xây một lâu đài riêng cho Anh Hi ở.
Chúa nước Tần là Tần Hoàng Công hay tin Tấn đánh chiếm nước Lộ, bắt Anh Nhi về, cho ở riêng một lâu đài, còn cho Ngụy Khỏa ở lại giữ thành Lộ, đang thu phục nhân tâm, tính việc dài lâụ Hoàng Công lo ngại nếu Tấn thống trị được nước Lộ, dân tình Lô, quy phục nước Tấn thì uy thế nước Tấn sẽ vượt hẳn nước Tần. Hoàng Công vội sai đại tướng Đỗ Hồi đem binh cứu Lộ. Đỗ Hồi là một vị tướng có sức mạnh muôn người, chuyên dùng vũ khí là cái búa lớn năng 120 cân; nước Tần nhờ có Đỗ Hồi mà giữ an được bờ cõi, không nước nào dám dòm ngó cả.
Đỗ Hồi đem quân đến nước Lộ, chỉ một mình một ngưa xông lên phía trước như thế chẻ tre. Ngụy Khỏa không địch nổi phải đóng cửa thành cố thủ, chờ binh cứu viện. Tấn Cảnh Nông tiếp' được thư cầu cứu của Ngụy Khỏa, tức tốc sai tướng Ngụy Ý, là em của Ngụy Khỏa đem binh tiếp viện. Hai cánh quân hợp sức, trong thành đánh ra, viện binh đánh vào những cũng không đẩy lui được quân của Đỗ Hồị Hai anh em lại phải kéo quân vào thành cố thủ.
Đêm đó, Nguỵ Khỏa nằm mơ thấy một lão ông râu tóc bạc phơ đến nói nhỏ vào tai: "Thanh thảo pha, thanh thảo pha...". Ngụy Khỏa giật mình thức giấc, không hiểu giấc mơ là điềm gì, đến hỏi em. Ngụ Ý suy nghĩ hồi lâu chợt nhớ ra:
- Cách đây năm dặm, gần đất Phu Thi có một địa danh tên là Thanh thảo pha. Có lẽ thần linh mách bảo cho anh em chúng ta phải đánh quân Tần tại đó.
Hai anh em đồng ý. Nửa đêm hôm đó, Ngụy Ý lặng lẽ đem quân đến mai phục vùng Thanh Thảo pha. Sáng sớm, Ngụy Khỏa ào ạt kéo quân ra khỏi thành khiêu chiến, rồi bỏ chạy cho quân Đỗ Hồi đuổi theo đến chỗ phục binh. Mặc dù bị rơi vào ổ phục kích, vòng trong, vòng ngoai đều bị vây kín, nhưng Đỗ Hồi vẫn tả xung hữu đột rất dũng mãnh, giết địch vô số kể. Anh em Ngụy Khẩn kinh hãi, toan thu góp tàn quân chạy về thành, thì thấy Đỗ Hồi đang mãnh liệt vung búa, bỗng nhiên người ngựa đều té lăn xuống đất. Con ngựa hí vang, đứng dậy đi ít bước lại ngã xuống. Đỗ Hồi cũng gượng đứng thẳng nhưng rồi cũng lảo đảo quị gốị Quân lính của Ngụy Khỏa, Ngụy Ý hè nhau bắ t trói được dũng tướng của nước Tần. Sau đó Nguỵ Khỏa truyền chém đầu Đỗ Hồi , cho đem thủ cấp về dâng cho Tấn vương và đại tướng Tuần Lâm Vũ.
Đêm đó, Ngụy Khỏa lại nằm mợ thấy lão ông trở lại, nói:
- Lão ông chúc mừng tướng quân thắng trận.
Ngụy Khỏa vòng tay thưa:
- Có phải lão trượng đã giúp anh em ta thắng Đỗ Hồi ở trận Thanh thảo pha không?
- Quả đúng như vậỵ Lão đây đã kết cỏ ở Thanh thảo pha lại, quấn lấy vó ngựa, làm tướng Tần sa chân, người và ngựa không xoay trở được thì phải thúc thủ.
Ngụy Khỏa bái tạ lão ông:
- Mạc tướng này chưa được biết lão trượng, sao lại được giúp' đỡ hết lòng..
Nguỵ Khỏa chưa nói dứt, thi lão ông đã cắt lời:
- Lão phu này là người hàm ơn nặng với tương công. Việc kết cỏ vừa rồi, lão phu chỉ mong đền ơn đáp nghĩa phần nàọ Lão đây chính là cha của Tố Cơ, cảm ơn tướng quân ngày trước đã không chôn sống con gái lão, mà lại cho kết duyên vớ một người xứng đáng. Ơn ấy, dù nay đã ở suối vàng, lão cũng không quên.
Nói xong, hình ảnh ông lão tan biến mất.
Tỉnh giấc, Ngụy Khỏa tìm đến em. Hai anh em hồi tưởng lại dĩ vãng...
Cha Ngụy Khỏa là Ngụy Lê, một tướng tài ba của nhà Tấn, có một hầu thiếp trẻ đẹp là Tố Cơ, nhan sắc mặn mà, nết na đoan chính, thật là một giai nhân quốc sắc. Tướng già, có được hầu thiếp trẻ đẹp, Ngụy Lê vô cùng thương yêu Tố Cợ Sinh thời, lúc còn cầm quân xông pha trận mạc đó đây, Ngụy Lê thường căn dặn con:
- Nếu chẳng may cha có bỏ thân nơi chiến trường, thì con nên tìm nơi tử tế mà gả Tố Cơ, đừng để nàng bơ vơ chếch bóng, làm sao cho nàng được hạnh phúc thì cha mới ngậm cười nơi chín suối.
Nhưng về sau, Ngụy Lê không da ngựa bọc thây ngoài trận địa, mà lại chết già tại gia. Lúc lâm chung, ông lại "trở chứng", dặn dò Ngụy Khỏa:
- Ta sắp ra đi rồị Đến hết đời, cha chỉ có Tố Cơ là người yêu quí nhất. Vậy khi cha chết đi, con hãy chôn nàng theo ta để chim liền cánh, cây liền cành.
Cha chết rồi, Ngụy Khỏa không làm theo lời trăn trốị Ngụy Ý hỏi:
- Sao anh không chôn dì Tố Cơ theo di mệnh của phụ thân?
Ngụy Khỏa đáp:
- Lúc thân phụ còn là một tướng dũng mãnh, đem quân đi chinh phạt đó đây, có dặn nếu có mệnh hệ nào, thìphải tìm nơi tử tế gả chồng cho dì Tố Cơ, để mong nàng an vui hạnh phúc. Lời dặn dò đó là một "chân mệnh". Nhưng bây giờ, trước khi mất, tâm thần mê sảng, ý chí không còn minh mẫn thì di mệnh của thân phụ trong lúc lâm chung là "loạn mệnh", chúng ta phận làm con cho tròn chữ hiếu thì không nên theo những lời đó.
Ba năm sau, khi đã mãn tang cha, Ngụy Khỏa làm chủ hôn, gả dì Tố Cơ cho một nho sĩ danh tiếng; cuộc đời nàng được an nhàn hạnh phúc.
Thân phụ của Tố Cơ, cho đến chết vẫn ghi lòng tạc dạ người cứu mạng con gái mình, nên đã hiển linh hiện hồn về, kết cỏ nơi trận địa Thanh thảo pha để đền ơn đáp nghĩa.
Rằng: Tôi bèo bọt chút thân,
Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh
Dám nhờ cốt nhục tử sinh
Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau
"Kết thảo, hàm hoàn" là nói sự đền ơn đáp nghĩa.
Kết thảo - kết cỏ lấy điển tích từ thời Chiến quốc Xuân Thu. Vua Cảnh Nông nước Tấn sai Tuần Lâm Phủ làm đại tướng, Ngụy Khỏa là phó tướng đem quân đánh Lộ, là nước nhỏ. Nước Lộ khồng chống cựnổi, chúa là Anh Nhi bị bắt giải về nước Tấn. Ngụy Khỏa được lệnh ở lại trị vì nước Lộ Cảnh Nông không giết Anh Nhi, nhưng lại đối đãi tử tế, xây một lâu đài riêng cho Anh Hi ở.
Chúa nước Tần là Tần Hoàng Công hay tin Tấn đánh chiếm nước Lộ, bắt Anh Nhi về, cho ở riêng một lâu đài, còn cho Ngụy Khỏa ở lại giữ thành Lộ, đang thu phục nhân tâm, tính việc dài lâụ Hoàng Công lo ngại nếu Tấn thống trị được nước Lộ, dân tình Lô, quy phục nước Tấn thì uy thế nước Tấn sẽ vượt hẳn nước Tần. Hoàng Công vội sai đại tướng Đỗ Hồi đem binh cứu Lộ. Đỗ Hồi là một vị tướng có sức mạnh muôn người, chuyên dùng vũ khí là cái búa lớn năng 120 cân; nước Tần nhờ có Đỗ Hồi mà giữ an được bờ cõi, không nước nào dám dòm ngó cả.
Đỗ Hồi đem quân đến nước Lộ, chỉ một mình một ngưa xông lên phía trước như thế chẻ tre. Ngụy Khỏa không địch nổi phải đóng cửa thành cố thủ, chờ binh cứu viện. Tấn Cảnh Nông tiếp' được thư cầu cứu của Ngụy Khỏa, tức tốc sai tướng Ngụy Ý, là em của Ngụy Khỏa đem binh tiếp viện. Hai cánh quân hợp sức, trong thành đánh ra, viện binh đánh vào những cũng không đẩy lui được quân của Đỗ Hồị Hai anh em lại phải kéo quân vào thành cố thủ.
Đêm đó, Nguỵ Khỏa nằm mơ thấy một lão ông râu tóc bạc phơ đến nói nhỏ vào tai: "Thanh thảo pha, thanh thảo pha...". Ngụy Khỏa giật mình thức giấc, không hiểu giấc mơ là điềm gì, đến hỏi em. Ngụ Ý suy nghĩ hồi lâu chợt nhớ ra:
- Cách đây năm dặm, gần đất Phu Thi có một địa danh tên là Thanh thảo pha. Có lẽ thần linh mách bảo cho anh em chúng ta phải đánh quân Tần tại đó.
Hai anh em đồng ý. Nửa đêm hôm đó, Ngụy Ý lặng lẽ đem quân đến mai phục vùng Thanh Thảo pha. Sáng sớm, Ngụy Khỏa ào ạt kéo quân ra khỏi thành khiêu chiến, rồi bỏ chạy cho quân Đỗ Hồi đuổi theo đến chỗ phục binh. Mặc dù bị rơi vào ổ phục kích, vòng trong, vòng ngoai đều bị vây kín, nhưng Đỗ Hồi vẫn tả xung hữu đột rất dũng mãnh, giết địch vô số kể. Anh em Ngụy Khẩn kinh hãi, toan thu góp tàn quân chạy về thành, thì thấy Đỗ Hồi đang mãnh liệt vung búa, bỗng nhiên người ngựa đều té lăn xuống đất. Con ngựa hí vang, đứng dậy đi ít bước lại ngã xuống. Đỗ Hồi cũng gượng đứng thẳng nhưng rồi cũng lảo đảo quị gốị Quân lính của Ngụy Khỏa, Ngụy Ý hè nhau bắ t trói được dũng tướng của nước Tần. Sau đó Nguỵ Khỏa truyền chém đầu Đỗ Hồi , cho đem thủ cấp về dâng cho Tấn vương và đại tướng Tuần Lâm Vũ.
Đêm đó, Ngụy Khỏa lại nằm mợ thấy lão ông trở lại, nói:
- Lão ông chúc mừng tướng quân thắng trận.
Ngụy Khỏa vòng tay thưa:
- Có phải lão trượng đã giúp anh em ta thắng Đỗ Hồi ở trận Thanh thảo pha không?
- Quả đúng như vậỵ Lão đây đã kết cỏ ở Thanh thảo pha lại, quấn lấy vó ngựa, làm tướng Tần sa chân, người và ngựa không xoay trở được thì phải thúc thủ.
Ngụy Khỏa bái tạ lão ông:
- Mạc tướng này chưa được biết lão trượng, sao lại được giúp' đỡ hết lòng..
Nguỵ Khỏa chưa nói dứt, thi lão ông đã cắt lời:
- Lão phu này là người hàm ơn nặng với tương công. Việc kết cỏ vừa rồi, lão phu chỉ mong đền ơn đáp nghĩa phần nàọ Lão đây chính là cha của Tố Cơ, cảm ơn tướng quân ngày trước đã không chôn sống con gái lão, mà lại cho kết duyên vớ một người xứng đáng. Ơn ấy, dù nay đã ở suối vàng, lão cũng không quên.
Nói xong, hình ảnh ông lão tan biến mất.
Tỉnh giấc, Ngụy Khỏa tìm đến em. Hai anh em hồi tưởng lại dĩ vãng...
Cha Ngụy Khỏa là Ngụy Lê, một tướng tài ba của nhà Tấn, có một hầu thiếp trẻ đẹp là Tố Cơ, nhan sắc mặn mà, nết na đoan chính, thật là một giai nhân quốc sắc. Tướng già, có được hầu thiếp trẻ đẹp, Ngụy Lê vô cùng thương yêu Tố Cợ Sinh thời, lúc còn cầm quân xông pha trận mạc đó đây, Ngụy Lê thường căn dặn con:
- Nếu chẳng may cha có bỏ thân nơi chiến trường, thì con nên tìm nơi tử tế mà gả Tố Cơ, đừng để nàng bơ vơ chếch bóng, làm sao cho nàng được hạnh phúc thì cha mới ngậm cười nơi chín suối.
Nhưng về sau, Ngụy Lê không da ngựa bọc thây ngoài trận địa, mà lại chết già tại gia. Lúc lâm chung, ông lại "trở chứng", dặn dò Ngụy Khỏa:
- Ta sắp ra đi rồị Đến hết đời, cha chỉ có Tố Cơ là người yêu quí nhất. Vậy khi cha chết đi, con hãy chôn nàng theo ta để chim liền cánh, cây liền cành.
Cha chết rồi, Ngụy Khỏa không làm theo lời trăn trốị Ngụy Ý hỏi:
- Sao anh không chôn dì Tố Cơ theo di mệnh của phụ thân?
Ngụy Khỏa đáp:
- Lúc thân phụ còn là một tướng dũng mãnh, đem quân đi chinh phạt đó đây, có dặn nếu có mệnh hệ nào, thìphải tìm nơi tử tế gả chồng cho dì Tố Cơ, để mong nàng an vui hạnh phúc. Lời dặn dò đó là một "chân mệnh". Nhưng bây giờ, trước khi mất, tâm thần mê sảng, ý chí không còn minh mẫn thì di mệnh của thân phụ trong lúc lâm chung là "loạn mệnh", chúng ta phận làm con cho tròn chữ hiếu thì không nên theo những lời đó.
Ba năm sau, khi đã mãn tang cha, Ngụy Khỏa làm chủ hôn, gả dì Tố Cơ cho một nho sĩ danh tiếng; cuộc đời nàng được an nhàn hạnh phúc.
Thân phụ của Tố Cơ, cho đến chết vẫn ghi lòng tạc dạ người cứu mạng con gái mình, nên đã hiển linh hiện hồn về, kết cỏ nơi trận địa Thanh thảo pha để đền ơn đáp nghĩa.
Điển Tích Truyện Kiều - Khúc Quảng Lăng
Kê Khang này khúc Quảng Lăng
Một rằng Hoa nhạc, hai rằng Qui vân
Kê Khang là một trong nhóm bảy người bạn chí thân người nước Ngụy: Kê Khang, Nguyễn Tịch, Lưu Linh, Nguyễn Đàm, Vương Mậu, Sơn Đào và Hương Tú.
Khi Tư Mã Viêm diệt nhà Ngụy, lập nên nhà Tấn, thì bảy người này không hợp tác với tân triều, bỏ thị thành vào rừng trúc ở, nên người đời gọi là "Trúc lâm thất hiền". Mỗi người đều có cá tính và nét độc đáo riêng của mình, nhưng nổi bật hơn cả là Kê Khang và Nguyễn Tịch.
Sử nhà Tấn viết rằng Kê Khang là một con người phong nhã, giỏi cầm kỳ thi họa; thường đêm ông ngủ ở đình Hoa dương. Một hôm có người khách tự xưng là người xưa, cảm phục tài hoa của Kê Khang, tặng cho chàng khúc Quảng Lăng, nhưng bắt thề là không được truyền lại cho ai. Sau khi Quảng Lăng chết, khúc nhạc ấy xem như mất. May mắn về sau có nàng Ngọc Nữ khi gảy khúc nhật cung, nguyệt cung, đã dẫn khúc Hoa nhạc và Qui vân đúng âm điệu của Khúc Quảng Lăng còn sót lại.
Kê Khang này khúc Quảng Lăng
Một rằng Hoa nhạc, hai rằng Qui vân
Kê Khang là một trong nhóm bảy người bạn chí thân người nước Ngụy: Kê Khang, Nguyễn Tịch, Lưu Linh, Nguyễn Đàm, Vương Mậu, Sơn Đào và Hương Tú.
Khi Tư Mã Viêm diệt nhà Ngụy, lập nên nhà Tấn, thì bảy người này không hợp tác với tân triều, bỏ thị thành vào rừng trúc ở, nên người đời gọi là "Trúc lâm thất hiền". Mỗi người đều có cá tính và nét độc đáo riêng của mình, nhưng nổi bật hơn cả là Kê Khang và Nguyễn Tịch.
Sử nhà Tấn viết rằng Kê Khang là một con người phong nhã, giỏi cầm kỳ thi họa; thường đêm ông ngủ ở đình Hoa dương. Một hôm có người khách tự xưng là người xưa, cảm phục tài hoa của Kê Khang, tặng cho chàng khúc Quảng Lăng, nhưng bắt thề là không được truyền lại cho ai. Sau khi Quảng Lăng chết, khúc nhạc ấy xem như mất. May mắn về sau có nàng Ngọc Nữ khi gảy khúc nhật cung, nguyệt cung, đã dẫn khúc Hoa nhạc và Qui vân đúng âm điệu của Khúc Quảng Lăng còn sót lại.
Điển Tích Truyện Kiều - Liễu Chương Đài
Khi về hỏi liễu Chương đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay
Đời vua Đương Huyền Tông có chàng tú tài Hàn Hủ, nổi tiếng là danh sĩ, lên kinh đô Trường An chuẩn bị thi tiến Sĩ. Chàng ta thuê phòng trọ ở phố Chương đài, phía Tây kinh thành.
Cạnh bên nhà trọ Hàn Hủ là nhà Liễu thị, một ca kỹ tài sắc đã làm đắm say lắm tao nhân mặc khách, nhưng không ai dám ngỏ tình, vì giai nhân đã có vị tướng quân họ Lý bảo bọc. Mỗi lần tướng Lý đến thăm Liễu thị, đều có mời Hàn Hủ sang chơị Hai người đối ẩm trong giọng ca tiếng đàn nàng Liễụ Phần Liêũ thi, những lúc ở nhà một mình, lại thường nhìn qua kẽ vách dòm sang nhà Hàn. Liễu thị thấy Hàn Hủ tuy nghèo khó, nhưng lại rất phóng khoáng, hiếu khách. Nhìn trộm lâu ngày, thấy thương, rồi thầm yêu chàng tú tàị Hôm đó, Lý tướng quân đến, Liễu thị đánh bạo, thưa:
- Hàn Tú tài là người có hoàn cảnh khó khăn nhưng lại rất hào sảng. Tương quân đã kết thân với chàng ta, thì thiếp nghĩ cũng nên tìm cách giúp đỡ.
Tướng Lý gật gù, cười độ lượng, truyền Liễu thị bày tiệc, rồi mời Hàn Hủ sang nói chuyện:
- Hàn Tú tài là bậc danh sĩ; Liễu thị là kỹ nữ tài sắc. Danh sĩ mà sánh duyên cùng tài sắc chẳng phải là xứng đôi lắm sao?. Ta đứng chủ hôn cho đôi lứa.
Cả hai người được gá duyên đều ngây người trước thái độ bao dung của tướng quân. Qua hồi xúc động, đôi lang nương lạy tạ ơn vị tướng quân " fair play " nàỵ Sau đó, Lý tướng quân từ biệt , hai người sống chung với nhau như vợ chồng, tình yêu tha thiết.
Tú tài Hàn Hủ tuy là người lỗi lạc, nhưng thi tiến sĩ lại không đỗ. Vợ chồng không lấy thế làm điều khổ tâm, vẫn thương yêu nhau trong cuộc sống hàn vị Bốn năm sau, có quan Tiết độ sứ Thanh Châu là Hầu Di Dật, từ lâu ngưỡng mộ tài năng của Hàn Hủ, đã tâu với vua xin chàng về làm tòng sự Hàn Hủ phải về Thanh Châu nhận chức, hẹn với Liễu thị khi cuộc sống ổn định, sẽ trở về lại kinh đô rước nàng.
Nhưng rồi công việc tất bật, sau ba năm Hàn Hủ không về kinh được, gởi cho nàng lá thư với nỗi phập phồng nàng kỹ nữ đã ôm cầm sang thuyền khác:
"Chương đài Liễu, Chương đài Liễu
Tích nhật thanh thanh kim tại phủ
Túng sử trường điều tự cửu thùy
Dã ưng phan chiết ta nhân thủ ".
Liễu Chương đài, Liễu Chương đài
Còn chăng thuở trước dáng xanh tươi
Thướt tha vẫn giống như năm nọ
Vin bẻ đành tay kẻ khác rồi!
Đọc thơ, Liễu thị hiểu là chồng âu lo mình phụ bạc. Nàng đáp thư:
"Dương liễu chi, phương chi tiết,
Khá hận niên niên tặng ly biệt.
Nhất diệp tùy phong hốt báo thu
Túng sử quân lai khởi kham chiết ".
Nhành dương liễu, trạc xuân xanh
Đeo nặng bao năm nỗi biệt tình
Chiếc lá gió đưa, thu đà tới
Chàng về chưa chắc được vin cành.
Sau đó, Liễu thị xuống tóc vào nương cửa Phật, tránh lũ bướm ong quấy nhiễu.
Thương cho nàng. đã vào chùa mặc áo nâu sồng mà vẫn không yên câu kinh tiếng mõ. Phiên tướng Sa Tra Lợi đang tại chức Xạ Kỵ tướng quân của vua Đường Huyền Tông, xông vào thiền môn, bắt Liễu thị về làm thiếp.
Thời gian cũng qua đị.
Mươì hai năm sau, Tiết độ sứ Hầu Di Dật về kinh công cán, Hàn Hủ tháp tùng. Về đến Tràng An, Hàn Hủ thăm dò tin tức mới biết vợ mình đã sa vào tay kẻ khác. Thế cô, phận nhỏ đành im tiếng. Một hôm, đang tảng bộ trên phố thì gặp một cổ xe ngựa thong thả đi quạ Trên xe chợt có giọng đàn bà vọng ra:
- Có phải Hàn viên ngoại ở Thanh Châu đó không?.
Nghe giọng nói, Hàn Hủ rúng động, ấp úng chưa kịp trả lời, thì người trên xe tiếp:
- Ngày mai, thiếp cũng sẽ qua đường này. Xin chàng hãy đến đây cho thiếp trông thấy lần cuối.
Hôm sau, y hẹn, Hàn Hủ đứng chờ đợi tình. Chiếc xe đến, từ trên đó ném xuống chiêc khăn hồng bọc ngoài một hộp sáp thơm. Giọng đàn bà thổn thức:
- Cảm ơn chàng, em đã trông thấy tình lần cuốị Vĩnh biệt phu quân.
Xe vụt chạy nhanh mất hút. Đêm đó, Hàn Hủ phải dự tiệc với hàng quan chức ở kinh thành nơi một tửu lầu sang trọng. Trong tiệc, mọi ngươì đều cười nói vui vẻ chỉ có mình Hàn Hủ mặt ủ mày ệ Có người gạn hỏi nguyên nhân; Hàn Hủ phải đem chuyện mình kể trong bàn tiệc. Hàn vừa dứt lời, viên tướng trẻ Hứa Tuấn ném mạnh chén rượu xuống đất, đánh "xoảng", cất giọng oang oang:
- Giữa kinh thành này mà cũng có quan triều đình làm loạn vậy sao? Tiểu nhân này, tu y tài hèn sức mọn nhưng cũng xin được ra tay, đưa phu nhân về cho Hàn viên ngoạị Xin Hàn viên ngoại hãy viết ít chữ để làm tin với phu nhân.
Hàn Hủ chép lại bài thơ Liễu thị đã gởi cho mình mười lăm năm trước khi vào qui y cửa Phật. Hứa Tuấn nhận thư, phóng ngựa đến tư dinh của Sa Tra Lợị Tướng Phiên này đang vắng nhà. Hưá Tuấn lớn tiếng với đám gia nhân:
- Tướng quân bị ngã ngưạ, thương tích nặng, e khó qua khỏị Ngài bảo ta về rước phu nhân cho ngài gặp mặt.
Hứa Tuấn phóng ngựa chạy thẳng vào dinh. May mắn, Liễu thị đang sắp sửa nhờ ba thước lụa kết liễu đời mình., thì nhận được bài thơ tình của mình đã viết cho tình lang. Hứa Tuấn đỡ bà lên mình ngựa, phóng như bay trở về tửu lầụ Có ai đang hồi hợp chờ đợi, lồng ngực thình thịch liên hồị Rồi, hai trái tim cùng chung nhịp đập
Khi về hỏi liễu Chương đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay
Đời vua Đương Huyền Tông có chàng tú tài Hàn Hủ, nổi tiếng là danh sĩ, lên kinh đô Trường An chuẩn bị thi tiến Sĩ. Chàng ta thuê phòng trọ ở phố Chương đài, phía Tây kinh thành.
Cạnh bên nhà trọ Hàn Hủ là nhà Liễu thị, một ca kỹ tài sắc đã làm đắm say lắm tao nhân mặc khách, nhưng không ai dám ngỏ tình, vì giai nhân đã có vị tướng quân họ Lý bảo bọc. Mỗi lần tướng Lý đến thăm Liễu thị, đều có mời Hàn Hủ sang chơị Hai người đối ẩm trong giọng ca tiếng đàn nàng Liễụ Phần Liêũ thi, những lúc ở nhà một mình, lại thường nhìn qua kẽ vách dòm sang nhà Hàn. Liễu thị thấy Hàn Hủ tuy nghèo khó, nhưng lại rất phóng khoáng, hiếu khách. Nhìn trộm lâu ngày, thấy thương, rồi thầm yêu chàng tú tàị Hôm đó, Lý tướng quân đến, Liễu thị đánh bạo, thưa:
- Hàn Tú tài là người có hoàn cảnh khó khăn nhưng lại rất hào sảng. Tương quân đã kết thân với chàng ta, thì thiếp nghĩ cũng nên tìm cách giúp đỡ.
Tướng Lý gật gù, cười độ lượng, truyền Liễu thị bày tiệc, rồi mời Hàn Hủ sang nói chuyện:
- Hàn Tú tài là bậc danh sĩ; Liễu thị là kỹ nữ tài sắc. Danh sĩ mà sánh duyên cùng tài sắc chẳng phải là xứng đôi lắm sao?. Ta đứng chủ hôn cho đôi lứa.
Cả hai người được gá duyên đều ngây người trước thái độ bao dung của tướng quân. Qua hồi xúc động, đôi lang nương lạy tạ ơn vị tướng quân " fair play " nàỵ Sau đó, Lý tướng quân từ biệt , hai người sống chung với nhau như vợ chồng, tình yêu tha thiết.
Tú tài Hàn Hủ tuy là người lỗi lạc, nhưng thi tiến sĩ lại không đỗ. Vợ chồng không lấy thế làm điều khổ tâm, vẫn thương yêu nhau trong cuộc sống hàn vị Bốn năm sau, có quan Tiết độ sứ Thanh Châu là Hầu Di Dật, từ lâu ngưỡng mộ tài năng của Hàn Hủ, đã tâu với vua xin chàng về làm tòng sự Hàn Hủ phải về Thanh Châu nhận chức, hẹn với Liễu thị khi cuộc sống ổn định, sẽ trở về lại kinh đô rước nàng.
Nhưng rồi công việc tất bật, sau ba năm Hàn Hủ không về kinh được, gởi cho nàng lá thư với nỗi phập phồng nàng kỹ nữ đã ôm cầm sang thuyền khác:
"Chương đài Liễu, Chương đài Liễu
Tích nhật thanh thanh kim tại phủ
Túng sử trường điều tự cửu thùy
Dã ưng phan chiết ta nhân thủ ".
Liễu Chương đài, Liễu Chương đài
Còn chăng thuở trước dáng xanh tươi
Thướt tha vẫn giống như năm nọ
Vin bẻ đành tay kẻ khác rồi!
Đọc thơ, Liễu thị hiểu là chồng âu lo mình phụ bạc. Nàng đáp thư:
"Dương liễu chi, phương chi tiết,
Khá hận niên niên tặng ly biệt.
Nhất diệp tùy phong hốt báo thu
Túng sử quân lai khởi kham chiết ".
Nhành dương liễu, trạc xuân xanh
Đeo nặng bao năm nỗi biệt tình
Chiếc lá gió đưa, thu đà tới
Chàng về chưa chắc được vin cành.
Sau đó, Liễu thị xuống tóc vào nương cửa Phật, tránh lũ bướm ong quấy nhiễu.
Thương cho nàng. đã vào chùa mặc áo nâu sồng mà vẫn không yên câu kinh tiếng mõ. Phiên tướng Sa Tra Lợi đang tại chức Xạ Kỵ tướng quân của vua Đường Huyền Tông, xông vào thiền môn, bắt Liễu thị về làm thiếp.
Thời gian cũng qua đị.
Mươì hai năm sau, Tiết độ sứ Hầu Di Dật về kinh công cán, Hàn Hủ tháp tùng. Về đến Tràng An, Hàn Hủ thăm dò tin tức mới biết vợ mình đã sa vào tay kẻ khác. Thế cô, phận nhỏ đành im tiếng. Một hôm, đang tảng bộ trên phố thì gặp một cổ xe ngựa thong thả đi quạ Trên xe chợt có giọng đàn bà vọng ra:
- Có phải Hàn viên ngoại ở Thanh Châu đó không?.
Nghe giọng nói, Hàn Hủ rúng động, ấp úng chưa kịp trả lời, thì người trên xe tiếp:
- Ngày mai, thiếp cũng sẽ qua đường này. Xin chàng hãy đến đây cho thiếp trông thấy lần cuối.
Hôm sau, y hẹn, Hàn Hủ đứng chờ đợi tình. Chiếc xe đến, từ trên đó ném xuống chiêc khăn hồng bọc ngoài một hộp sáp thơm. Giọng đàn bà thổn thức:
- Cảm ơn chàng, em đã trông thấy tình lần cuốị Vĩnh biệt phu quân.
Xe vụt chạy nhanh mất hút. Đêm đó, Hàn Hủ phải dự tiệc với hàng quan chức ở kinh thành nơi một tửu lầu sang trọng. Trong tiệc, mọi ngươì đều cười nói vui vẻ chỉ có mình Hàn Hủ mặt ủ mày ệ Có người gạn hỏi nguyên nhân; Hàn Hủ phải đem chuyện mình kể trong bàn tiệc. Hàn vừa dứt lời, viên tướng trẻ Hứa Tuấn ném mạnh chén rượu xuống đất, đánh "xoảng", cất giọng oang oang:
- Giữa kinh thành này mà cũng có quan triều đình làm loạn vậy sao? Tiểu nhân này, tu y tài hèn sức mọn nhưng cũng xin được ra tay, đưa phu nhân về cho Hàn viên ngoạị Xin Hàn viên ngoại hãy viết ít chữ để làm tin với phu nhân.
Hàn Hủ chép lại bài thơ Liễu thị đã gởi cho mình mười lăm năm trước khi vào qui y cửa Phật. Hứa Tuấn nhận thư, phóng ngựa đến tư dinh của Sa Tra Lợị Tướng Phiên này đang vắng nhà. Hưá Tuấn lớn tiếng với đám gia nhân:
- Tướng quân bị ngã ngưạ, thương tích nặng, e khó qua khỏị Ngài bảo ta về rước phu nhân cho ngài gặp mặt.
Hứa Tuấn phóng ngựa chạy thẳng vào dinh. May mắn, Liễu thị đang sắp sửa nhờ ba thước lụa kết liễu đời mình., thì nhận được bài thơ tình của mình đã viết cho tình lang. Hứa Tuấn đỡ bà lên mình ngựa, phóng như bay trở về tửu lầụ Có ai đang hồi hợp chờ đợi, lồng ngực thình thịch liên hồị Rồi, hai trái tim cùng chung nhịp đập
Điển Tích Truyện Kiều - Mạt Cưa Mướp Đắng
Tình cờ chẳng hẹn mà nên
Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường
Chung lưng mở một ngôi hàng
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề
Hàn sĩ Thúc Thôi được hưởng gia tài cha mẹ để lại. Học hành chẳng ra gì, lại biếng nhác, nên thi mãi vẫn trượt. Chán nản bút nghiên, chàng ta bán hết gia tài, ăn tiêu rồi cũng hết, không có gì để sống. Bà con lối xóm không nỡ để một nho sinh chết đói nên tìm cách mai mối cho nàng Lưu Di, một thiếu phụ trẻ góa chồng, đảm đang.
Sống chung được thời gian ngắn, Thúc Thôi lại quen thói lười biếng, cả ngày chỉ nghêu ngao, không chịu làm lụng, ăn bám vợ đến hết cả vốn liếng của Lưu Di đã dành dụm được. Lưu Di cắn răng chịu đựng, nhưng đến lúc cùng cực quá, nàng phải thưa với chồng:
- Lang quân cam chịu cảnh nghèo đói này mãi sao?
- Ta chỉ sống với văn chuơng chữ nghĩa, từ nhỏ đến lớn chỉ biết đọc sách ngâm thợ Nay ta phải biết làm chi cho ra tiền đây?
Lưu Di e dè:
- Văn chương chữ nghĩa không bằng ai thì thôi cũng phải kiếm việc khác làm ăn sinh sống chứ.
Thúc Thôi cười khẩy:
- Hiền thê ơi, đừng quá âu lo. Hôm nay ta là hàn sĩ, ngày mai đỗ đạt, thì tha hồ phú quí vinh hoa. Thôi được, trong lúc đợi bảng vàng đề tên, ta sẽ nghĩ ra một cách gì đó, không cần phải làm lụng cực nhọc, ma vẫn hái ra tiền.
Rồi mấy ngày sau, người ta thấy Thúc Thôi lẩn quẩn đây đó, lúc ra chợ, lúc vào xóm, như một học giả suy tư. Cuối cùng, chàng ta đem về một thúng mạt cưa, khoe vợ:
- Món hàng này không vốn mà bán được tiền. Mạt cưa này thợ cưa vất đi, ta lấy về đem ra chợ bán, giả làm cám heọ Sẽ có khối người bị lừa.
Lưu Di ngăn cản:
- Sao lại làm việc gian dối như vậy, thật là bất nhân.
Thúc Thôi dạy khôn:
- Miễn sao được tiền thì thôi! Đời mà! khôn sống, dại chết.
Không kể lời khuyên can của vợ, sáng sớm hôm sau, Thúc Thôi bưng thúng mạt cưa ra chợ, rao bán cám. Nhưng cho đến chiều tối vẫn chưa có ai bị lừa. Hôm sau, Thúc Thôi lại bưng thúng cám dỗm ra chợ lần nữa. Đến chạng vạng, thì may thay, có một nàng đội thúng mướp trái xanh mởn đi ngang qua. Cô nàng mời:
- Tôi đang muốn bán thúng mướp tươi này để lấy tiền mua cám heo. Chúng ta thỏa thuận hàng đổi hàng nhé.
Thúc Thôi mừng rỡ, OK ngay, phen này trúng mánh, nhẫm tính thúng mướp cũng bán được bộn tiền. Chàng ta hí hửng bưng thúng mươp về khoe vợ Lưu Di bật cười:
- Trời đất! Đây là loại mướp đắng, loại trái mọc hoang trên núi, không ăn được. Ừ mà thôi, như vậy cũng hay, cùng là một phường lừa phỉnh nhau, mướp đắng đổi ấy mạt cưa, không ai thua ai!.
Tình cờ chẳng hẹn mà nên
Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường
Chung lưng mở một ngôi hàng
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề
Hàn sĩ Thúc Thôi được hưởng gia tài cha mẹ để lại. Học hành chẳng ra gì, lại biếng nhác, nên thi mãi vẫn trượt. Chán nản bút nghiên, chàng ta bán hết gia tài, ăn tiêu rồi cũng hết, không có gì để sống. Bà con lối xóm không nỡ để một nho sinh chết đói nên tìm cách mai mối cho nàng Lưu Di, một thiếu phụ trẻ góa chồng, đảm đang.
Sống chung được thời gian ngắn, Thúc Thôi lại quen thói lười biếng, cả ngày chỉ nghêu ngao, không chịu làm lụng, ăn bám vợ đến hết cả vốn liếng của Lưu Di đã dành dụm được. Lưu Di cắn răng chịu đựng, nhưng đến lúc cùng cực quá, nàng phải thưa với chồng:
- Lang quân cam chịu cảnh nghèo đói này mãi sao?
- Ta chỉ sống với văn chuơng chữ nghĩa, từ nhỏ đến lớn chỉ biết đọc sách ngâm thợ Nay ta phải biết làm chi cho ra tiền đây?
Lưu Di e dè:
- Văn chương chữ nghĩa không bằng ai thì thôi cũng phải kiếm việc khác làm ăn sinh sống chứ.
Thúc Thôi cười khẩy:
- Hiền thê ơi, đừng quá âu lo. Hôm nay ta là hàn sĩ, ngày mai đỗ đạt, thì tha hồ phú quí vinh hoa. Thôi được, trong lúc đợi bảng vàng đề tên, ta sẽ nghĩ ra một cách gì đó, không cần phải làm lụng cực nhọc, ma vẫn hái ra tiền.
Rồi mấy ngày sau, người ta thấy Thúc Thôi lẩn quẩn đây đó, lúc ra chợ, lúc vào xóm, như một học giả suy tư. Cuối cùng, chàng ta đem về một thúng mạt cưa, khoe vợ:
- Món hàng này không vốn mà bán được tiền. Mạt cưa này thợ cưa vất đi, ta lấy về đem ra chợ bán, giả làm cám heọ Sẽ có khối người bị lừa.
Lưu Di ngăn cản:
- Sao lại làm việc gian dối như vậy, thật là bất nhân.
Thúc Thôi dạy khôn:
- Miễn sao được tiền thì thôi! Đời mà! khôn sống, dại chết.
Không kể lời khuyên can của vợ, sáng sớm hôm sau, Thúc Thôi bưng thúng mạt cưa ra chợ, rao bán cám. Nhưng cho đến chiều tối vẫn chưa có ai bị lừa. Hôm sau, Thúc Thôi lại bưng thúng cám dỗm ra chợ lần nữa. Đến chạng vạng, thì may thay, có một nàng đội thúng mướp trái xanh mởn đi ngang qua. Cô nàng mời:
- Tôi đang muốn bán thúng mướp tươi này để lấy tiền mua cám heo. Chúng ta thỏa thuận hàng đổi hàng nhé.
Thúc Thôi mừng rỡ, OK ngay, phen này trúng mánh, nhẫm tính thúng mướp cũng bán được bộn tiền. Chàng ta hí hửng bưng thúng mươp về khoe vợ Lưu Di bật cười:
- Trời đất! Đây là loại mướp đắng, loại trái mọc hoang trên núi, không ăn được. Ừ mà thôi, như vậy cũng hay, cùng là một phường lừa phỉnh nhau, mướp đắng đổi ấy mạt cưa, không ai thua ai!.
Bạch Vân Phi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét