Thi sĩ Thế Lữ tên thật là Nguyễn Đình Lễ, (ông sinh ngày
6 tháng 10 năm 1907 - qua đời ngày 3 tháng 6 năm 1989) là nhà thơ, nhà văn, nhà
hoạt động sân khấu Việt Nam. Ông nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với
những tác phẩm Thơ Mới, đặc biệt là bài “Nhớ Rừng”, cùng những tác phẩm
văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện “Vàng và Máu” (1934). Trở thành
thành viên của nhóm Tự Lực Văn Đoàn kể từ khi mới thành lập (1934), ông hầu hết
hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời
cũng đảm nhận vai trò một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các
tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay.
Từ năm 1937, hoạt động của ông chủ yếu chuyển hướng sang biểu diễn
kịch nói, trở thành diễn viên, đạo diễn, nhà viết kịch, trưởng các ban kịch
Tinh Hoa, Thế Lữ, Anh Vũ. Sau Hiệp định Genève, ông tiếp tục hoạt động sân khấu,
trở thành Chủ tịch đầu tiên của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam (1957-1977). Ông
được coi là một người tiên phong, không chỉ trong phong trào Thơ Mới, trong
lĩnh vực văn chương trinh thám, kinh dị, đường rừng, mà còn là người có đóng
góp rất lớn trong việc chuyên nghiệp hóa nghệ thuật biểu diễn kịch nói ở Việt
Nam. Ông được trao tặng danh hiệu NSND năm 1984.
Thi sĩ Thế Lữ sinh ra ở ấp Thái Hà, Hà Nội. Quê cha ông ở làng Phù
Đổng, huyện Tiên Du (nay là Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội), quê mẹ ở Nam Định. Tên
Nguyễn Đình Lễ sau đó được đổi thành Nguyễn Thứ Lễ vì ông là con thứ. Khi lên
10 tuổi, người anh trai (hơn ông một tuổi) mất, ông đổi tên lại thành Nguyễn
Đình Lễ. Lớn lên ông dùng lại tên Nguyễn Thứ Lễ, khi viết văn nói lái lại là
Nguyễn Thế Lữ, sau rút gọn thành Thế Lữ. Bút danh Thế Lữ, mang nghĩa “người
khách đi qua trần thế” lại phù hợp với quan niệm sống của ông khi ấy. Ông còn
có tên khác là Nguyễn Khắc Thảo, nhưng sau cũng bỏ đi vì trùng tên. Khi viết
báo, đôi khi ông ký bút danh hài hước Lê Ta, xuất phát từ tên Lễ biến thành “Lê
Ngã”, “Ta” cũng tức là “Ngã”.
Thi sĩ Thế Lữ thời trẻ
Thế Lữ học chữ Nho khi lên 8 tuổi, học chữ Quốc Ngữ khi lên 10. Sau
khi anh trai mất, ông được quay trở về Hải Phòng ở với mẹ. Ở Hải Phòng, ông học
tư với cha của Vũ Đình Quý, người bạn thân đầu tiên của ông. Ít lâu sau, ông
xin vào học lớp Đồng ấu của trường Pháp Việt (École Communale) mới mở ở Ngõ
Nghè. Năm 1924, ông thi đỗ Sơ học (cepfi). Khi đó, mới 17 tuổi, Thế Lữ đã lập
gia đình với bà Nguyễn Thị Khương.
Năm 1925, ông vào học Cao đẳng Tiểu học Bonnal ở Hải Phòng, học được
3 năm thì bỏ.
Năm 1929, ông lên Hà Nội, thi đỗ dự thính vào trường Cao đẳng Mỹ
thuật Đông Dương, học cũng chỉ một năm rồi lại bỏ do bất mãn với một giáo sư và
giám hiệu của trường. Ở trường mỹ thuật, ông chơi thân nhất với những bạn như
Nguyễn Đỗ Cung, Trần Bình Lộc; cùng với Vũ Đình Liên, Ngô Bích San, Hoàng Lập
Ngôn… tổ chức một salon littéraire, chuyên thảo luận về văn học.
Là một nghệ sĩ đa tài, Thế Lữ hoạt động rộng rãi trên nhiều lĩnh vực
nghệ thuật, từ thơ, văn xuôi nghệ thuật (kinh dị, trinh thám, lãng mạn) cho đến
báo chí, phê bình, dịch thuật và sân khấu. Trong tất cả các lĩnh vực, Thế Lữ
đòi hỏi sự nghiêm túc, phong cách làm việc khoa học, cặn kẽ, tỷ mỷ, luôn muốn
tìm ra sự hoàn mỹ. Đó là biểu hiện cho khát vọng của Thế Lữ: luôn săn đuổi và
phụng thờ cái Đẹp đến suốt đời, như ông từng nêu tuyên ngôn trong bài thơ “Cây
Đàn Muôn Điệu”:
Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ Đẹp có muôn hình, muôn thể.
Mượn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ,
Và mượn cây đàn ngàn phím, tôi ca
Ham vẻ Đẹp có muôn hình, muôn thể.
Mượn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ,
Và mượn cây đàn ngàn phím, tôi ca
Thế Lữ đã ra mắt khoảng hơn 50 bài thơ, chủ yếu được sáng tác trước
năm 1945 và in trên hai tờ Phong Hóa và Ngày Nay, sau tập hợp vào hai tập thơ: “Mấy
Vần Thơ” (1935) và “Mấy Vần Thơ” tập mới (1941, gồm tập thơ cũ được bổ
sung thêm một số bài mới). Tập thơ đầu, “Mấy Vần Thơ” được xem là tác
phẩm tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới thời kỳ 1932-1935, với những bài được
phổ biến rộng rãi thời kỳ đó. Bảy bài trong tập thơ đã được đưa vào hợp tuyển
thơ Thi Nhân Việt Nam (1942) của Hoài Thanh – Hoài Chân, gồm có: “Nhớ Rừng”,
“Tiếng Trúc Tuyệt Vời”, “Tiếng Sáo Thiên Thai”, “Vẻ Đẹp Thoáng Qua”, “Bên Sông
Đưa Khách”, “Cây Đàn Muôn Điệu” và “Giây Phút Chạnh Lòng”.
Thi sĩ Thế Lữ
Như bút danh “người khách đi qua trần thế” của mình, Thế
Lữ được xem là người đầu tiên đề xướng con đường thoát ly bằng nghệ thuật, công
khai tuyên bố chỉ đi tìm cái Đẹp. Thơ ông thể hiện niềm say mê với cái Đẹp, đi
tìm cái Đẹp ở mọi nơi, ở âm thanh (“Tiếng Trúc Tuyệt Vời”, “Tiếng Sáo
Thiên Thai”, “Tiếng Gọi Bên Sông”) và cảnh sắc thiên nhiên. Thiên nhiên
trong thơ Thế Lữ là một thiên nhiên của “một không gian tươi đẹp, rộng mở, rộn
ràng sắc màu và thanh âm”, là “những bức tranh lộng lẫy và huyền ảo, có khi
hùng vĩ uy nghi, có khi thơ mộng bí ẩn”.
Nhiều bài thơ của Thế Lữ thể hiện hình ảnh cõi tiên, với tiên nga,
ngọc nữ, tiếng sáo Thiên Thai, hạc trắng hoa đào… Hoài Thanh nhận định: “Ở
xứ ta từ khi có người nói chuyện tiên, nghĩa là từ khi có thi sĩ, chưa bao giờ
ta thấy thế giới tiên có nhiều vẻ đẹp đến thế”; tuy nhiên ông cũng cho rằng Thế
Lữ đã đi nhầm đường, bởi “thi nhân tưởng quê mình là tiên giới và quên rằng
đặc sắc của người chính ở chỗ tả những vẻ đẹp của trần gian”.
Vũ Ngọc Phan không tán thành với Hoài Thanh, ông cho rằng cái đẹp
tưởng tượng kia của Thế Lữ một ngày nào đó có thể trở thành cái đẹp có thực nơi
trần thế. Thơ Thế Lữ cũng thể hiện cảm hứng dồi dào với nghệ thuật và với nàng
Thơ, mà theo Uyên Thao, nghệ thuật đã là “một phần cuộc sống”, “một người bạn
tâm giao” hay được ông coi như “một người yêu” của chính mình.
Nhiều sáng tác thơ của Thế Lữ cũng về đề tài tình yêu. Tình yêu
trong thơ Thế Lữ thường thiên về thanh cao, mộng ảo, chứ không say đắm yêu
đương hay buông tuồng như các bài thơ mới sau này. Theo Nguyễn Nhược Pháp, Thế
Lữ không hề có những niềm say mê trong tình yêu. Ông chỉ đi tìm người con gái
trong mộng tưởng, vẻ đẹp của người thiếu nữ ấy chợt xuất hiện, thoảng qua và chợt
biến mất “như những khoảnh khắc mê say chợt đến”. Thơ Thế Lữ thiếu đi cái
xúc động, cái mãnh liệt của ái ân đôi lứa như trong thơ của Lưu Trọng Lư, Xuân
Diệu, Hàn Mặc Tử.
Theo Hoàng Như Mai, tình yêu trong thơ Thế Lữ không phải để cứu
cánh mà là để làm nền để vẽ nên cái Đẹp; ông đã dựng nên nhiều kiểu tình yêu
“tiêu cực”: mơ hồ, mộng tưởng, vô vọng, đau khổ… Dù vậy, ông không ca ngợi cái
đẹp của tình yêu vô vọng đau khổ, mà tìm thấy ở đó những khoảng đẹp của niềm hy
vọng, sự hy sinh…
Theo Nguyễn Hoành Khung, thơ Thế Lữ thể hiện “cái tôi” muốn thoát
ly với xã hội; ở một số bài thơ (Người phóng đãng, Con người vơ vẩn, Tự trào…),
ông tạo dựng hình ảnh một kiểu người tài tử, bất hòa với xã hội, chán ghét cuộc
sống trưởng giả, sống ngông nghênh, cô độc và kiêu hãnh. Thơ Thế Lữ nói lên
khát khao được sống tự do, thoát khỏi tù túng để đến với thế giới bao la hơn.
Bài thơ “Nhớ Rừng” mượn lời con hổ trong vườn bách thảo, được xem là
đã diễn tả tâm sự của một lớp người đang đau khổ trong cuộc sống “bị nhục nhằn
tù hãm”, chán ghét thực tại tầm thường giả dối, nhưng bất lực và chỉ biết chìm
đắm vào dĩ vãng oai hùng, thể hiện tư tưởng giải phóng cá nhân và khát vọng tự
do; bài “Tiếng Hát Bên Sông” lại có hình ảnh người “khách chinh phu”
dũng cảm gạt tình riêng ra đi trong lúc “non sông mờ cát bụi”, thể hiện những
ưu ái về thời thế và đất nước của Thế Lữ. Dù muốn thoát ly, nhưng cái tôi của
Thế Lữ trong “Mấy Vần Thơ” vẫn buồn, chân trời thoát ly còn chưa được
mở ra hết. Sau này, trong “Mấy Vần Thơ” tập mới (1941), Thế Lữ đã rơi vào
bế tắc, ông làm thơ “Trụy Lạc”, “Ma Túy” – biểu lộ tâm trạng chán chường,
tuyệt vọng, buông mình trong trụy lạc để tìm quên lãng, nhưng vẫn không nguôi dằn
vặt, đau khổ.
Thế Lữ được xem là người có đóng góp đáng kể vào việc hiện đại hóa
thơ Việt Nam. Tuy chưa thoát hẳn khỏi phong cách diễn đạt ước lệ của thơ cũ,
thơ ông đã có những cách tân táo bạo về hình thức nghệ thuật. Ông đã thử nghiệm
nhiều thế thơ khác nhau (trừ thơ Đường Luật), bao gồm cả lục bát, song thất lục
bát, năm chữ, bảy chữ, tám chữ trường thiên và cả thơ phá thể. Do đặt nặng tính
duy lý, nên đơn vị trong thơ Thế Lữ không phải là mỗi câu thơ đơn lẻ mà là một
mảng thơ, cấu trúc theo văn phạm tiếng Pháp. Khác với thơ cũ thường hàm súc, cô
đọng, thơ ông thường đề cao tính dư thừa và diễn đạt khúc chiết, logic. Vì lý
do này, Thế Lữ thường sử dụng lối “bắc cầu” thông dụng trong thơ Pháp, nhằm kết
dính các câu thơ và cả đoạn thơ thành một mạch với nhau. Ông cũng sử dụng nhiều
thủ pháp nghệ thuật, như phép đảo ngữ, sử dụng nhiều dấu câu, liên từ…, tuy
nhiên những cách tân này không góp phần làm mới nhiều đến giọng điệu hoặc thể
thơ trong thơ Thế Lữ. Những thể thơ đấy Thế Lữ chưa sử dụng thuần thục, về sau
được các nhà thơ mới khác khắc phục. Ở thời kỳ đầu của Thơ Mới, những cách tân
của Thế Lữ đã mở đường cho bút pháp của nhiều nhà thơ sau này.
Hà Minh Đức nhận xét: “Thơ Thế Lữ giàu chất lãng mạn, trữ
tình. Hình ảnh thơ đẹp, giọng điệu thơ mềm mại, trau chuốt. Tuy nhiên, cảm hứng
thơ ít phát triển, hình tượng thơ có ít biển hóa và trong một số trường hợp rơi
vào đơn điệu”. Lê Tràng Kiểu cho rằng, thơ Thế Lữ chỉ có giá trị ở những bài “có
ít nhiều vẻ tiên”, còn lại có nhiều bài lại thật dở: “vần điệu lủng củng,
ý tứ ngớ ngẩn trẻ con, tình cảm giả dối hết sức, và câu kéo lôi thôi quá”. Lê
Tràng Kiều đánh giá: “thơ Thế Lữ chỉ phơn phớt ngoài tâm hồn”, chứ không
đi sâu vào tâm hồn người đọc như thơ Lưu Trọng Lư, Nguyễn Vỹ, Thái Can, và kết
luận rằng: “Thế Lữ là một nhà thơ kém hoàn toàn hơn hết”. Uyên Thao khi
bình luận, cũng cho rằng Thế Lữ chỉ hoàn toàn thành công ở một số bài như “Nhớ
Rừng”, “Ý Thơ”, “Tiếng Sáo Thiên Thai”, “Giây Phút Chạnh Lòng”, còn lại
thì chỉ thành công ở từng tiếng, từng âm, trong mỗi đoạn, mỗi câu.
Dù như thế nào, ảnh hưởng và vai trò tiên phong của Thế Lữ đối với
Thơ Mới vẫn được công nhận. Vũ Ngọc Phan ghi nhận: “Phan Khôi, Lưu Trọng
Lư chỉ là những người làm cho người ta chú ý đến thơ mới mà thôi, còn Thế Lữ mới
chính là người làm cho người ta tin cậy ở tương lai của thơ mới”. Và Hoài Thanh
hoa mỹ hơn: “Độ ấy thơ mới vừa ra đời, Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh
sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam… Thế Lữ không bàn về thơ mới, không bênh vực
thơ mới, không bút chiến, không diễn thuyết, Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên
bước những bước vững vàng, mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ”.
Bài thơ “Tiếng Sáo Thiên Thai”
Thi sĩ Thế Lữ
Thi sĩ Thế Lữ
Ánh xuân lướt cỏ xuân tươi,
Bên rừng thổi sáo một hai Kim Đồng.
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng,
Buồn ơi! Xa vắng, mênh mông là buồn…
Bên rừng thổi sáo một hai Kim Đồng.
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng,
Buồn ơi! Xa vắng, mênh mông là buồn…
Tiên Nga tóc xõa bên nguồn.
Hàng tùng rủ rỉ trên cồn đìu hiu;
Mây hồng ngừng lại sau đèo,
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi.
Hàng tùng rủ rỉ trên cồn đìu hiu;
Mây hồng ngừng lại sau đèo,
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi.
Trời cao, xanh ngắt. – Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng lai.
Theo chim, tiếng sáo lên khơi,
Lại theo giòng suối bên người Tiên Nga.
Hai con hạc trắng bay về Bồng lai.
Theo chim, tiếng sáo lên khơi,
Lại theo giòng suối bên người Tiên Nga.
Khi cao, vút tận mây mờ,
Khi gần, vắt vẻo bên bờ cây xanh,
Êm như lọt tiếng tơ tình,
Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không,
Khi gần, vắt vẻo bên bờ cây xanh,
Êm như lọt tiếng tơ tình,
Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không,
Thi khúc “Tiếng Sáo Thiên Thai” (Nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc)
Xuân tươi!
Êm êm ánh xuân nồng,
Nâng niu sáo bên rừng,
Dăm ba chú Kim đồng…
(Hò xàng xê) Tiếng sáo,
Nhẹ nhàng lướt cỏ nắng,
Nhạc lòng đưa hiu hắt,
Và buồn xa buồn vắng,
Mênh mông là buồn!
Êm êm ánh xuân nồng,
Nâng niu sáo bên rừng,
Dăm ba chú Kim đồng…
(Hò xàng xê) Tiếng sáo,
Nhẹ nhàng lướt cỏ nắng,
Nhạc lòng đưa hiu hắt,
Và buồn xa buồn vắng,
Mênh mông là buồn!
Tiên nga, buông lơi tóc bên nguồn,
Hiu hiu lũ cây tùng,
Ru ru tiếng trên cồn…
(Hò ơi làn) Mây ơi!
Ngập ngừng sau đèo vắng,
Nhìn mình cây nhuộm nắng,
Và chiều như chìm lắng,
Bóng chiều không đi…
Hiu hiu lũ cây tùng,
Ru ru tiếng trên cồn…
(Hò ơi làn) Mây ơi!
Ngập ngừng sau đèo vắng,
Nhìn mình cây nhuộm nắng,
Và chiều như chìm lắng,
Bóng chiều không đi…
Trời cao xanh ngắt! Ô… kìa!
Hai con hạc trắng (ư) bay về (ề) nơi nao?
Trời cao xanh ngắt! Ô… kìa! Ô … kìa!
Hai con hạc trắng bay về, về Bồng Lai!
Hai con hạc trắng (ư) bay về (ề) nơi nao?
Trời cao xanh ngắt! Ô… kìa! Ô … kìa!
Hai con hạc trắng bay về, về Bồng Lai!
(Đôi) Chim ơi,
Lên khơi sáo theo vời
Hay theo đến bên người,
Tiên nga tắm sau đồi…
(Tình tang ôi) Tiếng sáo,
Khi cao, cao mờ vút,
Cùng làn mây lờ lững,
Rồi về bên bờ suối,
Cây xanh mờ mờ…
Lên khơi sáo theo vời
Hay theo đến bên người,
Tiên nga tắm sau đồi…
(Tình tang ôi) Tiếng sáo,
Khi cao, cao mờ vút,
Cùng làn mây lờ lững,
Rồi về bên bờ suối,
Cây xanh mờ mờ…
Êm êm, ôi tiếng sáo tơ tình,
Xinh như bóng xiêm đình,
Trên không uốn thân hình…
(Đường lên, lên) Thiên Thai!
Lọt vài cung nhạc gió,
Thoảng về mơ mộng quá,
Nàng Ngọc Chân tưởng nhớ,
Tiếng lòng bay xa…
Xinh như bóng xiêm đình,
Trên không uốn thân hình…
(Đường lên, lên) Thiên Thai!
Lọt vài cung nhạc gió,
Thoảng về mơ mộng quá,
Nàng Ngọc Chân tưởng nhớ,
Tiếng lòng bay xa…
Dưới đây mình có bài:
– Phân tích bài thơ Tiếng Sáo Thiên Thai của Thế Lữ
Cùng với 5 clips tổng hợp thi khúc “Tiếng Sáo Thiên Thai” do
các ca sĩ xưa và nay diễn xướng để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
Thi sĩ Thế Lữ
Phân tích bài thơ Tiếng Sáo Thiên Thai của Thế Lữ
Thế lữ là một nhà văn nhà thơ nhà diễn kịch là một trong những cây
bút trụ cột của báo Phong Hóa. Về thơ ca, ông Thế Lữ cũng là một người trong bọn
người không muốn theo con đường cũ vạch sẵn, ông muốn đi tìm một lối khác, tuy
chưa biết chắc đưa đến đâu, nhưng lúc ông lần theo lối đó, ông có cái thú của
người đi tìm những sự mới lạ. Ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ trong
đó tác phẩm “thiên thu” là một nhà thơ có tầm ảnh hưởng lớn. Tiếng sáo trong
thiên thai là một bài thơ lục bát. Tác phẩm nói lên một bức tranh tuyệt đẹp về
cảnh thần tiên của núi rừng.
Mở đầu bài thơ tác giả đã ngây ngấy trước cảnh đẹp của núi rừng thơ
mộng:
Ánh xuân lướt có xuân tươi
Bên rừng thổi sáo một hai Kim Đồng
Bên rừng thổi sáo một hai Kim Đồng
Cảnh vật được hiện lên trước mắt người đọc thật tuyệt diệu. Bức
tranh thiên nhiên đang bước vào mùa xuân thật đẹp. Mùa xuân là mùa cây trái tốt
tươi là mà mà mọi người bước vào một quy luật tuần hoàn mới của đất trời. Trong
mắt của người thi nhân mùa xuân cũng đạp như thế cũng đầy sức sống như thế.
Ánh xuân lấp ló rồi lướt qua từng kẽ lá từng cây cỏ rồi tràn đều xuống tất cả mọi
cảnh vật khu rừng khiến cho tác giả bỗng nhiên cảm thấy thật xốn xang.
Trước khung cảnh tiết trời đang vào xuân bỗng nhiên xuất hiện hình ảnh
những chàng trai đang thổi say sưa một điệu sáo khiến cho khung cảnh nên thơ trữ
tình hơn nhiều lần. Những chàng trai thổi sáo khiến cho tác giả ngỡ như chính
là chàng thiếu niên Kim Đồng là một chàng trai luôn đứng hầu phật quan âm. Tác
giả đã nhìn mùa xuân như một cô gái xinh đẹp đang bước đi trên thảm cỏ xuân
xanh mướt. Ta thấy thơ của Thế Lữ đúng là những ý thơ tuyệt diệu con người luôn
gắn với cảnh vật, cảnh vật không thể cách xa con người. Đúng là một phong cảnh
hưu tình, thế nhưng cảnh sắc đẹp như thế nên thơ như thế mà lại khiến cho tác
giả cảm thấy buồn:
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn”
Buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn”
Tiếng sáo của những hàng trai trẻ khiến dường như đã khiến cho tác
giả cảm thấy buồn mênh mông xa vắng biết bao. Ông đã gọi tên nỗi buồn đó để có
thể cảm nhận hết nỗi buồn. Ta thấy thường trong thơ ca thì thi nhân thường nói
đến mùa thu để gợi cái buồn. Nhắc đến mùa thu thì người đọc thường thấy nỗi buồn
của thi nhân ở trong đó. Thế nhưng Thế Lữ lại chọn mùa thu để gửi gắm nỗi buồn
của mình. Có lẽ đây là một dụng ý khi tác giả đưa ra hai nghịch lí khiến cho nỗi
buồn của tác giả được người đọc cảm nhận rõ rét nhất.
Phải chăng đó chính là nỗi buồn của một con người còn đang nặng
lòng còn lưu luyến với trần tục. Hay đó chính là nỗi buồn chung của tất cả các
thi nhân thời bấy giờ. Mặc dù tâm trạng còn đang ngổn ngang những suy tư nhưng
tác giả vẫn thả hồn vào với thiên nhiên với cảnh rừng núi. Trước cảnh đẹp thi
nhân đã reo lên kinh ngạc “Ô kìa”và trước chốn bồng lai tiên cảnh thì tiếng sáo
ấy vẫn vút cao:
Theo chim, tiếng sáo lên khơi,
Lại theo dòng suối bên người Tiên Nga.
Khi cao, vút tận mây mờ,
Khi gần, vắt vẻo bên bờ cây xanh,
Êm như lọt tiếng tơ tình,
Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không,
Lại theo dòng suối bên người Tiên Nga.
Khi cao, vút tận mây mờ,
Khi gần, vắt vẻo bên bờ cây xanh,
Êm như lọt tiếng tơ tình,
Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không,
Với sáu câu thơ tác giả đã thể hiện cái điêu luyện trong tài năng của
người thổi sáo và cái nhạy cảm của sự nhạy cảm của một nhà thơ. Ông cảm nhận được
tiếng sáo vút lên theo tiếng chim có khi lại rì rào bên suối theo người sơn nữ.
Tưởng chừng như tiếng sáo có thể vút cao lên đến tận mây xanh còn khi âm hương
nhẹ xuống thì lại vắt vẻo bên bờ cây xanh. Từ vắt vẻo vừa gợi hình vừa gợi cảm.
Nó gợi lên hình ảnh những chàng trai thổi sáo có gì đó mang chút nghịch ngợm thật
hóm hỉnh.
Thế Lữ rất tinh tế khi quan sát và lắng nghe tiếng sáo đã thể hiện
được tâm lí giản dị tự nhiên của người thổi sáo chính là tiếng sáo của chàng
trai gửi đến cô gái. Tiếng sáo vừa êm nhẹ như một lời tỏ tình vừa êm dịu như
như một vũ điệu trong thế giới thần tiên. Thế Lữ thật có tài trong việc tả âm
thanh vừa tục lại vừa tiên hiển hiện trong tai trong mắt người đọc giọng và điệu
sáo nhịp nhàng tuyệt đẹp.
Tiếng sáo trong thơ Thế Lữ thật trữ tình êm dịu và đầy chất thơ chất
lãng mạn. Trong khung cảnh ấy người thơ thả hồn vào thiên nhiên vào cảnh vật
đang độ đẹp tuyệt vời. Đọc thơ ta thấy một sự đối nghịch trong tình cảnh tác giả
muốn thoát khỏi thế giới trần thục nhưng sự thật khiến tác giả đau lòng khi mà
không thể thoát được nó.
Qua tiếng sáo ta thấy được dù tư tưởng thế lữ đang có nỗi buồn
nhưng ông đã cố thoát khỏi nỗi buồn đó để được thanh thản. Đây cũng là nỗi buồn
của những người thi nhân trong thời đại này. Họ phải sống trong cái xã hội có
nhiều bon chen họ muốn thoát khỏi nhưng sự thực họ không thể làm được điều đó.
Qua bài thơ và tiếng sáo, Thế Lữ đã bộc lộ được tài làm thơ tuyệt đỉnh
của mình. Dù cảnh đẹp cảnh thơ mộng nhưng trong lòng ông luôn mang một nỗi buồn
nhưng sâu trong tâm sự sâu trong cõi lòng ông đó chính là nỗi buồn về thời thế
là một xã hội bị áp bức bóc lột của thực dân.
Tiếng Sáo Thiên Thai - Danh ca Thái Thanh
Tiếng Sáo Thiên Thai - Hương Lan, Ái Vân
Tiếng Sáo Thiên Thai - Mai Hương
Tiếng Sáo Thiên Thai - Ca sĩ Ngọc Trân
Tiếng Sáo Thiên Thai - Ca sĩ Thanh Trúc
Túy Phượng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét