Nàng Kiều có mấy khúc tri âm?
Trong Thúy Kiều có ba con người: Con người tình cảm, con người
nạn nhân và con người tìm đường.
Nguyễn Du đã lột tả sâu sắc tâm trạng của ba con người ấy bằng
những thủ pháp khác nhau: Khi thì dùng trữ tình ngoại đề, khi thì dùng cảnh vật,
khi lại dùng tiếng đàn của Kiều như một độc thoại từ sâu thẳm...
Nhưng tiếng đàn của Thúy Kiều trong các tình huống khác nhau
chỉ là tiếng kêu dằn vặt và ai oán của con người nạn nhân thôi! Theo dõi tiếng
đàn của Thúy Kiều trong suốt 15 năm lưu lạc, ta có thể thấy con người nạn nhân
trong tâm trạng của Kiều đã phát triển từ dự cảm sang kinh nghiệm, từ tính chất
siêu hình sang tính chất xã hội, từ tính chất xã hội chưa hoàn chỉnh đến tính
chất xã hội hoàn chỉnh, rõ ràng.
Những cảnh đời và những tri âm
Tiếng đàn là một ngôn ngữ đặc biệt biểu hiện trực tiếp tâm trạng
nạn nhân của Kiều. Cảm hứng bi kịch thích hợp với tiếng đàn nên Từ Hải không được
nghe đàn lần nào mặc dù Từ là tri âm tri kỷ. Sống với Từ Hải phần nạn nhân
trong tâm hồn Kiều coi như bị tiêu vong nên khúc “Bạc mệnh” kia không còn lý do
tồn tại.
Từ Hải chết, con người nạn nhân trong Kiều sống lại dữ dội
nên tiếng đàn cũng ùa trở về với một sắc thái bi thảm chưa từng thấy.Tiếng đàn
là ngôn ngữ không biết nói dối.
Tiếng đàn không hề có chức năng che dấu tâm trạng mà có chức
năng giải tỏa tâm trạng, nó có một phép mầu nhiệm khiến cho ngay cả khi nó cất
lên tiếng “Ca vui đầm ấm dung hòa” mà một kẻ như Hồ Tôn Hiến cũng thấu hiểu được
tâm trạng đó là “Muôn oán nghìn sầu”, buồn thấm thía. Khi nó xuất hiện trước
Kim Trọng, tính chất nạn nhân của nó bộc lộ theo một kiểu khác, không phải để
nguyền rủa để tố cáo, để lên án, nên cái anh chàng Kim Trọng mới có lúc bị lừa:
“Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?”.
Anh ta bị cụ Nguyễn Du “tiêm” thứ thuốc mê lý tưởng hóa vào để
lừa đấy thôi, lúc ấy mà anh ta còn nghe thấy tiếng nói nạn nhân nữa thì đoạn
đoàn viên như thế là hỏng bét! Và có lẽ sự lạc quan của Kim Trọng cũng là một
cách “chiêu tuyết” cho Kiều chăng? Ngày xưa, anh ta là tri âm của Kiều, chính
Kiều cũng công nhận (“Đã cam tệ với tri âm bấy chầy”), nhưng bây giờ đoàn viên
thì anh ta không còn là tri âm nữa.
Bởi vì đôi tai của con người kiểu Kim Trọng vốn là như thế,
nó quá tinh đến nỗi nghe được những âm vang từ một cõi siêu hình mà tai trần
không nghe thấy được, nhưng nó lại cố điếc đến nỗi không nghe thấy những âm
vang từ cuộc đời “quằn quại vũng lầy” mà ai cũng thấy văng vẳng bên tai. Vì vậy,
khi con người nạn nhân của Kiều đã nhiễm những kinh nghiệm thực tiễn thì nó mất
đi một tri âm tự nguyện là Kim Trọng và thêm vào những kẻ tri âm bất đắc dĩ là
Hoạn Thư và Hồ Tôn Hiến.
Tiếng đàn của nạn nhân mang nỗi đau văn hóa
Trước khi gặp Thúc Sinh dưới trướng Hoạn Thư tiếng đàn Kiều
mang sắc thái của một nạn nhân yên phận:
“Lĩnh lời nàng mới lựa dây.
Nỉ non
thánh thót dễ say lòng người”.
Tâm trạng của Kiều có cái gì tự nguyện, bẽ bàng,
cam chịu và không để lộ một chút gì chống đối. Nó phù hợp với cái nếp sống
ngoan ngoãn phục tùng của Kiều lúc ấy:
“Sớm khuya khăn mặt lược dầu.
Phận con hầu
giữ con hầu, dám sai”.
Cái nỉ non thánh thót ấy là cái nỉ non thánh thót của ý
thức về thân phận con hầu, bất lực với thân phận, đau xót vì thân phận ấy.
Cái tiếng đàn nỉ non thánh thót khi dành cho Hoạn Thư và
Thúc Sinh thì lại lóe lên ý thức về thân phận một người vợ bị sỉ nhục, bị đọa
đày:
“Bốn đây như khóc như than.
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
Cùng
trong một tiếng tơ đồng.
Và người nghe cũng lĩnh hội hết cái chua chát xót xa của ý thức
về địa vị người vợ ấy, nên Thúc Sinh bề ngoài làm ra vẻ ta đây nghe tiếng nói của
con hầu trong tiếng đàn, nhưng trong lòng thì bị tiếng nói của người vợ trách
móc, vò xé. Vì thế, Thúc Sinh mà cũng:
“Giọt châu lã chã khôn cầm.
Cúi đầu
chàng những gạt thầm giọt tương”.
Còn Hoạn Thư, lần trước Hoạn Thư nghe thấy tiếng đàn mang ý
thức đau khổ của thân phận con hầu nên “Tiêu thư cũng thương tài” và “khuôn uy dường
cũng bớt vài bốn phân”. Nhưng lần này thì Hoạn Thư nghe thấy một tiếng đàn khác
- tiếng đàn mang ý thức làm vợ, nên thị không chịu được và hét lên: “Cuộc vui gảy
khúc đoạn trường ấy chi!”.
Tính chất độc ác trong sự hành hạ của Hoạn Thư chính là ở chỗ
nó vùi dập ý thức người vợ trong Kiều, không cho ý thức đau khổ của người vợ được
trỗi dậy và được bộc lộ qua tiếng đàn. Bí quyết của sự hành hạ kiểu Hoạn Thư là
như vậy. Cho nên một khi tiếng đàn đã không thay đổi được tình thế, người vợ -
nạn nhân vẫn cứ hiện ra, thì Thúc Sinh phải giải quyết bằng cách thay đổi thái
độ của mình, làm như là tính chất của tiếng đàn đã thay đổi rồi vậy:
“Sinh càng
thảm thiết bồi hồi.
Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua”.
Hoạn Thư chỉ cần có thế thôi. Thị đã không cho Thúc Sinh được
làm bạn tri âm của Kiều để rồi chính thị được chứng kiến những âm thanh nạn
nhân bơ vơ bay lên trước mặt. Thị gây ra một khoảng cách giữa tính chất nạn
nhân cao độ của tiếng đàn và thái độ bàng quan cười cợt của người nghe.Thị đã bố
trí cho Kiều ý thức sâu sắc về vai trò nạn nhân của mình, về địa vị thấp kém và
sự thất bại ê chề trong kế hoạch Thúc Sinh, sâu sắc đến nỗi nó hằn lên trong
tâm hồn Kiều một dấu vết phủ định không thể nào xóa được.
Hoạn Thư là người xúc phạm sâu sắc đến tiếng đàn của Kiều, là
kẻ đạo diễn sự đối diện trực tiếp giữa Tài và Mệnh trong số phận Kiều. Hoạn Thư
đã dùng “diễn biến hòa bình” để hạ nhục hình ảnh văn hóa của Kiều, làm cho con
người nạn nhân của Kiều phải chịu một nỗi đau văn hóa mà trước đó nó chưa từng
trải nghiệm. Có lẽ vì thế mà Hoạn Thư trở thành chính danh thủ phạm chăng?
Từ khi đánh đàn cho Hoạn Thư nghe đến khi đánh đàn cho Hồ Tôn
Hiến nghe, con người nạn nhân trong tâm trạng của Kiều đã thay đổi về chất, đã
có kinh nghiệm về tội lỗi, về cái chết, nên tiếng đàn - tiếng nói của nó - cũng
biến đổi theo. Tiếng nói nạn nhân lúc này đã thêm một nội dung mới: ý thức về tội
lỗi, ý thức về sự mất mát không thể nào bù đắp:
“Một cung gió thảm mưa sầu.
Bốn
dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
Ve ngâm vượn hót nào tày.
Lọt tai Hồ cũng nhăn
mày rơi châu”.
Một tâm trạng buồn não ruột, một nỗi niềm đắng cay, tủi nhục,
đau đớn ê chề. Không có ai là tri âm nữa. Từ Hải chết rồi. Tiếng đàn còn đau đớn
tột bậc vì ý thức mất tri âm. Trong tiếng đàn mà có ý thức mất tri âm thì nó
mang nỗi đau tột cùng của sự tự phủ định, của một sự sống thừa, vô ích, cô độc
và vô duyên đến ghê người: “Tơ lòng đã đứt dây đàn tiểu lân”.
Hồ Tôn Hiến là một tri âm bất đắc dĩ cho nên hắn phải nghe được
tiếng nói nạn nhân trong đó. Nhưng làm sao mà hy vọng được vào thứ Tử Kỳ “mặt sắt”
ấy! Bởi lẽ Hồ Tôn Hiến chỉ hiểu được con người nạn nhân chung chung trong tiếng
đàn thôi, nên hắn mới hỏi gốc tích tiếng nói nạn nhân thống khổ ấy rằng: “Nghe
ra muôn oán nghìn sầu lắm thay?”.
Hắn không nghe thấy tiếng nguyền rủa của con người nạn nhân tội
lỗi và tuyệt vọng trong tiếng đàn kia nên Kiều phải dùng lời phàm để gợi ý đến
nơi đến chốn:
“Thưa rằng: “Bạc mệnh khúc này.
Phổ vào đàn ấy những ngày còn
thơ.
Cung cầm lựa những ngày xưa.
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!”.
Thế mà Hồ
Tôn Hiến vẫn không hiểu được, vẫn không có phản ứng gì là tự ái hay xúc động,
ân hận hay mủi lòng mà còn thản nhiên thưởng thức con người nạn nhân ấy như một
thú vui:
“Nghe càng đắm, ngắm càng say.
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”.
Tiếng đàn của Kiều đã bị mất tri âm tuyệt đối. Cái đểu giả của
Hồ Tôn Hiến là ở chỗ đã coi con người nạn nhân trong tiếng đàn là tất yếu, là lẽ
tự nhiên và bình thản biến con người nạn nhân ấy thành một trò tiêu khiển, mà lại
là trò tiêu khiển thừa. Tiếng đàn của Kiều ở trường hợp này bị hai lần thừa nên
nó bị hai lần phủ định, hai lần lạc lõng. Con người nạn nhân thể hiện qua tiếng
đàn lần này đã nhận thức lại kinh nghiệm cái chết của Từ Hải để hình thành lý
do cái chết của mình.
Diễn biến tiếng đàn của Kiều qua bốn lần đánh đàn là quá
trình tiếng nói nạn nhân bị mất tri âm: Tri âm lý tưởng ban đầu, tri âm bị ngăn
chặn và bị đe dọa sau đó, tri âm bị mất hẳn lúc cuối cùng. Tình trạng đó cho thấy
sự thay đổi về chất của tâm trạng nạn nhân: Từ dự cảm siêu hình đến kinh nghiệm
xã hội, từ kinh nghiệm bậc thấp đến kinh nghiệm bậc cao, từ kinh nghiệm được
chia sẻ ít nhiều đến kinh nghiệm phải hoàn toàn chịu đựng.
Đó cũng là dòng chảy của sự đồng cảm sẻ chia sâu sắc và tinh
tế mà Nguyễn Du đã dảnh cho Kiều, là cung bậc khác nhau của những tiếng kêu
thương xé ruột của trước những cảnh đời éo le, ngang trái và đen bạc đang diễn
ra trước mắt nhà thơ.






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét