Tiềm thức Huế:
Thời gian tương đối hoặc tuyệt đối cứ vẫn là nỗi ám ảnh mênh
mông, khắc khoải chưa bao giờ chịu ngủ yên trong tiềm thức nhân loại. Bởi lẽ
thân phận con người đan bện vào trong từng lát cắt bí hiểm ấy. Những lát cắt
trích ngang giữa một dòng trôi về vô tận. Dòng chảy của thời gian.
Thao thức thời gian nói rộng - hay hẹp, thực tế hơn - cũng
chính là thao thức về thân phận, mệnh vận của con người. Có thể minh chứng sự
tiếp diễn thao thức kia bất chấp lịch sử tiến hóa qua mọi nền văn minh. Có khác
chăng, con người thẳng thừng đối diện nó hay tự lừa dối tiềm thức bằng tìm cách
lãng quên. Ứng với mỗi nền văn hóa khác nhau, mỗi cách thể hiện thao thức ấy
cũng không hề đồng bộ.
Ai trải qua cuộc nhân chứng lâu dài, phức tạp giữa thời gian,
đất trời xứ Huế mới thấy rằng ở rốn đất miền Trung này - không như dòng Hương
Giang đầy thanh thản - lại là nơi dồn dập truân chuyên với vô vàn chuyển biến...
Những chuyển biến đặc biệt khó tồn tại ở một nơi nào khác nó.
Khởi đi từ Ô, Lý thuở nào đến cuộc dong ruỗi về nam của họ
Nguyễn, tiềm thức Huế đã chuẩn bị cho bao sự cố khôn lường ... Trong đó còn
canh cánh nỗi niềm thiên tai bão lụt.
"Ô châu ác địa" - đất trích - chốn lưu đày cho những
thân phận không may.Hai trăm năm phân tranh Trịnh Nguyễn. Mỗi bên bờ sông Gianh
mang một tâm thế khác nhau. Cuộc giằng co không lấy gì lường trước được thịnh,
suy giữa Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn Ánh ? Lịch sử đi qua và lịch sử trả lời, song
mệnh vận và thời gian không đợi chờ ai cả.
Vì thế, đã hẳn người Huế hay lo xa và ít nói nhưng vẫn thể
hiện nhẹ nhàng, điềm đạm. Họ thuộc về bản chất của trầm tư và chiêm nghiệm...Thân
phận, mệnh vận luôn là câu "thoại đầu" không hề ngừng lên tiếng hỏi
tâm tư.
Sự nhạy cảm đặc biệt về thời gian của con người Huế đã trở
thành bản sắc. Chiêm nghiệm để tĩnh tâm và tĩnh tâm giúp tự mình chiêm nghiệm lấy...
Phép biện chứng đã ăn sâu trong tiềm thức Huế. Có gì tương tự hồn nhạc Trịnh ở
đây chăng?
Rất khế hợp.Từ đó mênh mông một nỗi niềm cô đơn không thể
nói.
Cô đơn trước thời gian và mệnh vận của con người...Thân phận!
Qua nhạc Trịnh, bạn có thể "quen Huế" nhiều hơn - dẫu
có khi - vẫn chưa từng đến Huế.Tiềm thức Huế tự nhiên đã chan hòa trong hồn nhạc
của ông."Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi để một mai vươn hình hài lớn dậy".Thao
thức nào? Khi chợt "Đêm nghe tiếng khóc cười của bào thai".
Có thể cảm nhận chăng? Dòng chảy rất thân quen - dòng
sinh mệnh- nhưng cũng mịt mù đến, mịt mù đi kiểu "Đêm thấy ta là thác đổ". Ông
đã nói về loại hình thông tin cố hữu của đất trời. Thông tin thường tình nhất
nhưng dườngnhư vẫn cứ mới giữa đại gia đình nhân loại. "Tin buồn từ ngày mẹ
cho mang nặng kiếp người". Vâng, biết bao chất xám nhân loại vẫn còn phải tổn
hao trong hành trình cố làm vơi đi bao nỗi niềm mang "nặng" ấy...
Dẫu sao, hãy coi đó như một niềm hy vọng mới vì tất cả nhân
loại đều phải sống, đang sống mỗi ngày "Sống trong đời sống cần có một
tấm lòng".
Trịnh không đại ngôn, ông trước hết đã tự nhắn nhủ lấy mình "Người
ngồi xuống nghe tiếng ru. Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ" hay "Người
hãy nhớ mang theo hành trang qua khung trời vắng chân mây địa đàng".
Đấy là lúc "Đường trần rồi khăn gói mai kia chào cuộc
đời nghìn trùng cơn gió bay" . Dù là "gió bay",
"gió cuốn đi" chăng nữa... Gió vẫn luôn tồn tại. Gió vẫn cứ chuyển
dịch hồn nhiên ngay giữa cuộc đời này và không ai cầm giữ được.Vì thế gió thay
người ở lại chốn trần gian. "Để làm gì em biết không ? Để gió cuốn
đi...".
Những tư tưởng ấy đi về tương giao nào trong tiềm thức Huế ?
Đấy chính là nỗi ám ảnh đậm đặc về thân phận, mệnh vận của kiếp người. Một phần
"mã khóa" để mở ra mối tương giao khắng khít mà nhạc Trịnh đã kết
tinh từ lòng văn hóa Huế.
Ấn tượng về thời gian xuyên suốt ca từ nhạc Trịnh. Chỉ trong
một câu có thể đã gặp gỡ đủ bốn mùa "Rồi mùa xuân không về, mùa thu
cũng ra đi, mùa đông vời vợi, mùa hạ khói mây". Đấy là
"phông" màu rất đa sắc để nổi bật lên trên đó... Hoạt cảnh "con
rối thân phận" mà các sợi dây nối buộc chúng - như chiêm nghiệm Trịnh Công
Sơn - vốn đến từ hoang vu và vô tận.
"Tiếng muôn trùng" nào? Ra sao? Đấy là thứ
tiếng có thực, không riêng gì Trịnh Công Sơn mà tự nó đã âm vang lâu dài trong
tiềm thức của Huế. Vâng, chỉ cần một đêm nghe mưa trong ngôi nhà vườn
lặng lẽ. Còn nữa, thêm một cõi lòng không xô bồ, đầy lắng dịu trước thời gian.
Đó chính là lúc ta sẽ được nghe thứ tiếng lạ lùng kia lên tiếng. "Thoại
đầu" bí hiểm của thời gian. "Có nhiều khi...Từ vườn khuya bước về. Bàn
chân ai rất nhẹ tựa hồn những năm xưa..."
Nhưng quan trọng hơn tất cả là thái độ sống, sau biết bao miệt
mài chiêm nghiệm ấy. "Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn đời, tạ ơn người" Trọng
nghĩa, nặng tình nhưng không hề ảo tưởng trước thời gian. Đi tìm cái đẹp song đồng
thời là chiêm nghiệm sự mong manh của nó... Và "Đóa hoa vô thường" là
bi kịch lớn của những con mắt tinh anh, thấu thị chuyện đời. Bi kịch chứ không
là thảm kịch. Bi kịch của thời gian. Có những nét đẹp mà khi tìm gặp cũng là
lúc thời gian xác lập một hiện thực vô thường "Vừa đến nơi chia
lìa". Cuối cùng còn lại gì trong nhạc Trịnh Công Sơn?
Là cái Tâm bao dung, chứa đựng được rất nhiều... Bởi trước hết,
cái Tâm không chấp trú một nơi nào. Cái Tâm buông xả tự ngã, lúc đã thấy rõ bi
kịch thời gian từ vô thủy đến vô chung. Tâm vô trú nhà Phật.
Khi chập chùng giữa muôn ngàn phiền ngộ của mệnh vận khóc cười,
giữa các thái cực chông chênh khổ đau và hoan lạc, giữa đong đưa của con lắc
thành công, thất bại. Giữa mỏi mệt đến và đi... Cần cái Tâm trầm lắng để không
thấy ngữa nghiêng chóng mặt. Thuộc tính của người Huế phản ánh cái Tâm của cửa
thiền như ảnh hưởng bàng bạc lâu đời nơi đây.
Chiêm nghiệm Trịnh Công Sơn, không khác chiêm nghiệm một phần
tâm hồn người Huế. Ta dễ dàng thấy một hình thái nội tâm khu biệt trong nhạc Trịnh,
biểu đạt nổi tiềm thức Huế. Sự đối thoại độc thoại - hay tự nói, tự trao đổi với
chính mình - như một nguồn vỗ về, động viên và thăm hỏi...
"Đừng tuyệt vọng. Tôi ơi đừng tuyệt vọng...". Đó là sức mạnh nội tâm, là bản lĩnh tiềm tàng khi đối diện với cô đơn. Nội lực
và chiêm nghiệm..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét