Ban Mai tên thật là Nguyễn Thị Thanh Thúy sinh năm 1963 tại Quy Nhơn. Tốt
nghiệp Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Quy Nhơn. Bảo vệ luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn
năm 2006. Hiện Nguyễn Thị Thanh Thúy là chuyên viên chính Phòng Khoa học và
Công nghệ Trường Đại học Quy Nhơn.
"Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng" là sự tu chỉnh bổ sung từ luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam với đề tài "Thân phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn" mà Nguyễn Thị Thanh Thúy đã bảo vệ thành công năm 2006. Có thể nói đây là một công trình nghiên cứu ca từ âm nhạc dưới góc độ nghiên cứu văn học hấp dẫn. Nhưng có một ít ý kiến chưa đồng tình về nhận định của tác giả khi viết chương TRỊNH CÔNG SƠN VÀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM nên mới có lệnh cấm cuốn sách này tại Bình Định nơi tác giả đang công tác. HNVC xin giới thiệu chương IV theo yêu cầu của nhiều bạn đọc.
Mở đầu tập Ca khúc da vàng viết năm 1967 Trịnh Công Sơn bày tỏ nỗi đau thống thiết: "Tất cả đã bể đã vỡ toang. Tiếng thét đã chìm xuống biển thành tiếng nói trầm tư thành lời kêu uất về thân thế Việt Nam. Tiếng nói vang lên từ những hố bom đào lên cùng khắp. Ơi những bạn bè thân yêu đã chết từ đỉnh cao hay vực thẳm. Con người đã hóa thân làm vết thương. Cái chết hóa thân làm biểu tượng vô nghĩa. Đã biến hình đổi dạng từ những cơn hiểm họa cay nghiệt nhất của nhân loại. Lìa cha mẹ anh em bằng hữu yêu dấu vô cùng. Hãy kết hỏa châu làm đèn đãi ngộ quỷ dữ. Đốt đuốc cho người điên ấm phố mùa đông. Cả một hành trình hùng vĩ của giống nòi từ miền Triết Giang đổ về bây giờ như thế đó. Hỡi người yêu da vàng của tôi hãy duỗi tay thật dài về phía hố thẳm vốc lấy những hạt đất mềm mỏng đó mà hôn. Tôi sẽ làm người tiều phu đi nhặt từng cánh tay bàn chân từng đốt xương sọ người vung vãi khắp nơi về làm củi đốt sáng cho đêm tìm lại dấu vết của một hành tinh Việt Nam da vàng bặt tăm. Ám khí dày đặc làm sao thấy rõ mặt nhau. Hãy thử bắt đầu bằng tiếng hát như ca dao của tổ tiên ta ngày xưa đó". ("Da vàng ca khúc" Trịnh Công Sơn).
"Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng" là sự tu chỉnh bổ sung từ luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam với đề tài "Thân phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn" mà Nguyễn Thị Thanh Thúy đã bảo vệ thành công năm 2006. Có thể nói đây là một công trình nghiên cứu ca từ âm nhạc dưới góc độ nghiên cứu văn học hấp dẫn. Nhưng có một ít ý kiến chưa đồng tình về nhận định của tác giả khi viết chương TRỊNH CÔNG SƠN VÀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM nên mới có lệnh cấm cuốn sách này tại Bình Định nơi tác giả đang công tác. HNVC xin giới thiệu chương IV theo yêu cầu của nhiều bạn đọc.
Mở đầu tập Ca khúc da vàng viết năm 1967 Trịnh Công Sơn bày tỏ nỗi đau thống thiết: "Tất cả đã bể đã vỡ toang. Tiếng thét đã chìm xuống biển thành tiếng nói trầm tư thành lời kêu uất về thân thế Việt Nam. Tiếng nói vang lên từ những hố bom đào lên cùng khắp. Ơi những bạn bè thân yêu đã chết từ đỉnh cao hay vực thẳm. Con người đã hóa thân làm vết thương. Cái chết hóa thân làm biểu tượng vô nghĩa. Đã biến hình đổi dạng từ những cơn hiểm họa cay nghiệt nhất của nhân loại. Lìa cha mẹ anh em bằng hữu yêu dấu vô cùng. Hãy kết hỏa châu làm đèn đãi ngộ quỷ dữ. Đốt đuốc cho người điên ấm phố mùa đông. Cả một hành trình hùng vĩ của giống nòi từ miền Triết Giang đổ về bây giờ như thế đó. Hỡi người yêu da vàng của tôi hãy duỗi tay thật dài về phía hố thẳm vốc lấy những hạt đất mềm mỏng đó mà hôn. Tôi sẽ làm người tiều phu đi nhặt từng cánh tay bàn chân từng đốt xương sọ người vung vãi khắp nơi về làm củi đốt sáng cho đêm tìm lại dấu vết của một hành tinh Việt Nam da vàng bặt tăm. Ám khí dày đặc làm sao thấy rõ mặt nhau. Hãy thử bắt đầu bằng tiếng hát như ca dao của tổ tiên ta ngày xưa đó". ("Da vàng ca khúc" Trịnh Công Sơn).
Trong ca khúc Gia tài của mẹ sáng tác năm 1965 Trịnh Công
Sơn cho rằng đây là cuộc chiến tranh nội chiến.
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt buồn.
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt buồn.
(Gia tài của mẹ - 1965)
Chính quan điểm này đã làm cho chính quyền Miền Bắc e ngại ông. Bởi
vậy trong giai đoạn đầu của thời hậu chiến có người quá khích ở chiến khu đã
tuyên bố khi về Sài Gòn sẽ "xử tử" Trịnh Công Sơn. Cho đến ngày nay
quan điểm về tên gọi cuộc chiến vẫn là điều tranh cãi. Với tôi tôi đồng cảm
cùng suy nghĩ của Trịnh Công Sơn bởi vì đứng trên góc nhìn dân tộc cái chết nào
cũng đau xót như nhau. Vì tất cả đều chung giòng máu Lạc Hồng. Đó chính là bi kịch
của người dân Việt. Với trái tim nhạy cảm và nhân ái vô cùng Trịnh Công Sơn đã
nhận ra điều vô lý ấy. Trong bài nói chuyện Trịnh Công Sơn vì hòa bình và
tình yêu do Hội Văn hóa Trịnh Công Sơn tổ chức tại Paris đêm 3-5-2003 giáo
sư Cao Huy Thuần đặt câu hỏi: "Có cái gì nổi bật trong nhạc chống chiến
tranh của Trịnh Công Sơn?" và khẳng định: "Chẳng có gì
ngoài chữ tình". [8] Đúng nhạc chiến tranh của ông bắt nguồn từ tình
yêu thương nó là những bài tự tình dân tộc ông nói hộ cho dân tộc thân phận khổ
ải của kiếp người trong chiến tranh là tiếng kêu thương tuyệt vọng của người
dân trong cảnh thịt xương tan nát.
Ôi da vàng Việt Nam vỡ nát
Xương thịt đó thiêng liêng vô cùng.
Khắp đất nước tràn đầy xác người:
Xác người nằm quanh đây trong mưa lạnh này
Bên xác người già yếu có xác còn thơ ngây
Xác nào là em tôi dưới hố hầm này
Trong những vùng lửa cháy
bên những vồng ngô khoai.
Xương thịt đó thiêng liêng vô cùng.
Khắp đất nước tràn đầy xác người:
Xác người nằm quanh đây trong mưa lạnh này
Bên xác người già yếu có xác còn thơ ngây
Xác nào là em tôi dưới hố hầm này
Trong những vùng lửa cháy
bên những vồng ngô khoai.
(Bài ca dành cho những xác người - 1968)
Là một trí thức ông ý thức được thân phận nhược tiểu của đất nước
mình trong bối cảnh tranh giành ảnh hưởng của các thế lực quốc tế. Cảm nhận được
nỗi đau mất mát ấy cho nên dù đang ở trong cái thế chống đối nhau tự trong thâm
tâm của người dân Việt họ vẫn thấy yêu nhau gần nhau:
Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam
Ngày gió lớn tôi đi môi gọi thầm
Gọi tên anh tên Việt Nam
Gần nhau trong tiếng nói da vàng.
Ngày gió lớn tôi đi môi gọi thầm
Gọi tên anh tên Việt Nam
Gần nhau trong tiếng nói da vàng.
Cái bi thảm nhất là ở chỗ: cùng là người Việt Nam nhưng người Việt
lại bắn giết người Việt. Trong thực tế cuộc đời có khi họ là anh em cha con là
người yêu của nhau nhưng vì khác chiến tuyến nên nhìn nhau xa lạ. Khi người Việt
đó:
Bỏ xác trôi sông chết ngoài ruộng đồng
Chết rừng mịt mùng chết lạnh
lùng
Mình cháy như than chết cong queo
Chết vào lòng đèo chết cạnh gầm cầu
Chết nghẹn ngào mình không manh áo
(Tình ca của người mất trí -
1967).
Trịnh Công Sơn cho rằng đây là cái chết do một trận địa chấn một
cơn hồng thủy. Một cái chết không nằm trong dự tính của họ. Họ bị những cơn hiểm
họa cay nghiệt nhất của nhân loại vô hình xô đẩy nhau vào mâu thuẫn hận thù.
Nhưng trong sâu xa nơi tâm hồn họ không thấy sự mâu thuẫn hận thù mà chỉ thấy một
màu da thơm mùa lúa chín thấy yêu nhau thấy gần nhau trong tiếng nói Việt Nam.
Huế Sài Gòn Hà Nội
Hai mươi năm tiếng khóc lầm than
Huế Sài Gòn Hà Nội trong ta đau trái tim Việt Nam.
Hai mươi năm tiếng khóc lầm than
Huế Sài Gòn Hà Nội trong ta đau trái tim Việt Nam.
(Huế - Sài Gòn - Hà Nội - 1969)
Như vậy thì quả dân tộc ta đang gặp một cơn đại nạn. Và triệu người
đã chết bất đắc kỳ tử chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh phát xuất từ đâu
tới chứ không phải từ trong lòng anh em Việt Nam mà ngày nay có những quan điểm
cho rằng đó là cuộc chiến tranh "uỷ nhiệm" của các nước lớn.
Hai mươi năm là xác người Việt nằm
Làm sao ta giết hết những đứa con Việt Nam?
Xưa ta không thù hận
Vì đâu tay ta vấy máu?
Làm sao ta giết hết những đứa con Việt Nam?
Xưa ta không thù hận
Vì đâu tay ta vấy máu?
(Tuổi trẻ Việt Nam - 1969)
Nói như Bửu Ý "... Chiến tranh diễn ra không phải ở chiến
trường không phải do người cầm súng nó diễn ra ở bàn tròn ở trong lòng người ở
trong đầu óc những con người mua bán chiến tranh... Giữa một nền trời như vậy
thân phận con người là một vấn nạn ta nên nói ngay: đây là một chủ đề tư tưởng
nếu không muốn nói là triết lý...".[6] Theo Lê Trương những bài ca nổi tiếng
trong giai đoạn này như Tình ca của người mất trí Ca dao mẹ Gia tài của mẹ
Đi tìm quê hương là những bài hát có ca từ rất buồn thảm giai điệu blues
dìu dặt thở than kể lể như tiếng khóc của một người đàn bà trong góc phòng tối
rồi bỗng nhiên nức nở gào thét thảm thiết. Ông nói hộ những gì trong tâm hồn họ
bị nổ ra vì quá đau khổ u uất vì không thể đè nén lại được nữa. Những ước mơ từ
lâu họ không được quyền nói tới phải được chôn sâu vào trong lòng nay bỗng bùng
lên trong tiếng hát của người mất trí.
Không chỉ riêng Trịnh Công Sơn hầu như người dân miền Nam nào cũng
sống trong bi kịch ấy. Để minh chứng cho một thời đại đầy biến động này chúng
ta hãy đọc bài thơ của Nguyễn Bắc Sơn khi viết về bộ đội miền Bắc với một giọng
thơ ngất ngưởng:
Kẻ thù ta ơi những đứa xăm mình
Ăn muối đá và điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô ta là lính cậu
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem chiến cuộc như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau"...
Ăn muối đá và điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô ta là lính cậu
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem chiến cuộc như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau"...
(Chiến tranh Việt Nam và tôi - Nguyễn Bắc Sơn)
"Những đứa xăm mình" những con người ấy cũng một
dòng máu như ta thôi. Trong lúc người lính Cộng hòa đã nhận ra cuộc chiến này "cũng
chỉ một trò chơi" thì... phần đông "Kẻ thù ta ơi" đều "điên
say chiến đấu" đều tin chắc vào chính nghĩa của cuộc chiến đều hô hào
cổ võ một cách trịnh trọng. "Kẻ thù ta ơi" là một thế hệ
tươi sáng họ là những học sinh sinh viên đầy nhiệt huyết được đào tạo từ nhỏ về
lòng yêu nước yêu nước ở đây đồng nghĩa với ý thức về nhiệm vụ và sứ mệnh. Yêu
nước ở đây đã gắn liền với một thể chế. "Nhiệm vụ của ta là phải đấu
tranh cho lẽ phải. Mà đã đấu tranh thì phải bỏ sức lực phải suy nghĩ và phải hy
sinh những quyền lợi cá nhân có khi là cả cuộc đời mình cho lẽ phải chiến thắng"
(Nhật ký Đặng Thùy Trâm).
Giao thừa đâu mà vội
Hãy khoan đã chú mày
Cứ đóng xa vài dặm
mà ăn uống cho say
Ta cũng người như chú
cũng nhỏ bé trong đời
có núi sông trong bụng
mà bất lực hôm nay ...
Vì nói thật cùng chú
Trăm năm có là bao
Binh đao sao biết được
Sinh tử ở nơi nào.
Hãy khoan đã chú mày
Cứ đóng xa vài dặm
mà ăn uống cho say
Ta cũng người như chú
cũng nhỏ bé trong đời
có núi sông trong bụng
mà bất lực hôm nay ...
Vì nói thật cùng chú
Trăm năm có là bao
Binh đao sao biết được
Sinh tử ở nơi nào.
Một người lính Cộng hòa nói với một bộ đội miền Bắc như nói với anh
em và quả thật họ là anh em cùng giống "da vàng mũi tẹt" mà ra. Ta
đối với chú mà nói được lời như thế vì lòng ta đã tới độ nguội lạnh không còn
gì khuấy động nổi một cơn điên say nữa. Đao to búa lớn: vô ích. Danh từ cao đẹp:
vô ích. Lý tưởng thiêng liêng: vô ích. [62]
Cũng như bao người trí thức miền Nam khác Trịnh Công Sơn đau đớn nhận
ra điều ấy những thảm cảnh mất mát mà ông thấy trong trái tim của ông.
Chiều đi qua Bãi Dâu hát trên những xác người
Tôi đã thấy tôi đã thấy
Những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em.
Tôi đã thấy tôi đã thấy
Những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em.
(Hát trên những xác người - 1968)
Trịnh Công Sơn viết: "Ðã có điều gì không thật suốt hai mươi
năm nay. Một lầm lỡ đã lên đường và phải đi cho trót con đường máu xương. Như một
mũi tên vô tri bỗng lỗi thời trong một nhiệm kỳ vô định. Chúng ta dù muốn dù
không bị biến thành những mũi tên định hướng được bắn đi từ những đồ hình huy
hoàng tưởng tượng và ngắn hạn. Dân ta tàn phế hai mươi năm. Nước mắt và máu đã
làm thành những con suối lớn chảy mòn tiềm lực sáng tạo. Ðến lúc chúng ta phải
dừng tay và nhìn lại.
...Xin hãy dừng tay và cùng chờ nhìn một mặt trời tươi trẻ sẽ được
khai sinh ở phương Ðông. Xin hãy dừng tay để mọi căn nhà Việt Nam có thể mở rộng
cửa chờ đón một sớm mai hòa bình. Còn rất nhiều con đường mở ra cho tương lai
chúng ta. Những con đường đưa ta về dựng lại một tổ quốc đích thực.
... Tiếng hát đã có thể cất lên để nuôi lớn ước mơ. Ta đã có sẵn một
hành trang quý giá của hơn bốn nghìn năm để còn mãi bước đi trên những lộ trình
mới về tương lai. Ta phải đi tới bằng con tim sứ giả mang niềm tin và lời hứa hẹn
của những người đã nằm xuống. Ta phải tìm lại quê hương bằng sức sống mãnh liệt
vì trong cơ thể ta đã luân lưu thêm dòng máu của anh em không còn. Quanh đây những
trường học những bệnh viện những đình làng những phiên chợ những cánh đồng sẽ
được bắt đầu lại với những ngày nhân đạo với một dân tộc nhân bản. Xin đừng bao
giờ làm kẻ phản bội với một quá khứ hiển linh" (Kinh Việt Nam-1968).
Bửu Chỉ nhận định: "Tắt một câu trong dòng nhạc phản chiến của
mình Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả làm
theo mệnh lệnh của con tim mình (...). Trái tim nhân ái nhạy cảm chỉ biết nói
lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương dân tộc dù thiếu vắng một
thái độ chính trị nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng mình thì mình nói".
Nhận định của Bửu Chỉ thật sâu sắc tuy nhiên theo tôi Trịnh Công
Sơn không phải không có thái độ chính trị. Thái độ chọn lựa của ông đã thật rõ
ràng. Ông thật sự không tham gia bên nào vì đứng bên nào ông cũng thấy trái tim
mình nhói đau. Như một trò chơi bạn bè thân của ông chia đều ở hai phía:
Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè
Ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương
Ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương
Người miền Nam thấy mình trong ca khúc Cho một người nằm xuống Trịnh
Công Sơn thương tiếc Lưu Kim Cương một Đại tá Không quân Việt Nam Cộng hòa tử nạn
là một người bạn hào hiệp của ông:
Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn
Đất ôm anh đưa về cội nguồn...
Những xót xa đành nói cùng hư không.
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn
Đất ôm anh đưa về cội nguồn...
Những xót xa đành nói cùng hư không.
(Cho một người nằm xuống - 1968)
Người miền Bắc lại bắt gặp mình khi ông chia sẻ nỗi đau:
Tôi mất trong chiến tranh này
Bao nhiêu bao nhiêu nụ cười
Em từ Hà Nội có bao giờ được yên vui...
Bao nhiêu bao nhiêu nụ cười
Em từ Hà Nội có bao giờ được yên vui...
(Tôi đã mất - 1970)
Trịnh Công Sơn đau đớn khi nhìn nước Việt ly tan:
Mẹ Việt Nam ngồi
Ngày đêm tiếng cười
Rộn ràng khắp nơi
Một nước linh thiêng
Một màu da vàng
Người dân no lành
Hội hè suốt năm
...Nhưng hôm nay
Quê hương là miền Nam
Quê hương là trái sáng
Quê hương chở đầy hòm.
...Nhưng hôm nay
Quê hương là Hà Nội
Quê hương là cuộc đời
Những đứa trẻ mồ côi.
Ngày đêm tiếng cười
Rộn ràng khắp nơi
Một nước linh thiêng
Một màu da vàng
Người dân no lành
Hội hè suốt năm
...Nhưng hôm nay
Quê hương là miền Nam
Quê hương là trái sáng
Quê hương chở đầy hòm.
...Nhưng hôm nay
Quê hương là Hà Nội
Quê hương là cuộc đời
Những đứa trẻ mồ côi.
(Nhưng hôm nay - 1967)
Mùa hè đỏ lửa 1972 Trịnh Công Sơn viết: "Những thành phố
và những xác chết của tháng 5/1972 một lần nữa tôi không thể nào quên đi tiếng
kêu thất thanh của đám người cùng khổ. Cuộc chiến đã không muốn ngừng và có lẽ
còn mang nhiều bộ mặt mới mẻ thảm khốc hơn. Phải chăng những hồi chuông báo tử
chưa đủ làm mềm lòng cuộc sinh sát".(5)
Với Trịnh Công Sơn trên xác chết anh em sự vinh quang phải giấu mặt.
Không ai ca khúc khải hoàn trên thịt xương của cùng người Việt Nam.
Rồi trưa ngày 30 tháng Tư năm 1975 chiến tranh chấm dứt người ta
nghe tiếng ông hát Nối vòng tay lớn trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Nhiều
người miền Nam sửng sốt và thấy bị tổn thương như bị phản bội khi mà trái tim họ
vốn đã tan nát khi Sài Gòn vừa thất thủ.
Giải thích hành động này ra sao?
Văn Cao mấy chục năm trời im hơi lặng tiếng bỗng vỡ òa niềm vui với
ca khúc Mùa xuân đầu tiên ở cùng thời điểm này với những ca từ đầy chất
nhân văn:
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên...
Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên...
Mùa xuân thanh bình đầu tiên của đất nước không phải là mùa xuân
hoan ca chiến thắng. Với Văn Cao đó là mùa xuân bừng tỉnh nhận ra tính nhân bản
của người Việt bị đánh mất trong chiến tranh giờ đây cần phải được đánh thức
trong mỗi con người:
Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người.
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người.
(Mùa xuân đầu tiên - Văn Cao)
Phải chăng những nghệ sĩ lớn đều như vậy như đứa trẻ chỉ biết ca
lên niềm hân hoan của dân tộc trong ngày vui chung của đất nước sau bao năm
ngăn cách. Vẫn là niềm vui vượt trên mọi quan điểm chính trị.
Ở Việt Nam cái logic tư duy của người Việt thường thấy là: không
bên này là bên kia. Điều này cũng dễ hiểu vì thực tiễn lịch sử Việt Nam trong
suốt nhiều thập kỷ đã đặt con người vào cách tư duy trên. Thái độ không thật sự
bên nào của Trịnh Công Sơn đã khiến ông rơi vào cái nhìn nghi ngờ từ cả hai
phía.
Bên Cộng Hòa có người đã cho ông là "hèn nhát": "Trịnh
Công Sơn ông chỉ là một cây sậy hơn thế nữa là một cây sậy yếu hèn (cho dù có
là "cây sậy biết suy nghĩ" tới đâu). Trong lớp vỏ của một cây sậy của
một thể chất yếu đuối là một bản chất yếu đuối...Là cây sậy ông khó mà đứng thẳng
trước những trận gió ào ạt những trận cuồng phong. Ông phải cúi rạp xuống. Là
cây sậy ông cũng tham sống sợ chết cũng thích ăn ngon mặc đẹp cũng run sợ trước
bạo lực cũng lo âu trước những nỗi bất an những mối đe dọa rình rập...".
[22]
Người ta nói "ông phải cúi rạp xuống... cũng run sợ trước
bạo lực...". Thế nhưng khi nghiên cứu cuộc đời và nội dung các sáng
tác của ông (các bài viết và gần 300 ca khúc) tôi không hề bắt gặp điều đó. Thậm
chí Trịnh Công Sơn rất ý thức khi không sáng tác một ca khúc nào có ca từ ca ngợi
lãnh đạo lãnh tụ hay ca ngợi thể chế mình đang sống dù trong thời chiến tranh
hay thời hậu chiến. Đó là lòng tự trọng của người trí thức mà không phải ai
cũng có được.
Bên cộng sản những người quá khích thì "gạt ông qua bên lề"
vì thiếu vắng lập trường chính trị. Trịnh Công Sơn chênh vênh giữa hai "lằn
đạn"... Mặc kệ những phán xét ông sống theo suy nghĩ của riêng mình. Tôi
nghĩ rằng thái độ kiên định lập trường sống và hoạt động nghệ thuật của riêng
mình chính là bản lĩnh hiếm có của một nghệ sĩ lớn. Là một nghệ sĩ ông dùng lời
ca để hát lên thân phận con người trong chiến tranh kêu gọi hòa bình và tình
yêu thương. Hành động dấn thân với tư cách là người nghệ sĩ đấu tranh cho hòa
bình theo tôi là một chọn lựa dũng cảm đầy tính nhân văn của một trí thức. Và
hành động ở lại Việt Nam sau ngày 30 tháng Tư thở cùng nhịp thở với đất nước
đau cùng nỗi đau của dân tộc là logic của một nhân cách lớn. Chính điều ấy đã
làm ông trở thành một công dân "ngoại hạng".
Và một nghịch lý đã xảy ra: Người dân bên nào cũng đều thích hát nhạc
của ông nhưng trớ trêu thay chính quyền bên nào cũng đều cấm đoán.
Tại sao chính quyền phải run sợ trước những lời ca phản chiến?
Vì quả thật những gì Trịnh Công Sơn nói lên qua ca khúc của ông đều
là nỗi lòng và mơ ước chung của mọi người dân nước Việt. Đó chính là tiếng nói
của lương tâm con người. Năm trăm năm trước Nguyễn Trãi cũng đã từng nói lên nỗi
phẫn nộ và đau xót trước cảnh tàn hại do giặc Minh xâm lược gây ra: "...Dân
chúng lưu ly những nỗi lìa tan không kể xiết binh sĩ đánh chác luôn năm chết
chóc đáng thương thay!". (Biểu Cầu phong - bài 21). [33] Và
trong Bình Ngô đại cáo ông cũng nói lên thân phận con người bị giày
xéo trong chiến tranh:
Nướng con đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ...
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc
ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng
khốn nỗi rừng sâu nước độc...
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi. [17]
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ...
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc
ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng
khốn nỗi rừng sâu nước độc...
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi. [17]
Lịch sử Việt Nam như chúng ta biết là một đất nước luôn luôn bị chiến
tranh giày xéo nội chiến phân ly. Vì vậy những người dân trong đất nước này từ
bao đời phải luôn sống trong cảnh ly tan. Hết giặc nọ đến giặc kia trùng trùng
bủa vây. Đại thi hào Nguyễn Du cuối thế kỷ thứ 18 đầu thế kỷ 19 cũng nói lên nỗi
thống khổ của người dân trong cảnh loạn lạc:
Lần phố xin miếng ăn
Cách ấy
đâu được mãi
Chết lăn rãnh đến nơi
Thịt da béo cầy sói
(Sở kiến hành).
[17]
Trịnh Công Sơn giữa thế kỷ 20 cũng nói lên bao cảnh thương tâm diễn
ra hằng ngày trên một đất nước tang tóc chiến tranh.
Từng chuyến bay đêm con thơ giật mình
Hầm trú tan hoang ôi da thịt vàng...
Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng.
Cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn.
Hầm trú tan hoang ôi da thịt vàng...
Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng.
Cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn.
Trần Hữu Thục đã rất tinh tế khi nhận ra: "Trong nỗi bi
phẫn vì chiến tranh Trịnh Công Sơn lên tiếng kêu gọi tranh đấu đồng thời nói
lên những khát khao hòa bình với những ca từ hùng hồn mang tính đấu tranh thúc
giục và đầy niềm tin về tương lai: Việt Nam ơi / Còn bao lâu những con người ngồi
nhớ thương nhau / Triệu chân em / Triệu chân anh / Hỡi ba miền vùng lên cách mạng
(Huế - Sài Gòn - Hà Nội -1969). Hầu hết những ca từ mạnh mẽ hô hào đó không phải
là những hô hào chém giết mà là hô hào chiến đấu cho hòa bình". [50]
Trịnh Công Sơn vẽ ra hình ảnh một đất nước sau chiến tranh rất huy
hoàng:
Ta cùng lên đường
Đi xây lại Việt Nam
Bàn chân ta đi mau đi sâu vô tới rừng cao
Vác những cây rừng to
Về nơi đây ta xây dựng nhà
Dựng làng mới cho dân ta về
Dựng nhà mới cho miền quê.
Đi xây lại Việt Nam
Bàn chân ta đi mau đi sâu vô tới rừng cao
Vác những cây rừng to
Về nơi đây ta xây dựng nhà
Dựng làng mới cho dân ta về
Dựng nhà mới cho miền quê.
(Dựng lại người dựng lại nhà - 1968)
Cũng theo Trần Hữu Thục ẩn đằng sau những ca từ cho một viễn cảnh
thanh bình đó vẫn là những dòng nước mắt là nỗi ưu tư nhân thế là tâm trạng đớn
đau cùng cực của thân phận nhỏ bé của kiếp người. "Vẫn là hạt bụi vẫn là nỗi
khắc khoải siêu hình trước cuộc nhân sinh. Chiến tranh quê hương thân phận con
người cuộn xoáy vào với nhau tạo thành một bi kịch. Rốt cuộc thực chất cuộc đời
ông là một kẻ suy ngẫm về kiếp người một tên hát rong suốt đời lang thang buồn
bã. Chiến tranh cũng là bi kịch nhân sinh như mọi bi kịch khác. Bởi vậy có những
lúc ông hô hào reo ca đấu tranh cho hòa bình thân phận ông cũng thế. Vẫn là một
thân tượng buồn!" [50]
Vẫn là:
Trên đời người trổ nhánh hoang vu
Trên ngày đi mọc cành lá mù
Những tim đời đập lời hoang phế.
... Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa.
Trên ngày đi mọc cành lá mù
Những tim đời đập lời hoang phế.
... Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa.
Có lẽ từ lần đầu tiên đặt bút viết Trịnh Công Sơn đã nghiệm ra được
chân lý riêng của mình: "Cái khả năng to lớn sau cùng của ca khúc là mang
đến cảm thông giữa mọi người bằng tiếng hát. Đó là sứ mệnh truyền đạt những âu
lo chờ đợi của con người khi đối diện với chính mình trước cuộc sống cũng như
thông điệp tình yêu và nhân ái đến với những tâm hồn yêu chuộng hòa bình và những
con tim đang bị ngộ độc bởi ngòi thuốc nổ". Cuối cùng gì thân phận ông
cũng như một ngọn cỏ bên đường. Và chính ngọn cỏ bé nhỏ đó đã tạo thành một Trịnh
Công Sơn khác mang ông đi vào vĩnh cửu.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam thân phận da vàng của một nước
nhược tiểu được Trịnh Công Sơn đẩy đến tận cùng:
Người nô lệ da vàng ngủ quên
Ngủ quên trong căn nhà nhỏ
Đèn thắp thì mờ...
Ngủ quên trong căn nhà nhỏ
Đèn thắp thì mờ...
(Đi tìm quê hương - 1967)
Với cái nhìn tỉnh táo Trịnh Công Sơn đã nhận ra thân phận "nô
lệ da vàng" của người Việt trong chiến tranh. Ông luôn nhắc nhở chúng ta về
một dòng giống Lạc Hồng trong bối cảnh tranh giành quyền lợi của các nước lớn.
Bởi vì người Việt sống nhưng không có chủ quyền trong tay sinh mạng bị phụ thuộc
vào ngoại bang giá trị làm người bị phủ nhận thì khác gì một nô lệ. Trịnh Công
Sơn hỏi: Vậy thì tại sao lại có cảnh nội chiến? Đây là lời tố cáo:
Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu
Một trăm năm nô lệ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ một bọn lai căng
Gia tài của mẹ một lũ bội tình...
Một trăm năm nô lệ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ một bọn lai căng
Gia tài của mẹ một lũ bội tình...
(Gia tài của mẹ - 1965)
Sự xuất hiện của hai chữ lai căng trong ca từ mang nhiều
ý nghĩa quan trọng. Lai căng tức là từ bỏ con người văn hóa dân tộc của
mình để biến thành một người khác. Lai căng là phụ thuộc ngoại bang từ
bên này hay bên kia bằng cách này hay cách khác. Bọn lai căng đó trở thành một
lũ bội tình dân tộc vì luôn luôn đứng sát với ngoại bang để bóc lột mưu cầu quyền
lợi hãm hại đồng bào mình.[23] Lời mẹ dặn con chớ quên màu da vàng dặn con giữ
gìn màu da vàng chính là một cách phản kháng tâm thức nô lệ một hình thức chống
lại những khuynh hướng lai căng đang đe dọa:
Dạy cho con tiếng nói thật thà
Mẹ mong con chớ quên màu da
Con chớ quên màu da nước Việt xưa
Mẹ trông con mau bước về nhà
Mẹ mong con lũ con đường xa
Ôi lũ con cùng cha quên hận thù.
Mẹ mong con chớ quên màu da
Con chớ quên màu da nước Việt xưa
Mẹ trông con mau bước về nhà
Mẹ mong con lũ con đường xa
Ôi lũ con cùng cha quên hận thù.
(Gia tài của mẹ - 1965)
Dân tộc của ông là trăm trứng nở ra trăm con trong huyền thoại lịch
sử cùng giống Con Rồng Cháu Tiên. Dân tộc của ông là thế: là tất cả mọi người
không phân biệt Nam-Bắc không phân biệt giai cấp. Vì sao? Vì có người mẹ nào
phân biệt con? Dân tộc bởi vậy mang hình ảnh bà Mẹ. Bà Mẹ đó luôn ăn năn - ăn
năn cả đến việc đã sinh ra con bởi vì sinh ra con để làm gì khi chúng sống một
kiếp người đọa đày thù hận? [23]
Mẹ nhìn quê hương nghe con mình buồn
giọt lệ ăn năn
Giọt lệ ăn năn đưa con về trần tủi nhục chung thân.
giọt lệ ăn năn
Giọt lệ ăn năn đưa con về trần tủi nhục chung thân.
Chiến tranh là tủi nhục của bà Mẹ vì xương thịt nào cũng từ Mẹ mà
ra xương thịt nào cũng là Việt Nam. Cùng là đứa con của Mẹ mà thôi. [23]
Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn là thế. Có người tán thành có
người còn nghi ngại. Âu cũng là lẽ thường tình vì cách nghĩ của con người có
bao giờ là như nhau. Nó luôn vận động và nhận chân lại những giá trị lý giải lại
những gì đã qua. Cuộc đời này mãi mãi là như vậy. Nhưng cho dù là gì đi nữa
theo tôi chắc không ai không thừa nhận Ca khúc da vàng của Trịnh Công
Sơn bắt nguồn từ lòng yêu thương con người. Mà cái gốc tình yêu thương của ông
chịu ảnh hưởng sâu đậm triết lý "Tứ hải giai huynh đệ" là nhân loại một
nhà vượt qua những hệ tư tưởng nhỏ bé những hệ lụy đời thường. Ông đã đứng lên
trên tất cả mọi thiên kiến chính trị để nói lên nỗi đau của người dân da vàng của
người dân nước Việt. Và phải chăng vì viết theo "mệnh lệnh của con
tim" chứ không theo một thứ mệnh lệnh nào khác mà người đời đã vinh danh
ông là Kẻ du ca bất khuất của Việt Nam.
Ông ca tụng tình yêu thương ông chống bạo lực và chống chiến tranh.
Kêu gọi đoàn kết xoá bỏ hận thù. Phải chăng đó là những chủ đề không chỉ có
tính thời sự cấp thiết mà còn luôn luôn là vấn đề lớn của nhân loại của muôn đời.
Cho đến ngày nay sau hơn 30 năm kết thúc chiến tranh nhìn lại những
chặng đường thăng trầm của đất nước có lẽ đã đến lúc chúng ta dũng cảm nhìn nhận
lại cuộc chiến đã qua và thân phận các ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn.
Và chúng ta hãy tự hỏi: thân phận da vàng người Việt ngày nay đã thực sự thoát
đời nô lệ ngoại bang chưa?
Hay vẫn còn đó nỗi niềm:
Ôi gian nan đời nước nhỏ
Sao đau thương nhiều lắm thế
Ôi gian nan đời nước nhỏ
Sao đau thương nhiều lắm thế
(Quê hương đau nặng - 1971)
Chiến tranh hạt nhân chiến tranh tôn giáo chiến tranh giữa những hệ
tư tưởng... nội chiến... ngay lúc này chúng ta có thể nghe thấy tiếng bom nổ
trong thành phố Baghdad xung đột ở Palestine khủng bố ở Thái Lan... cuộc chiến
vẫn luôn chực chờ ở đâu đó và những ca từ kêu gọi hòa bình yêu thương con người
của Trịnh Công Sơn vẫn luôn mãi còn giá trị.
Ban Mai
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét