Người đàn bà trên đồi cỏ
Năm đó Phượng mười bảy tuổi.
Năm đó chùa Tây Tạng ờ Bình Dương có một vị Phật tên gọi là Tỳ
Lô Giá Na và một cô tiên nhỏ tên là Annie Phượng. Buổi tối khi các tín hữu đã
xong lễ về nhà khi thầy trụ trì và các sư sãi đã tụng xong bài kinh Kim Cang Đảnh
khi rừng cây đã im lặng mái chùa đã chìm khuất trong màn đêm... thì ánh sáng của
hai vầng hào quang tỏa ra ôm lấy ngôi chùa. Một vầng sáng màu tím nhạt ấm áp của
đức Phật và một vầng sáng trắng tinh khiết của Phượng.
Hào quang của Phượng tươi mới rực rỡ như một khóm hoa lung
linh trong sân chùa. Annie Phượng không phải là ni cô không đi tu nhưng hai
mươi năm sau khi theo Nguyễn Đức Sơn lên rừng nàng đã hóa thân thành Bồ tát.
Tôi chưa từng gặp Phượng thời con gái. Cũng chưa từng gặp Phượng
năm nàng hai mươi tám tuổi dắt con theo chàng thi sĩ ngông cuồng lên rừng. Tôi
chỉ gặp nàng khi nàng đã vượt qua chín tầng địa ngục qua những cái chết những
cơn bệnh những đám cháy rừng và những cơn đói.
Nhưng tôi vẫn biết nàng rất đẹp.
Trịnh Công Sơn cũng biết nàng rất đẹp.
Nguyễn Đức Sơn thì chửi bới nguyền rủa mọi thứ. Tôi nói:
- Tôi đến đây để tìm một Nguyễn Đức Sơn "vĩ đại"
nhưng tôi chỉ gặp một Phượng vĩ đại. Nếu không có người đàn bà này ông đã chết
rồi Sơn ạ.
Sơn chửi thề. Và Phượng im lặng. Luôn luôn im lặng. Một cái
bóng mảnh mai ngồi bất động trong hoàng hôn trên mặt đất đầy lá khô và cỏ. Một
khuôn mặt đầy nếp nhăn và một đôi mắt đẹp đầy những dấu chân chim.
Năm 1972 Nguyễn Đức Sơn trốn lính về tá túc ở Bình Dương dạy
Anh văn tại một tư thục. Nếu không gặp Phượng hắn sẽ chẳng có tác phẩm nào ra hồn.
Phượng rọi hào quang của nàng vào cái đầu mê gái tơi bời của hắn và hắn được cô
"độ" cho thành...thi sĩ. Tác phẩm "Đêm Nguyệt Động" ra đời
từ dòng nước cam lồ róc rách tuôn ra từ nhục thể của "thánh cô" Annie
Phượng.
Và huyền thoại đã bắt đầu:
Năm mười bốn có lần anh ngó thấy
Em cởi truồng ngoe nguẩy cuối vườn trăng
Hồn thảo dã trong đêm vừa thức dậy
Khắp bầu trời ướt mượt cả lông măng
Từ dạo đó xác hồn anh mất hết
Một đêm nào trở lại cõi vô biên
Đời anh đó đâu có bằng hạt cát
Đã vô tình vương dưới gót chân em
Từ đó chàng thi sĩ luôn trộn lẫn trần tục với bồng lai nên
khi cô nữ sinh "tụt quần xuống đái" thì hào quang cũng rực sáng muôn
trùng.
Trên rừng vắng một mình anh hái trái
Bỗng mơ hồ trông thấy quá nhiều chim
Bên mương vắng em tụt quần xuống đái
Anh thấy càn khôn rụng xuống trong tim
Nhưng những vần thơ mê gái thượng thừa ấy cũng không lay động
được Annie Phượng. Chàng khóc lóc rên siết quỳ lạy...cũng chẳng ăn thua bèn
dùng "khổ nhục kế". Nếu như ngày nay thì chàng thi sĩ sẽ quấn chất nổ
quanh mình rồi lao vào "đánh bom tự sát" nhưng Nguyễn Đức Sơn thời đó
đã trèo lên thành giếng và kêu lên: "Bớ Chúc Anh Đài! Ta chết đây!"
làm Phượng hoảng hốt.
Cuộc hôn nhân đã bắt đầu như vậy.
Cuối đời nhà Thương Vũ Vương cử binh đi đánh Trụ. Bá Di Thúc
Tề cản lại mà rằng: "Bầy tôi đánh vua để cướp nước thế có gọi
là nhân được không?"
Khi vua Vũ diệt được Trụ dựng nên nhà Chu thiên hạ ai cũng
tôn phù. Bá Di Thúc Tề chê là bất nghĩa không thèm ăn thóc nhà Chu cùng nhau
lên núi Thú Dương hái rau vi mà độ nhật.
Sau có người đến bảo rằng : "Nhà Chu đã trị thiên hạ thì
nơi nào lại chẳng phải của nhà Chu ăn rau núi này chẳng phải ăn rau nhà Chu
ư?" Hai ông nghe nói bèn nhịn đói cho đến chết.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 Nguyễn Đức Sơn bỏ đời đưa vợ con
lên núi. Tuy ông không đến nỗi "dở hơi" như Bá Di và Thúc Tề nhưng
ông cũng cực đoan đến nỗi cấm không cho các con học chữ.
Lúc ấy hình như Phượng mới có ba đứa con: Nguyễn Đức Thạch
Nguyễn Đức Thảo và Nguyễn Đức Vân. Hàng ngày hai vợ chồng phải vô rừng bẻ măng
hái rau rừng đào củ mài về ăn thay cơm. Sau đó họ trồng rau lang vừa để ăn vừa
để bán.
Buổi sáng Phượng thường dậy rất sớm. Chiều hôm trước mấy mẹ
con đã cắt rau lang bó thành từng bó lớn để sẵn trong sân. Nguyễn Đức Vân giúp
mẹ cột các bó rau lên chiếc xe đạp rồi vịn xe cho mẹ ngồi. Phượng đạp xe qua những
lối mòn trong rừng để ra chợ. Nguyễn Đức Vân chạy yểm trợ phía sau. Mỗi lần lên
giốc Vân đẩy phụ xe cho mẹ. Khi xuống giốc Vân phải rị xe lại nếu không xe sẽ
lao đi ném Phượng xuống triền giốc.
Hai mẹ con ra đến chợ lúc bốn giờ sáng. Trời còn tối mù có
hôm sương xuống dày đặc nhưng mồ hôi toát ra ướt áo. Vân trải tấm ny-lông xuống
đất ngay trước cổng nhà thờ cho mẹ nằm. Phượng nằm nghiêng bó gối thiếp đi một
lúc.
Khi tiếng chuông nhà thờ vang lên hai mẹ con thức giấc. Lác
đác đã có tiếng người và tiếng bước chân xôn xao quanh khu chợ nhỏ.
Hai mẹ con đẩy xe rau đến đó.
Ba anh em tìm được một vạt rau rừng tươi tốt. Hôm nay
không có măng và củ mài cũng cạn kiệt những con nhím đã đến trước và lấy đi hết.
Ba anh em trở về với một gùi rau.
Phượng đem rửa ngoài chái nhà và bắc nồi nước.
Trong vò chỉ còn một lon gạo.
Cả nhà xúm quanh nồi rau rừng.
Mớ rau ấy mang những độc tố gì? Sau bữa ăn mọi người đều chìm
vào một cơn mê ngủ. Hai vợ chồng và ba đứa con trai tất cả năm người nhưng chỉ
có 4 người thức dậy. Nguyễn Đức Thảo đã ngưng thở. Bệnh viện cũng không cứu được.
Thảo chết có lẽ vì sau bữa ăn em còn uống thêm một bát nước rau luộc. Năm ấy em
mười ba tuổi.
Em nằm trên chiếc giường tre nhỏ chiếc áo đang mặc trên người
đã rách tả tơi xơ xác đến nỗi không thể vá được nữa. Phượng ngồi bên giường. Giọt
nước mắt mệt mỏi vừa ứa ra đã nhòe trên gò má nhăn nheo.
Mấy anh em không ai có được chiếc áo lành để mặc cho đứa em bất
hạnh. Phượng lục tìm trong mớ áo xống của mình chọn được một chiếc tương đối
lành lặn. Bà lấy kim chỉ ngồi bên giường của đứa con trai vừa vá lại những chỗ
sờn rách vừa khóc:
- Con ơi! Mẹ xin lỗi vì đã không có được một chiếc áo lành để
chen thân cho con lúc con ra đi. Hãy mặc tạm chiếc áo của mẹ.
Nguyễn Đức Sơn thì bất động như một gốc thông già lặng thinh
như hòn đá nám khói.
Ông chôn con mình trên đồi thông rồi ném cái cuốc xuống triền
giốc. Ông ôm lấy nấm đất đen và khóc ngất.
Cũng từ đó Phượng im lặng. Nguyễn Đức Sơn thắp ngọn đèn
dầu viết những gì ông nghĩ. Bôi xóa. La hét. Vò nát bản thảo vứt bừa bãi trong
xó tối trên nền đất đen ẩm ướt.
Phượng đi lại trong túp lều như cái bóng. Bà gom những tờ bản
thảo bị vò nát vuốt cho chúng thẳng ra xếp lại theo thứ tự rồi ngồi lại cái bàn
gỗ ọp ẹp trước cái máy chữ. Bà đánh máy lại những tác phẩm của chồng.
Xong việc bọc theo mấy củ khoai và vác cuốc vô rừng. Bà gom
lá khô lại đốt thành tro rồi đem bón cho những gốc thông mà Sơn đã trồng mấy tuần
trước đó. Bà dọn cỏ cho những luống mì luống khoai. Lưỡi cuốc miệt mài. Hai bàn
tay sạm đen khô cứng.
Mỗi ngày bà làm việc trong rừng tới khi tắt nắng mới về. Cơm
nguội buổi sáng vẫn còn. Mấy con cá kho nhỏ như ngón tay. Trong bữa ăn không ai
nói gì cũng không ai than thở.
Đời sống vật vã như cơn gió đang mắc kẹt trong rừng thông.
Hoàng hôn che khuất dần mảng trời trước khung cửa.
Hôm sau Phượng lại vác cuốc vô rừng. Buổi trưa Phượng ngồi
trên đồi thông hát một mình những ca khúc thời con gái. Gió rì rào từ dưới lũng
thấp thổi tới.
Phượng vừa chợp mắt đã nghe nóng rát mặt. Gió hừng hực. Nó ập
tới mạnh mẽ khác thường. Nó mang theo tiếng răng rắc của củi cháy.
Phượng đứng dậy dùng cuốc xúc đất vãi vào lửa. Nhưng lửa sỗ
sàng. Khói cuộn lên như đám mây lớn. Những nắm đất nhỏ nhoi của bà trở nên vô
nghĩa. Hơi nóng táp vào mặt. Lửa rừng rực xồng xộc tới như bầy tê giác điên.
Phượng sợ hãi nhưng không bỏ chạy. Bà cầm cây cuốc. Hai tay
run bần bật. Lửa đã trùm lên cả một mảng rừng Lửa đỏ trời che khuất những đám
mây.
Phượng sợ quá nhưng không chạy được. Bà quỵ xuống gãy gập như
cây bắp khô.
Vừa lúc Nguyễn Đức Vân chạy tới. Phượng đã bất tỉnh.
Nguyễn Đức Sơn lấy cái mền cột túm hai đầu luồng một
cành cây vào giữa. Cùng với Nguyễn Đức Vân hai cha con cáng mẹ băng rừng ra phố.
Vừa chạy vừa khóc. Gai tre và cành cây cào xước mặt. Máu lẫn với nước mắt.
Nhưng trời vẫn còn thương cha con chàng thi sĩ ngông cuồng.
Phượng đã tỉnh lại.
Ba hôm sau Trịnh Công Sơn từ Sàigòn lên ghé bệnh viện Bảo Lộc.
- Mày lên đây làm gì?
Sơn nhạc sĩ đáp:
- Thăm Phượng. Sao nỡ hành hạ người ta đến vậy?
Sơn Núi bỏ đi.
Trịnh Công Sơn ở lại với các con của Phượng. Có lẽ hôm đó là
một ngày của năm 1982. Tôi không biết và các con của Phượng cũng không biết
chính xác là ngày và tháng nào. Trịnh Công Sơn đã tặng cho gia đình Nguyễn Đức
Sơn 60 triệu đồng. Thời điểm đó số tiền ấy rất lớn.
Nó đã cứu Phượng đã giành giựt Phượng khỏi tay tử thần.
Cuộc rượu cũng tàn theo nắng xế. Nhưng những lời vung vít của
chàng cuồng sĩ thì vẫn còn sôi nổi. Bóng tối đã tràn ngập rừng cây đồi cỏ và những
lối mòn. Phượng và mấy cô con gái tiễn chúng tôi về. Khi xuống tới cuối ngọn đồi
Phương Bối - cô con gái lớn của Sơn và Phượng - nói:
- Chú ạ ba con chửi đời và tỏ vẻ bất cần đời nhưng đó chỉ là để
che giấu nỗi buồn che giấu sự cô đơn của ông. Và trong thâm tâm ông cũng biết
là ông đã sai lầm khi đưa tụi con lên đây và cấm tụi con đi học.
Đó là bi kịch của ông. Bi kịch của Sơn Núi. Bi kịch của Nguyễn
Đức Sơn thi sĩ.
Ngày 24.11.2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét