1. Tha hóa là khái niệm chỉ hiện tượng “Con người biến chất
thành xấu đi” (1). Trong lịch sử văn học thế giới, nhân vật tha hóa đã xuất hiện
từ lâu, có nhiều nhân vật sống mãi và gắn liền cùng tên tuổi các nhà văn như
Juyliêng (Đỏ và đen - Xtăng đan), Rêbécca (Hội chợ phù hoa - M.Thaccơrê),
Raxcônnhicốp (Tội ác và trừng phạt - Đôxtôiepxki), Raxtinhắc (Tấn trò đời -
Banzắc)... Ở Việt Nam, nhân vật tha hóa xuất hiện cùng với trào lưu văn học hiện
thực phê phán (1930-1945) trong các tác phẩm của các nhà văn Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng và đặc biệt là Nam Cao. Đến giai đoạn văn học 1945-1975,
do chịu sự chi phối đặc biệt của hoàn cảnh lịch sử 30 năm chiến tranh, các nhà
văn không có điều kiện để xây dựng loại hình nhân vật này. Sau 1975, nhân vật
tha hoá có sự xuất hiện trở lại ở nhiều cây bút văn xuôi, trong đó có Lê Minh
Khuê.
2. Khảo sát truyện ngắn của Lê Minh Khuê viết sau 1975
cho thấy kết quả: 32/41 truyện xuất hiện nhân vật tha hóa. Đây là con số thống
kê chưa đầy đủ nhưng cho thấy rõ ràng bước sang thời kỳ văn học này Lê Minh
Khuê đã có dụng ý tập trung bút lực miêu tả kiểu nhân vật tha hóa - một
trong những kiểu loại nhân vật thường để lại ấn tượng thẩm mỹ sâu
đậm cho độc giả khi tiếp nhận tác phẩm.
Hệ thống nhân vật tha hóa
được nhà văn tái hiện có khá đủ đại diện các tầng lớp xã hội, chứng tỏ Lê
Minh Khuê không đơn giản trong cách nhìn nhận khám phá hiện thực cuộc sống và
con người. Trong cuộc sống đời thường muôn mặt, Lê Minh Khuê đã có một độ lùi cần
thiết về thời gian để xem xét lại quá khứ. Nhà văn nhìn kỹ hơn mặt khuất và nỗi
đau của người Việt Nam, khi chiến tranh đi qua số phận họ. Bức tranh hậu
chiến của một đất nước mà ở đó con người luôn phải gồng mình lên để hứng chịu
những đau thương, mất mát được Lê Minh Khuê phác họa có một chiều sâu thăm thẳm.
Sự tàn phá khủng khiếp không phải chỉ đơn thuần ở bề mặt vật chất, mà còn
trong toàn bộ đời sống tinh thần văn hóa dân tộc. Di chứng chiến tranh để lại
dai dẳng, truyền đời và sức công phá của nó lan tỏa cả ở bề rộng lẫn chiều sâu.
Chính một bạn đọc người Mỹ đã nhận xét rằng: “Qua các câu chuyện của Lê Minh
Khuê chúng ta hiểu được rằng ở Việt Nam xây dựng lại cuộc sống không dễ như xây
lại những con đường hay cây cầu của họ bị chiến tranh tàn phá” (Tạp chí Crab
Orchard Review). Lẽ tất nhiên, trong cái ngổn ngang, bề bộn, đầy biến động,
quay đảo hỗn tạp của thế giới này con người rất dễ bị tha hóa, biến chất, sống
một đời sống bất ổn. Sự tha hóa trong các nhân vật của Lê Minh Khuê xảy ra dưới
nhiều cấp độ và biểu hiện vô cùng đa dạng: kẻ thì chớm hư hỏng, còn có khả năng
thức tỉnh, kẻ thì bị nhuộm đen hoàn toàn và chỉ là con thú đội lốt người. Có sự
tha hóa do tình thế đưa lại, do hoàn cảnh ép buộc, có sự tha hoá thuộc về bản
chất do hám vật chất, tiền bạc và quyền lực. Sự tha hóa lúc lộ liễu công khai,
khi lại tinh vi len lỏi ẩn mình.
Truyện ngắn Lê Minh Khuê
sau 1975 thường xuất hiện hai dạng nhân vật tha hóa: Nhân vật tha hóa và nhân vật
bị tha hóa. Dưới đây là một vài nét nghệ thuật xây dựng hai dạng nhân vật này của
ngòi bút Lê Minh Khuê.
Nhân vật tha hóa ở đây là những kẻ
hoặc tham lam tiền bạc, vật chất chạy theo lối sống sa đọa, thực dụng tầm thường,
hoặc tham vọng quyền lực đỉnh cao.
Với sự nhạy bén và tỉnh táo, Lê Minh
Khuê đã tạo được cái nhìn riêng về một thế giới mà ở đó “đồng tiền lên ngôi thượng
đế” (Những kẻ chờ sung). Cũng viết về những gì rất đời thường nhưng độ sắc
trong những trang viết của Lê Minh Khuê là ở chỗ nhà văn dám dũng cảm nhìn thẳng
vào những “mặt cắt của dòng đời” (dùng chữ của Nguyễn Minh Châu), những bi kịch
nhân sinh, gián cách mổ xẻ nó một cách trung thực táo bạo, từ đó lật tẩy những
trớ trêu, những nghịch cảnh cuộc sống. Tinh lực văn chương của Lê Minh Khuê lộ
rõ khi xây dựng chân dung những nhân vật bị biến dạng nhân tính bởi sự điều khiển
của đồng tiền và quyền lực. Khai thác những mảng đề tài mới mẻ, bằng lối viết mạnh
bạo, sắc lạnh, tác giả làm bật dậy những thân phận, những tính cách có góc cạnh
và chiều sâu tâm lý. Gấp trang sách lại dường như vẫn thấy nhân vật này đi lại,
ăn nói, tính toán hành động một cách tai quái, ác hiểm thật tự nhiên, sinh động.
Bọn họ quay cuồng, điên đảo trong vũ điệu man dại của Đồng đô la vĩ đại, ma lực
của Đồng tiền có màu xanh huyền ảo.
Để xây dựng mô hình kiểu
nhân vật tha hóa, điều quan tâm của tác giả là chú trọng miêu tả các hành động ứng
xử của nhân vật trong các mối quan hệ (quan hệ với gia đình, với xã hội và với
chính bản thân)... Thái độ tôn thờ đồng tiền một cách mù quáng, coi tiền trên hết
là nguyên nhân gây ra bi kịch trong chính cuộc đời lão Thiến và gia đình lão (Anh
lính Tony - D). Với thủ pháp cường điệu được sử dụng một cách có hiệu quả, với
nghệ thuật châm biếm tinh tế, nhẹ nhàng, Lê Minh Khuê đã phác hoạ những nét ấn
tượng ghê rợn về một loại người tha hoá trần trụi, nhơ bẩn, gớm ghiếc - sống một
cuộc sống quái gở, tù hãm, hủ hậu của loài thú vật.
Trong quá trình xây dựng tính cách
loại nhân vật này, nhà văn luôn tô đậm thái độ của họ trước sự xuất hiện hấp dẫn
của đồng tiền. Đây là hình ảnh của lão Thiến khi thằng con lão mang về một cái
ba lô to mà lão đoán là “của sụ”: “lão Thiến quanh ra quẩn vào, mắt liếc liếc
cái ba lô. Ruột gan lão cồn cào... lão không thể nhịn được nữa... lão như ngồi
trên lửa”. Đó là trạng thái “xúc động” của kẻ khát tiền, coi tiền như người
tình. Lê Minh Khuê tỏ ra có biệt tài khi lách sâu miêu tả diễn biến tâm lý nhân
vật, nhà văn như hoá thân vào nhân vật, đọc được “trạng thái tinh thần kỳ lạ mà
lão vẫn có khi nghe tin con có tiền”, tiền khiến “miệng lão nhạt như ngậm phải
bèo, mắt lão đục lờ đờ, nhìn không rõ”. Lão trở thành ngu muội, mụ mị, u mê,
hau háu trước những đồng tiền bất chính mà thằng con lão mang về.
Tuy vậy, sự táng tận
lương tâm vì tiền ở “con thú bố” vẫn còn thua xa “con thú con”. Thằng Thán mang
trong mình gien tha hóa di truyền từ lão Thiến, hắn “là môn đệ của bố” trong
ngón nghề “thó của” của người khác, nhưng hơn hẳn bố ở chỗ “thường làm các quắn
to”, “không lèm nhèm ăn vặt”. Hai bố con “đầu trộm đuôi cướp” này gầm gừ canh chừng
lẫn nhau vì bọc tiền kiếm được từ một bộ xương người lính Mỹ. Tiền đã khiến hai
“con thú “ này không từ bất cứ một phương kế kiếm chác nào, kể cả việc đầu cơ
trên bộ xương người chết. Một phương kế thật “độc chiêu”, một hành vi phủ định
nhân tính nhất. Vì tiền xâu xé lẫn nhau, tình cảm cha con thiêng liêng bị sổ toẹt,
vứt bỏ, không hề vướng bận. Đó là cách đối xử của những con vật hoang dã.
Cùng một giuộc với bố con lão Thiến,
vì tiền mà bán mình cho quỷ dữ còn có anh em lão Khang, An (Đồng đô la vĩ đại),
lão Tê (Những kẻ chờ sung), vợ chồng lão Tó (Ký sự những mảnh đời trong ngõ),
anh em Quanh, Lanh (Sân gôn)... Mỗi nhân vật thể hiện một cách hành xử tàn bạo
riêng trước lưới bủa vây của ma lực đồng tiền.
Bên cạnh sự tha hoá của những kẻ
tham tiền là sự tha hóa của những kẻ hám quyền lực. Ông Tuyên trong Bi kịch nhỏ
là nhân vật khá ám ảnh về hạng người này. Để bóc mẽ chân tướng của con thú đội
lốt “nhà cách mạng”, Lê Minh Khuê đã không né tránh khi điểm lại những hành động
phi nhân tính, xảo quyệt của hắn trong quan hệ cư xử với gia đình và xã hội. Với
gia đình hành động tội ác của “bác Tuyên” khởi đầu bằng việc “bỏ rơi một người
vợ trẻ, một đứa con trong cái vạc dầu sôi sục” thời kỳ cải cách ruộng đất. Bỏ một
cách nhẫn tâm, độc ác để “quay lại chăm lo cho bộ lông của mình như loài thú”.
Vợ ông “thù oán sự hèn hạ của chồng đã chết một cách đau đớn tức tưởi”, con
trai ông mới ba tháng tuổi đã phải lưu lạc góc biển chân trời. Khi đã đánh bóng
và bao bọc được hình ảnh của mình trong một vầng hào quang giả tạo (lý lịch
trong sạch, có nhiều công trạng “to lớn”) hắn bắt đầu cuộc đời quan chức cao cấp
uy nghi quyền lực “đứng đầu thành phố trực thuộc trung ương”. Tính cách bạo
chúa của ông Tuyên được phát huy cao độ trong suốt thời gian ông ngự trị trên
cái ghế cao quyền lực.
So với bọn người bị điều khiển bởi đồng
tiền, mức độ nguy hiểm của con người hám quyền lực này đáng sợ hơn nhiều, bởi lẽ
mọi hành động của hắn đều được sơn phủ một lớp “đạo đức” giả mà không phải ai
cũng dễ dàng nhận ra hoặc có thấy cũng không thể làm gì được hắn bởi bản lĩnh lạnh
lùng của kẻ “ít bộc lộ tình cảm này”. Một chuỗi những hành động tội ác của ông
Tuyên kết thúc bằng sự trả giá quá đắt của hậu thế: chính ông cùng tham vọng
quyền lực điên cuồng đã đẩy con ông đến chỗ loạn luân và cái chết bi thảm.
Nhân vật Tuyên - một sản phẩm
cặn bã của sự tha hóa quyền lực được tái hiện khá sinh động, chỉ điểm qua một số
hành động và con đường tiến thân của hắn, Lê Minh Khuê đã phác họa khá trọn vẹn
chân dung của một tên độc tài, cơ hội, tàn ác, gian hùng.
Với ý thức cách tân, nhà văn đã miêu
tả đời sống bằng cái nhìn tỉnh táo, Lê Minh Khuê đã tỏ ra khá triệt để trong việc
sử dụng bút pháp “hiện thực tàn nhẫn” để tái hiện chân dung đời sống trong tính
phi lý tưởng của nó. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy trong những trang miêu
tả “hiện thực hạ đẳng” (chữ dùng của M.Bakhtin) văn mạch của Lê Minh Khuê không
còn thủ thỉ, êm đềm như trước. Chị đã không kiêng dè, ngần ngại lột mặt nạ các quan
hệ đời sống, nói về cái xấu, cái ác của những con thú đội lốt người bằng một giọng
văn tiết chế, lạnh lùng, thản nhiên, khách quan, đôi khi chủng chẳng khô khan,
nhưng đầy hàm ý... cuộc sống là vậy, dù muốn hay không nó vẫn trình tự diễn ra
như một cuốn phim.
Có ý kiến cho rằng Lê Minh Khuê đã
“bộc lộ hạn chế trong xây dựng kiểu nhân vật tha hoá, đó là việc đưa vào tác phẩm
một số tình tiết dị biệt, hoặc sử dụng chi tiết ghê rợn gây nỗi hoang mang cho
người đọc” (2). Tôi lại cho rằng đó không phải là một hạn chế mà coi đó là một ứng
xử nghệ thuật đầy cá tính của Lê Minh Khuê. Đưa vào tác phẩm một cách có ý thức
những yếu tố nghịch dị, những chi tiết miêu tả nhân vật sắc sảo, gai góc nhà
văn đã tạc khắc trong tâm trí bạn đọc sự ám ảnh, day dứt không thể quên
về nhân vật.
Mức độ tha hóa của loại nhân vật
tha hoá chạy theo sự cám dỗ của đồng tiền và dục vọng quyền lực trong truyện ngắn
của một số tác giả khác thường dừng lại ở những thái độ ích kỷ, nhẫn tâm, lạnh
lùng trước nỗi đau khổ, mất mát của người khác hoặc một hành động gì đấy làm tổn
thương, gây đau khổ cho người khác, còn mức độ tha hoá của loại nhân vật
này trong truyện ngắn của Lê Minh Khuê thường được đẩy đến tận cùng bằng hành động
giết người có thể trực tiếp, có thể gián tiếp, hoặc không thì cũng làm người
khác phải đổ máu đau đớn. Dụng ý nghệ thuật này cho thấy rõ với sự thay đổi về
tư duy nghệ thuật, Lê Minh Khuê đã không nhìn đời thường bằng cảm hứng lãng mạn
thuần túy màu hồng mà nhìn nó như những “mảnh vỡ”, mỗi số phận có kiểu vỡ khác
nhau, chân dung hiện thực của cuộc sống vì thế lộ rõ nhiều góc khuất tối, nhiều
trạng thái, nhiều thang bậc giá trị đan cài chứ không đơn điệu kiểu kết thúc lạc
quan “ở hiền gặp lành”, “ta thắng địch thua” cho đúng khuôn mẫu một thời. Cái chết
của nhân vật bởi hành động giết người man rợ của những kẻ không còn mang trái
tim của con người tựa như một gam màu tối được tác giả tô đậm một cách có ý thức
trên bức tranh, nhằm gây một ấn tượng mạnh về thẩm mỹ cho người thưởng thức.
Một khi con người biết ghê rợn những gì đen tối, tàn ác thì có nghĩa còn mong
muốn vượt lên hướng tới ánh sáng của cái đẹp, cái thiện.
Nhà văn không hề ảo tưởng về cuộc sống,
vì thế chị không quay lưng lại với những nỗi đau nhân thế. Với ý thức “Viết về
cái ác cũng là một sự thức tỉnh nhân tính”, Lê Minh Khuê đã dám dấn thân, hòa
nhập với những thân phận đang chìm dưới đáy sâu của xã hội, nhìn thẳng vào nỗi
đau, niềm nhức nhối của con người trong sự bủa vây của sự gia tăng cái ác - báo
động khẩn thiết về sự khô kiệt nhân tính đang xuất hiện ở khắp nơi.
Bên cạnh thủ pháp miêu tả hành
động của nhân vật đặt trong các mối quan hệ, nhà văn còn dùng tính chất tự phê
phán của bản thân ngôn ngữ để lột tả tính cách nhân vật. Thủ pháp này phát huy
hiệu quả nghệ thuật qua các màn đối thoại cùng nhân vật. Không áp đặt tư tưởng
của mình cho nhân vật, gia tăng tính đối thoại, người viết như đưa người đọc
đứng trước cuộc đối thoại cùng nhân vật và sự cọ xát giữa các nhân vật, tạo nên
một môi trường để nhân vật tự bạch, tự nói lên mức độ tha hoá trong con người của
mình. Nhìn vào cấu trúc đối thoại của truyện ngắn Lê Minh Khuê thấy gọn, chắc,
ấn tượng, hiếm khi thừa lời. Qua những đối thoại cho thấy phong cách ngôn ngữ của
nhà văn, đó là ngôn ngữ đời thường thô ráp, góc cạnh (chứ không phải ngôn ngữ
được gọt giũa óng ả, êm mượt), thứ ngôn ngữ tự nhiên như ta thường gặp trong cuộc
sống hàng ngày, thứ ngôn ngữ này ta đã từng gặp trong truyện của Nam Cao, Vũ Trọng
Phụng. Có lẽ phong cách ngôn ngữ của những cây bút bậc thầy Nam Cao, Vũ Trọng
Phụng đã có ảnh hưởng không nhỏ đến Lê Minh Khuê, bởi chị từng ý thức: “Tôi yêu
văn Vũ Trọng Phụng, Nam Cao và thích độ lạnh của hai ông”.
Khi miêu tả “hiện thực hạ đẳng”,
các trang viết của Lê Minh Khuê xuất hiện khá nhiều yếu tố tục. Việc sử dụng
nhiều yếu tố tục trong xây dựng loại nhân vật bị tha hóa mang chủ đích nghệ thuật
của tác giả. “Thực ra, bên cạnh cái thanh nhã, tục cũng là một phạm trù thẩm mỹ
nếu nó được đặt đúng nơi đúng chỗ. Những nhà văn tài năng là những người dám sử
dụng cái tục không phải như một hình thức kích thích tính tò mò của loại thị hiếu
thấp kém mà muốn thông qua nó để chỉ ra trạng thái đời sống diễn ra tự nhiên
như nó vốn có” (3). Với việc sử dụng nhiều yếu tố tục, trong truyện ngắn Lê Minh
Khuê đối tượng miêu tả được tiếp cận một cách suồng sã, giữa chủ thể kể và đối
tượng không tồn tại khoảng cách, ý thức đối thoại đang lấn át ý thức độc thoại
vốn là sản phẩm của tư duy nghệ thuật mang tính sử thi. Nhà văn và nhân vật ở
vào thế bình đẳng như cùng xuất hiện trên một mặt bằng tranh luận. Nhà văn
không còn giữ tư cách “biết trước” biết hết mọi chuyện của đối tượng. Lê Minh
Khuê đã khai thác tối đa ngôn ngữ nhân vật. Nhân vật nói những điều cần nói và
nói bằng chính ngôn ngữ của mình.
Như vậy, Lê Minh Khuê đã thành công
trong một xử lý nghệ thuật có tính thử thách với người cầm bút. Trong dạng ngắn
của nó, truyện của Lê Minh Khuê là những mảnh đời đến với ta từ nhiều góc độ,
nhiều phía, không trùng lặp, đơn điệu. Cuộc đời được nhìn bằng sự “tự cảm thấy”
của nhà văn. Chính tại đây khuôn mặt đích thực của đời sống hiện lên sắc nét
hơn đâu hết. Chất đời thấm vào ngôn ngữ và khoảng cách tiếp cận suỗng sã trong
văn Lê Minh Khuê tạo nên màu sắc giễu nhại trong giọng điệu của nhà văn. Những
yếu tố nghịch dị và giọng điệu giễu nhại giúp ta một mặt nhận thấy bản chất thật
của đời sống, mặt khác tạo nên một không gian dân chủ về phương diện tinh thần.
Nó lột bỏ các nghi lễ, quy phạm, các trật tư tôn ti để làm nổi bật chân dung
đích thực của đối tượng miêu tả. Lê Minh Khuê như lùi lại sau hàng rào ngôn ngữ
để cho người đọc cảm nhận trực tiếp cái đa thanh của cuộc đời, cuộc đời là như
thế dù muốn hay không nó vẫn cứ tiếp tục tồn tại như vốn có: bề bộn và nhiễu
loạn.
Tái hiện chân dung nhân vật tha hóa ở
phương diện dùng tính chất tự phê phán của bản thân ngôn ngữ, Lê Minh Khuê đã
thực hiện bút pháp hiện thực nghiêm nhặt - một bút pháp chủ trương lách vào tận
đáy sâu sự thật cuộc sống, phanh phui, lật tẩy những phần tối tăm nhất trong
con người: sự tàn nhẫn, mù quáng, ngu muội, độc ác, đểu giả... Tuy nhiên, tái
hiện một cách tàn nhẫn hiện thực bằng cái nhìn cực thực không có nghĩa là nhà
văn tung những “quả mù”, “làm rối trí người đọc”, “bôi nhem con người Việt
Nam” (4) hoặc thích thú với những giá trị thấp kém. Đằng sau cái hiện thực nhiễu
loạn, đảo điên bề bộn ấy là cái nhìn nghiêm túc, sắc sảo của nhà văn về cái xấu
xa, tàn ác. Là nỗi niềm nhức nhối khát khao: Con người có tỉnh ngộ, có đau lòng
hay không trước hiện trạng này? Nhân vật của chị vẫn sống ngang nhiên giữa đời
thường, “Mong mỏi đến ngày họ giác ngộ là người viết. Đau lòng hơn cả cũng là
người viết” (5).
Loại nhân vật này khác với loại
nhân vật tự tha hóa ở chỗ họ bị tha hoá ngoài ý muốn của bản thân. Một điều
đáng lưu ý là khi chúng tôi khảo sát chín tác phẩm xuất hiện loại nhân vật bị
tha hóa thì có đến bảy tác phẩm, nhân vật thuộc tầng lớp trí thức. Họ là nhà
báo, kỹ sư và nhiều hơn cả là nhà giáo. Rõ ràng, sự tha hoá của trí thức là một
trong những vấn đề Lê Minh Khuê trăn trở, quan tâm.
Trước Lê Minh Khuê, hình ảnh người trí thức
tha hóa đã từng xuất hiện trong tác phẩm của một số nhà văn hiện thực phê phán
và đặc biệt thành công dưới ngòi bút miêu tả sắc sảo của Nam Cao. Cùng thời với
chị cũng có nhiều nhà văn viết về đề tài người trí thức như Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... Như vậy để xây dựng kiểu nhân vật này Lê Minh Khuê
vừa phải biết tiếp thu những gì là tinh hoa của các bậc tiền bối, vừa phải biết
tinh nhạy kịp thời đón những cái mới của thời đại theo cách riêng của mình và
chỉ có như vậy nhân vật của chị mới có cơ hội có chỗ đứng trong lòng bạn đọc.
Thực tế, nhà văn đã cố gắng thể hiện được điều này qua chân dung nhân vật của
mình.
Điều dễ nhận thấy là để tạo dựng
nhân vật bị tha hóa, Lê Minh Khuê thường đặt nhân vật của mình vào một hoàn cảnh
có vấn đề. Trong quá trình “nếm trải” hoàn cảnh mang tính thử thách đó thường
thì nhân vật không thể hoặc chưa thể vượt qua. Họ “giãy giụa” mong thoát khỏi
bi kịch của số phận và trong quá trình “tìm đường” họ bị rơi vào những cái kết
cục khác nhau: có nhân vật xuôi đi theo cái xấu, có nhân vật ý thức rõ về sự
tha hóa của bản thân và cố gắng vượt qua mình nhưng thật khó khăn và chẳng đi đến
đâu.
Sự tha hóa của những nhân vật
trí thức trong truyện ngắn Lê Minh Khuê được thể hiện ngay ở diện mạo bên
ngoài... Nhà văn thường không tả hết tất cả ngoại hình mà tuỳ từng nhân vật,
trong từng hoàn cảnh cụ thể chọn lấy những chi tiết “biết nói” để phác hoạ nhân
vật. Thủ pháp đặc tả thậm xưng, tả kết hợp với phương thức so sánh gắn liền cái
nhìn trào phúng hóm hỉnh khiến diện mạo bề ngoài của các nhân vật hiện lên có
hình ảnh, đường nét rõ ràng: nhếch nhác, bệ rạc, yếu đuối, bất lực đến thảm hại.
Từ dáng vẻ này, người ta có thể đọc được phần nào đời sống bên trong của nhân vật,
mức độ tha hoá của kiếp “con người này”. Câu hỏi đặt ra với người đọc là
nguyên nhân nào đã dẫn họ đến chỗ “dị mọ” như vậy? Thông qua việc mô tả trạng
thái tinh thần của nhân vật, những diễn biến tâm lý, những việc làm, cử chỉ,
hành vi của họ tác giả đã cắt nghĩa sâu sắc, chỉ ra căn nguyên tha hoá
của tầng lớp trí thức nói riêng và con người nói chung trong xã hội hiện đại.
Lê Minh Khuê tỏ ra vừa hài hước
châm biếm, vừa nhân hậu, sắc sảo trong việc tái hiện tâm lý nhân vật trong hoàn
cảnh. Nhân vật của chị được đặt trong quá trình suy thoái không thể cưỡng. Và từ
trên cái cầu trượt đó, anh ta rơi vào cái chết mang tính hai mặt: thể xác và
tinh thần. Từ cái chết của tư cách một nhà giáo đưa tới cái chết của chính bản
thân anh ta. Cũng giống như nhân vật trí thức của Nam Cao, nhân vật trí thức
tha hoá của Lê Minh Khuê mang trong mình nội tâm những bi kịch giày vò trước sự
vô vị, vô dụng của cuộc đời mình khi anh ta đánh mất mình một cách vô thức.
Trong Thằn lằn tiếng khóc hối hận, xót xa của một “gã” giáo dạy sinh
vật cùng lời bộc bạch với đứa con gái khi nó cứu “gã” ra khỏi cái chết
thảm thương là đỉnh cao tâm trạng bi kịch đó: “Tại bố tiếc, bố nhớ cái thời
ngày xưa. Bố có đến nỗi nào. Chả đến nỗi dị mọ như bây giờ”. Không phải vô cớ
mà ở phần kết truyện nhà văn miêu tả tỉ mỉ đến từng động tác của gã: “Lọ mọ cho
cái cà vạt vào túi ni lông. Để vào giữa cuốn sổ, đóng cái miệng rương, cài móc
sắt, đẩy cái rương vào chỗ cũ”... Ngậm ngùi, tiếc nuối, tủi cực nhưng không còn
cách nào khác... Tất cả lại trở lại vị trí. Gã lại phải tiếp tục ngày qua ngày
mòn mỏi, nhọc nhằn, kéo lê gánh nặng gia đình với kiếp sống “Không bằng con thằn
lằn”. Người đọc cứ vừa trách, vừa thương, vừa tiếc thay hộ gã: giá như vợ chồng
gã đừng ham hố đẻ nhiều đến thế, giá như họ biết vượt lên, hướng đến ánh sáng
văn hóa, văn minh và không bị trói buộc bởi những tư tưởng lạc hậu thì đâu đến
nỗi nào…
Ông giáo Trí (Thân phận cu ly) là sản
phẩm điển hình của một thời đầy ấu trĩ. Ông ta bị hoàn cảnh biến thành một loại
người sống như một cỗ máy công cụ, “Cả đời ôm đồm đống chữ nghĩa mờ mịt” nên
không biết làm thêm cái gì để kiếm thêm tiền. Cũng như gã giáo viên trong Thằn
lằn, giáo Trí bị ràng buộc bởi gánh nặng gia đình “đầu gio mặt muội với đàn con
sáu đứa toàn vịt giời”. Mỉa mai thay “Ông có tới ba bằng đại học... học đến hói
cả tóc, giơ cả xương. Suốt đời ông giảng giải về các thứ tương lai của nhân loại”
vậy mà “lúc này trí thức và sức lực ông chỉ dùng cho một việc “vĩ đại”: ấy là
ông ngồi tính toán cách ăn tiêu như thế nào cho vừa với đồng lương”... đồng nào
gửi về quê, đồng nào cho con, đồng nào phần ông để duy trì cuộc sống?... Thói bảo
thủ, tự mãn cho rằng: “Trên đời này thật khó ai có thể sánh với ông” cũng là một
trong những nguyên nhân kéo ông ngày càng tụt hậu. Quanh đi quẩn lại với cái quỹ
đạo ngưng đọng, trì trệ, ứ lại của cuộc sống hàng ngày. Không thể tự vượt thoát
khỏi hoàn cảnh, giáo Trí nhìn đời bằng cái nhìn chua chát, cay cú, hằn học: “Vậy
thì thời nào cũng thế thôi. Cóc nhái nó cứ nhảy lên đĩa cả hàng đống”. Chữ
nghĩa đầy mình, “kiến thức sâu rộng” mà buồn thay ông ta không thể tìm được một
cuộc sống khả dĩ cho chính bản thân mình. Cái cách “bảo tồn năng lượng” của ông
ngẫm kỹ thấy thật là một sự hổ thẹn của giới trí thức thời bao cấp. Thân phận của
ông giáo “ba bằng đại học” không bằng thân phận một kẻ đi làm cu ly xứ người.
Còn thầy giáo trong Thầy giáo dạy
triết thì như một cái máy biết nói cũ rích, tua đi tua lại “những điều mà bọn
trẻ chẳng mấy quan tâm nữa. Môn triết của thầy trái khoáy với cái điều bọn trẻ
ngẫm ngợi”. Ông giáo này đã 49 tuổi mà chưa có vợ, dù không bị gánh nặng gia
đình níu chân nhưng cuộc sống, phong độ của ông cũng chẳng hơn gì giáo Trí. Ông
“thờ chữ trọng, như ông gàn” trong khi xung quanh đầy những ông thầy làm “hàng
giả”: “Ông nọ thuổng của ông kia, rồi thuổng ở báo này báo nọ, cho vào cái cối
của mình và giã thành bột riêng”... “Thầy giáo giữ mình để rồi nghèo cả danh hiệu
cả tiền”. Có thật là “thầy giữ mình” không hay đó là sức ì của con người thời
bao cấp? Ông có thể không “làm hàng giả” bằng cách làm khoa học chân chính vươn
tới một cuộc sống không phải lúc nào cũng chỉ “thú vị” với món “đậu sốt cà chua
ăn với dưa muối”. Vậy mà thầy chấp nhận sự đơn điệu, nhàm tẻ, sống ẩn mình, mờ
mờ nhân ảnh - “Thầy giáo dạy triết” không thể tự sắp xếp được những “ngổn
ngang” của cuộc đời nếu không có sự giúp đỡ ân tình của một cô học trò đầy năng
động.
Trong Roman keating, ông giáo dạy hợp
đồng suốt ngày giáo huấn học trò vì cái tội “tâm lý sợ kém cạnh là tâm lý cố hữu”...
nhưng hài hước thay chính vì chịu để mình “kém cạnh” nên ông (cũng như ông hiệu
trưởng) không thể phân biệt được “Roman keating” - Cái người mà một cô học trò
vẫn mượn tên để “trích dẫn” toàn những câu triết lý “cao siêu” đưa vào bài văn
là ai? Để đến khi chính cô học trò cho biết Roman keating “đang hát” trên màn
hình - Roman keating là ca sĩ được giới trẻ hâm mộ, ông mới thấy “một nỗi buồn
thấm thía làm nước mắt ông chực tràn lên mi”.
Để xây dựng chân dung nhân vật bị tha hóa,
rõ ràng Lê Minh Khuê không tập trung tả hành động ứng xử của nhân vật trong các
mối quan hệ hoặc đối thoại của nhân vật như ở dạng nhân vật tự tha hoá,
tác giả chủ yếu miêu tả trạng thái tinh thần, những việc làm, cử chỉ thói
quen có tính chất lặp đi lặp lại của nhân vật. Dường như cuộc đời của họ buồn
tẻ, dậm chân tại chỗ, kẽo kẹt mãi điệp khúc “cuộc đời là một vòng quay”. Cũng
viết về sự tha hoá của giới trí thức, nhưng nếu như trước đây Nam Cao cho rằng
nguyên nhân của tấn bi kịch này là bởi người trí thức bị xã hội đương thời om
vào một cái lồng hẹp và dồn đẩy họ tới chân tường của sự thống khổ, họ không thể
thoát ra khỏi sự vây bủa vấn đề “cơm áo ghì sát đất” thì ở thời đại của mình Lê
Minh Khuê lại tỉnh táo chỉ ra căn nguyên sâu xa dẫn đến bi kịch “sống mòn” của
người trí thức hiện đại không hẳn là chuyện cơm áo mà chính là sự trì trệ, bảo
thủ lạc hậu so với bước tiến của thời đại. Họ kém một bản lĩnh để vượt mình, để
vươn tới ánh sáng văn hoá văn minh tinh thần và tiếp cận cái mới, cứ tự giam
hãm mình trong cái vòng quay luẩn quẩn của cuộc sống để rồi bị mài mòn tất cả.
Họ bị xuội đi theo những thói xấu của cuộc sống mà không thể cứu vãn nổi lòng tự
trọng và nhân cách của mình, phải chấp nhận một cuộc sống tầm thường, bệ rạc, bạc
nhược.
Bằng kinh nghiệm cá nhân, Lê Minh
Khuê đã trình bày “hiện thực tự cảm thấy” (6) bằng tất cả những trăn trở, suy tư
của mình. Đằng sau giọng văn lúc lạnh lùng, chua chát, giễu cợt khi hài hước,
hóm hỉnh là cái nhìn tỉnh táo và sâu sắc. Nhà văn đưa ra lời cảnh báo về hiện
tượng đánh mất mình một cách vô thức trong xã hội hiện đại. Sự suy thoái này
như một căn bệnh ngấm ngầm khó chữa và không chừa một ai kể cả những người có bằng
cấp, học vị trong xã hội. Nếu từng cá nhân không tự khẳng định mình, không tự
giải phóng chính mình thì sẽ luôn phải làm nô lệ cho hoàn cảnh mà thôi!
3. Trong cuộc sống đời thường muôn mặt phức tạp, với độ lùi về
thời gian, Lê Minh Khuê đã nghiền ngẫm và phác hoạ bức tranh hậu chiến của đất
nước trong chiều sâu thăm thẳm của nó. Sự tàn phá của chiến tranh đã để lại di
chứng nặng nề cả ở phương diện vật chất và đặc biệt là văn hóa tinh thần của
người Việt Nam. Không phải vô cớ mà nhiều nhân vật tha hóa, bất ổn của chị được
đặt trong một không gian cư trú tối tăm, chật hẹp, đóng kín, một môi trường ô hợp
xô bồ. Nơi cư trú hoá thành hang ổ của dục vọng, người ta thản nhiên phô bày
cái tham lam, cái ác, cái đểu giả. Con người dù muốn hay không rồi cũng bị tha
hóa dần vì thứ văn hoá thấp kém có sức trì kéo bởi không khí tù đọng, bế tắc
ngột ngạt của một môi trường, hoàn cảnh. Cuộc sống đối với họ chỉ là cuộc đấu
tranh sinh tồn để kiếm miếng ăn. Họ như cỏ dại mọc cô đơn trên bãi đất hoang lạnh
giá tình người.
Tái hiện hiện tượng những
nhân vật biến chất trở thành xấu đi, nhà văn dường như muốn khẳng định: chừng
nào còn thiếu ánh sáng của văn hoá, văn minh và sự ràng buộc của cộng đồng văn
hoá thì chừng ấy con người còn bị đánh mất mình. Họ mất dần ý thức công dân
cũng như lương tâm của mình. Sự nghèo nàn quẫn bách cả về cuộc sống vật chất lẫn
tinh thần chính là bóng đen nuôi dưỡng cái ác. Nguyên nhân của những tội ác
rùng rợn nhất là do tâm hồn ngu muội của con người. Những mảnh đất cằn cỗi đã
làm cho con người trở lên đớn hèn, nhỏ nhen, ti tiện. Những đố kỵ, hằn thù,
ganh ghét, những định kiến bảo thủ, hẹp hòi và đạo đức giả đã làm thoái hoá bản
chất của con người lương thiện và phần người trong mỗi một CON NGƯỜI.
Hiểu, thấm thía và đau đớn chân
thành cùng dân tộc với những vết thương nhức nhối khó lành sau chiến tranh, nên
mặc dù viết về những con người biến chất xấu xa, thậm chí đến quái gở giữa cuộc
đời, Lê Minh Khuê vẫn chắt chiu và nâng niu những mầm thiện nhỏ bé, những đốm lửa
kỳ diệu của thiên lương còn ẩn náu trong họ. Tái hiện nhân vật tha hoá, Lê Minh
Khuê đã vượt qua lối mòn tư duy coi văn học như là tấm gương phản ánh hiện thực
một cách đơn giản để thể hiện một cách chân thật sinh động cuộc sống con người
như nó vốn có, đang tồn tại. Đó là bức tranh nguyên dạng của cõi nhân sinh đầy
phức tạp, đa sự. Đặt nhân vật trong nhiều quan hệ khác nhau, nhà văn soi ngắm số
phận cá nhân để từ đó khái quát những vấn đề nhân thế. Xuất phát từ tấm lòng
nhân đạo, từ niềm cảm thông sâu sắc với số phận của con người trong bao biến
thiên của cuộc sống, từ ý thức kỳ vọng về sự bền vững của cái đẹp, cái thiện chế
ngự cái xấu cái ác, những trang văn của Lê Minh Khuê bên cạnh sự lạnh lùng,
khách quan còn thấm đượm niềm trắc ẩn, xót xa và nỗi buồn. Đọc, hiểu những ẩn
ngữ trong văn chương của chị, chúng ta có quyền hy vọng: ngày mỗi ngày rồi con
người sẽ sống tốt đẹp hơn!.
Chú thích:
(1). Nhiều tác giả, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng và
Trung tâm từ điển học, H., 2003, tr.907.
(2). Mai Thị Thúy Ninh, Truyện ngắn Lê Minh Khuê - Luận văn
Thạc sĩ KH Ngữ văn, trường ĐHSP Hà Nội, 2002.
(3), (6). Nguyễn Đăng Điệp, Vọng từ con chữ, Nxb. Văn học,
H., 2003. tr.167, 159.
(4). Dương Tùng, Bi kịch nhỏ - Truyện ngắn Lê Minh Khuê, Tạp
chí Cộng sản (số 10), 1993.
(5). Hồ Anh Thái, Lê Minh Khuê người đàn bà viễn thị (lời cuối
sách), Truyện ngắn chọn lọc Lê Minh Khuê, Nxb. Phụ nữ, H., 2002. tr. 444.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét