“De Gaulle và Việt Nam”
Một lịch sử vinh quang và cay đắng
Thiết thực kỷ niệm 65 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
(7/5/1954 - 7/5/2019), nhằm tiếp tục phát triển tủ sách sử học và thực hiện các
dự án hợp tác quốc tế trong xuất bản sách, nhà xuất bản Đại học Sư phạm (Hà Nội)
ra mắt ấn bản De Gaulle và Việt Nam (1945 - 1969) của tác giả Pierre Journoud.
VNQĐ Online giới thiệu bài viết của GS.TS Phạm Quang
Minh - Hiệu trưởng trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc
gia Hà Nội, chuyên gia Sử học và Quan hệ quốc tế về cuốn sách này.
Được xuất bản năm 2011, trên cơ sở luận án tiến sĩ sử học đã
bảo vệ thành công tại Đại học Paris I Panthéon-Sorbonn, De Gaulle và Việt
Nam (1945 - 1969) là công trình của GS.TS Pierre Journoud - hiện là giáo
sư của Đại học Paul - Valéry Montpellier III, lúc đó còn là nghiên cứu viên ở Viện
Nghiên cứu chiến lược, Trường Đại học Quân sự Pháp, đồng thời cũng là cộng tác
viên nghiên cứu của Trung tâm Lịch sử châu Á hiện đại.
Với nguồn tài liệu vô cùng phong phú được khai thác ở các
trung tâm lưu trữ của Pháp, Mỹ, Canada..., công trình này vinh dự được trao giải
thưởng Jean - Baptiste Duroselle - giải thưởng dành cho những luận án xuất sắc nhất
về lịch sử quan hệ quốc tế.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, cuốn sách được cấu trúc
thành 7 chương lần lượt như sau:
1) Sự hiểu lầm khởi thủy (1945 - 1957);
2) Sự
chín muồi (1958 - 1962);
3) Bước ngoặt (1963 - 1964);
4) Bất lực (1964 - 1965);
5) Hòa giải (1965 - 1967);
6) Sáng kiến (1967 - 1969);
7) Cay đắng (1969).
Bằng phương pháp sử học kết hợp với phân tích chính trị quốc
tế, giáo sư Pierre Journoud đã tái dựng một giai đoạn lịch sử vô cùng quan trọng
và phức tạp của thế giới, đặc biệt là quan hệ giữa Pháp và Việt Nam thông qua
phân tích quan điểm và đường lối của de Gaulle từ năm 1945 đến khi ông từ chức
vào năm 1969.
Nói một cách khái quát là quan điểm và đường lối của de
Gaulle đối với Việt Nam đã có sự biến đổi theo chiều hướng tích cực. Nếu như
vào giai đoạn đầu (1945 - 1966), de Gaulle vẫn tiếp tục mang nặng đầu óc thực
dân và chỉ có mục đích duy nhất là bảo tồn đế quốc Pháp, thông qua những chính
sách canh tân dưới cái vỏ Liên hiệp Pháp, thì đến giai đoạn cuối, ông đã bày tỏ
quan điểm thân thiện hơn. Phải đợi đến năm 1966, trong chuyến thăm Campuchia,
de Gaulle mới có sự thay đổi về cơ bản, khi cho rằng các dân tộc phải có quyền
tự quyết định vận mệnh của mình. Sự thay đổi quan điểm của de Gaulle đối với Việt
Nam trên thực tế đánh dấu sự chấm hết của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn
cầu.
Quá trình thay đổi nhận thức của de Gaulle về Việt Nam không
hề dễ dàng và nhanh chóng. Năm 1945, de Gaulle thậm chí đã đặt hy vọng vào “giải
pháp Hoàng thân Vĩnh San” để đưa nước Việt Nam ra khỏi chế độ thực dân. Tuy
nhiên, hi vọng này ngay lập tức bị dập tắt bởi sự ra đi của Hoàng thân Vĩnh San
vào ngày 26/12/1945 trong vụ tai nạn máy bay ở một khu rừng nhiệt đới thuộc nước
Cộng hòa Trung Phi ngày nay. Cái chết bất ngờ của Hoàng thân Vĩnh San đã làm
tan vỡ hi vọng của de Gaulle về một giải pháp chính trị cho Đông Dương. Theo hồi
ký của tướng de Boissieu (con rể của de Gaulle), thì đó cũng là một trong những
nguyên nhân làm de Gaulle từ bỏ chức vụ lần đầu vào ngày 20/1/1946.
Cũng giống như bất kỳ quan chức nào của chính quyền Pháp thời
đó, de Gaulle vẫn nuôi hy vọng là khi chủ quyền Pháp được tái lập ở Việt Nam,
Pháp sẽ có thể đàm phán trên thế mạnh. Trong một cuộc thăm dò ý kiến hồi tháng
9/1945, vẫn có tới 63% người dân Pháp muốn Pháp giữ Đông Dương. Để có thể thực
hiện được ý đồ chính trị của mình và bảo vệ nó ngay cả khi rời bỏ chức vụ, de
Gaulle đã kiên quyết bênh vực đô đốc d’Argenlieu, Cao uỷ kiêm Chỉ huy trưởng
quân đội Pháp tại Đông Dương, trong cuộc chiến tái thiết lập chế độ thuộc địa của
Pháp ở Đông Dương.
Ngày 19/12/1946, sau nhiều cố gắng vãn hồi hòa bình, một cuộc
chiến tranh chống sự quay lại của Pháp vẫn diễn ra. De Gaulle đích thân tán
thành cuộc chiến tranh và nghĩ là quân đội Pháp sẽ mau chóng làm chủ tình thế.
Tháng 4/1947, de Gaulle đã lập ra Đảng Tập hợp nhân dân Pháp,
dứt khoát từ bỏ chính sách đồng hóa có từ thời Cộng hòa 1848. Lấy cớ là cần phải
bảo vệ Liên hiệp Pháp và chống Việt Minh, de Gaulle đưa ra chính sách liên kết
các xứ và ủng hộ đô đốc d’Argenlieu trong việc tách Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam. Mặc
dù vẫn nghi ngờ Bảo Đại, cuối cùng de Gaulle cũng phải ủng hộ nhân vật này bởi
vì không còn lựa chọn nào khác, nhất là trong bối cảnh đối đầu Chiến tranh lạnh.
Mãi đến năm 1953, sau khi Stalin qua đời, thế giới chuyển sang giai đoạn hòa hoãn và ảnh hưởng của Pháp ngày càng suy giảm, de Gaulle mới nghĩ đến chuyện
đàm phán với Chính phủ của Hồ Chí Minh. Nhưng với đầu óc của một người bảo thủ
lại thêm tâm lý thất bại, de Gaulle vẫn cho là nên đặt ưu tiên thương lượng với
Trung Quốc và Mỹ. Tháng 3/1954, khi chiến tranh đi vào giai đoạn cuối cùng ở Điện
Biên Phủ, de Gaulle mới tin là Pháp không thể giữ được Đông Dương lâu hơn nữa,
Đông Dương không còn là của Pháp nữa, và cách tốt nhất là tìm kiếm một kết cục
đỡ buồn. Vì thế mà, đối với de Gaulle cũng như đối với tuyệt đại đa số nghị sĩ
Pháp, Hiệp định Genève được xem là là một văn bản thỏa thuận tốt hơn mong đợi.
Sau khi chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953) và chiến tranh
Đông Dương (1946 - 1954) kết thúc, de Gaulle mới chính thức thay đổi hẳn đường
lối bằng cách muốn kết nối với các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á và nghĩ đến
chuyện công nhận nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. De Gaulle muốn nước Pháp có
một đường lối chính trị độc lập ở châu Á và đóng một vai trò xây dựng trong tiến
trình thống nhất Việt Nam. Phải hiểu sự thay đổi này là một quá trình không dễ
dàng, nhưng không thể đảo ngược chịu tác động của các yếu tố bên trong và ngoài
nước Pháp. Khi đọc cuốn Lịch sử một cơ hội hòa bình bị bỏ lỡ của J.
Sainteny, de Gaulle đã thẳng thắn thừa nhận mình đã sai lầm và công nhận
Sainteny đã có lý. Mặc dù đã ký Hiệp định Genève buộc phải chấm dứt chiến
tranh, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, song de
Gaulle vẫn tiếp tục thể hiện mong muốn nước Pháp có một vai trò nào đó. Trong
chuyến thăm Campuchia năm 1966, de Gaulle đã lên tiếng chỉ trích gay gắt sự can
thiệp của Mỹ vào Đông Dương. Bài phát biểu này đã gây ra những phản ứng khác
nhau. Trong khi đa số người Pháp ủng hộ quan điểm của de Gaulle, thì nhiều
chính khách, nhà báo, nhà ngoại giao lại cho rằng de Gaulle cần khách quan hơn,
không chỉ lên án Mĩ, và nên đến thẳng Hà Nội, Bắc Kinh hay Washington nếu nước
Pháp thực sự muốn đóng vai trò trung gian hòa giải. Nhưng bài phát biểu của de
Gaulle tại Campuchia năm 1966 thực sự là bước ngoặt trong quan điểm của ông về
vấn đề Đông Dương. Cần nhớ rằng, trước đó vào ngày 21/2/1966, Pháp đã chính thức
tuyên bố rút khỏi tổ chức quân sự NATO. Lý do được de Gaulle đưa ra là thế giới
đã thay đổi nên chính sách đang được thực thi trong khuôn khổ NATO đi ngược lại
quyền lợi của nước Pháp. Nước Pháp không muốn bị lôi kéo vào một cuộc xung đột
mới. Nước Mỹ phải tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác. De Gaulle đã buộc Mỹ phải rút tất cả các Bộ Chỉ huy quân sự của NATO ra khỏi lãnh thổ Pháp, rút quân
đồng minh và xoá sổ tất cả các căn cứ quân sự nước ngoài.
Liên quan đến vấn đề Việt Nam, một trong những người Pháp được
de Gaulle tin cậy là Sainteny, Tổng trưởng Bộ Cựu chiến binh trong Nội các của
Pompidou từ năm 1962 đến năm 1966. Ngày 24/2, de Gaulle đã trao cho Sainteny một
bức thư để chuyển cho Chủ tịch Hồ Chí Minh với mong muốn được gặp trực tiếp. Lá
thư của de Gaulle cũng như những cuộc tiếp xúc giữa Sainteny với Thủ tướng Phạm
Văn Đồng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh trên thực
tế đã không đưa ra được một giải pháp ngoại giao nào, mà chỉ góp phần làm cho
hai bên hiểu biết nhau hơn. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Pierre Journoud,
Sainteny đã chứng tỏ khả năng đàm phán và nước Pháp vẫn đóng một vai trò trung
gian nào đó. Một trong những thông tin quan trọng mà Mỹ đã thu thập được là “Bắc
Việt Nam sẽ ngừng xâm nhập miền Nam, nếu Mỹ ngừng ném bom miền Bắc”. Ít ra là
Pháp đã lấy lại được lòng tin của Mỹ, sau bài phát biểu chỉ trích sự can thiệp
của Mỹ vào Đông Dương của de Gaulle.
Bên cạnh “đường dây Sainteny”, nước Pháp còn có một kênh liên
lạc nữa với Chính phủ Hồ Chí Minh là đường dây Pennsylvania. Đó là mật mã của một
đường dây bí mật có tên của hai người Pháp là Hebert Marcovich và Raymond
Aubrac. Marcovich là một nhà vi trùng học thuộc Viện Pasteur Paris, Aubrac là
chuyên viên cao cấp của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO). Aubrac là một cựu
binh và từng biết Hồ Chí Minh. Hai sứ giả Pháp được Henri Kissinger nhờ nhắn
tin với Hà Nội là Chính phủ Mỹ sẵn sàng ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam với điều
kiện là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngừng tăng cường thâm nhập vào miền Nam Việt
Nam. Nhưng cuối cùng đường dây này cũng thất bại vì không có sự tin cậy giữa
hai bên.
Tháng 10/1967, Manac’h nhận lời của Chính phủ Mĩ đóng vai trò
trung gian không chính thức giữa Sứ quán Mỹ ở Paris và Tổng đại diện Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Kết quả của sự tiếp xúc rất khả quan khi hai bên khẳng định
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ mở cuộc đàm phán ngay khi việc ngưng ném bom được
thực hiện.
Ngày 20/1/1968, Giáo sư Roussel, Chủ tịch Hội Y học Việt -
Pháp, được mời tới điện Élysée để de Gaulle trao cho một nhiệm vụ bí mật là
thăm dò phản ứng của Thủ tướng Việt Nam về quan hệ Việt - Pháp và về sáng kiến
của de Gaulle là mở những cuộc hội đàm sơ bộ về hòa bình ở Paris. Khi được tiếp
kiến, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu thẳng thắn với Manac’h là Việt Nam sẵn
sàng đón nhận mọi ý kiến của Pháp và quyết định thuộc về de Gaulle, kể cả việc
Paris có thể được lựa chọn là nơi tổ chức một hội nghị về hòa bình của Việt
Nam.
Mặc dù không thể chia sẻ một số quan điểm, đánh giá của tác
giả về những vấn đề của Việt Nam (ví dụ: nguyên nhân của cuộc chiến tranh giữa
Pháp và Việt Nam; đánh giá về vai trò của Hồ Chí Minh...), nhưng vẫn phải thừa
nhận rằng công trình của giáo sư Pierre Journoud thật xuất sắc. Một giai đoạn
vô cùng phức tạp của lịch sử thế giới, quan hệ Việt - Pháp, Pháp - Mỹ, Mỹ - Việt,
trong đó de Gaulle nổi lên như một hiện thân của lịch sử đầy hào quang nhưng
cũng cay đắng, đã được thể hiện một cách nhẹ nhàng, tinh tế, sâu sắc. Người đọc
cảm nhận được tình yêu, lòng tự hào của một sử gia viết về con người và đất nước
mình một cách thuyết phục và khoa học. Chính vì thế mà công trình này cũng đã
truyền cảm hứng cho bất kỳ ai đọc nó.
Ngày 24/4/1969, lấy cớ không được tín nhiệm trong một cuộc
trưng cầu dân ý, tướng de Gaulle đã quyết định từ chức. Nhưng người ta vẫn nhớ
đến de Gaulle, không chỉ với tư cách là một chính trị gia của Pháp, mà còn là
người kiến tạo cho hoà bình thế giới khi ông đã tìm cách ngăn chặn sự can thiệp
quân sự của Mỹ vào Đông Nam Á, là cầu nối mở ra các cơ hội đàm phán nhằm chấm dứt
cuộc chiến tranh phi nghĩa này. Quan điểm về thế giới đương đại của de Gaulle
là hiện thân của quá trình hòa giải giữa các dân tộc trong một giai đoạn đối đầu
căng thẳng của Chiến tranh lạnh. Từ một vị tướng mang nặng đầu óc thực dân, quyết
tâm bảo vệ quyền lợi của Pháp ở Đông Dương, de Gaulle đã trở thành một biểu tượng
đấu tranh cho sự bình đẳng, các giá trị chung giữa các nền văn minh. Thách thức
lớn nhất là nhận ra những sai lầm của chính mình. Nhưng hơn thế, de Gaulle còn
tìm cách rút ra những bài học để vượt lên chính những sai lầm đó. Phải là một
nhân cách rất đặc biệt mới dám chấp nhận sự bi kịch của lịch sử để làm nên lịch
sử. De Gaulle là một người như thế.
Phạm Quang Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét