Nguyễn Xuân Khánh
Xuất hiện như một hiện tượng khá khác biệt của văn học Việt
Nam đầu thế kỷ XXI, Nguyễn Xuân Khánh tạo nên cơn sốt cho thị trường văn học bằng
một lối viết quen mà lạ, đề tài quen mà lạ, sức hấp dẫn quen mà lạ... Tất cả đều
đầy mê hoặc, cuốn hút và gọi mời. Đặc biệt hơn, không lóe sáng rồi vụt tắt như
những nỗ lực bứt phá khác của một vài hiện tượng văn học từ đầu thế kỷ XXI cho
đến nay, Nguyễn Xuân Khánh đã để lại nhiều dư vang bởi một tâm hồn, một nghiệp
chữ đã đi qua những thử thách, đắng cay của cuộc đời.
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh còn có bút danh là Đào Nguyễn. Đào là họ mẹ (cũng là làng Đào Xá), Nguyễn là họ cha. Bút danh gắn bó với ông suốt những năm tháng phải “chịu nạn”, dịch sách kiếm tiền, trải nghiệm nhân sinh cay đắng đến mức ông không dám lấy tên thật để khai sinh đứa con Miền hoang tưởng. Ông sinh năm 1932, tuổi Nhâm Thân. Có người nói theo tử vi, tuổi Thân (cầm tinh con Khỉ) là tuổi lận đận, long đong, nhưng sau này sẽ làm nên nghiệp lớn (đứng chữ Nhâm, với con trai là người có tài, lại được mệnh Kiếm Phong Kim). Chẳng biết lá số tử vi đúng đến đâu, nhưng để có nghiệp lớn ở tuổi thất thập cổ lai hi làm rúng động cả một giai đoạn văn học, ông đã phải trả giá bằng cả máu và nước mắt. Tuổi thơ của ông cũng gắn với giai đoạn lịch sử có nhiều biến động lớn về chính trị, kinh tế và văn hóa. Mặc dù cha mất sớm nhưng Nguyễn Xuân Khánh được bao bọc trong vòng tay yêu thương của các mẹ và các chị. Nhà văn tâm sự: Ông có đến ba người mẹ, mẹ già (mẹ cả), u (vợ hai của thầy) và mẹ đẻ. Sau này những người phụ nữ đậm đà thôn quê trong tác phẩm ông đều lấy mẫu hình từ bóng dáng những người mẹ rất đỗi nhân từ ấy.
Nguyễn Xuân Khánh sinh ra ở Cổ Nhuế - Từ Liêm - Hà Nội (quê nội), mảnh đất của những ông phán, ông cử, ông công nhân nhà đèn, những bà buôn thúng bán mẹt. Làng Cổ Nhuế còn có tên gọi nôm là Kẻ Noi, là một vùng đất cổ, có nhiều di tích tâm linh như đình thờ công chúa Tả Minh Hiến (con thứ tư của vua Lý), đình thôn Viên (thờ thành hoàng Đông Chinh Vương), đền Bà Chúa, chùa Sùng Quang (có xuất hiện lại trong Mẫu thượng ngàn), chùa Anh Linh,... Cổ Nhuế hàng năm đều có hội làng tổ chức rất to vào mùa xuân. Mặc dù sau khi cha mất, ông theo mẹ về bên ngoại (ở Thanh Nhàn, gia đình buôn bán ngay phố cổ - Hà Nội), nhưng ký ức về làng Cổ Nhuế, tình yêu với làng luôn gắn bó đến thao thiết trong tâm hồn bé thơ của Nguyễn Xuân Khánh. Năm nào ông cũng về quê ba tháng vào dịp hè. Khi đã trưởng thành, tuần nào ông cũng đạp xe về quê bởi hầu như tuần nào họ nhà cũng có giỗ. Người yêu quê thường nặng hồn xứ sở. Nguyễn Xuân Khánh có lần bộc bạch: Lẽ ra tôi cứ viết luôn tiểu thuyết về làng Cổ Nhuế nhà tôi, nhưng nếu viết vậy sẽ thiếu “đất” để nói về văn hóa làng Việt Nam. Sợi dây gắn bó tha thiết với làng giống như “véctơ” đầu tiên và quan trọng nhất của một nhà văn yêu văn hóa làng quê. Người viết bài này nghĩ rằng, những người yêu làng, gắn bó với tấm chân tình hồn hậu, giản dị của làng thì dù bước qua sóng gió vẫn nhẫn nại, bền bỉ, lặng lẽ chứ không mảy may chua chát. Đó là nền tảng đầu tiên cho những kiến tạo văn hóa trong nghệ thuật của Nguyễn Xuân Khánh.
Trưởng thành cùng những giai đoạn sóng gió của dân tộc, nhưng nỗi đau đất nước không thành những ám ảnh vị kỷ của máu và nước mắt trong cuộc đời và văn chương Nguyễn Xuân Khánh, thay vào đó là những cảm nghiệm thấm đẫm nhân tình. Cái nền nhân hậu, tâm hồn trẻ trung tinh tế của một sinh viên y khoa say mê âm nhạc, ham đọc sách y hòa quyện với khí chất của chàng thanh niên trẻ tuổi gác bút nghiên xin đi bộ đội, những năm tháng hành quân, tình đồng đội đã thành nền tảng quan trọng thứ hai tạo nên nhân cách nhà văn. Nguyễn Xuân Khánh gọi đó là những véctơ Marxism - thứ véctơ rèn giũa nghị lực, ý chí đấu tranh chống lại cái ác. Bởi vậy sau này, hiếm có nhà văn nào lại “bênh” những người đã từng phản đối mình như Nguyễn Xuân Khánh. Không dưới mười lần nhà văn tâm sự trên các bài phỏng vấn về thái độ ôn hòa của ông trước cuộc đời sau những tháng năm sóng gió. Đó không chỉ là một tấm lòng, một nhân cách nữa, mà còn là một thái độ sống: không phải chỉ tôn trọng mình, còn phải tôn trọng cả tha nhân. Thái độ sống đó đã thành một thái độ viết đầy nhân văn, đầy văn hóa - cái sự thong dong của một tâm hồn cao đẹp đi qua những “lớp bụi trần ai”.
Nguyễn Xuân Khánh viết văn không phải để cầu danh, cũng chẳng phải để cầu vinh. Viết như một nhu cầu tự thân (kiếm sống), và viết phải “di dưỡng được tâm hồn”. Với “lão mai vàng” hiếm có của văn chương Việt Nam, văn chương trước khi là vũ khí, là tiếng nói tố cáo, là nơi người viết có cảm xúc và người đọc cũng phải có sự rung động. Trong trải nghiệm của mình, tới khi thể hiện bằng văn bản, ông lúc nào cũng thấu hết mà vẫn thong thả như thế. Nền văn hóa tổng thể mang trong mình những thân phận cá nhân và thân phận dân tộc. Ông tự nhận: Tôi không đi tìm hình thức mà chủ yếu là vấn đề. Vấn đề của dân tộc theo ông vẫn là chuyện vốn văn hóa.
Niềm say mê văn chương một cách tự giác, tinh thần tự học, sự dấn thân vào nghệ thuật gắn với đặc sắc của văn hóa dân tộc là “chân tủy” làm nên một Nguyễn Xuân Khánh như một “cây đại thụ” của văn học đương đại. Được viết, được đọc, được tự học với ông là một sự giải thoát, là một đam mê lớn. Bao nhiêu nỗi niềm, bao nhiêu tâm sự đều trút lên trang giấy. Ham mê tạo ra sự hứng thú, đó là khởi nguyên của sáng tạo.
Trong đời sống văn học đương đại, Nguyễn Xuân Khánh là một người lạ đã quen biết. Đời chông gai, văn chương đứt đoạn nhưng kết quả thì viên mãn. Khác với nhiều nhà văn khác, ngoài sáng tác, Nguyễn Xuân Khánh cũng để lại khối lượng tác phẩm dịch lớn. Hiện tại ông có mười tác phẩm với năm tác phẩm dịch, năm tác phẩm viết. Điều đáng nói so với nhiều nhà văn khác của Việt Nam, số lượng các tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh không nhiều (dù xuất bản liên tục vào những năm cuối đời), nhưng với một người gặp nhiều hoạn nạn như ông vẫn không quay lưng lại với chữ, vẫn miệt mài với chữ mà không giảm đi bầu nhiệt huyết với cái nghề “đa đoan” là điều đáng trân quý vô cùng. Sau những giờ phút lao động mưu sinh cật lực, đêm đêm, ông vẫn chong đèn thức cùng những trang viết. Những trang sách kinh điển của tiền nhân đã tạo cho ông niềm tin để vượt qua những khoảnh khắc bi đát. Vốn ngoại ngữ tiếng Pháp được cơ hội phát huy. Ông đã dịch nhiều cuốn sách và sớm có ý thức củng cố tri thức để làm hành trang trên con đường dài của mình.
Từ đáy sâu tâm hồn, Nguyễn Xuân Khánh vẫn dành cho văn chương một vị trí đặc biệt, thậm chí tới mức “linh thiêng”. Nhà văn từng chia sẻ: “Văn chương đối với tôi là một khu đền đài linh thiêng, dù vô tình lạc bước nhưng đã đến một lần rồi thì không thể quay trở về được nữa. Bao nhiêu năm vất vả mưu sinh tôi vẫn chờ đợi, vẫn dồn nén cho văn chương bởi tôi biết cơ duyên của mình ở đó”. Con người ấy sống giữa lòng Hà Nội nhưng vẫn mang trong mình cái chân chất của một người dân quê, luôn đau đáu trong lòng mối ân tình không thể dứt với nền văn hóa dân tộc. Trong từng trang viết, nhà văn đã lưu giữ cho chúng ta những sinh hoạt, phong tục văn hóa đẹp và có giá trị của người Việt. Điều quan trọng nhà văn muốn gửi gắm chính là sự tiếp biến văn hóa trong quá trình giao lưu với các nền văn hóa khác. Đọc sách của ông, thấy yêu hơn dân tộc mình, đất nước mình, gắn bó sâu sắc hơn với nền văn hóa Việt thuần khiết. Mỗi chúng ta như đứng trước một trách nhiệm lớn lao: hãy giữ gìn văn hóa Việt trong cuộc hội nhập ngày hôm nay. Với bộ ba tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa, Nguyễn Xuân Khánh đã thổi một luồng gió góp phần làm tươi mới, đậm đà hơn cho nền văn học, văn hóa nước nhà.
Trên văn đàn Việt Nam nói chung, văn học Việt Nam sau 1990 nói riêng, Nguyễn Xuân Khánh là người đến muộn mà sớm, là người lạ mà quen. Nếu tính theo năm sinh và năm bắt đầu nghiệp cầm bút, ông là lão làng. Nếu tính theo cái đa đoan của nghiệp cầm bút, ông là người quen. Nhưng, nếu dựa vào sự xuất hiện bùng nổ, liên tục, tạo hiệu ứng mạnh và nhanh với tần suất xuất bản, tái bản, lượng người đọc, người nghiên cứu, các luồng tranh luận và ý kiến trái chiều nhau trong bầu không khí văn học đang đặc quánh mùi hậu hiện đại, ông là người mới và lạ, là người đến muộn nhưng về đích sớm, mới cả về hình thức và nội dung, lạ cả về nội dung và hình thức.
Về chuyện lạ, như chúng ta đã biết, từ sau năm 1990 đến nay, văn học Việt Nam thực sự đã có nhiều bước cách tân và đột phá, nhất là khi có hàng loạt các tên tuổi của thế hệ nhà văn sau giải phóng như Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà,… Họ đã đem đến cho văn học những mĩ cảm, những góc nhìn, và những thể nghiệm tân kỳ về kỹ thuật viết. Lối viết dòng ý thức, cấu trúc phân mảnh, đa tuyến, đa thanh, tự sự nhiều điểm nhìn,... xuất hiện ngày càng nhiều trong tiểu thuyết đương đại. Người đọc cũng quen dần với tinh thần phản biện, chất vấn, hoài nghi, những nhu cầu của cái tôi bản thể, những vận động đa chiều của đời sống,… Đương khi ấy, Nguyễn Xuân Khánh đột ngột xuất hiện, ngỡ ngàng với bộ ba tiểu thuyết liên tục xuất bản, có độ dài đều ngót nghét cả nghìn trang. Điều lạ nữa là ai cũng hồ hởi đón nhận, hồ hởi nghiên cứu. Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa nhanh chóng trở thành hiện tượng best seller (sách bán chạy nhất) và best criticize (phê bình tốt nhất). Có người đã ví von, sự hào hứng mà Nguyễn Xuân Khánh mang đến giống như cảm giác khi đã thấy phở lỏng lảnh, tráng nuột quá người ta lại thèm cái cảm giác ngọt bùi, chắc dạ của cơm. Hóa ra, cái cảm giác lạ kia lại đến từ bề sâu của những trải nghiệm văn hoá, mà Nguyễn Xuân Khánh đã dành tất cả tâm huyết, sự đam mê, quý trọng để nghiền ngẫm, suy tư về nó.
Nguyễn Xuân Khánh không chỉ lạ, mà còn mới. Cái mới của Nguyễn Xuân Khánh chính ở niềm say mê với lịch sử và văn hóa bản địa. Sự say mê không chỉ thể hiện ra bằng cảm quan mà còn bằng sự quan tâm một cách sâu sắc đến cấu trúc văn hóa, sự biểu đạt, tính liên tục và xâu chuỗi một cách có ý thức. Lịch sử, phong tục, tập quán, văn hóa trở thành nhân vật chính, chủ đề chính, giá trị chính chứ không phải là phông nền hay sự điểm xuyết. Có cảm giác như ngoài lịch sử, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, Nguyễn Xuân Khánh không muốn, không thích, không chú tâm viết cái gì khác (mặc dù ông cũng là người của đương thời, đọc nhiều triết thuyết phương Tây, dịch nhiều tác phẩm có tư tưởng và quan điểm sống hiện đại). Văn hóa vốn khó minh định, giải mã về văn hóa càng khó khăn, vì thế viết về văn hóa, thẩm định các giá trị của lịch sử, đời thường, tôn giáo, đức tin từ văn hóa lại càng không đơn giản. Nhưng với sự say mê, lao động nghiêm túc, miệt mài của Nguyễn Xuân Khánh, bộ ba tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa đã lấp đi một chỗ trống không nhỏ cho kiểu loại sáng tác về lịch sử, phong tục, tập quán.
Lịch sử văn học Việt Nam từng nổ ra cuộc tranh luận về nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh. Chúng tôi cho rằng, đến nay, dù đã có những biến thể về cách thức phát ngôn, nhưng cuộc tranh luận này vẫn chưa có hồi kết, bởi bản thân nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng vẫn luôn vận động. Vì thế, những năm gần đây, với nhiều sáng tác về văn hóa như tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, các chủ đề văn hóa được bàn luận rộng rãi, các phương pháp nghiên cứu văn hóa được khơi thông vận dụng, người ta đang đồ rằng, có thể có một kỷ nguyên về nghệ thuật vị văn hóa sắp khai diện và bung tỏa. Câu chuyện của đời người, văn chương, lịch sử, suy cho cùng, là câu chuyện của văn hóa đấy thôi.
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh còn có bút danh là Đào Nguyễn. Đào là họ mẹ (cũng là làng Đào Xá), Nguyễn là họ cha. Bút danh gắn bó với ông suốt những năm tháng phải “chịu nạn”, dịch sách kiếm tiền, trải nghiệm nhân sinh cay đắng đến mức ông không dám lấy tên thật để khai sinh đứa con Miền hoang tưởng. Ông sinh năm 1932, tuổi Nhâm Thân. Có người nói theo tử vi, tuổi Thân (cầm tinh con Khỉ) là tuổi lận đận, long đong, nhưng sau này sẽ làm nên nghiệp lớn (đứng chữ Nhâm, với con trai là người có tài, lại được mệnh Kiếm Phong Kim). Chẳng biết lá số tử vi đúng đến đâu, nhưng để có nghiệp lớn ở tuổi thất thập cổ lai hi làm rúng động cả một giai đoạn văn học, ông đã phải trả giá bằng cả máu và nước mắt. Tuổi thơ của ông cũng gắn với giai đoạn lịch sử có nhiều biến động lớn về chính trị, kinh tế và văn hóa. Mặc dù cha mất sớm nhưng Nguyễn Xuân Khánh được bao bọc trong vòng tay yêu thương của các mẹ và các chị. Nhà văn tâm sự: Ông có đến ba người mẹ, mẹ già (mẹ cả), u (vợ hai của thầy) và mẹ đẻ. Sau này những người phụ nữ đậm đà thôn quê trong tác phẩm ông đều lấy mẫu hình từ bóng dáng những người mẹ rất đỗi nhân từ ấy.
Nguyễn Xuân Khánh sinh ra ở Cổ Nhuế - Từ Liêm - Hà Nội (quê nội), mảnh đất của những ông phán, ông cử, ông công nhân nhà đèn, những bà buôn thúng bán mẹt. Làng Cổ Nhuế còn có tên gọi nôm là Kẻ Noi, là một vùng đất cổ, có nhiều di tích tâm linh như đình thờ công chúa Tả Minh Hiến (con thứ tư của vua Lý), đình thôn Viên (thờ thành hoàng Đông Chinh Vương), đền Bà Chúa, chùa Sùng Quang (có xuất hiện lại trong Mẫu thượng ngàn), chùa Anh Linh,... Cổ Nhuế hàng năm đều có hội làng tổ chức rất to vào mùa xuân. Mặc dù sau khi cha mất, ông theo mẹ về bên ngoại (ở Thanh Nhàn, gia đình buôn bán ngay phố cổ - Hà Nội), nhưng ký ức về làng Cổ Nhuế, tình yêu với làng luôn gắn bó đến thao thiết trong tâm hồn bé thơ của Nguyễn Xuân Khánh. Năm nào ông cũng về quê ba tháng vào dịp hè. Khi đã trưởng thành, tuần nào ông cũng đạp xe về quê bởi hầu như tuần nào họ nhà cũng có giỗ. Người yêu quê thường nặng hồn xứ sở. Nguyễn Xuân Khánh có lần bộc bạch: Lẽ ra tôi cứ viết luôn tiểu thuyết về làng Cổ Nhuế nhà tôi, nhưng nếu viết vậy sẽ thiếu “đất” để nói về văn hóa làng Việt Nam. Sợi dây gắn bó tha thiết với làng giống như “véctơ” đầu tiên và quan trọng nhất của một nhà văn yêu văn hóa làng quê. Người viết bài này nghĩ rằng, những người yêu làng, gắn bó với tấm chân tình hồn hậu, giản dị của làng thì dù bước qua sóng gió vẫn nhẫn nại, bền bỉ, lặng lẽ chứ không mảy may chua chát. Đó là nền tảng đầu tiên cho những kiến tạo văn hóa trong nghệ thuật của Nguyễn Xuân Khánh.
Trưởng thành cùng những giai đoạn sóng gió của dân tộc, nhưng nỗi đau đất nước không thành những ám ảnh vị kỷ của máu và nước mắt trong cuộc đời và văn chương Nguyễn Xuân Khánh, thay vào đó là những cảm nghiệm thấm đẫm nhân tình. Cái nền nhân hậu, tâm hồn trẻ trung tinh tế của một sinh viên y khoa say mê âm nhạc, ham đọc sách y hòa quyện với khí chất của chàng thanh niên trẻ tuổi gác bút nghiên xin đi bộ đội, những năm tháng hành quân, tình đồng đội đã thành nền tảng quan trọng thứ hai tạo nên nhân cách nhà văn. Nguyễn Xuân Khánh gọi đó là những véctơ Marxism - thứ véctơ rèn giũa nghị lực, ý chí đấu tranh chống lại cái ác. Bởi vậy sau này, hiếm có nhà văn nào lại “bênh” những người đã từng phản đối mình như Nguyễn Xuân Khánh. Không dưới mười lần nhà văn tâm sự trên các bài phỏng vấn về thái độ ôn hòa của ông trước cuộc đời sau những tháng năm sóng gió. Đó không chỉ là một tấm lòng, một nhân cách nữa, mà còn là một thái độ sống: không phải chỉ tôn trọng mình, còn phải tôn trọng cả tha nhân. Thái độ sống đó đã thành một thái độ viết đầy nhân văn, đầy văn hóa - cái sự thong dong của một tâm hồn cao đẹp đi qua những “lớp bụi trần ai”.
Nguyễn Xuân Khánh viết văn không phải để cầu danh, cũng chẳng phải để cầu vinh. Viết như một nhu cầu tự thân (kiếm sống), và viết phải “di dưỡng được tâm hồn”. Với “lão mai vàng” hiếm có của văn chương Việt Nam, văn chương trước khi là vũ khí, là tiếng nói tố cáo, là nơi người viết có cảm xúc và người đọc cũng phải có sự rung động. Trong trải nghiệm của mình, tới khi thể hiện bằng văn bản, ông lúc nào cũng thấu hết mà vẫn thong thả như thế. Nền văn hóa tổng thể mang trong mình những thân phận cá nhân và thân phận dân tộc. Ông tự nhận: Tôi không đi tìm hình thức mà chủ yếu là vấn đề. Vấn đề của dân tộc theo ông vẫn là chuyện vốn văn hóa.
Niềm say mê văn chương một cách tự giác, tinh thần tự học, sự dấn thân vào nghệ thuật gắn với đặc sắc của văn hóa dân tộc là “chân tủy” làm nên một Nguyễn Xuân Khánh như một “cây đại thụ” của văn học đương đại. Được viết, được đọc, được tự học với ông là một sự giải thoát, là một đam mê lớn. Bao nhiêu nỗi niềm, bao nhiêu tâm sự đều trút lên trang giấy. Ham mê tạo ra sự hứng thú, đó là khởi nguyên của sáng tạo.
Trong đời sống văn học đương đại, Nguyễn Xuân Khánh là một người lạ đã quen biết. Đời chông gai, văn chương đứt đoạn nhưng kết quả thì viên mãn. Khác với nhiều nhà văn khác, ngoài sáng tác, Nguyễn Xuân Khánh cũng để lại khối lượng tác phẩm dịch lớn. Hiện tại ông có mười tác phẩm với năm tác phẩm dịch, năm tác phẩm viết. Điều đáng nói so với nhiều nhà văn khác của Việt Nam, số lượng các tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh không nhiều (dù xuất bản liên tục vào những năm cuối đời), nhưng với một người gặp nhiều hoạn nạn như ông vẫn không quay lưng lại với chữ, vẫn miệt mài với chữ mà không giảm đi bầu nhiệt huyết với cái nghề “đa đoan” là điều đáng trân quý vô cùng. Sau những giờ phút lao động mưu sinh cật lực, đêm đêm, ông vẫn chong đèn thức cùng những trang viết. Những trang sách kinh điển của tiền nhân đã tạo cho ông niềm tin để vượt qua những khoảnh khắc bi đát. Vốn ngoại ngữ tiếng Pháp được cơ hội phát huy. Ông đã dịch nhiều cuốn sách và sớm có ý thức củng cố tri thức để làm hành trang trên con đường dài của mình.
Từ đáy sâu tâm hồn, Nguyễn Xuân Khánh vẫn dành cho văn chương một vị trí đặc biệt, thậm chí tới mức “linh thiêng”. Nhà văn từng chia sẻ: “Văn chương đối với tôi là một khu đền đài linh thiêng, dù vô tình lạc bước nhưng đã đến một lần rồi thì không thể quay trở về được nữa. Bao nhiêu năm vất vả mưu sinh tôi vẫn chờ đợi, vẫn dồn nén cho văn chương bởi tôi biết cơ duyên của mình ở đó”. Con người ấy sống giữa lòng Hà Nội nhưng vẫn mang trong mình cái chân chất của một người dân quê, luôn đau đáu trong lòng mối ân tình không thể dứt với nền văn hóa dân tộc. Trong từng trang viết, nhà văn đã lưu giữ cho chúng ta những sinh hoạt, phong tục văn hóa đẹp và có giá trị của người Việt. Điều quan trọng nhà văn muốn gửi gắm chính là sự tiếp biến văn hóa trong quá trình giao lưu với các nền văn hóa khác. Đọc sách của ông, thấy yêu hơn dân tộc mình, đất nước mình, gắn bó sâu sắc hơn với nền văn hóa Việt thuần khiết. Mỗi chúng ta như đứng trước một trách nhiệm lớn lao: hãy giữ gìn văn hóa Việt trong cuộc hội nhập ngày hôm nay. Với bộ ba tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa, Nguyễn Xuân Khánh đã thổi một luồng gió góp phần làm tươi mới, đậm đà hơn cho nền văn học, văn hóa nước nhà.
Trên văn đàn Việt Nam nói chung, văn học Việt Nam sau 1990 nói riêng, Nguyễn Xuân Khánh là người đến muộn mà sớm, là người lạ mà quen. Nếu tính theo năm sinh và năm bắt đầu nghiệp cầm bút, ông là lão làng. Nếu tính theo cái đa đoan của nghiệp cầm bút, ông là người quen. Nhưng, nếu dựa vào sự xuất hiện bùng nổ, liên tục, tạo hiệu ứng mạnh và nhanh với tần suất xuất bản, tái bản, lượng người đọc, người nghiên cứu, các luồng tranh luận và ý kiến trái chiều nhau trong bầu không khí văn học đang đặc quánh mùi hậu hiện đại, ông là người mới và lạ, là người đến muộn nhưng về đích sớm, mới cả về hình thức và nội dung, lạ cả về nội dung và hình thức.
Về chuyện lạ, như chúng ta đã biết, từ sau năm 1990 đến nay, văn học Việt Nam thực sự đã có nhiều bước cách tân và đột phá, nhất là khi có hàng loạt các tên tuổi của thế hệ nhà văn sau giải phóng như Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà,… Họ đã đem đến cho văn học những mĩ cảm, những góc nhìn, và những thể nghiệm tân kỳ về kỹ thuật viết. Lối viết dòng ý thức, cấu trúc phân mảnh, đa tuyến, đa thanh, tự sự nhiều điểm nhìn,... xuất hiện ngày càng nhiều trong tiểu thuyết đương đại. Người đọc cũng quen dần với tinh thần phản biện, chất vấn, hoài nghi, những nhu cầu của cái tôi bản thể, những vận động đa chiều của đời sống,… Đương khi ấy, Nguyễn Xuân Khánh đột ngột xuất hiện, ngỡ ngàng với bộ ba tiểu thuyết liên tục xuất bản, có độ dài đều ngót nghét cả nghìn trang. Điều lạ nữa là ai cũng hồ hởi đón nhận, hồ hởi nghiên cứu. Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa nhanh chóng trở thành hiện tượng best seller (sách bán chạy nhất) và best criticize (phê bình tốt nhất). Có người đã ví von, sự hào hứng mà Nguyễn Xuân Khánh mang đến giống như cảm giác khi đã thấy phở lỏng lảnh, tráng nuột quá người ta lại thèm cái cảm giác ngọt bùi, chắc dạ của cơm. Hóa ra, cái cảm giác lạ kia lại đến từ bề sâu của những trải nghiệm văn hoá, mà Nguyễn Xuân Khánh đã dành tất cả tâm huyết, sự đam mê, quý trọng để nghiền ngẫm, suy tư về nó.
Nguyễn Xuân Khánh không chỉ lạ, mà còn mới. Cái mới của Nguyễn Xuân Khánh chính ở niềm say mê với lịch sử và văn hóa bản địa. Sự say mê không chỉ thể hiện ra bằng cảm quan mà còn bằng sự quan tâm một cách sâu sắc đến cấu trúc văn hóa, sự biểu đạt, tính liên tục và xâu chuỗi một cách có ý thức. Lịch sử, phong tục, tập quán, văn hóa trở thành nhân vật chính, chủ đề chính, giá trị chính chứ không phải là phông nền hay sự điểm xuyết. Có cảm giác như ngoài lịch sử, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, Nguyễn Xuân Khánh không muốn, không thích, không chú tâm viết cái gì khác (mặc dù ông cũng là người của đương thời, đọc nhiều triết thuyết phương Tây, dịch nhiều tác phẩm có tư tưởng và quan điểm sống hiện đại). Văn hóa vốn khó minh định, giải mã về văn hóa càng khó khăn, vì thế viết về văn hóa, thẩm định các giá trị của lịch sử, đời thường, tôn giáo, đức tin từ văn hóa lại càng không đơn giản. Nhưng với sự say mê, lao động nghiêm túc, miệt mài của Nguyễn Xuân Khánh, bộ ba tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa đã lấp đi một chỗ trống không nhỏ cho kiểu loại sáng tác về lịch sử, phong tục, tập quán.
Lịch sử văn học Việt Nam từng nổ ra cuộc tranh luận về nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh. Chúng tôi cho rằng, đến nay, dù đã có những biến thể về cách thức phát ngôn, nhưng cuộc tranh luận này vẫn chưa có hồi kết, bởi bản thân nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng vẫn luôn vận động. Vì thế, những năm gần đây, với nhiều sáng tác về văn hóa như tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, các chủ đề văn hóa được bàn luận rộng rãi, các phương pháp nghiên cứu văn hóa được khơi thông vận dụng, người ta đang đồ rằng, có thể có một kỷ nguyên về nghệ thuật vị văn hóa sắp khai diện và bung tỏa. Câu chuyện của đời người, văn chương, lịch sử, suy cho cùng, là câu chuyện của văn hóa đấy thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét