Những dáng tùng trong thơ Việt...
Trong các nền văn học, nghệ thuật Phương Đông
hình tượng Tùng đứng chon von trên đỉnh núi chống chọi tuyết
sương tiêu biểu cho những bậc hào kiệt, nhân vật chính diện có
khí phách cứng cỏi. Tùng từ một hình tượng nghệ thuật dần
trở thành một biểu tượng đời sống văn hóa chỉ vẻ đẹp, phẩm cách của con người
lý tưởng. Bốn loại cây trúc, mai, tùng, cúc tiêu biểu cho bốn tính
cách của người quân tử, đấng trượng phu: ngay thẳng, trong sạch, cứng cỏi,
khiêm tốn.
Ngoài tính chất phổ quát là một biểu tượng văn hoá
chỉ sự cứng cỏi, dũng cảm, Tùng trong văn học còn là một ẩn
dụ về nhân cách có nhiều biến tấu theo thời gian, mỗi thời đại hình tượng Tùng có
một hàm nghĩa không giống nhau về tính cách, về phẩm chất của nhân vật
cũng như của chủ thể trữ tình. Tùng thời Lý không giống thời Trần,
thời Nguyễn… Khảo sát hình tượng Tùng qua các biến thiên xã hội, ta
sẽ nghiệm thấy nhiều tương tác, nhiều mô thức có tính đột biến giữa
văn học và đời sống, giữa chủ thể và khách thể!
Thời Trần (Tk13) có một nhà văn hóa lớn: Tuệ Trung thượng
sĩ. Ông tên thật là Trần Tung, sinh năm 1230, mất năm 1291, một người
phẩm chất thanh cao, sùng đạo Phật. Ông là con Trần Liễu, anh Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn và hoàng hậu Nguyên Thành, vợ vua Trần Thánh Tông, mẹ của Trần Nhân
Tông. Năm 21 tuổi được phong tước vương (Hưng Ninh Vương), trấn giữ đất Hồng Lộ
tức Vĩnh Lại, Hải Dương ngày nay. Ông cùng vua quan nhà Trần hai lần ngăn giữ
giặc Nguyên, có công lớn với triều đình. Theo Nguyên sử, trong cuộc xâm lược
lần thứ hai, vào ngày 10-6-1285 khi Thoát Hoan rút chạy khỏi bờ Bắc sông Hồng, chính Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Hưng Ninh Vương Trần Tung đem hơn
hai vạn quân chặn đánh tướng giặc và đuổi Thoát Hoan chạy đến sông
Như Nguyệt. Trong cuộc kháng chiến lần thứ ba, sách An nam chí lược (Lê Tắc) cho biết Trần Tung không chỉ là vị tướng tài mà còn là một
nhà ngoại giao lỗi lạc, nhiều lần thương thuyết với giặc khôn khéo, làm lợi cho
quân ta rất nhiều. Không hiểu sao cuối đời ông đi tu, nổi danh một
người uyên thâm về đạo Phật, được Trần Thánh Tông rất khâm phục. Chính vua
Thánh Tông là người gọi ông là Tuệ Trung thượng sĩ. Thượng sĩ có nghĩa tương
đương là Bồ Tát, được tôn như người tu Phật đã đắc đạo. Ngoài việc viết sách
Nho giáo, Đạo giáo, ông còn là nhà thơ, nhiều tác phẩm của ông ý tứ sâu sắc cho
đến bây giờ vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau.
Trong bài Giản để tùng (Cây tùng dưới đáy khe),
Tuệ Trung có những câu:
Tối ái thanh tùng chủng kỷ niên,
Hưu ta địa thế sở cư thiên.
Đống lương vị dụng nhân hưu quái
Dã thảo nhàn hoa, mãn mục tiền!
Có người xem bài thơ là một sự tỏ bày chua chát về
nhân tình, thời thế đổi thay những lương tài của đất nước hết thời
xử dụng về ẩn dật hoa thơm cũng như cỏ dại, “phượng công
sánh vai cùng gà đàn chim cuốc”, tuy nhiên đối chiếu với phẩm hạnh
và cuộc đời Tuệ Trung thì cách hiểu bài thơ như bản dịch
và lời bình của Ngô Văn Phú dễ được chấp nhận hơn:
Mấy năm trồng tỉa một chòm thông,
Chẳng thở than vì đất vắng không!
Rường cột chưa dùng, đời chẳng lạ...
Mảng vui cỏ nội với hoa đồng!
“… Thơ viết về thông mà nói về người, về bản chất của một lối
sống. Sự thanh cao nhuần thấm đến từng chữ, từng lời!” “Sự thanh cao” mà
Ngô Văn Phú nói ở đây ám chỉ việc người không than thở
cho những mất mát chênh lệch về vị trí, chức tước, luôn vui vẻ hòa đồng
“mảng vui với cỏ nội hoa đồng”. Hình tượng Tùng ở đây có thể thay bằng
một chữ Hòa (hòa đồng). Không phải là chữ Dũng mà là
chữ Hòa, một phẩm chất quan trọng của bậc hào kiệt thời kỳ đầu xây dựng
nhà nước phong kiến tập quyền.
Hai trăm năm sau, vào thời kỳ Lê sơ, Nguyễn
Trải một khai quốc công thần mà thân thế sự nghiệp đầy những bất trắc đã thể hiện
trong thơ mình một hình tượng Tùng hoàn toàn khác. Tuy có lần ông
tự ví mình như “cây tùng bách sương tuyết đã quen” nhưng căn bản bao
trùm lên toàn bộ tâm hồn và thơ ca của ông “tùng” không gắn với chữ Dũng như trong truyền thống cũng không là chữ Hòa như
của Trần Tung mà là biểu trưng của chữ Nhân - lòng thương
yêu nhân dân, yêu thương con người. Khi nhà Trần khẳng định thiên hạ,
buổi đầu chữ Hòa của vua tôi, của quý tộc, tôn thất, trong cộng đồng
là rất cần thiết. Sang đời Lê cái cần là lòng nhân đối với con người. Xã hội
phong kiến dẫu đang trong thời kỳ đi lên cũng đã bộc lộ nhiều nghịch
lý phương hại đến đời sống dân sinh. Thấy được điều đó ta
mới thật hiểu ý nghĩa hình tượng Tùng, trong nhưng
câu thơ sau:
Hổ phách phục linh nhìn mấy biết
Dành còn để trợ dân này.
Trước cuộc sống đầy “tuyết sương” của nhân dân, Nguyễn
Trải nhận thức được rằng người quân tử không chỉ là nhà
cả đòi phen chống khỏe thay mà còn phải làm hổ
phách phục linh để trợ dân! Cây Tùng sống trăm năm chịu
đựng sương giá chắt lọc trong cốt tủy của mình những vị thuốc trường sinh để giúp dân, trợ dân. Đưa phẩm chất này vào hình tượng cây Tùng truyền
thống, Nguyễn Trãi đã sáng tạo một hình tượng Tùng mới
- một lý tưởng mới về bậc trượng phu, quân tử. Với Nguyễn
Trãi Tùng không chỉ là Dũng mà còn là Nhân, chủ
yếu là Nhân! Đó không chỉ là một sáng tạo thuần
túy nghệ thuật mà là một nét mới mẻ của tư tưởng nhân văn Nguyễn Trãi, nâng ông lên tầm một danh nhân văn hóa.
Nhà Lê theo quỹ đạo chung của các triều đại, qua thời phát
triển đến kỳ suy vi, nhường chỗ cho Nhà Nguyễn (Tk19). Văn học Việt Nam thời kỳ này cực kỳ phát triển với nhiều tên tuổi là
những đỉnh cao của văn hóa dân tộc. Nguyễn Công Trứ là một trong số đó. Ông
mang trong mình nhiều biến thiên, nhiều mâu thuẫn và cả những ước
muốn vượt qua rào cản thời thế, nhưng bất lực nên chọn một lối rẽ
không giống ai so với các nhà nho thời bấy giờ. Nguyễn
Công Trứ (1778 - 1858) quê làng Uy Viễn, nay là xã Xuân Giang huyện Nghi Xuân,
tỉnh Hà Tĩnh. Đời ông có nhiều sự lạ! Học
giỏi nhưng mãi đến năm 42 tuổi (1820), ông mới đỗ Giải nguyên ra làm quan dưới các
triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, đến chức phủ doãn. Trong 28 năm làm quan,
thăng, giáng chức đến 8 lần. Là quan văn nhưng mệnh vua đem quân đánh dẹp một
số cuộc khởi nghĩa của nông dân lần nào cũng thắng. Có công lớn trong việc
khai hoang lấn biển ở Quảng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình lập
nên hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn tạo dựng công ăn việc làm cho hàng vạn
người được nhân dân quanh vùng lập đền thờ khi còn sống.
Nguyễn Công Trứ là người đa tài, nhưng ở ông tài và phận nhiều
khi không song hành. Đời ông trải nhiều thăng trầm, vinh nhục, nên hiểu sâu sắc
nhân tình thế thái đương thời. Đó là một xã hội đầy nghịch lý, ông vừa
khinh bỉ và ngán ngẩm vừa phải chấp nhận nó Ra trường danh lợi
vinh liền nhục/ Vào cuộc trần ai khóc trước cười. Chán chường với chốn
quan trường, thấy những nghịch lý trong xã hội nhưng ông vốn
là con người hành động nên hai phần đời đã nhập cuộc - một cuộc
chơi: Trời đất cho ta một cái tài/ Dắt lưng dành để tháng ngày
chơi - trộn lẫn khóc cười! Cho đến cuối đời, cuộc chơi đã gần
mãn, nhiều lúc chua chát nhìn lại đời mình, ông muốn phủi tay muốn
thoát ly ra ngoài. Tự bộc lộ, gói tròn tâm sự vào một hình tượng
nghệ thuật độc đáo, điều đó ta có thể tìm thấy khả rõ ở bài thơ
nổi tiếng của ông, bài “Cây thông”.
Ngồi buồn mà trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Bài thơ là tâm trạng của một bậc hiền tài chua xót trước thời
cuộc, ông trách cái xã hội oái oăm nhiều ngang trái, nhưng không đủ
nhận thức để phủ định nó. Bởi vậy mà sinh ra bi kịch. Xã hội nhiều nghịch lý, đưa đến nhiều tâm trạng bất như ý và đối nghịch Khi vui muốn
khóc, buồn tênh lại cười. Phép xuất xử, luôn gợi ý cho các nhà nho khi
nào nhập thế khi nào xuất thế, khi nào ra làm quan
khi nào về vườn. Có vị “về” khi đường hoạn lộ đương thênh
thang để giữ lòng trong sạch, có vị không ra làm quan “chỉ tìm nơi
vắng vẻ” dưỡng thân nhàn. Nguyễn Công
Trứ nhàn khi về hưu, muốn làm cây Thông. Với bài
thơ phải chăng ông tỏ ý thoát ly, ở ẩn? Không! Đây
chỉ là một cách nói “bóng gió” có tính phản kháng! Thông ở đây xuất
hiện như một chữ Phóng - Phóng lãng bất
cần đời, phản kháng cuộc sống nhiều nghịch lý.
Hai thế kỷ sau, trong đời sống đương đại, một tác
giả đồng hương với Nguyễn, trong bài thơ Cây thông bị đổ ở đền thờ Nguyễn
Công Trứ (*), vẫn khai thác cái cái vẻ đẹp kiên cường và cuộc sống éo le của
tính cách người xưa trong ẩn dụ mới về “Cây thông” - con
người tích cực phải được thử thách trong hoàn cảnh gian lao! Cây
thông và đời sống thực tại, cũng lại là một tương quan đầy kịch tính về
thân phận những con người trí dũng cao cả với miền gió lào cát trắng. Cái mạch chìm bài thơ làm người đọc phải suy ngẫm nhiều,
một câu hỏi cứ day dứt tưởng như Nguyễn Công Trứ sống lại
cũng tê tái. Lúc làm người thì phải chịu cảnh “khi vui muốn khóc,
buồn tênh lại cười” nên mơ ước thành thông để “giữa trời mà reo”. Nhưng
làm thông cũng nào tránh được đời xô đẩy nên“ đổ kềnh rễ trơ cùng
trời đất…”!. Nguyễn ngày xưa và nhiều bậc trí dũng thời
nay sau một đời ngang dọc, mong trở về yên phận ở
đất quê mà quê hương như không bao dung nổi, bởi đất quê chỉ
thích hợp với bạch đàn và phi lao (Và phi lao bạch đàn quen quây quần với cát). Cái khí phách cứng cõi, tấm lòng Nhân mênh
mông của Thông dễ trở thành lạc
lõng đâu dễ sống chung với cát, với phi lao bạch đàn…
Hình như thời nào cũng có một nghịch lý giữa cái mơ ước cao cả
và thực tại tầm thường Nhưng dẫu thế thì người trí dũng vẫn phải đứng
vững, phải “tùy ngộ nhi an” như người xưa từng dạy.
Đã là thông
Phải cứ can trường hát reo
nơi cheo leo vách đá.
Ghi chú:
(*) Võ Hồng Hải - Cây thông bị đổ ở đền thờ Nguyễn Công Trứ -
Nhân Dân 20-2-2004.
8/9//2010 Yến Nhi
8/9//2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét