1. Nguyễn Bính trong mỗi chúng ta
Nỗi nhớ của con người thường gắn liền với một cái cớ nào
đó. Hễ gặp duyên cớ kia là nhớ nhung cứ thế mà thức dậy, mà da diết. Tôi thường
nhớ tới Nguyễn Bính mỗi độ xuân về. Nhất là lúc mưa xuân. Đấy cũng là lúc rời
phố xá, tôi trở về quê nhà ăn tết với người thân. Tôi cứ thấy Nguyễn Bính về
theo từng chấm mưa rắc bụi lên cỏ cây hoa lá, lên những võng tơ nhện óng ánh
sương giăng mắc vệ đường, vệ đê, bụi hoang nơi đồng nội. Bấy giờ những nẻo đường
quê dường như mềm hơn, mịn hơn. Những làn bụi từng bị rang khô dưới nắng hè,
từng lầy lụa trong mưa dầm tháng bảy, từng xáo cuộn cùng xác lá trong gió heo
may tháng mười giờ đã yên nằm trên mặt đường ẩm mát. Lấy móng tay gợi lên thì
xốp tơi như lòng khoai lang bột đồng màu. Những hàng xoan se mình tím tái
trong suốt mùa đông bỗng tươi da, nhựa đang chuyển mình lên những chồi hẹn
nhú. Nước giếng khơi như bỗng trong đầy. Hoa bưởi rắc phấn vàng xuống tóc người
dừng bước... Ở đâu tôi cũng thấy Nguyễn Bính. Cái gì cũng nhắc về Nguyễn
Bính. ấy là lúc đã về tới cố hương, về với tuổi thơ xưa. Nguyễn Bính cứ lãng đãng
theo tôi trên mỗi bước đường làng. Tôi trò chuyện cùng ông như với một cố
nhân, một người vẫn ở mãi chốn quê, chỉ có mình là bỏ quê phiêu dạt. Nguyễn
Bính là làn mưa xuân rắc mình lên chốn hương thôn, là lá dâu xanh dập dờn bướm
vàng cuối bãi. Nguyễn Bính là chiếc lá lìa cành đầu ngõ, là chiếc mo cau rụng
vội góc vườn. Nguyễn Bính là sắc nắng chiều man mác trên mỗi thân cau, là ngọn
mồng tơi ngập ngừng nơi lưng giậu. Nguyễn Bính là tiếng trống chèo động lòng
đêm hội, là cỗ tam cúc thắc thỏm giao thừa. Nguyễn Bính là mảnh khăn điều trẩy
hội chùa, là cây lụa trắng đang về chợ làng xa. Nguyễn Bính là nỗi hờn tủi của
những con đò. Nguyễn Bính là tiếng thở than của mỗi tấm liếp. Nguyễn Bính là
những mảnh đời lỡ làng sau mỗi lũy tre lối xóm. Nguyễn Bính là nỗi đoái trông
của mỗi vườn cam mái gianh. Nguyễn Bính là đôi mắt đau đáu trong thẳm sâu
lòng người xa xứ... Tôi nhớ Nguyễn Bính như là khắc khoải về xa xưa, về hiện
tại của chính mình. Tôi, một đứa con sống trong lòng Tổ quốc còn thế. Trách
chi cái anh chàng Việt kiều Hoàng Chính nào kia ở cuối thế kỉ hai mươi lênh
đênh xứ người, nhớ về Tổ quốc là nỗi nhớ Tiếng Việt, nhớ tiếng mẹ đẻ, là nhắc
nhau nhớ đến Nguyễn Bính: Mười một năm trời đi biệt xứ/ Em còn nhớ tiếng Việt
Nam không?/ Lòng còn xôn xao Thơ Nguyễn Bính?/ Chuyện "Thôn Đoài ngồi nhớ
thôn Đông" (Gửi vầng trăng lưu lạc). Nguyễn Bính là tiếng vọng cội nguồn
trong lòng kẻ lưu lạc. Nguyễn Bính là tiếng trở mình của rặng tre trong lòng
kẻ tha hương. Nguyễn Bính còn là cái tiếng Việt trong lòng đứa con xa đất mẹ...
Ai đó nói trong mỗi chúng ta đều có một người nhà quê. Sau bấy nhiêu năm, tưởng
cũng có thể nói, trong mỗi chúng ta đều có một Nguyễn Bính, kể cả những ai muốn
chối bỏ điều đó. Sức đeo bám của Nguyễn Bính trong hồn mỗi người Việt lớn hơn
chúng ta tưởng rất nhiều. Sau ca dao có lẽ chỉ Nguyễn Bính mới có nổi sức đeo
bám này. Hồn quê trong mỗi chúng ta bây giờ chẳng phải còn có tên là Nguyễn
Bính ư?
Và khi rời khỏi cố hương ra với đời sống của mình chốn đô
thị, tôi cũng luôn thấy nhớ Nguyễn Bính. Các đô thị càng mọc lên, các cao ốc
càng chất ngất, càng thấy nhớ Nguyễn Bính. Nguyễn Bính như là cái gì đang mất
lại vừa như một cái gì không thể mất. Là cái vô hình luôn hiện hữu, là cái hiện
hữu mà vô hình.
Nhưng cái tên Nguyễn Bính đến với tôi từ bao giờ?
Người ta thường thích nhớ về "cái thuở ban đầu lưu luyến
ấy". Tất nhiên, có khi nhớ được, có khi chẳng còn nhớ nổi, tất cả cứ
nhòe lẫn nhạt nhòa. Phần mình, với Nguyễn Bính, thì tôi chẳng thể nào quên. U
tôi, chị tôi có ru tôi bằng Nguyễn Bính hay không? Ký ức thuở nằm nôi, nằm
võng không thấy vọng lên câu nào. Còn như Kiều, Chinh phụ, Trương Chi, Hoàng
Trừu, Tống Trân, Phạm Tải... thấy nhiều hơn. Trong tuổi thơ tít tắp của mình ở
xứ Thanh, tôi thường đi phụ giúp u tôi làm trên lò gốm. U tôi là thợ vần, cả
đời tay thì vo đất sét, chân thì đạp bàn xoay, cùng thợ chuốt làm ra đủ thứ
chum, vại, thửng, hũ, cóng, ang... Các bà thợ vần, thợ chuốt vừa làm vừa tán
đủ thứ chuyện, rồi hát hò, ngâm thơ, rồi tranh cãi nhau về nghĩa lý của câu tục
ngữ này, câu thành ngữ nọ. Hôm ấy, một chị thợ chuốt còn trẻ, sau khi chuyện
vãn, đã cất lời ngâm một đoạn khá não nùng mùi mẫn: "Em ơi em ở lại nhà/ Vườn dâu em đốn mẹ già em thương...". (Phải khi vào cấp ba tôi mới biết
nó là "Lỡ bước sang ngang"). Đến chỗ "đêm nay là trắng ba
đêm...", chị ta ngâm tiếp là "Chị thương chị kiếp con chim lạc
đàn". Lập tức, tôi nghe thấy tiếng phản đối của một bác thợ lò: "con
chim lìa đàn chứ sao lại lạc". Đang ngâm, bị cắt ngang, khác nào bị chẹn
họng, và chắc là không chịu được cái giọng chỉnh kẻ cả, chị kia cãi lại gay gắt:
Cái ông này, vô duyên! Người ta nói chim lạc đàn chứ ai nói lìa đàn bao giờ!
Thế mà cũng đòi sửa! Bác thợ lò thấy cần phải đè bẹp đối thủ, phải thắng triệt
để nên ra điều sành sỏi chữ nghĩa: Lạc thì thường, thì non nghĩa. Lìa mới lạ,
mới già nghĩa, chữ mới chín. Đang bay cùng mà phải lìa khỏi đàn, thì mới đau
chứ...". Rồi bác ta còn bảo, nếu không chịu, mai sẽ mang nguyên văn lên
cho xem. Chị ngâm thơ đành ấm ức mà im lặng.
Cũng mãi sau này, tôi mới ngớ ra rằng, đó có lẽ là cuộc
tranh luận về ngôn ngữ thơ đầu tiên mà mình được chứng kiến.
Bởi cái lẽ "đầu tiên" ấy mà găm rất sâu vào lòng
trí non nớt của tôi cái hình ảnh con chim lìa đàn. Nó cô lẻ. Nó côi cút. Thoi
thót suốt tuổi thơ tôi. Lúc bấy, tôi không ngờ, và có lẽ ngay cả Nguyễn Bính
khi viết câu ấy cũng không thể ngờ "con chim lìa đàn" đã thành chân
dung tự họa (hay tự ám?) da diết nhất của Nguyễn Bính.
Thực ra, khi đọc thi sĩ này, thấy bướm trắng bướm vàng bay
loạn trong thơ ông, một đôi người bèn coi bươm bướm là biểu tượng chuẩn nhất
cho Nguyễn Bính. Đúng là hồn thơ này cũng có ngất ngây chuyện bướm hoa, cũng
sinh ra những bóng bướm quyến rũ. Nhưng cũng tựa như dáng chập chờn của nó,
bươm bướm chỉ thuộc vào cái phần tình tang lẳng lơ, phần bâng quơ phù hoa của
vườn thơ Nguyễn Bính thôi. Một lúc khác, Nguyễn Bính có ví nỗi cô đơn nhục nhằn
trên đường đời của mình với con ngựa và người chị với chiếc thuyền nan - Em vốn
đường dài thân ngựa lẻ/ Chị thì sông cái chiếc đò nan/ Quê người đứng ngóng
mây lưu lạc/ Bến cũ nằm nghe sóng lỡ làng. Nguyễn Bính sinh năm Mậu Ngọ
(1918). Ví mình như con ngựa không chỉ là ý thức về thân thế long đong của
mình, mà trong đó còn chứa cả một ý niệm về cái bản mệnh giời đày của mình nữa.
Vẫn biết thân ngựa lẻ kia cũng chỉ là biến thể của cùng một cái tôi Nguyễn
Bính. Song con chim lìa đàn vẫn cứ ám hơn cả. Nó vận vào thân phận nhiều trái
ngang của thi sĩ. Nó mới thực sự là chân dung tinh thần chan chứa những sầu tủi
của Nguyễn Bính. Mà trước hết là chân dung tự họa của cái Tôi trữ tình thi sĩ.
Đó chẳng phải là một cá nhân đang tách ra khỏi bầy đàn, một cá thể đang tách
khỏi đoàn thể, cái Tôi đang tách khỏi cái Ta? Nhưng với con chim kia, đó
không phải là một cuộc vùng lên cao ngạo, bứt phá bướng bỉnh, vượt thoát bất
cần. Mà đó là sự chia lìa. Nó không thể không tách ra, nhưng cái nó cảm thấy
rõ khi vừa tách ra không phải vũ trụ dành riêng cho sự tung hoành, trái lại,
là sự chơi vơi, là nỗi đơn côi. Lìa đàn là đánh mất điểm tựa vững chắc, mất
vòng tay ôm ấp chở che. Lìa đàn, chưa tìm thấy mình đã đánh mất mình. Lìa
đàn, bơ vơ giữa cõi, lưu lạc tìm đàn. Và hình ảnh con chim lìa đàn ấy thực sự
là một ám ảnh trong tâm thức thi sĩ. Nó còn bay mãi trong hồn thơ Nguyễn Bính
với những bóng dáng khác nhau: "Lẻ loi thân nhạn sang nam ấy", "Thân em chẳng khác con chim non/ Bơ vơ trong xứ người xa lạ",
"Sầu nghiêng theo cánh chim lìa tổ/ Biết lạc về đâu lòng hỡi
lòng?"...
2. Ra đời trong biến thiên
Bằng lòng với những ấn tượng chủ quan, xem ra là điều không
thể. Cần phải trả Nguyễn Bính về với thời đại của ông, về với cuộc biến thiên
chưa từng có ở chốn nước non bình lặng này [1] hồi đầu thế kỉ trước. Nguyễn
Bính là con đẻ của cuộc biến thiên ấy hay nhân cuộc biến thiên này mà cái anh
chàng thôn dân nghìn đời đất Việt đã lỡ bước sang ngang, đã hoá con chim lìa
đàn mà thành ra Nguyễn Bính?
Cuộc biến thiên tầm cỡ như vậy, bao giờ cũng vừa là một cơn
bão tàn phá vừa là một cơn trở dạ của lịch sử. Nghĩa là bao giờ cũng có hai mặt
biện chứng: hủy diệt và sinh thành. Sức mạnh phá hoại sẽ phá vỡ và phế bỏ nhiều
cái cũ, mặt khác cũng nhân đó mà nhiều cái mới nảy nở sinh sôi. Phá hủy dọn
đường cho sinh thành, sinh thành biện minh cho hủy diệt. Nó chi phối thực tại
đời sống như một qui luật không thể cưỡng được. Tất cả đều bị cuốn vào quỹ đạo
vừa vô hình vừa hữu hình của nó. Cuộc biến thiên đó muốn đập vỡ một thế giới
cũ để cho một thế giới mới ra đời. Nên điều thật khó tránh là, trong những
cái bị tàn phá một cách say sưa, sẽ lẫn vào không ít những giá trị thiêng
liêng thuộc vào hàng bảo vật của giống nòi. Không chỉ trên qui mô toàn xã hội,
mà ngay trong mỗi một con người cũng đương diễn ra một cuộc biến thiên ngấm
ngầm: con người mới đang đòi phải phế bỏ con người cũ. Mà chia lìa con người
cũ bao giờ cũng đau đớn. Bởi thế trong xã hội cũng như trong mỗi cá thể, đều
hình thành hai thế lực: cách tân và bảo thủ, hai ham muốn: một đằng quyết
giành quyền sống một đằng quyết giữ quyền sống [2]. Tương ứng với nó là hai
thái độ, hai tâm thế thời đại: háo hức cái mới và lưu luyến cái cũ. Trong cái
háo hức, bên cạnh sự táo bạo nhạy bén, có cả những nôn nóng vội vàng. Trong
niềm lưu luyến, song hành với thái độ thủ cựu khư khư ôm lấy những phản giá
trị đã cổ hủ, lỗi thời, kệch cỡm, là nỗi thiết tha đến day dứt khắc khoải trước
những giá trị có nguy cơ bị phá phách, tiêu hủy, biến suy. Mỗi tâm thế đều là
một nguồn mạch trữ tình lớn của thời đại. Niềm thiết tha khắc khoải ngấm ngầm
trong xã hội và lòng người kia cho đến 1918 đã tìm thấy người thi sĩ của nó.
Làng Thiện vịnh, xứ đồng trũng chiêm khê mùa thối Vụ bản, Nam Định đã sinh ra
cho nền thi ca Việt một cậu bé mà lớn lên sẽ lãnh cái sứ mạng thi sĩ kia.
Nguyễn Bính là sự cất tiếng của con người Việt nghìn đời trong cuộc biến
thiên vĩ đại mà đầy đau đớn đó. Và đây cũng là một lý do giúp ta hiểu vì sao,
thơ Nguyễn Bính vẫn luôn làm xao động mọi tấm lòng Việt, tâm hồn Việt.
Mà con người Việt nghìn đời trong mỗi chúng ta là ai nếu
không phải là con người tiểu nông với tất cả ưu nhược của nó? Trong một xã hội
mấy nghìn năm "không đổi nhưng mà trôi cứ trôi" đó, anh chàng tiểu
nông kia vẫn sống yên ổn. Đến nỗi ta những tưởng đó đã là cái bản thể bất di
bất dịch. Nhưng trước cơn biến thiên lung lay đến tận cội rễ, chàng tiểu nông
không thể còn yên ổn. Không thể như cũ, lại chưa thể theo mới. Ngậm ngùi với
cái cũ, hoang mang trước cái mới. Bồn chồn, xốc xáo, không yên định là cõi
lòng của nó. Nguyễn Bính là tiếng lòng bất an của anh chàng tiểu nông, là tiếng
lòng bất an của thời đại. Đứt rễ khỏi đất cũ, chưa bén rễ vào đất mới, lòng
thời héo hon, lá thời héo úa. Nguyễn Bính là tiếng lòng héo hắt của cuộc biến
thiên kia.
Nền tảng tinh thần muôn đời của anh tiểu nông là con người
cố kết, ý thức bầy đàn. Bầy đàn là chỗ dựa cho mỗi cá thể. Bầy đàn là vướng
víu, nhưng bầy đàn là bình ổn. Bầy đàn là chốn giam thân, bầy đàn cũng là chốn
nương thân. Cá thể bay nhanh trong bầy đàn, cá thể bay chậm cùng bầy đàn. Bầy
đàn nhất nhất quyết định sức mạnh cá thể. Nhưng cơn biến thiên này đã khiến
cá thể không muốn và không thể dựa dẫm vào bầy đàn. Mỗi cá thể cần phải là
chính nó. Kẻ háo hức thì hân hoan thấy mình thoát khỏi kiềm tỏa của bầy. Kẻ nặng
căn thì sầu tủi vì thấy mình phải lìa khỏi đàn. Nguyễn Bính là tiếng nói sầu
tủi của con chim lìa đàn ấy.
Trong đời sống cổ truyền giá trị cá nhân được xác định dựa
vào việc làm tròn bổn phận. Bổn phận là lẽ sống, cũng là điểm tựa bao đời. Bổn
phận có thể là một ngáng trở, nhưng cũng là một bấu víu. Bổn phận vừa là cánh
tay bó riết vừa là vòng tay âu yếm. Bổn phận khiến cá nhân phải hi sinh, bổn
phận cũng làm nên sự cao cả cho cá nhân. Nhưng, trong cơn biến thiên này, tiếng
nói của khát vọng nhất tề trỗi dậy. Đôi cánh khát vọng muốn tuông ra khỏi dây
nhợ bổn phận. Thời trước, mỗi cuộc giao tranh giữa khát vọng và bổn phận thường
được dẹp yên bằng ý thức hy sinh. Còn giờ đây cá nhân lại xác định giá trị của
mình ở tầm vóc của khát vọng. Cho nên cuộc giao tranh hoặc biến thế giới tinh
thần thành một đấu trường đẫm máu không có hồi kết, hoặc kết thúc bằng thất bại
tủi sầu của bổn phận. Khát vọng chiến thắng. Nhưng là một chiến thắng đầy mặc
cảm tội lỗi, dai dẳng không nguôi.
Nguyễn Bính là tiếng nói của cái tôi mang nặng mặc cảm đó.
Nội dung bao trùm của mặc cảm kia là gì?
Có thể nói đó là mặc cảm lỡ dở.
3. Cái tôi lỡ dở
Hơn chục năm trước, khi khởi thảo những mẩu đầu tiên về
Nguyễn Bính (phân tích bài thơ Xa cách, viết với Nguyễn Đăng Điệp), tôi chủ
trương khái quát Nguyễn Bính bằng hai chữ "lỡ làng". Phần vì nó là
chữ trở đi trở lại rất nhiều trong Nguyễn Bính, phần vì thấy đây là một bi kịch
lớn, bao trùm lên thế giới thơ của thi sĩ này. Giờ đây, đọc vào Nguyễn Bính
sâu hơn rồi, nhận rõ hơn tầm vóc của thi sĩ, tôi thấy chữ "lỡ làng"
đuối nghĩa, đuối sức như con đò bé không còn chở Nguyễn Bính sang ngang được
nữa. Chữ "lỡ làng" hợp với phận gái hơn, lại quá nghiêng về chuyện
tình duyên. Trong khi, ngay cả lúc nước mắt lưng tròng - chỉ vài ngày hoen ướt
đã hỏng mất một khăn hồng - thì Nguyễn Bính vẫn cứ là phận trai. Với lại, nỗi
sầu tủi của Nguyễn Bính phải đâu chỉ có chuyện duyên phận lỡ làng, mà còn cả
sự nghiệp dở dang - "Em đi dang dở đời mưa gió/ Chị ở vuông tròn phận
lãnh cung", "Dang dở một thân nơi đất khách/ Tết này ta lại ngắm
hoa suông"... Vì thế tôi thấy chữ "lỡ dở" ưu thế hơn. Không
phải vì muốn đổi một từ láy sang một từ ghép cho nén, cho đúc. Mà quan trọng
là phải chữ ấy mới cưu mang được thân phận Nguyễn Bính, nghĩa là mới gồm được
mọi hẩm hiu về cả duyên phận lẫn danh phận của cái tôi kia. Tìm đến chữ này để
gọi Nguyễn Bính, tôi giật mình vì thấy: Tạ Tỵ trong cuốn Mười vẻ mặt văn nghệ
đầu những năm 70 của thế kỉ trước đã tìm đến nó khi gọi Nguyễn Bính là
"thiên tài lỡ dở". Nhưng xem kỹ, thấy chữ Tạ Tỵ nghiêng về cái
nghĩa chỉ con người thực: hoàn cảnh đã tạo ra Nguyễn Bính như là một thi tài
dở dang, với một thái độ tiếc rẻ gần với Phan Ngọc - "Nguyễn Bính chỉ
còn thiếu một hiểu biết Tây học nên không thành nổi nhà thơ đầu đàn..."
[3]. Và chỉ có thế.
Phần mình, dùng chữ "lỡ dở", tôi không chỉ muốn
nói thơ Nguyễn Bính là sự lên tiếng của những cảnh ngộ oan nghiệt, những thân
phận ngang trái. Mà quan trọng hơn, Nguyễn Bính là thi sĩ của cái lỡ dở, như
một phạm trù trữ tình vậy. Bởi vì "lỡ dở" đâu chỉ là chuyện của
riêng Nguyễn Bính, riêng của thời đại Nguyễn Bính, mà sau này và mãi mãi nó vẫn
là một thảm trạng phổ biến của cõi nhân sinh. Có phải trên thế gian, thân phận
nào cũng may mắn, cũng vinh hoa cả đâu. Ngay cả những kẻ nhiều hanh thông may
mắn, có phải không từng nếm mùi lỡ dở đâu! Song hành với sự thành đạt của
nhân gian, bao giờ cũng là sự lỡ dở. Mà đã lỡ dở, làm sao tránh khỏi tủi sầu
bi phẫn. Bởi thế, đây quả là một nguồn lệ vẫn ngấm ngầm đây đó trong lòng thế
nhân. Có điều, ở Nguyễn Bính, ở thời Nguyễn Bính, bi kịch ấy sắc sói hơn, đắng
đót hơn. Ông sinh ra dường như để dành cho sự lỡ dở. Trời đày ông để ông phải
làm tròn cái sứ mệnh oái oăm đó. Từ thân thế mình, Nguyễn Bính đã cất lên tiếng
nói về một bi kịch trùm cả thời thế, mà mở ra tới cùng, cũng là một bi kịch
nhân thế. Nếu thân thế Nguyễn Bính hanh thông, hẳn đã không có nghiệp thơ
Nguyễn Bính.
Nghiên cứu tiểu sử nhiều nhà văn, lắm lúc thấy nghi ngờ cái
tín điều đã thành mặc nhiên trong truyền thống: văn là người. Thực ra, chẳng
phải nhọc lòng hoài nghi. Nó vẫn mặc nhiên là tín điều. Có chăng, cần phải hiểu
thế nào về người thôi. Sự đồng nhất giản đơn con người sinh hoạt với con người
văn chương thì rất dễ gây thất vọng, hẫng hụt. Bởi văn là sự lên tiếng của
con người tâm linh, con người khát vọng. Khát vọng chân chính của một con người
chính là biểu hiện tập trung cho bản chất của người ấy. Và do đó tầm vóc khát
vọng cũng quyết định phần lớn tầm vóc của cá nhân. Tôi chưa biết anh là ai,
nhưng hãy bộc bạch khát vọng của mình, tôi sẽ biết anh là ai. Cho nên, văn là
người, là cái con người ấy. Tức con người bên trong, con người bề sâu, con
người khát vọng. Nhà văn Nguyễn Khải có lần nói, không phải định thanh minh
cho mình hay cho ai, rằng: đối với anh nghệ sĩ, phần tốt đẹp, cao quí nhất của
tâm hồn đã trút vào văn chương hết rồi. Còn những gì thể hiện trong sinh hoạt
đời thường, đôi khi chỉ là phần cặn bã của hắn mà thôi. Nguyễn Bính cũng thế
thôi. Người ta đã kể ra chả ít chuyện nhếch nhác, bê tha, lôm loam của Nguyễn
Bính trong sinh hoạt, giao du. Đời thường lắm chỗ sao mà trái cựa trái khoáy
với con người trong văn chương đến thế. Nhưng bức chân dung tinh thần đích thực
là thuộc về cái tôi bề sâu của nghệ sĩ. Cái tôi ấy tự họa trong văn chương
ngay cả khi nó không hề tự giác. Nguyễn Bính đã trút vào thi ca tất cả những
khát vọng sâu kín và cao quý nhất của mình. Cho nên chả vì cái bã bên ngoài mà
nghi ngờ cái hồn bên trong. Cũng bởi sự không thể đồng nhất này mà trong
nghiên cứu nghệ thuật mới cần phân biệt con người thi sĩ (ngoài đời) và cái
tôi thi sĩ (trong văn). Cái tôi ấy là sự chung đúc của khát vọng. Nói cách
khác, cái tôi là khát vọng thi sĩ được nhân hình hóa.
Và, theo tôi, cũng như những hình tượng nghệ thuật khác,
hình tượng cái tôi là một nhất thể được tạo bởi sự hòa hợp (gồm cả tương
tranh và chuyển hóa) của các đối cực.
Lỡ dở tạo nên cái tôi kia bắt đầu do sinh bất phùng thời.
Hãy xuất phát từ nền tảng nhân cách của cái tôi được gọi bằng anh chàng nhà
quê, là gã chân quê Nguyễn Bính: một thôn dân - nho sinh. Nhận diện cái tôi
Nguyễn Bính, nhiều người chỉ thấy đó là một thôn dân. Nghĩa là chỉ thấy một
phía. Mà chỉ thế thôi, thì chưa ra Nguyễn Bính. Không phải một thôn dân thuần
túy, Nguyễn Bính là thôn dân - nho sinh. Cái ta vẫn gọi là hồn quê Nguyễn
Bính không phải một đơn chất. Trái lại, là hợp chất: con người thôn dân và
con người nho sinh quyện với nhau trong một điệu hồn chung. Từ con người thực
ngoài đời thành cái tôi trong thơ ca, Nguyễn Bính không chỉ mang theo cái lai
lịch "con nhà nho cũ", mà chất nho sinh còn hiện rất rõ trong cốt
cách của cái tôi ấy. Biểu hiện tập trung nhất của nó hẳn là giấc mơ quan trạng.
Có thể nói, cái tôi ấy suốt đời vương vấn giấc mơ quan trạng.
Trong thơ Nguyễn Bính, giấc mơ quan trạng luôn song hành với giấc mơ thanh đạm
thanh bình. Bởi thế, nó trở thành giấc mộng đôi: cả con người nho sinh và con
người thôn dân cùng mơ chung một giấc mơ về "thời trước". Thời trước
với chàng thôn dân là thời "trai hiền bạn với gái đồng trinh", thời
của "Hoa và rượu" - " Đời say men rượu thơm hoa rụng", thời
"Thanh đạm" vợ chồng thuận hòa, bạn bè tri kỷ: "Nhà gianh thì
sẵn đấy/ Vợ xấu có làm sao/ Cuốc kêu ngoài bãi sậy/ Hoa súng nở đầy ao/ Mấy
sào vườn đất mới/ Giồng dâu và giồng cam/ Không ngại xa người tới/ Thăm
tôi tôi cám ơn/ Làng bên sẵn rượu ngon/ Đêm nay ta đối ẩm/ Tre nhà đương cữ
ấm/ Tha hồ là măng non/ Đường làng không tiện xe/ Sớm mai người hãy trẩy/
Cây nguyệt nằm suông mãi/ Tôi xin đàn người nghe"... Cảnh sống êm đềm
thế chẳng phải là mơ ước nghìn đời của bất cứ thôn dân nào?
Còn với anh chàng con nhà nho cũ, thì "thời trước"
là thời vợ tần tảo tầm tang, chồng dùi mài kinh sử, thời của giấc mơ hồ điệp,
thời của hiển đạt vinh hoa. Hoặc trạng nguyên trở thành phò mã: "Ngựa bạch
buông chùng áo trạng nguyên... lòng trạng lâng lâng màu phú quý, chờ
"công chúa cài trâm thả tú cầu". Hoặc quan trạng vinh quy về làng:
"Chồng tôi cưỡi ngựa vinh quy/ Hai bên có lính hầu đi dẹp đường/ Tôi
ra đứng tận gốc bàng/ Chồng tôi cưỡi ngựa cả làng ra xem", hạnh phúc thật
là trọn vẹn, đã đầy, viên mãn: "Đêm qua mới thật là đêm/ Ai đem giăng
sáng giãi lên vườn chè"... Đó là cái thời lý tưởng mà nho sinh nào cũng
hằng mơ ước, khát khao, hy vọng. Thời ấy đáp ứng được cho con người cả chuyện
công danh lẫn chuyện nhân duyên, cả khao khát nhân sinh của một con người, cả
nhu cầu thẩm mỹ của một nghệ sĩ.
Dù đã vào thơ theo quy luật điển hình hóa, nhưng một cái
tôi bao giờ cũng nảy nở từ con người thực ngoài đời của thi sĩ. Vốn là con
nhà nho cũ gắn với thôn quê, "thời trước" đương nhiên là cái mẫu lý tưởng của Nguyễn Bính. Nhưng cái "thời trước" kia chỉ còn trong cổ
tích, trong truyện nôm khuyết danh, trong những tích chèo mà không khí thanh
bình vinh hoa của nó từng tưới tắm cho mơ mộng của Nguyễn Bính một thời. Ngày
thì theo đòi búi tó củ hành với cậu ruột mình một nho sĩ thôn Vân, đêm thì
chìm đắm trong những hội chèo thôn Đoài làng Đặng. Giờ đây, cuộc biến thiên lạnh
lùng này đã bứt thế giới mộng kia khỏi hiện thời, thẳng tay ném vào dĩ vãng.
Nó đã vĩnh viễn thành thế giới của hoài niệm. Bi kịch của cái tôi ấy ở chỗ:
là con người của "thời trước", nhưng lại sinh ra ở thời này. Tây học
đã trục xuất Hán học khỏi đương thời, Hán học đành ôm hận lủi thủi đi về quá
vãng. "Bây giờ thời thế biến thiên/ Nhà vua không lấy trạng nguyên nữa
rồi ". Thậm chí, "Khoa cử bỏ rồi thôi hết trạng/ Giời đem hoa cỏ
trả vườn tiên. "Lỡ duyên búi tó củ hành/ Trường thi Nam Định biến thành
trường bay". Hình ảnh đầy hấp dẫn của những Tống Trân, Nguyễn Hiền vĩnh
viễn xa vời. Nhưng điều oái oăm là: Nguyễn Bính chỉ có thể được sinh ra bởi
cuộc biến thiên đầy mất mát ấy. Giống như sự hỏng thi trường kỳ mới sinh ra
Tú Xương vậy. Nếu không chúng ta có thể có thêm một quan trạng một ông nghè
ông cống nữa để rồi những học vị chức danh ấy tan ra mây khói, và sẽ hoàn
toàn không có một thi sĩ chân quê, không thể nào có nổi một tác giả "Lỡ
bước sang ngang".
Nhưng cái tôi Nguyễn Bính không chịu lìa bỏ hẳn. Và đây
chính là một khía cạnh điển hình cho tâm trạng lãng mạn. Chỗ này, cái nhìn lý giải đòi hỏi chúng ta phải xem xét rộng hơn một chút. Trước kia, người ta thấy
mối bất hòa với thực tại chỉ là cơ sở tâm lý riêng của khuynh hướng lãng mạn.
Thực ra, bất hòa với thực tại là cơ sở tâm lý phổ biến của nghệ sĩ. Nếu niềm
khát khao một hình thái lý tưởng lúc nào cũng thiêu đốt lòng nghệ sĩ, thì
cũng có thể nói, bất hòa với thực tại phải được xem như thuộc tính nghệ sĩ. Tất
nhiên chữ bất hòa cần được hiểu với các cung bậc khác nhau: không thỏa mãn,
không bằng lòng, không hòa nhập, không chấp nhận thực tại. Nếu bằng lòng với
thực tại, tức là lý tưởng đã bị tiêu tan. Do đó niềm khát khao khiến anh
thành nghệ sĩ cũng tiêu tan rồi. Nhưng vì sao bất hòa? vì nghệ sĩ bao giờ
cũng thấy thực tại chưa đáp ứng được cả nhu cầu tồn sinh lẫn nhu cầu thẩm mỹ.
Nghĩa là chưa đáp ứng được khát khao về hạnh phúc và khát khao về cái đẹp. Thậm
chí, trước một thực tại nào đó, ở mức cực đoan tột cùng, nó còn thấy thực tại
thù địch với hạnh phúc chân chính của con người, thù địch với cái đẹp. Thế
là, từ một gốc chung là mối bất hòa, mà các khuynh hướng nghệ thuật có những ứng
xử khác nhau. Sự khác nhau bao trùm của các khuynh hướng, có thể nói, cũng bắt
đầu từ những phép ứng xử. Lãng mạn thì đào sâu vào chủ quan vẽ ra một thực tại
trong mơ ước để thay thế thực tại bên ngoài. Hiện thực lại đi thẳng vào thực
tại ngoài đời để phân tích nó, phanh phui nó, phê phán nó. Trong khi khuynh
hướng cách mạng dường như lại muốn cải biến nó. Vậy thực tại một kẻ lãng mạn
mơ ước là thế nào? Đó là thực tại trong hồi tưởng, huyễn tưởng, viễn tưởng. Hồi
tưởng đưa nó về với quá khứ vàng son, với thời oanh liệt, phục hiện lại những
dư âm dư ảnh, những hình sắc còn sót lại của một thời, mà nó cho rằng chỉ ở
đó, cái đẹp và hạnh phúc mới tồn tại. Huyễn tưởng dẫn nó vào cõi yêu, cõi
tiên, cõi ma, cõi đạo, vào tiền kiếp. Viễn tưởng lại dẫn nó đến một tương lai
xán lạn mãi tận tít mù khơi... Cái tôi Lãng mạn Nguyễn Bính thì tìm về đâu? Về
"thời trước" - "Thời trước làm sao thật thái bình".
"Thời trước" thực là thiên đường đối với một thôn dân - nho sinh.
Chàng chỉ còn đến được với cái thiên đường riêng ấy của mình bằng một cách
duy nhất: mơ thôi. Nguyễn Bính đã không ít lần ngán ngẩm kêu lên: "Nhưng
mộng mà thôi, mộng mất thôi!". Tuy nhiên, mơ mộng lại là một đời sống, một
lối thoát tinh thần không thể thiếu của gã thôn dân - nho sinh lỡ thời ấy.
Đó mới chỉ là một phía của bi kịch lỡ dở.
Không thể thành quan trạng với giấc mộng vinh hoa, không thể
ở thôn hương với giấc mơ thanh đạm. Cả gã nho sinh lẫn gã thôn dân đều đã mất
đi cái đích của mình. Cả hai nhất trí đồng tâm rời khỏi quê mình, dấn thân
vào quê người. Trên con đường tha hương ấy, họ đã hòa vào một nhân cách mới,
một diện mạo mới: thi sĩ lãng tử. Và thế là mở ra một bi kịch mới. Nó là bi kịch
tiếp nối mà cũng là bi kịch nhân đôi. Gã thi sĩ giang hồ này muốn nhập cuộc
mà không xong. Đời sống giang hồ đòi hỏi kẻ lãng tử phải quăng thân vào phong
trần cát bụi, lấy lênh đênh làm đời sống, làm hạnh phúc. Muốn thế, phải có
máu phiêu lưu. Trong khi đó, phiêu lưu lại không có sẵn trong gien tiểu nông
của gã giang hồ bất đắc chí này. Nên tình trạng tinh thần của gã là sợ phiêu
lưu mà lại dấn bước giang hồ. Chàng thi sĩ này không tìm thấy chất thơ thông
thường của tiêu dao tang bồng, không thấy cái thú siêu thoát lãng mạn của
ngao du sơn thủy. Trái lại, mỗi bước lênh đênh là một bước long đong. Dù chỉ
là "giang hồ vặt", thì kẻ giang hồ vẫn luôn chỉ thấy mình bị vây khốn
giữa bao bất trắc, chỉ thấy cám cảnh cho cái phận nổi trôi giời đày của mình,
chỉ cảm thấy thật chua chát: giang hồ là một cuộc đày ải - "Cúi mặt soi
gương chén rượu đầy/ Bốn mắt nhuộm chung màu lữ thứ... Không hiểu vì đâu hai
đứa lại/ Chung lưng làm một chuyến đi đày". Cũng không có sẵn trong gien tiểu nông kia cái cao ngạo của
một cá nhân khi thoát ly khỏi bầy đàn. Rời bỏ mái nhà sinh trưởng, cái tôi
lên đường, sau cái khoảnh khắc cảm thấy tự do hết sức ngắn ngủi, nó lập tức cảm
thấy trống phía sau lưng, hẫng dưới chân bước. Tình trạng của nó là tình trạng
của một con diều đứt dây. Bơ vơ là cái thường xuyên dày vò nó. "Bơ vơ
trong xứ người xa lạ", "Trơ vơ trên bến nước sông đầy "...
Lòng nó không có cái hùng tâm tráng chí kiểu trượng phu hành đạo vì nghĩa lớn,
đã đành. Mà ngay cả cái lâng lâng khoái thú của một cái tôi đang lên đường
tìm kiếm bản thân cũng không có. Không có phấn hứng thấy thế là mình đã trưởng
thành, đã tách khỏi "bầu nước ối" của mái nhà sinh trưởng. Cái mà
nó thấy đúng là: Xểnh nhà ra thất nghiệp, như bao người mẹ tiểu nông vẫn ái
ngại cho con cái. Trong cái gien tiểu nông đó cũng không có sẵn cái lạnh lùng
của kẻ sẵn sàng khước từ bổn phận để mặc sức đuổi theo khát vọng. Khi ở thì
thấy khát vọng là trên hết, bổn phận là vướng víu. Khi đi bỗng thấy khát vọng
là ích kỷ, bổn phận mới thiêng liêng. Thế là mặc cảm lỗi đạo hành hạ nó, càng
bước đi xa càng nặng nề trầm trọng. Lỗi đạo với quê hương, lỗi đạo với gia
đình. Nó thấy mình là kẻ tệ bạc, phụ bạc: "Bỏ lại vườn cam bỏ mái gianh/ Tôi đi dan díu với kinh thành", Đứa thương cha yếu thằng thương mẹ/
Cha mẹ chiều chiều con nước mây", nhiều khi cái tôi ấy đã nức nở trong
day dứt vì té ra mình là đứa con hư đốn bất nghĩa: "Con đi mười mấy năm
trời/ Một thân bé bỏng nửa đời gió sương/ Thầy đừng nhớ mẹ đừng thương/ Cầm
như đồng kẽm qua đường đánh rơi/ Thày mẹ ơi! Thày mẹ ơi/ Tiếc công thày mẹ
đẻ người con hư...". Tóm lại, là giang hồ trong mặc cảm. Mặc cảm bơ vơ.
Mặc cảm lỗi đạo, tệ bạc. Khí chất và lương tâm của con người tiểu nông cổ
truyền trong thâm căn cố đế của cái tôi kia bị xốc xáo lên trong cơn biến
thiên đó. Có thể nhận rõ hơn diện mạo của cái tôi Nguyễn Bính trong
tương quan với đương thời. Cái Tôi Thơ mới thường nghiêng về sự hả hê bởi được giải
phóng khỏi cái Ta. Nếu cô đơn, thì thường là khi phải đối diện với vũ trụ
mênh mông, khi không có một cái Tôi khác để gắn bó. Nguyễn Bính khác. Trước hết,
về Nguyễn Bính mà nói bằng cô đơn, không ra. Nguyễn Bính là nỗi đơn côi. Khác
nhau có một chữ, nhưng là hai hồn vía. Không phải ngẫu nhiên mà mặc cảm chia
lìa, mặc cảm bơ vơ lại bám riết lấy tâm tư Nguyễn Bính suốt cả đời không chịu
buông tha. Nhìn đâu cũng thấy chia lìa: "Con sào đẩy sóng thuyền nan lìa
bờ", "Chị thương chị kiếp con chim lìa đàn", "Chán chường
như lũ tàn quân lìa thành", "Những cuộc chia lìa khởi tự đây",
"Anh em ly tán lâu dần thành ra", "Lìa cành theo gió lá luồn
qua song", "Sầu nghiêng theo cánh chim lìa tổ"... Nhìn đâu
cũng thấy côi cút, đơn chiếc, vô định: "Hồn đơn chẳng có nơi nương tựa",
"Hồn đơn quằn quại xác gầy", "Muôn vàn đơn chiếc đổ vào đầu
tôi", "Một người đi mấy mươi người nhớ thương", "Ta đi
nhưng biết về đâu chứ", "Anh đi đó! Anh về đâu?", "Nào
biết về đâu kẻ ngước xuôi", "Biết lạc về đâu lòng hỡi lòng"
... Điều này không thể không có nguyên ủy sâu xa từ ẩn ức mồ côi của Nguyễn
Bính (mới ba tháng đã mất mẹ, rồi cha đi bước nữa, phải ở với người cậu, dù
có được bù đắp đến đâu thì bản tính đa cảm của thi sĩ vẫn cứ trầm mình trong
mặc cảm côi cút, bơ vơ). Nhưng mặc cảm này, oan trái thay, lại khiến cho hồn
thi sĩ cảm nhập được và mang chở được nỗi niềm lỡ dở của cả thời đại ấy.
Nghĩa là nỗi côi cút đầy bất hạnh kia bỗng trở thành cái giá oan nghiệt mà
Nguyễn Bính phải trả cho cái nghiệp thi sĩ của mình. Hay nói theo giọng khách
quan thì nhờ bi kịch cá nhân mà Nguyễn Bính đã cảm thông với bi kịch của thời
đại. Vì thế, cái Tôi Nguyễn Bính là nỗi đơn côi vì mất đi điểm tựa thiêng
liêng nơi cái Ta. Lìa khỏi cái Ta, cái Tôi ấy dày vò về Mất hơn là tự mãn về
Được. Đơn côi trong tình ái. Đơn côi giữa xứ người. Đơn côi giữa đô thị. Đơn
côi cả khi đã về tới cố hương. Về bình diện văn hóa, Nguyễn Bính là con đẻ của cuộc hôn
nhân đầy lỡ dở giữa nền văn minh đô thị hiện đại với văn minh thôn dã cổ truyền.
Khác xa với những cái tôi thuần đô thị, Nguyễn Bính là cái tôi phản đô thị. Lúc nào cũng mang nặng mối "sầu đô thị". Cứ tưởng Nguyễn Bính
chỉ là đứa con ra đời từ cuộc hôn phối giữa làn mưa xuân trong lành với giậu
mồng tơi dân dã. Nào ngờ lẫn trong làn mưa kia có chút bụi kinh thành. Cái
chút bụi mơ hồ đã âm thầm lớn lên thành ý hướng giang hồ. Và chính nó đã xúi
giục Nguyễn Bính lên đường dấn thân vào cát bụi với những cuộc giang hồ vặt,
khi sa vào bất đắc chí. Sang đò, bước lên bậc bến thứ nhất để vào thế giới đô
thị quê người, Nguyễn Bính đã gửi lại bên kia bờ tất cả vườn cam mái gianh,
bướm trắng tơ vàng, giàn giầu hàng cau... Nhưng rốt cuộc, Nguyễn Bính lại bắt
đầu cuộc tìm kiếm chính những thứ ấy giữa phố xá đô thành mà không tự biết. Hẳn
nhiên, làm sao có thể thấy những thứ ấy trong cát bụi chốn này. Con đường kiếm
tìm loanh quanh kia tất lại dẫn cái tôi ấy trở về với nơi mình từ giã. Nhưng, một khía cạnh rất đáng nói là: bi kịch của cái tôi
kia không có tận cùng. Sinh ra từ cuộc tình đương giữa hồi dang dở giữa Đô thị
và Thôn quê như thế, Nguyễn Bính đã cố chạy theo tìm sự cưu mang của từng
phía, nhưng cả hai đều chối bỏ, mỗi bên phụ phàng theo một cách riêng. Thoạt
đầu ánh sáng kinh thành huyễn hoặc, anh chàng chân quê đã tưởng có thể gửi
mình vào đó, tìm thấy trong hứa hẹn của nó những vinh hoa. Nhưng cuối cùng,
chỉ là phù hoa: "Phồn hoa thôi hết mộng huy hoàng/ Sớm nay sực tỉnh sầu
đô thị". Chán chường, chàng tìm lại chốn quê. Nguyễn Bính về quê không
phải như Đào Uyên Minh "quy khứ lai từ" bởi quá chán ngán cảnh luồn
cúi nơi trường đào mận. Không phải như một nhà nho thành đạt và chán ngán, về
quê theo lẽ xuất xử hành tàng, về ở ẩn lánh đời. Mà cái Tôi Nguyễn Bính về
quê như một người suốt đời băn khoăn đi kiếm cách sống cho mình, suốt đời tìm
kiếm công danh và chỗ đứng trong cái cuộc sống văn minh đô thị. Mà cuối cùng
tay trắng vẫn hoàn tay trắng. Công danh dở dang, duyên phận lỡ làng. Cố hương
ngỡ bình lặng muôn đời là thế cũng không dung được một kẻ đã ngập hẳn về thôn
ổ mà chẳng thể rửa sạch khỏi lòng mối sầu đô thị ăn sâu. Yêu lắm lắm những gì
chân mộc của cố hương, nhưng giữa kẻ hồi hương và đất cũ đã có những ngăn
cách vô hình không thể vượt qua: Không còn ai ở lại nhà/ Hỏi còn ai nữa? để
hoa đầy vườn/ Trăng đầy ngõ, gió đầy thôn/ Anh về quê cũ có buồn không
anh?... Một lần lỡ bước sang ngang là đơn côi vĩnh viễn. Nguyễn Bính là cái lỡ
dở muôn đời ấy. Nó là một bi kịch không biên giới. Trên bình diện đạo đức đơn thuần, cái tôi Nguyễn Bính là
con đẻ từ sự lỡ dở của bổn phận và khát vọng, của chữ hiếu và chữ tình. Thời ấy, chữ tình được viết hoa và tô đậm hẳn lên, chữ hiếu
mờ hẳn đi lùi lại sau hàng. Chữ tình muốn chia bào giã từ chữ hiếu, "em
ơi em ở lại nhà/ vườn dâu em đốn mẹ già em thương... Miếu thiêng vụng kén
người thờ/ Nhà hương khói lạnh chị nhờ cậy em". Nhưng vừa quay gót đã gục
đầu xuống, úp mặt vào hai bàn tay mà nức nở tức tưởi: "úp mặt vào hai
bàn tay/ Chị tôi khóc suốt một ngày một đêm". Cái Tôi muốn khẳng định
mình, nhưng khi từ giã mái nhà sinh trưởng, xa rời vòng tay của cái Ta, nó vừa
thấy đơn côi yếu ớt lại vừa thấy mình là kẻ phụ rẫy đáng chê trách. Những bổn
phận thiêng liêng ngày trước ràng buộc là thế. Mỗi khi cần chọn lựa, bao giờ
nó cũng giành được vị thế độc tôn, tất cả những thứ khác đều phải nhượng bộ
hi sinh. Nay khát vọng cá nhân bùng nổ, nó thấy mình là hơn hết thảy. Nó đòi
phải được sống đã đầy. Nhưng ở trường hợp Nguyễn Bính, nó dứt áo ra đi chỉ để
đạt được sự lỡ làng, còn bản thân nó thì luôn luôn dang dở. Lỡ bước sang
ngang, bổn phận đã không tròn, khát vọng cũng chẳng thành. Dang dở vĩnh viễn.
Nói ý thức cá nhân ở Nguyễn Bính khác xa với những trường hợp khác là thế. Nó
không phải tiếng nói tự tôn, tự kiêu, tự đại một chiều cực đoan. Không phải
cái Tôi hiếu thắng khi thoát khỏi cái Ta. Mà nó là cái tôi đầy mặc cảm. Lúc
nào nó cũng thấy mình là kẻ tệ bạc với cái Ta đó. Thèm được thoát ly khỏi cái
Ta cố kết. Nhưng chưa thoát ly đã lập tức thấy mình là kẻ sao mà bạc tình.
"Mẹ cha thì nhớ thương mình/ Mình đi thương nhớ người tình xa
xôi". Nhưng mà lại không thể khác. Cho nên mỗi bước đi trên đường đời là
một bước ngoái lại thăm thẳm phía sau, "Thầy ơi đừng chặt vườn chè/ Mẹ ơi
đừng bán cây lê con giồng"... mỗi cuộc đi là một cuộc dày vò đày ải
chính mình. Hành trình lìa quê cũng là hành trình của ăn năn, của khắc khoải
cố hương. Chưa đi đã thấy ngay là mình vừa đánh mất một cái gì thiêng liêng hệ
trọng nhất của đời mình, của cuộc sống này. Tóm lại, cái tôi Nguyễn Bính từ bỏ quê để luôn khắc khoải
nhớ quê, tìm vào đô thị để chán chường đô thị, tìm kiếm công danh chỉ gặp dở
dang, theo đuổi tình duyên chỉ gặp lỡ làng. Dứt bỏ bổn phận để chạy theo khát
vọng: bổn phận không tròn, khát vọng tan vỡ. Cái gì của nó cũng lỡ dở. Cho
nên Nguyễn Bính là cái tôi lỡ dở của thời đại ấy. Tôi cho rằng chính Nguyễn
Bính, chứ không phải ai khác, mới là nhà Thơ Mới mang đầy đủ tấn bi kịch của
thời đại mình. Một tâm trạng bất đắc chí mênh mông dằng dặc. Cái tôi Nguyễn Bính vẽ ra trong thế giới nghệ thuật của
mình là một người cả đời cứ lang thang kiếm tìm chính mình. Càng đi, dường
như càng lầm lạc, càng đi càng không thấy. Mọi hứa hẹn đều chỉ là ảo ảnh.
Công danh, Hạnh phúc đều không thấy? Đều không dành cho mình? Đều không có?
Cuối cùng cái tôi ấy hi vọng tìm thấy mình (tìm thấy mình hay tìm lại được
mình? có lẽ là cả hai) khi đã về lại nơi mà mình đã từ bỏ một cách vội vàng
nông nổi. Nhưng rồi Nguyễn Bính đã không tìm thấy. Không có chỗ nào cho mình.
Đô thị không. Thôn quê không. Quê người không. Quê mình cũng không. Lìa đàn
cũng có nghĩa là lạc loài. Nguyễn Bính là sự lỡ dở trọn kiếp con chim lìa đàn
không chỉ trong cái thời đại lỡ dở đó. 4. Cố hương, cố nhân, cố viên Tôi vẫn cho rằng thế giới nghệ thuật của một thi sĩ lãng mạn,
xét đến cùng, là sự đan dệt của ba hệ thống hình tượng cơ bản: Tôi - Người
tình - Thế giới. Trong đó đóng vai trò trung tâm và quyết định đến toàn bộ diện
mạo của thế giới nghệ thuật ấy phải là hình tượng cái Tôi. Bởi vì, cũng lại
xét đến cùng, toàn bộ thế giới nghệ thuật của một nghệ sĩ chính là thế giới
tâm tình của nghệ sĩ được tượng hình hóa, hình sắc hóa mà thôi. Hình tượng
Người Tình, về thực chất là một đối ảnh của chính cái tôi thi sĩ. Còn thế giới
xung quanh bao giờ cũng là thế giới thuộc về cái tôi: hoặc cái tôi ấy đang phổ
lòng mình vào thế giới, hoặc cái tôi ấy thấy thế giới xung quanh vận vào
mình. Đối với một nam thi sĩ, bộ ba ấy là Tôi - Em - Thế giới. Chúng chẳng
qua chỉ là tam diện nhất thể mà thôi. Nói một cách khác, thế giới nghệ thuật
của nghệ sĩ là một cõi thống nhất, trong đó bất cứ một hình sắc nào cũng mang
khí huyết hồn vía của cái Tôi kia. Thế giới Nguyễn Bính không nằm ngoài qui
luật chung đó. Cái Tôi Nguyễn Bính sẽ phổ những lỡ dở của nó vào mọi hình sắc
của cõi thơ ấy, mà đồng hóa tất cả thành những vang bóng của cùng một cái
tôi, kể cả cố nhân, cố hương và cố viên. Tôi muốn phức tạp hóa một chút xung quanh chữ "cố".
Chữ cố đầu tiên với Nguyễn Bính phải là "cố thủ". Phải, thi sĩ của
hồn quê đã cố giữ cho được chân quê. Chân quê với hồn thơ Nguyễn Bính tựa như
đất mẹ đối với thần Ăngtê vậy. Nó là truyền thống, là giá trị văn hóa, là lẽ
sống, là nguồn sống đối với hồn thơ quê. Nó là "của tin còn một chút
này", là vật thiêng, là bảo vật của đất quê. Cố giữ với hi vọng nó sẽ
thoát khỏi cơn biến thiên. Vật đổi sao dời, tao đoạn qua đi, rồi vẫn sẽ còn
chân quê thuần khiết. Nhưng ngay cả lúc "van em em hãy giữ nguyên quê
mùa", thi sĩ cũng đã thấy thật khó tin là nó không thay đổi. Trong cơn
biến thiên ấy, "cả đến ông giời cũng đổi thay"... kia mà! Nếu quả
có một đức tin bất di bất dịch rằng chân quê bất chấp thời thế, dù có biến
thiên thế nào, nó vẫn cứ là một hằng số, thì chắc chắn đã không có Nguyễn
Bính. Thơ Nguyễn Bính là tiếng nói của lo âu chứ không phải của đức tin. Nó
nghiêng về bồn chồn, phấp phỏng, hoang mang hơn là đinh ninh, xác tín, kiên định.
Cơn biến thiên đang làm cho tất cả những gì Nguyễn Bính cố níu giữ trở thành
xưa cũ. Nó gỡ khỏi tay, giằng khỏi tay Nguyễn Bính tất cả những gì thân
thương nhất ném trả vào dĩ vãng. Vì thế, mới có chữ "cố" thứ hai. Cố là
"cũ", là "xưa". Phải, nói đến Nguyễn Bính là phải nói đến
"Cố hương", "cố nhân". Mà nằm sâu trong lòng cố hương là
"cố viên" (vườn cũ, vườn xưa), và nơi lưu giữ những kỷ niệm từng có
với cố nhân cũng là "cố viên". Cố hương, cố nhân và cố viên là những
hình bóng da diết nhất trong cái vẫn được gọi bằng chân quê của Nguyễn Bính. Một trong những nét giúp chúng ta phân biệt rất rõ Nguyễn
Bính với các nhà Thơ Mới khác là quan niệm luyến ái. Quan niệm luyến ái của
Nguyễn Bính nghiêng về truyền thống: tình yêu gắn liền, thậm chí đồng nhất với
hôn nhân. Nhân duyên trong thơ Nguyễn Bính không có chủ trương những cái tình
gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình trong giây phút, cái tình ngoài thiên thu
[4]... theo điệu sống hiện đại mà những cái tôi thuần đô thị bấy giờ chủ
trương và hăng hái. Trái lại, chưa gì đã toan tính chuyện trăm năm. Cứ thích
trói buộc nhau vào hôn nhân với những cau trầu "Thôn Đoài thì nhớ thôn
Đông/ Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào!". Vì thế mà, phải đận cau
héo, giầu vàng thì đôi bên trầm luân trong nước mắt của mặc cảm phụ phàng. Thế
giới tình yêu của chàng thôn dân - nho sinh là một thế giới hòa hợp êm đềm dựa
trên một luyến ái quan truyền thống. Nhưng cơn biến thiên đã làm cho cái thế
giới tình yêu cổ truyền kia bị vỡ vụn. Cái tôi thành một tình nhân lỡ dở. Thế
là tất tật mọi thứ đều lỡ dở theo. Ngoài hình tượng cái tôi, nhân vật của Nguyễn Bính thuộc về
hai đối tượng lớn: tình nhân lỡ dở và những thân phận lỡ dở khác. Nghĩa là,
thế giới Nguyễn Bính đều là những mảnh đời lỡ dở. Tình nhân lỡ dở có hai dạng:
thứ nhất, không có được - do lỡ dở mà giai nhân chẳng thành tình nhân; thứ
hai, không giữ được - do một lỡ dở nào dó mà tình nhân đã trở thành cố nhân.
Tất cả khiến cho mọi cuộc tình của cái tôi ấy [5] đều dang dở lỡ làng. Này là những giai nhân có tên: nào Oanh (Oanh, Nhớ Oanh),
nào Dung (Oan nghiệt), nào Nhi (Hoa và rượu)... Này là những giai nhân không
tên: nào cô hái mơ già, người con gái ở lầu hoa, những cô gái miền sông Hương
núi Ngự, người hàng xóm, người con gái vườn Thanh... Có những trường hợp do
nàng lạnh lùng quá, giấc mộng nhân duyên cứ thế trôi xuôi rồi tuột mất:
"Cô hái mơ ơi/ Chẳng trả lời nhau lấy một lời/ Cứ lặng mà đi rồi khuất
bóng/ Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi", "Rồi như sông Nhuệ lạnh lùng
trôi/ Cô lạnh lùng đi chẳng trả lời/ Những tiếng lòng chàng tha thiết gọi/
ở trên gác vắng lạnh lùng ơi!". Có lúc chính những dẫm dở không đâu đã
làm ra dang dở. ấy là cái đám cô nàng nhà lắm bưởi nhiều hoa. Ngày nào cũng cất
công "đường gần tôi cứ đi vòng cho xa" rồi, thế mà ma xui quỉ khiến
thế nào lại "lên cơn sĩ diện hão", suy bụng ta ra bụng người:
"Một hôm thấy cô cười cười/ Tôi yêu yêu quá nhưng hơi mất lòng/ Biết
đâu rồi chẳng nói chòng:/ Làng này khối đứa phải lòng mình đây", thế là
lỡ duyên: "Từ ngày cô đi lấy chồng/ Gớm sao có một quãng đồng mà xa/ Bờ
rào cây bưởi không hoa/ Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo". Cũng có khi
do nàng bèo bọt quá "Nàng bèo bọt quá em lăn lóc ", "Em đi dệt
mộng cùng người/ Lẻ loi xuân một góc trời riêng anh", vả chăng, em cũng
không phải là không bèo bọt: "Hàng xóm có người con gái lẻ/ ý chừng
duyên nợ với nhau đây/ Chao ôi ba bốn tao ân ái/ Đã đủ tan tành một kiếp
trai/ Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ/ Đành phụ nhau thôi kẻo đến ngày/ Khăn
gói gió đưa sang xứ lạ/ Ai cười cho được lúc chia tay". Mà thường khi
là do những cách trở xa xôi "Nhớ Oanh tôi nhớ cô Oanh/ Xa xôi cách trở
hỏi tình thắm phai". Rất nhiều khi là bởi những cách trở không đâu:
"Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn".
Có thế thôi mà hai người đành sống giữa cô đơn, và rồi cuối cùng mùng tơi
cách trở đã hóa thành âm dương cách trở: "Đêm qua nàng đã chết rồi/
Nghẹn ngào tôi khóc quả tôi yêu nàng". Họ vĩnh viễn chẳng thể thành đôi
lứa. Đau đớn tiếc thương thì đà quá muộn. Cũng không ít cuộc họ đã có được
nhau, họ đã thề thốt đủ đằng, nhưng rồi những dự cảm mơ hồ về rủi ro, những
ám ảnh khôn nguôi về nghèo túng, lo sợ vì đồng tiền làm cho khốn đốn, hay đơn
giản chỉ vì những xui khiến tối tăm nào đó... thế là kẻ lỡ duyên, người lỡ
thì, đâm ra lỡ cả đôi đường. Giai nhân lỡ dở hóa thành cố nhân: "Xây bao
nhiêu mộng thế mà/ Đến nay phải gọi người là cố nhân". Không biết do mình lỡ dở nên chỉ toàn chú ý đến những phận
lỡ dở - đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu? đồng bệnh tương liên?
"cùng một lứa bên trời lận đận"? - hay do những kiếp lỡ dở cứ ám
vào mình, mà thế giới nhân vật Nguyễn Bính toàn những mảnh đời lỡ dở. Người mẹ
góa này tiễn con đi lấy chồng (Lòng mẹ), người mẹ góa khác đang dằn lòng ủy thác bầy con dại cho đứa con gái lớn để mình đi bước nữa (Bước đi bước nữa),
ông chồng chết non trăng trối người vợ trẻ những lời đắng chát (Giối giăng),
cô gái miền rừng van xin người yêu: "Nhà em cách bốn quả đồi/ Cách ba ngọn
suối cách đôi cánh rừng/ Nhà em xa cách quá chừng/ Em van anh đấy anh đừng
thương em". Cô gái phải cầm lòng từ chối lời ngỏ của người yêu vì gia cảnh
nặng nề, "Chưa trọn đạo con, tròn nghĩa chị/ Lòng nào dám tưởng đến
duyên tơ". Rồi thì cô lái đò, anh lái đò dang dở giấc mộng tình duyên, dở
dang giấc mơ quan trạng, dở dang đến mọi toan tính đường đời: "Lang
thang anh dạm bán thuyền/ Có người giả chín quan tiền lại thôi". Rồi
nàng trinh nữ vội lìa đời khi mới chớm xuân xanh, ngang trái tang thương đến
nỗi cái tôi ấy tưởng như cả "kinh thành Hà nội chít khăn xô"...
Nhưng có lẽ điển hình nhất cho những mảnh đời lỡ dở đó phải là cô gái trong
"Mưa xuân" và người chị "Lỡ bước sang ngang" (Nhiều bài
khác Nguyễn Bính sẽ gọi đích danh là chị Trúc - Thư gửi chị Trúc, Khăn hồng,
Xuân Tha Hương, Xuân lại tha hương, Xuân vẫn tha hương). Một cô bé vừa mới
thành thiếu nữ khi những hạt mưa xuân đầu tiên lất phất bay về, lòng phơi phới
nhận lời hẹn đầu tiên, vội vàng đến với cuộc hò hẹn đầu đời. Thế mà lỡ:
"Chờ mãi anh sang anh chả sang/ Thế mà hôm nọ hát bên làng/ Năm tao bảy
tuyết anh hò hẹn/ Để cả mùa xuân cũng lỡ làng". Thật là sái! Cuộc lỡ dở
đầu đời ấy rồi sẽ như cái điềm chẳng lành, cái dớp định mệnh dễ làm dang dở cả
những mùa xuân sau. Mình em lầm lụi trên đường về/ Nào ngắn gì đâu một dải
đê/ áo mỏng che đầu mưa nặng hạt/ Một mình thêm tủi với canh khuya". Một
người chị "đã liều nhắm mắt đưa chân" đến hai lần sang ngang mà lỡ
bước vẫn hoàn lỡ bước. Cuộc tình thứ nhất kết thúc bằng: "Mười năm gối hận
bên giường/ Mười năm nước mắt bữa thường thay canh/ Mười năm đưa đám một
mình/ Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên/ Mười năm lòng lạnh như tiền/
Tim đi hết máu cái duyên không về". Thế rồi một chàng nghệ sĩ xuất hiện.
Và chị lại quyết định sang ngang. Nhưng rồi tình cũng đoạn: "Rồi đêm kia
lệ ròng ròng/ Tiễn đưa người ấy sang sông, chị về/ Tháng ngày qua cửa buồng
the/ Chị về nhặt cánh hoa lê cuối mùa", "Thế là tàn một giấc mơ/
Thế là cả một bài thơ não nùng"... Những mảnh đời lỡ dở, ngang trái, oan
nghiệt cứ châu tuần xung quanh cái tôi ấy. Mỗi bước đi trên đường đời là lại
gặp những số phận dang dở lỡ làng. Thế giới thơ Nguyễn Bính chan đầy nước mắt
đau thương. Đọc thơ Nguyễn Bính ai cũng phải mủi lòng cám cảnh. Nhìn kỹ có thể thấy họ vừa là nạn nhân của cơn biến thiên
trong thời ấy, vừa là nạn nhân của một thứ tiền duyên nghiệp chướng nào đó.
Trong những năm được học chữ Hán cùng người cậu, hẳn các môn "nho y lý số",
chẳng ít thì nhiều, cũng đã nhập tâm vào cái anh chàng con nhà nho cũ kia. Để
rồi lớn lên, cái nhìn lý số cũng nhuốm lên nhỡn quan của Nguyễn Bính, khiến
thi sĩ nhìn nhận và lý giải cả mình và những thân phận lỡ dở như là bi kịch
trớ trêu của số mệnh: "Trót đà mang số sinh ly/ Bao giờ tôi mới được về
cố hương?", "Còn tôi giời bắt làm thi sĩ", "Mẹ thì mất sớm
giời đày làm thơ", "Ai bảo mắc vào duyên bút mực/ Suốt đời mang lấy
số long đong"... Tất cả những con người ấy đều bị số phận đày đọa trong
nỗi lận đận bởi chữ tình chữ duyên. "Đoái thương thân chị lỡ làng/ Đoái
thương phận chị dở dang những ngày", "Mẹ cũng không mong sướng lấy
mình/ Nhưng mà số phận bắt điêu linh"... Điều này cho thấy bi kịch lỡ
dở biểu hiện trong thế giới thi ca Nguyễn Bính dường như vượt ra ngoài vòng
thời thế, mà nó là chuyện của nhân thế. Nói cách khác, định mệnh đã chọn cái
thời ấy để đày họ vào vòng trầm luân của cơn biến thiên. Cũng phải thấy thêm rằng, thế giới nhân vật Nguyễn Bính rất
gần gũi với những thân phận đau khổ trong văn học dân gian, đặc biệt là bao
người phụ nữ tủi phận tủi duyên trong những bài hát than thân. "Thân em
như hạt mưa sa/ Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày", "Em như giếng
nước bên đàng/ Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân", "Thân em
như miếng cau khô/ Người thanh tham mỏng người thô tham dày", "Nụ tầm
xuân nở ra xanh biếc/ Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay",
"...", ...Các môtip dân gian đã từ ca dao dân ca nhập thân vào thơ
Nguyễn Bính. Những mảnh đời lỡ dở hôm nay như là sự nối dài tự nghìn xưa. Những
số phận nổi chìm, lận đận dang dở về công danh, lỡ làng về tình duyên nghìn đời
nay sau những lũy tre, bên những bến nước, những dòng sông... bao giờ cũng
khiến con người xót xa cám cảnh. Vào cuộc biến thiên ấy, có thể họ có thêm những
màu sắc mới, nhưng họ vẫn là những chị em ruột rà của những cô gái xưa, từng
gửi lòng vào những tiếng hát than thân làm héo hắt những lũy tre, dang dở những
cánh đồng, góa bụa những thân cò thân vạc... Đúng là Nguyễn Bính viết nhiều về
những mối duyên quê, nhưng là mối duyên lỡ dở oan trái. Nguồn lệ chảy trong
thơ Nguyễn Bính vẫn chảy bao đời trong tiếng hát than thân. Vì tha hương nên mới có cố hương. Cố hương chính là quê
hương trong lòng kẻ tha hương. Có lẽ luôn ở trong nỗi khắc khoải của đứa con
xa nên hình ảnh quê hương mới thân thương đến thế. Tôi không muốn nói rằng,
trong lòng những người tại quê thì quê hương không đẹp. Nhưng đúng là niềm
canh cánh, nỗi day dứt, cùng những đau đáu khắc khoải đã choàng lên hình sắc
quê kiểng những chất thơ mà người không phải xa quê chẳng thể nào có được. Có
thể vì miếng cơm manh áo, vì những xô đẩy trong đời, con người phải rời bỏ
quê hương bản quán, phải y hương. Tiếng gọi bức xúc nhất bấy giờ là một tiếng
gọi có phần ích kỷ: làm sao để sướng hơn. Nhưng rồi xa quê, con người nhân bản,
con người tình nghĩa thức dậy. Nó thức dậy khi trong lòng ta vỡ ra một khoảng
trống không gì bù lấp được. Khoảng trống thăm thẳm ấy chính là nỗi quê. Là nỗi
vắng thiếu một điểm tựa trong tâm linh. Nó là một nỗi mồ côi. Mồ côi quê
quán. Và nỗi hoài hương trở dậy, cồn lên trong lòng. Bấy giờ trong lòng con
người lại thống thiết một tiếng gọi khác, tiếng gọi hoàn thiện nhân cách, bản
ngã. Như thế, thời ấu thơ ta sống trong lòng quê, khi đi xa, quê sống trong
lòng ta. Càng đi xa, quê càng thao thức trong lòng. Càng khổ nghèo càng
thương nhớ. Quê thức dậy nghĩa là quá khứ thức dậy. Nghĩa là con người đang sống
về ngày trước. Nhớ quê cũng chính là nhớ mình. Nhớ quê là đời sống bản thể, nếu
như ai cũng thật sự có một bản thể. Nhớ quê là nhớ một phần đời của mình. Là
nhớ cái thiên đường tuổi nhỏ. Vì thế, kẻ nhớ quê là kẻ bị mất thiên đường và
đang khao khát trở lại thiên đường. Không phải chỉ được sống tuổi thơ trong
sung sướng, trong tươi đẹp thì nó mới là thiên đường. Niềm luyến tiếc những
phần đời đã qua bao giờ cũng có chức năng cải biến tất cả thành thiên đường hạnh
phúc, bất chấp những cay đắng khổ ải. Không ai yêu sống, thiết tha sống bằng
một người sắp phải lìa bỏ cuộc sống. Cũng như thế, có lẽ không ai yêu quê nhớ
quê bằng một kẻ phải xa quê, mất quê. Nguyễn Bính là tiếng nói cố hương trong
kẻ xa xứ. Nguyễn Bính là nỗi hoài hương dằng dặc trong lòng kẻ ly hương. Tô Hoài đã thật tinh nhậy khi khẳng định rằng: "Chỉ có
quê hương mới tạo nên được từng chữ từng câu Nguyễn Bính (...) Thơ và cuộc đời
ràng buộc nhà thơ. Trước sau và mãi mãi, Nguyễn Bính vốn là nhà thơ của tình
quê, chân quê, hồn quê " [6]. Niềm thiết tha với quê hương là cội rễ của
những sáng tạo Nguyễn Bính nhất. Nhưng, phải nói thêm, niềm thiết tha kia chỉ
thực sự thức dậy khi cái tôi ấy xa quê. Quê hương trong Nguyễn Bính chính là
cố hương. Hơn thế nữa, là cố hương trong mặc cảm lỡ dở lưu đày: "Trót đà
mang số sinh ly/ Bao giờ tôi mới được về cố hương". Mặc cảm ấy đã khiến
cho Nguyễn Bính tạo ra hình tượng thế giới trong thơ với diện mạo tổng quát
như là trường lưu lạc lưu đày của những thân phận lỡ dở: "Em vốn đường
dài thân ngựa lẻ/ Chị thì sông cái chiếc đò nan/ Quê người đứng ngóng mây
lưu lạc/ Bến cũ nằm nghe sóng lỡ làng". Đã thành trường lưu lạc thì đương nhiên mặc cảm này cũng sẽ
khiến cảm quan thi ca Nguyễn Bính làm nốt phần việc tiếp theo: phân lập thực
tại thành hai miền không gian đối lập: quê mình - quê người. Cái tôi luôn là
kẻ trôi dạt từ miền không gian này đến miền không gian kia như những chuyến
giang hồ nhưng thực ra là những chuyến lưu đày, vừa bởi chuyện áo cơm, vừa do
sự đẩy đưa của cảnh đời, sự run rủi của số phận. Đến đâu cũng chỉ toàn lỡ dở.
Chân bước tới quê người, lòng gửi nơi quê nhà. Quê người có khi được gọi theo
đúng lời kẻ quê là "thiên hạ", có khi là "xứ người":
"Bơ vơ trong xứ người xa lạ", "Mấy thu mưa gió ngoài thiên hạ",
"Quê người đắng khói, quê người cay men". Trong cái gọi là
"quê người" ấy, đô thị là vùng nhân sinh gây sầu tủi nhất. Có lẽ
trong cảm nhận của cái tôi kia, đô thị là hoàn toàn tương phản, thậm chí thù
địch với thôn hương. Nếu quê mình là thiên đường thì quê người là chốn lưu
đày. Nếu quê mình là nơi đoàn tụ, thì quê người là chốn lưu lạc. Nếu quê mình
là vun trồng nuôi dưỡng, thì quê người, nhất là đô thị lại tàn phá tiêu hủy.
Nếu quê mình là thanh đạm bình ổn, thì đô thị quê người là nhiễu loạn bấp bênh.
Nếu quê mình là thôn ổ nghĩa tình, thì quê người là "cái biển tiền người
ta". Nếu quê mình là đất lành nôi ấm, thì quê người là cái "sòng đời".
Hình tượng thế giới trong thơ Nguyễn Bính là sự đối lập ấy, nhiều khi cực
đoan đến gay gắt. Coi cái tôi Nguyễn Bính là cái tôi phản đô thị, một
phần không nhỏ còn bởi chính điều đó. Quê mình, quê nhà của Nguyễn Bính hiện lên tập trung nhất ở
gương mặt của thôn Vân, từ cảnh sắc đến con người, từ nhịp sống đến mọi nguồn
sinh thú, tất tật đều bình dị mà thần tiên: "Thôn Vân có biếc có hồng/
Hồng trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều/ Đê cao có đất thả diều/ Giời
cao lăm lắm có nhiều chim bay/ Quả lành nặng trĩu từng cây/ Sen đầy ao cá
cá đầy ao sen/ Hiu hiu gió quạt trăng đèn/ Với dăm trẻ nhỏ thả thuyền ta
chơi/ Ăn gỏi cá đánh cờ người/ Thần tiên riêng một góc trời thôn Vân./ Ơi
thôn Vân hỡi thôn Vân/ Nơi nao kết dải mây Tần cho ta/ Từ nay khi nhớ quê
nhà/ Thấy mây Tần biết đó là thôn Vân". "Ở đây vô số những trời
xanh/ Và một con sông chảy rất lành/ Và những tâm hồn nghe rất đẹp/ Từng
chung sống dưới mái nhà tranh/ Sao chẳng về đây múc nước sông/ Tưới cho những
luống có hoa trồng/ Xuân sang hoa nụ rồi hoa nở/ Cánh bướm vờn hoa loạn phấn
hương/ Sao chẳng về đây có bạn hiền/ Có hương có sắc có thiên nhiên/ Sống
vào giản dị ra tươi sáng/ Tìm thấy trong lòng một cảnh tiên". Ở chính
giữa thôn Vân thân thương ấy là "Nhà tôi": "Nhà tôi có một vườn
dâu/ Có giàn đỗ ván có ao cấy cần? Hoa đỗ ván nở mùa xuân/ Lứa dâu tháng
tháng, lứa cần năm năm/ Em tôi là gái mười lăm/ Quét sân chạy chợ chăn tằm
sớm trưa/ Thầy tôi dạy học chữ nho/ Dạy dăm ba đứa học trò loanh quanh/ Có
gì, tiếng cả nhà thanh/ Cơm ăn đủ bữa, áo lành đủ thay..." . Có thể nói đó là thiên đường chân quê của Nguyễn Bính. Người
ta vẫn thấy, trong dòng thơ quê, nổi lên những gương mặt Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá
Lân, Anh Thơ... Ai cũng viết về quê với những nét thật trìu mến. Đoàn Văn Cừ
trội về tập tục quê, Bàng Bá Lân nổi về sinh hoạt quê, Anh Thơ vẫn được coi
là mạnh về cảnh quê. Còn Nguyễn Bính dường như thâu gồm tất cả vào mình thành
một thứ là hồn quê. Nguyễn Bính không thiếu cảnh sắc, không thiếu phong tục,
cũng không thiếu đời sống trốn quê kiểng. Nhưng viết về bất cứ cái gì, Nguyễn
Bính cũng gọi dậy cái hồn. Chính niềm thiết tha khắc khoải của một kẻ tha
hương đã là ngọn gió nâng đỡ cho cánh diều hồn quê trong Nguyễn Bính luôn bay
lượn. Chính niềm khắc khoải ấy mới mang lại hồn vía cho mỗi nét bút viết về
chân quê của Nguyễn Bính. Căn nhà kia, mảnh ao kia, mảnh vườn kia, luống hoa,
ruộng dâu nữa... có gì ghê gớm đâu mà bỗng nhiên lay động đến vậy? Đúng thế,
chúng không được vẽ theo lối mỹ lệ hóa, tân kỳ hóa. Nhưng chúng sống trong một
khí quyển riêng, hiện ra trong một vầng sáng riêng của mảnh hồn Nguyễn Bính.
Mảnh hồn mang trong nó những dự cảm lo âu, những nỗi bất an của kẻ tha hương,
nỗi bơ vơ của kẻ mất thiên đường. Nó chỉ còn biết tìm ở chốn kia, ở những thứ
quê mùa kia sự bấu víu duy nhất. Đó cũng là mảnh hồn mồ côi bản quán hương
thôn. Có lẽ, cố viên là điểm tụ day dứt nhất của hồi ức cố hương.
Viết về Nguyễn Bính, nhiều người đã đề cập đến vườn, như một môtip lặp đi lặp
lại, một tín hiệu mang nhiều giá trị thẩm mĩ của thi sĩ. Điều ấy cho thấy việc
tiếp cận Nguyễn Bính đã đi vào chiều sâu. Tiếc rằng, việc hình dung về nó đôi
khi lại chệch ra ngoài vùng thi cảm Nguyễn Bính. Đúng là đối với một thôn
dân, nếu ruộng nghiêng về chức năng sản xuất, thì vườn lại nghiêng về chức
năng văn hóa. Nhưng dùng kí ức tập thể của tộc người Việt để giải thích, rằng
quá trình dịch chuyển của người Việt là đi từ vườn xuống ruộng, theo nguyên
lý tâm linh cái gì cũ hơn thì thiêng hơn, nên Nguyễn Bính viết về vườn nhiều
hơn ruộng, thì đã thông thái một cách vô lối. Thơ Tagor (Ấn Độ), Thơ Lorka
(Tây Ban Nha), thơ Puskin, Êxênhin, Paxternac (Nga), thơ Ôcxtaviô Pat
(Mêhicô), thơ Rôngxa, Veclen, Apôline, (Pháp)... cũng đầy rẫy những vườn thì
sao? Rồi cũng là thi sĩ Việt nam, những Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Duy,
Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa... viết rất nhiều về ruộng thì sao? Trong họ không
có kí ức tập thể của người Việt ư? Tôi cho rằng cần phải tìm nguyên nhân ở chỗ
khác. Trước hết là từ đặc trưng của khuynh hướng Lãng mạn. Cũng hướng tới cái
Khổ của con người, nhưng khuynh hướng lãng mạn chưa quan tâm nhiều đến cái khổ
của lao động. Lao động chưa phải là đề tài thực sự của lãng mạn. Cái họ quan
tâm nhiều hơn là nỗi khổ vì cô đơn của con người. Nếu quan tâm đến nỗi khổ
trong lao động, hẳn nó phải nói đến ruộng nhiều hơn, vì nỗi nhọc nhằn trong
vườn chẳng thấm gì so với trên ruộng. Đây cũng là điều phân biệt Nguyễn Bính
với ca dao dân ca. Và quan trọng hơn là nguyên nhân từ chính Nguyễn Bính. Là
thôn dân, nhưng Nguyễn Bính thuộc tip thôn dân - nho sinh. Đời sống hàng ngày
ít gắn với ruộng, trái lại, gắn với vườn nhiều hơn. Đồng thời, nó cũng còn là
cái tạng riêng của mỗi tâm hồn nữa. Có thể cùng trong một môi trường sinh trưởng,
nhưng người này nặng nợ với vườn, người kia lại tha thiết với ruộng. Bởi vậy
mà chúng có những vị thế khác nhau trong ký ức và trong thi ca từng người. Nói ngay Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, cả ba đều có
những ám ảnh vườn, nhưng mỗi vị một khác. Với Xuân Diệu là vườn tình, nó có
bóng dáng của những hoa viên, nơi dành riêng cho luyến ái trần thế. Với Hàn Mặc
Tử, vườn lại là "chốn nước non thanh tú", có bóng dáng những vườn
Êđen trong Kinh thánh, hay Đào nguyên trong văn chương Đạo giáo. Dù là tình
tiên duyên tục thì vẫn cứ là vườn tình. Còn Nguyễn Bính, vườn là quê. Dù nhiều
khi gắn với giấc mơ quan trạng, về thời trước (Thời trước, Xóm ngự viên, Bóng
bướm, Truyện cổ tích, Hoa và rượu...), thì vườn vẫn là gốc quê, chân quê:
"Hoa chanh nở giữa vườn chanh/ Thầy u mình với chúng mình chân
quê". Vườn là cố hương: "Sương phủ lưng đồi rặng núi xa/ Thương
ôi, lữ khách nhớ quê nhà/ Mấy thu mưa gió ngoài thiên hạ/ Vườn cũ còn chăng
cúc nở hoa?". Vườn là cái nôi của tình mẫu tử: "Vườn cũ hoa mai chắc
nở rồi/ Cánh mai an ủi đến xa xôi/ Mẹ ơi! một sớm thăm hoa rụng/ Nhặt giữ
giùm con dăm cánh thôi!". Vườn là hương hỏa tiên tổ, là chốn đi về, là
nơi bén rễ đầu tiên, cũng là nơi bám rễ cuối cùng của đứa con trôi dạt chân
trời góc biển: "Xin thầy mẹ cứ yên tâm/ Đừng thương nhớ một vài năm con
về/ Thầy ơi đừng chặt vườn chè/ Mẹ ơi đừng bán cây lê con trồng".
Trong lời van xin ấy, ta có thể nghe thấy rõ nỗi bất an của một linh hồn trước
nguy cơ bị bật gốc khỏi cố hương, nguy cơ bị tước đi điểm bấu víu cuối cùng.
Ta có thể thấy rõ hơn về ý nghĩa của cố viên đối với Nguyễn Bính, khi cái tôi
ấy có ý thức rành mạch mà chua xót về vườn nhà mình (quê mình) và vườn nhà
người (quê người): "Em giồng được một cây lê/ Hẹn bốn năm nữa thì về
hái hoa/ Nhưng là vườn đất người ta?. Mình là khách trọ một và đêm
thôi". Dù hoa có đẹp thì lòng vẫn cứ dửng dưng, lạnh lẽo, vì đó là hoa
vườn người, nở cho người, mang tết đến cho người, chứ đâu phải cho mình:
"Hoa mai quán trọ trắng như sương/ Chen với hoa đào dưới khóm dương...
Quán trọ xuân này hoa lại nở/ Lại ngồi xem tết tết người ta". Nỗi chua
xót này là mối tâm cảm của một lữ thứ, một kẻ đơn côi. Nhưng ta cũng thấy âm
u ẩm ướt trong ấy, mối xúc động kiểu tâm lí tư hữu thuộc con người tiểu nông
- chỉ thực sự thấy an vui khi nó là "của mình". Lãng mạn Nguyễn
Bính, căn bản, vẫn là lãng mạn tiểu nông.
Mà, nhớ về vườn thì không thể vắng thiếu những cây cỏ thảo
mộc thân thương. Đọc thơ Nguyễn Bính có thể thấy hiện tượng phổ biến này: mỗi
thi phẩm thường có một nền tảng không gian vườn tược, và mỗi một mối tình hay
gắn với một cái cây. Vườn kia, cây kia có khi là nơi nảy nở, có khi là chốn
tiêu tan, có khi là chứng nhân, có khi là nạn nhân của một mối duyên lỡ dở nào
đó. Nào là cây chanh: "Hoa chanh nở giữa vườn chanh", cây cam:
"Ra vườn nhặt những hoa cam rụng/ Về bỏ đầy nồi cất nước hoa", cây
bưởi: "Bờ rào cây bưởi không hoa/ qua bên nhà thấy bên nhà vắng
teo", cây mai: "Nhà nàng ở gốc cây mai trắng", cây dương:
"Nhà ta ở dưới gốc cây dương", nào là cây cau, giàn giầu:
"Nhà em có một giàn giầu/ Nhà anh có một hàng cau liên phòng", cây
chè: "Sáng giăng chia nửa vườn chè/ Một gian nhà nhỏ đi về có nhau", cây dâu: "Cành dâu cao lá dâu cao/ Lênh đênh bóng bườm trôi vào
mắt em", cây mùng tơi: "Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu
mùng tơi xanh rờn", rồi thì cây xoan: "Bữa ấy mưa xuân phơi phới
bay/ hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy... Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay/ Hoa xoan
đã nát dưới chân giày", cây lê: "Tháng ngày qua cửa buồng the/ Chị
ngồi nhặt cánh hoa lê cuối mùa", mà chả ít khi là cây không tên:
"Ngày qua ngày lại qua ngày/ Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
"... Không ít tứ thơ được lập theo cách xoay quanh những cái cây nào đó
(Chân quê, Qua nhà, Tương tư, Mưa xuân, Cô hái mơ, Người hàng xóm, Thời trước
v.v...).
Lối cấu tứ ấy khiến cho không gian trong mỗi bài thơ Nguyễn
Bính từa tựa như một sân khấu nhỏ, trên đó bài trí một cảnh quê, mà ở trung
tâm của cảnh bao giờ cũng phải là một cái cây nào đó, vừa để tạo cảnh trí, vừa
như một đạo cụ để nhân vật của một mối duyên quê lỡ dở tựa vào mà thổ lộ tâm
tư. Ví như thi phẩm "Ngày trước", cấu tứ xoay quanh vườn chè,
"Mưa xuân" xoay quanh hoa xoan, "Cô hái mơ" xoay quanh rừng
mơ, hay "Qua nhà" xoay quanh cây bưởi: Thi phẩm mở ra những hứa hẹn
với cây bưởi đầy hoa: "Lối này lắm bưởi nhiều hoa/ Đi vòng để được qua
nhà đấy thôi", nhưng rồi lỡ dở. Nàng đi lấy chồng mất rồi, thế là bưởi
ta cũng không ra hoa nữa. Những thứ khác cũng buồn lây mà cô quạnh trống không:
"Bờ rào cây bưởi không hoa/ Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo". Đặc
điểm này cho thấy phần sâu sắc nhất trong hồn thơ Nguyễn Bính hoàn toàn thuộc
về đất quê. Quê không chỉ đi vào cảnh vào tình, mà đã can thiệp rất sâu vào cấu
trúc hình tượng cũng như cấu tứ của các thi phẩm.
Niềm thiết tha với cố hương cũng đem lại cho hồn thơ Nguyễn
Bính một phân lập tương ứng về thời gian. Trong bốn mùa, Nguyễn Bính nghiêng
về Xuân hơn cả. Mùa hạ thường đem lại cho thi sĩ những ức chế, mùa thu mùa
đông khắc sâu niềm mất mát khổ đau. Chỉ có mùa xuân mới thực là mùa của hồn
thơ Nguyễn Bính. Điều này cũng dễ hiểu. Mùa xuân là lúc thời gian bắt đầu một
vòng quay mới. Đất quê lại vào kì mang mẻ sinh sôi. Cả xứ đồng lại khởi sắc.
Thiên nhiên hồi sinh sau những ngày tháng già cỗi tiêu điều. Lộc xuân nảy nở
trong đất, trong cây, trong hồn người. Sau những nhọc nhằn vất vả, người quê
được chút mát mặt đón xuân. Người ta tạm quên đi những nỗi lo đồng tiền bát gạo
tháng ba ngày tám để sống trong rộn ràng lễ hội. Những đêm tình mùa xuân đây
đó nơi những đám hội chèo, bên những vệ đê, trong những vườn cam, dưới những
gốc bưởi... Mùa xuân còn là mùa của cuộc đoàn tụ thiêng liêng đối với kẻ tha
hương. Nhất là vào dịp tết, vẫn cứ trôi dạt xứ người thì cái tôi ấy càng thấm
thía nỗi đơn côi. Những lúc như thế, tỉnh rượu tàn canh, tiếng gọi cố hương
càng dội sâu vào cõi lòng trống hoang cô quạnh. Mùa xuân là mùa của nỗi hoài
hương dằng dặc (Xuân tha hương, Xuân lại tha hương, Xuân vẫn tha hương...).
Ta hiểu vì sao, cái duyên quê của cố hương trong thơ Nguyễn Bính chỉ đậm đà
vào lúc xuân về: "Đã thấy xuân về với gió đông/ Với trên màu má gái
chưa chồng/ Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm/ Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong/ Từng đàn con trẻ chạy xun xoe/ Mưa tạnh trời quang nắng mới hoe/ Lá nõn
cành non ai tráng bạc/ Gió về từng trận gió bay đi/ Thong thả nhân gian nghỉ
việc đồng/ Lúa thì con gái mượt như nhung/ Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng/
Ngào ngạt hương bay bướm vẽ vòng/ Trên đường cát mịn một đôi cô/ Yếm đỏ
khăn thâm trẩy hội chùa/ Gậy trúc dắt bà già tóc bạc/ Tay lần tràng hạt miệng
nam mô". Có thể nói, khi phân lập thành quê mình - quê người, Nguyễn
Bính đã có những quan niệm thật dứt khoát. Quê người có thể có các mùa, nhưng
không thể có mùa xuân. Đặc biệt, khi quê người lại là đô thị, kinh kỳ thì nhất
định: "Kinh kỳ bụi quá xuân không đến". Chẳng những không có xuân,
mà đó còn là chốn chôn vùi những mùa xuân: "Giữa nơi thành thị gió mưa
phai/ Chết dần từng nấc, rồi mai mốt/ Chết cả mùa xuân, chết cả đời".
Mùa xuân chỉ về với quê mình. Mùa xuân là độc quyền của quê mình. Quê mình
như một xứ sở vĩnh viễn xuân. Đó không hẳn là sự thiên vị trong cảm nhận thời
gian của cái tôi tiểu nông nhất nhất coi "làng mình là hơn cả". Xét
đến cùng, nó xuất phát từ mặc cảm lỡ dở, mặc cảm đơn côi của một con chim lìa
đàn "bơ vơ trong xứ người xa lạ", hoài niệm cố hương đã làm cho mảnh
đất quê hiện lên với bao ưu ái. Như là nơi cứu rỗi cho linh hồn côi cút bơ
vơ. Đối với Nguyễn Bính, chất thơ quyến rũ nhất của đất trời
xuân chính là mưa xuân. Mưa xuân là đặc sản của thiên nhiên xứ bắc, cũng là đặc
sản của hồn thơ Nguyễn Bính. Hoàn toàn có thể gọi Nguyễn Bính là thi sĩ của
mưa xuân. Trong màn mưa xuân, cố hương hiện lên thân thương thế mà cũng thần
tiên đến thế. Trong số những thi sĩ viết về mưa xuân, chỉ có Nguyễn Bính mới
có cái ngơ ngác này: "Nào ai nhìn thấy rõ mưa xuân/ Tơ nhện vừa giăng
tơ trắng ngần/ Bươm bướm cứ bay không ướt cánh... Lá ngửa lòng tay hoa đón
mưa", cũng chỉ có Nguyễn Bính nghe ra giọng chuông ẩm ướt, mới nhận thấy
thời gian luyến không gian, luyến cảnh bằng màn tơ phảng phất lơ lửng, nửa
như sương đậm nửa mưa thưa ấy: "Làng bên ẩm ướt giọng chuông mờ/ Chiều
xuân lưu luyến không đành hết/ Lơ lửng mù sương phảng phất mưa". Không
biết Nguyễn Bính phải cám ơn mưa xuân hay mưa xuân phải mang ơn Nguyễn Bính,
khi những lời thơ mang được hồn mưa nhập vào hồn Việt. Nhất là những câu:
"Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy". Đọc
những câu như thế mới thấy ngay trong cả những gì mơ hồ không đâu nhất, vẫn cứ
rưng rưng lên những điệu hồn quê, phơi phới lên những nét duyên quê. Quyện
trong hơi thơ ấy có nhịp tim đầy hi vọng của cô gái quê sắp đi đến cuộc hò hẹn
đầu đời, mà xem ra còn lẫn cả nỗi phấp phỏng của một cái tôi vốn đầy dự cảm
lo âu về những lỡ dở cứ đợi con người đâu đó nữa. Tôi muốn nói, ngay trong từng
hạt mưa xuân hư thoảng đương tô điểm cho cố hương, cũng mang một phần hồn cái
tôi lỡ dở. Nó khiến cho niềm cố hương tha thiết đến se lòng.Chú thích: [1] Chữ dùng của Hoài Thanh, trong Thi nhân Việt Nam [2] Chữ của Hoài Thanh, trong Thi nhân Việt Nam [3] Phan Ngọc, "Ảnh hưởng văn học Pháp tới văn học Việt
Nam trong giai đoạn 1932-1940", Tạp chí Sông Hương, số 3+4/1992. [4] Chữ dùng của Lưu Trọng Lư, Bài diễn thuyết tại nhà khuyến
học Quy nhơn (tài liệu đã dẫn) [5] Phải nói là "của cái tôi ấy" là để tránh đánh
đồng con người thi sĩ ngoài đời và cái tôi thi sĩ trong thơ. Nhà thơ Trúc Đường,
anh trai Nguyễn Bính, tiết lộ rằng: Nguyễn Bính chỉ hiện ra như một nạn nhân
đáng thương trong thơ thôi. Còn ngoài đời, Nguyễn Bính "gặt hái"
không phải là ít. [6] Tô Hoài, "Lời giới thiệu", Tuyển tập Nguyễn
Bính , NXB Văn học Hà nội, 1986, tr.19-23. 5. Giọng điệu của hồn quê. Đọc Nguyễn Bính, có lẽ người Việt nào cũng cảm thấy rõ tiếng
thơ ấy mang đậm bản sắc dân tộc, mang đậm hồn quê. Người ta nhận ra điều này
rất sớm, ngay khi những tiếng thơ đầu tiên của Nguyễn Bính vừa mới cất lên.
Nhưng mảnh hồn quê đó là thế nào thì thật khó hình dung, khó nắm bắt. Hoài
Thanh và nhiều người nghiên cứu khác cũng cho rằng đó là vấn đề không thể hiểu
được bằng lý trí [1]. Nhưng chẳng nhẽ lại chỉ bằng lòng với những cảm nhận thuộc
về cảm tính? Trên thực tế nhiều người nghiên cứu sau Hoài Thanh đã cất công
tìm kiếm. Người ta phát hiện ra cách Nguyễn Bính bộc lộ tâm tình của mình gắn
liền với cây cỏ thảo mộc chốn thôn quê: cây chanh, cây bưởi, cây cam, cây
chè, giàn giầu, hàng cau, giậu mồng tơi, khóm cải hoa vàng, hoa cỏ may... với
các địa danh đặc quê: thôn Đoài, thôn Đông, thôn Vân, làng Đặng... với những
vật cảnh hương thôn: giếng thơi, giếng đá, đầu đình, bến đò, con sông, vệ đê,
bãi đay, vườn dâu... với những bóng dáng thôn dân: anh lái đò, cô lái đò, cô
gái dệt, gã thư sinh, cô hái mơ, cô hàng xóm, người mẹ già tầm tang tấm mẳn...
với những tập tục: ngày tết quê, cảnh vinh quy, cảnh vu quy, đám hội chèo,
đám lễ chùa, lễ kỳ an... Đành rằng trong mỗi một sự vật dù nhỏ nhoi nhất đều ít nhiều
mang chút hồn quê. Nhưng dầu sao đó mới chỉ là một phía, phía đối tượng. Mình đối tượng không thôi, chưa đủ đem lại hồn vía cho một
thi phẩm cũng như cho một tiếng thơ. Vả chăng, nếu chỉ do đối tượng thì trong
thơ của các thi sĩ khác thuộc dòng thơ quê đương thời và cả sau này nữa đều
nhan nhãn những đối tượng ấy, nhưng sao ta không thấy đậm đà hồn quê. Như thế,
nhân tố quyết định không phải là đối tượng. Mà phải là chủ thể: chủ thể phải
có được điệu hồn quê. Nghĩa là tuy điệu hồn kia thuộc về cá nhân thi sĩ, cất
lên từ cá nhân Nguyễn Bính, nhưng nó phải là điệu tâm hồn chung (hoặc một nét
sâu sắc thuộc điệu hồn chung ấy) của dân quê từ bao đời nay. Không có nó bao
trùm lên toàn bộ những cảnh vật kia thì khó mà dậy lên được hồn vía trong mỗi
tiếng thơ quê của Nguyễn Bính. Thực tế, điệu tâm hồn cũng là một khái niệm không kém phần
"mông lung". Tuy vậy, tạo nên cái gọi bằng điệu tâm hồn có vẻ "bất
khả tri" kia, không thể không có một yếu tố ít nhiều xác định: điệu cảm
xúc. Chữ "điệu" vẫn được dùng trong tiếng ta vốn nhiều nghĩa. Nét
nghĩa được nói đến ở đây chính là những đặc điểm về hình thức, là việc hình
thức hóa thành những kiểu cách, những mẫu hình ổn định. Chữ "điệu"
trong các chữ dáng điệu, nhịp điệu, vần điệu, giai điệu, làn điệu, nhạc điệu,
thanh điệu, ngữ điệu, giọng điệu... về căn bản theo nghĩa đó. Cho nên điệu cảm
xúc, có thể hiểu là những dạng cảm xúc đã được điệu thức hóa, hình thức hóa. Gần mười năm trước, trong tham luận "Về bản sắc dân tộc
và một hướng kiếm tìm nó trong thơ", trình bày tại Trường viết văn Nguyễn
Du, nhân hội thảo về "Vấn đề tính dân tộc trong thơ" (4-1994) [2],
tôi có nói đến một hướng tìm bản sắc qua khái niệm "điệu thơ". Dường
như mỗi một dân tộc vẫn có một (hoặc một số) điệu thơ đặc trưng của mình. Người
ta thường phải tìm nó trong thơ ca dân gian. Bởi thơ ca dân gian của một dân
tộc bao giờ cũng thể hiện đậm nhất tâm hồn riêng của dân tộc ấy. Khảo sát thơ
ca dân gian Việt Nam, tôi thấy nổi lên hai điệu cơ bản: một là, điệu than (phổ
biến nhất trong những câu ca than thân); hai là, điệu ghẹo (phổ biến trong những
câu ca giao duyên). Hai điệu này song hành và nhiều khi cũng hòa trộn vào
nhau. Mà trong đó, điệu than có phần đậm hơn. Đây là điệu thơ dễ làm động
lòng người, dễ làm mủi lòng người Việt nhất. Đơn giản vì nó cất lên từ cuộc sống
cơ khổ dằng dặc của người Việt nghìn xưa. Ngọn nguồn của điệu than là nỗi cơ
cực khốn khổ truyền kiếp của người tiểu nông bao đời. Giới nghiên cứu văn học
dân gian cũng có một nhìn nhận gần gũi về nguồn gốc và nội dung của ca dao
dân ca. Một nhà nghiên cứu viết: "cảm nghĩ về thân phận mình là thấy buồn,
thấy khổ và tiếng hát cất lên thành tiếng hát thở than về mọi nông nỗi khổ
đau và bất hạnh của kiếp người", "Dân ca - ca dao dẫu khai thác bao
nhiêu đề tài, rút lại căn bản cũng là những biến tấu của hai "lời" ấy:
dân ca - ca dao xưa chủ yếu là tiếng hát than thân phản kháng và là tiếng hát
yêu thương tình nghĩa của tất cả những người lao động và bị áp bức trong xã hội
cũ" [3] . Đời này qua đời khác, điệu than náu sẵn trong hồn người như một
dây tơ lòng, có thể ví như dây đàn bầu vậy, chỉ thoảng nghe một hơi thơ phảng
phất điệu than thở, là dây tơ ấy động ngay, rung ngay. Nói khác đi, điệu than
chính là một mảnh hồn Việt. Tôi muốn minh họa thêm bằng trường hợp bài ca dao "Cày
đồng đang buổi ban trưa" qua cách luận giải rất đáng chú ý của Hoài Thanh
để thấy ý nghĩa thực sự của điệu thơ này đối với việc đánh động những tấm
lòng Việt: "Cày đồng đang buổi ban trưa/ Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng
cày/ Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần". Đọc
bài ấy, Hoài Thanh đã "yên trí đó là một trong những bài ca dao hay nhất
của xứ ta từ trước". Đến lúc có người bảo bài ấy gốc ở thơ Đường, con
người sành thơ này đã rất ngạc nhiên. Ông tìm đọc và thấy đúng là như vậy, Lý
Thân đời đường có bài: "Sừ hòa nhật đương ngọ/ Hãn trính hòa hạ thổ/
Thùy niệm bàn trung xan/ Lạp lạp giai tân khổ". Khương Hữu Dụng dịch:
"Xới lúa, trời đứng bóng/ Mồ hôi đổ xuống ruộng/ Ai biết cơm trong mâm/ Hạt hạt đều cay đắng". So sánh, nhà phê bình đi đến kết luận "ý
thơ rất giống: chắc không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Còn giọng thơ lại
khác. Câu hai của bài ca dao thêm tiếng "mồ hôi thánh thót". Câu ba
thêm một tiếng kêu "ai ơi". Câu bốn thêm cái ý "dẻo thơm"
khiến cay đắng thêm bội phần cay đắng. Do đó mà toàn bài bỗng có cái giọng
réo rắt, ai oán đã từng gặp phổ biến trong các bài ca dao của ta như:
"Lao xao gà gáy rạng ngày/ Vai vác cái cày, tay dắt con trâu /Bước chân
xuống cánh đồng sâu/ Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu ra cày/ Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng?"... Và Hoài Thanh khẳng định:
"Có lẽ do ảnh hưởng của những câu ca dao ấy mà bài thơ Lý Thân đã trở
thành tiếng kêu của người nông dân xứ ta ngày trước" [4] . Như vậy là nhờ
giọng điệu thơ thay đổi nên nó không chỉ thay hình đổi dạng mà đã thực sự
thay da đổi thịt, thay hồn đổi vía. Trong bài ca dao này, vậy là đã cư trú một
mảnh hồn Việt. Trường hợp này, mảnh hồn Việt được phổ vào đó chủ yếu qua giọng
thơ, điệu thơ, cụ thể là điệu than. Ta có thể thấy nó đặc biệt phổ biến trong
tiếng hát than thân của người phụ nữ: "Thân em như miếng cau khô/ Người thanh tham mỏng,
người thô tham dày", "Thân em như dải lụa đào/ Phất phơ giữa chợ
biết vào tay ai", "Thân em như hạt mưa rào/ Hạt rơi xuống giếng hạt
vào vườn hoa/ Thân em như hạt mưa sa/ Hạt vào đài các hạt ra ruộng
cày"... Một tiếng thơ Việt đậm đà cái phong vị gọi bằng "hồn
quê", hay "hồn xưa đất nước" cũng thường được cất lên bằng điệu
thơ ấy. Điệu thơ về một mặt nào đó cũng là giọng điệu thơ. Khái niệm
này hiện đang được nói đến khá nhiều, nhưng cách hiểu về nó chưa phải đã thống
nhất. Đặc biệt, việc tìm kiếm ở nhiều người, thấy đi vào những yếu tố hoặc
chung chung mờ nhòe, hoặc riêng lẻ vụn vặt. Tôi cho rằng giọng điệu là sự hòa hợp giữa nội dung cảm xúc và hệ thống chất liệu, mà trước hết là hệ thống sắc
thái ngữ điệu. Nói như vậy để khẳng định: cái gọi là giọng điệu phải nằm ở sự
hòa hợp thành một thể, một điệu thức nhuần nhị, chứ không phải là phép cộng
giản đơn của từng yếu tố một. Thơ Nguyễn Bính chủ yếu được viết bằng điệu than và điệu ghẹo,
nhất là điệu than. Hãy đi vào những nét chính cấu thành từng giọng ấy. Đối với
điệu than, nội dung cảm xúc căn bản của nó phải là xót thương và hờn oán.
Thương người và thương mình, hờn giận bản thân và oán trách số kiếp. Bởi vậy
nguyên uỷ của nó căn bản là nỗi bất hạnh trong đời. Đơn giản là: có Khổ thì
có Than. Chúng ta đều biết, nỗi bất hạnh bởi lao động nhọc nhằn và bởi bất
công xã hội chưa phải là mối quan tâm hàng đầu của các thi sĩ Lãng mạn -
khuynh hướng Hiện thực quan tâm đến nó nhiều hơn. Nỗi bất hạnh ám ảnh ngòi bút
chàng thi sĩ lãng mạn Nguyễn Bính nhiều nhất là nỗi lỡ dở của con người. Cụ
thể là lỡ làng trong tình duyên và dở dang trong sự nghiệp. Đây không chỉ là
nỗi bất hạnh của chính cái tôi Nguyễn Bính, mà còn là nỗi bất hạnh dằng dặc
giáng xuống bao kiếp đàn bà đàn ông cơ khổ lầm lụi sau những lũy tre nghìn đời
nay. Họ đã từng trút những lời thở than sầu tủi vào những câu ca buồn, đã úp
mặt vào hai bàn tay của ca dao dân ca mà vùi sâu những tiếng nấc nghẹn. Cho
nên hướng tới mối bất hạnh này cũng là sự tiếp nối một nguồn lệ từ nghìn xưa,
là mang vào thơ mình những nông nỗi bao đời của người Việt trên đồng đất nước
này. Nội dung cảm xúc kia tự nó chưa thể trở thành điệu than, nếu
như chưa tìm tới một hình thức biểu cảm phù hợp. Muốn thành điệu than, ít nhất
nó phải chuyển tải bằng hai sắc thái ngữ điệu là kể lể và than vãn. Một nông
nỗi là hậu quả của một cảnh ngộ, muốn than thở, trước tiên phải kể lể, giãi
bày cái cảnh ngộ ấy, cái nông nỗi ấy để người nghe có thể thấu được khúc nôi.
Vì điều này mà thơ Nguyễn Bính bao giờ cũng có yếu tố tự sự: cụ thể là có sự
và có một giọng kể và lời kể. Nhà văn Tô Hoài đã có lý khi hình dung Nguyễn
Bính giống như một người có tài kể chuyện: "ở mỗi xóm mỗi làng, thường
thấy những bác thợ cày, thợ cối, thợ rèn, thợ ngõa, bà hàng nước vối, hầu như
vùng nào cũng có những người giỏi đặt vè, nói tiếu lâm, pha trò, kể chuyện
khéo đến nỗi "con kiến trong lỗ cũng phải bò ra", ai cũng thích
nghe, ví như cuốn truyện hay, đọc chẳng bao giờ muốn thấy trang cuối. Nguyễn
Bính là một người tương tự", "Nguyễn Bính chẳng khác một người tài
kể chuyện, cứ nhẩn nha nói về mọi thứ quen thuộc quanh mình mà khiến ta phải
chú ý" [5] . Đọc Nguyễn Bính có thể thấy hạt nhân của mỗi thi phẩm thường
là một cái sự nào đó. Tất nhiên, vẫn là sự lỡ làng, sự dang dở từ một mảnh đời
lỡ dở nào đó, mà thường khi là của chính cái tôi lỡ dở Nguyễn Bính. Này là sự
lỗi hẹn ở mưa xuân, này là sự lỗi thề của người khách tình xuân, sự lỗi ước với
tình quân của cô lái đò, này là sự bỏ lỡ cơ duyên với người hàng xóm, này là
sự dở dang, lỡ làng mãi mãi của chị Trúc một lần Lỡ bước sang ngang
"Đoái thương thân chị lỡ làng/ Đoái thương phận chị dở dang những ngày
"... Mạch thơ được triển khai do vận động của những cái sự như thế. Nên
mạch liên kết của các thi phẩm Nguyễn Bính chủ yếu dựa vào một cái cốt (truyện)
nào đó. Và mạch được dẫn dắt bởi những lời kể, mà đặc trưng của nó là trần
thuật, tái hiện lại sự kiện như những tình huống diễn ra trong không gian thời
gian: "Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn...",
"Em là con gái trong khung cửi/ Dệt lụa quanh năm với mẹ già/ Lòng trẻ
còn như cây lụa trắng/ Mẹ già chưa bán chợ làng xa...", "Thôn Đoài
ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớ mười mong một người", "Xuân
đã đem mong nhớ trở về/ Lòng cô lái ở bến sông kia/ Cô hồi tưởng lại ba
xuân trước/ Trên bến cùng ai đã nặng thề...", "Nhưng em ơi, một
đêm hè/ Hoa xoan nở, xác con ve hoàn hồn/ Dừng chân trên bến sông buồn/
Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang...". Có lẽ vì ham kể lể mà thơ Nguyễn
Bính thường bộc lộ một cái tật: dông dài, và không hiếm bài đến mức dầm dề tựa
như giời mưa ở Huế đúng như cảm nhận của chính thi sĩ vậy. Song song và đan xen với kể lễ, phải là than vãn . Nghĩa là
luôn thốt lên những lời cảm thương cho nỗi đau khổ, bất hạnh để mong có được
sự đồng cảm xót thương. Đương nhiên, lối biểu cảm trực tiếp bằng thán từ, lối
nặng nề hóa, trầm trọng hóa bằng cách cường điệu sẽ được sử dụng như là thủ
pháp chủ đạo: "Lá ơi! và gió ơi! tôi biết/ Tình chửa song đôi đã lỡ
làng", "Hai tay ôm lá vào lòng/ Than ôi! chiếc lá cuối cùng là
đây", "Bao nhiêu ân ái thế là thôi/ Là bấy nhiêu oan nghiệt hỡi trời",
"Nhưng mộng mà thôi mộng mất thôi/ Hoa thừa rượu ế ấy tình
tôi",... Lối đay đả, chì chiết, chua chát được sử dụng như để làm cho giọng
than vãn trở nên lâm ly hơn thống thiết hơn: "Mình cô làm bận mấy mươi
người ", "Mẹ phải xa con khổ mấy mươi", "Một đi bảy nổi
ba chìm/ Trăm cay nghìn đắng con tim héo dần", "Khốn nạn tưởng yêu
thì khó chứ/ Không yêu thì thực dễ như không", "Nàng đi Hà nội buồn
như chết/ Hà nội buồn như một lỡ làng", "Nàng có ngờ đâu đến nỗi
này? Lỡ làng chôn hết cả thơ ngây", "Ngày qua ngày lại qua ngày/
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng", "Chờ mãi anh sang anh chả sang/ Thế mà hôm nọ hát bên làng/ Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn/ Để cả mùa xuân
cũng lỡ làng", "Chị nay sống cũng bằng không? Coi như chị đã ngang
sông đắm đò".... Thơ Nguyễn Bính cứ như lời than thân trách phận, lời tủi
phận tủi duyên cho mình và cho người. Và thơ Nguyễn Bính, do vậy, có cái điệu
bao trùm là kể lể sự tình. Điệu thơ này quả là một ma lực đối việc chinh phục
trái tim đại chúng, nhất là thôn dân. Nó dễ đồng điệu với điệu tâm hồn của
người tiểu nông xứ ta. Tuy nhiên, than vãn tự nó cũng đã bao hàm một mặt
trái. ấy là khi lạm dụng thở than, thì thơ lênh láng những nước mắt. Y như
thơ của một người quá mau nước mắt vậy. Có lẽ Nguyễn Bính thiếu nhất sự tiết
chế của một thi sĩ. Ông cũng ý thức khá rõ về điệu than thở của hồn mình:
"Tôi rót hồn tôi xuống mắt nàng/ Hồn tôi là cả một lời van". Nhiều
lúc muốn chấm dứt, cho hồn mình đỡ u ám, lòng mình đỡ nặng nề vì chính nước mắt
than van của mình: "Em không khóc nữa không than nữa/ Đây một bài thơ hận
cuối cùng/ Không than chắc hẳn hồn tươi lại/ Không khóc tha hồ đôi mắt
trong". Nhưng khốn nỗi, nếu không than thở, thì Nguyễn Bính cũng không
còn thực là Nguyễn Bính nữa. Bởi nó là điệu hồn của thi sĩ rồi. Đọc Nguyễn Bính còn thấy một sắc điệu khác cũng rất đậm chất
dân gian: ghẹo. Về thực chất đó là lối chòng ghẹo trong đời sống giao tiếp được
đưa vào thơ ca. Nội dung cảm xúc thường là niềm khao khát kết đôi, kết duyên.
Sát sạt hơn là khao khát "xé rào" ngăn cản, xóa bỏ khoảng cách,
"mở lối" đến đối tượng, khai thông mối luyến ái. Ghẹo thực sự trở
thành nhịp cầu đôi lứa bao đời. Chẳng thế mà trong dân ca có cả một loại hình
là "hát ghẹo". Nếu than nghiêng về âm tính - buồn, thì ghẹo lại
nghiêng về dương tính - vui. Đằng là điệu cảm xúc của cái tôi khi đã lỡ dở, đằng
lại là điệu tâm hồn lúc cái tôi đang "lăm le xâm lược". Đằng thì
thán, đằng thì tán. Phương tiện của nó là lối nói đùa vui, trêu chọc, đôi khi
cả cợt nhả, bông phèng, miễn sao có thể lấn tới. Những cách nói lấp lửng,
vòng vo, bóng gió, thậm chí cả nói "quàng xiên" nữa luôn được sử dụng
như là "vũ khí" của giọng đùa ghẹo: "Đôi ta cùng ở một làng/
Cùng đi một ngõ vội vàng chi anh/ Em nghe họ nói mong manh/ Hình như họ biết
chúng mình ... với nhau", "Bao giờ bến mới gặp đò/ Hoa khuê các bướm
giang hồ gặp nhau", "Cái ngày cô chửa lấy chồng/ Đường dài tôi cứ
đi vòng cho xa/ Lối này lắm bưởi nhiều hoa/ Đi vòng để được qua nhà đấy
thôi/ Một hôm thấy cô cười cười/ Tôi yêu yêu quá nhưng hơi mất lòng/ Biết
đâu rồi chả nói chòng/ Làng này khối đứa phải lòng mình đây", "Hồn
anh là hoa cỏ may/ Một chiều cả gió bám đầy áo em", "Mọi người hớn
hở ra xem/ Chỉ duy có một cô em chạnh buồn", "Đêm qua mới thực là
đêm/ Ai đem giăng sáng giãi lên vườn chè", "Đàn tôi đứt hết dây rồi/ Không người nối lại, không người thay cho... Có cô lối xóm hàng năm/ Trông
dâu tốt lá chăn tằm hơn tơ /Năm nay đợi đến bao giờ/ Dâu cô tới lứa tằm cô
chín vàng/ Tơ cô óng chuốt mịn màng/ Sang xin một ít cho đàn có dây",
"Nàng về làm dâu nhà tôi/ Vườn dâu nó thẹn với đôi tay ngà"... Người
đọc thấy trong đó bóng dáng những lối nói ghẹo của những anh trai quê lém lỉnh,
"tán như xiếc" trong ca dao xưa: "Đêm qua tát nước đầy đình/
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen/ Em được thì cho anh xin/ Hay là em để
làm tin trong nhà... Mai mượn cô ấy về khâu cho giùm/ Khâu rồi anh sẽ trả
công/ Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho", "Trên trời có đám mây
xanh/ ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng/ Ước gì anh lấy được nàng/ Để
anh mua gạch Bát Tràng về xây?/ Xây dọc rồi lại xây ngang/ Xây hồ bán nguyệt
cho nàng rửa chân/ Có rửa thì rửa chân tay/ Chớ rửa lông mày chết cá ao
anh"... Giọng điệu bao giờ cũng là sự biểu hiện của thái độ cảm
xúc. Nó là cảm xúc đã được hình thức hóa, điệu thức hóa. Mà cảm xúc chính là
yếu tố quyết định đến cái hồn của một thi phẩm, cũng như của mọi thi phẩm. Vì
thế tìm kiếm hồn quê trong thơ Nguyễn Bính không thể không quan tâm đến giọng
điệu. Nếu điệu than - và cả điệu ghẹo nữa - được xem là những điệu thơ phổ biến
trong dân gian, mang đậm mảnh hồn Việt, thì chính nó cũng là điệu thơ chủ đạo
của Nguyễn Bính, là điệu hồn Nguyễn Bính. Thế giới thơ Nguyễn Bính thấm đượm
điệu hồn ấy, chính là bởi Nguyễn Bính đã phổ điệu hồn mình vào trong từng sự
vật quê kiểng, vào từng mảnh đời quê. Cho nên nó cứ man mác, bàng bạc đây đó,
tưởng như nó hoàn toàn bên ngoài ta mà hình như lại có sẵn đâu đó trong mỗi
chúng ta. 6. Con đẻ của câu lục bát nổi chìm nơi đồng quê. Về hình thức đơn thuần, Nguyễn Bính là đứa con được sinh ra
khi ca dao ngầm giao duyên cùng Thơ Mới. Nhưng trong đứa con ấy, gien trội vẫn
thuộc về ca dao. Nên Nguyễn Bính là tiếng đàn bầu vẫn lặng lẽ ngân rung trong
lúc giàn giao hưởng tân nhạc của thơ đương thời đang diễn tấu mải mê dưới chiếc
đũa chỉ huy của người nhạc trưởng toàn năng là cái Tôi cá thể. Song, nó không
có cái mặc cảm lạc lõng, lạc thời. Trái lại, nó vẫn diễn tấu theo lối của
mình, bằng dây tơ riêng của mình, kiên trì, tự tín. Vẫn cất lên điệu riêng của
mình mà khiến người nghe phải chú ý, phải say mê. Tôi muốn nói, trong lúc phần
đông đương cuốn theo sức hút khó cưỡng lại được của thơ tự do, thơ hiện đại,
cải cách thơ mình theo lối mới, thì Nguyễn Bính về lại với câu lục bát dân
gian vẫn chìm nổi bao đời nay nơi đồng quê. Về với nó, đối với Nguyễn Bính là
về với hương đồng gió nội, về với chân quê. Khách quan mà nói, những bài thơ hay của Nguyễn Bính thuộc
về cả thất ngôn lẫn lục bát. Những câu vào loại hay nhất của Nguyễn Bính cũng
có cả lục bát lẫn thất ngôn. Trong đó có những cặp thất ngôn mà người ta khó
có thể quên được, ví như: "Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp
lớp rụng vơi đầy", "Sớm Đào, trưa Lý, đêm Hồng phấn/ Tuyết Hạnh,
sương Quỳnh, máu Đỗ Quyên", "Sầu nghiêng mái quán mưa tong tả/
Chén ứa men lành lạnh ngón tay", "Chín hẹn đã sai mười: bạn quý/
Nghìn voi không được một: người yêu/ Bá Nha thuở trước còn Chung Tử/ Kim Trọng
ngày nay hết Thúy Kiều"... Tuy nhiên, ở thất ngôn, cái khí sắc Nguyễn
Bính không đậm đặc, không nổi trội bằng ở lục bát. Có lẽ lục bát vốn ăn sâu
vào lòng quê, bởi thế bản thân nó đã chứa đựng ít nhiều duyên quê, hồn quê rồi.
Cho nên chỉ ở lục bát, hồn vía Nguyễn Bính mới nhập với hồn quê đến vậy, cả
hai mới đồng thể, cất lên cùng một tiếng nói nhuần nhị nhất. Đến nỗi Nguyễn
Bính đang nói những lời quê, hay hồn quê đang cất lời qua Nguyễn Bính thật
khó mà phân biệt. Hồn vía Nguyễn Bính đã kí thác nhiều nhất vào lục bát. Nói
đơn giản, ở lục bát Nguyễn Bính được là mình hơn cả. Nhiều người bạn Nguyễn
Bính đã xác nhận rằng Nguyễn Bính làm lục bát dễ như người ta viết văn xuôi
thường vậy. Điểm mặt những cây bút lục bát nổi nhất của phong trào Thơ
Mới, người ta vẫn nhắc nhiều đến hai gương mặt với hai phong cách khác nhau
là Huy Cận và Nguyễn Bính. Nếu tác giả Lửa thiêng nghiêng về lục bát cổ điển,
thì tác giả Lỡ bước sang ngang lại nghiêng về lục bát dân gian. Cả các nhà
nghiên cứu và chính Huy Cận cũng tự thấy như thế. Nếu có sự phân biệt câu thơ
thành "điệu nói" và "điệu ngâm", thì có thể thấy: Huy Cận
là lục bát điệu ngâm [6], còn Nguyễn Bính là lục bát điệu nói. Điều này cho
thấy Thơ Mới trong khi căn bản đổi sang điệu nói, vẫn không quên mang theo
hành trang của nó cả điệu ngâm để làm giàu cho mình. Và, không phải đến Thơ Mới,
thi ca mới biết đến điệu nói. Điệu nói từ lâu đã là hình thức sẵn có của câu
thơ dân gian. Nếu xem điệu nói là dấu hiệu hiện đại, thì câu thơ dân gian, tự
nó đã chứa đựng tính hiện đại. Phải chăng vì mang sẵn trong mình yếu tố hiện
đại ấy mà ca dao dân gian cứ trẻ mãi, cứ bất chấp các thời đại, bất chấp các
cuộc biến thiên cả trong lịch sử lẫn thơ ca? Và qua trường hợp Nguyễn Bính,
ta thấy: cứ đi sâu mãi vào truyền thống cũng là một hướng đổi mới? Thì trở lại
những tinh hoa trong ngọn nguồn với một nhỡn quan mới cũng chính là một cách
đổi mới chứ sao! Nói kỹ hơn, câu thơ dân gian chưa gắn với chủ thể là cái
tôi cá nhân cá thể, "điệu nói" của nó mới chỉ có được yếu tố là
"cấu trúc lời nói" trong giao tiếp đời sống, gần với khẩu ngữ.
Nhưng đó là yếu tố khá căn bản của hình thức câu thơ. Nguyễn Bính đã đưa vào
câu lục bát dân gian hơi thở của thời đại Thơ Mới. Đó là, mang vào nó "yếu
tố cá nhân". Cụ thể, cùng với những khía cạnh như cảm xúc trở thành đối
tượng mô tả, câu lục bát Nguyễn Bính đã được gia tăng những yếu tố lời nói,
ngữ điệu, giọng điệu cá nhân. Có thể thấy Nguyễn Bính đã đưa giọng điệu thở
than từ bi kịch lỡ dở của hồn mình vào lục bát, đưa cả điệu đùa ghẹo đa đoan
vào lục bát. Cho nên, dưới ngòi bút của thi sĩ, lục bát đã mang cái hồn của
Nguyễn Bính. Cơ sở nào trong lục bát có thể làm nội ứng cho điệu than Nguyễn
Bính có thể nhập vào thể loại ấy nhuần nhuyễn đến vậy? Cặp lục bát, xét đơn
thuần về nhạc tính, tự nó đã là một khúc thức chặt chẽ. Cụ thể là một tổ hợp
nghiêng hẳn về thanh bằng [7], nó thuận hơn đối với việc diễn tả những trạng
thái tâm tình ít gai góc, ít đột biến, thất thường. Và hết sức sở trường đối
với những khúc ngâm, khúc tự tình, những lời than thở lâm li và những lời
giao duyên ong bướm tình tứ. Một thi sĩ như Nguyễn Bính dường như có khả năng
tư duy bằng lục bát. Lục bát tương hợp với những bước tư duy của một người
thích trầm mình vào những mặc cảm tủi sầu, tương hợp với điệu hồn ưa than thở
(Hồn tôi là cả một lời van). Nói một cách khác, điệu than đã tìm thấy trong
thể loại lục bát cái tiết điệu vàng, dường như sinh ra để dành cho nó. Nên,
hình dung theo cách của Hồ Xuân Hương, thì điệu than và lục bát đã phải duyên
phải kiếp với nhau nên thắm lại liền: "Hai tay ôm lá vào lòng/ Than ôi! chiếc lá cuối cùng là đây", "Ngày qua ngày lại qua ngày/ Lá xanh
nhuộm đã thành cây lá vàng", "Cách mấy mươi con sông sâu/ Và trăm
ngàn vạn nhịp cầu chênh vênh/ Cũng là thôi cũng là đành/ Sang ngang lỡ bước
riêng mình chị sao"... Tất cả nhuần nhuyễn đến mức, Nguyễn Bính làm thơ
như nói. Xuất khẩu thành thơ. Hễ cất lời là mây trôi nước chảy. Tự nhiên như
nói thường, nói bông lơn, thậm chí nói trạng. ấy thế mà thành lục bát hay:
"Dừng chân qua cửa nhà nàng/ Thấy hoa vàng với bướm vàng hôn
nhau", "Cành dâu cao, lá dâu cao/ Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt
em", "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớ mười mong một
người", "Ai làm cả gió đắt cau/ Mấy hôm sương muối cho giầu đổ
non", "Hội làng mở giữa mùa thu/ Giời cao gió cả giăng như ban
ngày", "Đêm qua mới thật là đêm/ Ai đem giăng sáng giãi lên vườn
chè". "Thấy tình duyên của đôi ta/ Đến đây là... đến đây là... là
thôi" ... Những ai am tường lục bát đều thấy lục bát dễ làm mà khó
hay. Lúc nào nó cũng chênh chao trên một sợi chỉ mỏng manh giữa một bên là
thơ bên kia là vè. Lục bát điệu ngâm cũng thế, mà lục bát điệu nói càng thế.
Thực mà nói, do đúc chữ, nén chữ, coi trọng ý, tứ, lấy uyên súc làm đầu nên lục
bát điệu ngâm có thể có nguy cơ chật chội, nặng nề, thiếu tự nhiên, nhưng ít
có nguy cơ thành vè. Trong khi đó, lục bát điệu nói lại coi trọng giọng nói,
lời nói, hơi thở xúc cảm, lấy tính tự nhiên làm trọng, nên thường giãn chữ, nới
chữ. Do vậy, trở thành vè là một nguy cơ rất cao. Bản lĩnh của người viết lục
bát chính là sự vững vàng ngay trong từng cái nhón chân trên sợi dây mỏng
manh đó. Đọc Nguyễn Bính, người sành lục bát nào cũng phải ngả mũ thán phục
trước những thành công tuyệt diệu của thi sĩ. Có lúc, tôi đã nghĩ, Nguyễn
Bính giống như một nghệ sĩ xiếc tinh xảo của bộ môn đi trên dây, khi tạo ra
những câu lục bát dễ như không mà thực khó vô ngần: "Cái gì như thể nhớ
mong/ Nhớ nàng, không, quyết là không nhớ nàng", "Một nghìn năm, một
vạn năm/ Con tằm vẫn kiếp con tằm vương tơ", "Hồn anh là hoa cỏ
may/ Một chiều cả gió bám đầy áo em", "Láng giềng đã đỏ đèn đâu/
Chờ em chừng giập miếng giầu em sang"... Nhưng có lẽ không hẳn. Sâu xa
hơn chuyện nghề nghiệp, siêu hình hơn chuyện bản lĩnh, là bản năng. Nguyễn
Bính có một bản năng lục bát. Thơ lục bát Nguyễn Bính là sự cất lời của một bản
năng lục bát vô tận. Không thế, làm sao có thể có được những câu lục bát cứ
như không mà lại ma quái đến vậy: "Anh đi đó, anh về đâu/ Cánh buồm
nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm", "Chừ đây bên nớ bên tê/ Sương thu
xuống gió thu về bồng bênh"... Nguyễn Huy Thiệp, khi đọc lục bát đã có một
sự phân chia là lạ: lục bát "trí năng" và lục bát "ngộ
năng" [8]. Loại thứ nhất có thể hiểu nôm na là loại "có thể"
- người chịu khó trau dồi nghiệp lục bát vẫn có cơ một ngày nào sẽ đạt tới.
Loại thứ hai là "không thể" - không thể bằng tinh thông nghề nghiệp
mà đạt tới được, nó là tặng vật của trời ban cho một số ít nào đó, và cũng
vào những khoảnh khắc xuất thần hiếm hoi nào thôi. Loại thứ nhất của người,
loại thứ hai của trời. Và nhà văn này đã xếp Nguyễn Bính vào loại thứ hai.
Tôi nghĩ là xác đáng. Tuy nhiên, nói một thi sĩ có bản năng thi ca mạnh mẽ là đề
cao, nhưng chỉ "ăn nhờ" vào bản năng không thôi thì lại là hạn chế.
Tôi ngờ rằng Nguyễn Bính đã có những kiểu cách riêng để hoàn thiện câu lục
bát đậm cá tính của mình. Nhìn sâu vào sở trường của từng điệu, có thể thấy lục
bát điệu ngâm vẫn nệ ý hơn, vì thế, ý thường lanh chanh với nhạc trong việc dẫn
dắt hơi thơ, triển khai câu thơ. Còn lục bát điệu nói lại chuyên chú ở hơi
thơ, nên ý luôn nhường quyền dẫn dắt cho nhạc, tiết điệu lục bát thường thanh
thoát tự nhiên, gần với tiết điệu sinh động trong dòng ngữ lưu của khẩu ngữ
giao tiếp. Nắm được "tính nết" này thì làm chủ được lục bát điệu
nói. Nguyễn Bính đã đánh thức dậy những tiềm năng vô song của điệu nói ấy. Lối
ngắt nhịp cho thật gần với tiết điệu của lời nói thường: "Cái gì như thể
nhớ mong// Nhớ nàng/ không/ quyết là không/ nhớ nàng". Cái nhịp
2/1/3/2 ở câu bát này là tiết nhịp của khẩu ngữ, thể hiện tâm lí đầy mâu thuẫn
của chủ thể. Nó bật lên sao lại ăn nhập đến vậy giữa tiết nhịp của chuỗi lời
nói và tiết điệu của chuỗi lời thơ. Lối ngắt nhịp quyện chặt với lối trùng điệp
hết sức táo bạo, đến ngỡ như đùa bỡn với ngôn ngữ, thế mà lại tự nhiên đến mức
"quá quắt", khiến cho câu lục bát có cái hay đến là nghịch lý: quen
đến mức lạ lùng, giản đơn đến mức... cầu kỳ: "Anh đi đó, anh về đâu?/
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm..." [9]. Lối chơi chữ tưởng rắc
rối điệu đàng mà thực ra lại tự nhiên; nhịp thơ đầy lấp lửng, lúng liếng,
đong đưa đã góp phần tạo ra hình tượng một khuê phụ lòng đầy xáo động, xao
xuyến: "Buồng hương bóng bóng mình mình/ Gió hiu hiu hắt qua mành mành
hoa". Lối dùng tiểu đối pha trộn với chơi chữ, lối dùng lấp láy, lối ngắt
những nhịp tràn lướt khiến cho điệu lục bát tạo ra những hình động ngỡ cầu kì
mà vẫn thanh nhã, trôi thoát rất ngon lành: "Đèo cao cho suối ngập ngừng/ Nắng thoai thoải nắng chiều lưng lửng chiều"... ở thế hệ sau, người đi
tiếp nẻo đường lục bát này với nhiều thành quả là Bùi Giáng, Nguyễn Duy, rồi
Đồng Đức Bốn..., họ lại mang hơi thở của thời đại mình, thế hệ mình vào lục
bát. Khiến cho lục bát điệu nói vẫn luôn là một cuộc chạy tiếp sức của các thế
hệ thơ Việt Nam nhằm gìn giữ và làm mới một lối thơ đã trở thành hương hỏa của
giống nòi, để lục bát vẫn mãi là một thể loại thơ giàu sinh lực [10] 7. Lời quê, lời Việt. Lời thơ Nguyễn Bính là lời Việt trong vẻ đẹp chân quê. Khép lại kiệt tác Truyện Kiều, Nguyễn Du viết một câu mà nó
đã được truyền tụng bởi nhiều khía cạnh khác nhau :"Lời quê chắp nhặt
dông dài / Mua vui cũng được một vài trống canh". Nhưng có lẽ đó chỉ là
sự khiêm nhường của thiên tài thuộc văn học bác học. Trong Truyện Kiều, vẻ đẹp
của tiếng Việt không phải là lời quê. Có chăng, là lời quê đã được tinh luyện
theo một thứ công nghệ bác học nào đó. Có lẽ chỉ ở Nguyễn Bính, mới có thứ lời
quê còn nguyên hương đồng gió nội của nó. Tạo ra cái ngôn ngữ được gọi là lời quê, không chỉ có vai
trò của lời, với nghĩa là từ vựng. Lời quê còn phải được dùng theo lề lối quê
nữa thì nó mới thực là chân quê, mới dậy lên cái hồn quê. Một bình diện lớn tạo
nên cái lề lối ấy hẳn phải là điệu nói. Hãy lấy một so sánh. Cũng một hình ảnh
vầng trăng xẻ đôi biểu hiện cho sự chia lìa, gắn với điệu ngâm, đầy những
trau chuốt, đúc chữ nén ý, lẫn vào ngữ cảnh bàng bạc từ Hán Việt, nó đã hoàn
toàn mất đi hương vị quê mùa: "Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối
chiếc nửa soi dặm trường". Nhưng cũng vầng trăng ấy, nằm trong cấu trúc
của lời nói gần với khẩu ngữ - một nét khá chủ đạo của điệu nói, và với lối
ví von sánh đôi sánh cặp thuộc lề lối quê, mà ở câu ca này hương đồng gió nội
vẫn vẹn nguyên: "Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Đường trần ai rẽ ngược xuôi
hỡi chàng?". Tôi cho rằng, nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt mà bỏ qua lề lối
quê của việc dùng ngôn ngữ, tựa như một thứ "ngữ pháp quê", thì chắc
chắn đã bỏ sót một vẻ đẹp thuộc về bản sắc của tiếng Việt. Tiếc rằng, chưa có
một công trình ngôn ngữ học nào quan tâm thực sự đến vấn đề này.
Cắm rễ rất sâu vào ca dao, Nguyễn Bính không chỉ giàu lời
quê, mà còn rất nhuyễn lề lối quê nữa. Người ta đã khảo ngôn ngữ Nguyễn Bính
và thấy ra chất quê ở nhiều mặt. Lối đo đếm không gian bằng thước đo cụ tượng
đến... siêu hình: Thôn Đoài cách có một thôi đê. Trong thước đo đặc biệt ấy,
ta thấy cái tĩnh và cái động quyện vào nhau. "Một thôi đê" bao gồm
cả "một quãng đê" (tĩnh) nối thôn Đoài với thôn Đông, lại gồm cả
"một quãng đi", tức là nhịp di chuyển gắn với tốc độ bước của con
người (động) dọc theo lối đê nữa. Vậy là, do sự hòa quyện ấy mà, trong cách
đo kia vừa có dùng không gian để ướm vào khoảng cách không gian, vừa dùng cả
thời gian để áng chừng không gian nữa. Chỉ có Nguyễn Bính dùng loại thước đo
này. Đo đếm thời gian cũng theo lề lối quê: " Xóm giềng đã đỏ đèn đâu/
Chờ em chừng giập miếng giầu em sang". Đơn vị tính là quãng thời gian đủ
để ăn (hoặc giã) giập một miếng giầu. Nghĩa là, thời gian được tính bằng loại
công việc quen thuộc với tất cả những người quê. Vậy là trong mỗi người quê đều
có chung một thứ đồng hồ quy ước. Hoặc phép tính thời gian bằng thứ "đồng
hồ cây cỏ": "Ngày qua ngày lại qua ngày/ Lá xanh nhuộm đã thành
cây lá vàng". Lối đong đếm những cái hoàn toàn ảo như lòng sầu nhớ bằng
những đơn vị độ dài, đơn vị dung tích hoàn toàn thực đầy tính cụ tượng và
quen thuộc của người quê: " Ví chăng nhớ có như tơ nhỉ/ Em thử quay xem
được mấy vòng/ Ví chăng nhớ có như vừng nhỉ/ Em thử lào xem được mấy
thưng", "Mẹ bảo mùa xuân đã cạn ngày"... Lối vòng vèo lấp lửng:
"Em nghe họ nói mong manh/ Hình như họ biết chúng mình... với
nhau". Lối ví von cụ tượng đầy bóng gió mà thâm thúy vô chừng: "Ai
làm cả gió đắt cau/ Mấy hôm sương muối cho giầu đổ non", "Tơ cô
óng chuốt mịn màng/ Sang xin một ít cho đàn có dây", "Thôn Đoài
thì nhớ thôn Đông/ Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?"... Vẻ đẹp của
tiếng Việt trong lời quê là thế, nó bình dị đến nôm na, nhưng nó cũng trong
sáng, sâu xa đến kinh ngạc. Nó chân mộc ngỡ thô sơ mà lại lung linh giàu thi
vị. Nắm được cái nghịch lý đó, mới có thể nắm được cái hồn của lời quê. Hãy đọc
một đoạn thơ này xem, tiếng Việt trong lời quê của Nguyễn Bính thực đã đến độ
trong vắt: "Từ ngày cô đi lấy chồng/ Gớm sao có một quãng đồng mà xa/
Bờ rào cây bưởi không hoa/ Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo/ Lợn không
nuôi, đặc ao bèo/ Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn/ Giếng thơi mưa ngập
nước tràn/ Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều". Mọi chữ ở đây đều là lời
quê, đều là những tiếng thuần nôm, thuần quê. Lối dùng cũng là lề lối chân
quê, tất tật đều là hương đồng gió nội. Từ cái cách biểu cảm (Gớm sao...), đến
lối dùng các hệ thống ngôn từ đối lập để cùng tạo ra một không khí cho khung
cảnh, nhất nhất đều rất quen thuộc, rất quê, nghĩa là rất giản đơn, mộc mạc,
nhưng mà chữ nào cũng có linh hồn, tất cả lại chứa được cái linh hồn của cảnh.
Để gợi ra sự trống vắng của cảnh, nỗi trống không của lòng, Nguyễn Bính thường
hay dùng cái có gợi cái không, cái thừa gợi cái thiếu, cái đầy gợi cái rỗng,
cái còn gợi cái mất. Ví như: "Em ở mình đây nhà trống trải/ Giăng vàng
đầy ngõ gió mênh mông", hay "Giăng đầy ngõ gió đầy thôn/ Anh về
quê cũ có buồn không anh?"... Nhưng ở đoạn thơ trên, tất cả dường như tụ
cả vào, đậm đặc, ấn tượng đến kỳ lạ. Người xưa nói: vắng con người thì có con
tạo. Không biết Nguyễn Bính có hấp thu điều ấy không khi viết đoạn thơ ấy, mà
thi sĩ đã gợi cái vắng mặt của con người, bằng những gì có mặt của con tạo.
Người đi rồi làm trống hoang cả cảnh, cảnh hoang hóa đã làm hoang liêu cô quạnh
cả chốn này. Đường thì xa, nhà thì vắng, quạnh nhất là vắng teo. Những từ mang
sắc thái phủ định chỉ cái vắng, cái không: không hoa, không nuôi, chẳng buồn
leo... sóng đôi với hệ thống những từ chỉ cái có, cái đầy: đặc ao bèo, mưa ngập,
nước tràn... nhất là câu "Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều" đã làm
cho không gian này đầy cả một nỗi trống không. Cái này càng đầy, cái kia càng
trống. Một người ra đi đã làm côi cút cả cảnh vật, đơn côi khắp cả không gian
lẫn thời gian. Những lời nôm na mà đầy ắp cảm xúc của chủ thể. Đến nỗi sau
bao nhiêu năm người đọc vẫn chưa hết tê tái trước nỗi trống không dâng lên từ
những lời quê mộc mạc đó.
Nhưng nói đến lời quê của Nguyễn Bính phải nói đến tài dùng
thành ngữ và tạo từ theo lối thành ngữ. Trong một vài tài liệu nghiên cứu văn
học dân gian, thành ngữ đã từng được xếp vào ô: "lời ăn tiếng nói của
dân gian". Tôi không bàn ở đây tên gọi của khái niệm cũng như tính lôgic
của nó trong hệ thống khái niệm kia, mà chỉ muốn khẳng định rằng: thành ngữ
thuộc về cái kho lời quê. Dùng thành ngữ có thể khiến lời thơ nặng tính ước lệ
dân gian, lời dễ bị mòn. Nhưng thành ngữ khi được dùng nhuần nhuyễn, bao giờ
nó cũng làm cho lời thơ trở nên mềm mại, thuần thục, thuận chèo mát mái, người
nghe rất dễ thông khi tiếp nhận. Bởi thành ngữ không chỉ là một ngữ liệu bình
thường. Trái lại nó là ngữ liệu đặc biệt. Trong đó kết tinh rất đậm nét mĩ cảm,
mĩ học của người quê. Khi được dùng, nó có sự cộng cảm, mau chóng truyền lan
những tín hiệu thông tin và thẩm mĩ theo những kênh quen thuộc trong tâm thức
dân ta. Người đọc nắm bắt lời thơ trong thành ngữ bằng con người văn hóa truyền
thống ăn sâu như một thứ gien văn hóa sẵn bao đời trong cõi sâu kín của hồn
mình vậy. Chỉ nói riêng thành ngữ số từ, có thể thấy lời thơ Nguyễn Bính chân
quê đến nhường nào. Bài Lỡ bước sang ngang chẳng hạn, hẳn là nó đã không đi
sâu được vào lòng người quê, người Việt đến thế, nếu câu chuyện lâm ly của
người chị lỡ dở ấy không cậy nhờ được vào vốn thành ngữ số từ nhuần nhuyễn đến
"dễ sợ" của thi sĩ: "Mẹ già một nắng hai sương/ Chị đi một bước
trăm đường xót xa... Vui cùng chị một vài giây cuối cùng... Một vai gánh vác
giang san/ Một vai nữa gánh muôn vàn nhớ thương... Cách mấy mươi con sông
sâu/ Và trăm ngàn vạn nhịp cầu chênh vênh... Tuổi son nhạt phấn phai đào/ Đầy
thuyền hận có biết bao nhiêu người... Một đi bảy nổi ba chìm/ Trăm cay nghìn
đắng con tim héo dần/ Dù em thương chị mười phần/ Cũng không ngăn nổi một lần
chị đi... Ba gian trống, một mảnh vườn xác xơ... Một lầm hai lỡ keo sơn... Chị
tôi khóc suốt một ngày một đêm", v.v...
Người nghệ sĩ ngôn từ chân chính nào cũng muốn làm giàu
ngôn ngữ của mình bằng việc nắm cho được cái thần, cái hồn của tiếng mẹ đẻ, nắm
cho được cái phép tinh luyện ngôn từ của cha ông. Nhưng điều này thật khó. Có
người nỗ lực cả đời vẫn chưa có được bao lăm. Nhà văn Tô Hoài có lần than rằng,
nhiều nhà văn không chú trọng luyện chữ nên không có chữ. Văn của họ có ý mà
không có chữ. Trong các nhà văn hiện đại có lẽ chỉ Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn
Thi, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa... là có chú trọng luyện chữ theo lề lối quê
một cách rõ rệt và có thành tựu nhất. Ở lối đi này, hẳn Nguyễn Bính luôn là một
tấm gương lớn. Nhờ học được lời quê mà thơ Nguyễn Bính mới mang được cái hồn
quê trong mỗi câu mỗi chữ, mới lưu được cái hồn quê trong vẻ đẹp của tiếng Việt
chúng ta.
Chú thích:
[1] Trong Thi nhân Việt nam 1932-1941, Tác giả có phê phán
những "nhà thông thái thời nay" khi họ xem thường thơ Nguyễn Bính,
rồi viết: "Họ có ngờ đâu đã bỏ rơi một điều mà ta không thể hiểu được bằng
lý trí, một điều quí vô ngần: hồn xưa của đất nước". (Tài liệu đã dẫn,
tr.344)
[2] Sau in trong Tạp chí Văn học, tháng 11 - 1994 [3] Đỗ Bình Trị, Văn học 10, Ban KHXH, Nxb Giáo dục, 1993,
tr.123. [4] Hoài Thanh, Từ thơ Đường đến Ca dao, Báo Văn nghệ,
26-4-974. [5] Tô Hoài, Lời giới thiệu, Tuyển tập Nguyễn Bính (Tài liệu
đã dẫn, tr.20) [6] Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, trong bài "Thơ mới và
sự đổi mới thi pháp thơ trữ tình Việt Nam" - Sách Nhìn lại một cuộc cách
mạng trong thi ca, Nxb Giáo dục, 1993, cho rằng: "Thơ mới đã căn bản cải
tạo lại thơ trữ tình tiếng Việt từ câu thơ "điệu ngâm" sang câu thơ
"điệu nói". (tr.165). [7] Nếu nhìn ở dạng chuẩn mực, thì một cặp lục bát khi phân
bố tiết tấu theo nhịp phổ biến là 2/2/2 - 2/2/2/2 thì sẽ có sự hòa phối tiết
tấu bằng trắc là: bằng/ trắc/ bằng - bằng/ trắc/ bằng/ bằng. Tỷ lệ giữa
bằng trắc là 5/2. Rõ ràng trong lục bát, thanh bằng hoàn toàn lấn át. [8] Cách gọi của Nguyễn Huy Thiệp có vẻ mù mờ, nhưng về mặt
ý tứ có thẻ hiểu được. Song, vận dụng nó để chỉ ra câu nào "trí
năng", câu nào "ngộ năng" thì lại không dễ gì thuyết phục. [9] Một so sánh nhỏ với câu lục bát trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du (thuộc điệu ngâm cổ điển): "Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền
ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ", có thể thấy thêm vẻ đẹp của câu thơ
Nguyễn Bính. Tôi không bàn chuyện hơn kém, mà chỉ phân biệt những nét riêng của
mỗi người. Cả hai vị đều hướng tới một cảnh khá gần gũi nhau là hình ảnh con
thuyền ngoài xa. Câu thơ Nguyễn Du trọng hình và ý nên đã tái hiện lại khá đầy
đủ một bức tranh. Chữ "buồn trông" gợi ra hình ảnh đôi mắt buồn
trông vời trời nước của Thúy Kiều (bấy giờ đang ngồi trước lầu Ngưng Bích).
Chữ "cửa bể" gợi ra một không gian, chữ "chiều hôm" gợi
ra một thời gian. Cả hai hợp lại thành một khung cảnh thật trống trải rợn ngợp.
Hình ảnh con thuyền hiện lên trực tiếp qua chữ "thuyền ai", rồi được
làm rõ hình hài hơn bằng hình ảnh cánh buồm với những sắc thái mô tả trực tiếp
"thấp thoáng", "xa xa". Cả cặp lục bát chữ nào cũng là
"chữ đúc" giàu nghĩa, không có sự lăp lại của ngôn từ, nó uyên súc.
Cảnh vật được vẽ theo lối trực tiếp bằng chất liệu của hình, của ý. Nó chứa đựng
nỗi hoang mang sâu thẳm của Thúy Kiều trước cái mênh mông vô định của cuộc đời.
Giờ đây, nàng hoàn toàn trơ trọi trước biển đời đầy sóng gió, chẳng tìm đâu
trong thế giới bất định kia một bám víu nào, một điểm tựa nào. Còn Nguyễn Bính lại tạo hình gián tiếp bằng giọng và lời.
Giọng điệu được hiện ra rất rõ qua ngữ điệu và nhịp điệu đặc biệt của hai câu
này. Cả hai câu có khuôn nhịp 3/3 - 3/3/ 2. Như vậy, bốn nhịp 3 nối tiếp nhau
tạo ra một cảm giác chuyển động. Điều này càng rõ hơn nhờ lối trùng điệp: sự
lặp lại của các vế câu. Trong câu lục: "Anh đi đó, anh về đâu?", vế
sau là sự lặp lại nguyên vẹn về số lượng (3/3), chủ từ (anh), chỉ khác về hướng
chuyển động (đi/về), về từ để trỏ (đó/ đâu), và khác về ngữ điệu: vế trước là
xác định việc anh đi là sự thực, đã nhổ neo rồi; vế sau: băn khoăn - nhổ neo
rồi đó nhưng sẽ về đâu? "đi" thì đã rõ, còn "về" thì mông
lung (ở một bài khác Nguyễn Bính có câu: "Ta đi nhưng biết về đâu chứ/
Nào biết về đâu kẻ ngược xuôi?". Đằng sau câu hỏi kia là cả một nỗi ái
ngại của kẻ lữ thứ thấy đời vô định, thấy mình bơ vơ). Nhưng đáng nói hơn là
hai vế ấy hô ứng nhau, tiếp nối nhau tạo ra một chuyển động của con thuyền.
Như vậy nhịp thơ góp phần gợi ra một hình động, một chuyển động. Câu bát thần
tình hơn. Cả câu viết theo lối lặp, lối điệp, mà vừa có phần điệp nguyên vẹn,
vừa có phần điệp giảm bớt: "Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm". Thủ pháp tạo hình và chuyển động của Nguyễn Du là dùng các
tính từ mô tả trực tiếp, hoàn toàn thuộc về thị giác, cụ thể là những từ láy
"thấp thoáng", "xa xa". Thủ pháp của Nguyễn Bính chủ yếu
dùng nhịp lục bát và lối điệp để tạo ra chuyển động của con thuyền đang ngày
một xa dần. Từ câu trên đến câu dưới, với bốn nhịp 3 kế tiếp, con thuyền từ
chỗ rời bến đến chỗ càng lúc càng xa dần, xa dần. Nguyễn Bính cũng gợi ra được
ánh mắt của kẻ trông vời nhưng không phải bằng hình ảnh trực tiếp "buồn
trông", mà gián tiếp qua ngữ điệu hỏi. Thủ pháp của Nguyễn Bính là phối
hợp ngắt nhịp (3/3 - 3/3/2) với lối điệp vế câu, và lối làm mất màu: ban đầu
còn thấy màu của cánh buồm nâu, cuối cùng chỉ còn nhận ra đó là cánh buồm
thôi, mà không còn nhìn rõ màu sắc của nó nữa. ấy là lúc con thuyền đã đi xa
hút tầm mắt. Con thuyền thì lênh đênh vô định, người đoái trông thì ái ngại
lo âu. Tóm lại, giọng điệu đã được Nguyễn Bính sử dụng như phương
tiện chủ yếu để triển khai và tạo hình trong câu thơ của mình. Vì thế, tạo cảm
xúc bằng giọng là đích chủ đạo của việc sáng tạo lời thơ. Câu thơ hoàn toàn
như một lời nói thường, đậm chất khẩu ngữ, mà độ hàm súc và tài hoa không hề
thua kém các bậc tiền nhân, nếu không nói là còn có những điểm độc đáo chưa
thấy ở người đi trước. [10] Tôi đã có dịp nói về thơ lục bát của những thế hệ sau,
nhất là của Nguyễn Duy, xin xem bài "Nguyễn Duy thi sĩ thảo dân", Tạp
chí Nhà văn số 2-2003.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét