Phong trào Duy Tân 3
HỢP THƯƠNG VÀ «QUỐC THƯƠNG»
THƯƠNG HỘI là bộ mặt rất nổi của Duy Tân. Có thể
nói cái gì lớn lao còn lại của Duy Tân chính là ngành Thương mà Công Ty Liên
Thành do Phan châu Trinh đề xướng và Nguyễn trọng Lợi sáng lập hiện nay vẫn tồn
tại, còn phát triển là một chứng cớ hùng hồn. Sở dĩ Công Ty Liên Thành ở Phan
Thiết còn là nhờ một may mắn mà những hội thương khác rất lừng lẫy ở Quảng Nam,
Phú Lâm Diên Phong, Hội An gọi chung là hợp thương ; Huế : hội buôn
(?) Nghệ An : Triều dương tan rã là vì sau 1908 đều bị thực dân diệt hết, (xin
xem sau).
Phong trào thương thực sự là của Duy Tân hay Quang
phục Hội (Đông du) ? Đến nay đôi người cho là khó biết chắc chắn. Vì các tài liệu
để lại không thật rõ ràng. Mà không rõ ràng là vì có một số nhân vật của Duy
Tân cũng là của Đông Du và ngược lại. Hoặc giả một số nhân vật thuần tuý Duy
Tân, nhưng cũng muốn ám trợ Đông Du, cho đó cũng là một phương diện của Duy
Tân. Nhưng chắc chắn là cả hai phe cùng ủng hộ triệt để việc mở hợp thương vì,
như đã nói trên, đó là con đường đúng nhất để ngành sản xuất của Quảng Nam phát
triển và dành lại phần nào quyền lợi trong tay ngoại quốc :
Lợi quyền đã nắm trong tay,
Có ngày tiến hoá, có ngày văn minh.
Theo tài liệu của phe Đông Du thì sở dĩ có thương hội vì Nguyễn
Thành bảo Cường Để, khi tông tích hoàng thân này sắp bại lộ : «Kế trù khoản của
tôi đã lỡ, mà Ngài lại phải lật đật đi ngay thế này, ra ngoài không có tiền, thật
khó cho Ngài song xin Ngài cứ yên tâm, chúng tôi sẽ hết sức trù tiền gởi ra
sau. Tôi đã nghĩ được một kế trù khoản khác rồi ; lần này tôi tính nói sự thật
Ngài đi Nhật mà cổ động người giúp tiền, nhưng giả làm chiêu cổ phần lập thương
hội để che mắt thiên hạ. Sự Ngài đi Nhật phen này có sức hiệu triệu mạnh hơn sự
Ngài giả sang Pháp hồi trước. Vậy không lo chi người giúp». (Cuộc đời Cách
Mạng Cường Để trang 21) 1
Thế thì cái thương hội của Nguyễn Hàm chỉ là giả, chỉ là lập
một hư danh để thâu tiền bạc thật, chứ đâu phải là một thực tế hoạt động
? Ở trang 23 của sách ấy, Cường Để cho biết thêm lý do thất bại của chính
«Thương hội ma» ấy : «Cách ít lâu, tin tức trong nước lại mang đến thêm cho bỉ
nhân một điều thất vọng nữa. Số là sau khi bỉ nhân xuất dương, Nguyễn Hàm 2 và các đồng chí ở trong nước tiến hành
ngay kế hoạch lập «Thương hội». Mới trong vòng hai tháng « thương hội »
đã lập được 72 (bảy mươi hai) nơi, người nhận vào cổ phần rất nhiều. Song đến
khi sắp thu tiền cổ phần thì bỗng sinh sự ngăn trở. Sự ngăn trở ấy là lời diễn
thuyết của ông Phan châu Trinh. Ông ở Nhật quan sát mấy tuần lễ rồi về nước đi
diễn thuyết khắp nơi, đại khái nói sự trông cậy vào sự viện trợ của Nhật là một
hy vọng viển vông, khiến những người vì nhiệt tâm mong đợi cái kết quả sự vận động
của bỉ nhân tại Nhật mà gia nhập « Thương hội » của bọn Nguyễn Hàm
đâm ra chán ngán. Rồi chẳng ai đóng cổ phần cho « Thương hội » nữa. Đồng
thời, sự lập « Thương hội » cũng bị Pháp khám phá, thế là
« thương hội » tan».
Vậy, thương hội nói đây là thương hội nào mà lại bị Pháp khám
phá rồi bị tan ? Và theo các trang sau thì việc lập thương hội bị tan
vào khoảng năm 1906, 1907 do dó Phan bội Châu bỏ vấn đề khí giới và mới nảy ra
vấn đề Đông Du : kế hoạch bồi dưỡng nhân tài, tuyên truyền du học sinh sang học
ở Nhật.
Còn các hội thương tôi còn nắm tài liệu miệng hoặc viết thì vẫn
hoạt động đến năm 1908 và cùng tan vỡ với cuộc xin xâu năm ấy. Chính những hội
buôn ở Huế, ở Nghệ An (Triều Dương), Phan Thiết (Liên Thành) mà tôi biết cũng đều
do bút tích của Phan châu Trinh hoặc Huỳnh thúc Kháng để lại. Phan châu Trinh
trong Trung Kỳ Dân biến 3 làm tôi vô cùng ngạc nhiên – có thể gọi sửng
sốt – khi ông viết : « Hội buôn ở Quảng Nam thì thân sĩ lập năm
1905 mở tại phố Hội An, gần bên tòa sứ. Phần hùn có công sứ và quan Nam, tỉnh
cho chữ làm bằng » (trang 19). Tài liệu này khá rõ ràng. Nhưng tôi có
một nghi vấn : có đúng 1905 ? Nếu đúng như thế thì lúc bấy giờ ai đã
đứng ra để mời Công sứ Pháp góp phần hùn dù chỉ là tượng trưng, cốt để công
khai hóa và hợp thức hóa ? Do đó, quan Nam mới bắt chước theo, quan tỉnh mới
mạnh dạn cho chữ phê chấp nhận để làm bằng rồi mới được đông đảo nhà giàu
bỏ vốn hợp tác. Tôi ngờ năm ấy là năm 1906 như Huỳnh thúc Kháng ghi lại trong tự
truyện và các tài liệu khác… (xem sau). Người đứng ra mời chỉ có thể là Phan
châu Trinh mà thôi, sau khi đã được cố đạo M… ở nhà thờ Trà Kiệu giới thiệu với
công sứ Hội An. Phan châu Trinh đã đứng ra tổ chức, chắc chắn ông chỉ muốn
thanh thiên bạch nhật hoạt động, chớ không muốn có những âm mưu nào khác khi
chưa đủ vậy đủ cánh. Nhất định ông không hợp tác với Nguyễn Thành để lập Hội buôn
giúp Cường Để dù ông có thể không phản đối việc ám trợ Đông Du. Trong Tự Truyện,
Huỳnh thúc Kháng cũng không nhìn thấy có chỗ nào là hội thương bị gián đoạn :
- 1906, lập thương cuộc tại Phố (Hội An – Faifoo)
- 1908, Ngày trung tuần tháng 2, tôi cùng các bạn lo việc kêu
gọi Công Ty lập thương hội ở Phố Hội An.
Ta nên chú ý : 1906 lập thương cuộc là cửa hàng để buôn bán,
có tính cách nhỏ, phạm vi hẹp. Còn Công Ty lập thương hội là tổ chức rất lớn,
phạm vi rộng rãi, vốn liếng nhiều và là một bước tiến khá xa đối với ngành
thương mãi rất lạc hậu của ta thời đó, thời dân Trung Hoa tuyệt đối thao túng
thị trường. Mà cái Công ty Huỳnh thúc Kháng gia nhập thì chắc không phải do
sáng kiến của Nguyễn Thành. Vì từ trước tới sau, Huỳnh thúc Kháng chỉ là người
thuần túy Duy Tân. Cho tới sau này, khi Phan bội Châu về nước, đồng nhân đề nghị
lập đảng và báo thì Huỳnh thúc Kháng chỉ nhận tờ báo, « lãnh đạm » đối
với việc lập đảng rồi đảng cũng không thành.
Vả chăng, vượt lên trên hết các luận cứ ấy, luận cứ này còn vững
hơn : Cường Để gọi Phan châu Trinh là nhà đại cách mạng song giữ chủ nghĩa Cải
Lương, tức là đặt hẳn ông ở cương vị khác, nếu không phải đối lập với mình. Vậy
chắc các thương hội do Nguyễn Thành lập ra để ủng hộ Cường Để, Phan châu Trinh
không biết, không dự. Vì nếu ông biết, ông dự thì lẽ nào ông lại phá hoại
nó đến đỗi Pháp khám phá ra được.
Vậy ta phải kết luận như thế nào ?
1) Nguyễn Thành có lập thương hội, một loại thương hội hữu
danh vô thực và đã bị tan sau các cuộc diễn thuyết của Phan châu Trinh.
2) Nguyễn Thành đã báo cáo không đúng sự thật với Cường
Để. Dễ gì trong hai tháng mà lập nổi 72 thương hội (ở đâu mà nhiều và mau thế
?). Vì thương hội chỉ có thể lập ở những thị trấn có những điều kiện thuận lợi
sau khi thu hút được nhân tâm. Mà Nguyễn Thành chỉ coi từ Quảng Nam vào Nam, đảng
phải hoạt động bí mật, lẽ đâu phát triển mau đến thế ?
3) Hoặc giả Nguyễn Thành chỉ báo cáo cốt để cho Cường Để
khỏi thắc mắc với ông, vì ông không lập nổi thương hội để tranh với các hợp
thương của phái Duy Tân đang bành trướng mạnh mẽ và hợp với ước vọng của các
nhà tư sản bản xứ ?
Dù sao, tôi cũng có thể nói chắc điều này : Phong trào Duy
Tân có chủ trương lập thương hội gọi là Hợp thương và đã hoạt động
tích cực cho tới khi vãn cuộc 1908, không kể Công ty Liên Thành nay còn hoạt động.
Về mục đích lập hợp thương tôi chưa rõ tiền lời, ngoài việc đem xây dựng trường
học, phát triển thương nghiệp (buôn ra đến Bắc trong danh từ chung là Quốc
Thương), nông nghiệp, còn có những sự giúp đỡ ngầm cho Đông Du như thế nào ? Cá
nhân giúp hay đoàn thể giúp ? Đoàn thể Duy Tân hay những nhà Quang Phục Hội lẫn
lộn trong Duy Tân giúp, hay giúp chỉ vì cảm tình, óc yêu trọng những nhà chính
trị chứ không phải như đảng viên lo việc cho đảng ?
Tôi thấy chắc chắn từ 1906 hợp thương đã có, đã mạnh và được
Trần quí Cáp hết sức cổ võ trong :
BÀI CA KHUYÊN HIỆP THƯƠNG
Dữ quân ca nhất khúc,
Thỉnh quân vị ngã trắc nhĩ thính 4
Ới ai ơi, lo lấy chuyện mình.
Đừng rấp rĩnh mà chuyên hình nô lệ !
Trời đất đã sinh ta trong cuộc thế
Đủ tay chân, thân thể cũng như người
Nổi chiều lòn cho đến thế hỡi ai ôi !
Mắt xem cũng hổ ngươi cùng thiên hạ.
Đâu vật đó là họ hàng ta cả,
Máu mủ ai thì thấm dạ ai.
Miễn thương nhau mà giúp lấy tư tài
Mở đường lối cùng vài phân chuyện đở.
Đem tâm huyết nhiễm chăng dòng máu đỏ,
Bỏ bạc tiền ra đó (để) buôn chung !
Người có của, kẻ có công
Xem nhau lại cùng đem lòng thân ái,
Hiệp bãi cát gây nên non Thái
Hiệp ngàn dòng nên cái biển Đông.
Mới gọi rằng hào kiệt, anh hùng,
Miễn đừng phụ mấy người trong gió bụi.
Sá chi kẻ «bạc đôi phong, tiền mấy chuỗi»
Giàu giữ của như con mọi núi
Lúc hết rồi cũng phải tay không.
Chẳng thà ta bỏ ra chung,
Liều như đánh bạc với ông trời già !
Tính nên chuyện ấy là phần đỡ.
Để rồi coi ai dở, ai hay ?
Miễn lợi quyền đã nắm trong tay.
Buồm buôn nọ cũng có ngày thuận tiện.
Đừng ngồi ngóng mà trông những chuyện :
Đã xấu xa mà thêm miệng chúng cười.
Cũng tai, cũng mắt, cũng người.
°
Nói đến thương hội thì phải nhắc đến một nhân vật lỗi lạc :
Phan thúc Duyên. Ông biệt hiệu My Sanh, quán làng Phong Thử (Điện Bàn). Đỗ cử
nhân xong, ông về nằm nhà. Khi có Phong Trào Duy Tân, ông nhiệt thành tán trợ.
Ngoài ra còn ông Cử Lê bá Trinh sinh năm 1875, quán làng Hải Châu, huyện Hòa
Vang. Ông này, tôi có nhắc đến trong tiểu sử Trần quí Cáp. Hoạt động của ông có
lẽ nặng về Đông Du hơn Duy Tân. Về thương hội còn một kỳ lão cũng nổi tiếng
không thua Phan thúc Duyên là Bang kỳ Lam, ông tên Nguyễn Toản, quán ở Kỳ Lam,
Điện Bàn, nguyên làm Bang tá cho Pháp rồi không hiểu sao lại trở thành một nhân
vật trọng yếu của Hợp thương. Phan thúc Duyên và Lê bá Trinh đều bị
án rất nặng, bị đày ra Côn Lôn sau vụ 1908 vì vai trò các ông trong hàng ngũ
lãnh đạo Phong trào.
Hợp Thương Phong Thử do Phan thúc Duyên chủ trương ở gần sông
Bàu Lớn, thuộc làng Phong Thử. Cơ sở gồm có một nhà lầu, một nhà ngang dài và
hai nhà nhỏ nấu cơm, ăn cơm và ngủ. Nhà lầu rất bề thế, có thể đứng vững qua thời
gian lâu dài là một mục tiêu trăm mắt nhìn vào để tin tưởng công cuộc làm ăn chắc
chắn, có nhiều triển vọng lớn. Trong thời ấy, nhà cửa của nhà giàu còn lụp xụp
mà đã tính tới chuyện dùng một tòa nhà «nguy nga» trong công cuộc buôn bán là một
bước tiến kỳ lạ, không mấy ai dám tưởng tượng ở một vùng quê xứ Quảng. Tại nhà
lầu, có phòng tiếp khách, chỗ làm việc, chỗ chứa hàng hóa. Nhà ngang thì dành
riêng chất hàng hóa. Hàng hóa đây chỉ là những thổ sản thường buôn trong tỉnh
do những ghe bầu vượt biển đi buôn các tỉnh khác hay mang xuống cho thương cuộc
ở Hội An bán, cố dụng ý ngầm tranh thương với người Trung Hoa : những vải, sợi,
đường, heo, dầu phụng, đậu chất ngổn ngang đến bên ngoài gợi cho dân chúng sự
làm ăn phát đạt, tổ chức quy củ, có tương lai vững chắc chứ không «lùi xùi»
theo cổ truyền. Địa điểm này rất thuận lợi cho việc vận tải bằng ghe lớn, nên rất
mau phát đạt. Công việc buôn bán tuy do những ông tiến sĩ, cử nhân điều khiển,
nhưng vốn là con nhà nòi nên họ không quá vụng về, bỡ ngỡ. Hơn nữa, họ biết
dùng người giúp việc nên sự phát triển không khó khăn. Số nhân viên dùng để lo
sổ sách, cất hàng hóa kể cả lao công khuân vác lên đến 40 người. Thiết tưởng chỉ
con số ấy cũng đủ cho chúng ta thấy sự buôn bán tấp nập tới đâu ! Các nhân viên
và ban giám đốc đều ăn uống chung ở trù xá cùng các giáo sư dạy hai
trường kế cận. Hợp Thương, Diên Phong biến thành đầu não cho các
thương cuộc trong tỉnh Thương cuộc Hội An thời kỳ này cũng đóng vai trò rất
quan trọng. Vì nơi đây không chỉ giao thiệp với vùng Quảng Nam – ngoài chịu ảnh
hưởng Trần quí Cáp mà cả với Quảng Nam – trong (nay Quảng Tín) chịu ảnh hưởng
Huỳnh thúc Kháng. Thương cuộc này do ông Bang kỳ Lam đặc trách, tọa lạc ở đường
Chùa Cầu. Đây là một căn nhà thuê, khá rộng, phía sau có gác (sau không hiểu vì
cớ gì biến thành trụ sở, sở Mật thám Pháp). Người quản lý tên là Mai Tảo làng
Thanh Hà (cạnh Hội An), vì có chân học sinh nên gọi là Học Tảo, khoảng hai mươi
lăm tuổi. Số nhân viên cũng khá đông, không kể ba lao công. Thương cuộc bán đủ
loại sỉ và lẻ : vải, gạo, đường, quế, tơ, là những hàng chính bán cho Trung Hoa
; cau khô, đường mắt tre, dầu phụng bán sỉ cho các ghe ở tứ phương về mua đem
bán lại cho các chợ ở thôn quê. Vì là một công cuộc doanh thương ở thành phố lớn
(thời ấy, Hội An còn rất phồn thịnh) nên các tổ chức có phép tắc, hàng hóa xếp
đặt, phân loại có ngăn nắp. Nhiều hàng hóa đã bắt chước theo lối trình bày mới
như nước mắm Nam Ô đã biết vô chai, dán nhãn. Trên các món hàng hóa đều có thẻ
tre, biên giá nhất định. Nhân viên tiếp khách lịch sự, mỗi người biết dùng sổ
tay bỏ túi để ghi chép hàng xuất nhập. Hàng nhập được đưa vào các kho A.B.C.
khác nhau. Nhân viên kiểm soát ghi nhận cẩn thận. Có thể nói đây là một thương
cuộc có qui củ bậc nhất của ta thời ấy. Sau này không chỉ bán hàng hóa, thương
cuộc còn bán tân thư, bản đồ, sách vở, bút mực… Thương cuộc hóa thành chỗ tụ hội
của các sĩ phu hâm mộ Duy Tân. Đồng bào đến mua hàng giùm thì gọi người
bán hàng bằng thày và có người sẵn sàng không nhận tiền thối lui hoặc
mua giá cao hơn giá đã định để «các thầy lấy tiền mua thuốc cho anh em hút
chơi ».
Khi thương nghiệp tiến mạnh thì công nghệ, nông nghiệp… cũng
tiến theo. Đây là thời gian gây nhiều hứng khởi nhất cho các nhà sản xuất.
Ngành buôn không chỉ thu hẹp trong tỉnh mà còn mở rộng ra tới
Hà Nội. Công cuộc này khởi sự từ khoảng năm 1906, nhưng không rõ trước hay sau
khi ông cử Dương bá Trạc cầm đầu một phái đoàn từ Bắc vào thăm Quảng Nam theo lời
mời của Trần quí Cáp. Thời ấy vẫn có nhiều người từ Quảng Nam ra Bắc theo chân
các ông Phan sào Nam, Phan châu Trinh. Chắc bạn đọc chưa quên Trần quí Cáp đã
giao cho ông Hồ thanh Vân đem cái bài Chí thành thông thánh v.v… ra
cho ông Tú Nguyễn hải Thần 5 dùng làm tài liệu tuyên truyền. Phái đoàn
do ông Dương bá Trạc – một nhân sĩ có tiếng trong công cuộc Duy Tân và hoạt động
chính trị ở Bắc – có mục đích thăm các cơ sở Duy Tân, rút những kinh nghiệm cho
một công cuộc khác mà ta có thể đoán là Đông Kinh Nghĩa Thục sau này. Phái đoàn
ban đầu ở nhà ông Cử Mai Dị ở Nông Sơn, sau xuống lưu trú tại nhà ông Học Châu
người Kỳ Lam. Nhà nầy cũng có các lớp dạy chữ quốc ngữ. Sở dĩ chọn nhà nầy vì
chủ nhân rất giàu, việc tiếp đãi được tươm tất đã đành mà còn lý do giản dị :
nhà có nhiều gian bằng ngói, có vườn rộng, rất tiện tránh trớ khi có động tĩnh.
Phái đoàn đi thăm các nơi trong tỉnh, chú trọng nhất là khu thương mãi, giáo dục Diên
Phong và chắc chắn họ đã rút được nhiều kinh nghiệm quí báu… Sau hơn
tháng, phái đoàn mới lên đường trở lại ra Bắc.
Trên, tôi có nói không rõ việc buôn với miền Bắc có trước hay
sau vụ thăm viếng này. Vì người kể lại chỉ dự công cuộc buôn bán khi theo chân
phái đoàn ra Hà Nội. Người ấy là ông Võ Hoán, hiệu Phước Long, hiện nay còn sống,
làm thầy thuốc, một nhân sĩ có tiếng trong tỉnh Quảng Nam. Lúc bấy giờ ông mười
sáu tuổi vì lanh lợi nên được cho theo phái đoàn cùng ông thầy Thêm. Ông Thêm
người Miếu Bông, gần Đà Nẵng, học trò Trần cao Vân nên biết bói quẻ. Công cuộc
buôn này, ông Võ Hoán gọi là Quốc Thương (cho đến nay 1969 ông vẫn
kính cẩn gọi bằng danh từ ấy, ông tâm sự :
«Chúng tôi mua thao Mã Châu, đũi bông chữ thọ mà người Hà nội
rất chuộng, vải La Thọ… Ấy, sở dĩ không mua vải Bảo An vì hồi ấy ngành dệt Bảo
An đã lên cao đến cái độ… giả dối phần nào :
Tiếng đồn con gái Bảo An,
Sớm mua vải sợi, tối đan mành mành.
Mành mành rất sưa. Gái Bảo An đặc biệt là có thể dệt mỗi ngày
một cây vải trong khi các phụ nữ làng khác dệt những đôi ba ngày mới xong.
Nhưng họ đã khéo đan sưa, mà thước tấc cũng lại không đủ ; chỉ có 31 thước ta.
Thành ra mua vải La Thọ dài 33 thước, về xé ngay hai thước là lời đã chắc rồi.
Sau này khi đã buôn thông thạo, tôi chế biến mua thêm những thứ Hà Nội ưa thích
và mua của Hà Nội những thứ mà Nghệ An, Quảng Nam cần dùng : như mua the của Hà
Nội một cây hai áo chỉ có bốn đồng về bán tám đồng, thuốc trà mười sáu bánh 2 đồng
về bán 4 đồng, lời gấp đôi v.v…
Vì là Quốc Thương chớ không phải chuyện tư cho nên
kiếm lời được đồng nào, chúng tôi chắt bóp quí báu đồng ấy. Chúng tôi không
tiêu vào đó một xu, ăn uống xài phí gì lấy tiền nhà ra, chứ không đụng vào tiền
của nước».
Ấy là tình cảm của những «đảng viên» Duy Tân dù Duy Tân không
phải đảng mà chỉ là Phong trào tự do. Sức mạnh của Phong Trào rõ ràng không phải
căn cứ trên vật chất mà là tinh thần.
Ra Hà Nội, theo lời ông Hoán, lần đầu ông còn gặp nhiều người.
Ngoài một số nhân vật ông Nguyễn hiến Lê nhắc tên trong Đông Kinh Nghĩa Thục 6 còn mấy vị sau đây : Hoàng Giáp Nguyễn
đình Căn, người có lẽ đã đưa Dương bá Trạc vào Quảng Nam theo lời mời của Trần
quí Cáp, Nguyễn hữu Dụng (không khoa bảng nhưng giỏi có tiếng), Nguyễn hữu Kha
(Thiều Chữu) ở chùa Quán Sứ Hà Đông. Ngoài số lời của Quốc Thương, ông còn được
các vị ở Hà Nội quyên giúp một số bạc 2.000$ (hai ngàn) đem về để góp phần vào
các cơ sở mới tạo dựng.
Sau đó, công việc buôn bán cứ phát triển đều đều.
Về công cuộc Quốc Thương này, trong Đông Kinh Nghĩa Thục tuy
không nói tới trực tiếp, nhưng ta cũng có thể thấy gián tiếp. Ở trang 86, tác
giả có kể lại giai thoại mặc đồ tây của hai chí sĩ ở Hà Nội : «Thế là hai
cụ thắng bộ Âu phục đúng «mốt Tây Hồ» nghĩa là một cái áo bành tô và một chiếc
quần bằng vải nội hóa Quảng Nam nhuộm đen, thắt cái cà vạt cũng bằng vải đen,
đi đôi giày «dôn»mỏ vịt và đội cái nón «cát» trắng rồi khoác tay nhau y như
Tây, bước ra cửa, mỗi người phì phèo một điếu thuốc lá «quả đất».
Qua giai thoại ấy, ta thấy kể từ 1907 ở Hà Nội còn có «nhập cảng»
thêm những vải để may áo quần Tây bằng nội hóa dệt ở Quảng Nam nữa. Loại vải
này, ngoài ngành «Quốc Thương» buôn, còn có mục đích tuyên truyền, quảng bá, chắc
cũng chả con buôn nào thèm buôn vì nào có bán được bao nhiêu. Nhưng dù ít, ta
cũng nên nhớ là cái ít của một phong trào khởi phát đang lên thường quan hệ hơn
cái nhiều của một thoái trào. Ở đây, giai thoại này còn nhắc ta ghi nhận
là thương nghiệp Duy Tân Quảng Nam quả có ra tới Hà Nội.
Thật ra, đến nay tôi cũng không có cơ hội gặp những nhân vật
nào khác để truy cứu cho rõ ràng, kỹ lưỡng hơn về ngành buôn lớn lao của Hợp
Thương. Công cuộc này lớn mạnh nhất không phải do đường bộ mà là đường ghe. Nó
cũng nằm trong tay những người nay đã trên dưới trăm tuổi và họ đã chết cả rồi.
Thật tình, tôi muốn biết rõ những sự giao thiệp, trao đổi mua bán quan trọng của
Hợp Thương Quảng Nam với Huế, với Triều Dương Nghệ An, với Công Ty Liên Thành
Phan Thiết với Hà Nội ra sao 7 . Về sau này, khoảng 1925 trở đi, tôi biết
có những nhân vật Duy Tân Quảng Nam vẫn còn tiếp xúc chặt chẽ với Liên Thành,
Thương hội duy nhất còn sống sót sau cơn bão lửa. Sở dĩ như thế là vì dân Phan
Thiết chưa kịp «cắt tóc xin xâu». Và Liên Thành cũng bành trướng ra ở các tỉnh
miền trung Trung Việt, các nhân vật cách mạng rất được đắc dụng. Rồi mãi sau
này, khoảng năm 1940 khi tôi đã ở Sàigòn, các bạn tôi hễ là con cháu các ông
Duy Tân vào xin việc, tôi thấy vẫn còn được chấp nhận dễ dàng với điều kiện khá
rộng rãi 8 … mặc dù lúc bấy giờ Liên Thành đã đi vào
con đường thuần túy thương mãi tư bản.
NÔNG HỘI ĐẦU TIÊN
Nông nghiệp là nghề chính của ta. Phong Trào Duy Tân không có
mục đích trở lại lối làm ruộng lạc hậu với những mảnh ruộng nhỏ bé. Các nhà chủ
xướng muốn làm một điều gì mới hơn để tập trung nhiều năng lực, khai phá nhiều
đất ruộng hoang hay bị bỏ hoang, trồng trọt những loại ngũ cốc có thể xuất cảng
được. Ngành nông này, bao quát các loại trồng trọt, ở Quảng Nam-ngoài không có
nguồn lợi nào thật lớn cho Phong trào vì đất đai đã được canh tác từ nhiều thế
kỷ. Chỉ vùng Quảng Nam-trong (Quảng Tín) có thể nói là nguồn lợi vô tận với quế,
chè, tiêu… Vì thế, đối với vùng ấy, Duy Tân quả thật là một nhu cầu thiết
yếu để các chủ vườn có cơ hội bán quế đúng với giá trị của nó. Vì từ xưa nay,
quế hoang hay quế vườn hoàn toàn nằm trong tay «các chú». Họ đưa trước một số
tiền nhỏ, mua non cả vườn hay một phần vườn. Thế là chủ vườn phải chịu nhận vì
chả biết bán cho người Việt Nam nào. Người Việt có mua rồi cũng chỉ biết bán
cho Tàu chứ bán cho ai ? Mọi công cuộc giao thương quốc tế, Trung Hoa nắm độc
quyền cả rồi ! Ấy thế là những khu vườn quế đồ sộ của núi rừng Quảng Nam biến lần
thành những món tiền lớn để các ông con trời mang về Hồng Kông tiêu xài hay về
Tàu mua nhà, tậu ruộng. Bởi vậy, công cuộc lập thương cuộc hay Công Ty để hùn
những vốn lớn cho vay tránh nạn mua non, trữ quế chờ có giá mới bán, tìm thị
trường ngoại quốc v.v… đều là ước vọng chính xác, sâu xa nhất mà ngành quế đang
đòi hỏi. Sự thật quế có thể cung cấp những số lời chừng nào ? Giá trị của lâm sản
ấy đến nay còn có ý nghĩa gì không ? Tôi chỉ cần nhắc sự kiện này : khi ông Ngô
Đình Cẩn lên nắm quyền thao túng miền Trung, lập Đảng Cần Lao thì một trong vài
kế hoạch lớn của ông để làm kinh tài là : bán gạo cho miền Bắc và độc quyền
buôn quế. Nhờ độc quyền (thật ra, có vài chủ khác nữa nhưng rất yếu kém), ông
trở nên giàu lớn, có nhiều đô la. Thời ấy chưa có nhiều viện trợ Mỹ và ở miền
Trung, có lẽ ngoài quế cũng chả còn môn xuất cảng nào có khả năng thâu ngoại tệ
được. Công cuộc của ông Cẩn đã làm các chủ vườn rên siết trong nhiều năm trời… 9 cho nên công cuộc lập Công Ty chung và
riêng cho ngành Quế là một đường lối lãnh đạo rất đúng để bảo đảm những quyền lợi
chánh đáng của một ngành trồng trọt rất có tương lai của Quảng Nam-trong. Do lẽ
thấy trước triển vọng quá tốt đẹp ấy mà các chủ vườn đua nhau sửa sang, mở mang
vườn Quế, chung nhau tìm thêm đất để trồng thêm quế, chè, tiêu. Chính ông Phan
châu Trinh cũng góp phần vào công cuộc khuếch trương vườn quế bằng cách hùn vốn
với các nhà kinh doanh khác 10 . Các «hội nông trồng quế» theo Huỳnh
thúc Kháng đã dẫn trên kia, đều được thành lập từ năm 1906 (Tự truyện trang
28). Phong trào mở vườn chè, lập vườn quế lên cao cho đến độ đề đốc Trần Tuệ,
người được phái coi đường sá lên mỏ vàng Bồng Miêu, đã ngứa ngáy không
chịu được, cũng cưỡng bức dân để chiếm một khu vườn, bắt dân tới làm ruộng
công, khiến dân phẫn nộ, hợp với những phẫn uất khác, gây nên cuộc bức tử viên
đề đốc của Triều đình năm 1908.
°
Ở Quảng-Nam-ngoài, khu vực Trần quí Cáp không có những nguồn
lợi lớn lao như thế mà chỉ trông vào ngũ cốc. Trong Tiểu sử Trần quí Cáp, ông
Trần hiến Sách có ghi : « Tháng tư năm Bính Ngọ 1906, tiên sinh (TQC)
cùng Bang Kỳ Lam Nguyễn Tán, các ông cử Phan thúc Duyên, Lê bá Trinh, Hồ thanh
Vân và tôi lên nguồn núi Dùi Chiêng tìm Sở rẫy Cờ Vĩ để khẩn hoang. Thấy đất
linh láng màu mỡ tốt, bèn về mộ phu lên làm. Lúc ấy dân chưa nhận thức, người sợ
nước độc, kẻ sợ xa nhà nên không ai chịu đi. Tiên sinh phải ra thuê một sở ruộng
làng Cẩm Nê chỗ giáp giới huyện Hòa Vang với phủ Điện Bàn, diện tích ước hai
mươi mẫu để lập nông hội. Tiên sinh đứng ra tổ chức và trông coi sự làm ruộng ấy,
mục đích để lấy hoa lợi tiếp tế cho anh em du học » (trang 13)
Tuy nói dân không chịu đi làm, nhưng theo lời ông Nguyễn xuân
Thái (nguyên quản lý báo Tiếng Dân) thì cũng đã canh tác được một thời gian, có
lẽ với những người nhà của các nhân sĩ nói trên.
Theo ông Thái thì : Cờ Vĩ là một khu vực thuộc Sé (Tý, Sé,
nơi năm 1904, các ông Phan châu Trinh, Trần quí Cáp đi tuyên truyền cổ động Duy
Tân). Ai có đi ngược sông Thu Bồn, qua các khu vực Phường Rạnh, Dùi Chiêng rồi
mới tới Tý, Sé, xa hơn khu vực đóng Tân tỉnh của Nguyễn duy Hiệu thời Cần Vương
một buổi đường. Nơi đó, gần như hoang địa, đất rất tốt, lại bằng phẳng, thuận lợi
cho việc gieo vải, trồng trọt. Đất đó trồng bắp thì có lẽ ít nơi nào sánh kịp.
Ta cũng nên nhớ vùng ấy có tiếng là khu vực sản xuất bắp. Phương tiện chuyên chở
thì chỉ có gánh. Dân phu phải gánh hoa lợi từ nhàn điền ra đến khe Sé rồi mới
xuống ghe. Công việc có thể tiến hành tốt đẹp, nhưng khả năng chịu đựng của sĩ
phu chỉ có hạn, dù họ đều là con nhà nông và ít nhiều đều có tham gia canh tác.
Huống chi ban đêm còn nghe tiếng hổ rống, lại thêm gió núi vượt qua khoảng rộng
lạnh lẽo tê tái, thêm cảnh cô độc giữa chỗ hoang địa làm sao khỏi ngã lòng.
Nhưng kinh khủng nhất là bệnh sốt rét. Ai có ở những vùng này cũng đều phải biết
qua những cơn run rẫy, vật vã hãi hùng đến đâu, mới hiểu tại sao cuối cùng họ
phải bị đánh bật ra khỏi khu vực thí nghiệm đầu tiên khắc nghiệt ấy, nhường đất
đai lại cho sơn lam, chướng khí, hùm beo…
Xem qua đó, cái công của những nhà Duy Tân lúc đầu thật lớn
lao, sự quả cảm thật đáng kính phục trong cái buổi chưa ai dám nghĩ tới
chứ đừng nói dám làm, ở vào một vùng mà đến dân quê cũng chê, chứ
đừng nói tới kẻ khá giả. Vậy mà sĩ phu dám lăn vào thí nghiệm…
Thất bại rồi, họ rút về Cẩm Nê (Yến Nê). Khu vực này ở giáp
giới huyện Hòa Vang, và Phủ Điện Bàn, ở giữa các vùng Hà Thanh, Quang Châu,
Dương Sơn, cách đập An Trạch hiện nay 3 cây số. Lúc ấy, đập còn gọi là Cầu sắt
có thể quay được như kiểu cầu quay dùng để cho ghe thuyền lên xuống.
Nông hội Yến Nê chừng 20 mẫu ta. Đất này do lý hương tự ý cắt cho một phần ; phần
khác do những người có tâm huyết «cúng» vào. Người có công nhiều ban đầu là ông
Học Băng ở Quang Châu (ông gia liệt sĩ Thái Phiên), ông có chân học sanh, giỏi,
giàu có lớn, nhưng hơi nhát gan. Tuy nhiên, ông luôn luôn xung phong bỏ những
món tiền rất lớn để giúp cho bất kỳ công tác nào của Phong Trào Duy Tân. Công
cuộc quản trị nhàn điền này ngoài Học Băng còn Tú Diêu. Nhưng Tú Diêu thật thà,
dễ bị lợi dụng nên phải nhờ ông Hương Bung, anh ruột, thực sự quản trị. Ông này
có khả năng nên công việc chạy đều. Ở nông hội này trồng sắn, khoai, bắp dọc
theo bờ sông và khuếch trương một loại cây mới về sau rất phổ biến khắp miền
Trung, được mệnh danh miền thùy dương. Loại cây dương liễu ấy thật ra chỉ dùng
để chụm bếp. Nhưng miền Trung sở dĩ hay trồng vì có nhiều bờ biển, bờ sông
không biết làm gì, vì làm gì cũng không được, không cung cấp được đủ phân bón,
nên đành phải trồng thứ cây nên thơ nhưng chả mấy lợi lộc đó. Chính Phong Trào
Duy Tân, về phương diện tiền phong này, đáng được khuyên một điểm son. Nói tóm
lại, Yến Nê tuy nước hiền nhưng chẳng phải là một vú sữa tốt.
Thời kỳ ở Yến Nê, Trần quí Cáp có làm một bài ca trù để cho
những người làm ruộng ngâm nga những khi nhàn rỗi.
KHUYẾN NÔNG
Phú quí nhược tùng lưu thủy khứ,
Công danh giai thị đẳng phù vân 11
Úy thôi thôi, phủi trớt ánh hồng trần,
Ngày thong thả dạo chơi miền Nam mẫu
Tớ nọ một đôi thằng, ruộng kia năm bảy mẫu
Mặc dầu ta nông phố vẫn phong lưu.
Xuân rồi hạ, hạ rồi thu
Mía đương tơ, dâu đứng cái, lúa con gái, bắp chưng chàn,
Lấy ba giá nhuốm chơi màu thanh tú.
Việc này hỏi có ai hơn rứa hử ?
Về mụ nhà khuyên điểm lấy ông bay.
Hoách chân dựa lấy chuôi cày
Vỗ tay hát khúc Nam Sơn, ừ cũng thú !
Nói chi nữa đến ngày hoa vụ,
Gà lộn, cu quay, xôi vò, rượu hủ,
Vui cùng nhau ăn cơm mới, nói chuyện xưa !
Khi Lịch Sơn, lúc Tân giả cày bừa
Nghĩ cho hết biết bao nhiêu mùi kinh tế.
Việc xử thế phải sạch câu hành chí.
Muốn làm chi những thú mây mưa.
Kìa kìa, gió sớm trăng trưa.
So với bài Hiệp Thương, ta thấy bài nầy tác giả làm với những
rung động rất chân thành, bằng tâm hồn hơn bằng lý trí. Ngoài ra, so với kiến
thức nông thôn của Nguyễn Khuyến, ta thấy Trần quí Cáp không thua thi sĩ Yên Đổ
ít ra về phương diện vạn vật học :
Mía đường tơ, dâu đứng cái, lúa con gái, bắp
chưng chàn. Và biết bao nhiêu những chi tiết của cuộc sống nông thôn
nào lấy ba giá, hoách chân, dựa lấy chuôi cày, gà lộn, cu quay,
xôi vò, rượu hủ, ăn cơm mới… Nhưng thơ Nguyễn Khuyến đi từ cuộc đời của
nông dân nghèo khổ, an phận, trái lại, bài ca trên đây của một ông chủ ruộng
phong lưu, một nhà chí sĩ đang nuôi lý tưởng đợi chờ. Vậy, tác dụng của bài này
không phải khuyến khích những quần chúng cần lao nghèo mà đối tượng là các chủ
điền đang hăng say trong việc phát triển ruộng đất, khai khẩn đất đai. Sự thật,
nòng cốt chủ yếu của Phong Trào Duy Tân chính là đẳng cấp này chứ không phải đại
lực lượng cần lao. Tinh thần bài ca thật đúng là một người say sưa với cái thú
nhàn của đời sống nông thôn, say sưa một cách giản dị như khi đặt những câu hỏi
: «…có ai hơn nữa hử ?»
Hay khi tự hào :
Về mụ nhà khuyên điểm lấy ông bay 12
Hoách chân dựa lấy chuôi cày.
Có lẽ từ xưa đến nay đối với thi ca ta về nông thôn, vừa vui
với nghề, vừa tin tưởng ở tương lai, không quen an phận vì biết tương lai chính
tự mình tạo ra, vừa yêu sự nhàn hạ chân thành mà vẫn không quên nuôi chí bay nhảy
(Lịch Sơn, Tân giả) thì bài này có ẩn một niềm hân hoan chưa từng thấy (ngoại
trừ trong ca dao). Ngay câu kết cũng bày ra một khung cảnh đặc biệt của đồng
quê :
Kìa kìa, gió sớm, trăng trưa.
°
Ngoài Yến Nê, Phong trào còn khai phá được những nhàn điền
sau đây :
Tháp Mỹ Sơn. – Nông hội này khá lớn, bao gồm một số đất trên bốn
năm chục mẫu đã khai phá. Ở đây cũng trồng nhiều nhất là sắn khoai. Những nơi
thấp đã cấy được lúa. Sở dĩ ở đây có nhiều đất là vì khu vực ấy (ở vùng Tháp Mỹ
Sơn, Duy Xuyên) gần rừng có nhiều hoang địa.
Bữu Sơn. – Nông hội này ở Đại Lộc, gần quận hiện nay
chút ít, phía trên cầu Chìm. Số ruộng khai phá không biết bao nhiêu mẫu.
Đây có mấy nông hội lớn, có danh tiếng được các bậc học thức
khai thác, quản trị. Còn những nông hội nhỏ hơn thì không được rõ. Kể ra, về thời
đó ở Trung Việt mà tìm ra được những khu vực rộng những bốn năm chục mẫu để lập
nhàn điền thì phải gọi là một sự cố gắng đáng kể của Phong trào.
Nhưng chắc chắn là chỉ có kết quả lớn trong việc tuyên truyền
một quan niệm mới về trọng nông thực sự, khuyến nông thực sự, mở cho nhà nông
thấy một tương lai đẹp đẽ thực sự chứ không làm trò hề như vua, quan vẫn bận đại
trào đi cày đi cấy trong các lễ hạ điền… Còn kết quả về vật chất thì chắc chả
có gì đáng kể. Nhưng đó chỉ là ở vùng chịu ảnh hưởng Trần quí Cáp, còn vùng chịu
ảnh hưởng Huỳnh thúc Kháng thì tất cả sự thành công của Phong trào nằm trong
chính ngành trồng trọt : chè và quế như ta đã biết và kể từ đây sự phong phú mỗi
ngày một lên thang dù Phong trào bị tận diệt.
--------------------------------
Tráng Liệt xuất bản 1957. Viết tắt : Cuộc Đời Cường Để. |
|
Tức Nguyễn Thành (Tiểu La). |
|
Trung Kỳ Dân biến thỉ mạt ký (sđd). |
|
Cùng bạn ca một bài. Mời bạn nghiêng tai ta nói. |
|
Sau làm Phó Chủ tịch chính phủ Liên hiệp ở Hà nội ngày
02-3-1946 – Hai mươi năm qua – Đoàn Thêm. NAM CHI T.T. năm 1966. |
|
Đông Kinh Nghĩa Thục, Nguyễn hiến Lê Lá Bối tái bản 1968. |
|
Theo Phan châu Trinh trong Trung Kỳ Dân biến, Hà Nội cũng
đã thành lập hội buôn có đóng cổ phần. |
|
Ông Phạm phú Hưu, giáo sư, cho tôi biết là ông Nguyễn ái Quốc
(H.C.Minh) xuất ngoại là nhờ bảy đồng bạc của công ty Liên Thành giúp. |
|
Khi tôi sửa lại bản thảo này thì các nhật báo đăng tên một
tướng lãnh bị khốn đốn cũng chỉ vì chuyên chở quế ở Quảng Ngãi. |
|
Thuật theo lời bà Lê Ấm, con gái ông Phan châu Trinh. |
|
Ý nói giàu sang qua như nước trôi, công danh là mây nổi, chả
có gì bền vững. |
|
Ông của tụi bay, tự trỏ mình, tiếng miền Trung. |
HỌC ĐỂ BIẾT
VIỆC HỌC là theo Chánh giáo, được đưa lên hàng đầu theo quan niệm của Nguyễn lộ Trạch. Phong trào Duy Tân có hai thời kỳ phát triển việc học rất dễ kiểm nhận.
Từ năm 1903, các nhà lãnh đạo đọc những tài liệu của Nguyễn lộ Trạch và Tân Thư. Thời kỳ này, việc học được xúc tiến rất mạnh và hăng. Học được tới đâu, các vị này lại đem giới thiệu, truyền bá trong đám bạn bè. Tân thư trở thành một nhu cầu cấp bách. Nhưng họ không học theo lối nói đâu cúi đầu nghe đó kiểu Khổng viết mà bắt đầu có những cuộc thảo luận sôi nổi. Người hăng hái nhất vẫn là Phan châu Trinh. Các sĩ phu cũng bắt đầu tấn công cổ nhân, do đó gây nên một sự tách biệt mới mẻ giữa đám bảo thủ và tân nhân vật.
Thời đó, cổ nhân gần như là Chân lý mà cựu học, bảo
thủ cho là không ai có quyền đụng đến. Một giai thoại sau đây có thể chứng minh
điều ấy !
Một hôm ở Huế, tại nhà Đào nguyên Phổ, người Bắc, đậu Thám
Hoa (đã có nói trên kia). Phan châu Trinh cùng anh em bàn văn Âu dương Tu và Tô
đông Pha, hai đại văn hào đời Tống.
Vừa lúc ấy, có Ngự Sử (là chức đặt ra để can gián nhà vua) họ
Huỳnh đến. Cuộc bàn luận đang say. Huỳnh Ngự Sử bảo : «Các anh không phải Âu,
Tô, sao dám bàn văn Âu, Tô ?»
Câu hỏi thật đúng giọng giáo điều. Phan châu Trinh lúc ấy chỉ
là một chức quan nhỏ, thừa biện bộ Lễ, tiến lên chào và trả lời viên Ngự Sử :
«Cứ như lời quan lớn nói đó thì chức Ngự Sử triều đình cũng là hư thiết đó
thôi».
Trời ! Chức ngự sử lập ra không thực tế. Thằng cha này hỗn
và phạm thượng quá cỡ. Nhưng Ngự Sử Huỳnh cũng cố nén sự tức giận, hỏi lại :
«Anh nói cái gì vậy ?»
Phan châu Trinh ung dung đáp : «Không phải Thiên Tử, không
nói việc Thiên Tử, không phải Tể Tướng, không dám bàn việc Tể Tướng thì chức Ngự
Sử không phải hư thiết hay sao». 1
Cả mọi người nghe lối lập luận chắc như đinh đóng ấy cùng cười
ồ cả lên. Ngự Sử ta có hơi thẹn.
Giai thoại này kể theo Huỳnh thúc Kháng vừa cho ta thấy cái lối
biện bác như điện giật của Phan châu Trinh vừa cho thấy óc nệ cổ của lớp sĩ phu
thời ấy cao đến mức độ nào. Giả sử không phải Phan châu Trinh có mặt ở đấy thì
nó nghiễm nhiên trở thành Chân Lý, ít ra là bề ngoài. Vì điên gì mà đi cãi lại
một quan Ngự Sử ! Và biết bao nhiêu nơi bình luận khác không có những Phan châu
Trinh mà đầy rẫy những Huỳnh Ngự Sử ? Đừng nói là học thuyết cổ nhân ! Cả đến
chữ, cái thứ dấu hiệu vô nghĩa đó, thế mà đến thời tôi lớn lên, nho học đã
tàn, mà rủi rớt xuống đất tờ nào là cha mẹ bắt con phải cúi xuống, lượm lên. Và
độc giả trẻ biết cái gì xảy ra không ? Chúng tôi phải kính cẩn đội lên đầu trước
khi trả nó về vị trí cũ. Ở thôn quê hiện nay, đôi nơi vẫn còn cái tục trọng chữ thánh
hiền, người ta dùng bất kỳ thứ giấy quốc ngữ, Tây, Mỹ để biến thành giấy vệ
sinh, nhưng giấy có chữ Tàu thì tuyệt nhiên không bao giờ !
Ấy thế mà ngay từ thời ấy, các lãnh tụ Duy Tân phải chống lại
cả một định kiến, một tập tục đã đi sâu vào văn hóa thì công việc khó khăn đến
đâu. Phải nói là cái công phu của các tiền bối đã bỏ ra thật quá nhiều, chưa
nói để đi vào nội dung Duy Tân, chỉ nói một việc bớt tin đạo lý thánh hiền là
Chân Lý hiển nhiên ! Ấy là nói việc xảy ra trên một địa bàn thuận lợi, chứ nếu
phải xảy ra ở những nơi bịt bùng mọi mặt như Huế thì còn vất vả tới đâu !
Vượt được thời kỳ 1903-1905, còn nặng về việc tuyên truyền, cổ
động, đến năm 1906 thì các tổ chức học đường xem như đã kiện toàn. Những trường
lớn nhất trong tỉnh được lập.
Được như thế là nhờ mấy yếu tố sau đây :
- Tại Đà Nẵng lúc bấy giờ đã có Trường Pháp Việt. Nhiều người
học tiếng Pháp và tiếng Việt kha khá (đối với thời ấy) có thể giúp việc giảng dạy.
- Tại Đà Nẵng đã có Hội Alliance Française, những người như
phán Văn, phán Tồn từ trong Nam ra làm việc đã thông thạo tiếng Pháp và Quốc Ngữ,
có thể cố vấn cho một số người quen biết muốn học hỏi.
- Có một nghị định của Chính quyền bắt lập xã học.
Nắm được các điều kiện thuận lợi ấy, các nhà nho Duy Tân liền
hô hào, cổ động, bành trướng việc học chữ Quốc Ngữ. Nhưng không phải chính quyền
ra lệnh lập xã học mà dân chúng chịu học đâu ! Họ nhất định chống lại thứ chữ
Quốc Ngữ phản nghịch đó. Còn những nhà Duy Tân không phải họ xu phụ Tây đâu ! Họ
muốn hợp pháp hóa một âm mưu của họ để dễ tung hoành. Vì việc học và
dạy học chữ quốc ngữ trước đó chỉ lén lút và bất hợp pháp. Bây giờ thì các nhà
Duy Tân mặc sức khai thác hiệu lực của lệnh kia.
Cũng thời kỳ này còn xảy ra một việc rủi ro, có thể dìm phong
trào vào một tình trạng bỉ ổi ! Trần quí Cáp được lệnh bổ giáo thọ ở Thăng Bình
và ông nhận lời. Trong tiểu sử ông, Trần huỳnh Sách ghi : Năm Bính Ngọ (1906)
đương ở sở Nông hội Cẩm Nê, tiên sinh đắc chỉ bổ chức giáo thọ phủ Thăng Bình
thuộc tỉnh nhà. «Tiên sinh mới đi» 2 và
trong bài thơ khóc Trần quí Cáp, ông Huỳnh cũng viết «Làm quan vì mẹ há vì tiền».
Nhưng có lẽ phía sau cái bằng chứng chắc nịch này, ta còn đoán có những lý do
khác đã khiến ông Trần quí Cáp phải nhận lãnh chức giáo thọ. Lúc bấy giờ phong
trào đã lên cao, nhiều quan lại các nơi đã bắt đầu chống đối bằng cách gây ra vụ
án thế phát. Thế phát là cúp tóc. Những ai theo phong trào thế nào cũng cắt
ngắn mái tóc. Bọn quan lại thấy ai có cái đầu ấy thường giam giữ, đánh đập.
Ngoài ra chúng còn theo dõi mọi hành động của các sĩ phu để báo cáo với Tây… Mà
ông Trần quí Cáp như chúng ta biết, không phải thuần túy Duy Tân như Huỳnh thúc
Kháng : ông vẫn có những liên lạc trước kia với Nguyễn Thành và các hội nông, hội
thương do ông lập một cách mau chóng, qui mô rộng lớn đều bị dòm ngó. Vậy, phải
chăng việc chui vào quan trường còn là cách tránh những cặp mắt cú vọ của bọn
quan lại và mật thám ?
Nhưng trong cái dở đó – một lãnh tụ bỏ đi làm quan, dù
chỉ là quan giáo sư ! – Lại thâu được lắm cái hay như được điều khiển
bằng chiếc đũa thần ! Ở địa vị giáo thọ, chuyên ăn lót, ăn lễ của bọn học trò
thi, ông đã làm một cuộc cách mạng giáo dục ! Tiểu sử Trần quí Cáp ghi : «Đến
nơi (Thăng Bình) tiên sinh mở lớp Tây học ngay trong trường giáo, rước thày về
dạy chữ Pháp và chữ Quốc ngữ, học trò xa gần đến học có hơn đôi trăm người.
Tiên sinh lại thường vào trong dân gian để diễn thuyết, cực lực bài xích lối học
khoa cử và đề xướng tân học. Bọn cựu học thấy ít la nhiều nên xem tiên sinh như
đinh trước mắt, các nhà cầm quyền lại xem như kẻ thù địch.»
Trong tỉnh, trường học mở khắp nơi, như các trường Diên
Phong, Phước Bình, Phú Lâm, Quảng Phước là những trường lớn, hàng tháng số học
trò dẫn về hội hạch tại trường giáo, do đó, tiên sinh lại có dịp khuyến khích
(Tiểu sử TQC trang 14).
Vậy thì cái việc đi làm quan của Trần quí Cáp đáng lẽ chỉ là
một sự phản bội, đầu hàng hoá thành một cuộc đắc thắng của Phong Trào Duy Tân
mà nếu ông đứng ở ngoài thì chưa chắc đã có sự thuận lợi ấy. Ta thấy cái can đảm
phi thường của ông là biến ngôi trường của chính quyền, của lối học khoa cử cổ
lỗ thành ngôi trường lớn của Duy Tân với sĩ số thật lớn so với thời ấy của một
trường ở một phủ : hơn hai trăm người. Trong buổi đầu tiên, đó là một con
số ngoài ước vọng. Vì ngay như Đông Kinh Nghĩa Thục sau này tại Hà Nội, nơi tập
trung những người ham học mà theo Nguyễn hiến Lê thì cũng chỉ trên 500 học sinh
thôi ! Như thế, ta có thể ước lượng dư luận của tỉnh xôn xao tới đâu. Sau đó,
cũng lấy tư cách giáo thọ đi hô hào việc học, ông đã đến các làng, mời các thân
hào, nhân sĩ lại đình để cổ động cho tân học, mở trường dạy học quốc ngữ, chữ
Pháp : Chuông tự lập vang đình diễn thuyết 3
Vậy mục đích của việc diễn thuyết này không phải chỉ vì tân học
mà vì nền tự lập của quốc dân. Có tân học sẽ phục vụ cho việc thực hiện tự lập
dễ dàng hơn. Những buổi diễn thuyết của Phan châu Trinh và ông giáo thọ Thăng
Bình đầy nhiệt huyết đã gây những xúc động trong hàng ngũ thân hào, nhân sĩ rất
mạnh. Họ bị lôi cuốn bởi những lời biện luận chặt chẽ, hùng hồn hay chân thành
thân mật, họ tự động đứng lên, kẻ góp của, người góp công, lấy đất học điền của
xã cho thuê rồi dựng lên những ngôi trường Duy Tân trong các xóm làng cổ lỗ, mời
thầy về dạy quốc ngữ, chữ Tây.
Cũng riêng năm 1906 ở Quảng Nam ngoài có hai ngôi Trường lớn
được thành lập : Diên Phong rồi sau đó Phước Bình. Ở Quảng Nam trong có trường
Phú Lâm của Lê Cơ, không kể trường Thăng Bình của Trần quí Cáp.
Trường Diên Phong gây một tiếng vang rộng lớn hơn cả vì trước
hết nó không phải là trường của chính quyền như Thăng Bình mà của tư nhân. Nó lại
được dựng trên một khu vực lúc ấy cũng đang khét tiếng vì Thương Hội Diên Phong
cũng là thương hội lớn nhất của tỉnh thành lập tại Phong Thử, Phủ Điện Bàn qui
mô to lớn, chắc chắn là toàn quốc lúc ấy chưa có thương hội nào lớn hơn. Giáo
sư của trường thì ngoài Trần quí Cáp còn có ông cử nhân Phan thúc Duyên (hay Diện),
Mai Dị, Phan thành Tài. Ông Phan thúc Duyên chúng ta đã gặp ở phần thương hội
vì ông là nhà kinh doanh có tiếng hơn là giáo sư giỏi. Ở đây, ta cần biết qua
ông Mai Dị, Phan thành Tài.
Mai Dị người Nông Sơn, Điện Bàn, đậu cử nhân, rất có tiếng
trong hàng sĩ phu (con tú tài Mai Luyện), Ông Phan châu Trinh vẫn thường bảo :
«Mai Dị và Phan Khôi là cặp Tiến sĩ tương lai của Quảng Nam». Nhắc điều ấy, cốt
để cho thấy rõ là lớp thanh niên ưu tú nhất đều nghiêng theo Phong trào Duy
Tân. Mai Dị tính tình khẳng khái, can đảm. Sau này hai lần bị bắt tại Hà Nội,
vì ông là nhân viên liên lạc, đại diện cho phái Duy Tân Quảng Nam ; một lần bị
bắt vì vụ chống thuế 1908, lần khác về vụ Chính Biến vua Duy Tân, do Trần cao
Vân và Thái Phiên khởi xướng. Năm 1908 ông có làm bài tập Kiều chửi Tổng Đốc Quảng
Nam Hồ đắc Trung (sau này Trung nhờ vụ chống thuế mà thăng Thượng thơ bộ Học !)
rồi về sau, có gởi cho Nguyễn bá Trác một bức thư chửi rủa thậm tệ, được nhiều
người truyền tụng. Ông bị tù tất cả hai lần sau khi bị bắt chính tại Hà nội hai
lần : lần chống thuế 3 năm, lần 1916 (vua Duy Tân) cũng 3 năm. Về vụ sau ai
cũng cho là án quá nhẹ, so với các bạn đồng chí của ông vì các hịch đều do ông
thảo. Thời kỳ Phong trào Duy Tân, ông được nổi tiếng nhiều nhất là nhờ một sứ mệnh
mà Phan châu Trinh giao phó cho ông cùng tú tài Phan Khôi : Mang bản Đầu Pháp
chính phủ thư ra Hà Nội cho ông Babut dịch ra tiếng Pháp đưa lên toàn quyền
Đông Dương, Babut là chủ bút báo Đăng cố, ở trong hội nhân quyền của Pháp.
Giáo sư thứ hai là ông Phan thành Tài. Ông sinh năm 1869 làng
Bảo An (Điện Bàn, Quảng Nam) lúc trẻ học chữ Hán với cụ huấn Lê Cung, cha nhà
văn Sở Cuồng Lê Dư (sau này là biên tập viên xuất sắc tạp chí Nam Phong), đồng
bạn với Phan Khôi. Ông được học chữ Pháp tại Đà Nẵng và là một người hết sức
nhiệt thành với tân học. Về sau, trong vụ vua Duy Tân, ông đóng vai trò tích cực
bên cạnh Trần cao Vân, Thái Phiên, quan yếu trong việc thống lĩnh quân đội. Lực
lượng của ông đáng lẽ chiếm được tỉnh Quảng Nam là tỉnh căn cứ của vụ vua Duy
Tân, nhưng vì đợi mãi không thấy hiệu lửa trên đèo Hải Vân đốt lên cho biết là
Huế đã khởi sự nên ông cho rút lui. Đạo quân của ông đồng phục áo vải rằn, quân
số đông đảo, trang bị không kém, với phụ lực quân mang những phương tiện leo
thành túc trực sẵn sàng đã tự tan biến khi bình minh chưa ló dạng. Hình ảnh tướng
quân Phan thành Tài trên lưng ngựa trong cái đêm quyết định ấy là hình ảnh tượng
trưng cho sự kiêu hùng của dân tộc, cũng biến mất. Ông trốn lên vùng núi rừng.
Nhưng về sau, quân Pháp và Nam đến chiếm làng Bảo An, doạ nếu không về đầu thú
sẽ làm cỏ cả làng nên ông vì thương dân phải trở về để rồi sau đó bị xử tử. Có
người tặng ông cùng Thái Phiên một bài thi :
Không đem Tây học làm nô lệ Tây 4
Sự nghiệp không thành, đành chịu đứt đầu
Trong nước, phường học mới đen như kiến
Đêm tự hỏi lòng có xấu hổ không ?
(Khẳng bả Tây văn khứ tác nô,
Bất thành cam tự đoạn đầu lô ;
Quốc Trung Tây học nhân như tức,
Thanh dạ môn tâm quí tử vô ?).
Diên Phong gồm hai trường : một ngôi ở ngay tại Hội Thương,
phía sau ngôi nhà dài dùng để buôn bán, tất cả đều mới cất bằng gạch ngói ;
ngôi thứ hai ở chùa (gần chợ Phong thử cũ). Tổng số học sinh ban I và II cũng
trên dưới hai trăm người. Ngoài việc giảng dạy, trường vẫn thường tổ chức những
buổi diễn thuyết có hội thảo để các bậc khoa cử tới dự.
Các phương tiện, dụng cụ không có gì đáng kể. Nhưng đặc biệt
là trường đã biết dùng bảng đen phấn trắng : đó là một cải cách quan trọng vì
ngày xưa, ông thầy chỉ chép bài thẳng vào vở, hoặc học trò xem sách mà chép lại.
Đặc điểm của Diên Phong là thật sự Duy Tân, vì không có sự liên hệ với chính
quyền như trường Thăng Bình. Nhà trường tự định liệu các sách học, các môn hát
và thể dục.
Về sách thì chưa có một chương trình rõ ràng. Gặp sách nào
hay thì đem ra dạy, gặp bài thơ nào khoái chí thì đem ra giảng. Toán thì dạy
các phép : cộng, trừ, nhân, chia, tính đố, sau này mới có sách của Trần văn
Thông ở Bắc gửi vào.
Về các mặt tư tưởng, khoa học, địa lý, sử thì dạy bằng các
sách chữ Hán của tác giả Việt hay Trung Hoa. Các cuốn sau đây rất thông dụng :
1) «Giáo khoa» của Tàu (mở đầu bằng câu Thiên địa anh
khí chung vi nhân, có vẽ hình chim, cá…)
2) Bác vật chí : Sách do Phạm phú Thứ đề tựa và ấn hành,
dạy về các môn khoa học như sấm, chớp, điện lực, xe lửa v.v…
3) Dinh hoàn chí lược : một quyển địa lý tiếng tăm của
Trung hoa đã truyền sang Nhật Bản, Việt Nam trước đó khá lâu 5 .
Chính nhờ quyển đó mà nhiều nước Á châu biết được địa lý (và ít sử) thế giới.
4) Đại Nam nhất thống chí : Địa lý, kinh tế, xã hội Việt
Nam.
5) Quảng Nam địa dư chí : Địa lý tỉnh Quảng Nam.
6) Việt sử cảnh : Thời Đinh, Lê, Trần, Lý của Hoàng cao
Khải (có lẽ khoảng 1908 mới học)
7) Cách ngôn liên bích, Trích cẩm v.v…
Ở ban II và ban của người lớn có giảng những sách của Khang hữu
Vi, Lương khải Siêu, thuyết Dân Quyền. Tư tưởng này sẽ làm căn bản cho việc chọn
giáo sư, chọn sách, giảng giải. Các giáo sư cũng đem ra để hội thảo trong những
ngày có cuộc tập họp rộng rãi sĩ phu.
Như trên, ta thấy việc học hoàn toàn chú trọng về thực dụng mặc
dầu thời ấy chưa có những lý thuyết cao xa gì về thực dụng. Đó là chưa kể các
trường ứng dụng nguyên tắc thả học thả canh là vừa làm ruộng vừa học.
Học sinh sẽ được học vào những mùa rất thuận lợi cho việc canh tác ruộng đất,
nghỉ vào những thời kỳ mà mùa màng cần họ có mặt để trông coi gặt hái. Nguyên tắc
này áp dụng từ hồi học chữ Hán chứ không phải mới mẻ gì. Ở điểm này, ta cũng
nên phục các nhà Duy Tân. Dù họ đã biết Tây có lối nghỉ hè rất thuận lợi, hợp
thời tiết, nhưng họ không áp dụng. Vì lối nghỉ hè ấy chỉ có thể áp dụng ở những
quốc gia có trình độ sản xuất cao hoặc ở thành thị. Ở một quốc gia nông nghiệp
lạc hậu thì nếu cứng rắn đến mùa hè phải nghỉ tất học sinh phần lớn sẽ bỏ bê
nông nghiệp nếu không lơ là việc học, điều nào cũng có hại cho đường tiến thủ.
Phương pháp này, thời kháng chiến cũng dùng lại, gọi là nghỉ mùa. Có
nhiều trường Duy Tân áp dụng cao độ nguyên tắc thả học thả canh tùy
theo trường hợp, hoàn cảnh địa phương nên mỗi tuần chỉ dạy học đôi ba ngày vào
những ngày mùa.
Về việc hát thì chưa có bài hát có soạn nhạc như lối Tứ đại cảnh,
Hành vân ở Huế. Phần nhiều, cứ đọc lớn, ngâm nga những bài ca ái quốc, ca Duy
Tân sau giờ học chiều. Tiếp theo đó là giờ thể dục ; giữa buổi tập, vào lúc nghỉ
cũng có hát. Vậy hát không phải chỉ để giải trí mà còn để phấn khích tinh thần
ái quốc của học sinh.
Về thể dục, các trường Duy Tân cũng đều rất chú trọng. Nhưng
họ cũng chưa biết phương pháp nào để theo. Nơi thì giáo sư bắt học sinh tập nhảy
qua ghế, bàn, nơi thì học miếng võ ta, nơi thì học lóm những động tác thể dục
Tây Phương. Ở trường Phú Lâm của Lê cơ còn bắt học sinh sắm dù để thay cho súng
rồi lúc trườn lên bắn, lúc lui về thủ, lúc nghỉ thì chụm cả ba cây dù như chống
ba khẩu súng vậy.
Dẫu còn hết sức ấu trĩ, nhưng tổng chi, việc học của phe Duy
Tân cũng chú trọng đúng cái gọi là giáo dục toàn diện mà cho đến nay 1969,
chúng ta vẫn chưa thực hiện được ở Miền Nam.
Tại sao gọi giáo dục ? Vì nhà trường cốt ý đào tạo những con
người có tư tưởng, theo chánh giáo (dân quyền) lấy yêu nước làm động cơ, lấy
khai trí trị sinh tức là mở mang trí não và đời sống vật chất của dân làm mục
đích. Giáo dục vừa có lý thuyết vừa có thực hành, quan trọng hơn nữa là biết gắn
liền, gắn chặt vào đời sống nông nghiệp của quảng đại quần chúng nên nền giáo dục
ấy vừa thực tiễn vừa muốn gây sự đồng tiến. Gọi là toàn diện vì không chỉ lo
đào tạo trí thức, nhà trường còn đạo tạo tính khí, nhân cách, lý tưởng còn chú
trọng việc luyện tập sức khỏe. Vượt lên trên một bậc, Trần quí Cáp còn dám gây
dựng một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa học viên ở các trường mới lạ mà đến
nay, chúng ta chưa nghe thấy ở đâu có tổ chức. Mỗi lần khảo hạch, ngày rằm, mồng
một thì học trò tụ họp lại, trường này dẫn sang trường kia theo một thời khóa
biểu luân chuyển để học sinh làm bài thi chung với nhau. Do đó, họ dễ quen biết
nhau, thi đua, trao đổi kinh nghiệm và cũng là cách du ngoạn, học địa lý, hiểu
biết dân tình thực tế nhất. Nhờ những cuộc tập hợp tứ phương về một trường học
mà khu vực có trường học bỗng thành ra ngày hội hè, gây thông cảm giữa học trò
và nhân dân do sự tiếp xúc thân mật. Có thể nói đó là những cuộc tuyên truyền rộng
lớn cho Phong Trào Duy Tân và cũng là một cải cách lớn trong giáo dục của ta.
Nhờ sự hăng say của sĩ phu nên sáng kiến đẻ ra mãi. Sáng kiến
gần như vô tận. Chúng ta thử nghĩ, từ năm 1905 đến 1906, từ con số không mà bây
giờ đã có bao nhiêu nông hội, thương hội, trường học với bấy nhiêu điều phải tự
đặt ra, bày ra, mô phỏng, cóp nhặt vì trước đó chưa hề có hoặc có một cách cổ lỗ
thì đủ thấy tinh thần sĩ phu ta phong phú và quả quyết tới đâu !
Sau trường Diên Phong và trường Phú Lâm của Lê Cơ, một trường
ở vùng đồng bằng gần Hội An, Đà Nẵng, một trường ở vùng Cận Sơn (gần làng Phan
châu Trinh), có một số trường nhỏ khác xuất hiện. Sở dĩ tôi không nói nhiều về
Trường Phú Lâm là vì tôi muốn dành các công trình của ông Lê Cơ để trình bày
chung dưới sắc thái của một thảo dã anh hùng, không giống với công trình các
ông Phan thành Tài, Mai Dị. Số trường nhỏ lớn đến năm 1908, theo Phan châu
Trinh đã lên đến 40 cái. Tôi không đi xa vào những khu vực hẻo lánh, chỉ trình
bày một số trường mà nhiều người biết trong vòng ảnh hưởng của trường Diên
Phong :
1) Trường Bảo An : tại làng Bảo An, làng có nhiều nhân vật
lừng lẫy trong nước và có tiếng con gái tương đối đẹp trong tỉnh.
2) Trường Phú Bông : Giáo sư là Trương Tuấn, người
Minh Hương lên ở đó đã lâu. Sau vụ xin sưu năm 1908, ông Tuấn theo đường thượng
trốn qua Xiêm rồi chết luôn bên ấy.
Một giáo sư khác nổi tiếng là Nguyễn tăng Côn, làm việc Tây,
gọi là Thông Cào (Huỳnh thúc Kháng gọi lầm là Cao, trong một đoạn sau). Sau vụ
1908 ông bị đày đi Lao Bão bảy năm. Mãn hạn về, vào Phan Rang làm ăn rồi chết ở
đó.
Trường Phú Bông ở xã Phú Bông, do ông Tú Trương ngọc Phiên
sáng lập. Trường có ba lớp, Trương Tuấn dạy Quốc Ngữ, ông Cào dạy Pháp Văn. Bạn
đọc cũng nên để ý là trong cuộc vận động Duy Tân cũng như Đông Du của ta, có
nhiều người Trung Hoa, Minh Hương giúp sức đắc lực và oanh liệt nhất là ông
Châu thượng Văn mà ta sẽ gặp ở sau.
3) Trường Quảng Huế : Do Nguyễn Hòa dạy, ở chợ Quảng
Huế này cũng có một người Trung Hoa tên Sáu, buôn ở Sở tơ, tướng như Tây, thường
liên lạc với người Trung Hoa, hô hào giúp đỡ công cuộc Duy Tân.
4) Trường La Châu : Làng Cẩm Toại, do Lâm Nhỉ
dạy (Lâm là Rừng, gồm có hai chữ Mộc, anh em đùa bỏ bớt một chữ Mộc nên gọi Mộc
Nhỉ). Trường lập trong vườn ông Mười.
5) Trường Lạc Thành : Do Nguyễn Cự dạy. Ông Cự
người xã Cẩm Văn, cũng có đi buôn Quốc Thương (buôn ra Bắc các năm
1906-1907-1908, xem mục Thương hội). Về sau cũng bị chém.
6) Trường Quảng Phước : Ở Phước Kiều, do giáo
sư Nguyễn Phiên, người nhà giòng dạy. Đây có lẽ là một trường Công giáo đầu
tiên nước ta hợp tác với các trường ngoại đạo trong một lý tưởng chung. Đây
cũng là một đặc điểm của Phong Trào Duy Tân, đánh dấu một bước rẽ lớn trên đối
tượng tranh đấu : tranh đấu với thực dân, phong kiến, chứ không phải giữa lương
và giáo. Dù lương hay giáo, nghèo khổ, hiếu học đều được khai hóa nâng đỡ như
nhau để dẫn tới một mục đích chung. Điều này, ta đã thấy Phan châu Trinh trình
bày rõ với cố đạo Tây ở Trà Kiệu.
Đó là vài sắc thái khác nhau của các trường ở quanh địa bàn
trường Diên Phong, còn mấy chục trường ở những nơi khác không thể kể hết…
Trường nhỏ lập nhiều tới đâu thì nhu cầu trường lớn cũng lớn
lên tới đó. Nhu cầu học không chỉ phải đáp ứng cho chính trong tỉnh mà cho cả tỉnh
khác. Bởi thế, theo đề nghị của Phan châu Trinh phải lập thêm một Trường lớn cỡ
Diên Phong và Phú Lâm : Trường Phước Bình.
Trường này, Giám đốc là Cửu Cai Trần Hoành, hiệu Phước Bình,
nguyên nhân viên mỏ than Nông Sơn bỏ về. Trường lập ở Quế Sơn, gần Đèo Le, cạnh
làng Trung Lộc, không xa khu vực Tân tỉnh của quân Cần Vương do Nguyễn duy Hiệu
lãnh đạo.
Ông Trần Hoành là một nhà chính trị, sau này rất nổi tiếng ở
Côn Lôn nhờ những vụ vượt ngục rất oanh liệt, có khi trôi giạt sang tới Trung
Hoa. Về sau, ông giúp việc đắc lực cho báo Tiếng Dân của Huỳnh thúc Kháng trong
nhiều năm.
Nhờ giỏi tổ chức nên chỉ trong thời gian ngắn, trường đã có
qui củ. Lại nhờ có một vị trí thuận lợi nên những ai không thể học ở Phú Lâm
hay Diên Phong thì lên học ở đó. Một trường lớn đòi hỏi nhiều giáo sư. Vì thế,
giáo sư ở Diên Phong phải dạy từng khóa ở trường này rồi cơm đùm, khăn gói vào
dạy ở trường kia như kiểu các giảng sư Đại học thời nay. Ở trường này bày ra
phương pháp ấn loát mới mẻ bằng đông sương. Tức là nấu rau câu để nguội thành
xoa xoa (như đông sương) rồi ấn tấm giấy viết sẵn cho chữ dính vào đó. Xong mới
lấy các tờ giấy khác để in. Phương pháp đối với chúng ta «cũ hơn trái đất» trẻ
con không thèm xài, thế mà với thời ấy là một phát minh quan trọng) được mọi
người trầm trồ khen ngợi.
Với những điều kiện nghèo khổ, khó khăn, trường vẫn không ngớt
phát triển. Cũng nên nhắc thêm là chỉ ở các thương hội lớn như Diên Phong, giáo
sư còn được ăn tập thể, chứ ngoài ra thì ai phải tự túc phần nấy, may nhờ rủi
chịu. Nhưng cái khó khăn ấy vẫn có thể vượt qua khi người ta có một lý tưởng.
Chứ còn những cái khó khăn về dư luận của một số nhà nho luôn luôn chống đối
thì thật nhọc nhằn. Họ chống đối không phải chỉ vì đạo thánh hiền mà còn chính
vì quyền lợi riêng tư : lũ trẻ, bọn thanh niên say theo tân thư đã khiến các
trường thuần hán học trở nên vắng vẻ phần nào, đời sống các ông đồ lâm vào khó
khăn, tuy đời sống những ông đồ mới cũng chả tốt đẹp gì hơn ! Nhưng thà thế,
các ông ấy còn được cái tiếng, chứ đằng này e có khi mất cả chì lẫn chài.
Một nỗi khó khăn nhất đáng kể : xưa nay người Việt Nam học chỉ
nuôi mỗi hy vọng là thâu được kết quả một cách cụ thể. Tức là lãnh lương !
Không làm quan cũng làm lý hương. Còn như cái việc học cốt ý để thu một số kiến
thức thì thật chưa từng thấy nói đến. Mà lối học của Duy Tân là lối học không
căn cứ vào hệ thống nào, sẽ thi cử và thu nhận những bằng cấp nào ? Chính những
ông thày dạy học, bằng cấp đầy mình mà cũng muốn tháo ra, vứt nó đi thì các ông
còn muốn ai có bằng cấp nữa.
Học Duy Tân rốt lại chỉ là học để biết, để mở mang trí não, để
có những kiến thức mới.
Có lẽ đó là lối học đứng đắn nhất từ xưa ở nước ta chăng ?
Trong khoảng nhiều thế kỷ lại đây, chưa bao giờ nghe có việc đó xảy ra trong học
giới nước ta cả.
°
Nhưng cái lối học mới ấy đâu dễ được những người bảo thủ chấp
nhận. Lẽ tất nhiên nhiều cuộc đối thoại, chống đối đã xảy ra. Các quan phủ huyện
cũng thường tìm những cơ hội sơ hở nào đó để dẹp bớt uy thế tân học. Một hôm
tri phủ Điện Bàn là Trần văn Thống ra lệnh truyền cho Trường quảng Phước ở gần
phủ : Trống phủ mới được đánh ba hồi để quan ra khách, còn trống trường phủ mới
chỉ được đánh một hồi cho học trò đi học thôi ! Trần quí Cáp vào, nghe lệnh ấy
liền lấy một quyển vở học trò viết một bài thơ :
CÁI TRỐNG
Trống trường, trống phủ, trống lung tung !
Trống cũng quan dân mới lạ lùng !
Trống đánh mấy hồi mà lớn tiếng ?
Dăm mòn, da mỏng cũng như không.
Không hiểu bài thơ trào phúng đó làm sao đến mắt viên tri phủ
khiến ba ngày sau, Phủ Thống thương tòa sức trường ấy đóng cửa.
Ông giáo sư dạy trường ấy là người nhà dòng, tên Nguyễn Phiên
biết là viên tri phủ muốn chận bước tiến của Phong trào, liền mời Trần quí Cáp
cùng đến nhờ ông Linh Mục ở nhà thờ An Ngãi vô điều đình với Công sứ Hội An.
Tòa Sứ tư lệnh cho Trường Quảng Phước tiếp tục việc dạy học.
Sau đó Trần quí Cáp có làm bài ca trù cho học trò trường ấy
ca :
Mạc ngôn nhất quốc phi huynh đệ
Bán thiên tiến ngã hệ nhất gia
Gẫm mà coi giòng họ nước non ta
Kẻ làm quan, người ở dưới, cũng một giống hồng da hết cả
Đã chẳng biết điều nghiêng, đỡ ngã.
Quốc hồn ta nay trông đã mấy dặm xa !
Trên địa cầu cũng loại người ta,
Sao người chủ mà ta làm nô lệ !
Cũng có kẻ muốn bổ thiên cứu tệ,
Ngỡ vãn hồi thế cuộc một đôi phân,
Kẻ ở trên là trách thân dân,
Lẽ thời phải ân cần cho chẳng hết,
Trí dân mở mà lòng người chẳng chết,
Ơn các người biết kể chừng mô !
Đã không giúp lại muốn xô,
Xô không đặng mà mình mang tiếng nhũng,
Xin gác tay trán đêm nằm hỏi bụng :
Đồng bào hơn hay dị chủng là hơn ?
Sao không nghĩ thấu nguồn cơn.
Lẽ tất nhiên, bài hát ấy đã khiến cho Tri phủ Trần văn Thống
thêm thù hận Trần quí Cáp.
Không rõ việc ông bị đổi vào Nha Trang năm 1908 có phải vì y
«sàm tấu» không, nhưng chắc chắn là cái chết cũng năm ấy của ông, Thống đã dự một
phần công không nhỏ.
--------------------------------
Ý nói : không phải vua sao lại dám can vua ? |
|
Cũng nên nói thêm là hoạt động cho phong trào Duy Tân thì
Trần quí Cáp chỉ ăn cơm nhà mà cũng không mở trường dạy học riêng như trước
được. |
|
Phan châu Trinh ghi chú thêm về diễn thuyết và trường học :
Hội diễn thuyết thì chính tôi xướng ra. Nguyên buổi ấy quan Toàn quyền Beau
có sức bảo các quan tỉnh chuyên sức xã dân lập trường tiểu học. Ở Bắc Kỳ đã lập
nhiều, còn ở Trung Kỳ thì không thấy sức bắt. Tôi đến Toà sứ xin thiệt sức
cho xã dân lập trường học. Công sứ trả lời : «nếu dân muốn học thì lập, không
thì thôi, vả lại cũng không có thầy». Bởi vậy nên tôi đi khắp trong xã dân diễn
thuyết nói việc lập trường học có ích, trong 5,6 tháng lập ra trường dạy quốc
ngữ và trường dạy chữ Pháp ước lượng hơn 40 trường. Và diễn thuyết thì diễn tại
tỉnh thành hoặc tại đình các làng. Trong huyện tôi là huyện Hà Đông thì diễn
tại Khổng Miếu, cách nhà Đại Lý độ 2km quan Pháp cũng có lúc tới nghe. (TKDB
trang 10). |
|
Phong trào Duy Tân ở Quảng Nam có điểm khác Hànội : không
chỉ các nhà nho chống lại Pháp mà những người theo tân học cũng chống lại đến
khi đứt đầu mới thôi (như Thái Phiên, Trần cao Vân) ở Hà nội, chỉ nhà nho chống
Pháp, còn những người Tây học thì đều hợp tác với Pháp cả (Nguyễn văn Vĩnh,
Phạm Duy Tốn, Nguyễn bá Học…) |
|
Quyển này chê người Việt Nam sính làm thơ và làm thơ dở.
Trong Tiếng dân, có người công kích ý tưởng ấy và dẫn chứng những N. Du, Cao
bá Quát bằng Nôm. Nhưng thiết tưởng họ chê là chê người Việt Nam làm… thơ Tàu
chứ có nói Nôm đâu ! Và đúng quá. Làm thơ ngoại ngữ thì cái dở là cầm chắc rồi. |
MỘT ANH HÙNG
THẢO DÃ : LÊ CƠ
TÔI phải đặt cho Lê Cơ một chương riêng vì trong sự nghiệp
Duy Tân ở vùng Quảng Nam – trong (Quảng Tín) ông đóng một vai trò tích cực và
tên tuổi ông chỉ kém Phan châu Trinh chứ chưa chắc đã thua bất kỳ người nào.
Trong vùng Quảng Nam – ngoài, có nhiều nhân tài nên họ chia nhau hoạt động,
không mấy ai đủ sức lấn áp những nhân vật khác ngoại trừ thủ lãnh Trần quí Cáp.
Vả chăng, họ đều là nhà nho thành đạt cả nên làm việc gì cũng có cân nhắc, có
thảo luận, có phương pháp tiến tới đâu, dè dặt khi cần, phát triển khi thuận lợi.
Còn Lê Cơ thì không hoàn toàn như thế. Ông là một thứ anh
hùng của núi rừng. Cách hoạt động, đối xử của ông khác hẳn mọi người. Ông sinh
năm 1859 tại làng Phú Lâm, Tiên Phước, bà con cô cậu với Phan châu Trinh. Ông
Huỳnh thúc Kháng cho khí phách và đỡm lực ông không kém Phan châu Trinh chút
nào. Nhưng ông không có học thức rộng (mới tới trường ba nghĩa là rớt tú tài),
không có tài đi du thuyết, chỉ loanh quanh trong hạt. Nhưng tên tuổi và sự nghiệp
Duy Tân lớn lao vang dội khắp miền (Quảng Tín) làm nòng cốt và gương mẫu có các
phủ huyện, làm ngọn đuốc soi đường cho tư tưởng và hành động mới, là mối hãnh
diện cho Phan châu Trinh và Huỳnh thúc Kháng, xem nó như cuộc thí nghiệm thành
công của chủ nghĩa mình.
Ta có thể tin, không quá sai lầm, là Phan châu Trinh có bao
nhiêu hoài bão muốn thực hiện đã gửi gắm vào người anh em cô cậu đó, và nếu
Phan châu Trinh là bộ não, ông đã là cánh tay. Cánh tay ấy không thẹn với bộ
não kia, nhiều khi cánh tay ấy không thẹn với bộ não kia, nhiều khi cánh tay nặng
thực tế còn muốn lôi bộ não nặng trí thức đi xa hơn nữa.
Tôi dám nghĩ là từ xưa nay, không dễ gì tìm được nhiều ông lý
trưởng, coi một làng, mà lại đủ sức làm cho cả lực lượng Phong kiến, thực dân
phải đề phòng, chống đỡ và hận thù đến thế ; không chỉ có thế : họ còn phải chuẩn
bị đầy đủ để chiến đấu với ông như với một đảng cách mạng sắp bùng nổ dù ông
không có cả một khẩu súng trong tay. Bạn đọc ngạc nhiên và đòi chứng cớ ? Thì
đây : các quan lại sở tại ngày đêm phái người tới dòm ngó, phá rối, bắt bớ.
Nhưng vẫn không đủ để trấn áp một viên lý trưởng khiến thực dân phải mạnh bạo
thực hiện một cuộc trấn áp quyết liệt : lập một cái đồn ở ngay trong làng Phú
Lâm gần vườn nhà ông do một Thiếu úy Pháp chỉ huy (thời đó, kể như thế đã là đồn
quan trọng) và để tiện việc hành quân khi hữu sự, họ cho đắp một con đường chiến
lược hoàn toàn mới từ Thăng Bình quanh lên Việt An, qua Phú Lâm về Tam Kỳ để kịp
thời tấn công và tiêu diệt lực lượng khởi nghĩa… tưởng tượng do Lê Cơ lãnh đạo
!
Cuộc đời của Lê Cơ vừa oai hùng, vừa hấp dẫn, vừa ly kỳ lúc sống
cũng như lúc chết. Tôi thuật lại các hoạt động của ông 1 một
cách vắn tắt, hy vọng có nhiều nhà biên khảo, tiểu thuyết gia sẽ tìm thêm tài
liệu và cảm hứng để viết về nhân vật Duy Tân đặc sắc này. Trong bài báo của ông
Huỳnh thúc Kháng đăng trong số báo Tiếng Dân 513, vì muốn trách cứ thực dân nên
các thành tích của Lê Cơ, Huỳnh thúc Kháng chỉ nhắc một cách mực thước, nhất là
không đả động tới những xung đột giữa ông và thực dân. Vả chăng, không quá tán
tụng một người ở phe Duy Tân, trong vùng ảnh hưởng của mình. Huỳnh thúc Kháng
có sự dè dặt quen thuộc của nhà nho cũng dễ hiểu.
Nhưng, những ai tôi gặp mà có nhắc qua công cuộc của xã Sáu
Lê Cơ hay Lý Cơ đều có một lối trầm trồ, không tiếc lời tán thưởng và cảm phục
nhân vật bất khuất lúc sống cũng như lúc chết ấy.
Lê Cơ xuất hiện vào năm 1905, nhưng trước đó đã dám chống cả
một bọn hào lý của làng Phú Lâm. «Làng ấy trước có tiếng là giàu, lại là làng
ngoại thích một vị quan lớn, hào cường chiếm cả quyền làng, cho đến đỗi lúc bấy
giờ không ai muốn làm lý trưởng, vì đến mùa thuế thu không đủ, thường phải bội
thu cho bọn hào cường ; còn xâu thì các tay chân của các nhà ấy cũng không được
bắt, chỉ bắt mấy tên dân cùng». Nhưng 1903 Lê Cơ dám nhận làm lý trưởng với niềm
tin «Ta không làm nổi việc lớn cho thiên hạ thì ta cũng có thể thí nghiệm ở một
làng (túng bất năng hành chi thiên hạ, do khả nghiệm chi nhất hương)». Nói
là làm, không do dự. Lê Cơ gây niềm tin sâu xa cho dân chúng bằng cách tận lực
trừ nạn hào cường. Ông thành công rực rỡ. «Từ đó, ông bắt đầu cải cách từ việc
xâu thuế cho đến việc tế tự canh phòng, trăm điều chấn chỉnh, bọn hào cường kia
không thể thi thủ đoạn ích kỷ như trước mà dân trong làng đều tâm phục cả». 2
Khi đã nắm được lòng dân chắc rồi, Lê Cơ mới tiến lên một bước
thực hiện chí hướng của mình.
«Công việc sắp đặt trong làng gặp lúc phong trào tân học.
– Trong lúc bấy giờ (1905-1906) nhà nước có lệnh lập xã học, dạy quốc ngữ,
chữ Tây trong tỉnh lại có phong triều cổ động công thương các nghề. Ông ta là
anh em con nhà cô cậu với cụ Phan châu Trinh, nên biết việc cải cách là cần, bắt
đầu thực hành trong làng, lập trường học, rước Thầy dạy Quốc Ngữ (lúc ấy trong
nhà quê nhiều nơi không biết chữ Quốc Ngữ là gì, nhiều vị lão thành ra sức phản
đối) cho trẻ con trong làng học, ít lâu lại thêm một trường nữ học nữa (nữ học ở
trong Quảng Nam, về mấy phủ huyện trong, trường Phú Lâm là đầu tiên. Đồng thời,
trong làng chung lại mở vườn trồng quế, lập cuộc buôn, dựng lò rèn (rèn đồ nông
khí) lập cuộc bảo hiểm, canh phòng kẻ trộm cướp. Ở trong một cái làng rừng che
núi cách giao thông trở ngại, thuở nay, tịch mịch quê mùa bỗng thành một nơi
khai thông vui vẻ, không những dân làng và lân cận tin phục, mà người xa, nhất
là người đã nếm mùi Âu hóa đi ngang qua tỉnh Quảng Nam, cũng gắng lên đến làng
Phú Lâm đặng xem công việc sắp đặt của một ông lý. Công việc ông lý nào có hèn
đâu !»
Độc giả ngày nay đọc những lời văn ấy, có lẽ chả hứng thú gì.
Nhưng nếu ta cố gắng dùng óc biện luận để tìm hiểu từng câu, từng chữ, từng sự
kiện, dùng óc tưởng tượng để dẫn lui về quá khứ của một thời kỳ nhất định của lịch
sử, ta sẽ khám phá ra biết bao nhiêu điều mới mẻ trong một làng Duy Tân ở núi rừng
vào những năm 1905-1906 !
Tôi phải nói mau mau rằng cho đến năm 1954 trở lại đây, không
phải mấy làng kể cả làng Phú Lâm, đã có được những tổ chức và lối sinh hoạt tiến
bộ đến thế ở trong các vùng núi non xa vắng. Như thế, chúng ta có thể hiểu ngay
là công cuộc của Lê Cơ vào thời ấy đã nâng làng Phú Lâm lên làm làng điển
hình Duy Tân cho toàn quốc, không kém gì làng Phong Thử (Diên Phong). Nhưng
không thể so sánh với Phong Thử và Diên Phong là công cuộc chung của một hạt,
do sự hợp tác chung của các sĩ phu. Diên Phong chú trọng những công cuộc trọng
đại. Còn Phú Lâm chú trọng những công cuộc dành riêng cho một xã có thể làm được.
Đối với chúng ta ngày nay, một cơ sở thí nghiệm thành công như thế trở thành hết
sức quan trọng cho một chủ thuyết. Tôi nói thí dụ một giáo phái hay một đảng tiến
bộ nào đó, muốn phát triển tổ chức, cần nhất là phải có những khu vực cơ sở tiêu
biểu cho chủ thuyết chứ không thể nói mơ hồ. Vì chúng ta quen nói mơ hồ nên
không ai tin mà chính dân cũng không tin, hoặc muốn tin cũng chẳng biết dựa vào
đâu mà tin ngại mình không có đủ óc sáng kiến và khả năng thực hiện. Nhưng khi
đã có một cơ sở điển hình, họ đến xem xét, nghe ngóng, «sờ mó» rút kinh
nghiệm tổ chức, phát triển thì việc mô phỏng, biến chế chả khó gì, có khi còn
hay hơn cả cơ sở điển hình kia ! Chính các đảng phái, tôn giáo của ta ngày nay
chưa thành công, chưa gây được niềm tin của dân là vì ta chưa có những cơ sở kiểu
mẫu thể hiện đúng chủ thuyết của ta. Do đó, chủ thuyết chỉ còn là một mớ chữ
nghĩa phiêu lưu ! Sự thất bại là điều nắm chắc trong tay vì không đặt đời sống
của chính làng xã, của người dân cụ thể làm chủ yếu !
Phong trào Duy Tân nhờ Xã Sáu Lê Cơ mà dám tự hào là phong
trào chính trị và xã hội có lãnh đạo, đường lối, chủ trương, phát xuất từ cơ sở.
Đó là phong trào đầu tiên ở trong nước ta, qua trường kỳ lịch sử, biết giá trị
lớn lao của sự tổ chức và phát triển xã thôn làm căn bản cho quốc gia muốn tiến
bộ. Nghĩa là Phong trào đã quan niệm được giá trị của người dân – dù còn nặng về
tư sản – trong sự đồng tiến của Quốc gia, chứ không như hầu hết các phong trào
khác chỉ chú trọng từng khả năng của cá nhân hay một đoàn thể, đẳng cấp đặc biệt.
Cũng không nên so sánh với những làng được cải cách do chính quyền bắt buộc hoặc
cá nhân tự động đứng lên cải cách. Vì như thế đều không gây nổi một hào hứng tự
tâm, không gây thành phong trào rộng lớn và không dẫn tới một hành vi chính trị
tích cực. Sau năm 1945 mới lại thấy có những cuộc cải cách, phát triển làng xã
theo đường lối, chủ trương của một học thuyết chính trị và như thế là trễ hơn
phong trào Duy Tân những 40 năm.
Nếu Lê Cơ hăng hái, nhiệt thành kiến thiết bao nhiêu công cuộc
khác nhau và bao giờ cũng muốn đi lên hàng đầu thì Huỳnh thúc Kháng lại hết
lòng cổ võ. Sau đây là một bài ca của Huỳnh thúc Kháng chúc các cơ sở DUY TÂN ở
Phú Lâm. Các học sinh các Trường Tân học sau khi học xong phải đứng dậy ca.
NGƯỜI TRONG ĐÔNG Á 3
Người trong Đông Á rõ ràng
Một giòng một giống Hồng Bàng là đây
Nay biết đổi quê ngây, tục cũ,
Hiệp cùng nhau chung của mà buôn,
Đuổi theo tân hóa bôn chôn,
Thói hư ta bỏ, trí khôn ta bày.
Chúng tôi vui thấy Hội này,
Mở lời kính chúc quí thày đôi câu :
Một – chúc thương cuộc đặng lâu
Lợi quyền giữ lại của mình (?) hầu sanh.
Hai – chúc học hành cho giỏi,
Theo người hay tìm tỏi cho nên.
Ba – chúc cái lòng cho bền,
Ai ai cũng quyết đứng lên vũ đài.
Bốn – chúc đạo khai dân trí,
Dạy con em nghĩa lý cho minh.
Năm – chúc khuyên dụ người mình,
Bỏ câu thanh bại mới nên việc đời.
Sáu – chúc khuyên người trong nước,
Khuyên anh em sau trước gần xa.
Bảy – chúc thông nước thông nhà
Ta là dân nước, nước là nhà ta.
Tám – chúc bước qua đàng sáng
Mở mang ra tỏ rạng lẽ công.
Chín – chúc người trước tâm đồng,
Người hay, trí xão gánh gồng giang sơn.
Mười – chúc chớ sờn tâm chí
Hiệp bằng nhau mà thử gan chơi.
Lẽ hai mươi triệu con người,
Đồng lòng, dễ có thua người nước mô ?
Một bài ca khác :
SANH GẶP LÚC CẠNH TRANH
Sanh gặp lúc cạnh tranh thời đại,
Học thức ta sửa lại sau đây.
Phải lo giáo dục nhân tài
Đúc nên tư cách, mở bài phương châm
Mừng thay mấy kẻ đồng tâm,
Thăng Bình 4 là
phủ, Phú lâm là làng.
Nọ Thương cuộc, nọ học đường,
Này cơ bảo hiểm, này phường quế viên
Trong hưởng sự mười phần chấn chỉnh
Cùng nhân tâm hoán tỉnh một hồi.
… … …
Trường Phú Lâm do Lê Cơ lập là một trong mấy trường lớn
trong tỉnh. Tôi không rõ sĩ số bao nhiêu 5 .
Việc dạy học, sách dạy có lẽ không khác các trường ở Diên Phong. Đặc sắc nhất của
trường là có cả một lớp dành riêng cho nữ sinh 6 .
Hẳn nhiên đó là lớp đầu tiên dành cho nữ sinh của Trung và Bắc. (Tôi không rõ ở
Sàigòn, trước 1905 đã có trường dành riêng cho nữ sinh chưa ?).
Ngay như sau này, 1907 Đông Kinh Nghĩa Thục thành lập qui mô
là thế mà cũng không mở được lớp Nữ sinh thì đủ biết cái gan của Lê Cơ to tới
đâu, vào giữa thời kỳ con gái đàn bà bị cho là «nan hóa». Và không hiểu, bằng
cách gì, ông đã đào tạo được luôn hai nữ giáo sư : cô Mười và cô Bảy Lẹ. Hẳn
nhiên đó cũng là nữ giáo sư đầu tiên ở Việt Nam, ít ra cũng ở Trung và Bắc, trước
khi thấy «bóng hồng» xuất hiện ở Đông Kinh Nghĩa Thục.
Cuộc buôn ở Phú Lâm cũng là một tổ chức muốn phá vỡ lề lối
cổ truyền, tiến lên một phương thức mới. Ông đã xin bằng của quan phủ, quan phê
cho làm rồi mới làm. Theo ông Huỳnh thúc Kháng thì chỉ «mua giấy bút bán cho học
trò, cùng nắm muối bán cho dân cày, như một cái quán trong nhà quê», nhưng theo
bà Lê Ấm và ít người biết chuyện thì cơ sở này tổ chức có qui củ. Đó là điểm
chính để cho những con buôn nghèo đến nhận hàng hoặc nhận tiền về mua hàng mà
buôn. Buổi tối lại về đó, thúng mũng sắp xếp lại có trật tự. Ở tiệm chính,
ngoài sách vở, mắm muối bán cho học trò và dân cày còn có tổ chức mấy cái lò
rèn để rèn cuốc, xẻng, rựa… Chúng ta cũng đều biết vùng núi rừng ít có lò rèn,
mỗi lần đi mua dụng cụ mất thì giờ lặn lội xa xôi. Nay lập lò ở đây, ông Lê Cơ
muốn giúp phương tiện cho những ai muốn phá núi rừng trồng quế sẽ tìm thấy ngay
những dụng cụ cần. Điều này cũng cho thấy nhu cầu lập vườn quế, phong trào Duy
Tân đáp ứng một cách nồng nhiệt, và tiệm buôn còn là nơi cung cấp nông khí. Do
đó, việc buôn bán trở nên náo nhiệt, thương cuộc hóa thành nơi hội họp, công
khai (dĩ thương vi quần : lấy ngành buôn để hội họp, khẩu hiệu đương thời) của
các người đồng chí hướng.
Có lẽ đó là lý do khiến tri phủ sở tại gọi ông đến đòi lại
cái bằng cho phép. Ông Lê Cơ nhất định không chịu trả. Bắt lên, bắt xuống mãi,
sau tức giận, tri phủ nọc ông ra đánh (Biết bao nhiêu cực nhục, gan lì tranh đấu
cho Duy Tân, chứ có phải dễ dàng, thuận lợi cả đâu !). Ông nói : «Quan là cha mẹ
trong một phủ, như nói việc dân làm quấy thì không cho phép, đã cho phép tức
công nhận là việc phải. Vả buôn bán là việc sinh nhai, tôi đã cùng anh em xuất
tiền lập tiệm mua hàng trên một tháng, nay quan thu giấy phép ai bồi khoản phí ấy
cho chúng tôi ? Thưa thiệt cùng quan, quan có đánh chết tôi cũng xin chịu, chớ
muốn thu bằng lại, xin quan bẩm ra tòa sứ đã».
Tri phủ giận và có lẽ mối nghi Lê Cơ đang mưu đồ việc lớn còn
lớn hơn, e sẽ gây hậu hoạn nên bẩm ra toàn sứ. Sứ gọi cả hai người,
tri phủ và Lê Cơ ra hầu. Trong báo Đăng cổ khoảng 1907, Phan châu Trinh có thuật
lại việc này bằng hán văn (theo Huỳnh thúc Kháng) và tiếp : «Quan sứ xét rõ đầu
đuôi, biết ông làm việc ích lợi. Trước mặt quan phủ, quan sứ khen ông và cho
phép về làm, quan phủ có hơi thẹn. Lúc bấy giờ trên nét mặt quan phủ, trông dày
như lớp thiết giáp…»
Huỳnh thúc Kháng thêm : «Có một điều thú là khi Xã Cơ ra Tòa,
quan sứ hỏi chuyện, thấy người tướng mạo khôi ngô, ăn nói chững chạc khác vẻ
người thường (ông ta râu rìa, mũi cao, cặp mắt sáng tinh có vẻ giống người Âu)
bèn hỏi rằng : sinh năm nào, Lúc ấy đã có người Tây sang chưa ? (nhà Quê ở
Trung Kỳ, vào khoảng Triều Tự Đức, làm gì có người Tây ! Song thấy Xã cơ tướng
mạo giống người Tây nên hỏi»
Thế là tạm yên với sứ Pháp.
Nhưng với quan lại, nhất là Tổng lý Việt thì rất khó yên. Mà
dầu họ muốn yên, nhưng xét thấy họ hại dân, hại nước Xã Cơ nào có để cho yên.
Thời kỳ này, Xã Cơ có lập ra hội bảo hiểm để bảo đảm
việc trộm quế trong cái làng bốn phía bọc toàn núi rừng này. Các nhà giàu có vườn
phải xuất lúa cấp cho dân tuần để họ bỏ nhiều thì giờ vào việc canh gác. Các mối
đường có lập điếm canh, trong có đặt cùm, đầu đường có dựng một tấm thẻ bằng gỗ,
liệt các quy điều răn cấm cũng như phải có mặt để bắt kẻ gian, để cứu lửa, cứu
rừng v.v… Thế mà rồi cũng phải bị báo cáo là cắm thẻ, cắm cờ, bị quan lại làm
phiền, làm rầy và càng khiến quan thêm ghét mặt.
Nhưng dù ai ghét thì ghét, Xã Cơ vẫn đi thẳng theo con đường
nhiệm vụ của mình. Hễ quan lại, tổng lý làm bậy là ông lập tức đương đầu. Thời
kỳ đang thâu thuế, dân khốn đốn chạy đông, chạy tây, chảy máu chân kiếm chưa ra
tiền nộp thuế mà các Chánh tổng 4 tổng mở cuộc hát bộ, mời Xã. Ông bảo với các
lý trưởng khác : «Chánh tổng muốn bày việc để kiếm tiền, ta không nên đi lễ bằng
tiền».
Nhưng chẳng ai nghe vì hối lộ công khai kiểu đó
cũng là một lối cần thiết để tránh những sự khó dễ về sau. Chỉ có Xã Cơ là mua
vải điều, viết đôi câu đối (dịch ra quốc ngữ như sau) :
« Tổng thời thuế chưa xong, xâu chưa hết, lợi chưa hưng,
hại chưa trừ, vui gì vậy ? Xã thì già chẳng an, trẻ chẳng học, trai chẳng cày,
gái chẳng dệt, hát làm chi ? »
«Giữa tiệc mừng hát đông người, đem câu đối ra treo lên, người
ta đàm đạo xôn xao. Thầy tổng tức mình, xếp cất mất ! Song người ta truyền tụng
đến nay cũng còn nhiều người nhớ câu đối ấy. Chuyện ấy là một mối cho bọn Tổng
lý ghét nên sinh chuyện luôn luôn, nhưng không làm gì ông ta được ! »
Những cải cách mạnh dạn của ông gây những xúc động lớn ở cả
hai phía : Phía có óc Duy Tân thôi thời tán dương không hết lời. Làng Phú Lâm
trở thành làng gương mẫu Duy Tân. Phía bảo thủ cũng chỉ trích không tiếc lời,
và phần lớn họ có quyền hành trong tay nên những dư luận của họ cũng gây một sức
mạnh đủ để cho công sứ Pháp phải đề phòng 7 .
Thế là một con đường chiến lược quan trọng đắp từ phủ Thăng Bình lên, qua Phú
Lâm, xuống Tam Kỳ để chở quân dẹp loạn… Lê Cơ ! Một cái đồn do một thiếu úy
Pháp lãnh đạo đặt ngay trong làng Phú Lâm, chĩa mũi súng vào ổ Lê Cơ. Nhưng
ngay trong những ngày đầu, bọn lính tự do cắt tranh, chặt tre của dân làng và của
Lê Cơ. Lê Cơ lập tức cho lấy gông, gông cổ lại và hỏi : «Các chú tới bảo vệ hay
tới ăn cướp ?»
Viên quan một Pháp biết lỗi ở lính và biết Lê Cơ không phải
tay vừa. Hình thức : đó là một người có bộ mặt như Tây, to lớn, râu
rìa, ăn mặc đồ Tây, không có mặc cảm trước mặt võ quan thực dân hơn nữa : Thiếu
úy đó đã từng biết Lê Cơ dám đi thẳng tới Công Sứ để tố cáo nên liền đấu dịu.
Lê Cơ bảo : «Nhất thứ tôi tha. Nhưng phải trả tiền mỗi cây tre theo thời giá là
hai giác (0,$20)».
Việc giàn xếp xong. Đồn Trưởng cho nuôi một bầy dê. Lũ dê ấy
tự do vào các vườn thiên hạ. Không ai dám nói gì. Lũ dê ấy chạy sang vườn Lê Cơ
(đồn ở ngay sát nhà). Lê Cơ liền bắt trói lại đem trả. Lần thứ hai dê sang, lại
bắt đem trả. Đến lần thứ ba ông lấy rựa chặt chân rồi kêu trưởng đồn ném trả.
Trưởng đồn cũng đành câm.
Mỗi lúc có những ngày Tết Tây mà ai đi xem là ông đứng ngay
trước mặt, chửi công khai, chửi không tiếc lời. Nhưng cũng chẳng ai muốn gây sự
với ông. Công Sứ đã biết mặt ông, Tổng Đốc cũng ngán ông. Lê Cơ tự do hoành
hành dẫn phong trào Duy Tân lên điểm cao trước sự im lặng dò xét của trưởng đồn
Pháp.
Tôi tưởng cũng nên kể thêm phần kết thúc cuộc đời ngang tàng
của vị anh hùng thảo dã đó : sau vụ 1908, Lê Cơ bị ba năm tù. Mọi công cuộc kiến
tạo của ông để làm mới một làng Dân quyền, một làng Duy Tân bị đập phá tan
tành.
Sau ba năm ở tù về đến 1916 cuộc khởi nghĩa vua Duy Tân lại
có mặt Lê Cơ cũng như bao nhiêu nhà Duy Tân khác, khi họ không còn tin ở phương
pháp công khai hóa, hợp pháp hóa để tự cường và tiến bộ trong cái thế thực dân
điên đảo của Pháp. Ông bị đày đi Lao Bảo. Một ngày kia, khi có một người tù bị
bịnh kiết lỵ, cứ ngồi dềnh dàng trong đám cỏ, bị lính dùng báng súng hành hạ
tàn nhẫn. Lê Cơ đang ngồi vót tre, xúc động mãnh liệt liền vung rựa chạy đến sừng
sộ với người lính đòi chặt đầu hắn ta. Lập tức, Pháp đem ông xử bắn ngay tại chỗ.
Ông gục xuống trên vũng máu, mặt vẫn còn phừng phừng nộ khí.
Huỳnh thúc Kháng khi nhắc tới ông vẫn tiếc rẻ và nhiều năm
sau, trở lại quê xưa, vẫn còn để ý đến kỷ vật cuối cùng do xưởng chế tạo thô sơ
của Lê Cơ sản xuất : «thứ ghế xếp làm bằng mấy cây sắt và mấy miếng gỗ thông rất
là giản tiện (ghế này miền đó còn có nhà giữ lại đôi ba cái)».
Nhưng đó là chuyện năm 1932. Bây giờ còn đâu nữa kỷ vật cuối
cùng của vị anh hùng thảo dã.
--------------------------------
Theo tài liệu trong số báo Tiếng Dân 513, 17-8-1932, Anh
Minh Ngô thành Nhân có trích in lại trong Ngũ Hành Sơn Chí Dĩ. Ngoài ra còn
theo lời thuật miệng riêng của bà Lê Ấm con gái Ô. Phan châu Trinh và nhiều
nhân vật khác về cuộc đời Lê Cơ. |
|
Những đoạn có « » là lời Huỳnh thúc Kháng trong bài
báo dẫn trên. |
|
Vì không có đề, nên tôi tạm lấy mấy chữ đầu làm đề cho bài
này cũng như các bài sau. |
|
Nay là Tiên Phước. |
|
Chỉ biết «nào nhóm học trò hạch đến đôi ba trăm» theo Huỳnh
thúc Kháng. Nhưng học trò hạch có khác học trò không. Dù sao chi tiết này
cũng cho biết đó là trường Lớn. |
|
Bà Lê Ấm có học tại lớp Nữ sinh này. |
|
Tài liệu từ đây xuống do chính Bà Lê Ấm kể. Bà biết rõ vì
lúc ấy mẹ mất, ông Lê Cơ dẫn về nuôi học tại nhà ở Phú Lâm. |
CÁC HIỆN TƯỢNG KHÁC
CỦA PHONG TRÀO
THỜI XƯA, đàn ông và đàn bà xứ ta không khác nhau bao nhiêu,
nhất là những người quá xấu và quá đẹp. Xấu thì cũng bới tóc, cũng răng đen,
cũng ăn trầu, mặt cũng nhăn nheo ; đẹp thì cũng chừng ấy thứ, chỉ khác nước da
trắng trẻo, má hồng hào. Nhất là khi họ mặc phong phanh cái áo ngắn, lại choàng
lên cổ một cái khăn : vì chỉ duy có cổ áo cao, thấp mới thật sự phân biệt nam nữ
cùng với đôi hoa tai bóng nước. Ấy thế mà đâu có thiếu những chàng xấu háy…
cũng xâu lỗ tai, đeo hoa tai như bất kỳ cô nào !
Đọc Tam Quốc, ta thấy một danh tướng của Tào – Hạ hầu Đôn – bị
tên bắn vào mắt. Rút tên ra, con ngươi theo ra. Đôn nói : của cha mẹ,
ta không có quyền vứt bỏ cái gì ! Nói rồi nuốt luôn cả tròng con mắt.
Như thế đối với cái thời còn quý trọng từ tí trong cơ thể,
tóc chải xong buổi sáng không dám vứt xuống đất, móng tay các bậc thâm nho có
khi dài bằng chính ngón tay lại cong vút thì còn nói chi đến chuyện cắt tóc, cạo
răng.
Thế nhưng bộ tóc dài phết đất cản trở rất nhiều cho những hoạt
động mới của một thời cần hoạt động hết mình. Phải cắt tóc trước hết. Nếu không
cắt phăng bộ tóc ấy đi, đừng mong dám tiến lên con đường mới : lái xe, sửa máy,
bắn súng, tập thể dục, xuất dương… Muốn cắt cái phần quí báu mà chữ trung, chữ
hiếu đặt lên trên ấy – trên cái đầu – đâu phải dễ. Các nhà nho phải làm gương
trước đã. Nhà nho liền bảo «Văn Thân, đoạn phát» (vẽ mình, cắt tóc) là cổ tục của
ta, để tóc là bắt chước Tàu, phản dân tộc tính, sao không cắt phăng đi ! Nói
thì dễ, nhưng làm nào phải dễ đâu khi một phong tục đã đánh đổ một cổ tục để
nghiễm nhiên trở thành cổ tục. Tôi có đọc một quyển văn hóa sử Trung hoa, cũng
thấy những lý luận của Trung Hoa thời đó y như thế : cái bím trên đầu đâu phải
tục của Trung hoa, chỉ từ khi Mãn Thanh cướp nước, mới buộc phải theo. Bao
nhiêu người bị khốn khổ vì chống đối. Thế rồi lâu ngày, nó thành một dân tộc
tính, mà những ai sau này bị tội cắt bím tự xem như hình phạt đau xót, nhục nhã
nhất đời ; hoặc ai theo tân phái mà cắt bím đi là bị búa rìu dư luận không chịu
nổi.
Nhưng nhà nho đâu có quyền dừng lại. Và khi những nhà nho tài
giỏi, nghiêm trang đạo đức nhất xuất hiện với bộ tóc ngắn, tự nhiên gây những
xúc động sâu xa và gây những ảnh hưởng rất tốt.
Từ đó, có một cuộc tuyên truyền rộng rãi về việc hớt tóc cho
thuận lợi với hoạt động mới của Tân sinh hoạt, tân văn hóa. Dân chúng thấy hay
cũng bắt chước. Và người ta ở đời ai cũng có cái thói này : hễ làm điều hay
cũng như dở, cách mạng cũng như hút thuốc phiện, những việc mới lạ, không bao
giờ muốn chỉ cá nhân mình làm mà muốn kẻ khác cũng phải làm với mình. Kẻ cắt
tóc rồi, hoặc vì hảo ý giúp bạn tiến bộ, hoặc muốn khỏi bị cô độc thôi thì ra sức
tuyên truyền cổ động bằng đủ cách : lời nói, vè, thơ, ca dao, bài hát. Thậm chí
có khi còn dùng bạo lực đè ngửa đương sự xuống thiến ngay.
Khi việc dĩ lỡ rồi, đương sự chỉ còn cách xuống giọng năn nỉ anh em mỹ thuật
hoá cho dễ ngó. Thật ra, hồi ấy chỉ mới biết vanh tóc cho ngắn,
cho gọn, chớ đâu đã biết hớt theo kiểu mẫu gì ! Huống chi đến thời 1908, cả
ngày có khi phải hớt những năm bảy trăm cái đầu cho kịp gia nhập đoàn xin
xâu thì chắc họ chỉ cắt cho xong bất chấp xấu tốt.
Thời ấy, Phong trào đang lên, ở thôn quê Quảng Nam thường có
những thanh niên sắm một cái kéo, một cái lược, đi vào các nhà quen những buổi
trưa để tuyên truyền rỉ rả với một chàng nào đó. Khi chàng ta xiêu lòng, anh
thanh niên có thể giúp chàng xin phép cha mẹ cho dễ dàng rồi rủ nhau ra đầu hè,
có gió hiu hiu. Anh thanh niên dở kéo lược ra và bắt đầu lên giọng nói vè cho
đương sự mê mẩn, không còn tìm đường tháo lui nào nữa. Có lẽ có nhiều bài vè
nào khác, nhưng tới nay, tôi chỉ còn thấy nhắc mỗi bài mà người ta bảo do ông
Phan Khôi đặt ra. Trước kia, tôi có thấy một bản đầy đủ trong báo Ngày nay của
Nguyễn tường Tam. Sau này, cũng thấy có vài bản, nhưng không đầy đủ. Tôi đăng
toàn văn bài vè đã có địa vị lớn trong Văn học sử và Duy Tân sử Việt Nam đó :
VÈ CÚP TÓC
Cúp hề ! Cúp hề !
Tay mặt cầm kéo
Tay trái cầm lược
Cúp hề ! cáp hề
Đũng đĩnh cho khéo.
Bỏ cái ngu mày,
Bỏ cái dại mày,
Học theo người Tây.
(Nếu) Hãy còn ăn mặn,
Hãy còn nói láo,
Phen này ta cúp,
Phen sau ta cạo.
Giọng hân hoan, vui vẻ, lời dọa ở cuối duyên dáng làm cho
công việc hớt tóc có một cái thú riêng.
Đối với những người ít nghiên cứu văn hóa, hẳn không thấy tất
cả những khó khăn kinh khủng trong buổi ban đầu mà mãi ba bốn năm sau
1905-1908, nếu không có chính biến xin xâu lôi cuốn hàng vạn người,
chưa chắc đã có những quần chúng hớt tóc để làm mới cả Trung Kỳ rồi Bắc Kỳ. Vì
có không biết bao nhiêu phản động lực cố tình chận phong trào cắt tóc này ! Nhiều
cha mẹ cấm đoán, nhiều nhà chức trách cấm ngăn. Kể từ 1906 trở lui, đã nổi
lên vụ án thế phát, tức là các quan lại hễ thấy ai có cái đầu mới là tìm
cách khủng bố, bắt bớ, giam cầm. Nhất là những ai có tội mà rủi bị có cái đầu
mới là thế nào cũng bị thiệt thòi. Vụ án thế phát kéo dài mấy
năm, nhưng không đàn áp nổi những nguời theo mới. Song song với các quan lại
dùng quyền hành, những nhà thủ cựu dùng văn chương mắng nhiếc bêu rếu những người
hớt tóc thậm tệ :
Mồ cha, mả mẹ anh đâu ?
Còn vua, còn chúa, hỏi anh cúp đầu thờ ai ?
Chữ rằng phục quốc Tây lai,
Xem trong Nam Việt ai ai cũng buồn tình.
Nước Nam mình còn Miếu, còn Đình,
Còn khoa, còn mục, còn mình, còn ta
Làm chi khác thể ông thày chùa,
Khỏi xâu, khỏi thuế cũng nên đua cúp đầu.
Giọng ca dao thật hấp dẫn trẻ con. Chính Bà Lê Ấm, con ông
Phan châu Trinh cũng bị huyễn hoặc, học thuộc lúc nào không hay, về nhà ru em lớn
tiếng hát lên khiến bị một trận đòn oan vì tội… phản tuyên truyền !
Nhưng lại cũng có những cuộc biện luận sôi nổi ngộ nghĩnh của
các đôi nam nữ không chỉ bằng đối thoại ngoài đời mà còn đi vào văn chương bình
dân, cụ thể là lối hát hò khoan đối đáp gọi là hát nhơn ngãi của Quảng
Nam. Nàng nhìn cái đầu kỳ quái của chàng và thốt lên :
Dị cha chả là dị !
Chướng cha chả là chướng !
Cớ làm sao anh lại cúp cái đầu,
Thất hiếu trung với phụ mẫu
Lại lỗi câu với nàng Kiều.
Nhưng chàng trai xứ Quảng đâu có chịu thua nàng Kiều của
chàng nên lập tức chàng rang rảng tuyên truyền cho lý tưởng của mình :
Dị cũng không phải là dị,
Chướng cũng không phải là chướng.
Bởi vì anh muốn sướng.
Cho nên anh cúp cái đầu.
Nàng Kiều ở quân non Châu
… … …
Từ Tam Kỳ cho chí ngoài Kinh
Ai ai cũng cúp như mình thậm sang. 1
Hớt tóc không phải một sự kiện vụ hình thức như có nhiều người
lầm tưởng. Chính nó có một giá trị tinh thần rất quan trọng đối với Phong trào
Duy Tân. Tôi nhớ Mustapha Kémal lãnh tụ Thổ Nhĩ Kỳ khi bảo bỏ cái mũ Fez tự
nhiên bỏ được nhiều tập tục cùng đi với cái mũ ấy. Và như thế, hớt bộ tóc đi, đội
cái mũ trắng lên, ta cũng dẫn theo nó những tập tục mới. Chẳng hạn gặp người
trên, ta khỏi vòng tay, cúi đầu mà chỉ cần dở cái vành mũ trắng. Đã dở vành mũ
lên chào, tự nhiên ta muốn dấn thân vào những hoạt động mới mẻ mà ta cảm thấy
thích ứng. Tuy chỉ là việc cắt mấy cái tóc, nhưng thật ra là đoạn tuyệt, ít ra
cũng dẫn khởi sự rời bỏ một quá khứ, một giáo điều mà người ta bớt niềm tin, có
khi thù ghét nữa ! Ta cũng có thể so sánh phụ nữ ngày nay cắt tóc với Nam giới
thời năm 1905 cắt tóc. Phụ nữ nay ở thành thị cắt tóc rất nhiều thế mà lớp người
cách đây năm bảy năm muốn cắt tóc thật không thiếu gì kẻ bị mắng chửi, đánh đuổi,
có khi còn bị chồng hay cha mẹ từ bỏ. Sự thật, năm 1945, nhiều tỉnh, như Quảng
Ngãi 2 phụ
nữ cắt tóc rất đông, thành phong trào rồi, nào có lạ gì ! Thế nhưng các thế hệ
cắt tóc ấy đều có khác nhau : 1905 : đàn ông cắt tóc theo một vận động tân văn
hóa, tân sinh hoạt ; 1945 : đàn bà cắt tóc cũng có xu hướng ấy, nhưng đã dẫn từ
Dân Quyền tự do tới xã hội chủ nghĩa. Còn 1950-1969 thì phụ nữ cắt tóc lại chỉ
nặng về Mỹ thuật hơn là sinh hoạt, có khi chỉ để làm vui những chàng ngoại quốc.
Tuy nhiên, hiện nay có những xưởng như xưởng dệt ở Đà Nẵng, nữ công nhân bắt buộc
phải cắt tóc vì nhu cầu. Nếu không cắt, không thể làm thợ vì có thể bị máy cuốn
phăng cả mái tóc, lột mất cả da đầu. Vậy trong tương lai, khi có « kỹ nghệ
hóa» tất nhiên phụ nữ đều phải cắt tóc, chỉ là điều tất nhiên.
Tôi nhắc dài dòng mấy giai đoạn này cốt để thấy thêm những bước
tiến khác nhau của lịch sử mà bộ tóc can dự một cách thiết yếu, chứ không phải
là chuyện chỉ để cho đẹp mắt mà thôi.
Vậy 1905, đàn ông cắt tóc là thực tế dấn thân vào sinh hoạt mới,
về mọi phương diện. Và họ phải can đảm để tranh đấu với nội tâm, với phe bảo thủ,
với quan lại để chứng tỏ chân lý của cái đầu cắt ngắn. Rồi cũng do Phong trào
mà ở Trung Việt nơi còn nặng quân quyền, phong kiến lại ít tìm ra những ông già
có đầu bới tóc hơn Nam Việt, thuộc địa của Pháp, nơi đến 1940 vẫn còn những ông
già tóc bới, lái ô tô tối tân phóng như bay, loại ô tô mà người miền Trung chỉ
biết… kính nhi viễn chi !
°
Đã có bộ tóc ngắn thì tự nhiên cái áo dài trở nên lượt thượt
quá. Cái áo dài chỉ có thể dùng trong nghi lễ mà không thuận lợi tí nào cho các
công tác mới đòi hỏi sự di chuyển, tập hợp, cử động mạnh dạn. Nhưng đây không
phải vấn đề thiết yếu cho nông dân mà là của sĩ phu, những người suốt năm hễ ló
mặt ra ngoài là đương nhiên phải tròng cái áo dài lên mình. Thành thử vấn đề âu
trang cũng được đặt ra. Âu trang thời ấy không phải chưa ai mặc. Ngoài người Âu
Châu, bọn bồi bếp tây có lẽ cũng đã có mặc, ít ra cũng khoác trên mình bộ đồ chủ phế
thải. Nhưng bồi bếp mặc không nêu thành vấn đề mà còn bị khinh bỉ là khác. Như
thế, không thể nói như Vũ trọng Phụng độ nào là ở nước ta những mốt mới đều do
bồi bếp, đĩ điếm nêu gương trước nhất.
Bộ đồ Tây đầu tiên của Phong Trào Duy tân, chắc chắn là do
Tây Hồ Phan châu Trinh bày ra. Và như Nguyễn hiến Lê nói trong Đông Kinh Nghĩa
Thục (sđd) nó đã thành cái mốt : mốt Tây Hồ !… nghĩa là «một cái áo
bành tô và một chiếc quần bằng vải nội hóa Quảng Nam nhuộm đen, thắt cái cà vạt
cũng bằng vải đen, đi đôi giày «dôn» (giày da vàng) mỏ vịt và đội cái nón «cát
trắng». Ở Quảng Nam trong buổi đầu có bao nhiêu người mặc đồ Tây ? Tôi không biết
rõ, chỉ thấy trong Trung Kỳ Dân Biến Thỉ Mạt Ký của Phan châu Trinh có ghi «hội
mặc đồ Tây». Tôi cũng lại biết có những người quan trọng của Phong Trào không mặc
đồ Tây : Huỳnh thúc Kháng suốt đời chỉ mặc áo đen dài. Bút tích chỉ để lại tên
bốn người : ông Lê Cơ như ta biết. Còn ba nhân vật nữa sở dĩ được biết là nhờ
hai bản án. Năm 1908. Một bản ghi tội Trần quí Cáp «Thế phát» (cắt tóc), âu
trang (mặc đồ Tây) là mưu vãng tha quốc (là mưu ra nước ngoài, ám chỉ Nhật Bản).
Còn bản án kia xử ông Cử Châu Lâu, Nguyễn thượng Hữu và Cử Phong Thử Phan thúc
Duyên có câu «Âu trang vãng huyện hội» tức là dám mặc đồ Tây đến Văn Thánh Điện
bàn (xã Đông Bàn, quê Phạm phú Thứ) tức Văn Thánh hàng huyện vào ngày lễ nào
đó. Vậy, tội trạng ghi rõ là vì mặc đồ Tây tới chỗ thờ Đức Khổng Tử 3 chứ
không phải mặc đồ Tây đi đường nên chẳng hiểu cái hội này có số hội viên bao
nhiêu người ! Nhưng dù thế nào, chúng ta cũng biết những người mặc Âu phục thời
ấy chắc chắn là được hoan nghênh nhiệt liệt hoặc bị miệt thị gớm ghê. Rồi các bạn
trẻ lại thử nhìn xuống bộ áo quần mình mặc hằng ngày xem : nào mình có để ý gì
đâu ! Ấy thế mà mới trên sáu mươi năm, nó đã làm phiền lụy đau khổ cho ba chí
sĩ mà cái chết hay tội tù của họ một phần chính do bộ đồ Tây ấy gây nên.
Bao nhiêu cố gắng ấy được khen cũng nhiều mà rước lấy tiếng
chê có phải ít đâu !
… … …
Cử nhân, thày tú cúp đầu,
Tai nghe có giấy bệ châu gởi về.
Thế quan đồn cấp ê hề,
Lập phường buôn bán tiện bề nghi nan (?)
Ngâm thơ, diễn thuyết các làng,
Bày ra giản tiện áo ngang lưng quần.
Sự đời ai thấy không ưng,
Trên đầu đội mũ, dưới quần không dây.
Chân thời mang cặp giày Tây
Rủ đi lất láo một bầy như dê !
Sự mình trăm việc trăm quê,
Người mình trở lại mà chê người mình.
(Vè xin xâu) 4
Ngoài ra, những nhà Duy Tân còn phải tập biết bao nhiêu thói
quen mới thay cho thói quen cũ, không kể việc trau dồi kiến thức. Nào phải cạo
răng trắng, chứ bộ răng đen thui thủi làm sao mà Duy Tân cho được ! Nào cắt những
móng tay dài thườn thượt mà mỗi lần gãi sồn sột mới êm ái làm sao ! Nào bỏ thói
ăn trầu trông dơ dáy, nhổ phèn phẹt kém vệ sinh. Thời ấy, mỗi người đàn ông đi
đâu đều có mang theo một cái hầu bao bỏ trầu cau và trên vai vắt một cái khăn
điều :
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều,
Nhớ người quân tử, khăn điều vắt vai.
Khăn điều vắt qua vai dùng để tiện việc lau vệt nước trầu
trên miệng. Thật ra, bỏ cái gì còn dễ chớ bỏ môn nghiện trầu thì quả
rất khó. Ai muốn hiểu, thử bỏ hút thuốc lá là biết ! Tứ chi rã rời, nước miếng
trong cứ ứa ra, người mệt mỏi, động vào việc gì là chán ngán. Biết bao nhiêu
người ở thôn quê bằng lòng nhịn đói buổi sáng chứ không nhịn nổi bát nước chè
đen và một miếng trầu trước khi đánh trâu ra đồng.
Bởi thế, nói Duy Tân là cách mạng Dân Quyền, tân sinh hoạt,
tân văn hóa còn hàm ý cách mạng bản thân. Cuộc cách mạng này ít thấy rõ, nhưng
âm ỉ mà nhẫn nại, nhọc nhằn. Vì có ai bỏ những thói quen có khi thành truyền thống
dễ dàng đâu ! Rồi phải tập biết bao nhiêu thói quen mới : tập cầm cây bút sắt,
khác hẳn cây bút lông, tập ngồi viết trên bàn ghế chứ không phải cong lưng trên
phản, trên án thư, tập không bạ đâu nhổ đó, tập nhét chân vào những đôi giày chật,
tập thắt cà vạt có khi muốn nghẹt thở, tập đi cho ngay cái lưng khác hẳn cái
lưng khòm thanh nhã, tập tranh luận có phương pháp, nghị sự có phép tắc, tập bắt
tay vào những tổ chức mới và phải hoạch định chủ trương, đường lối, có phân
công, phụ trách mà vốn nhà nho mù tịt, tập tính toán bằng con số mà nhà nho
khinh bỉ, tập hô hào cổ động mà nhà nho thích thanh nhàn vốn cho là của bọn hạ
lưu… Từ những con người trì trệ, kiểu cách, khinh đời, nhà nho muốn trở thành
linh hoạt, tự nhiên, yêu đời, gần gũi nhân dân, thực tế. Biết bao cố gắng của
buổi ban đầu.
°
Một thành tích đáng kể khác là đưa thứ chữ lạ, bị nghi ngờ, bị
nguyền rủa-chữ Quốc ngữ-lên làm chuyển ngữ.
Rồi trong khi dùng tiếng Việt để nói, chứ không phải nói bằng
chữ Hán, Quốc Ngữ không chỉ có giá trị khi viết mà chính nó còn giá trị
suy luận nữa. Điều này có lẽ độc giả trẻ ngạc nhiên : Vậy chứ trước kia
ông bà ta suy luận và nói bằng chữ Hán hay sao ? Thời xưa, những giấy má đem ra
để đọc, để hiểu thị, để diễn giảng đều bằng chữ Hán. Vua xuống quan, quan xuống
lý hương, lý hương xuống dân chúng đều dùng thứ chữ ấy nên tất nhiên khi suy luận
cũng phải bằng tinh thần của nó. Thành ra, khi đọc xong tờ chiếu, bản huấn thị
của người Việt cho người Việt mà cũng phải dịch lại, từ chữ Hán sang tiếng Việt
cũng như sau này từ chữ Pháp sang tiếng Việt 5 !
Bây giờ đã dùng Quốc Ngữ làm chuyển ngữ thì tự nhiên cũng dùng tiếng Việt để
suy luận, để nói. Do đó, tiếng Việt không chỉ có ý nghĩa hình thức qua chuyển
ngữ Quốc ngữ a. b. c. mà còn có ý nghĩa nội dung là buộc phải vận dụng suy luận
chính bằng tiếng Việt. Ở đây lại nẩy ra một khác biệt so với các tác giả chuyên
dùng chữ nôm xưa kia. Vì khi dùng tiếng nôm, lối suy luận ít nhiều gì cũng có
pha tàu mà nặng văn vần hơn văn xuôi. Còn với người dùng Quốc Ngữ thì bắt đầu vận
dụng lối suy luận bằng văn xuôi hơn văn vần. Ta đừng thấy hầu hết các bài thơ,
ca, vè thời ấy để lại mà vội đoán các chiến sĩ Duy Tân không có khả năng vận dụng
văn xuôi. Sự thật, đây là lần đầu trong lịch sử mà những cuộc diễn thuyết ồ ạt
«chuông tự lập vang đình diễn thuyết», những cuộc thảo luận công tác, những lời
giảng dạy cho học sinh được dùng bằng tiếng Việt bằng văn xuôi nhắm vào đối tượng
đại quần chúng cần lao. Thơ ca Quốc Ngữ chỉ là một sự kiện hiển nhiên trong thời
quá độ để dân chúng dễ nhớ, dễ thuộc, dễ tuyên truyền. Đừng nên chỉ căn cứ vào
thơ ca ấy để dẫn tới một kết luận vội vã mà phải căn cứ vào chính cái khả năng
suy luận và giảng dạy, biện luận bằng tiếng Việt Văn Xuôi đang khai
diễn và tiến triển mau chóng kia để thẩm định giá trị văn học thời ấy thì mới
đúng. Các bạn muốn có một chứng minh ? Tôi thiết tưởng rất dễ : Phong trào,
ngay từ buổi đầu đã đào tạo ngay được mấy nhà hùng biện văn xuôi tiếng Việt, lẫy
lừng nhất là Phan châu Trinh bên cạnh những Trần quí Cáp (Quảng Ngãi), sau đó
Dương bá Trạc, Lương trúc Đàm (ĐKNT). Chính nhờ dùng văn xuôi tiếng Việt quen
mà sau này ở Quảng Ngãi Huỳnh thúc Kháng, Phan Khôi, Sở Cuồng (Lê Dư) trở thành
những nhà văn lừng lẫy không thua gì Phan châu Trinh ; còn ở Bắc thì Ngô đức Kế,
Dương bá Trạc với các ông Nguyễn hữu Tiến, Nguyễn đôn Phục 6 cũng
vang danh trên trường văn trận bút Quốc Ngữ buổi ban đầu ! Còn thơ, văn vần ?
Tuy làm nhiều như thế mà nào có ai nổi tiếng ngoại trừ… Phan châu Trinh với
Giai nhân Kỳ ngộ (sđd) mà nhà văn Lê văn Siêu liệt vào hàng thi bá (có lẽ vì
quá yêu nhà chí sĩ nhiệt thành ấy !) Thơ thời ấy chỉ là văn xuôi… trá hình mà
thôi vì nặng tư tưởng, sự kiện hơn thi tứ. Đó là những văn liệu quá độ của thời
thi ca thuần túy chuyển sang thời văn xuôi.
Nói tóm lại, về phương diện Văn Xuôi tiếng Việt nói và viết
(bằng quốc ngữ) thì thời kỳ này là thời kỳ quyết định để đào tạo những nhà hùng
biện, những cây bút chân tài rồi đây sẽ giữ vai trò cực kỳ quan hệ của văn học
Việt Nam từ năm 1905 đến 1932 để hướng nền văn hóa Việt Nam tách rời những
tiêu chuẩn do thực dân đặt ra mà Đông Dương Tạp Chí, nhất là Nam Phong Tạp chí
đang thực hiện, để trở lại với những tiêu chuẩn của một nền Duy Tân đúng với
điều kiện của dân tộc Việt.
°
Nói rằng thi ca đó chỉ là văn xuôi… trá hình là về nội dung.
Thật ra, nó cũng có một giá trị hình thức. Chúng ta đều biết sĩ phu và dân
chúng xưa chỉ dùng thơ ca vào những mục đích quen thuộc nào đó, còn dùng thơ ca
để tuyên truyền cho một Phong Trào thì rất ít thấy. Thơ ca của Nguyễn công Trứ
khi cổ động, đề cao nho giáo, cũng như Nguyễn đình Chiểu đề cao lòng ái quốc và
thù hận thực dân v.v… vẫn còn nặng về chất liệu trừu tượng. Phong Trào Duy Tân
dùng thơ ca để thực sự tranh đấu, để vạch rõ, giảng rõ những sự kiện thực tế
trong những mục tiêu cũng hoàn toàn thực tế như làm ruộng, học nghề, học quốc
ngữ hợp nhau lập Công Ty phản đối tiền sắt, phản đối thuế má. Đi từ chất trừu
tượng sang chất thực tế đó, đi từ cuộc đời theo văn hóa Tàu tiến sang cuộc đời
theo văn hóa, sinh hoạt Tây Phương, và thực sự tranh đấu cho nó, tự nhiên phải
nẩy ra một đòi hỏi rất quan trọng : những hình thức thích hợp cho nội dung mới,
cho hoạt động mới. Các chí sĩ Quảng Nam nẩy ra một sáng kiến đáng ghi nhận :
dùng thể song thất lục bát và hát nói. Có người sẽ bảo : Ối tưởng thứ gì mới.
Nó là những môn cũ rích ở Miền Bắc. Đúng thế. Nó cũ với miền Bắc, nhưng còn mới
với Trung, Nam. Chẳng hạn về thể song thất lục bát Miền Trung không phải không
dùng như một vài tác gia nhận xét trong Văn học sử hay báo chí 7 .
Người ta vẫn thấy ngoài Ngọc Hân Công Chúa vốn người Bắc (nhưng có thật chính
bà là tác giả Ai tư vãn ?) còn những Hà Tiên Thập Cảnh, Mạc thiên Tích (Nam) dịch
Chức Cẩm hồi văn, Hoàng Quang (Trung) v.v… nhưng có lẽ người Nam hà chưa tìm thấy
những khả năng diễn tả tình cảm giản dị, vui vẻ hay hào hùng trong thể thơ rất
thích hợp với những tình cảm sầu thảm thê thiết ấy nên chưa tận dụng như thể lục
bát. Nhưng đến thời Duy Tân với Trần quí Cáp, khi dịch phú Danh Sơn lương Ngọc
ra song thất lục bát thì thể này tìm thấy khả năng hào hùng, nối tiếp nhiều đoạn
trong Chinh phụ Ngâm của Thế kỷ XVIII ở Bắc để gây những rung cảm mới mẻ, tráng
khái. Không rõ bản dịch tiếng tăm này có ảnh hưởng gì tới nhiều bản song thất lục
bát khác cũng bỏ hẳn cái giọng bi lụy để đổi ra giọng hùng biện khi Đông kinh
nghĩa Thục thành lập ? Và ta không quên từ năm 1905, Trần quí Cáp đã gởi các
bài thơ phú cho Hồ thanh Vân đem ra Bắc để Nguyễn hải Thần dùng làm tài liệu
tuyên truyền cho tư tưởng mới. Nhưng loại song thất lục bát còn có thể nói người
Phương Nam có làm ít nhiều, chứ như thể hát nói thì hoàn toàn không. Tại sao ?
Một điều quá dễ hiểu là hát nói dành cho cô đầu hát ; không có cô đầu thì hát thì nói với
ai ? Bởi thế nên sĩ phu từ Quảng Trị trở vào không thấy có ai làm thể này, trừ
phi họ được ra ở miền Bắc. Thế mà Huỳnh thúc Kháng, Trần quí Cáp làm ! Có lạ
lùng không ! Nhưng các ông làm không để cô đầu hát mà để nông dân ngâm nga
trong những lúc nhàn rỗi… 8 Sở
dĩ dùng cho người Đàng Trong ngâm nga được vì căn bản hát nói là nói lối,
cước vận, một thể thức rất quen thuộc với Đàng Trong. Nhiều người lầm tưởng
thơ văn Việt chỉ có yêu vận. Sự thật thì sai : thơ văn ta dùng để
trình diễn thì cước vận giữ vai trò quan trọng, có khi gần như vai
trò độc nhất. Trong các vở tuồng, chèo, điều này rất dễ kiểm soát. Và
vì Hát nói chỉ dùng có cước vận nên có thể ngâm nga như các loại văn nói lối
khác được. Cùng phong trào Duy Tân, thể hát nói tiến vào miền Nam như một lối
thơ mới (mà thơ mới loại 8 chữ, cước vận, sau này cũng là một biến đổi nhỏ của
chính thể nói lối đó, thể hát nói đó). Vượt lên trên một bực, các sĩ phu còn
chăm chú tìm kiếm những thể thơ nào có thể diễn tả được cái nội dung và những cảm
nghĩ mới. Một hình thức hợp thể ra đời. Sau đây, tôi giới thiệu một bài ca của
Huỳnh thúc Kháng để bạn đọc dễ nhận thấy :
CÁI NGÀY ẤY
Cái ngày ấy ai cầm lại đặng ?
Chẳng khác gì sóng lặn ngàn dâu
Trải qua ngày tháng bao lâu
Kìa đầu tóc bạc, đổi đầu tóc xanh
Nay nói với các anh ham học,
Chữ lợi quyền ngang dọc cả năm châu.
Này là Úc, này là Á, này là Âu,
Trong thế giới đâu đâu cũng vậy,
Núi non vậy, hải hà cũng vậy,
Rán sức mình vùng vẫy thử coi chơi.
Một mai thuyền nọ xa vời,
Đò đưa đến bến thảnh thơi nhiều ngày.
Đố ai không học mà hay !
Tôi nói đây chính là một bài thơ mới của 1905-1906
chắc cũng không phải quá sai. Nó bao gồm các thể thích hợp cho giọng điệu, tư
tưởng, tình cảm mới và nhất là không phải để xem mà còn để nói, để đọc, để
truyền những rung cảm cho đối tượng bằng phương thức mới. Đây là thơ mới đang
thời kỳ dò dẫm của Phong Trào Duy Tân để rồi sau đó, một nhân vật của Phong
Trào này, Phan Khôi (cũng người Quảng Nam) năm 1932 chính thức đưa ra một văn
kiện như tuyên ngôn của thơ mới và tự sáng tác bài thơ mới đầu tiên trên Phụ Nữ
Tân Văn dẫn theo, sau đó Phong trào thơ Mới rầm rộ trong mười mấy năm trời trên
toàn cõi Việt.
°
Phong Trào Duy Tân thực sự còn một thành tích không thể nào
không nhắc tới trăm ngàn lần, nhất là đối với người Việt Nam miền Nam chúng ta.
Duy Tân thực chất là theo mới. Mà theo mới chủ yếu chính là học các nghề khéo của
Tây Phương. Chúng ta thua Tây Phương không phải vì tinh thần mà chính là vì khả
năng tổ chức, khả năng sản xuất, phát triển khoa học, kỹ thuật. Nếu Duy Tân mà
không học nghề tới nơi tới chốn thì không nên gọi là Duy Tân mà chỉ là cải
lương hình thức. Chính sau này, khi Tự Lực Văn Đoàn ném ra cô Loan tiêu biểu
cho gái mới trong Đoạn Tuyệt thì nghề nghiệp được đề cao : một lần cô khuyên chồng
đi buôn chiếu, lần khác cô dạy học, làm thư ký. Nhưng tinh thần học nghề của
nhóm Tự lực chỉ đủ sức tự lập cá nhân chứ không xem như đó là phương pháp hữu
hiệu nhất để từ bỏ cuộc đời cũ tiến sang cuộc đời mới của cả một dân tộc muốn
hiện đại hóa. Cho nên Phan châu Trinh, lý thuyết gia của Phong Trào, bao giờ
cũng khuyến khích mở mang nông, công, thương triệt để, cũng luôn luôn kêu
gào sự học nghề đến nơi đến chốn. Ông miệt thị không tiếc lời lối học từ
chương, lấy bằng cấp để câu cơm, tham nhũng. Bài thơ này vẫn còn mới quá đối với
nền giáo dục của nước ta cho tới nay, nên tôi chép lại theo bản của ông Nguyễn
hiến Lê trong Đông Kinh Nghĩa Thục (sđd trang 96).
Người mình đã vụng về trăm thức.
Lại khoe rằng : «Sĩ nhất tứ dân»
Người khanh tướng, kẻ tấn thân,
Trăm nghề, hỏi có trong thân nghề nào !
Chẳng qua là quơ quào ba chữ,
May ra rồi ăn xớ của dân ;
Khoe khoang rộng áo, dài quần,
Tráp giày bệ vệ rần rần ngựa xe,
Còn bực dưới ngo ngoe vô kể,
Học cúi luồn kiếm kế vơ quào,
Thày tú lại bác kỳ hào,
Gặm xương, mút đũa lao xao như ruồi.
Lại có kẻ lao xao bực giữa,
Trên lỡ quan, dưới nữa lỡ dân.
Ấy là học Sĩ, văn nhân,
Ăn sung, mặc sướng mà thân không làm.
… … …
Loài người đã không tài nghề nghiệp,
Phải sanh ra nhiều kiếp gian nan ;
Đua tranh dối trá muôn vàn,
Gà bầy đá lẫn, cá đàn cắn nhau.
Ngồi nghĩ lại càng đau tấc dạ,
Hỡi những người chí cả thương quê
Mau mau đi học lấy nghề,
Học rồi ta sẽ đem về dạy nhau.
Vì có niềm tin tuyệt đối vào nghề là cốt yếu để hóa dân, cường
quốc nên Phan châu Trinh tới đâu cũng học nghề và sau này sống bằng nghề chụp ảnh
ở Paris. Còn Huỳnh thúc Kháng, nhà nho ở Việt Nam khi được đề cử đứng ra làm
báo thì tuyên bố đòi «không có chuyên trách thì không làm gì xong» 9 .
Nhà nho Việt Nam nói đến chữ chuyên trách năm 1926 vẫn còn làm tôi ngỡ
ngàng. Có lẽ ông là người đầu tiên nói đến tiếng ấy !
--------------------------------
Tài liệu của Nguyễn Q.Thắng. |
|
Thời ấy có loan truyền một sự hiểu lầm. Duyên do hình như
Trung Ương đánh điện về bảo Phụ Nữ cấp tốc… bị đọc ra là Phụ Nữ cắt tóc nên
phái nữ đua nhau cắt tóc. Không rõ đúng hay sai. |
|
Phan châu Trinh ghi chú thêm về mặc đồ Tây : «Mặc đồ Tây».
Người Nam thuở nay, từ bậc trung trở lên thường dùng sô sa của Tàu, từ khi
thuế nhập cảng tăng vật giá thêm mắc, con buôn Tàu hay giả mạo, đem hàng xấu
thế hàng tốt, tốn tiền nhiều mà mau rách, thân sĩ biết vậy nên hẹn nhau ngày
thường qua lại thì mặc đồ Tây, thay đồ Tàu, vì giá rẻ mà hàng tốt, lại tiện
cho người làm việc. Đó là ý của hội mặc đồ Tây vậy. |
|
Tài liệu của Nguyễn Q.Thắng. |
|
Riêng ở Trung, chữ Hán dùng theo lối ấy có nơi, có ngành chỉ
mới hết năm 1945. |
|
Tôi không kể Nguyễn văn Vĩnh, cùng các nhà Tây học và ông
Đào trinh Nhất (lúc ấy còn nhỏ, chỉ học chứ chưa dự vào hàng lãnh đạo Phong
Trào). |
|
Thể song thất lục bát trong văn nôm Phương Nam của Nguyễn
thanh Liêm trích của Phạm thế Ngũ : về hình thức thì văn nôm Miền Nam cũng có
đủ các lối thi phú quen thuộc, song thường quảng dung câu lục bát và cũng chỉ
tiến đến câu lục bát thôi (không biết đến thể song thất) Đồng Nai 10-1967. |
|
Xin xem lại các bài hát nói của T.Q.C ở các chương trước ! |
|
Tự truyện, trang 48. |
Nguyễn Văn Xuân
Theo https://vietmessenger.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét