Phong trào Duy Tân 2
PHÁT ĐỘNG PHONG TRÀO
CHÚNG TA đã có một bối cảnh lịch sử của Việt Nam đen tối,
nhưng không muốn tự đắm mình trong bóng đêm. Trái lại, các sĩ phu kiệt liệt tự
nhiệm vai trò lãnh đạo của thời ấy luôn luôn mưu toan những cuộc vận động lớn để
cứu quốc. Phan châu Trinh là một trong hai sĩ phu vĩ đại, đang nuôi chí Duy Tân
để tự cường, vượt những phương pháp khởi nghĩa theo cổ truyền. Chúng ta cũng đã
dừng lại giây lát để biết qua một khu vực đặc biệt mở rộng cả đôi mắt nhìn
ra biển cả với nhiều tầng lớp dân chúng đang có những nhu cầu Duy Tân. Bởi thế,
ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Phan châu Trinh hô hào chưa dứt tiếng, đã có những
đồng chí đứng lên sát cánh với ông để hành động.
Phan châu Trinh đã truyền cái hơi nóng ngùn ngụt trong huyết
quản của ông có lẽ ngay từ năm 1903, sau khi lãnh hội Thiên Hạ Đại Thế Luận, cho
Lê Cơ người bà con cô cậu với ông. Kể từ năm này (1903) thì Lê Cơ khẳng khái ra
nhậm chức Lý Trưởng làng Phú Lâm để gây «những cải cách từ việc xâu thuế
cho đến tế tự, canh phòng trăm điều chấn chỉnh, bọn cường hào kia không thể
thi thủ đoạn ích kỷ như trước mà dân trong làng đều tâm phục cả» 1 . Ông đã dọn sẵn con đường để phát động
phong trào Duy Tân. Và rồi Phú Lâm sẽ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong tỉnh
cũng như toàn quốc.
Về phần Lê Cơ, tôi sẽ dành cả một chương để nói tới ông, người
có công rất lớn, người đã cụ thể hóa giấc mộng Duy Tân của Phan châu Trinh
trong vùng Tiên Phước sớm hơn hết.
Ở đây, tôi muốn giới thiệu hai đồng chí lớn tên tuổi lưu truyền
hậu thế, đã chung đèn, chung sách, chung chí hướng với ông để đẩy Duy Tân đi tới
thành một đại phong trào : Huỳnh thúc Kháng và Trần quý Cáp.
Đây cũng là một gặp gỡ ngẫu nhiên của lịch sử đáng quan tâm.
Thật vậy, Huỳnh thúc Kháng (sinh năm 1876) và Trần quý Cáp (1870) đều là những
tay học giỏi cùng với Phạm Liệu thời ấy là một bộ ba khét tiếng. Thế
mà Phạm Liệu đỗ từ khoa Ngũ Phụng tức là khoa đặc biệt Quảng Nam có năm người đỗ
đại khoa 2 năm 1898. Còn cả hai ông đều lận đận. Huỳnh
thúc Kháng đỗ giải nguyên từ năm 1900, đến đúng năm 1904 đỗ hội nguyên rồi vào
Đình thi đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ. Còn Trần quý Cáp, thì lạ lùng : ông dạy học
trò thi đỗ cử nhân dễ dàng ở trường Huế cũng như trường Bình Định. Nhưng ông
thi thì hỏng luôn cử nhân ba khoa. Thế mà vào thi hội đỗ ngay tiến sĩ rồi vào
Đình đậu thứ hai 3 . Nếu có ai tin ở vận số của chính Phong
Trào sẽ đặt câu hỏi : Tại sao cả hai ông Huỳnh và Trần cùng đỗ với nhau một lần
mà không đỗ trước đi. Hạng đỗ nơi Hội Nguyên, đỗ nhì ở Đình há không đỗ nổi một
cái phó bảng là tiến sĩ rớt hay sao ? Và nếu đỗ phó bảng rồi, chả lẽ
đi học lại để đi thi lại ư ? Thế thì ít cũng đã có một ông ra làm quan. Mà đã
làm quan, đã dính chặt vào công danh rồi dễ gì rút chân ra ! Trường hợp Phan
châu Trinh là hy hữu ! Và kể từ khi Phan châu Trinh từ quan, hai ông Huỳnh thúc
Kháng và Trần quí Cáp không chịu ra làm quan, theo đuổi tân học, thì tân học đã
trở nên một vật quí, đáng cho các hàng sĩ phu có nhiệt tâm tìm hiểu. Đối với thời
còn quá trọng bằng cấp ấy thật là một vận may của Phong Trào Duy Tân,
của Tư Tưởng Dân Quyền : có mỗi một lúc cả ba bậc đại khoa danh tiếng dám đứng
lên vứt bỏ cái quá trọng kia để theo đuổi một chí hướng mới, một hoạt
động mới mà các sĩ phu thời ấy đang nhìn bằng cặp mắt ngỡ ngàng, lo ngại, nếu
không khinh thị, chống đối. Có thể nói thời kỳ này là Áp hội nguyên ư
đình, áp đình nguyên ư hội, vinh vinh qui qui, hà tất khôi khoa ? thời kỳ
xôn xao nhất của tỉnh Quảng Nam. Cùng một lúc, cả tỉnh chỉ bàn về chính trị
và cùng một lúc hai tổ chức lớn nhất của quốc gia phát ra bồng bột. Phái Nguyễn
Thành – Phan sào Nam tuy dè dặt hơn nhưng cũng không thể tránh được những luồng
dư luận của những kẻ hiếu kỳ khi luôn luôn thấy sự hiện diện của Cường Để cùng
nhiều đồng chí khác ở Nam Thình Sơn trang (chỗ ở của Nguyễn Thành). Việt
Nam Quang Phục Hội được thành lập ngay tại nhà Tiểu La Nguyễn Thành rồi
đây sẽ tung những đợt sóng thanh niên ra hải ngoại để làm mới chí hướng võ
trang khởi nghĩa của những người cựu Cần Vương. Phái Phan châu Trinh – Huỳnh
thúc Kháng – Trần quí Cáp thì công khai hoạt động, dựng cây cờ Dân Quyền, hô
hào Duy Tân, cổ động Tân Văn Hóa rồi đây sẽ tung ra những phương thức hoàn toàn
mới để hiện đại hóa đất nước từ tư tưởng đến mọi ngành, mọi nghề.
Vậy, trước khi đi sâu vào Phong trào, thiết tưởng ta cũng nên
biết qua cá tính, chí hướng từng nhân vật lãnh đạo để tiện theo dõi về sau. Vì
khi Phan châu Trinh tự tách làm lãnh tụ của Phong trào toàn quốc thì Huỳnh thúc
Kháng trở thành lãnh tụ của khu vực nay là Quảng Tín, Trần quý Cáp của khu vực
nay là Quảng Nam. Lãnh tụ mặc nhiên, chứ không phải có hệ thống có quy định rõ
ràng như bên Việt Nam Quang Phục Hội 4 (tức Duy Tân Hội theo Phan bội Châu).
Phan châu Trinh là người chúng ta đã biết nhiều : giàu kiến
thức, giàu nghị lực, có khả năng văn nghệ, óc tân tiến, ít bảo thủ. Ông là người
hoàn toàn tin ở Dân Quyền, ở Tân Văn Hóa và hăng say nồng nhiệt đến độ có thể
khẳng khái : «Thằng Phan châu Trinh thà chết thì nó xách cái đầu của nó,
nó quăng xuống đất như chơi, nó chẳng chịu làm trâu ngựa cho người ta cỡi trên
đầu, trên cổ nó đâu !… Tôi thề tai giữa buồng giấy quan lớn, tôi thề lấy máu
tôi mà bôi đầy đầu, đầy mặt, đầy cổ, đầy mình quan lớn, tôi bôi cho đỏ cả buồng
giấy gian dối, tối tăm hôi thúi của quan lớn, tôi chẳng chịu chết mòn, chết rục,
chết vắng, chết thầm ở cái buồng giam 6-21 đâu» (thơ số 4 ngày 02-5-1915)
gởi cho thẩm phán quân sự Pháp khi ở ngục Santé. Muốn theo dõi mọi lối hoạt động,
biện luận, chống đối, tin tưởng của ông, nên luôn luôn có hình ảnh bức thư này
trước mắt để hình dung cách nói năng, xử sự của ông trước mọi người, nhất là
trước cường quyền. Ta biết ông nói thật chứ không nói chơi.
Huỳnh thúc Kháng là một nhà học giả uyên thâm, thờ chủ nghĩa
Dân quyền đến mức độ triệt để, nhưng thiếu sự nồng nhiệt, hăng hái, phát lộ bên
ngoài như Phan châu Trinh. Ông cũng không phải là diễn giả lôi cuốn được người
nghe mà chỉ lôi cuốn được bằng văn tự cho những độc giả thích suy tư. Có thể
nói nếu Phan châu Trinh là hoạt động là hò, là hét, thì ông là âm thầm là nhẫn
nại, uyển chuyển. Phân châu Trinh có thể bạo động (dù chưa có việc ấy). Nhưng
Huỳnh thúc Kháng là bất bạo động. Phan châu Trinh có thể lập đảng chính trị,
nhưng Huỳnh thúc Kháng chỉ ưa những việc về văn hóa, báo giới, nghiên cứu. Tôi
có cảm tưởng nếu không có Phan châu Trinh chắc không có Huỳnh thúc Kháng cách mạng.
Nhưng vì có Huỳnh thúc Kháng cho nên địa vị, giá trị Phan châu Trinh lên cao,
gây được nhều tín nhiệm nhất là với sĩ phu ở các miền khác. Nhờ có ông – điều rất
hiển nhiên – mà sự nghiệp Phan châu Trinh cùng các đồng chí, các cuộc chính biến
xin xâu, sinh hoạt của các nhà ái quốc do vụ Dân quyền mà phải tù đày, nghĩa là
những biến cố quan trọng của một đoạn lịch sử 1903-1908, 1908-1921 (?) được sống
lại, được lưu truyền. Tôi có thể nói chắc chắn ông là sử gia lớn của Phong Trào
Duy Tân sau khi là chiến sĩ. Sau này ông còn có công lớn khác là ra báo Tiếng
Dân để nuôi dưỡng mãi tư tưởng Duy Tân đứng đắn, thiết thực dù không thu hút được
thế hệ trẻ.
Ông đã hoạt động những năm từ 1903 đến 1905. Trong tiểu sử của
ông, ít thấy nói tới các chi tiết đầy đủ. Do tính khiêm nhượng của nhà Nho, ông
chỉ nhắc mấy điều cốt yếu rồi từ đó ta suy luận tự biến chuyển của tư tưởng
ông. Năm 1890 Phan châu Trinh nghe tiếng tới tìm ông. Năm 1892 kết giao với
Phan châu Trinh. Năm 1899 kết giao với Trần quý Cáp. Năm 1900 đỗ giải nguyên,
được cho ra Huế học chữ Pháp nhưng không đi (Phan châu Trinh cũng từ chối học
chữ Pháp) 5 . Suốt thời kỳ này không biết chút gì về
những việc xảy ra trên thế giới, cả ở lân quốc Trung Hoa dù ở đó đang có những
biến cố trọng đại. Đến năm 1903 mới đọc Thiên Hạ Đại Thế Luận của
Nguyễn lộ Trạch. Năm 1904 đỗ tiến sĩ và nhiệt liệt hoan nghênh tân thư. Cũng
năm ấy gặp Phan sào Nam, đọc Lưu Cầu huyết lệ Tâm thư và kết giao với Nguyễn
Thành.
Nói tóm lại, ông chỉ để ý đến cái mới sau năm 1903
rồi vùi đầu đọc tân thư và tìm bạn kết giao chớ cũng chưa có hoạt động nào đáng
kể.
Trần quý Cáp 6 không có cái hăng hái kỳ lạ của Phan châu
Trinh, cũng không có cái bình tĩnh lặng lẽ của Huỳnh thúc Kháng. Ông vốn con
nhà nghèo, phải đi dạy học để giúp gánh nặng gia đình cho mẹ. Lúc trẻ còn đi học
cho tới khi lớn lên, ông vẫn hay chống đối những điều mà ông cho là một sĩ phu
có huyết tính không thể làm ngơ :
«Lúc bấy giờ có ông Nguyễn Mại, đương chức bổ chính tỉnh Quảng
Nam, ra mời Tiên Sinh về dinh dạy con được hai tháng. Thường ngày Tiên Sinh thấy
trống đánh ba hồi xong, quan ta ngồi chễm chệ giữa công đường. Xã dân đến hầu
thì mỗi người bưng một mâm lễ đặt ở dưới đất đứng ngoài sân cho quan ngó thấy rồi
sắp hàng lạy. Đối với dân thì quan hầm hét : nào giăng nọc đánh, nào hăm chặt đầu,
gông cổ v.v… Đã thế, nhưng điều đáng buồn là khi nghe có Tây nào đến thì ôi
thôi ! áo không kịp gài, giày không kip mang, chỉ biết đứng nghe. Tên thông
ngôn nói chi thì dạ nấy.
Thấy thế, tiên sinh phát tức mà nổi nóng, mắng chửi tàn tệ,
làm cho ông bố phải ra lịnh nghỉ dạy rồi đem lòng căm tức tiên sinh ngay từ đấy ».
(Tiểu sử Trần quý Cáp trang 2)
Nhưng, những sự nổi nóng như thế cũng ít khi xảy ra, ông thường
có tính nghiêm nghị, thận trọng, hoạt bát mà đôi khi cũng có lẫn những lối ăn
nói chua cay. Lúc còn đi học, ông nổi tiếng là có văn chương hùng hồn, khẳng
khái và bất khuất. Lúc học ở trường tỉnh, ông kết giao với những bậc anh tài,
ngoài Phan châu Trinh, Huỳnh thúc Kháng còn những tay lỗi lạc như Phạm Liệu,
Nguyễn đình Hiến, Nguyễn bá Trác, Mai Dị, Phan Khôi, Trương trọng Hoàng… Phần lớn
những người này đều có liên quan với các công cuộc Duy Tân và Đông Du sau này…Vì
phải dạy học «để có thể hôm sớm phụng dưỡng mẹ già. Nhà nghèo, mấy sào ruộng
công điền của làng cấp không đủ chi phí trong gia đình nên phải bút canh (dạy
thuê). Bình nhật, tiên sinh háo khách. Hễ có khách đến thì dọn cơm, nhưng đồ ăn
đãi khách rất đơn sơ, những món ăn ngon ngọt đều để phụng mẹ già (…). Trong thời
gian ba năm tiên sinh dạy tại nhà, không những học trò trong tỉnh như các ông :
Phan bá Cảnh, Trần thúc Tịnh, Lê Huân, Trần tử Kính, đều thành tài, mà các nhân
sĩ ở miền sông Cầu, Nha Trang như các ông : Huỳnh thường Trung, Trương trọng Cầu,
Huỳnh Thường v.v… không nề đường sá xa xôi, nghe tiếng tiên sinh cũng ra thọ
giáo, đều thành đạt cả ». (Tiểu sử Trần quí Cáp trang 3)
Điều này rất quan hệ đối với công cuộc Nam du về sau. Vì nhờ
đó mà Trần quí Cáp bắt được liên lạc với những nhà tri thức trong khắp Miền Nam
Trung Việt, rồi từ đó, những cuộc tiếp xúc trở nên dễ dàng và có kết quả mau
chóng. Có thể nói là nếu không có Trần quí Cáp chưa ắt hẳn đã có Nam Du vận động
Duy Tân.
Nhưng ông khác hai nhà lãnh đạo Duy Tân trên. Nếu hai ông
Phan châu Trinh và Huỳnh thúc Kháng chỉ biết và rồi đây chỉ biết có Duy Tân thì
Trần quí Cáp không hẳn như thế. Ít ra, trong giai đoạn đầu, ông đã có một thời
kỳ làm việc trong bí mật cho Quang Phục Hội (tức phái Đông Du sau này) rồi sau
theo Duy Tân, hoạt động hẳn cho Duy Tân mà những lúc phẫn uất, chán nản ông vẫn
muốn bỏ xứ sang Nhật Bổn. Trong các sách viết về ông, tôi thấy có lời thuật lại
sau đây của Huỳnh thúc Kháng : cụ Tiểu La Nguyễn Thành, một cựu đảng Cần
Vương có tiếng (…) trước mắt không người, sau ngày gặp tiên sinh, có nói với cụ
Sào Nam : «Được một người tốt có đảm thức, hỏi ai ? » Chỉ có Thái Xuyên.
Cùng cộng sự trong mấy năm, lại nói với cụ Tây Hồ : «Nếu được đôi người như
Thái Xuyên có việc gì chả làm xong» 7 . Sau này, trong một bài thơ điếu Trần
quý Cáp lúc bị chém, Huỳnh thúc Kháng cũng có câu : Bồng Đảo xuân phong huyền
viễn mộng (Bồng Đảo gió chưa đưa giấc mộng), ý nói ông muốn sang Nhật mà chưa
đi được.
Vậy thì trong tiểu sử Trần quý Cáp có viết : «Ông chịu ảnh hưởng
hai cụ Phan» rất đúng : Phan châu Trinh Dân Quyền và tự cường : Phan bội Châu
Quang Phục. Tuy nhiên có lẽ ảnh hưởng của Phan bội Châu chỉ mạnh vào các năm
1903, 1904, 1905 (ông biết Phan bội Châu trước Phan châu Trinh và Huỳnh thúc
Kháng). Còn từ Nam Du về sau, hình như ông đã đổi thay nhiều. Kể từ năm 1904,
1905 theo tài liệu còn để lại khác nhau tôi thấy Huỳnh thúc Kháng và Phan châu
Trinh cũng vẫn có những hoạt động mật thiết với Tiểu La Nguyễn Thành chứ không
riêng gì Trần quý Cáp. Nhưng chỉ có Trần quý Cáp có nhận lãnh những nhiệm vụ bí
mật mà thôi :
«Tháng mười năm Giáp Thìn (1904) Tiên sinh cùng hai cụ Phan,
Huỳnh đi thức tỉnh miền thượng du tỉnh nhà, vận động tài chánh cho việc Đông du
(?). Lên nguồn Phước Sơn rồi trở xuống Thạnh Mỹ đặng gặp cụ tiểu Tiểu La. Lúc
đi đường tiên sinh có tức cảnh một câu :
Lúc lắc đò đưa : Tí, Sé, kẽm
Gập ghềnh chân bước : Gành, Truông, Đèo. 8
Câu ấy tuy tiên sinh tả cảnh mà còn ngụ ý sự vận động duy tân
trong lúc ban đầu cũng gian nan, hiểm trở như vậy. Hai cụ Phan, Huỳnh phẩm bình
hai câu ấy rằng : không những cảnh tình đầy đủ mà ba chữ trắc đối với ba chữ
bình đã khó lại hay. Trong quyển Vong quốc sử, cụ Sào Nam cũng cho câu ấy là
danh ngôn.
Lúc đến nhà cụ Tiểu La, gặp Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và ông Tăng
Bạt Hổ, các cụ cũng bàn với nhau : cụ Sào Nam lo việc Đông Du, còn tiên sinh
(Trần quí Cáp) ở lại trong nước vận động mưu đồ ». (Tiểu sử Trần quí Cáp
trang 14).
Sự kiện này cho chúng ta thấy lúc bấy giờ cả ba ông Phan, Huỳnh,
Trần đều cùng hợp tác khá chặt chẽ với Tiểu La Nguyễn Thành và họ giúp nhiều
cho Phan sào Nam trong việc Đông độ. Nhưng kiểm các tài liệu, tôi chỉ thấy Trần
quí Cáp là liên lạc chặt chẽ với Tiểu La. Trong bài mộ chí, Huỳnh
thúc Kháng có viết (bằng Hán văn, dịch ra Việt Văn) :
«Cụ Sào Nam Phan bội Châu nuôi chí quốc sự ngoài mười năm,
thông giao toàn quốc sĩ phu, nhưng ẩn mình trong trường văn, vào học trường Quốc
Tử Giám nghe tiếng tiên sinh, qua lại giao du và tặng bài thi có câu :
Túy sinh ngã bối song tiền nhãn
Đắc sáng nhân gian nhất cuộc kỳ
(Bọn ta say tỉnh hai tròng mắt.
Cờ thế hơn thua một cuộc xoay).
Cách năm sau, cụ Phan xuất dương, đến tiên sinh từ giã, duy
có Phật thấu lòng Phật, chỗ ẩn tâm người ngoài không làm gì thấu rõ ».
(N.H.S chí sĩ trang 38)
Vậy Trần quí Cáp đã là nhân viên của Quang phục Hội chăng ?
Trong danh sách những nhân vật nhập hội ấy do Cường Để ghi lại, chỉ thấy tên những
người ở Huế, còn ở Quảng Nam tuyệt nhiên tôi không thấy Phan sào Nam nhắc đến
tên Trần quí Cáp trong số hội viên của Hội 9 . Tôi ngờ cả Phan châu Trinh, Huỳnh thúc
Kháng cũng đều ít lưu tâm tới cái hội này. Nhưng trong thời kỳ 1903-1905, giao
tình của hai ông Phan, Huỳnh với Tiểu La còn nặng, vì ngoài việc giúp vận động
tài chánh cho Đông Du, sau này năm 1905 khi ở Nam về, Phan châu Trinh «được
tin Phan sào Nam đi Nhật Bản đã về tiên sinh thẳng về Quảng Nam, cùng ống nghè
Trần (Trần quí Cáp), ông ấm Thạnh Mỹ (Nguyễn Thành) bàn về việc đi Bắc. Khi ấy
là tháng chạp năm 1905». Vậy thì, trước tháng chạp năm 1905, còn có những
cuộc gặp gỡ giữa các ông, nhưng sau đó, nhất là khi Phan châu Trinh đã qua Nhật
về, Duy Tân và Quang Phục là hai phe tách biệt hẳn, lý thuyết lẫn thực
hành 10 . (xem ct trang 113)
Còn vào thời kỳ này 1903-1905, hai tư tưởng ấy vẫn gặp nhau
nhiều lắm. Bằng cớ là ở đoạn văn trên của Trần huỳnh Sách, ông đã nhắc tới sự vận
động Duy Tân trong lúc ban đầu và Cụ Sào Nam lo việc Đông du còn
tiên sinh… thì ta thấy những Duy Tân, Đông Du gần như một khối mà Đông Du chỉ
là một phần của Duy Tân. Sự thật, thời kỳ ấy cả hai phe Phan châu Trinh,
Huỳnh thúc Kháng và Phan bội Châu, Nguyễn Thành chưa có sự xung
đột ý kiến đến chỗ quyết liệt. Huống chi ở giữa còn có Trần quí Cáp con người
có đủ uy tín, đủ tài năng, đức độ để duy trì sự hòa hợp.
Cũng thời kỳ này, thơ văn và các cuộc giao du của Trần quí
Cáp còn nặng về thiết huyết. (Thiết huyết là sắt và máu tức vũ lực là danh
từ các nhà chính trị vẫn dùng để gọi phái Phan bội Châu Nguyễn Thành, cho đến
nay, vẫn còn gọi như thế). Tôi chép thêm một đoạn trong Tiểu sử Trần quí Cáp để
bạn đọc theo dõi rõ hơn một nhân vật phức tạp, cái dấu nối giữa Duy
Tân và Đông Du đó :
« Sau khi thi đỗ : tiên sinh lấy sự bài xích khoa cử, đề
xướng tân học làm nhiệm vụ của mình. Phái cựu học thấy thế cho tiên sinh là qua
cầu dứt cầu, nhưng tiên sinh cũng không lấy thế làm điều. Tại kinh phục mạng
xong tiên sinh hồi quan sĩ chỉ. Lúc về, ngang qua đèo Hải Vân, tiên sinh có vịnh
một bài thơ :
Tôi ngôi vạn nhẫn cố hùng quan.
Kỳ độ đăng lâm phủ ngưỡng quan.
Sầu nhãn vọng cùng thương hải ngoại.
Nộ quyền hủy phá bạch vân đoan.
Cô Châu phản trao hoàng thôn mộ ;
Quyên diếu dần lâm cổ mộc hàn.
Thất lý oanh hồi xuyên phá hậu
Uất thông giai khí Ngũ Hành sơn
Dịch :
Quan ải ngày xưa núi chập chùng
Đi về mấy độ ngẩn ngơ trông
Mắt nhìn bể bạc tròng rưng lụy,
Tay khoát mây xanh khí lông hồng.
Thuyền bóng xóm chài e sắp tối,
Chim về rừng cũ liệng đầy không.
Quanh co bảy dặm vừa ra khỏi.
Đoái thấy Hành Sơn tốt đẹp hung.
Về đến Đà Nẵng tiên sinh có bài cảm hoài :
Thử địa do hà động chiến phong,
Chí kim đáo xứ thỉ xà tung.
Thuyền lâm nội phụ tạm tài điếm,
Xa sứ trung quan nhứt lộ thông.
Cố quôc sơn hà lâm địch lý,
Thùy gia lầu các tích dương trung.
An năng tái khởi Trần hưng Đạo.
Cọng vản Đằng Giang vĩ đại công.
Dịch :
Chinh chiến vì đâu nẩy họa tai,
Mà nay thấy những dấu lang sài.
Cờ ba sắc nhoáng tàu vô cửa ;
Xe một đường thông ải suốt dài.
Tiếng địch gọi hồn non nước cũ,
Bóng chiều chói rạng phố lầu ai ?
Ước chi nay có Trần hưng Đạo,
Lập lại Đằng Giang trận thứ hai.
Đến Đà Nẵng, tiên sinh tìm nhà ông Châu Chế, Châu Chế tức
Châu Thành, người làng Nại Hiên, huyện Hòa Vang, một nhà cựu học, tính cương trực
và liêm khiết, lại hiếu hữu ít ai bì. Khi Pháp đóng tòa đại sứ tại Đà Nẵng nhiều
lần mời ông ra giúp việc, nhưng ông cố từ để ở nhà phụng dưỡng mẹ già. Ông lại
là bạn thân với ông chủ tiệm đĩ 11 Nhựt Bản. Tiên sinh muốn nhờ ông này giới
thiệu với ông chủ người Nhật ấy để tìm kế hoạch Đông du.
Khi tiên sinh gặp được ông chủ ấy, hai người bút đàm ý hiệp
tâm đầu. Tiên sinh có tặng ông ấy mấy câu đối : Quốc dân trách nhiệm, nhơn các
tận nhất phân, hoàn vất thất phu, thất phụ ? Thế giới phong trào, thiên tảo
khai tam đảo, ninh vong đồng chủng, đồng văn.
Dịch : Quốc dân gánh vác, ai cũng có một phần kể chi là
trai gái. Thế giới mở mang, trời đã khai ba đảo, nở quên một giống, một giòng.
Ông chủ ấy khen thưởng và gởi câu đối ấy về nước để làm kỷ niệm.
Tiên sinh tới lui thân mật, nên trong sự Đông độ, ông chủ ấy là tay đắc lực.
Sau đó, tiên sinh đi tìm ông Lê bá Trinh để làm việc. Cụ Lê
bá Trinh người làng Hải Châu (Đà Nẵng) đậu cử nhân khoa canh tý (1900). Thi hội
chỉ được đủ phân số bổ dụng, nhưng cụ không muốn xuất sĩ, làm cái nhà nhỏ ở
chân núi Hành Sơn (Non nước), tát nước, cày ruộng để sanh nhai. Vì là bạn thân
của tiên sinh, nên khi đến nhà, hai người đàm bạc tương tao, hàn huyên lịch sự. Tiên
sinh tặng cụ cử một câu đối :
Hoàn hải sơ khai thiên cổ nhan,
Cố nhân do ngọa Ngũ hành Sơn.
Dịch :
Trời mới đã ra mới thế giới
Bạn xưa còn núp núi Hành sơn,
Cụ Lê bá Trinh tỉnh ngộ, bèn ra dạy học tại nhà ông Thương
Liên ở Đà Nẵng để cùng anh em gặp gỡ chung lo việc nước. Từ đây về sau, các nhà
ái quốc trong Nam ra, ngoài Bắc vào đều lấy chỗ nhà ông Châu Thành và cụ Lê bá
Trinh làm căn cứ ». (Tiểu sử Trần quí Cáp trang 8, 9)
Qua các tài liệu dẫn trên của cả người trong phe thuần
túy Duy Tân là Huỳnh thúc Kháng, ta thấy Trần quí Cáp là người nhiệt thành
của Duy Tân và cả Đông Du. Điều này có lẽ cũng dễ hiểu. Ông vốn là người khỏe mạnh,
can cường, hiếu động hơn Huỳnh thúc Kháng, chưa từng nếm qua sự thất bại đau
xót và sự tàn nhẫn của phe Cần Vương như Phan châu Trinh lại thuộc thế hệ mới,
thế hệ trẻ khác xa Nguyễn Thành ; còn may mắn ở vào một tỉnh có hai cửa
bể ngay trước mặt chứ không bị «bao vây» như Phan sào Nam cho nên ông dễ chấp
nhận cả hai : Duy Tân để tự cường mà không đủ, còn phải đông độ nhờ bạn đồng
chủ, đồng văn giúp ta đuổi gấp bọn thực dân choán ngay trên những địa điểm cuống
họng của xứ sở, sừng sững ngay trước mũi và, lúc nào ông cũng có thể chạm phải 12 . Đối với ông, lý tưởng Duy Tân cũng do
đó mà rất mạnh : vì phải lo nghĩ chuyện đánh Tây, nhưng hàng ngày, thấy sức mạnh
kinh khủng của Tây về mọi phương diện thì không thể nào tin là chỉ với súng ống
hay một số người đào luyện ở ngoại quốc là đủ. Cần phải tự làm mạnh, làm mới những
khối sĩ phu và quần chúng đông đảo đã ! Không tự làm mạnh, làm mới quần chúng,
đất nước thì chuyện đánh Tây chỉ là chuyện gây lại những thất bại thảm thương !
Đó, ông chính là con người phức tạp ấy. Sự phức tạp đã khiến
ông gắn liền vào cả hai ông Phan một lúc. Và khi ông Phan sào Nam đông độ thì
nhân có một người học trò của ông, ông Huỳnh thượng Trung ở trong Nam ra mời, cả
ba vị lãnh tụ của phái Duy Tân : Phan châu Trinh, Trần quý Cáp, Huỳnh thúc
Kháng cùng lên đường vào Nam cổ động cho Dân quyền, tân văn hóa, tân sinh hoạt.
Tôi gọi ba lãnh tụ vì kể từ đây, ba bậc đại khoa danh tiếng lừng
lẫy ấy sẽ được mặc nhiên chấp nhận như những lãnh tụ lớn của Phong Trào Duy
Tân, vượt ra khỏi tỉnh nhà.
Cùng theo bước chân của ba ông tới đâu thì những đóa hoa tươi
đẹp và hùng tráng của Duy Tân nở ra tới đó để hiện đại hóa đất nước.
--------------------------------
Bài của Minh Viên Huỳnh thúc Kháng giới thiệu Liệt Sĩ Xã
Sáu Lê Cơ, Tiếng Dân 513 – 17-8-1932 (chép theo Ngũ Hành Sơn Chí sĩ – Anh
Minh 1961). |
|
Ba tiến sĩ : Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn và hai Phó Bảng
: Ngô Chuân, Dương hiễn Tiến, thường gọi là Ngũ Phụng tề phi. |
|
Đào Nguyên Phổ đi câu đối : Tổ Tấn sĩ khước dị, tổ cử nhân
khước nan, ức ức dương dương vô phi tạo ý. |
|
Việt Nam Quang Phục Hội : Cường Để hội chủ, Phan sào Nam phụ
trách từ Quảng Trị, Quảng Bình trở ra ; Nguyễn Hàm (Tiểu La Nguyễn Thành) phụ
trách từ Quảng Nam, Quảng Ngãi trở vào. Theo Cường Để – Cuộc đời cách mạng Cường
Để, Tráng Liệt xuất bản năm 1957 |
|
Thế nhưng lạ lùng : năm 1906 Huỳnh thúc Kháng tìm hết các
cách để tự học chữ Pháp (như Phan Khôi). Cũng nên phân biệt : 1900 nếu đi học
chữ Pháp là bị động, chuẩn bị ra làm quan mà 1906 học chữ Pháp là chủ động,
chuẩn bị phát triển cao trào Tân Văn hóa. |
|
Trần Quý Cáp không để lại một thiên tự truyện. Chỉ có bản
Tiểu sử chí sĩ Trần quý Cáp do học trò là Trần huỳnh Sách, La Qua, Điện Bàn,
Quảng Nam viết : Các tài liệu về Trần quý Cáp một phần quan trọng tôi rút
trong tập này (tài liệu chưa in) gọi tắt Tiểu sử Trần quý Cáp). |
|
Ngũ hành Sơn chí sĩ, Anh Minh Ngô thành Nhân – Anh Minh xuất
bản 1961, Huế. |
|
Đây là địa danh của các khu vực đi lại gian nan nhất của Quế
Sơn. Theo thiên lý, có lẽ không có câu nào diễn tả giản dị mà đầy đủ tất cả
những cái tên đáng sợ của những nơi mà khách bộ hành ngao ngán trên thuyền
cũng như trên bộ bằng tại Quế Sơn. |
|
Kể từ khi qua Nhật, Phan Sào Nam không bao giờ còn gặp Trần
quý Cáp nữa. Tôi cố tìm những bút tích của Phan sào Nam chứng tỏ Trần quý Cáp
giữ một vai trò trọng yếu trong Quang Phục Hội hoặc có những liên kết chặt chẽ
riêng với cá nhân Sào Nam, nhưng không thấy chỗ nào có. Cả khi sắp qua Nhật,
trong Tự phán chỉ ghi là Sào Nam đến nhà Huỳnh thúc Kháng rồi gặp Phan châu
Trinh và Trần quí Cáp báo tin sắp đi Nhật thì «các ngài dòm nhau mỉm cười
chúc tôi thành công». Như vậy khác xa với tài liệu của Trần huỳnh Sách «cụ
Sào Nam lo việc Đông Du còn tiên sinh (Trần quí Cáp) ở lại trong nước vận động
mưu đồ» như chúng ta đã thấy trên kia. Vả chẳng tìm các bản văn tế, khi Trần
quý Cáp đã chết Sào Nam ở hải ngoại, cần chi dấu diếm, thế mà tôi chỉ thấy
ông viết : « Nghĩ như ông Thái Xuyên mà được kết án xử tử thì tội gì ?
chỉ vì lẽ trung hiếu thiên tính ». |
|
Phan châu Trinh chỉ tán thành riêng việc đưa du học sinh
qua Nhật thôi (xin xem sau.) |
|
Trong bản đánh máy, đoạn này lại chép tay và có thêm một dấu
hỏi (chủ tiệm đĩ (?). Không hiểu đĩ hay là gì. |
|
Nên chú ý là Phan châu Trinh, Huỳnh thúc Kháng nhà ở xa hai
thành phố này đến 6, 7 mươi cây số. |
«NGHỆ TĨNH và Nam Nghĩa» từ phái văn học đến phái Cần Vương nghĩa hội thường một mạch câu thông với nhau. Đến phong trào Tân Học cải cách cùng Đông học cán dùi trống một nhịp với nhau » 1 . Nhận xét của Huỳnh thúc Kháng rất đúng. Vì phần lớn dân Nam Nghĩa (Quảng Nam, Quảng Ngãi) là hậu duệ của Nghệ Tĩnh di cư vào, trong huyết quản còn nhảy những nhịp máu quen chịu đựng và phấn đấu. Rồi sau này, vì những liên quan lịch sử, lại ở vào một khu vực cần phải liên tục phấn đấu nên giòng máu ấy chưa loãng mà chỉ gia tăng những sắc thái mới do các cửa biển cung cấp. Phan sào Nam vào Quảng Nam, Phan châu Trinh ra Nghệ Tĩnh sau này cũng là tiếp tục cái mạch câu thông truyền thống đó.
Song trước khi tung ra miền Nghệ Tĩnh và Bắc, các lãnh tụ của Phong Trào đi vào Nam là vì một duyên do : Người Quảng Nam đối với các tỉnh trong vẫn có liên lạc mật thiết vì con cháu họ hễ lớn lên, một số không nhỏ thường tìm cách lần lượt dẫn nhau vào Nam hoặc để kiếm việc làm, để buôn bán và một số khác những nhà nho, sẽ giữ một vai trò đặc biệt. Họ nhờ biết chữ nghĩa, nhưng chả đậu bằng cấp gì cao hơn cái tú tài, thường hoặc đi làm văn nghệ nhà nghề, hoặc làm thầy giáo. Làm văn nghệ có khi chẳng cần học hành gì, như đi nói vè. Còn làm thầy giáo thì khá đông và có một địa vị tinh thần rất lớn. Nghề này nguyên trước chỉ có những người Bắc và người Nghệ làm thôi, chính ở Quảng Nam, thầy Bắc và thầy Nghệ cũng rất nổi tiếng. Nhưng từ khi việc học hưng thịnh, Quảng Nam bắt đầu «xuất cảng» thầy học bên cạnh đường bát, lãnh đen… Ông thầy Quảng cùng thầy Bắc, thầy Nghệ đến Bình Định thì thường dừng lại rồi từ đấy họ nhường chỗ cho ông thầy Quảng tự do thao túng thị trường Chữ nghĩa. Mới đây nhà văn Võ Phiến có bảo tôi : «Ở Bình Định nổi tiếng nhất là những ông thầy Quảng, thầy Bắc. Thầy Bắc là thầy Bắc Kỳ hay Nghệ, Tĩnh mà dân địa phương không phân biệt được. Chưa có một ông thầy nào người Bình Định nổi tiếng bằng những ông thầy này cả». Ấy, Bình Đình lừng lẫy thời Tây Sơn và gần kinh đô, lại có trường thi, thế mà việc học còn chưa thật mở mang rộng khắp, chưa tự cung cấp đủ giáo sư trong thời gần đây thì các tỉnh từ Phú Yên trở vào nhu cầu ông thầy, nhất là thầy giỏi cấp thiếp tới đâu. Muốn học thầy Quảng, thường có hai cách : đón những ông thầy Quảng về tại làng, tại tỉnh để học. Nhưng số giáo sư đó giỏi lắm chỉ đậu đến tú tài và không phải ai cũng lỗi lạc. Còn muốn tìm thầy học rộng, kinh nghiệm nhiều trong việc học để có thể thi đỗ trung khoa, đại khoa, phải vượt núi, băng ngàn ra tại Quảng Nam như trường hợp các học sinh trong Nam ra học với Trần quí Cáp. Còn trong Nam Kỳ (xưa gọi Nam Trung) thì số thầy Quảng lưu lạc trong đó chắc khá đông. Hồ hữu Tường vẫn nhắc đến ông thầy Quảng trong các tác phẩm của ông, rồi ông lấy ba chữ ấy đặt tên cho một bộ tiểu thuyết. Điều này chứng minh việc học chữ Hán trong Nam xưa thật khó khăn và sĩ phu Quảng Nam đã cống hiến một phần hết sức lớn lao vậy. 2
Vậy, chắc chắn «Nam Du» (các tỉnh cuối Trung Việt và cả Nam Kỳ) là một mục tiêu rất đúng, không chỉ vì Duy Tân mà còn vì cái ẩn ý chính trị bao hàm trong đó. Từ xưa nay, các tỉnh miền Nam đều có liên lạc nhiều phương diện với Quảng Nam như đã nói trên mà đất đai trong đó đều do nhà Nguyễn khai thác nên còn có những liên hệ với Miền Trung về tình cảm. Người Nam chất phác, thường dám vị nghĩa mà hoạt động, mà hy sinh nên chắc vào đó thì thế nào cũng gây được cơ sở vững vàng, rộng rãi và tương đối dễ dàng.
Vả chăng, miền ngoài có đủ nhân tài 3 , họ có thể cung cấp những người hướng dẫn rồi tự chủ trương, tự tổ chức lấy được. Chứ trong Nam, nhân tài còn ít, phải đi đến tận nơi gây một nhận thức sâu sắc, chỉ dẫn cách tổ chức tỉ mỉ mới mong có kết quả chắc chắn, lâu dài.
Đoàn cổ động tiền phong của phong trào, ngoài các nhân vật kể trên, có lẽ còn nhiều người. Nhưng tới nay tôi phải kiếm trên nhiều tài liệu khác nhau mới thấy có hai tên : Huỳnh thượng Trung, ông Ích Đường (con ông Ích Khiêm). Ích Đường lúc ấy còn nhỏ lắm, sau này sẽ theo Phan châu Trinh ra Bắc rồi trở thành lãnh tụ của Phong Trào chống thuế 1908.
Lên đường tháng hai năm 1905 (kỷ tỵ), ta chắc lúc ấy họ đã phải hoàn thành công cuộc thức tỉnh sĩ phu tỉnh nhà và đã có một lực lượng vững mạnh rồi. Vì chẳng lẽ đi tới xứ người đánh trống động chuông khi chính mình chưa chuẩn bị, chưa sẵn sàng ? Tôi tiếc là chưa nắm được một tài liệu cụ thể nào về các cơ sở Duy Tân được thiết lập trước tháng hai năm 1905 ngoài việc các nhà lãnh tụ đi truyền bá tân thư, tư tưởng Dân Quyền rất nhiệt thành mà có khi lẫn lộn cả công tác của Quang Phục như đã thấy trên kia, đã lên tới tận Tý, Sé, kẽm mà có lẽ đến trên 95 % người Quảng Nam chưa bao giờ đặt chân tới ! Một công cuộc cổ động qui mô sâu rộng như ít khi thấy từ trước tới nay ngoại trừ tổ chức Cần Vương. Ý hướng Quang Phục còn rất mạnh thời ấy. Nhưng kể từ bắt đầu cuộc Nam Du này thì ý hướng Đông Du gần như nhường cho ý hướng Duy Tân. Nhất là nhờ tài hoạt động, cách xử sự linh hoạt, lời ăn nói hấp dẫn của Phan châu Trinh đã ảnh hưởng tới rất nhiều giới, vừa thức tỉnh, vừa đẩy họ đứng lên thực hiện các công tác của Phong trào từ Nam Nghĩa trở vào. Cả ba lên đường như các chàng Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi sau khi kết nghĩa Đào viên. Thiếu mấy con ngựa và thanh kiếm để chúng ta viết nên một tập truyện lịch sử hay những trang kiếm hiệp. Họ đi với tâm trạng nào ? Với tin tưởng nhiệt thành nào ? Với những cuộc đối thoại ra sao ? Ôi ! thật là thú vị và khá hiếu kỳ khi chúng ta quay nhìn lại đoàn tiền phong cổ động Phong trào Duy Tân trong một xã hội chưa biết mùi xà phòng, chưa dùng hộp quẹt, trai gái tóc bới, răng đen, ông già, bà lão chỉ tin ở Thần quyền, ở Đế quyền, ở Ma quỉ và chẳng bao giờ hiểu con người dám có cái quyền gì ngoài cái quyền sinh, lão, bệnh, tử.
Thật lạ lùng và thật can đảm khi đoàn người đó tới đâu thì gieo rắc những tư tưởng kỳ quái gần như điên khùng tới đó. Nhưng họ đâu có điên, trái lại họ rất tỉnh. Họ đâu có ngu dốt, trái lại họ là những nhà học thức cao. Họ đâu phải bọn vô danh, tiểu tốt ; trái lại, họ dám bỏ những bằng cấp, những địa vị mà các sĩ phu thèm rỏ dãi. Họ đâu có nói chuyện nước Tàu cổ với Khổng Mạnh, họ nói về nước Tàu mới với Tân Thư và những Lư Thoa cùng mạnh Đức Tư Cưu, những ông Thánh của bọn Tây cướp nước. Thế thì họ đang xu phụng bọn xâm lăng ? Trái lại, họ đang muốn đuổi bọn xâm lăng. Họ còn dám lớn tiếng bài xích Thần quyền và Đế quyền để đề cao Dân quyền. Họ dám công kích những bộ tóc dài, bộ răng đen mà họ cho là hết hợp thời và thanh niên mới cần gọn gàng để học lối Âu Tây mà tiến bộ và phấn đấu. Họ nói như thế đấy. Vậy mà những nhà nho chân chính vẫn kính cẩn, thận trọng nghe lời họ, không kể những kẻ dám cởi mở tán thưởng ngay từ phút đầu… Rồi thì những chữ Duy Tân, Dân Quyền, hợp thương, quốc ngữ… những chữ lạ tai khó nghe được có dịp tung ra, được nhắc nhở, được cắt nghĩa, được thảo luận, được phê phán, có kẻ khen, có người chê, có kẻ tôn thờ, có người phỉ báng. Rốt cuộc, nó ở lại trên miệng lưỡi và đi vào trong ngôn ngữ dân tộc.
Nhưng những cuộc vận động tuyên truyền rỉ rả ấy chỉ làm cho người ta sửng sốt lẻ tẻ mà không gây được một tiếng nổ mạnh với âm hưởng lâu dài. Cần phải tạo ra tiếng nổ ấy. Cơ hội thuận lợi nhất đã tới rồi ! Trong Phan tây Hồ tiên sinh lịch sử, Huỳnh thúc Kháng viết 4 : «…đi qua tỉnh Bình Định (bỏ ông nghè Trần (quí Cáp) có quen một cậu ấm «kỳ xuyên công tử» 5 người Nam Trung, nhà ở Bình Thuận, muốn rủ cùng đi Nam) ; xảy gặp ngày tỉnh hạch học trò, người hội hạch đông có năm bảy trăm, tiên sinh (Phan châu Trinh) nghĩ rằng : cái học khoa cử làm hại nước ta đã lâu, ngày nay đã thành đồ bỏ, mà sĩ phu ta còn chui đầu vào trong như kiến ; giấc mộng mê say này, không cho một gậy ngang đầu, không thể nào thức dậy được, bèn mượn đề mục bài hạch đó, làm một bài thi, một bài phú (Thi «chí thành thông thánh» phú «Danh Sơn Lương ngọc» (nói việc thời thế cùng tệ sĩ phu mình, xen lẫn vào trong quyển hạch học trò cho dễ truyền bá. Một tiếng sét đánh vang lừng cả nước. Học giới nước ta trong hai mươi năm nay, lấy văn tự mở mang phong khí, thì bài thi, bài phú đó, cũng là một bài có ảnh hưởng trong lúc đầu tiên vậy». (G.N.K.N. trang 4)
Sự thật những bài thi, bài phú đó ai làm ? Tôi có nhiều tài liệu trong tay và thấy lẫn lộn nhau. Nhưng không có tài liệu nào bảo là của Huỳnh thúc Kháng, dù trong Tự truyện, trang 27 ông viết : «chúng tôi mượn đề mục…» Vậy chỉ còn hai người là tác giả. Trong Tây Hồ và Santé thi tập, Phan châu Trinh mặc nhiên tự nhận mình là tác giả bài thi (vì ông có chép lại trong tác phẩm ấy) thế thì bài phú kia đúng là của Trần quí Cáp. Trong thời văn học, ủy mị, hình thức, nặng giáo điều khô khan của ta xưa, bỗng đột xuất hai bài văn của những sĩ phu có chân tài, có nhiệt huyết, dám nói thẳng sự thật, một điều mà mấy ai dám, bằng những lời vô cùng điêu luyện của bậc đại khoa và lòng nhiệt thành, căm hờn, hùng tráng của nhà cách mạng thì ta có thể tưởng tượng sự sửng sốt đến cao độ của thầy trò ở Bình Định ra sao ! Mà thiết tưởng không cần giỏi chữ Hán như người xưa, bọn chúng ta ngày nay, sống sau các vị ấy trên nửa thế kỷ (64 năm) mà đọc lại ít câu còn thấy rung động đến tận đáy hồn.
… … …
Giang sơn vô lụy khốc anh hùng !
Vạn dân no lệ cường quyền hạ ;
Bát cổ văn chương túy mộng trung.
Trường thử bách niên cam thóa mạ,
Bất tri hà nhật xuất lao lung !
(Chí thành thông thánh)
Bài phú cũng tuyệt hay, nhưng tôi ngại nếu chép lại bằng Hán văn, người đọc ngày nay sẽ nản. Tôi chỉ xin chép lại hai bài chính Trần quí Cáp tự dịch lấy sau này khi ở Nam về rồi ủy cho ông Hồ thanh Vân đem ra Bắc Hà giao cho cụ Nguyễn hải Thần để cổ động quan sĩ ngoài Bắc (tiểu sử TQC trang 11). Tôi nhận thấy bài thi dịch rất tầm thường, bài phú dịch hay hơn nhiều. Đáng lẽ tôi thay bằng một bản dịch bài thi như của Đào trinh Nhất, nhưng chợt nghĩ là những tài liệu này có tính chất lịch sử nên để nguyên như thế.
Dịch bài thi :
Ngoảnh lại giang sơn luống lẩng lơ (lửng lơ)
Anh hùng rầu rĩ khóc người sơ.
Muôn dân tôi tớ phường quyền mạnh
Tám vế văn chương giấc ngủ mơ.
Dày mặt 6 mỉa ai đành chịu mãi.
Thoát thân trói buộc biết bao giờ.
Người ta ai cũng tâm càn ấy,
Nghĩ đến vận này đã thấy chưa ?
Dịch bài phú :
Kìa Châu Á trong vòng hoàn hải,
Khi đồng bào vác nỗi mây tuông,
Ngắm xem một cõi dinh hoàn,
Đều trông thấy kẻ lo buồn xiết bao,
Việc thế sự xôn xao sóng bể,
Mặt anh hùng rầu rĩ non sông,
Nói ra ai chẳng thẹn thuồng.
Sao ta cứ một cái lòng thế thôi ?
Sực thấy chữ tương lai mà sợ,
Còn mơ màng giấc ngủ như không
Ai ôi đứng dậy mà trông
Nước ta một góc Á Đông kém gì !
Trên Hồng lạc dưới thì Trần Lý
Kẻ nhơn tâm sĩ khí ai bì
Kìa xem Lãnh Biểu xưa kia
Mã Nhi thuở nọ còn bia đành rành
Một trận đánh Chiêm Thành đã khiếp
Mấy nhiêu năm Chơn Lạp mở cương
Nước ta xưa vẫn phú cường
Những điều hay lạ có nhường chi ai
Bởi vì thuở những người thất sách
Đến thế này có trách ai đâu.
Ngũ ngôn bát cổ đôi câu,
Đường khoa mục bắc lắm cầu cùng nơi
Giữ một lời nghe hơi văn sách
Bia đội đường nghiêu Chích khen chê
Lời văn rặt giọng Tàu bè,
Vài câu tứ lục cung nghề từ chương.
Chỉ lấm lét thấy vàng giữa chợ
Rủ nhau ra cướp của ăn không
Một đời mấy mặt anh hùng
Ngọc dâng vua Sở, ai dùng làm chi ?
Ôi những kẻ than vì tài lợi.
Còn nghĩ gì đến cái thân danh
Lại xô một lũ thơ sanh
Trói vào một cái hư danh thế nào !
Nghĩ như thế cớ sao nên thế ?
Còn mong gì mỗi vẻ mỗi hay
Đau đớn thay nỗi nước này,
Bởi ai gây dựng đến rày tại ai ?
Đều trông thấy đắng cay khôn xiết
Lại một ngày một siết ruột da,
Tính trong cái thuế dân nhà,
Thôi đà hết sạch rồi ra còn gì !
Coi như thế trăm bề chịu khuất,
Lại lọc lừa cất đặt trăm quan.
Mình thì lạy lạy, van van,
Nó coi như thế một đàn nó nuôi.
Cơ sự thế dại rồi đã vậy
Tai họa này khôn chạy cho mau !
Nào ai nghĩ thảm lo sầu,
Thì theo lối nghĩa chớ cầu đường danh.
Lại thốt những thơ sanh quan lại,
Rủ nhau ra theo mái nhung hiên
Hơi còn mạnh, sức còn bền
May ra đập phủ chìm thuyền có khi.
Sống vô ích, sướng gì cái sống
Chết nên công chết cũng nên đời,
Cớ sao ngày tháng dông dài,
Cầm như cái chuyện ở ngoài không nghe.
Lại vẫn giữ lấy nghề hủ liệt
Đành say mê sống chết với thân,
Khác nào như kẻ phụ nhân
Đã cam sỉ nhục muôn phần thế thôi !
Lại chẳng khác chi đời lính lệ,
Đằng bôn xu như thể tôi đòi,
Than ôi ! cũng một giống người,
Ruột gan máu mủ cũng người giống ta !
Nghĩ trời đất sanh ra còn tủi,
Chớ một mình thẹn với non sông,
Tôi nay thề quyết một lòng
Thề rằng việc ấy cho xong mới rồi.
Việc nhơn thế thử coi mà gẫm
Vận tang thương một bóng xanh xanh
Trời Nam bể Sở mông mênh
Cái thân chích địa nghĩ mình xót xa.
Nhìn thu lạnh sương sa lác đác,
Cửa thần môn lén bước, bước ra
Ngắt trời một dải xa xa,
Thuyền tiên trông đã vượt ra non thần.
Bến Dịch thủy chần ngần đứng nghỉ
Tiễn đưa người giọt lụy chứa chan.
Một lời như khóc, như than,
Thôi còn Lương Ngọc, Danh Sơn làm gì ?
Cả hai bài thi và phú đều ký bằng một tên giả : Đào mộng Giác. Vì số học sinh thi có đến năm bảy trăm theo lệ khảo mỗi tháng mà viên đốc học người Quảng Nam nhà có tang xin nghỉ, quan tỉnh chủ trương ngày khảo phúc nên sự hiện diện của các thí sinh mới không ai chú ý. Thế là những anh chàng Đào mộng Giác sau vụ ấy lẹ lẹ rút lui.
Chúng ta có thể đoán sự sửng sốt, hãi hùng của bọn quan lại chuyên cúi đầu, khom lưng khi đọc những bản văn trầm hung ấy đã có phản ứng ra sao ? Thật khó mà tưởng tượng ra cho hết. Họ chỉ còn biết «một mặt đệ quyển ấy ra triều đình Huế, một mặt cho nã tên Đào mộng Giác và bắt một số học trò trong tộc Đào thuộc tỉnh Bình Định là tộc của cụ Đào phan Duân và Đào Tấn để tra hỏi (…). Ban quan lại tỉnh ấy lấy làm hổ thẹn nên không tư sứ và bỏ qua việc ấy». (Tiểu sử T.Q.C trang 11)
Đó là các quan, còn phản ứng của giới nho sĩ ra sao ? Tuy
không có bản văn nào ghi lại cho rõ, nhưng ta có thể đoán ra dễ dàng. Lẽ tất
nhiên là khi bản nháp do bọn các ông Nguyễn quý Anh lúc ấy còn học tại Trường
Bình Định lộ ra là các thí sinh chỉ còn há mồm, há miệng, ghi ghi, chép chép, một
truyền mười, mười truyền trăm… Không kể những bài chữ Hán mà sau những bài này
dịch văn nôm nhất là bản dịch Danh Sơn Lương Ngọc Phú sức truyền bá trong dân
chúng rất mạnh. Bảo làm sao người ưu thời mẫn thế có thể đọc tới những câu :
Một lời như khóc như than,
Thôi còn Như Ngọc, Danh San làm gì !
mà có thể cầm được sự cảm động bồi hồi. Thật đúng như Huỳnh
thúc Kháng nhận xét, đó là «một tiếng sét vang lừng cả nước» vậy.
Lúc các quan lại Bình Định xôn xao bắt bớ thì các ông đã vào
tới Phú Yên. Bộ ba kiếm hiệp tân thời ấy cùng các đệ tử lại hăng hái
tiến trên con đường khai triển Duy Tân với lòng nồng nhiệt. Lúc đi ngang Nha
Trang, được tin chiến hạm Nga đậu tại Cam Ranh, bộ ba kiếm khách liền
nổi tò mò, muốn xem cho thỏa. Họ liền mua trứng gà cùng các thứ trái cây rồi giả
làm khách buôn, thuê một chiếc thuyền đánh cá để leo lên coi cho khoái mắt. Huỳnh
thúc Kháng nhận xét : «Đấy chẳng qua vì tính thiếu niên háo kỳ chớ không có gì»
(tự truyện 27-28). Nhưng chắc chắn chữ háo kỳ ấy còn có nghĩa so sánh, nhận định.
Thời bấy giờ, hạm đội Nga lừng lẫy trong Thế giới. Nước Nhật Bản mới nở mũi kia
đánh cho nó những vố kinh thiên động địa thì chắc chắn nó phải gây rất nhiều cảm
tưởng sâu xa trong tâm hồn những chàng thanh niên đang tôn thờ tôn giáo
Duy Tân kia đến đâu ! Chỉ mới ba mươi năm, chưa tới nửa đời người, Nhật đã
bước một bước vĩ đại như thế, nếu chúng ta cũng dám Duy Tân, chả lẽ ba mươi năm
sau, không làm nên nổi một tiếng vang khiêm nhượng nào hay sao ? Cuộc xem tàu
ngoại quốc «rất khoái» (theo H.T.K) ấy đã gây cho họ những nhận định chắc
chắn là rất thực tế cũng như với óc thực tế, Phan châu Trinh đã lên tàu Nga
đang đánh với Nhật rồi qua luôn tận xứ sở nước đã chiến thắng (Nhật Bản) kia để
quan sát, để nhận định nữa. Và hình như ông không bị lóa mắt trước sự Duy Tân nặng
về hình thức… Với ông, Duy Tân trước hết là nội dung, là Dân quyền. Không
có dân quyền làm căn bản, không thể tự cường, không thể có Duy Tân đúng, hợp
lòng người, đạo trời được. Và nay, ông đang đi, như một nhà truyền giáo, truyền
bá cái chủ nghĩa Dân Quyền…
Rời Cam Ranh, họ vào Bình Thuận giữa tháng năm. Ba kiếm khách
vừa vào tới nơi thì Phan châu Trinh thọ bệnh 7 Huỳnh
thúc Kháng và Trần quí Cáp đi tìm người thanh khí, những cái tên được nhắc lại
cũng không khác những cái tên mà xưa kia Nguyễn lộ Trạch đã từng gặp : Trương
gia Mô, Nguyễn trọng Lợi (Huỳnh thúc Kháng gọi Nguyễn trọng Lôi, anh ruột của
Quý Anh sau sáng lập hội Liên Thành) và thêm Hồ tá Bang. Huỳnh thúc Kháng có
bài làm thơ để mô tả tỉnh Bình Thuận lúc mới đặt chân tới.
Bình Thuận xứ này mới trải qua,
Nửa thời Hời mọi, nửa dân ta.
Gái lo trang điểm màu son phấn,
Trai lại trau tria cuộc ngựa gà.
Thanh khí rán bòn năm bảy kẻ.
Văn chương cằn sảy một đôi nhà.
Ai về đất Quảng ta xin nhắn,
Bình Thuận xứ này mới trải qua.
Chắc công cuộc kiếm bạn đồng hành không được dễ dàng và nhiều
qua câu : «Thanh khí rán bòn năm bảy kẻ», còn văn học thì chưa lấy gì làm mở
mang qua câu : «cằn sảy một đôi nhà». Trong khi ấy thì gái điểm tô son phấn,
trai lo đánh ngựa, đá gà. Thật đáng thất vọng ! Nhưng từ mảnh đất thất vọng đó,
một nguồn sinh lực mới, dồi dào bắt đầu nẩy nở cùng với bước chân của ba hiệp
sĩ. Sau đó hơn một tháng (theo Huỳnh thúc Kháng trong tự truyện, chứ không phải
đôi ba hôm như Châu hải Kỳ) hai ông Huỳnh thúc Kháng và Trần quí Cáp về Quảng
Nam. Còn Phan châu Trinh ở lại.
Phan châu Trinh bị bệnh, không hiểu vì phải phấn đấu quá nhiều,
nói không hở miệng, đi không hở chân hay vì những năm ở núi non lao lực, lại chắc
chắn không tránh được bệnh sốt rét, nay sau buổi trèo non, vượt suối đã tác hại
ông ? Nhưng ta cũng biết : dầu đau ốm gì, cái miệng ông đâu có chịu đau ! Ông vẫn
nói bằng miệng, viết bằng tay. Và đây là một bàn Cờ Tướng để ông có
cơ hội trình bày – hình như thế – thực trạng của Triều đình Việt Nam (Nam triều)
thưở ấy :
Một ông tướng lác đứng trong cung,
Sĩ tượng khoanh tay chẳng vẫy vùng.
Pháo giở hai cây nằm dưới góc,
Tốt đâu năm chú đứng bên sông.
Lờ khờ cặp ngựa đi tam cố,
Lạc xạc đôi xe chạy tứ tung. 8
Đương cuộc ai xui mê đến thế,
Họa là tiên xuống giúp cho cùng.
Đó, là những lý lẽ để phải Duy Tân : Nếu không gấp tự cường
thì lực lượng kia phải chỉ còn biết vĩnh kiếp đầu hàng, chịu nhục trừ phi… tiên
xuống giúp. Nhưng tiên làm gì có trong ảnh «cảm tác» này :
Gió, tố, dông, mưa đổ lộn phèo,
Trời già khi nở thắt khi eo.
Giảm mùi trung hiếu nên cay đắng,
Dở túi văn chương đã mốc meo.
Bọn điếm lăng xăng lo chợ cháy,
Con hoang lơ lững khóc cha nghèo.
Hai câu luận này Phan châu Trinh rất đắc ý. Trong một số báo
Tiếng Dân có đăng bài «Lối học khoa cử» 9 Huỳnh
thúc Kháng có viết :
« Cụ Tây Hồ (…) bình sanh phản đối Tống nho, và Tây học
lại có con mắt đặc biệt phát kiến nhiều chỗ tinh túy (chữ «Dân quyền» ở xứ ta cụ
hô hào trước nhất) trong một bài thi cảm tác tả cái hiện tượng nước ta trong
khoảng quá độ này có câu :
Bợm điếm lăng xăng lo chợ cháy,
Con hoang lơ lửng khóc cha nghèo.
(…) Cái độc Tống nho cùng khoa cử mà còn đeo ở cái não của
người mình thì bề ngoài dầu Âu hóa, dầu Tây học rầm rộ thế nào, mà bề trong
không khỏi phạm vào câu thơ cụ Tây Hồ nói trên : cha đã nghèo mà con lại hoang
thì trừ bọn «bợm điếm lo chợ cháy» ra, không còn mong có công việc
gì là thực tế ».
Nhưng dù thực trạng có đau lòng mà tác giả vẫn không thất vọng.
Ông hô hào đập cái túi văn chương mốc meo đó đi để :
Non cao, bể rộng mênh mông cả,
Mặc sức bơi chơi, mặc sức trèo.
Những lúc rỗi rảnh khác, ông cũng họa thi các bạn. Còn lại một
bài họa với Ông Trương gia Mô :
Mưa giầm ai gội, nắng ai dang ?
Sự nhớ ông Chi khóc dạo đàng.
Rắn mắt dò chơi then tạo hóa,
Sẵn vai nhắc thử gánh giang sơn :
Gió đông, nước cũ lòng nhưng (vẫn) bận,
Cây cỏ non tiên dạ vẫn màng. 10
… … …
Ông Chi là Cao Sơn Chánh Chi, người Đảng Duy Tân bên Nhật. Rủ
nhau nhắc gánh giang sơn lên vai và có một niềm tin lớn lao ở Duy Tân : ở đó vẽ
ra không phải một nước Việt Nam ủ rũ, héo hon trong cảnh gió đông mà
là rực rỡ «cây cỏ non tiên» huyền diệu, xanh tươi ! Ôi ! những tưởng tượng thuở
ban đầu !
Đó là những công cuộc vận động Duy Tân bằng thi ca. Còn những
cuộc vận động khác quan trọng, hăng hái, tích cực diễn ra từ tháng 5 đến tháng
9 năm 1905 như sau :
« - Lập một «thơ xã» mệnh danh là nhà giảng sách tại
đình Phú Tại để giảng những sách báo của Hồ Thích 11 ,
Lương khải Siêu… nhằm việc phổ biến những tư tưởng mới về dân chủ, tự cường. Cụ
(P.C.T) là diễn giả chính. Số người đến nghe chưa được bao lăm. Tuy vậy, những
cuộc nói chuyện thường hào hứng, vì cụ giảng rõ ràng, dễ hiểu, làm chuyển được
lòng người nghe.
- Chủ xướng hội «Thanh niên thể dục» lấy tên là «Dục Thanh»
mà người đứng lập là ông Nguyễn trọng Lợi cốt để dạy học theo tinh thần mới.
Trường mở tại nhà cụ Nguyễn Thông.
(Nguyễn Thông theo Huỳnh thúc Kháng, hiệu Kỳ Xuyên, chống
sách Tiết yếu của Bùi huy Bích và có dâng sớ xin cải cách việc học, việc thi.
Ông là nhân sĩ rất nổi tiếng như Nguyễn Siêu (Thần Siêu Thánh Quát), Nguyễn bá
Nghi. Lúc bấy giờ chắc ông đã chết).
Ông Lương thúc Kỳ (cha vợ ông Phan Khôi) đứng làm giáo viên.
Ông chỉ dạy được một tuần thì có «lệnh ngoài» đánh vào bắt một lần với Ông
Trương gia Hội, con của nhà chí sĩ cách mạng Trương gia Mô. Trường Dục Thanh do
đó cũng bị đóng cửa.
Chủ xướng vấn đề tổ chức những hội kinh tài cốt lấy huê lợi
nuôi học sinh mà năm 1906, hội Liên Thành một công ty thương mãi (cá, nước mắm)
cũng do Ông Nguyễn trọng Lợi (người đầu tiên đứng ra khuyếch trương thương nghiệp
tại Bình Thuận) thành lập ra đời. Công Ty Liên Thành là một Công Ty lớn nhất và
được thành lập trước tiên ở nước nhà ». 12 (xem
c.t. trang 138)
Những tài liệu trên (in nghiêng) do chính bà Lương thức Kỳ
giúp cho ông Châu hải Kỳ. Tôi kiểm lại thì chỉ sai vài điểm so với các tài liệu
khác 13 (xem c.t. trang 138). Ông Châu hải Kỳ nhận
xét rất đúng : « Nhờ cụ Phan châu Trinh chủ xướng, khuyến khích, giáo dục
công, thương hội mà phong trào truyền bá canh tân, mở mang thương nghiệp, chấn
hưng công nghệ đã được khởi phát và thực hiện tại Bình Thuận sớm hơn ở Bắc
phần và Nam phần ».
°
Tháng 9 năm 1905 có một thanh niên họ Trương con nhà thế gia ở
Nam Kỳ ra ở Phan Rí chịu cáng đáng công việc Nam Du của Phan châu Trinh. Ông ở
lại chờ rồi được thơ của họ Trương gởi ra cho biết cậu không thể trở lại và giục
ông vào gấp. Cũng cùng lúc ấy, được thư anh em giục ra Bắc, ông liền viết thư
đáp lời họ Trương, cho biết dự định mới của mình rồi trở về.
Tuy trên đường về nôn nả là thế mà Phan châu Trinh không bao
giờ bỏ một cơ hội thuận lợi nào để thực hiện chí hướng của mình. Có người sẽ hỏi
: thì giờ gấp rút như thế, đâu có đủ để thuyết phục kẻ này, người nọ ; nội mỗi
việc làm quen với họ cũng đã mất biết bao nhiêu thời gian rồi.
Hiểu như thế là chưa rõ cái liên hệ của sĩ phu thời ấy. Họ sẵn
sàng để quen nhau, chỉ cần một cái bằng, một người bạn, một cái tên giáo sư nào
đó, vài câu thơ, một điển tích… Có khi khéo vận dụng những «khí cụ» ấy người ta
có thể quen nhau, thân nhau trong giây lát, dù chưa hề biết chút nào về nhau.
Và Phan châu Trinh đã tận dụng trí khôn để tiếp xúc và thuyết phục. Và tùy hạng
người, tùy trình độ, học vấn, tâm tính mà ông có một lối để kết giao và tuyên
truyền không ai giống ai.
Chẳng hạn khi ở Phan Rang nghe nói đến Quản Đạo là người Nam
Kỳ, hơi thông chữ Hán có tánh tự phụ, khinh người. Ông Phan chưa hề quen biết,
song vẫn nghe tiếng. Nhân đi ngang qua đấy, thấy viên Quản Đạo, liền đi thẳng
vào, ngồi đối diện nói chuyện. Viên Quản Đạo (một chức quan cao cấp) lấy làm lạ,
Phan châu Trinh bảo : « Ông quên tôi sao ? Sao không có ký tánh (tính nhớ)
thế ? »
Quản Đạo ngồi nghĩ mãi không ra. Ông Phan bảo : « Thong
thả ông sẽ nhớ lại, xin cứ ngồi nói chuyện đã ».
Ông Phan thuật chuyện Nam Du và nói : « Trước nghĩ rằng
Nam Trung (Nam Kỳ) là đất Yên Triệu 14 nước ta, chắc nhiều người bi ca khảng
khái 15 . Nay xem lại thì chỗ thấy không được như
chỗ nghe. Nói xong, Ông Phan lấy bức thư định gởi cho họ Trương nói trên và đọc
cho Quản Đạo nghe. Đại khái nói thời cuộc cạnh tranh cùng nước nhà suy sút, nói
giống tiêu mòn, người có huyết tánh không lẽ ngồi yên được v.v… »
Quản Đạo biết ông khách lạ nói khích mình, liền khen :
« Như ông thật là người có đại chí ».
Phan châu Trinh đáp : « Sinh trong nước Nam ta ngày nay,
mà không có lòng lo đến chủng tộc thì không phải là người nữa, có gì là đại
chí. Quản Đạo biết ông Phan là người khác thường, đãi một cách kính trọng. Đến
bây giờ, ông mới nói tên họ mình rồi ra đi ».
Với các quan lại trong chỗ thâm tình, ông lại đối xử một cách
khác. Lúc về tới Bình Định, vào thăm ông huyện Phù Cát, Nguyễn quí Long, ông ấy
tuy làm quan mà óc khoáng đảng chỉ thích nghe những chuyện Duy Tân, Dân Quyền.
Lúc lên đường còn dùng dằng mãi chưa chịu rời tay và sách câu lưu dẫn. Phan
châu Trinh liền đọc : « Lòng nhọc chánh thì ươn, một cái đờn ca nghe
đất dậy. Kẻ đi người ở lại, hai ta tâm sự phú trời soi ».
Ông huyện vô cùng hỉ hả như được của báu. Vả chăng làm sao khỏi
đắc ý khi có người bảo : hai ta tâm sự phú trời soi ? Thế thì họ đã
tâm sự những gì chắc phải bí mật và cần giữ kỹ trong thời gian đen tối nhất của
lịch sử đấy ư ?
Có lẽ thú nhất, lạ lùng và cảm động nhất là lần thuyết phục
ông An Ba lúc về qua Quảng Ngãi. Ông tên là Lê Khiết, bố chánh hưu, ở làng An
Ba, trước là môn hạ Thạch Trì Nguyễn Thân, một vị quan đã từng dẹp Cần Vương,
oai danh chấn động Nam Bắc, vào loại Việt gian đầu sỏ. Nguyễn Thân có
ý lãnh đạm đối với ông và ông cũng có óc mới ít nhiều. Trong lúc nói chuyện,
Phan châu Trinh muốn dẫn tới con đường mới nên bàn nhân vật hiện thời
và môn hạ Nguyễn Thân rồi nói khích :
- Môn hạ Thạch Trì không có người.
- Sao ông biết ?
- Tài học, oai vọng như Thạch Trì và cầm quyền nước đã lâu,
mà không làm được công danh sự nghiệp lớn lao, chỉ rút cuộc đời đến phú quý một
mình mà thôi, môn hạ có người sao lại như thế ?
- Ông có chỗ chưa rõ, sao lại không người ?
- Dầu có thì Thạch Trì lại không dung được.
Lê Khiết nghe đến câu ấy toàn thân rúng động, hai tay vỗ mạnh
lên bàn, đứng dậy cả cười mà nói : « Thật có như lời ông nói đó ! »
Khích người đã khéo mà tôn người càng khéo hơn. Kể từ câu nói
đó Lê Khiết trở thành một nhân vật Mới. Một người ít xúc động như Huỳnh
thúc Kháng mà nhắc đến chuyện này cũng phải kết luận bùi ngùi : «Than ôi !
Chỉ vì vài câu nói mà ông An Ba (Lê Khiết) trở nên một Tân nhân vật, chết về việc
dân biến năm 1908. Nghe nói từ lúc gặp tiên sinh về sau, tới đâu cũng nói chuyện
tiên sinh mà xưng tụng luôn ». (GNKN, LXX)
Thật chẳng khác chi đọc truyện trong Đông Châu Liệt Quốc !
Lạ nhất là một người trẻ tuổi, mới trên ba mươi mà thuyết phục
dễ dàng một vị quan hưu, gây những xúc động sâu xa mãnh liệt đến thế, biến một
kẻ có nợ máu với dân (môn hạ đắc lực của Nguyễn Thân) thành một tân nhân vật với
kết cuộc hùng dũng đến thế (bị xử tử vì dân biến), thì ta đủ biết thuật hùng biện,
tài thâu phục người của Phan châu Trinh kỳ diệu tới đâu.
Biết bao nhiêu sách vở ở Việt Nam chuyên kể tài của các tay
sách sĩ ngoại quốc mà không bao giờ nhắc giai thoại này thì quả «bụt nhà không
thiêng»…
Sau khi về Quảng Nam (nhân biết việc Phan bội Châu đi Nhật Bản
đã về khi còn ở Phú Yên) Phan châu Trinh liền tìm gặp Nguyễn Thành và Trần quí
Cáp bàn việc đi Bắc.
Khi ấy là tháng chạp năm 1905.
--------------------------------
Vụ kháng thuế ở Trung kỳ năm 1908 trong Thi văn quốc cấm
(TVQC) Thái Bạch. Nhà Sách Khai Trí 1968. Sẽ in tắt : Vụ kháng thuế. |
|
Những nhận xét này cốt ý phản ánh một tình trạng giáo dục
cũ của ta trước khi nền giáo dục theo phương pháp Âu Tây phát triển. Sự thật,
ảnh hưởng ông thầy Quảng ở Nam Trung Việt và Nam Việt còn khá mạnh vào đầu thế
kỷ XX. |
|
Hiển nhiên là thời kỳ này Nghệ An đã có đầy đủ kế hoạch Duy
Tân rồi. Và khi Phan bội Châu về Nghệ sau tháng 7, 1905 đã nghe Đặng nguyên Cần
bảo cho biết. Ta cũng nên hiểu thêm Phan châu Trinh vốn là bạn chí thiết của
Ngô đức Kế từ trước 1905 và ông Kế là lãnh tụ có uy tín nhất của Phong Trào
Duy Tân ở Nghệ Tĩnh. Xin xem chương Nghệ Tĩnh… ở sau. |
|
Có bản in riêng của nhà xuất bản Anh Minh. Toàn văn cũng có
in lại trong Giai nhân kỳ ngộ sđd. |
|
Tên Nguyễn quý Anh, con Nguyễn Thông một học giả hiện ngụ tại
Bình Định. |
|
Mặt dày mày dạn (tục ngữ). |
|
Một số tài liệu sau đây, viết theo Châu hải Kỳ – Bách Khoa
101 (1961) còn thơ thì chép theo Tây Hồ Thi Tập, trừ bài thứ nhất. |
|
Thơ xưa mà đến hai câu này kể cũng là khéo. Tam cố có nghĩa
là ẩu, tiếng Quảng rất thông dụng mà đối với tứ tung cũng có nghĩa vô mục
đích, vừa ta, lại vừa tàu mà rất chỉnh. |
|
Lối học khoa cử và lối học của Tống nho có phải là học Đạo
Khổng Mạnh không ? Của Minh Viên H.T.K có in lại trong Khổng học Đăng quyển
II nhà xuất bản Anh minh 1957. |
|
3 bài thơ này đều có in trong Tây Hồ và Santé thi tập (sđd)
đề là làm ở Phan Thiết. |
|
Chắc ông Châu hải Kỳ lầm vì Hồ Thích sinh năm 1891 lúc ấy mới
14 tuổi, còn học khoảng lớp nhì ở Thượng Hải. Đúng ra là sách của Khang hữu
Vi. |
|
Theo ông Nguyễn Hiến Lê trong cuốn Đông Kinh Nghĩa Thục thì
do một nhà cách mạng khác, cụ Nguyễn hữu Hoàn, phong trào lan vào Bình Thuận.
Cụ quê ở Hà Tĩnh, vì dự vào việc xin giảm sưu ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, sau một
cuộc đàn áp năm 1909-1910 cụ phải bỏ nhà vào ẩn náu ở làng Tam Tân (…) dạy học
theo tinh thần Đông kinh Nghĩa Thục, nhờ vậy dân chúng ở miền đó cũng duy tân
một phần nào… Tại tỉnh lỵ Bình Thuận hình như ông cũng có một lớp do một cụ
Tú điều khiển. |
|
Chỉ có điểm đóng cửa Trường : năm 1908, nhờ Công Sứ Gac Nhe
mà Bình Thuận không bị đóng cửa Trường, và cơ sở thương mãi. Tài liệu Trung Kỳ
Dân biến của Phan châu Trinh, xem các chương cuối sách. Và đây là điểm khá
quan hệ. |
|
Yên Triệu : đất nước Tàu thời cổ, nhiều người hào hiệp. |
|
Bi ca khảng khái : vì đau đời mà làm thơ ca bày cái ý khảng
khái ra. |
KHI PHAN CHÂU TRINH
XUẤT NGOẠI TRỞ VỀ
PHAN châu Trinh từ sau Nam du, liên tiếp đó đọc những
sách của Phan sào Nam ở Nhật gửi về, có nhiều chỗ đồng ý mà cũng có nhiều chỗ
phản đối. Ông thấy cần phải gặp lại Sào Nam để thương xác cho rõ. Chúng ta cũng
có thể đoán là ông có thể tán thành việc đưa học sinh ra ngoài để khai hóa
nhưng không tán thành việc bạo động mà ông cho là chưa đến lúc. Nhất là ông có
nhiều mối nghi ngờ đối với một nước Nhật hùng cường, nhưng cũng đi vào đúng con
đường của đế quốc Tư Bản Tây Phương như Nguyễn lộ Trạch tiên liệu mà còn tệ hại
hơn là thiếu một chủ nghĩa Dân Quyền. Vậy chuyến đi Nhật là cốt để khảo
sát và xác nhận tận nơi, tận chỗ cái văn mình, cái hùng cường của Nhật và cả
cái lý tưởng thực sự của họ là có mộng đế quốc tư bản hay muốn tìm ra một lối
thoái nào khác cho những trang sử mới của nhân loại trong đó có các nước thuộc
địa của tư bản Âu Mỹ.
Cùng với ông Ích Đường, hai thày trò đi ra Hà Nội gặp sĩ phu
ngoài ấy : Lương văn Can, Đào nguyên Phổ, Võ Hoành để bàn kế Duy Tân 1 rồi
vào trong Nghệ Tĩnh. Lần này hiển nhiên ông lại hội kiến với Ngô đức Kế 2 cùng
các sĩ phu Duy Tân (nghĩa là chủ trương khác với phe thiết huyết của Phan bội
Châu) để bàn một chương trình hành động. Người ta thường nhắc tới tổ chức Minh
xã, theo Hoàng thúc Trâm, một người am hiểu tình hình thời ấy, có ghi trong Hán
Việt Tân từ điển (Vĩnh Bảo Sàigòn năm 1951) thì Minh xã : «Khoảng đầu
thế kỷ 20, một nhóm chí sĩ Việt Nam, như Phan châu Trinh, Ngô đức Kế, Huỳnh
thúc Kháng có liên lạc nhau làm như một đoàn thể, mục đích cốt lay tỉnh đồng
bào, cổ động Duy Tân, bài trừ những cái không thích hợp với hoàn cảnh và thời đại.
Đoàn thể ấy được mệnh danh không chính thức, không công khai là Minh Xã».
Đã có Minh Xã, tất có Ám xã. Hoàng thúc Trâm định nghĩa : «Một xã hội bí mật
ở hồi Pháp thuộc do một số chí sĩ Việt Nam tổ chức, chủ trương dùng vũ lực để
dành độc lập, đối với Minh xã. Phan bội Châu là người Ám xã».
Thời đó, phong trào Duy Tân của Nghệ Tĩnh đã có lãnh tụ mặc
nhiên là Ngô đức Kế, có tổ chức mệnh danh (chứ không có danh xưng) là Minh
xã và dự bị 3 lập
các cơ sở thiết yếu của Phong trào mà hợp thương Triều dương là một. Như thế,
ta sẽ không ngạc nhiên khi ngọn trào cúp tóc xin xâu phát ra ở Quảng
Nam, Nghệ Tĩnh đáp ứng rất mạnh mẽ vì đã đi sâu vào quần chúng. Sau khi rời Nghệ
Tĩnh, Phan châu Trinh đi thẳng ra tỉnh Lạng vào đồn Hoàng hoa Thám, vị anh hùng
lừng lẫy cuối cùng của lực lượng Văn Thân Cần Vương cổ (để phân biệt
với tân Văn Thân Cần Vương của Phan bội Châu). Huỳnh thúc Kháng ghi : «Ông
Đề Thám cứ đất Phồn Xương, hơn hai mươi năm tiếng lừng cả nước, những người tới
đó, ai cũng khiếp oai ông ta, chỉ tán dương nhảm mà không dám khả phủ gì, và có
kẻ dua hót nữa. Tiên sinh (Phan châu Trinh) tới ngồi ngay nói chuyện, biện chiết
rành rẽ, nói ngay rằng : phải mở mang cơ cuộc ra thế nào, chớ cái thế thì không
tồn tại được. Môn hạ Đề Thám nhiều người không bằng lòng, mà ông ta thì kính trọng
tiên sinh lắm, muốn cầm ở lại giúp việc, tiên sinh từ đi. Sau ông ta nghe tiên
sinh bị bắt ở Hà Nội, bảo bọn môn hạ rằng : nếu ông ấy nghe lời ta ở đây, đã khỏi
bị nạn. Không dè tiên sinh đi được vài năm mà đồn Phồn Xương cũng tan, hẳn như
lời tiên sinh đã liệu trước ». (GNKN LXX)
Tôi chép lại đoạn cuối, việc xảy ra về sau, cốt ý để bạn đọc
thấy rằng điều tiên kiến của một nhà cách mạng mới về lối khởi
nghĩa cũ là đúng. Lẽ tất nhiên Phan châu Trinh cũng đã bị bắt, tổ chức bị
diệt, nhưng chủ nghĩa dân quyền vẫn sống mà Hoàng hoa Thám bị diệt
là chủ trương Văn Thân Cần Vương lối cổ thực sự bị diệt hẳn. Phan bội Châu
sau này nếu không kịp thời theo dân chủ thì lý tưởng Văn Thân Cần Vương đổi mới
ấy cũng chấm dứt cùng với cuộc khởi nghĩa cuối cùng trong nội địa của Thái
Phiên và Trần cao Vân năm 1916.
Sau khi từ giã Hoàng hoa Thám, ông xuống Hải Phòng, sang Tàu,
đến Hồng Kông gặp Cường Để rồi dẫn nhau sang Quảng Châu thăm Tán Thuật tức Nguyễn
thiện Thuật, vị tướng oai danh của «giặc Bãi Sậy chống Pháp». Được ít lâu thì
Phan bội Châu từ Nhật về Hồng Kông đón Cường Để và Phan châu Trinh sang Nhật,
tháng 4 năm Bính Ngọ (1906) 4 .
Về cuộc gặp gỡ lại Phan châu Trinh, Sào Nam viết trong Tự Phán :
«Hạ tuần tháng hai, cụ Tây Hồ tới Hương Cảng, Cụ cũng qua
ngay thăm ông Lưu (Vĩnh Phúc) ông Nguyễn (Thiện Thuật) áo cụt, giày rách, đầu
tóc bồm xồm, trông cụ như phường lao động nước ta, bởi vì cụ thay lốt làm một
tên nấu bếp ở dưới tàu, mà cũng nhờ thủ đoạn ông Lý Tuệ chỉ lối. Cụ vào nhà
Lưu, thấy chúng tôi, chưa chào đã cười, tôi dậy bắt tay cụ, vui không thể nói
được.
Sau mấy câu chuyện thường, tôi đem bài khuyến Du học cho Cụ
xem, Cụ khen hay. Đến xem tới Duy Tân hội Chương Trình Cụ lặng thinh,
không trả lời, chỉ nói : «Tôi rất muốn qua Nhật Bản một lần rồi liền về nước».
Thương tâm nhân biệt hữu hoài bão ! 5 Chính
là ý tứ Cụ từ lúc đó.
Tôi với Cụ ríu rít với nhau ở Quảng Đông hơn 10 ngày, hằng
ngày khi bàn đến việc nước, cụ hết sức công kích những tội ác của dân tộc độc
phu 6 mà
nói đến hiện triều quân chủ, họa quốc ương dân càng tỏ ra ý nghiến răng rách mắt,
hình như Cụ nghĩ rằng cái tệ quân chủ chuyên chế không trừ thì tuy phục quốc
cũng chưa phải là hạnh phúc». (T.P trang 69)
Lúc qua Nhật Bản, Sào Nam ghi :
«Hồi tôi lên Đông Kinh, cụ Tây Hồ cũng đi với tôi, thăm qua
khắp các học đường, và khảo sát khắp những công việc chính trị, giáo dục của Nhật
Bản. Cụ bảo tôi rằng : «Trình độ dân Nhật Bản như thế, mà trình độ dân ta như
thế, không nô lệ sao được ! Được bấy nhiêu học sinh vào nhà học Nhật Bản là sự
nghiệp rất lớn của ông. Từ nay nên lưu Đông yên nghỉ, chăm việc làm sách, bất tất
nói bài Pháp làm gì. Chỉ nên đề xướng Dân quyền, dân đã biết có quyền thì việc
khác có thể tính lần được ».
Từ đó luôn 10 ngày hơn, tôi với cụ bàn bạc, ý kiến rất trái
nhau : cụ thì muốn đánh đổ quân chủ, mà cốt vun trồng lấy nền tảng dân quyền,
hãy dựa vào Pháp mà đánh đổ quân chủ. Còn ý tôi thì trước muốn đánh đổ người
Pháp, chờ lúc nước nhà độc lập rồi mới bàn đến việc khác. Đương lúc đánh với
Pháp phải lợi dụng quân chủ.
Chính kiến của hai người rất phản đối nhau, Cụ với tôi đồng một
mục đích, mà thủ đoạn thì khác nhau. Cụ thì muốn dựa Pháp đánh đổ quân quyền mà
tôi thì bài Pháp phục Việt, mâu thuẫn là thế. Tuy chính kiến vẫn trái nhau, mà
ý kiến rất ưa nhau». (T.P. 71)
Ở trong Ngục Trung Thư, Phan bội Châu cho biết có lần Phan
châu Trinh nói với ông : «Xem dân trí Nhật Bản rồi đem dân trí ta ra so sánh,
thật không khác gì muốn đem con gà con đọ với con chim cắt già. Giờ Bác ở đây,
nên chuyên tâm ra sức vào việc văn, thức tỉnh đồng bào cho khỏi tai điếc, mắt
đui, còn việc mở mang dìu dắt ở trong nước nhà thì tôi xin lãnh. Lưỡi tôi đang
còn, người Pháp chẳng làm gì tôi được mà lo». (N.T.T trang 51)
Vin vào lời này của Phan châu Trinh, nhiều người vẫn yên trí
là hai ông đã phân công cho nhau một cách sòng phẳng và như thế thì họ vẫn là đồng
chí của nhau, chỉ khác vài ý kiến tuy vẫn chung mục đích.
Sự thật nói thế là mơ hồ. Ở trên có nói rõ là Phan châu
Trinh, chỉ đồng ý việc đưa du học sinh xuất ngoại mà thôi. Còn cái chương trình
của hội Duy Tân (tức Quang Phục Hội trá hình) ông lặng thinh, không nói gì rồi
sau này bảo riêng với Phan bội Châu «bất tất bài Pháp làm gì» khi ta còn đang ở
tình trạng gần như tê liệt. Cần tuyên bố dân quyền, dân đã có quyền thật sự thì
việc gì mà họ chả làm được (kể cả việc đánh Pháp). Vậy cái quan hệ là tạm thời
dựa Pháp để diệt quân chủ, chặt tay bọn quan lại để trao quyền cho dân. Lúc bấy
giờ Dân đứng lên duy tân mọi phương diện rồi thì lẽ tất nhiên họ sẽ phải sống
chết bảo vệ các quyền lợi của họ mà chiến đấu chống thực dân là mục tiêu thiết
yếu. Cũng qua cuộc trao đổi này, ta thấy rõ ràng là Phan châu Trinh, Huỳnh thúc
Kháng, Trần quí Cáp (?) chỉ chơi với Sào Nam và Nguyễn Thành ở bề ngoài, chứ chưa
bao giờ là đồng chí của nhau 7 ,
chưa bao giờ ! Thậm chí cái chương trình của hội Duy Tân, đến bây giờ, ra nước
ngoài Phan châu Trinh mới thấy.
Họ vẫn có thể hỗ trợ nhau, liên kết nhau, nhưng chính kiến
hoàn toàn khác biệt nhau như, chính Phan sào Nam công nhận. Mà cho đến đồng
nhân của ai thì chỉ người ấy biết, người ấy giao thiệp chứ ít khi có sự lẫn lộn,
ngoại trừ trường hợp đặc biệt nào đó. Ngay trong lúc hai ông Phan chia tay, Sào
Nam cũng vô tình cho ta thấy sự phân biệt sâu xa, tách bạch ấy.
Lần ấy là tiễn biệt lúc cuối cùng. Cụ (PCT) có nói với tôi rằng
: «Ông hết sức trân trọng, Quốc Dân hy vọng chỉ nơi mình ông, Kỳ ngoại hầu
không cần gì đâu. Tôi kính vâng lời đinh ninh tái hội và cậy nói với các
ngài như cụ Thạnh Bình, Thái Xuyên, Tập Xuyên hết sức mở trí dân, kiết tập đoàn
thể sẽ làm hậu thuẫn ». (T.P trang 72)
Rõ ràng trong mắt Sào Nam, phái Duy Tân do Phan châu Trinh
lãnh đạo đã được mặc nhiên công nhận, đã tách bạch với Phục quốc hội. Và những
Thạnh Bình (Huỳnh thúc Kháng) Thái Xuyên (Trần quí Cáp) Tập Xuyên (Ngô đức Kế)
đều là những lãnh tụ của Phái Duy Tân ấy mà ông gửi lời thăm chung, không lẫn lộn
với đồng nhân của mình.
Phan châu Trinh cũng công nhận Phan bội Châu, sẽ giúp du học
sinh phong trào Đông Du và sẽ đạp đổ Cường Để bằng cách công bố Dân quyền.
°
«Theo Huỳnh thúc Kháng thì khi Sào Nam đi rồi tiếp Phan châu
Trinh Đông độ, người trong nước nhao nhao không biết làm gì, chỉ nhón chân,
ngóng cổ, chống cho mắt mà trông ra ngoài, lộn xộn cả ngày mà không lo chuyện
gì cả. Thoạt nghe tin tiên sinh về, kẻ nhát gan thì bưng tai, le lưỡi, người dạn
thì trợn mắt giương mày, tiếng tăm rầm lên, lấy cái tâm lý người nước đối với
tiên sinh Đông độ trở về, nửa mừng, nửa sợ, phần nghi ngờ, phần sai trác, không
biết đâu vào đâu, thành ra một cái quái tượng có đủ mấy vẻ». (G.N.K.N, ch.8)
Sau những bàn tán nào mang viện binh Nhật về, nào không dám về
Trung Kỳ… lại đến những người trong đảng Sào Nam gởi thư sang Nhật, bảo Phan
châu Trinh về không có lợi cho những hoạt động của Phong trào Đông Du, vì ông
xướng chủ nghĩa Dân chủ, Phan sào Nam có gởi cho Phan châu Trinh một bức
thư 8 trong
có đoạn :
«Gần đây, được tin đại huynh cùng các anh em đồng chí với những
nghị luận ý chí mới mẻ, tẩy trừ những não cổ hủ để hấp dẫn tư tưởng mới, làm
cho tinh thần tôi vô cùng dũng dược (…). Nhưng than ôi ! Trình độ nhân dân Việt
Nam hiện còn ấu trĩ như răng chưa cứng, chân chưa mạnh, nếu sử dụng thì sao
đang nổi. Nhân dân Việt Nam ta so với Tây Âu hãy còn kém họ xa lắm, như người
còn đau, đang đâu nổi gánh nặng. Nhân dân ngu muội đói khổ, nay mình đem những
lý luận cao siêu mà áp dụng không sao tránh khỏi những việc lảo đảo ngả
nghiêng.
Nay đem ra một lý thuyết mà người ta chưa biết đầu đuôi, rõ
phía Nam, phía Bắc (…). Rồi sẽ vì ý kiến xung đột, hành động mâu thuẫn nhau.
Thù ngoài chưa diệt, nội bộ chống nhau. Ôi dân chủ, Dân không còn nữa thì chủ
vào đâu ? Lúc bấy giờ, nếu Đại Huynh có bầu nhiệt huyết cũng không còn chỗ thi
thố nữa (…). Vậy tôi đề nghị với Đại huynh với tình trạng nước ta, hãy chờ ít
lâu nữa, Đại huynh xướng thuyết Dân chủ thì cử quốc đồng bào nhiệt liệt hưởng ứng,
trong đó có tôi». 9
Muốn cho rõ hơn cái lý do khiến Sào Nam và Tây Hồ phải chống
đối nhau, tôi dẫn thêm ra đây một đoạn khá dài trích trong Thi Tù Tùng Thoại do
Huỳnh thúc Kháng viết về cuộc đối thoại giữa Tây Hồ với Thống Soái Sài-Gòn và
sau đó Tây Hồ gởi thơ thuật lại cho Huỳnh thúc Kháng nghe :
« Quan Thống Đốc hỏi : «Ông có tư tưởng phản đối nước
Pháp nữa không ? »
Cụ trả lời : «Bản tâm tôi không có tư tưởng đó. Tôi phản đối
cái chánh sách ngược đãi người Việt Nam chúng tôi, chớ không phản đối nước
Pháp».
- Có quen biết Phan bội Châu không ?
- Chính anh em bạn.
- Vậy, thì anh cũng đảng bài Pháp chớ gì ?
- Phan bội Châu hiệu Sào Nam là một tay hào kiệt ái quốc của
nước Nam, trong nước không ai không biết tiếng. Ngày tôi ở kinh đô Huế thường
qua lại luôn, đến nghị luận việc nước thì ý kiến giữa tôi với Sào quân, hai bên
không đồng mà lại trái nhau hẳn.
- Trái nhau thế nào ?
- Phan quân nhận hẳn rằng người Pháp quyết không có thiệt
lòng khai hóa cho người Nam nên nói việc khai hóa, trước phải tìm cách đánh đổ
Chánh phủ Pháp, mà muốn đánh đổ Chánh Phủ Pháp, không nhờ cậy thế lực một nước
mạnh ngoài thì tự người Nam không làm gì được. Hiện nay nước mạnh duy Nhật Bản
là nước đồng văn, đồng chủng nên cầu viện với Nhật Bản. 10
Tôi bác cái thuyết trên của Sào quân đi, lấy lẽ rằng người nước
Nam chui núp dưới chính thể chuyên chế đã trên ngàn năm, chưa có tư cách quốc
dân độc lập, dầu có nhờ cậy sức nước ngoài chỉ diễn cái trò «đổi chủ mà làm đầy
tớ lần thứ hai» không có ích gì. Vả lại, nước Pháp là một nước làm tiền đạo văn
minh cả hoàn cầu, nay hiện bảo hộ cả nước ta, mình nhân đó mà học theo, chuyên
dụng tâm về mặt khai trí, trị sanh các việc thực dụng, dân trí đã mở, trình độ
một ngày một cao tức là cái nền độc lập ngày sau ở đấy. Còn theo chính kiến «cậy
sức nước ngoài» thì nó quanh co khúc chiết, mình không tự lập, ai cũng là kẻ cừu
của mình, Triều Tiên, Đài Loan cái gương rõ ràng, người Nhật chắc gì hơn
người Pháp. 11
Sào quân không nghe, cũng không nhận là phải, phủi áo ra đi,
làm theo ý kiến mình.
- Vậy thì ông sang Nhật Bản là ý gì ?
- Chính kiến của tôi, trái với chính kiến của Sào quân, Sào
quân sang Nhật có chỗ đứng chân, bèn phát biểu chính kiến của mình, làm sách,
làm báo gởi về trong nước, người nước Nam phần khổ với ngược chánh của quan lại,
gia dĩ xâu cao thuế nặng, không biết kêu van vào đâu. Đương giữa lúc người đau
cần thuốc, co lâu muốn duỗi, được sách của Sào quân cổ xúy, gãi nhằm chỗ ngứa,
cả nước đều hưởng ứng, một kẻ xướng, muôn ngàn người họa, cái chính kiến «tự lực
khai hóa» của tôi bị phong trào «đông học» che át, không xuất đầu ra được,
không ai thèm nghe, thực sự trăm phần thiếu thốn, mà cái tiếng trống kêu dội sẽ
gây ra mối nguy hiểm cho đường tương lai của quốc dân, không thể tránh được.
Bất đắc dĩ tôi mới băng mình vượt biển thẳng sang Nhật Bản,
thuật rõ tình hình phù tháo và cảnh tượng nguy hiểm trong nước cho Sào quân
nghe, khuyên Sào quân chăm lo đào tạo bạn thiếu niên du học mà gác tư tưởng
hành vi «bạo động» đợi thời hội khác. Nhưng Sào Nam nhứt vị cố chấp, lấy lẽ rằng
một nước êm đềm trong giấc ngủ như người bệnh gần chết, nếu không gióng trống
to, trương cờ lớn, thổi kèn, gõ mỏ, làm như giông sấm thì không sao đánh thức
giấc ngủ kia được.
Tôi ở Nhật vài tháng cùng Sào quân biện cãi nhiều lần rút cuộc
Sào Nam không nghe, tôi bèn từ về, ấy là khoảng tháng 5, tháng 6 năm 1906…
» (Thi Tù Tùng Thoại (TTTT) 104, 105, 106. Huỳnh thúc Kháng. Tân Việt xuất
bản).
Trên đây, lẽ tất nhiên Phan châu Trinh chỉ nói với đại diện
thực dân những điều có thể nói được. Còn những chủ thuyết Dân quyền, sự ám
trợ du học sinh, với chủ trương gần như gây phong trào dân kiện quan
lại khắp nơi, để tăng uy thế cho dân, đẩy tới việc gây chia rẽ nội bộ thống trị
tiến tới chặt lần tay chân Pháp để dân chủ hóa nền cai trị và chủ trương
xa… mà hẳn nhiên một nhà cách mạng phải dự liệu, lẽ tất nhiên ông không
nói. Tuy nhiên, qua cuộc đàm thoại ấy, ta cũng biết sơ lược nội dung chính kiến
hai phái và lý do của sự chia rẽ trầm trọng lúc bấy giờ, sự chia rẽ khó cản lại
được như mọi chia rẽ tất yếu của lịch sử.
Đối với Phan châu Trinh, trong chỗ sâu xa nhất của niềm tin,
giá lúc ấy Nhật Bản có thật lòng mang quân qua giúp, chưa chắc ông tán thành.
Ông đang say mê chủ thuyết Dân quyền chắc không tránh phần cuồng tín – huống
chi ông sành lịch sử thế giới xem cái gương Triều Tiên, Đài Loan sờ sờ
ra đấy mà trước ông cả chục năm, Nguyễn lộ Trạch cũng đã tiên liệu một nước Nhật
Bản đế quốc rồi. Cường Để cũng cho biết : «Ông Phan châu Trinh về nước đi diễn
thuyết khắp nơi, đại khái nói sự trông cậy vào sự viện trợ của Nhật là một hy vọng
viễn vông». Theo Phan châu Trinh, không chỉ viển vông mà còn nguy hiểm là khác.
Suốt thời kỳ ở Nhật, ông chưa tìm thấy ở đâu có dấu hiệu của một quốc gia Dân
chủ mà trái lại, đó là chính thể độc tài, quân phiệt, tha thiết thực hiện giấc
mộng cuồng tín xâm lăng thi đua cùng đế quốc thực dân Âu Mỹ.
Bởi thế, là người của Dân quyền, nên đối với công cuộc của
Phan bội Châu ở Hải ngoại, chỉ biết nhắm mắt nhắm mũi để đánh, không chịu nhìn
gần thấy xa, hẳn nhiên ông cho chỉ là phụ, có cũng được, không cũng được vì sẽ
thất bại. Ông hoàn toàn không tin cậy gì ở sự thành tâm thiện chí của tân đế quốc
Nhật Bản. Chính chỗ đó là chỗ hết sức sáng suốt của ông đúng như sau này Nhật
đã lợi dụng phần nào Phong Trào Đông Du để thi hành hiệp ước có lợi với Pháp bằng
cách nhẫn tâm đuổi du học sinh của ta, ấy thế mà khi họ xướng lên chủ
nghĩa Đại Đông Á, xâm lăng trá hình, mà nhiều nhà chính trị của ta vẫn
không chịu rút bài học cũ, bài học xương máu cũ, sẵn sàng hợp tác với họ để
mang nhục thì thật thiếu kiến thức lịch sử 12 .
Phan châu Trinh đã tỏ ra quan điểm chính trị cao, có óc quan sát sâu sắc và lý
tưởng tiến bộ, hợp lý khiến sau này Phan bội Châu khi bị tân đế quốc Nhật đuổi
ra khỏi nước, chợt giật mình tỉnh ngộ…
Thời kỳ ở Nhật đã thấy tinh thần sĩ phu vọng ngoại, về nước lại
thấy óc trông mong người ngoài giúp đỡ cao gấp trăm lần, Phan châu Trinh đâm lo
cho tiền đồ dân tộc : «Ngày nay không có quốc dân nội lực thì làm chi
cũng không có lương kết quả (kết quả tốt) được. Người mình không lo khai thông
dân trí, liên lạc đoàn thể để làm cơ sở mà chỉ ngồi trông người ngoài : cái bệnh
dục tốc kiến tiểu đó không ích gì mà lại có hại. Không những thế học hội dân
đoàn là cần nhất không có không được và nên tổ chức đầu tiên cả… » (GNKN
LII)
Kể ra, thời đó mà nói nào quốc dân nội lực là chủ yếu,
nào dân trí, nào liên lạc đoàn thể nào học hội dân đoàn là cần
nhất và nên tổ chức đầu tiên cả và chống cái bệnh ngồi trông người
ngoài thì tôi thiết tưởng Phan châu Trinh không chỉ đáng làm lãnh tụ thời
đó mà ở Miền Nam ta, ông còn mới quá, mới hơn người của «hôm nay». Ôi ! Cái óc
vọng ngoại, cái óc khốn nạn, cái óc khốn nạn ! Chỉ vì mi mà dân tộc mấy phen
điêu linh và hết đi từ sỉ nhục này lại tới sỉ nhục và thất bại khác !
Cũng vì không tin ở phương pháp của Ám Xã, của tổ chức chuẩn
bị lực lượng võ trang đánh Tây vội vàng trong khi chưa kịp sửa soạn đó nên Phan
châu Trinh khi về nước, ngay năm 1906, đã cực lực bài xích vọng Nhật, cực lực
thúc đẩy những tổ chức đoàn thể, học hội dân đoàn để gây một quốc dân nội lực.
Ông đã khôn khéo, uyển chuyển công khai hóa cái tổ chức của phe mình (thật ra chỉ
là tự giác chứ không có cương lĩnh, nội qui gì) để tự phân biệt với tổ chức bí
mật của Phan bội Châu. Điều này, chúng ta có thể hiểu ngầm chứ chả có văn kiện
nào lưu lại chính thức, vì ông không muốn dẫn phong trào Duy Tân đến chỗ chết
chùm với ám xã. Ở đây nẩy ra một dấu hỏi : phải chăng Phan châu Trinh còn
có dụng ý tránh tiếng phản bạn một cách khôn khéo ? Vì ngay từ đầu,
ông đã chia sẻ (tuy vẫn luôn bất đồng ý) với Phan bội Châu và Nguyễn Thành ở điểm
cứu nước mà sau này cả điểm đưa học sinh du học (Đông Du) nghĩa là đi khai hóa.
Nhưng khi sang Nhật biết rõ sự nóng nảy đánh Pháp, ông tiên liệu việc sẽ thất bại,
có hại lớn cho mục đích ông đang theo đuổi mà ông biết có nhiều hứa hẹn tồn tại
và phát triển, thích hợp với nội tình, ngoại thế nên ông quả quyết cắt đứt các
liên hệ tình cảm, lãnh đạo các đồng nhân dấn bước vào lý tưởng của mình. Kể từ
đó, tự nhiên phát xuất lồ lộ hai luồng tư tưởng, hai tổ chức đối lập hẳn nhau
trên ý thức hệ, trên chủ nghĩa, trên hoạt động, trên đối tượng. Sở dĩ họ không
dùng lời búa bổ chống đối nhau kịch liệt là vì còn phải dữ thế liên lập mặc
nhiên trên mục đích cứu quốc chứ hai lãnh tụ ấy đã thành đối lập. Ở đây, nẩy ra
lần đầu tại Việt Nam sự đối lập không phải vì con người, vì chân nhân như
kẻ theo phò Lưu Bị, kẻ phò Tào Tháo theo truyền thống tàu hoặc kẻ theo Nguyễn
Nhạc theo truyền thống ta. Mà chính là đối lập chủ nghĩa : Quân chủ với
con đường cứu nước theo phương thức cũ vẫn đặt nặng vai trò cá nhân, sĩ phu, một
nhóm người rời rạc, vẫn tin ở lực lượng ngoại viên là chính yếu, vẫn thích làm
việc bằng cảm tình hơn lý trí, nặng chính trị quân sự hơn giáo dục, kinh tế
– Dân chủ với con đường cứu nước theo phương thức mới đặt nặng vai
trò quần chúng, đoàn kết quốc dân, tổ chức đoàn thể, tin ở nội lực quốc gia cho
là chính yếu, thích làm việc theo phương pháp mới, theo lý trí và đặt giáo dục,
kinh tế ngang hàng chính trị.
Hiển nhiên, đó là những mục tiêu khác nhau mà Phan bội Châu
và Phan châu Trinh quyết tâm theo không lùi vì ông ý thức trách nhiệm vai trò lịch
sử của mình. Ông nhất định thực hiện :
a) Công khai hóa và hợp pháp hóa tư tưởng và hành động
cá nhân cũng như tổ chức.
b) Thúc đẩy thực hiện Duy Tân toàn dân, toàn diện.
Ông bắt đầu bằng cách kiện toàn tư tưởng của người trong nội
bộ. Thời kỳ này Trần quí Cáp, người đã từng hợp tác lâu dài với Tiểu La Nguyễn
Thành, càng ngày càng nghiêng theo tư tưởng Phan châu Trinh, cũng nhận thấy tư
tưởng vọng ngoại có những hậu quả hết sức nguy hại cho quốc dân nội lực nên có
bài luận sĩ phu tự trị rất xúc tích, được Phan châu Trinh và «phái
tân học hoan nghênh, phái cựu học không vừa ý, tuy hai phái công kích nhau mà
tiên sinh vẫn giữ lập trường». (Tiểu sử TQC trang 15)
Bài Luận :
Luận viết : Quốc chi tư cửu hỉ
Nhi nhất luyện chi sanh cơ thượng tồn giả
Hà tai hồ, tai hồ ?
Độc thơ minh lý, sở vi sĩ phu dã, tồn dã
Hà nãi nhất ban cổ học.
Mai đầu ư bác cổ tàn biên, tứ gia lạn chỉ
Dĩ tự khoa yêm bác
Nhi Đông kinh, Tây Cống bất tri vi hà xứ địa phương
Đa số tân thời,
Túy tâm ư ngũ châu cẩm tú, tam bảo thần tiên.
Đô cạnh thương phù hiệu
Ư khai trí trị sinh, vô bổ nhất hào thiệt sự
Y dân khí tiêu trầm
Dĩ phi nhứt nhựt, phong trào sổ cập
Đại mộng vị tinh thương mang tứ vọng
Ngô tương trù y, cập kim bất phân
Chủng loại kỳ nguy !
Dịch : Nước chết đã lâu
Mà một máy sinh cơ hãy còn chỗ nào ?
Ở nơi đọc sách minh lý của Sĩ phu mới còn được
Vì sao một lớp học cũ.
Cặm cụi nơi văn chương tám vế của người Tàu,
Sách vở mục nát của nhà nho.
Sự khoe rộng biết nhiều.
Mà hỏi đến Đông Kinh, Tây Cống 13 thì
không biết ở địa phương nào.
Nhiều bạn tân thời.
Say mê sự gấm vóc của năm châu, thế giới, thần tiên của ba đảo
Á Đông.
Tranh đua phù tháo.
Nói đến việc khai trí, trị sanh, không có một mảy may nào bổ
ích cho thiệt sự.
Than ôi ! dân khí chìm đắm,
Không phải một ngày sóng gió đưa đến.
Mà còn ngủ say mênh mông bốn phương,
Ta dựa đâu này, nếu không thức dậy,
Nòi giống nguy thay !
Bàn luận ấy lẽ tất nhiên chỉ làm cho Trần quí Cáp xa rời thêm
ám xã mà ông vốn có và vẫn còn nhiều cảm tình. Nhưng càng làm nổi bật vai trò của
phái Duy Tân và nội bộ của phái ấy càng được kiện toàn hơn.
Cũng vào thời kỳ này, Phan châu Trinh quyết định liên lạc
với chính quyền Pháp để công khai hóa và hợp pháp hóa phần nào tư tưởng và
hoạt động của phe phái mình. Ta biết ông có niềm tin xâu xa chủ thuyết Dân quyền
nên ông vẫn nghĩ người Pháp chưa đến nỗi tán tận lương tâm khi họ «đẻ ra» dân
quyền cho thế giới, làm tiền đạo cả phương Tây, nay lại bảo hộ ta, đương thời
cuộc ngọn triều Âu hóa toàn khắp phương Đông, các nước mạnh láng giềng lại dòm
ngó như thế này mà cứ để cho dân thuộc địa mình đã ngu lại nghèo, thì chắc cũng
không phải là lợi cho nước bảo hộ (…) Nếu có người chỉ rõ cuộc nguy hiểm ra thế
này, nguồn tệ hại ra thế kia, mà bàn bạc một cách lưỡng lợi lâu dài, lại biết
đâu chánh sách bảo hộ người ta không thay đổi lại. Nghĩ thế mới làm một bài điều
trần gởi ngay cho toàn quyền, khâm sứ cùng các nhà báo, đại khái nói tình trạng
nguy cấp bên Đông dương này, cùng tệ trạng quan lại, làm cho tình ý hai nước
không liên hiệp nhau, mà kết cuộc xin cải lương chính sách bảo hộ. (GNKN LII và
LIII)
Đó là nguyên nhân Đầu Pháp chính phủ thư cái tên mà
thiên hạ dùng để gọi bức thư nổi tiếng đó gởi cho Pháp ngày 15-8-1906.
Đây cũng được xem như Tuyên Ngôn của Phong Trào Duy Tân đối với
chính quyền thực dân. Các điểm yêu cầu của tuyên ngôn công khai này lẽ tất
nhiên phải hiểu chỉ là tối thiểu của một thực chất tiềm ẩn lớn lao. Lời bằng
Hán văn rất thay đổi có khi hùng tráng, có khi bi đát, có khi uất nghẹn trình
bày :
A) Thực trạng quốc dân dưới sự thống trị của Pháp và
quan lại Nam triều.
- Thực trạng rất thảm thương đáng phải phát ra những tiếng
kêu cứu, nhưng «những người có trí thức thấy cái thảm trạng như thế, lo đến nòi
giống tiêu diệt, cũng muốn rung chuông gõ mõ đánh thức nhau dậy, để lo phương cứu
vớt lấy nhau, nhưng mà kẻ nào mạnh bạo thì trốn tránh ra nước ngoài, chỉ kêu
gào, than khóc mà không dám về, kẻ nhút nhát thì chịu vùi đầu ở chỗ hương thôn
đành giả đui, giả điếc mà không dám nói đến. Chưa từng có người nào dám đến trước
cửa quan bảo hộ phơi gan nhỏ máu, kể rõ cái thủ đoạn tàn ngược của quan trường,
cùng là cái tình trạng thảm khổ của cùng dân, khiến cho cái tội ác của quan lại,
và cái khổ cảnh của quốc dân trong mấy mươi năm nay, lọt vào trong tai các quan
Bảo hộ. Đến nỗi nước Nam bấy giờ gần thành như một người ốm nặng gần chết, khó
có thuốc mà cứu chữa được nữa, đó thật là tội tại sĩ phu nước Nam, đã gây nên tội
thì cũng bởi hiểu lầm rằng Chính phủ bảo hộ dùng cái chính sách ngược đãi người
Nam làm cái chính sách hay tốt nhất».
- Ông cố ý đề cao tự ái người Pháp để ly gián họ với quan lại
Nam Triều và mượn hệ cái tệ trạng của Nam Triều để chửi khéo, để gián tiếp chỉ
trích kịch liệt người Pháp : «Hiện nay, người Nam trừ những người trong quan
trường không kể, còn ra thì không thuận người khôn, người ngu, trăm miệng một lời,
đều nói rằng Chính phủ ngược đãi người Việt Nam. Thấy quan lại nước Nam không
săn sóc tới dân mà lại tàn ngược với dân thì đều nói rằng đó là chính phủ
dung túng khiến cho cắn nuốt lẫn nhau cho nòi giống mòn mỏi, đó tức là cái kế
thực dân của chính phủ. Trong mấy năm nay, suốt cả trong Nam, ngoài Bắc, khắp
thành thị cho đến hương thôn, ý tưởng của nhân dân đều như thế cả 14 .
Lại xét biết trí mình không chống lại được thì nghển cổ giương mắt trông
mong các nước mạnh đến đâu đâu họa may họ đến cứu mình chăng. Chao ôi ! Một dân
tộc đến 20 triệu người, kẻ có học thức cũng đến vài vạn mà tối tăm mù mịt, mềm
yếu ươn hèn, không đủ sức bênh vực được nhau, để liệu cách sinh tồn, lại ù ù, cạc
cạc, không biết rằng mình ở vào cái thế giới cường quyền thịnh hành «hơn được
thua kém» này, mà còn có cái mơ tưởng hão huyền như thế, dân trí thực đáng
thương vậy. Nhưng đã bao nhiêu năm nay, người Nam ở dưới bóng cờ nước bảo hộ mà
đến bây giờ nòi giống ngày một yếu hèn, không có kế gì cứu vớt lấy nhau, đến nỗi
nóng nảy điên khùng, theo cái kế sách đê mạt, chỉ trông mong vào nước khác, thế
thì vì ai mà nên nỗi thế ?».
Chỉ một đoạn văn ấy, thiết tưởng cũng khá đủ để trình bày sự
uyển chuyển, linh hoạt của một chính trị gia ! Mà không chỉ ly gián Pháp với
Nam Triều bằng cách đề cao Pháp để mắng Pháp bằng cách mắng tay sai của
Pháp mà còn dọa Pháp, cho Pháp biết rõ là hễ khi nào Nhật tới – tất nhiên
họ sẽ tới – thì dân Việt không chờ gì mà không bỏ Pháp, nếu Pháp không lấy tình
loài người đối đãi, mà vẫn dùng cái kế thực dân để nòi giống một ngày yếu
hèn.
Với đoạn khai mào đó, chúng ta cũng có thể đoán được nội dung
của bản điều trần lừng lẫy này.
Rồi ông trình bày các nguyên nhân sinh ra những tệ hại ấy :
1) Một là tại Chánh phủ bảo hộ dung túng quan lại Việt
Nam thành ta cái tệ «cô tức» 15 . Ông
nói những tình trạng xấu xa, bỉ tiện của quan lại mà Pháp chỉ dùng để đàn áp,
moi móc tiền bạc sưu thuế, chỉ chuộng những kẻ hèn kém, tham nhũng để tiện sai
khiến, nghĩa là lật tẩy mưu mô sâu độc của Pháp trong chính sách dùng người Việt
trị người Việt với thâm ý là tiêu diệt ý chí dân tộc Việt.
2) Hai là Chính phủ khinh rẻ dân Việt Nam : Hễ miễn
là người Pháp thì ai cũng có quyền khinh rẻ người Việt Nam. «Những người
nghèo đi làm thuê, những dân phu đi làm việc quan, bị người Tây đánh đau hay là
đạp chết cũng thường thấy luôn (…). Hiện bây giờ quan lại nước Nam, không cứ
quan lớn quan nhỏ, khi tiếp kiến quan Tây, đều run sợ, rụt rè, chỉ sợ thưa thốt
sai lầm làm cho quan Tây nổi giận. Ở các chốn hương thôn, những kẻ thân sĩ khi
đi ở ngoài đường ngẫu nhiên gặp người Tây không cứ là quan Tây, Tây lính hay là
Tây buôn, thì phải cúi đầu, cụp tai rảo bước mà đi cho mau, chỉ sợ tránh không
xa mà bị nhục.»
Ông cũng cho biết sở dĩ nay có những sĩ phu bỏ qua Nhật (lẽ tất
nhiên họ chuẩn bị đánh Tây) là vì uất hận không giải tỏ cùng ai được. Họ không
còn con đường khác để chọn.
3) Ba là quan lại Việt Nam nhân cái sự xa cách ấy mà
thành ra cái lệ hà hiếp dân. Điểm này mới nhìn qua, tưởng giống điểm một.
Thật ra, điểm một là phơi trần dã tâm của Pháp khi dùng quan lại để trị dân,
còn điểm này là hậu quả của cả hai điểm trên và thực dân tham nhũng, đê tiện,
tàn ác của quan lại. Phan châu Trinh viết nhiều điều tỏ ra thông hiểu rất sâu sắc
cái tệ hại ấy. «Cái điều Chính phủ (Pháp) thích thì họ hết lòng, hết sức
làm cho được việc. Tuy lột da dân, hút máu dân, chẻ xương dân cũng không cần.
Các quan tỉnh, quan phủ, quan huyện, ỷ quyền thế để dọa nạt dân ngu và đè nén
sĩ phu, lại sợ dân hoặc có tức giận mà chống cự lại chăng, họ lại nhân điều
chính phủ ghét mà vu oan, hoặc nói rằng cậy giàu có làm ngăn trở việc quan, hoặc
là nói rằng họp tập thân sĩ sợ có ý gì khác chăng. Một câu mơ hồ,
không có chứng cớ gì cả. Chính phủ không hiểu cái mưu gian của họ, lại cứ tin họ
vì thế mà có người phải lụy đến thân gia, mắc vào tù tội.»
Nhấn mạnh điểm này, ông muốn khéo léo vừa chặt chân tay (quan
lại) của Pháp vừa dọn đường cho các hoạt động của phe mình ra công khai và hợp
pháp hóa. Chỗ này ta thấy Phan châu Trinh quả nhiên giàu thủ đoạn chính trị hơn
bất kỳ những kẻ đồng thời nào. Ông dừng lại, kể lể hết cái xấu xa, khốn nạn của
quan lại gián tiếp hay trực tiếp, tiếp tay cho thực dân để bần cùng hóa dân. «Đến
bây giờ dân cùng của hết, người giàu người nghèo đều khốn khổ cả, người nào
cũng oán thán ; trộm cướp nổi lung tung, sự thể thật là nguy cấp. Thân sĩ
trong nước, người thì xướng ra học chữ Tây, người thì xin bỏ khoa cử, người thì
góp vốn để mở hiệu buôn, ý cũng muốn cứu vớt lấy một vài phần trong trăm
phần. Quan lại ghét rằng làm thế là có ý muốn chống chọi với mình thì lại bảo
là điên cuồng, cho là âm mưu, những lời vu oan, giá họa, chắc là ngày nào cũng
nói đến tai các quan Bảo hộ».
Vậy Phong Trào Duy Tân sở dĩ có là… không phải để chống Pháp…
mà là giúp cho dân khỏi bần cùng để… cứu vớt cho chính quyền Pháp ! Nếu Pháp
không để cho Phong trào ấy bành trướng, cứ nghe bọn quan lại bắt các cán bộ và
lãnh tụ của nó, dân sẽ oán thán nổi lên chống Pháp, sĩ phu sẽ bỏ sang Nhật tìm
lối đánh Pháp. Vừa tố điều khổ, vừa dọa mối nguy, vừa gia ân cho Pháp. Nhún nhường
mà trịch thượng, ra bề ngoài thật thà nóng nảy mà bên trong mưu cơ tỉnh táo,
Phan châu Trinh quả là kỳ nhân của trường chánh trị ở đầu thế kỷ này. Đồng thời,
qua các lời biện luận ấy, ta cũng biết thêm là nhiều cơ sở của Phong Trào
Duy Tân thực sự được thiết lập trước 15-8-1906.
B) Sau ba điều tệ hại của cấp trên, ông trình bày nỗi khốn
khổ đến cùng cực của dân mà nặng nhất, hãi hùng nhất là thuế. Ông dành nhiều
trang để trình bày rất kỹ điều mà ông cho là tối độc hại này. Cho đến nỗi «Nghề
làm ăn thì (chính phủ) không dạy bảo, mối lợi thì không mở mang, chỉ biết sưu
thuế thì tăng cho nhiều, bây giờ cùng khốn đến thế này, tại quan làm hại dân mười
phần độ năm sáu, mà vì sưu thuế nặng nề thì mười phần đến ba bốn.» Lối thâu thuế
tàn ác của Pháp ông thẳng thắn gọi «tát hết nước mà bắt cá» vì tuyệt nhiên
không làm lợi gì cho dân, chỉ biết đánh thuế cho nặng, rồi quan lại, cường hào
nhân vụ thuế mà vơ vét thêm. Cho đến nỗi «ông chủ bút báo nọ ở Hải Phòng là người
Pháp, bàn việc Đông Dương, dài đến mấy vạn lời, cái tệ sưu thuế nói cũng đã hết
mà cái việc quan lại nước Nam thì lại nói rằng : «không theo cái phép
cũ nước Nam, thì không trị được dân Nam». Ý kiến sai lầm như thế, thật
cũng lạ lùng thay ! Nay chính phủ Bảo hộ dùng quan lại để áp chế dân Nam cũng
đã lâu rồi, quan lại làm cho Chính Phủ (Pháp) kết oán với dân cũng đã lâu rồi… »
Ông lớn tiếng thống thiết : «Bấy giờ dân nước Nam đã sắp chết
đến sau lưng, mà quan lại thì trừ việc truyền lệnh thu thuế, không còn biết việc
gì nữa, các quan Bảo hộ cưỡng bách họ thi hành tân chánh, họ không làm qua loa
cho xong chuyện, thì họ nhân dịp để kiếm tiền, đã không có công hiệu gì mà lại
thêm nhiễu dân nữa ».
Tình trạng như thế, dân oán hận, lại thêm thiên tai, thủy họa,
sinh kế khó khăn, dân chỉ còn nhẫn nhục chờ đợi nước mạnh khác tới đánh là nổi
lên bạo động, quan lại chờ chủ nào mạnh thì theo, « bỏ chủ này làm đầy tớ
chủ khác họ cùng can đảm mà làm còn như bảo người Nam vì chính phủ Bảo hộ đi chống
giặc ngoài là cái nghĩa vụ (…) sợ người Nam không ai chịu đâu ».
Dọa đi ! Dọa lại như thế và đả đảo quan trường như thế, không
phải không có mục đích. Mục đích của ông là đặt cho Pháp một tân chánh sách, đó
cũng là yêu sách khẩn thiết của Phong Trào Duy Tân trên đường hợp pháp hóa các
hoạt động của họ : «Nếu chính phủ thật lòng đổi chính sách của họ, kén chọn
người hiền tài trao quyền bính cho, lấy lễ mà tiếp, lấy thành mà đãi, cùng nhau
lo toan việc dấy lợi trừ hại, ở trong nước, mở đường sinh nhai cho dân nghèo, rộng
quyền ăn nói cho thân sĩ, báo quán cho mở rộng, để thông đạt tình dân, thưởng
phạt cho nghiêm minh để khuyên răn quan lại, còn đến những việc đổi pháp luật,
bỏ khoa cử, mở trường học, đặt tòa tu thư, dạy lớp sư phạm cho đến học công
thương, học mỹ nghệ, và các ngạch sưu thuế đều cải lương dần dần, thế thì dân
được yên nghiệp làm ăn, sĩ thì vui lòng giúp việc cho Chính phủ, còn ai mưu việc
chống cự nữa.»
Để kết thúc, ông vẽ ra cái viễn tượng hãi hùng, một khi Pháp
không thỏa mãn nguyện vọng của dân để họ «cứ lo ngày đêm, tìm cách nọ kế kia
(chờ khi Nhật tới) ném đi mấy vạn cái đầu, chảy ra mấy mươi vạn vũng máu, vất
đi bao nhiêu cái xác ruồi không thèm bâu, cáo không thèm ăn, để mua lấy cái địa
vị nô lệ mấy trăm đời không thay đổi».
Nguời Việt Nam có muốn như thế không ? Chỉ có kẻ điên mới
khoái chuyện ấy, nhưng cùng đường, họ còn biết tính sao ngoại trừ khi họ :
« …Còn xem cái chính sách của Chính Phủ Bảo hộ đãi người Nam như thế
nào ». 16
°
Thực dân ! Quan lại ! Thuế má !
Ba điểm tàn hại căn bản mà chỉ có một cuộc cải cách toàn diện
mới giải quyết được.
Nếu không giải quyết được, Dân phải chết. Dân không muốn chết
mòn chết lần nên đứng lên theo ngọn cờ lãnh đạo của Phan châu Trinh để tự động
Duy Tân.
Trong công cuộc tự động Duy Tân của toàn dân, Phan châu Trinh
còn tiến được một bước xa trên đường đoàn kết dân tộc. Trước đó, Phan bội Châu
và Cường Để vẫn có kết nạp một số hội viện là người Công Giáo. Nhưng chỉ những
cá nhân đã được giác ngộ hoặc hận thù Pháp vì lý do nào đó. Còn ở Quảng Nam,
Nguyễn Thành vốn cựu đảng viên Bình Tây sát tả nên vấn đề này không thấy đặt
ra.
Nhưng với Phan châu Trinh, ông đặt vấn đề giáo dân nói
chung chứ không phải riêng cá nhân nào trong cộng động quốc gia rất rõ ràng.
Sự thật, lúc mới qua, các cố đạo thừa sai cũng có nâng đỡ phần
nào giáo dân như đưa các con chiên ưu tú ra ngoại quốc học (Nguyễn trường Tộ,
Trương vĩnh Ký) làm cho trí thức Việt Nam quan tâm thời cuộc để ý. Nhưng khi
Pháp chiếm Việt Nam rồi, một số người Việt được học thẳng với Tây ở trong nước
hay ngoại quốc, trí thức công giáo không làm ai ngạc nhiên nữa thì đời sống
giáo dân bày rõ ra cảnh xơ xác, chả còn có gì khiến dân lương phải ao ước mà chỉ
khiến cho nhà ái quốc đem lòng thương hại. Bởi thế, Phan châu Trinh đã nói thẳng
nhân cuộc gặp gỡ cố đạo M… ở Phước Kiều 17 để nhờ giới thiệu với Công sứ Pháp cho
ông trình bày những việc lợi hại, vì ông không muốn đi thẳng tìm gặp, sợ Công sứ
khinh. Mới gặp Phan châu Trinh, ông cố hỏi ngay việc ông đi Nhật Bản có không ?
Và nghe Phan châu Trinh trả lời hàng hai, ông hỏi tiếp :
«Đi Nhật Bản thì đi đàng nào ?»
Phan châu Trinh liền nghiêm nghị chỉnh : «Thế giới giao
thông này, đàng nào lại không đi được ; vả tôi nghĩ như giáo sĩ các ngài đều là
người nước văn minh bên Tây, nay sang bên này, ôm một lòng bình đẳng bác ái,
dìu dắt nhơn loại, rõ xét thời cuộc, nghĩ việc tương lai, nên tôi muốn hầu chuyện,
đặng tỏ tấm lòng uất ức một đôi chút, không ngờ ngài lại hỏi những câu, không
khác chi hơn giọng quan trường An nam thế ?»
Ông Cố 18 biết tiên sinh có ý khích mình, trả lời một
cách lạt lẽo rằng : «Nhà tôn giáo chỉ quản bên phần hồn mà thôi».
« - Tôi vẫn biết rồi, song xác đã không còn, hồn dựa vào
đâu ? Tôi xem dân nước Nam theo đạo Gia Tô có ba phần trong mười, nhà thờ khắp
nơi, dân giáo thành chợ, lại có mấy đức giáo sĩ văn minh làm cha, làm thầy,
chuông sớm, trống chiều, không ngày nào không giảng dạy, thế mà xét nghĩ trong
dân đó, thì phong tục hủ bại, thật nghiệp sơ sài, sinh kế khốn đốn, không khác
gì dân ngoài, thỉnh thoảng cũng có trường học, chẳng qua về phần ít mà những kẻ
ở trường ra, thì cũng làm công việc phiên dịch thường thường chưa thấy có người
nào mở mang nền học thức, làm ra công lợi cho công chúng, để làm tiêu biểu cho
dân giáo, làm gương tốt cho người An Nam ; có lẽ dân An Nam không phải là
con chung của Chúa Trời, nên dầu có theo giáo, chỉ có sớm chiều đọc mấy câu
kinh, đến ngày lễ tới nhà thờ quỳ nghe giảng mà thôi hay sao ? »
Những lời ấy hẳn nhiên làm ông Cố đạo M… giật mình. Và cũng từ
đấy, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, tranh đấu sử Việt Nam, lương giáo sát
cánh nhau dưới ánh sáng hướng dẫn của Phong Trào Duy Tân tự lo việc nước với
nhau để cùng tiến bộ với nhau. Làng Phước Kiều ấy sẽ có cơ sở giáo dục Quảng
Phước tiếng tăm do một vị nhà dòng dạy và giáo dân Phước Kiều cũng hăng hái góp
phần công nghệ đồ đồng mà họ vốn chuyên môn vào sự thịnh vượng chung của Phong
Trào. Rồi sau đó, vào năm 1916, khi vua Duy Tân khởi nghĩa, tất cả ấn dấu đều
do ông xã Mãi chế tạo tại chính làng này.
--------------------------------
Theo Nguyễn hiến Lê ĐKNT (Sđd). |
|
Ta sẽ thấy ở các chương sau là Phan châu Trinh vốn là bạn
văn của Ngô kế Đức từ trước. |
|
Có thể là đã lập xong, vì theo Phan bội Châu cho biết (xem
sau) thì các dự liệu này, ông đã nghe từ tháng 7-1905. |
|
Cuộc đời cách mạng Cường Để (sđd) trang 22. |
|
Do lòng xót xa mà có một hoài bão riêng – kể từ chỗ này,
Phan bội Châu xác nhận Phan châu Trinh có đường lối khác hẳn mình. |
|
Giặc của dân, kẻ không ở với ai, không ai chịu nỗi, ám chỉ
nhà vua. |
|
Chỗ Trần quí Cáp tôi đánh dấu ? Vì có tài liệu cho thấy là
Trần quí Cáp có hợp tác mấy năm với Nguyễn Thành trong công cuộc mưu đồ bí mật
này, nhưng hình như Phan bội Châu không biết rõ như đã nói ở phần «phát động
phong trào» trên kia. |
|
Sau đây Phan bội Châu cho biết lý do viết bức thư này. |
|
Phụ lục Tự Phán sđd. |
|
Đây là tư tưởng lúc Cụ ở Nhật, sau đã đổi khác (HTK ghi chú
như thế trong khi Phan bội Châu an trí ở Huế). |
|
Tác giả sách này nhấn mạnh. |
|
Huỳnh Thúc Kháng sau này không chịu nhận hợp tác với Nhật
chắc chắn là vì rút được kinh nghiệm cũ. Xin xem : bức thư bí mật của Huỳnh
thúc Kháng trả lời Cụ Cường Để năm 1943. – Anh Minh xuất bản, Huế. |
|
Saigon. |
|
Tác giả sách này nhấn mạnh mấy đoạn để lưu ý bạn đọc. |
|
Trù trừ không quyết, qua loa cho xong chuyện. |
|
Các đoạn trích trong bài «Thư gửi Chính Phủ Đông Dương của
Phan châu Trinh », in trong Thi Văn Quốc Cấm, Khai trí 1968. |
|
Giai nhân kỳ ngộ (sđd) trang LXX ghi lộn là Phước Kiền. |
|
Thường các cố đạo Pháp cũng là cố vấn chính trị của Công sứ
Pháp. |
PHẦN III
TỪ LÝ THUYẾT TỚI THỰC HÀNH
KHÔNG CÓ những tài liệu thật rõ để biết những ngày
tháng, năm, đích xác từng công việc của phái Duy Tân. Nhưng chắc chắn là từ năm
1905 đến năm 1906, những công cuộc lớn nhất đã hoàn thành.
Có thể nói năm 1905 là năm phát động một cách ồ ạt không chỉ
riêng trong tỉnh Quảng Nam mà cả trong tỉnh Nam Trung Việt. Hẳn nhiên từ năm
1904, ta đã thấy có những cuộc cổ động của bộ ba lên đến những vùng rừng
sâu, nước độc, những nơi xa xôi, hiểm trở như Đèo Le, Tý, Sé. Nhưng thời ấy chỉ
là thời tuyên truyền và đôi khi còn lẫn lộn với phái Đông Du – nhưng lãnh tụ
Phan châu Trinh, Huỳnh thúc Kháng thì nhất thiết không có sự lẫn lộn ấy – vậy
tôi tạm lấy năm 1905 là năm Phong Trào đã được quảng bá hết sức sâu rộng làm
năm khởi sự.
Công cuộc bắt đầu như thế nào sau khi các ông ở Nam về ? Các
ông Trần quí Cáp và Huỳnh thúc Kháng có thực sự đứng ra để hoạt động hay chính
các sĩ phu được giác ngộ, tư nhiệm công tác, tự lo liệu hoạt động và các ông chỉ
là cố vấn ? Tôi đoán là do các sĩ phu tự nhiệm, tự hoạt động trước ít nhất cũng
về phần đất nay thuộc Quảng Tín. Vì Huỳnh thúc Kháng ghi rất rõ, khi trình bày
tiểu sử Lê Cơ : Công cuộc sắp đặt trong làng gặp lúc Phong trào tân học
(1905-1906) (Lê Cơ là một lãnh tụ ở một xã, can đảm phi thường, tôi sẽ
dành riêng một mục để nói tới ông). Cũng trong tự truyện thì Huỳnh thúc Kháng lại
công nhận nửa đầu năm 1906 ông dạy học, kế đó mới lập thương cuộc tại Hội An, hội
nông, trồng quế, lập trường học… (Tự truyện trang 28) và cũng vào năm này 1906,
các cơ sở lớn nhất của vùng đất nay thuộc Quảng Nam cũng đã được khai phá, mở
mang ồ ạt và nhiều nơi có qui mô rất lớn. Nhưng chắc công việc cũng đã khởi đầu
từ 1905 vì ông Trần huỳnh Sách viết : (Nam Du) về tỉnh nhà, tiên sinh
(TQC) cùng các bậc thân hào trong tỉnh xướng lập hội thương, trường học. Tiên
sinh có làm bài « Chiêu hồn nước » và bài ca « khuyến
thương » Bài ca Chiêu Hồn nước cũng gọi khuyến học, sẽ đọc ở trường
Diên Phong, mở dạy Tân Thơ năm 1906. Vì nó tóm tắt phần lớn tư tưởng Duy Tân
nên tôi trình bày ra trước để bạn đọc theo dõi mọi diễn tiến đã được ghi như
chương trình hành động bao gồm trong đó :
Đấng làm trai đứng trong trời đất,
Phải làm sao mở mặt non sông,
Kìa kìa, những bậc anh hùng,
Cũng vì buổi nhỏ học không sai đường.
Cuộc hoàn hải liệt cường tranh cạnh
Mở trí khôn giàu mạnh dường bao.
Nước ta học vấn thế nào,
Chẳng lo bỏ dại, lẽ nào đặng khôn ?
Chữ quốc ngữ là hồn trong nước,
Phải đem ra tỉnh trước dân ta,
Sách Âu Mỹ, sách Chi Na,
Chữ kia chữ nọ, dịch ra tinh tường
Nông, công cỗ trăm đường cũng thế,
Hiệp bằng nhau thì dễ toan lo,
Á Âu chung lại một lò,
Đúc nên tư cách mới cho rằng người.
Một người học, muôn người đều biết ;
Trí đã khôn, trăm việc phải hay.
Lợi quyền đã nắm trong tay
Có ngày tấn hóa, có ngày văn minh.
Chuông tự lập vang đình diễn thuyết
Trống hoan nghênh dội bể Đông Dương
Nghểnh xem khoa cử mấy chàng,
Kia vì khôn dại, rõ ràng chẳng sai.
Bài này quan trọng vì nó sẽ làm căn bản cho nhận thức về thực
chất duy tân và chương trình hành động mà đến nay đối với chúng ta vẫn còn quá
mới mẻ :
a) Trước tiên phải đặt vấn đề chánh giáo tức
là một nền giáo dục đúng, hợp tình, hợp lý và toàn diện để đào tạo những con
người, những bậc anh hùng. « Học không sai » mới theo đúng đường.
Học đã sai thì còn mong gì mở mặt non sông mà chỉ dìm thêm non sông vào bóng
đêm những trang thảm sử !
b) Nên đặt cho đúng vị trí quốc gia ta trong một thế giới
cạnh tranh kịch liệt của liệt cường : mạnh thắng, yếu thua. Muốn không thua tất
phải mạnh, phải giàu mà đạt được sự giàu mạnh thì trước hết phải khôn. Khôn là
kết quả của học vấn.
c) Học cần phải có chuyển ngữ, chuyển ngữ Hán là của
Tàu, chuyển ngữ Pháp là của Pháp. Việt Nam phải có chuyển ngữ riêng : chữ nôm
hay quốc ngữ. Các cụ chọn quốc ngữ vì thấy nó rất thuận lợi 1 .
Nhận định về chuyển ngữ như thế là nhận định tiến bộ. Dù chữ quốc ngữ
vẫn còn các khuyết và nhược điểm trầm trọng, nhưng trong cái thế muốn quảng bá
cho đại chúng, quảng bá những bài học đơn giản, quốc ngữ có thể đóng trọn vai
trò chuyển ngữ ít nhứt trong những buổi đầu. Trần quí Cáp đã vượt qua dư luận nặng
nề đương thời, cho quốc ngữ là của Tây, của cố đạo, nhiều người tự trọng vẫn cấm
con em dòm ngó, vì họ nghĩ nó là thứ chữ phản quốc, thế mà Trần quí Cáp dám gọi
nó là « hồn trong nước ». Chỉ chừng đó cũng cho biết ông thật
gan dạ đầy mình. Phải dạy nó trước cho dân ta, nhưng chưa đủ, vì nền học vấn của
ta quá thiếu sót mà thế giới đang bước tới bằng những bước khổng lồ. Vậy cần phải
phiên dịch các sách Âu Mỹ, Trung Học (Mà lạ lùng, ông dám gọi là Chi Na theo
phiên âm đúng nhất). Khoa học, kỹ thuật, triết học là những cánh cửa để mở vào
một thế giới mới. Nhưng không phải chỉ có thế giới hiện đại mà cả thế giới cổ
điển đã thành truyền thống của Á Châu :
Á, Âu chung lại một lò,
Đúc nên tư cách mới cho rằng người.
d) Cái học của ta xưa nặng từ chương, không để ý gì đến
các hoạt động khác như kinh tế, thương mãi. Do đó, sĩ phu ta tự cách biệt hẳn với
đời sống xã hội và nước ta cứ nghèo mãi. Vậy nay cần hô hào, tán dương nông,
công, cổ (buôn bán) và cần nhất là bỏ lối làm việc cá nhân mà nhất thiết phải
tiến tới «hiệp bày» là lập đoàn thể, công ty để hùn vốn, hùn trí khôn, hùn kinh
nghiệm mà tính những công tác qui mô, lâu bền. Có như thế mới chắc chắn nắm được
quyền lợi của quốc dân, của đất nước trong tay. Nếu không nắm được lợi quyền ấy
thì người Âu Mỹ, người Trung Hoa sẽ đè đầu, cưỡi cổ mãi dân ta như thế làm sao
:
Có ngày tấn hoá, có ngày văn minh !
Vậy cần có óc tự lập trước đã. Có óc tự lập cho cá
nhân, đoàn thể, quốc gia. Bắt đầu từ đây, những cuộc diễn thuyết về dân quyền,
tự lực, tự cường sẽ vang khắp các mái đình «vương quốc» của xôi thịt và nơi đó ầm
ầm vang dậy :
Trống hoan nghênh dội bể Đông Dương !
Tư Tưởng Duy Tân sẽ không chỉ vượt Quảng Nam ra Bắc vào Nam
mà còn tràn lan khắp bờ cõi Đông Dương nơi thực dân đang đặt ách đô hộ, nơi con
người sống như cầm thú.
Vậy, còn chờ đợi gì mà không vứt cái học khoa cử ngu dại để
bước lên một bước khổng lồ theo ngọn cờ Duy Tân để dẫn quốc dân nhập vào thế giới
ngày nay. Theo gương Nhật Bản, Nhật Bản mới thắng trận, biết bao nhiêu bài vè,
bài ca phát xuất từ sĩ phu, từ chính dân chúng để ca ngợi để thúc đẩy Phong
trào.
Cả sĩ phu, cả dân chúng đều thấy Duy Tân là cần. Vấn đề tư tưởng,
chí hướng, phương pháp và «địa lợi nhân hoà» đã có, các chiến sĩ hăng hái đi từ
hoạt động này tới hoạt động khác. Theo Phan châu Trinh trong «Trung Kì dân biến
thỉ mạt ký» 2 có
nhiều tổ chức khác nhau : Thương hội, nông hội, trường học, hội mặc đồ tây, hội
diễn thuyết… Chúng ta lần lượt nhìn qua các hội, các đợt sóng của tân trào.
Chú thích:
1 |
Xin xem thêm Văn nghiên cứu và phê bình số 1, 1967: Nguyễn
văn Xuân, 1967: Một trăm năm văn học chữ Quốc Ngữ. |
2 |
Bản dịch của Ông Lê Ấm, rể cụ Phan châu Trinh, chưa xuất bản.
Viết tắt: Trung Kỳ dân biến. Kể cuộc dân biến ở Trung Kỳ từ khởi thủy đến cuối
cùng. |
Nguyễn Văn Xuân
Theo https://vietmessenger.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét