Tiểu luận và chân dung văn học 1
CHÉN RƯỢU VĨNH BIỆT
Cữ thượng tuần tháng tư năm nay, tôi có chút việc phải về
làng Mọc. Tôi nghĩ ngay đến việc ghé thăm ông Tản Đà. Từ chỗ ông ở đến làng Mọc
tôi, cách nhau độ năm trăm thước. Sẵn có bó đóm diêm gỗ bồ đề, tôi gói đi gọi
là làm chút quà cho ông bạn già vốn đặt cái thú hút thuốc lào ngang với cái thú
uống rượu. Con người ta chơi với nhau, đã mến được nhau, đã kính nhau, thường
hay có những cái tỉ mỉ như thế. Cái thanh đóm dùng để châm thuốc lào, ở người
khác tôi không hiểu nó như thế nào, nhưng giữa ông Tản Đà và tôi, thanh đóm đã
là một cái gạch liên lạc nối một trẻ vào một già.
Lần đầu tiên tôi giáp mặt ông Tản Đà là ở tòa soạn An Nam tạp
chí phố Hàng Da. Đầu năm 1932 gì đó, sau cái hồi rời bỏ phố Hàng Khoai, lúc ông
Hiếu còn cộng sự với ông Cử Ngô Thúc Địch. Sau bài thơ trường thiên của tôi gửi
đăng ở An Nam tạp chí lấy tên là Tương Tư Hành, Vũ Lang đưa tôi lại giới
thiệu cùng ông Tản Đà. Tôi còn nhớ buổi đầu đó, chúng tôi nói rất nhiều về bản
dịch bài Tỳ bà của Bạch Cư Dị, mà nhiều người gán cho Nguyễn Công Trứ
và một số người nữa thì bảo là của ông Đồ Phù Long (?) Những đoạn nhắc đến chữ
dịch hay quá, hay đến nỗi hóa được cả chữ của nguyên văn như chữ tẩm (biệt
thời mang mang giang tẩm nguyệt) mà dịch là dầm (nước mênh mông dầm vẻ
trăng trong) chẳng hạn, ông Tản Đà hút một điếu thuốc lào, tôi cũng hút một điếu
thuốc lào.
Chúng tôi thông điếu lẫn cho nhau và người hút thuốc thường
giữ một thanh đóm lúc vẫn cháy để chờ người sau kịp rịt một mồi thuốc thứ hai
vào nõ điếu. Lẽ cố nhiên, tôi thông điếu và giữ thanh đóm cháy nhiều hơn ông Tản
Đà.
Tôi rất vui vẻ giữ cái địa vị đàn em như thế có đến nửa giờ đồng
hồ vì hai cớ: cớ thứ nhất là trước mặt tôi, tôi có cả một cái tài hoa già dặn của
thời đại; cớ thứ nhì là ông Tản Đà cao hơn tôi những hai chục tuổi đầu. Lúc đứng
dậy xin cáo, ông Tản Đà tay sẵn thanh đóm còn cháy dở, nèo tôi hút một điếu thuốc
lào nữa và cười khà khà:
- Ngon nhất là cái điếu thuốc lào hút thế nào cho được nhất
khí.
Thấy bao diêm của tôi đã vợi hết ruột, ông sẻ cho mấy chục
que ở cái bao đầy của ông.
- Ngài cầm ít que dừng tạm. Bên đầy quá bên vơi quá.
Tôi lĩnh mươi cái que đóm diêm sinh, cảm tình vô hạn cái buổi
đầu gặp ông Tản Đà, buổi đó, để lại cho tôi nhiều thiện cảm. Nhớ đến cái tàn lửa
đóm của ngày cũ năm 1935, hồi ông Tản Đà thất thế lùi về Khê Thượng, tôi có gửi
lên cho tiên sinh một bó đóm diêm gỗ bồ đề. Có người bạn quen, bắt gặp tôi ra
nhà dây thép gửi cái bưu kiện đóm diêm lên tận tỉnh Đoài cho thi nhân, người đó
đã đùa nhả một câu:
- Anh định diễn lại cái kịch rau sắng chùa Hương, có phải thế
không?
Bó đóm đi không bao lâu thì ông Tản Đà gửi lại một bài thơ lục
bát trong đó có hai câu:
Tay cầm bó đóm con con,
Nhớ người xa nước xa non như gần.
Đã có bao nhiêu đêm đông lạnh, tôi ngồi xổm khoác mảnh chăn
bông lên bả vai, châm một thanh đóm, và nhớ đến người xa xa tôi cất tiếng ngâm
một bài "Thề non nước" giữa một vùng khói thuốc lào dầy đặc, như màn
đất núi.
Mãi đến đầu năm ngoái, tôi mới có dịp gần ông Tản Đà luôn
luôn. Mỗi dịp gần nhau lại là một dịp để say sưa, để hút thuốc lào với thanh
đóm cũ, để nói chuyện dịch Liễu trai, dịch Đường thi và phê bình về người và việc
trong Đông chu liệt quốc.
Biết là đóm đã hết, cữ này về làng Mọc, tiện đường qua nhà
ông Tản Đà ở Cầu Mới, tôi đem về biếu một bó đóm nữa.
Bấy giờ vào quãng chín giờ sớm. ông Tản Đà đang uống nước
trà, thấy tôi vào đã vội cười với một câu: "Cố nhân lai!" Cái mừng rỡ
này xiết bao thành thực. Đúng như vậy, đã mấy hôm nay rồi, ông Tản Đà đang khát
gặp người nói chuyện. Những bạn năng lui tới thường đã rõ ông Tản Đà vì sao phải
rời xóm Bạch Mai chạy về vùng Ngã Tư Sở. Mở ngôi hàng xem số tử vi Hà Lạc,
không có khách. Mở lớp quốc văn hàm thụ và lớp Hán văn diễn giảng cũng lại
không có học trò nốt. Rốt cùng đến thiếu tiền nhà, chủ nhà đuổi người thuê nhà
và giữ lấy đồ đạc.
Chỉ tay vào chồng sách cũ xếp trên cái ghế mọt dài, chỉ tay
vào hai chiếc ghế mây đã gần thành bảy chân choãi, ông Tản Đà vẫn còn hài hước:
- Nhiều lắm mà làm gì. Hai chiếc ghế cũng đủ chán. Chủ ngồi một
chiếc, khách ngồi một chiếc.
Tôi bâng khuâng. Tôi cố tìm trong đầu tôi, lục lại trong cái
mớ truyện Đông Tây cổ kim, để tìm lấy tên một thi sĩ giàu có. Thì ra, cái nghèo
của thi nhân đã là một nghiệp dĩ. Sự giàu sang người ta chỉ thấy ở một kẻ buôn
bán, ở một nhà viết tiểu thuyết. Có bao giờ, có mấy khi, một thi nhân được nằm
lên đống vàng mười. Tôi muốn bỏ đi ngay, để được phơi những ý nghĩ đen ngòm này
ra một chỗ thoáng.
Ông Tản Đà giữ tôi lại:
- Này, đi đâu? Lâu lắm không uống với nhau một chén nào cả. Ở
đây rồi ta tiểu ẩm.
Rồi ông chỉ cái thẩu rượu có ngâm đôi ba con cáp giới còn
nguyên hình:
- Của một ông bạn ngoài Quảng Yên làm quà cho. Để đợi hôm nào
khỏe, chúng ta sẽ dùng hết. Cái giống này tráng dương lắm. Lai ơi!
Lai là tên một người hầu cận thi nhân, cũng là người Khê Thượng,
theo ông từ ngày ông lùi về quê vùng Bất Bạt. Trước kia Lai thất học, nhưng từ
ngày ở với ông Tản Đà đã biết đọc, biết viết và nhiều khi ngồi bên bếp lửa thăm
dòm một bát canh, một niêu cơm, còn ngâm nga(!) nữa. Đã từ bốn năm năm nay, mọi
việc chuyên trà, xào nấu món ăn và những lúc đêm hôm phải cầm cái hũ đi lấy rượu
từ đầu làng đến cuối làng những lúc có khách, nhất nhất mọi việc đều qua tay
Lai cả. Nếu ông Tản Đà ở lùi vào thời trước, thì nhất định Lai phải để hai trái
đào như một hề đồng ngày ngày đeo một cái lẵng hoa quả theo thầy lên núi lau một
cái sườn đá cho thầy đề mấy vần thơ. Chiều cho được ông Tản Đà, tôi tưởng cũng
chỉ có một mình Lai thôi. Lai lúc nào cũng vui vẻ đứng hầu rượu. Với những
phong tục rất êm đềm ấy ở trong một khung cảnh rất thanh bạch ấy, hai thầy trò
ông Tản Đà đã gần như chọn nhầm thế kỷ.
Lai đã bưng siêu nước ra, đứng vòng tay chờ ông Tản Đà sai bảo:
- Này Lai, con chạy ra đầu phố xem có cái gì mua về uống rượu.
Con tùy tiện lấy.
Nghe mà thấy dài quá! Nghe mà thấy sang quá! Ai dám bảo ông Tản
Đà là luôn luôn túng quẫn. Tôi tủm tỉm cười.
Lai ở chợ đã về và đã nhanh nhảu bày lên bàn những món tửu
hào. Trên mặt cái bàn gỗ mộc tròn vốn dùng luôn làm bàn giấy (!) - những lúc dịch
thơ Đường bán cho báo Ngày nay, những lúc dịch Liễu trai bán cho
nhà Tân dân, những lúc chấm số Hà lạc bán cho khách bốn phương trời - trên
cái bàn gỗ mộc, Lai đã đặt lên đấy một cái hỏa lò than hồng. Một đĩa bún Thanh
Trì trắng phau điểm vài ngọn rau húng láng xanh ngát. Và mươi gắp chả thịt lợn
ba dọi có bóp riềng mẻ. Cái "tác phẩm" xinh xắn, gọn gàng này là của
Lai.
Khói mỡ bay đầy phòng
Ngoài đường nắng chang chang.
Gió nồm quạt lửa hạ vào nhà.
Lai cũng phành phạch quạt nan quạt lửa than hồng vào người
chúng tôi. Rượu nặng phân bắt đầu ngấm, bốc mãi nhiệt độ trong người. Nếu không
yêu và kính chủ nhân, thì có mà phải tội mới ngồi hầu một bữa rượu chín được
người như thế này. Cũng như bao giờ, ông Tản Đà là người nói nhiều nhất trong
những lúc cử tửu. Giữa cái nóng nực của bữa rượu trời hè, tôi, mồ hôi chảy ròng
ròng, ngồi nghe ông Tản Đà luận bàn về người trong thanh sử.
Nói xong cái tâm trạng Khổng Minh lục xuất kỳ sơn, ông quay
sang cái cảnh Phạm Lãi chu du Ngũ Hồ. Rồi ông chê người Đại phu Văn chủng, rút
những câu trong sách cũ về đoạn ấy: "Cao điếu tận, lương cung tàn, giảo thỏ
tử, tẩu cẩu phanh, địch quốc phá, mưu thần vong...".
- Con người ta ở đời, có hai thái độ đáng quý, một là làm
thánh hiền, hai là làm hào kiệt. Nhưng đem so sánh thì làm hào kiệt vẫn sướng
hơn. Cái cuộc đời ấy mới là ồ ạt.
Rồi không cần câu chuyển, ông Tản Đà đổi sang một câu chuyện
khác.
- Nội trong loài cá, chỉ có con diếc là sạch nhất và khó câu
nhất. Giống nó chỉ hay ở chỗ nước trong và ăn toàn bọt nước. Thả cái mồi gì nó
cũng chê cả. Định lấy một cái mồi thơm mà dử nó như là người ta thường dử một
con rô hay một con chuối, thực cái anh đi câu đã làm một việc tối vụng về.
Tôi liên tưởng mang máng nhớ tới câu tản văn của tiên sinh viết
trong cuốn "Giấc mộng con": "Có người, cho cái áo vải thì chê, đợi
cho đến cái áo gấm mới mặc..." Vừa ăn, vừa triết lý, vậy mà mặt trời đã đứng
bóng. Nhìn đồng hồ, ông Tản Đà nói:
- Đến một giờ, tôi phải ra ga. Hôm nay Nguyễn Tiến Lãng ở Huế
về. Trước khi theo Hoàng hậu đi Tây, hắn muốn về qua nhà, để bàn tính cùng ông
cụ Huyện cho nó xong cái việc vợ con đi. Tôi muốn gặp mặt Lãng vì có tí chuyện.
Thế rồi ông Tản Đà đưa tôi xem một lá thư. Lá thư của ông
Nguyễn Tiến Lãng gửi về giục ông Tản Đà gửi sách (?) vào để ông tâu với vua Bảo
Đại "trợ cấp" cho một số tiền năm trăm đồng.
Tôi cũng biết thế vậy. Tôi lặng lẽ trao lại lá thư cho ông Tản
Đà. Vẫn lặng lẽ, tôi nhấp một chén rượu. Rượu lúc này sao cay, sao đắng lạ -
ông Tản Đà sắp được triều đình Huế ban cho năm trăm đồng! Thi sĩ lúc túng còn
gì bằng. Nhưng có phải lần này ông Tản Đà mới được cầm một số tiền to đâu. Từ
năm xửa, năm xưa, có người hiệp khách ở Nam Kỳ đã biếu ông Tản Đà một số tiền lớn
hơn thế. Những nghìn đồng. Người hiệp khách có bụng liên tài ấy đã biếu không số
tiền đó và trái lại, không có đòi hỏi ông Tản Đà một điều kiện gì cả. Với số tiền
ấy, thi nhân đã làm những gì? Thi nhân đã uống được mười vò rượu bồ đào, dùng
thêm được mấy mươi thạp trà tàu, và du lịch thêm được ít vùng nữa với sự thừa
thãi hàng mấy tháng ròng. Giở lại tập thơ làm vào thời kỳ ấy, đã thấy nhẹ hẳn
phần tiêu sắt. Và có nhiều người đã không lấy làm thích lắm vì, đọc lên nó đã
không làm cho người ta lạnh và rùng mình như cái khối thuở tình xa xôi. Số bạc
ngàn lúc trước dùng cũng được có thế thì bây giờ nếu có thêm được nửa cái số
trước nữa, đã chắc hơn gì chưa? Mà rồi từ giờ trở đi, người ta sẽ đưa thi nhân
của chúng ta vào cái thế giới nào đây? Tôi tin rằng từ nay trở đi, cái đời văn
chương của một thi nhân sẽ bước sang một giai đoạn khác. Tôi ngờ rằng, với một
số tiền trợ cấp kia, ông Tản Đà sẽ không già tay để hạ những vần rất sái và tác
phẩm sau này sẽ nhan nhản những câu thơ rất có "hậu'.
Sao lại không như thế được?
Cái buồn của tôi vẫn không vợi, khi ông Tản Đà đọc lại mấy
câu lục bát rất hay làm từ những bao giờ.
Cho vơi hũ rượu, cho đầy túi thơ
Trăm năm thơ túi, rượu vò,
Nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai.
San sẻ cho tôi một gắp chả sốt, ông Tản Đà nói đến kế sinh
nhai.
- Tôi có lên trên báo Ngày nay, nói chuyện cùng Trần Giư
để lại dịch thơ Đường. Nhưng ông ta có bảo công việc ấy bây giờ giao cả cho ông
Thạch Lam.
Chuyến tàu điện Hà Đông đã nổi hiệu chuông ra gần tới Ngã Tư
Sở. Tôi lặng lẽ cầm tay ông Tản Đà, hẹn một ngày khác rất gần đây, sẽ xin trở lại.
Cái ngày khác rất gần đấy mà tôi lại trở lại căn nhà 71, Ngã
Tư Sở, là ngày hai mươi tháng tư, tây lịch là ngày 7 Juin 1939. Tôi trở lại để
không bao giờ gặp lại ông Tản Đà nữa. Tôi, một kẻ ở, đến để ngắm chủ nhân đã là
một người về. Lúc bấy giờ quá giờ Ngọ.
Sớm nay (7-6) ở thư viện ra, Vũ Bằng rủ tôi đi uống, một cốc
rượu mạnh. Dọc đường phố Hàng Bông, người trưởng nam ông Nguyễn Khắc Hiếu mếu
máo tin cho tôi biết rằng ông già cậu vừa mất. Thế là từ phút này, làng rượu đất
Bắc mất một tửu đồ và tao đàn mất một vị nguyên soái. Và cái bữa rượu bún chả
tôi uống hôm đầu tháng ở Cầu Mới với ông Tản Đà là bữa rượu vĩnh biệt một thi
nhân mà từ bây giờ chúng ta có quyền gọi xách mé là Tản Đà, là Nguyễn Khắc Hiếu
không cần chữ đệm.
Ngồi ở một tửu điếm Bờ Hồ tôi vừa quấy cốc rượu Borgia cho nổi
bọt lên, tôi vừa nghĩ đến một câu mà ông Tản đã gở miệng nói giữa bữa rượu hôm
trước.
"- Này bác Tuân, làm thế nào mà lúc chết được để mả ở chỗ
Hàm Rồng Thanh Hóa, ngay chỗ bên cầu treo. Ở đấy mát lắm".
Rồi nghĩ đến cái việc trợ cấp năm trăm bạc chỉ một chút nữa
là thành sự thực, tôi lại mừng cho cái thơm tho của một thi nhân. Có lẽ ông trời
muốn giữ cho thi nhân được trong sạch nên đã sớm gọi ông Tản Đà về.
Người trích tiên đánh vỡ cái chén ngọc ở Tiên cung đã đến lúc
mãn hạn đi đày? "Cái hạc" đã "bay lên vút tận trời"!
Năm mươi mốt tuổi đầu, thế cũng là đến cõi. "Của trời,
tham được có ngần ấy thôi". Tôi nâng cốc rượu còn đầy chỉ định nhớ chứ
không thương thi nhân vừa đặt chân vào cõi bất diệt.
Nhưng lúc tôi vào nhà 71 Cầu Mới, lòng tôi thắt lại. Ông Tản
Đà còn hấp hối và đang thở hắt ra. Cứ đều đều, cứ nhẹ thế cho đến hơi thở cuối
cùng. Hai môi mím khít lại ông Tản Đà có nét mặt răn rúm của một người chết khó
khăn. Phải, chung thân làm một người bất đắc chí, sống đã chẳng được toại lòng,
người nằm sóng sượt đây khó mà đi cho nó nhẹ nhõm được. Tôi bắt đầu cảm thấy
hơi lạnh. Ở đầu giường bệnh, vẫn bên chồng sách bừa bãi đây đó mấy trang bản thảo.
Tập di cảo! Trời? Và lẻ loi ở góc bàn vẫn cái hũ rượu cáp giới ngày nọ. Tất cả,
chỉ có thế thôi, với một đoàn thê tử yếu và đuối!
Cuối thế kỷ trước, một buổi chiều Avril 1939, tại Paris, nhà
viết kịch trứ danh Cenri Becque đã nhắm mắt giữa cảnh nghèo nàn và cô chiếc.
Không có vợ, không có cha anh, không có thừa tự. Becque đã để lại cho đời vẻn vẹn
có mấy vở kịch Les Corbeaux, La Parisiènne, v.v.. Cứ lời viên thừa phát lại thời
bấy giờ làm bản kê khai, thì ngoài tác phẩm kể trên, gia sản của nghệ sĩ để lại,
còn có mấy khoản này:
Một cái tượng bán thân do Rodin nặn cho, một cái nồi nấu, một
cái nệm, tất cả bán đấu giá được 0f50;
Một chồng sách in, bán được 30f,
Một cái va li, bốn chiếc khăn mặt: 2f,
Và ba chai rượu vang Mariani (vẫn rượu);
Và năm vạn ba nghìn quan tiền nợ.
Cái đám ma của Bacque, lẻ tẻ vài lăm người.
Tao Đàn số đặc biệt ngày 1-7-1939
MỘT ĐÊM HỌP ĐƯA MA PHỤNG
Tôi bước vào nhà in báo Con ong và hỏi luôn cái người
to lớn lù lù đang cầm bút trên giấy:
- Gì mà điện thoại nhắn nhe ầm lên thế?
Tam Lang - người to lớn lù lù ấy - bảo tôi hãy ngồi xuống đã, đợi một vài bạn nữa
đang bận tay chữa bài dưới nhà in lên. Tôi nghĩ thầm chắc lại hội họp để cắt cử
người đọc điếu văn Vũ Trọng Phụng ngày mai đây. Ngồi kéo nốt mồi thuốc đang tàn
trong lòng điếu, tôi nghĩ đến người vừa nằm xuống và nghĩ luôn đến cái chết lạnh
lẽo của các giống nghệ sĩ ở đời. Tôi nhớ đến một chiếc lá vàng vừa rụng khoảng
đầu năm nay trên lối đi vắng vẻ nơi ruột rừng văn An Nam. Đầu năm nay, Tản Đà mất.
Chiếc lá vàng ấy chưa kịp mục, thì rừng mùa thu lại hái thêm một chiếc lá xanh
ném xuống đất. Người ta tiếc thi nhân chưa nguôi, thì giờ người ta lại được
khóc một văn nhân nữa. Cái làng văn An Nam vốn đã thưa thớt, lại càng quạnh quẽ
muôn phần.
Chợ Hôm về chiều tháng chín mùa thu, vào lúc gần tan, càng gợi thêm cái mệt mỏi
trong lòng một thứ người sống với một chút hoài bão riêng ở đời.
Tia nắng hanh cuối cùng đã tắt. Gió heo gửi vào cửa sổ tòa báo Con
ong một chiếc lá vàng cuộn tròn mép.
Tam Lang bó những bản thảo và giấy má bừa bộn vào tủ và không vui, không buồn,
bảo tôi:
- Tí nữa đi sang sông. Bây giờ đi ăn.
- Au de là du Rhin?
- Phải.
Thế nghĩa là tối nay, nhân một cuộc hội họp về tin Vũ Trọng Phụng vừa mất,
chúng tôi qua bên kia sông nghe hát ả đào. Thường mỗi khi rủ nhau qua cầu Sông
Cái để thức đêm ở xóm Thượng Cát, chúng tôi sẵn có một câu nói lóng: Au de
là du Rhin. Con sông Rhin đây là sông Nhĩ Hà. Và sau cái bờ sông Rhin này là những
căn nhà hát...thứ nhà hát không sạch sẽ, không sáng sủa. Chúng tôi có cần gì đến
căn nhà rộng sáng, đến con hát đẹp và hay.
Chúng tôi tối nay chỉ cần một nơi để họp nhau cho trọn đêm để sớm tinh mơ ngày
mai, lại cả đoàn kéo nhau qua cầu chạy theo một cái xe đám ma người bạn chết
non.
Thấy người cùng tuổi cùng nghề phải chết một cách sớm sủa mau mắn như thế,
chúng tôi thấy đời là ngắn lắm mà chúng tôi càng phải gần sát mãi nhau lại cho
đỡ lạnh.
Hạng người cầm bút trong xứ không nhiều nhõi gì; mỗi khi có một người ngã vì bệnh
nạn, chúng tôi càng phải dồn nhau lại để hàng ngũ đỡ trống trải. Cái giây phút
này, ta thường buồn cho người vừa chết, ta thường buồn cả cho ta.
Hỡi những người chỉ sống cho luân lý, sống bằng luân lý, tôi không khi nào van
xin các người đừng cười chế chúng tôi sao lại dám khiêu vũ chung quanh một chiếc
quan tài chưa gắn kín sáu con cá. Có lẽ cũng chỉ vì những tiếng chày đang nện
cá nặng nề bên quan tài kia đã dội nhiều vào lòng bọn người sống một cách hốt
hoảng, vô thường định với cái cô quạnh của tinh thần như bọn tôi, nên chúng tôi
đã rủ nhau đêm nay sang sông mà uống rượu cho say, mà nghe hát, cũng cho đến
say, và điên cuồng mà nhẩy đầm quanh một cái xác chết. Có như là gần thời chiến
tranh, lúc này người ta lấy tốc lực ra mà sống cuộc đời mình. Biết đâu ngày mai
chẳng là không còn gì nữa.
Nếu lúc này gọi được hồn Vũ Trọng Phụng lên mà hỏi câu này, chắc anh lia lịa gật
đầu.
Người bạn tội nghiệp của chúng tôi chết. Ngày hôm sau, đưa đám buổi sớm. Nhận
cái tin buồn ấy - chúng tôi hát và hút thuốc phiện. Đã buồn chưa? Tôi muốn hỏi
tất cả những người bạn tha thiết với Phụng, những người sống với phụng sự nghệ
thuật bằng một chuỗi ngày chìm chìm tẻ tẻ, xem những ai là người chịu ngủ cái
đêm ấy ở nhà mình?
Đêm ấy, bên kia sông, nhà hát lạnh như nhà mồ. Bọn ca nhi trông người nào cũng
cao lênh nghênh. Sự nghèo đói làm cho người họ dài hẳn ra. Ngọn đèn dầu lạc chỉ
là một ngọn đèn thờ. Người kép khẳng khiu như một cây khô, cũng chỉ đủ là nhạc
công một phường bát âm cho nổi lên một bản hòa nhạc chết khi người ta dâng cơm
cúng.
Chúng tôi cười một cách điên dại như đám thủy thủ một con tàu ngầm gặp nạn, tàu
cặm vào rốn biển cả.
Chúng ta thương nhớ thằng Phụng nhiều nhất là giữa giờ này. Hỡi ôi!
Một người nói. Một người hút. Một người không làm gì cả. Hai người úp mặt vào
tường, cười và thở dài với cái bóng in trên tường đầy máu rệp và xác muỗi khô.
Tôi đánh trống, gãi hai chiếc roi chầu. Cố đánh cho tử tế, mà tôi nhận thấy tiếng
trống của tôi chỉ là tiếng trống bản.
Và tiếng phách của Tỳ bà đủ là những tiếng sênh chấp hiệu cho một cỗ đòn đám khởi
hành xuống huyệt. Cũng phong phanh như đám ca nhi, chúng tôi cảm thấy đêm thu cứ
thấm dần qua lần vải mỏng sơ mi và đi mãi vào lòng. Những manh sơ mi này phải
nương nhẹ, giữ sao cho vẹn màu hồ để ngày mai đưa Phụng nó lên đường.
"Chúng ta nên đẹp, quanh cái chết một người thân".
Đêm lạnh lắm, nhà hát nghèo, không có chăn.
Chúng tôi hút thuốc lá nhiều như bọn lính Tây cho nó được ấm bụng. Và nằm dịch
mãi vào nhau. Một người kêu không khéo mai về ốm mất. Khói thuốc ba thứ thuốc,
thuốc phiện, thuốc lào thuốc lá - đã có vị chát và ngửi nhiều quá, thấy lạc cả
mùi ngày thường.
Bây giờ giữa cái thấm thía của đêm nhà hát, chúng tôi mới bắt đầu nói đến Vũ Trọng
Phụng. Mỗi lúc nói đến chuyện bạn lại phải kèm thêm những câu: lúc sinh bình, hồi
còn mồ ma hắn.
- Nhiều người còn sống sờ sờ kia, oán thằng Phụng lắm. Chúng nhìn thấy hình ảnh
chúng ở Nghị Hách, Xuân Tóc Đỏ, v.v..
- Thằng Phụng mà đánh đàn nguyệt thì có giết người không? Ừ, nó đàn có những tiếng
nắn dễ thương và lẳng lơ lạ.
- Lại còn cái chướng nữa là hắn thích làm thơ. Các anh thử tưởng tượng xem cái
phản động lực văn chương của quần chúng độc giả sành xem nó ra sao, khi họ đọc
thơ Vũ Trọng Phụng?
Chúng tôi cười rộ. Và tiếp:
- Thế nghĩa là cụ Mính viên Huỳnh Thúc Kháng viết truyện ngắn đấy.
- Và cụ Phan Bội Châu nhận lời giữ mục phê bình "Màn ảnh và sân khấu"
cho một tuần báo văn nghệ.
Chúng tôi lại cười ồ.
Thằng Phụng, về đức tính, có điểm này khá nhất là nhận thầu tờ báo nào là không
hay quỵt tiền anh em viết giúp. Trong bọn cầm bút có những thằng đứng lên nhận
"đẩy" sách và bán bài giúp cho bạn, rồi lại ăn cả tiền nhuận bút
không chia cho bạn lấy một đồng xu nhỏ, kể ra Phụng là một người đáng được nêu
lên làm khuôn mẫu.
- Về tiền nong, Phụng phân minh về chỗ tài thượng lắm, nhưng nhiều khi hắn cẩn
thận như một con người công chức. Về xã giao, hắn quan tâm nhất về chỗ kẻ cười
người khóc. Ai phúng nhà mình một nghìn vàng, một thẻ hương; ai mừng một chai
rượu hắn đều có biên cả. Để rồi chờ đợi mà biếu lại, mà mừng lại. Có ai quen Phụng,
dầu là sơ sơ, mà ốm, là Phụng là người đầu tiên vào cửa nhà thương để thăm hỏi.
- Thế là hắn tốt chớ sao? Nhiều người đọc sách của Vũ Trọng Phụng lầm nhiều về
cái người ở Phụng. Họ đều cho Phụng là nham hiểm, là cơ tâm, là tâm điền xấu. Để
sinh ra ngộ điểm ấy, cái lỗi của Phụng là đã đem những cái thối mọt, cặn bã
nhân tâm vào trong tác phẩm mình đến đầy rẫy.
- Riêng gì Phụng, có chán vạn nghệ sĩ khác, từ trước tới đây, bị hiểu nhầm như
thế.
- Những anh nào ở đây đi lại với Phụng nhiều nhất nhỉ? Bà cụ đẻ anh Phụng, đáng
quý lạ. Thật là một bà mẹ chí từ. Hai mẹ con, một người chí từ, một người chí
hiếu. Cái hồi Phụng ốm lại về dạo sau này. Phụng nằm mãi, buồn tay muốn ngồi dậy
viết, bà cụ ngăn nhiều lắm. Rồi cứ thế mà ngồi quạt cho con cả đêm.
Phụng chết trẻ. Cái đáng tiếc nhất trong đời người bạn chúng ta là Phụng thiết
thực quá. Đời Phụng chưa có một cái mộng nào để mà ôm, chưa mơ màng đến một cái
gì để thỉnh thoảng lìa khỏi cái tẹp nhẹp mè nheo ở đời này. Trong đời Phụng, Phụng
cứ hành động theo suy nghĩ nhiều quá. Chưa có một giây phút nào, hắn dám điên
cuồng lấy một tị.
Tôi nằm tiêm thuốc bên khay đèn, tôi đã đánh cháy điếu thuốc...Tôi nhớ đến cái
chuyện tôi mua một bức tranh lụa bày ở phòng triển lãm mùa đông năm ngoái.
Hồi ấy, thấy tôi rước một bức thủy họa về để đến nỗi chậm cả áo mặc mùa rét đã
dồn về từ lâu. Phụng tìm đến tôi, ngắm bức họa với sự chế nhạo và "chửi"
tôi là một thằng điên và nói: "Tao không bao giờ lại có thể điên như thế".
Tôi lặng thinh. Từ đấy về sau, không bao giờ tôi thuật lại cho Phụng biết những
cái phút điên khác của tôi nữa.
Bạn tôi, sống ở đời, thực là một người thích sự phải chăng quá. Phải chăng khi
đụng chạm với người khác, phải chăng trong cái mặc, trong cái ăn. Nói đến cái
ăn tôi lại thêm buồn cười. Từ khi đánh bạn với Phụng, tôi biết Phụng chưa hề
"mạo hiểm" ăn một thực phẩm lạ bao giờ.
Chỉ hết phở xào rồi lại áp chảo và quanh quẩn chỉ đậu rán, bún chả, bún bung.
Có lẽ có một số tiền vài trăm giắt túi chẳng hạn, Phụng cũng chỉ đòi ăn có thế
và buộc bằng hữu ăn như thế. Nói đến ăn uống, tôi lại nhớ thêm đến một buổi họp
có cả Phụng, có cả Tản Đà. Thấy có ông Tản Đà, Phụng thành tâm đi mua hai gói kẹo
lạc va ni đưa về tiệm hút, cố mời người thi sĩ già.
- Mời cụ xơi kẹo lạc.
- Ông bảo cái gì?
- Dạ, kẹo lạc va ni, giòn và thơm lắm.
- Kẹo lạc! Ăn ra cái quái gì.
Buổi ấy, nhà thơ có tuổi đã làm tiêu hết chút ít cảm tình của Vũ Trọng Phụng.
Ngày thường, Phụng với cái tính cách thiết thực của một người phóng sự, đã
không chịu được Tản Đà kềnh càng rồi... Hai người ấy giờ đã là ma, cùng thở hơi
cuối cùng ở một xóm Cầu Mới, nhà số 71 và 73; cùng yên nghỉ ở một nghĩa trang.
Chắc ở dưới ấy, giờ gặp nhau, hai người tránh sao được nhiều cái lủng củng, nếu
hai hồn ma không chịu nghĩ đến cái tàn lạnh cuộc đời chung của tài hoa mà chịu
đựng lấy nhau!
Trong cái sống phải chăng của Phụng, có một cái phải chăng này đáng cảm động
hơn hết. Là những thứ văn phòng tứ bảo. Mực anh dùng viết là một thứ mực tím ít
khi tươi màu, phần nhiều là loãng và luôn luôn là nhạt, là chết. Giấy anh dùng
là thứ giấy sáu xu một thếp đã kẻ sẵn. Đấy là thứ giấy của vô danh với cái
khuôn khổ của tất cả mọi người. Ngòi bút Phụng thích dùng nhất là cái thứ ngòi
Incomparable, xu ba ngòi. Giấy, bút, mực ấy là giấy, bút, mực của học trò. Thật
là bình dị quá. Thế mà lời văn dùng bút ấy mà ký thác lên giấy ấy lại chẳng
xoàng xĩnh chút nào. Những người cầu kỳ về văn phòng tứ bảo như chúng ta, nghĩ
tới cái tiểu tiết này trong đời văn sĩ của Phụng, họ chẳng nên lấy làm nghĩ ngợi?
Phụng còn phải chăng cả đến những cái thèm muốn về tương lai. "Tao chỉ
mong sao mỗi khi chúng mày đàn đúm kéo nhau về chơi tao, thì có được mãi mãi một
mâm cơm cho tươm tất và cái khay đèn không phải thiếu thuốc". Đấy là câu
Phụng nói vào một buổi chiều tết Trung thu năm nay, khi còn ở phố Hàng Bạc và
trước hôm dọn về Cầu Mới được hai ngày.
Dạo ấy, Phụng vì thấy bệnh ấy phá phổi mình rõ ràng quá, theo lời thầy thuốc,
đã phải rước tĩnh về bày ở nhà. Nếu quả việc một người trẻ tuổi mà vướng nghiện
a phiến là có lỗi với danh giáo thì Phụng đã bằng lòng chịu xấu với dư luận để
cố mà lùi lại kỳ hạn của ngày lên đường. Lên đường về xứ chết. Phong, lao, cổ,
lại, tứ chứng nan y! Vả chăng ông bạn đầu xứ Ngô Tất Tố cũng đã nói riêng với
tôi rằng chả chắc Phụng có qua được mùa rét năm nay không. Mùa lạnh chưa tới. Mới
là có tiết thu thôi mà cái lá xanh đã lìa ngàn, một cái ngàn văn mà cây cối còn
thiếu những cổ thụ um tùm rắn rỏi.
Tôi đã lấy làm bằng lòng tôi là vào những ngày cuối cùng của Phụng, tôi đã
phóng túng hình hài với con bệnh lao chờ lúc lên đường ấy mà ăn, mà uống, mà
hút với Phụng cứ hàng nửa ngày. Phụng cười, chừng muốn hỏi: "Một người
thèm sống, sợ già, tránh chết như mày mà cũng dám coi thường vi trùng lao của
tao thả ra sao?". Những buổi ấy, tôi không cần giữ gìn vì tôi tin rằng làm
thế, sẽ tủi lòng người bạn thân mà ngày giờ đã bị đếm trước. Vả chăng, trong
người tôi ngầm cũng đã nhiều vi trùng lắm rồi. Có thêm một ít của Phụng nữa
cũng không sao.
Nhân Phụng vừa nằm xuống, tôi lại tìm trong đầu xem trong bọn nhà văn trẻ, những
người nào là cầm lỏng được cái chết. Thế Lữ, Tchya, Lưu Trọng Lư, Lan Khai,
Đoàn Phú Tứ, Thạch Lam . . . , đều là những người đủ tư cách để sớm lên đường lắm.
Ngực người nào cũng lép như cái đồng hồ ômêga trông nghiêng. Những người trẻ
trung này có nằm xuống cũng đều nhẹ nhõm lắm đây. Tôi không độc mồm nguyền rủa
ai. Trái lại. Và buồn thương lắm.
Ngẫm đến cái mỏng mảnh về thể chất người đồng điệu, tôi đã tự hào khoe với mấy
bọn nằm trong nhà hát rằng tạng tôi vững vàng và cứ cái thể chất chắc chắn này
thì cứ tha hồ mà lấy đêm làm ngày, cũng còn lâu tôi mới chịu mòn. Một anh bạn
đã làm vỡ điều tin tưởng ấy của tôi bằng một cái thí dụ lấy ở Đinh Huy Hạo, một
người cầm bút có luôn cả sức khỏe và sức mạnh, đã từng viết cuốn "Nòi giống
tốt".
- Trong bọn ta, đứa nào khỏe bạo bằng tên Đinh Huy Hạo. Vậy mà cũng chỉ một sớm,
một chiều thôi.
Tôi buồn rầu, thiếp dần. Thế rồi, trong gian nhà hát đã về sáng, như ngọn đèn bốc
mạnh lúc gần tắt, cả bọn chúng tôi mệt mỏi lại muốn nhổm cả dậy để nói chuyện
thương tâm. Thuốc đã làm chúng tôi vỡ giọng và tiếng nói ồ ồ.
- Phụng chết nhiều người thương tiếc hơn là Tản Đà. Một người chết trẻ bao giờ
cũng lấy được nhiều nước mắt hơn là người chết đứng tuổi.
- Thằng Phụng còn hứa hẹn cho văn học nhiều tác phẩm lắm. Sao trong làng văn,
những người như thế đã chết mà lắm thằng bất tài khác thì lại cứ sống mãi để
anh em phải sốt cả ruột?
Tôi cho rằng nghệ sĩ nên chết trẻ, nếu mình có quyền chọn tuổi chết. Tài sắc
con người ta ở đời, ai cũng chỉ có một thời thôi. Con tằm nhả được tơ óng mãi
hay sao? Sống bấy lâu, nhiều khi cũng hớ. Nó chỉ tỏ ra rằng mình có cái da thịt
cứng quá, trùng khó đục thủng mà thôi. Ai mà chịu được một nàng Tây Thi tóc bạc
da mồi. Một người tướng tài mà không chịu hết tắt với dặm nghìn da ngựa mà lại
chết già trong giường vợ, thì còn gì dại dột hơn nữa.
Chúng tôi thức cả đêm bàn tán về chuyện nên sớm nghĩ đến việc Hội ái hữu nhà
văn. Vào khoảng năm giờ sớm ngày chủ nhật 15-10, bọn tôi lại từ Thượng Cát kéo
bộ về Hà Nội. Trời thu thả sương sớm tựa như vào một buổi thả lưới bắt chim mồng,
chim két. Qua chín nhịp cầu Bồ Đề trên con sông lạnh, bụng chúng tôi cồn cào hết
sức.
- Đám đi sớm quá nhỉ. Bảy giờ đã cất. Đi hết cầu, về đến bờ bên kia sông ít ra
cũng mất 45 phút. Lại còn kéo ra đến ga tàu điện Bờ Hồ. Và từ đấy vào Cầu Mới.
Thế mà cũng vừa thời giờ thôi đấy. Nhanh bước lên! Các anh.
- Phải tìm cái hàng cháo mà ăn chứ không có lạnh bụng lắm.
- Ừ phải đấy, chỉ giữ lại đủ sáu suất vé tàu điện thôi, còn thì chén hết. Còn
được đồng bạc không?
Trời chưa hửng hết. Cái phố Hàng Bè. Chúng tôi sà vào một hiệu cháo lòng vắng vẻ.
Tiết canh, dồi mỡ, lòng chay. Và cháo khói. Xì xụp húp với nhau như một lũ con
đàn một gia đình kẻ khó ăn cháo canh bồi thay đồ ăn chắc, tôi vốn giầu tưởng tượng,
tôi nghĩ đến một cuộc tụ họp của các bạn phóng viên báo hàng ngày, một buổi sớm
tinh sương mùa lạnh ở một quán cơm Cửa Nam rồi đi "xem" hành hình ở cửa
Hỏa Lò vào khoảng những năm 1930, 1931. Chưa bao giờ tôi thấy một bừa điểm tâm
cảm động như sớm nay. Sớm nay húp quanh lợi bát cháo nóng như người phải trả nợ
dần, tôi tưởng đến người chết mà bùi ngùi, tôi nghĩ đến người còn sống lại mà
thêm thương tủi.
Thế mà đám đã khởi hành được mấy phút.
Tôi vốn có một tập phóng sự về tiệm hút. Chính Phụng đã xui gọi tôi viết thiên
"Tàn đèn dầu lạc" vào một tờ tuần báo và lúc góp những bài đăng ấy để
đưa xuất bản thành sách, ở trang đầu, đề lời tặng, tôi viết: "Những tập
phóng sự này, biết nên tặng ai?" ngụ một cái ý đùa giễu cả mình và luôn cả
những bạn thân có duyên nợ với Ẳ Phiền nghiệt chướng.
Theo xe tang, tưởng đến người bạn đã khuất, tôi đã đổi lời tặng trào lộng đó
thành một lời tặng hoài niệm: "Kính, Thành, Tiếc tặng vong hồn Vũ Trọng Phụng".
Tao đàn tạp chí số (12-1939)
VỀ TIẾNG TA
Gửi chị N.
Nghĩ về sự đầy đủ, trong trẻo, đẹp đẽ, sáng sủa, và sang giàu
của tiếng nói Việt Nam, có những lúc tôi ngừng lại đó trang sách đọc, tôi ngừng
lại đó câu viết chưa xuống dòng... mà nhìn trân trân tờ giấy bỏ dở. Tôi nhìn
trân trân vào giữa khoảng không ngoài cửa sổ lộng trời xanh, mà lòng thấy dào dạt
lên những lời cám ơn. Tôi lặng cúi xuống mặt trắng giấy trắng tinh đang om sòm
những tiếng mời chào kia mà nói bật lên những lời biết ơn đối với đất nước ông
bà tiên tổ. Thấy chịu ơn rất nhiều đối với quê hương ông bà đã truyền cho tôi
thứ tiếng nói đậm đà tôi hằng nói từ những ngày mới ra đời. Mà rồi cho đến cái
phút cuối cùng không được chứng sống nữa, thì câu cuối đời của tôi cũng vẫn lại
cứ nói lên vẫn chỉ bằng cái thứ tiếng nói ruột thịt tủy xương đó mà thôi. Tôi
biết rằng cái ngôn ngữ thừa tự tôi đang nói đang diễn viết ra đây, chính nó là
kết tinh bởi nhiều trăm nghìn năm công sức lao động của tổ tiên lưu truyền lại.
Trong hương hỏa thừa hưởng đây, lẫn vào với vô số thanh âm từ điệu, thấy như hiển
hiện lên không biết bao nhiêu là mồ hôi và máu huyết của đời đời ông bà khai rừng,
vỡ ruộng, mở cõi, giữ nước, chống giặc, tiến lên tới đâu là xây dựng ngôn ngữ tới
đó. Nay mỗi lần đụng tới di sản nhiệm mầu ấy, thấy bổi hổi bồi hồi, như vấn
vương với một cái gì thiệt là thiêng liêng vô giá, mà tất cả trữ kim trữ ngân của
tất cả ngân hàng thế gian cũng không sao đánh đổi được Có những lúc lại lẩn thẩn
nghĩ dại dột rằng bây giờ tự nhiên mình lại mất trí, mà quên hết mà bay hết khỏi
đầu mình chỗ kho tàng tiếng nói Việt Nam này, thì có lẽ mình... mình sẽ phải chết
mất. Nhưng không, không thể nào quên được cái tiếng Việt Nam hữu cơ, cái tiếng
nói Việt Nam linh diệu ấy được. Có đến chết cũng không quên được. Có chết, càng
vẫn nhớ.
Sự tinh vi linh diệu trong ngôn ngữ thần diệu cố hữu của ta, nó có nhiều vẻ,
càng chịu khó tìm, càng thấy. Ở đây, tôi hãy tạm dẫn ra một số từ liên quan đến
cái chết, đến sự truyền chủng trong đời sống chúng ta.
Nói về cái chết của con nhỏ tuổi, của người lớn, thì nói: "Cám ơn ông hỏi
thăm. Em nó đi (hoặc em nó ngủ) được gần tháng nay".
"Cụ tôi về từ năm ngoái". Ông ấy mà nằm xuống thì
anh em nhà kia loạn to...". Nói về cái chết của nhà chùa thì phải dùng chữ "tịch" nhà
sư ấy "tịch rồi", có nghĩa là đã được thoát khỏi sự sống náo động
để hoàn toàn trở lại cái chỗ tịch mịch tuyệt đối. Có khi vì muốn trang trọng
hóa cái chết của thân quyến mình, mặc dù người chết đó không là nhà tu hành,
nhiều người cũng dùng chữ "tịch" (người Việt Nam, nếu không đi đạo,
thì hình như ai cũng theo Phật cả, phải không!).
Người có vị trí xã hội thời cũ, hoặc cao hoặc thấp mà chết đi thì gọi
là "hết lộc" (lộc trời). Tránh đi tên thật của cái sự chết
đáng buồn, và cho nó có vẻ "đáng vui" hơn, ông bà chúng ta lại gọi nó
là "trăm tuổi", lấy cái sống trung bình tối đa ra mà gọi cái chết. Có
khi tuổi người chết mới chỉ bốn năm mươi, mà người ta cũng nói "nhân dịp
thầy mẹ chúng tôi được trăm tuổi. . . !" và đối với những trường hợp chết
già thỏa đáng vì đủ tứ đại đồng đường người ta tự cho phép coi đó là một điều
vui mà gọi cái việc ấy là "ăn xôi nghe kèn", hoặc gọi cái trăm tuổi
đó bằng một giọng vui ghen tị, bằng một câu nó hàm cái nghĩa rằng chết như thế
không oan buồn gì đâu: "Về việc hai năm mươi (2 x 50) cụ nhà tôi, tôi thiển
nghĩ nên sắm sửa nhiều vào cho các cháu...". Những cách nói giầu có của ta
về cái chết, tôi nghĩ rằng đó cũng là một nét cố hữu về sự thần diệu của ngôn
ngữ Việt Nam 1.
Ngay cả đến cái việc bốc mả cũng dùng chữ thay áo cho nó nhẹ đi.
Đối với sự chết, ngôn ngữ ta đã có những tiếng dùng và cách nói đại khái là như
thế. Nay ta thử xoay sang nhìn phía khác của sự sống (chẳng hạn như vấn đề truyền
chủng qua cái khâu giao hợp sinh lý) thì tiếng Việt Nam cũng chứng tỏ sự giàu
có của mình bằng cách dùng nhiều tiếng nhiều từ, và phân ra thứ chữ nào thì chỉ
cái việc ấy ở con người, thứ chữ nào thì dùng cho loài cầm thú. Ví dụ người ta
nói con gà sống đạp con gà mái, con vật gì đó phủ con gì
đó. Trường hợp chó lợn, đã dành riêng ra một tiếng: lẹo. Và chữ lẹo dùng
cho gia súc đó lại lấy ra từ loài thực vật, khi cái cây nào ra quả sinh đôi,
làm cho hai quả không tách ra trên cành mà lại díu vào nhau: "quả đào lẹo".
Với con người thì trang trọng mà dùng hai tiếng "ăn nằm với
nhau". Lấy tiếng thanh mà chỉ cái việc thô, ấy cũng là cái tài tình cổ
truyền của tiếng ta vậy. Mà đến ngay cả cái việc ấy ở con người, cái vật ấy
cũng có chữ riêng, tùy theo lứa tuổi. Ví dụ như ở cái tuổi hồn nhiên được có
quyền ở truồng hoặc mặc quần hở, thì cái quý vật kia phải gọi là chim,
là vịt thì mới là người sành sỏi tiếng Việt.
Phân biệt cái gì là dành cho vật, và từ gì là dành cho con người, sự tinh diệu
bản sắc của ngôn ngữ ta lại với tới cả mặt giải phẫu và thân hình sinh vật. Ở
con vật (nhất là con vật để ăn thịt) thì không gọi là phổi, thận, máu, huyết mà
lại gọi là bấc, bồ dục, tiết (hoặc son, hồng hoa) 2.
° ° °
Khen những cái hay trong ngôn từ một nhà thơ, ta thường dùng
tới hai tiếng câu thần. Cái được nêu lên thành một thứ thần thường tạo nên
bởi sự tinh luyện về hình tượng, bởi sự hợp kim tài tình về từ âm.
Trong Chinh phụ ngâm và Kiều rất nhiều chữ thần câu thần mà
càng đọc đi đọc lại nhiều lần, càng như đi vào những cuộc phát minh hứng thú
khó lòng chấm dứt. Sảng khoái và lâng lâng biết bao khi đọc khi ngâm: "Trống
tràng thành lung lay bóng nguyệt", "Bóng trăng đã xế, hoa lê lại gần",
"Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày".
Hồi còn nhỏ, đứng hầu đóm và thay bã trà trong các cuộc bẻ thơ tán thơ, cả cổ
kim cả nôm chữ giữa cha tôi và các cụ nhà nho, tôi đã từng nghe lỏm được những
lời phẩm bình sang sảng về những câu vừa dẫn ở trên. Đến mấy câu Chinh phụ
ngâm và Kiều (dẫn ra trên đó) thì các cụ đều lớn tiếng mà đồng
thanh: "Thi trung hữu quỷ!". "Ra trong những câu thơ này, đều có
quỷ, thưa các cụ!". Chữ ma quỷ đây dùng với cái nghĩa thánh thần, tức là
những thứ ẩn ẩn hiện hiện ghê gớm tài quái, người trần phàm như các cụ cảm thấy
khó mà đạt được. Ấy cũng là một cách khen của một lớp các cụ sống ở một cái thời
mà khoa học chưa phát triển ở nước ta. "Trong thơ có ma quỷ thánh thần xui
khiến!". Tỏ vẻ khoái hoạt hả hê về câu quỷ câu thần, có cụ vỗ đùi đen đét,
có cụ nhắp rượu chép miệng, có cụ vươn vai đột ngột đứng lên khỏi chiếu thơ, ra
võng nằm mà ngâm nga nho nhỏ giọng, hoặc đi đi lại lại ngoài sân cuội, vừa đi vừa
tủm tỉm gật gù.
Nay ở nước ta khoa học đã có, ý thức về khoa học cùng là kỹ thuật đã được phổ
biến thấu tới huyện tới xã, tôi đọc đến những câu thần Chinh phụ và Kiều,
tôi vẫn như tiếp tục kéo dài thêm nữa những xúc động nghệ thuật ấy của các cụ
nhóm tao đàn ngày xưa. Đúng thế, những câu thần kia vẫn mang trong nó một thứ
"ma lực", một thứ "quỷ!", một thứ "thiên", một thứ
"tài" gì tạo nên bởi sự lành nghề, bởi sự thần thông của những người
thợ cả về tiếng nói Việt Nam.
Chiều hôm hoặc đêm về sáng, một mảnh trăng treo trên lưng một cái thành dài. Rồi
tiếng hịch quốc phòng, rồi là tiếng trống động quân. Câu thơ thần không chịu
nói trống giục vào lòng người, mà lại đi nói đến vầng trăng động lay trên thành
gạch. Trống trận rung càng mau càng rền nhịp, trăng càng méo càng nhòe càng di
động. Bóng nguyệt lung lay mà chiếu vào những tấm lòng náo động của một đêm
truyền hịch. Chữ "động" ở nguyên bản chữ Hán của Đặng Trần Côn mà
Đoàn Thị Điểm chuyển thành "lung lay" ở bản dịch Nôm, càng chứng minh
sự tài tình sinh động của tiếng ta. Tai tôi chưa nghe người nào chê câu Chinh
phụ đó, bởi cái lẽ giản dị rất dễ hiểu: nó hay quá (cả về lời, ý, ảnh, âm, nhịp)
thì còn chê cái... cái gì! Và về những lời khen nó, cũng nên phải lọc ra một số
lời khen có mang tính phân tích thật là đời sống mới. Tôi đã nghe một anh bạn
trẻ ở ngành địa chất mang khoa học ra mà đánh giá cái hay của câu thơ tiếng trống
vần vò bóng trăng cũ trên mặt thành xưa. Vẫn còn văng vẳng bên tai tôi cái giọng
hừng hực hấp tấp của anh nói vào một buổi đó ở rừng Tây Bắc, đống củi cháy suốt
đêm cách bờ sông Đà hàng ngày đường: "Nghề của cháu (!) là đi rừng đi núi
chỗ đầu sông ngọn suối, cháu càng coi văn thơ là người bạn đường của cháu. Cho
nên cháu rất thích tìm hiểu văn học, bên cạnh cái thích dĩ nhiên của sự tìm hiểu
đất nước.
Câu Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt thấy nó thỏa mãn cách nhìn
của những người làm công tác khoa học tự nhiên như chúng cháu. Đây là cách nhìn
của người có kiến thức khoa vật lý, nhìn mặt trăng một cách tinh tế, nhìn mặt
trăng qua một lớp không khí đang bị xô dồn bởi nhiều vòng sóng âm phát tỏa ra từ
một nhạc cụ trầm hùng. Thời ấy ta chưa giảng dạy gì lắm về môn học vật lý,
nhưng sao đã có những câu thơ nhiều tính khoa học như thế. Câu thơ Chinh phụ
đó, nghĩa rộng nghĩa bóng nó rất hay, mà nghĩa đen nghĩa hẹp thì thật là chặt
chẽ - chặt chẽ của tính khoa học, khoa học vật lý. Câu thơ cổ mà lại đầy vẻ hiện
đại. Thấy các cụ ta xưa cũng tài giỏi thật. Chả bù với bây giờ, thấy có một số
câu thơ tả gió nhất là tả mây thì lại bất chấp cả quy luật khí tượng...".
Đến như câu Kiều "Bóng trăng đã xế, hoa lê lại gần" thì
càng rõ cái tính khoa học gửi vào động từ xế và lê. Nó đẹp một cách thật là vật
lý, rất vận động và tạo hình. Một bông hoa tĩnh tại và một nguồn sáng chuyển chỗ;
bóng trăng càng tà xuống thì bông hoa càng lết trên mặt đất vườn mà nhích thêm
về phía nền nhà. Có như dưới trăng suông, ngồi buồn tình mà nhìn một cái đòn
cân, đầu đòn này là bóng nguyệt, đầu kia là bóng hoa. Nguyệt nặng hơn hoa, bóng
trăng càng trĩu xuống thì bóng hoa càng bồng, càng bồng bềnh lên, từ vườn thấp
mà bềnh lên thềm cao.
Bởi câu thơ có cái nghĩa đen tinh vi thấu đáo về vật lý như thế mà nghĩa bóng của
nó càng nhiều hấp dẫn về mỹ học.
Cũng như nhiều vị, tôi cầm chắc rằng các cụ ta làm ra Chinh phụ ngâm và Kiều
không được học vật lý, âm học, quang học như thế hệ trẻ ngày nay tiến quân vào
khoa học. Nhưng tôi phải hiểu rằng những câu thơ hay đó phải là kết quả của một
trí quan sát thiệt là mẫn tuệ tinh tế ở những nghệ sĩ về tiếng nói. Mà sự quan
sát lại là một đức tính dính liền với cả người làm khoa học, cả người làm nghệ
thuật. Nhiều định luật, định lý khoa học cổ kim, nhiều sáng chế phát minh Đông
Tây đã bắt nguồn từ sự quan sát của con người đứng trước tự nhiên.
Nhìn mãi và nghĩ mãi về trái táo rụng xuống, nghe mãi và suy mãi về hơi nước
sôi đội nắp ấm lên, mà các bậc bác học ấy làm cho sự sống con người thêm tốt
thêm sáng.
Cũng như nhà thơ bậc thầy nước ta nhìn mãi, nghĩ mãi về cái bóng trăng kia cùng
là cái bông hoa nọ, mà đời sống văn hóa mình mới có được thêm sự giàu sang và
nó vui đẹp hơn hẳn lên.
Chỉ quan sát không thôi, không thể trở nên một nhà thơ. Nhưng ở trong nhiều câu
thơ thần sáu tám của Nguyễn Du bậc thầy, phải thấy cái bút lực ấy đã dựa vào một
sự quan sát quả là sắc nhạy thông tuệ. Không thế, thì không thể có được cái
tính cách hiện thực trữ tình như thơ Kiều. Trong vô số câu tài tình ấy, ta hãy
lấy vội ra hai câu "Xập xè én liệng lầu không - Cỏ lan mặt đất, rêu
phong dấu giày" mà thử "bình công chấm điểm" cho người thợ
Nguyễn Du (người thợ cả được tôn lên làm bậc thầy đã cơi cất thêm mấy tầng cho
lâu đài ngôn ngữ Việt Nam) và thử xem xem cái người thợ ấy đã lao động nghệ thuật
như thế nào. Trong hai câu sáu tám đó, tôi nghĩ rằng phải chấm điểm rất nhiều
cho động từ phong. Ở đoạn cuối truyện này, chàng Kim tìm đến chốn cũ của người
xưa, giữa cái sân Kiều đó, ta có thể hình dung ra được một thứ ngoại cảnh mà sự
vật cũng tầm thường vậy thôi - nếu không là ảm đạm gầy nghèo. Một khoảnh sân đất,
mấy vết chân in trũng xuống từ một trận mưa nào... Và trên những vết đọng của
dĩ vãng, ẩm ướt đã sinh nở một thứ rêu lưu cữu.
Hoàn toàn là một tấm tranh tĩnh vật: sân mốc và vệt xanh của sự vắng mặt. Sự vật
ở ngoài cảnh thì nghèo lạnh như thế, nhưng tiếng nói đặc sắc của người thơ đã
làm cho nó ấm cúng hẳn lên. Mà cũng nên vận dụng thêm đến cái lối nói của điện ảnh
ra mà tìm hiểu tỉ mỉ kỹ càng về phẩm chất tạo hình của ngôn ngữ Nguyễn Du nhé.
Khởi đầu là những miếng phim toàn cảnh thu cả cái sân rộng, rồi ống máy đi dần
vào chi tiết trên diện sân, và cuối cùng gí máy vào một cái khuôn đất in hình một
cái đế giày. Trên thành vết hài, ống máy soi thật sát vào những mảng rêu rờn rờn
lên một điều hy vọng nào. Cái hy vọng của chàng dò la tung tích nàng - nàng mà
rêu thương rêu nhớ vẫn "phong" lại gót hài. Rêu trong tiếng nói tinh
diệu Nguyễn Du đã thành hẳn một thứ phong bì xanh của bức thư tình bỏ quên lại
giữa trời. Trong quá trình lao động nghệ thuật, để tìm cho ra được cái hình tượng
nghệ thuật "phong bì rêu niêm phong lại hương thơm hài xưa" này,
không rõ Nguyễn Du đã mất bao nhiêu ngày giờ độc thoại trong chiếc cáng, trong
lòng đò, trên lưng ngựa, và trên những tấm gỗ bộ ngựa cố hữu của gia đình Việt
Nam. Chỉ biết rằng Nguyễn Du đã đặt cả tấm lòng mình vào cái phong bì xanh rêu
kia với tất cả sự trân trọng của một người tình nhân, của một nhà ngôn ngữ đa
tình đa cảm. "Lòng thành" ấy "đã thấu đến trời", trời đây
hiểu theo cái nghĩa lồng lộng một bầu trời sáng lành đang ngân hưởng những lời
trong lọc - hiểu theo cái nghĩa là đỉnh vút của ngôn ngữ, là cái vẻ ngất trời của
cách nói Nguyễn Du nhiệm mầu nó góp rất nhiều công của vào cái thần diệu bản sắc
của ngôn ngữ Việt Nam.
Sự trong sáng về ngôn ngữ ở mỗi người viết văn là một vấn đề đã đành của tấm
lòng và khối óc (tâm mình thành, trí mình thông, thì lời mình sáng đẹp). Nó còn
là cái vấn đề của tai của mắt mỗi người viết văn nữa.
Cái điều mình nghĩ được và cái điều mình cảm thấy, nay đều đã viết ra xong,
đúng như mình đã cảm nghĩ, và lại viết ra bằng một thứ ngôn ngữ mình tin là khá
nhiều hiệu năng. Đã nghĩ kỹ rồi mới cầm vào bút mà viết ra.
Nhưng khi đã viết ra rồi, chưa có nghĩa là đã xong hẳn.
Viết ra, nhưng mà đọc lại. Đọc lại để mà hoàn chỉnh cái đã viết tới. Đọc lại bằng
mắt, đọc lại bằng tai. Đọc thầm bằng mắt, và đọc to lên bằng miệng để cho tai
nó cũng đọc (tức là nghe) với. Tự mình duyệt lấy lời văn lời viết của mình, tự
mình thẩm tra lại cái ý tốt, cái lời trong của mình, trong năm giác quan đem ra
làm công cụ để kiểm nghiệm, cặp mắt soi xuống dòng trang vẫn là giữ vai trò cầm
trịch trong việc nhận dạng và đánh giá từng bước cho bộ điệu của đoạn văn.
Nhưng cặp mắt chưa đủ để lọc hết mọi bụi bặm vẫn còn bám theo cái tiếng vừa mới
phát biểu của mình. Cho nên phải dùng cả cái tai mình nữa. Và để phát huy tột
cùng hiệu năng của tiếng nói mình, có khi phải dùng tới cả năm giác quan. Ngoài
việc soi lắng, hình như còn phải ngửi lại, nếm lại cái lời mình viết ra kia,
trước khi bưng nó ra cho người khác thưởng thức (theo chỗ tôi biết, hình như
câu gì, trang gì mà mặn - dù có mặn đắng hoặc mặn chát - cũng vẫn chữa dễ hơn
là những câu nhạt và những trang nhạt - khác hẳn với sự cấp cứu chữa chạy trong
việc nhà bếp). Có khi lại như chính lòng bàn tay mình phải sờ lại những góc cạnh
câu viết của mình, xem lại xem có nên cứ gồ ghề chân chất như thế, hay là nên gọt
nó tròn trĩnh đi thì nó dễ vào lỗ tai người tiêu thụ hơn.
Tự mình kiểm tra về tính trong sáng của văn mình, cặp mắt vẫn là ở hàng đầu, rất
cần, nhưng một mình nó, riêng tôi cho là chưa đủ. Có những tiếng những chữ mỗi
lần vác từ trong kho dân tộc ra mà dùng, cần phải gieo nó xuống, cần phải gõ nó
lên mà đo lại cả những vòng ngân vang hưởng của nó. Người đã làm nổi thơ, thì rất
hiểu sự quan trọng của tai, cái tai nhạc của nhà thơ giúp việc đắc lực cho sự
trong trẻo của lời nhà thơ. Mà người làm văn xuôi càng phải hiểu điều này. Những
bạn dịch sách nghiệp dư mà định chuyển văn học ngoài thành văn ta, bên cạnh cái
việc tinh thông về chữ và nghĩa, càng cần phải luyện cái thứ tai thẩm âm này. Bởi
không thấy được cái tiềm lực kín đáo của chất nhạc trong mọi cái hơi của văn
xuôi, cho nên đã bục ra một số hiện tượng tê thấp và thấp khớp tại chỗ văn xuôi
này, tại chỗ văn xuôi kia. Và quan niệm về chất nhạc của văn xuôi, hãy khá đừng
lẫn nó với cái kiểu văn xuôi biền ngẫu con hoang của thể phú! (Cái thứ nhạc biền
ngẫu ấy đã từng phá đám mất bao nhiêu là trang văn xuôi có thể là hay).
Cho đến nay tôi vẫn là một kẻ thèm khát về sự trong sáng trong tiếng nói Việt
Nam. Thèm được xem (nghe thì đúng hơn là xem) một vở kịch nói thật trong sáng về
ngôn ngữ. Mà những trang văn xuôi ấy lại được "nói lên" bằng những
cách nói nhiều sáng tạo âm nhịp và dấu chấm dứt của những diễn viên cũng bậc thầy
về ngôn ngữ Việt Nam.
Chao ôi, quý vậy thay cái sân khấu? Cái sân khấu mới là chỗ đọ tài cuối cùng của
một nền văn xuôi sum suê và trong lắng. Thứ văn xuôi nào đã đưa lên sân khấu mà
không tứ tốt từ đẹp, mà lỗi nhịp lép lời thì nó hiện nguyên hình ngay (ở cuốn
sách chỉ đọc bằng mắt, còn xuề xòa nhập nhằng được Mà trang nào đã nhuần nhị
trong trẻo thì cái thứ văn xuôi ấy còn ngân mãi cho tới sáng hôm sau, cho tới
những buổi sáng mãi mãi của sau này.
Những lúc bàn về sự trong sáng của ngôn ngữ Việt Nam, bên cạnh cái ý nghĩa
trong trẻo trong lắng, tôi phải nghĩ tới ngay một mặt khác nữa của câu chuyện, ấy
là sự giàu có. Tôi nghĩ rằng trong sáng không khi nào lại có nghĩa là đạm bạc,
là nghèo còm trong tự vựng đem ra dùng, trong cách cảm trong cách nghĩ, và nhất
là trong cái cách nói ra những cảm nghĩ đó. Trong sáng càng không có nghĩa là
đơn điệu. Bởi vì có nhiều vẻ trong: nước mưa, nước lọc, nước cất, giấy kính,
cát nung chảy rồi ép bằng đi để lắp khuôn cửa sổ, rồi tới pha lê gọt, tất cả đều
là trong, nhưng không giống nhau về chất trong. Và sáng cũng có những nguồn
khác nhau: sáng của dầu cá, của lạc, của dầu than đá, dầu ô liu, của điện bóng
tròn và của điện ống dài màu sáng xanh. Lại có cái sáng nhấp nháy của đèn biển,
lại còn có cái sáng lóng lánh của ngôi sao trên đỉnh đầu. Trên cơ sở cộng đồng
của ngôn ngữ Việt Nam càng ngày càng phải giàu có phấn chấn lên nữa, mỗi người
viết văn chuyên nghiệp phải có lấy cái phong cách, cái vẻ riêng của mình về sự
trong sáng. Mỗi người như một cây nến thắp lên: sáp ong cũng thắp sáng, mỡ bò
cũng thắp sáng, và ánh cháy của nhiều thứ nến vàng đỏ trắng cháy nhanh cháy chậm
đều hòa kết lại thành cái tỏa chói chung của một lâu đài tiếng nói mà tầng dưới
tầng trên đều sáng trưng.
Sự giàu có dĩ nhiên bao giờ cũng là một sự bề bộn. Bề bộn các thứ các cái, các
cái "nhiều", cái "lắm". Nhưng phức tạp thường lại là dấu hiệu
của sự làm ăn khấm khá mãi lên. Đời sống không phải là một sự thu mình lại
trong giản đơn, mà nó càng ngày càng bành trướng lên vì những của cải vật chất,
nhưng của cải tinh thần do chính tay và đầu mình chế tạo ra. Muôn hình vạn vẻ vật
chất tinh thần ấy phản ánh vào ngôn ngữ ta. Sự sống bên ngoài càng mở ra càng
dâng lên ùn ùn, ngồn ngộn, vù vù. Tiếng nói của nhà văn phải là tiếng nói của
thời đại. Thời đại mình càng có tổ chức càng giàu về sự đời và tình người. Tiếng
nói ta cũng phải giàu theo. Trên cái cơ sở cũ vốn đã phong phú của ngôn ngữ,
nay ta phải dậy cái vốn đó lên nữa mà đầu tư nó vào thời đại. Quần chúng lao động
sản xuất và chiến đấu để bảo vệ sự sản xuất, sản xuất chiến đấu tới đâu, lại
đóng góp thêm tới mức đó vào kho tàng tiếng nói. Phía người làm nghề văn, càng
phải đẩy mạnh và nâng cao lao động nghệ thuật, càng phải góp nhiều. Muốn hay
không muốn, ngôn ngữ chung của chúng ta rồi sẽ là một triệu phú.
Ta không sợ nghèo, bàn nghèo nữa. Mà nay ta lại lo về cái sự giàu, cái sự đã
giàu và đang giàu thêm mãi về cả chữ dùng, về cả cách nói của ngôn ngữ Việt
Nam. Làm thế nào để cứ giàu có mãi hơn lên, mà càng giàu lại càng đẹp. Nói một
cách khác: bằng lòng và gắng sức cho thành một người giàu có vô kể trong sự phồn
vinh chung của tiếng Việt Nam. Nhưng hết sức chống lại mọi thứ "trọc
phú" trong đời sống ngôn ngữ ta. Giàu có, mà không vẩn đục-vẩn về tư duy,
đục về mỹ lý.
Tạp chí Văn học (3-1966).
--------------------------------
Về những uyển từ (euphémisme) quanh cái chết, tôi cho tiếng
ta giàu có hơn hẳn cả tiếng Pháp. Hình như tiếng Pháp chỉ có vài cách nói
thôi (ví dụ: a vécu, nghĩa là đã sống xong, trọn).
Tiếng Pháp cũng có những cách nói tinh vi như thế, để gặp
nhau với tiếng ta về mặt này: poumon-mou; estomac-tripes, rein- rognon.
TẲN MẠN XUNG QUANH MỘT ÁNG "KIỀU"
Hà Nội 1939. Một nhà xuất bản người Sài Gòn tính ngông định
in một bản Kiều không chữ mà chỉ toàn tranh phụ bản cả màu, cả đen chì, cả đen
mực. Một anh bạn họa sĩ giải thích về phác thảo của mình vừa trao tay nhà xuất
bản: "In được hay không, tùy ông. Nhưng ông hỏi, thì tôi cũng cứ phải nói
thêm, bên cạnh cái cách nói độc lập tự lực của hội họa. Phụ bản tôi vẽ hai người
đàn bà đã hết tuổi con gái. Một béo, một gầy. Một cái đẹp đôn hậu phúc phận đứng
bên một cái đẹp bạc mạng mây bèo. Cả Truyện Kiều, theo tôi chỉ là câu chuyện
hai cô gái nhà lành. Chuyện hai chị em. Em, phúc hậu, cho nên mặc dù không biết
bơi, nhưng động xuống nước thì nổi. Còn chị, bơi giỏi, nhưng nhẹ thịt nặng
xương, càng bơi càng chìm; vì đau nghĩ nhiều, quẫy lắm, nặng mãi mình ra. Tôi
dùng bút pháp chân dung toàn thân để tả tâm tính nhân vật. Bức chân dung sóng
đôi này tôi không cho một tí xiêm áo nào cả. Có thể vẽ người ta có đầy đủ quần
áo, nhưng lấy da thịt khỏa thân mà tả tim óc người mình vẽ đó, tôi tưởng cũng dễ
hiểu, nếu mình nhìn cho thật đến nơi đến chốn. Thêm nữa, quần áo nhiều khi vướng
cho sự diễn tả của người tạo hình. Quần áo là vật ngoài của thân, nó giả, nó
không thật như làn da thớ bắp bản thân. Vả chăng, áo quần suốt gầm trời này lại
hay luôn luôn thay đổi mốt này mốt nọ. "
Trong Kiều có câu "Đạm Thanh một bức tranh tùng treo
trên" và lại có câu "Trên treo một tượng trắng đôi lông
mày". Treo trên ý nghĩa khác với Trên treo như thế nào? Trên treo, tức là
hành văn lối điên đảo thể, nhưng sao lại không dùng thể thuận mà lại dùng thể
nghịch?
Trạng từ Trên đặt trước hoặc đặt sau một động từ Treo, có cái gì
là dụng ý của tác giả không? (chữ trên và chữ treo đều là loại phù bình thanh cả,
cho nên ở đây ta gạt ngay được ra cái lý do nhu cầu về nhạc luật bằng trắc của
thơ lục bát).
Một số bậc sành sỏi Kiều ở ta có thể coi cái điểm tôi gợi lên đây chỉ là một
chi tiết vụn vặt. Tôi cũng đồng ý là vụn là vặt, nhưng không có chi tiết thì
sao có làm được ra đại cục (mà ta thì ta lại đang nói về một đại cục văn học của
ta, thế giới sẽ kỷ niệm năm nay). Riêng tôi nghĩ rằng trong cái chi tiết treo
trên cùng là trên treo, nó không phải chỉ là một sự vô tội vạ không có dụng ý
gì của người làm thơ viết thơ. Mà ở đây, có vấn đề mỹ học. Mỹ học gắn liền với
vấn đề đức học (tôi tạm dịch chữ éthique). Và từ chi tiết đó, thử soi ra
các câu khác ở Kiều, các chi tiết khác ở các câu Kiều; có như thế, sự thưởng thức
Kiều mới thêm rộng, thêm sâu. Cứng cáp mà uyển chuyển, mạnh mẽ mà vui hòa. Sáng
sủa mà đẹp đẽ. Nội dung mà hình thức vậy. Và nói đến nghệ phẩm, không thể không
nói đến hình thức - cái hình thức sát cánh của nội dung.
Không thể tách nội dung, hình thức phải khuôn vào nội dung. Và nội dung lại
cũng nhờ vào hình thức. Tôi là người biết hãi sợ chủ nghĩa hình thức trong nghệ
thuật, nhưng tôi xin trộm nghĩ rằng: ví không có thứ nhịp sáu tám lỗi lạc lâng
lâng ấy của Nguyễn Du thì cũng khó mà truyền mãi cho hậu sinh cái tiếng đồng vọng
của Thúy Kiều, dù cái tiếng ấy có là gì gì đi nữa.
Người sành Kiều, lấy ra khỏi sách từng mảng đàn, từng mảng thơ về Kiều đàn. Nói
chung, thường bảo là có bốn buổi đàn. Cho Kim Trọng buổi đầu và buổi thứ tư, buổi
thứ nhất từ câu 465 tới 496; buổi thứ tư từ câu 3192 tới 3214. Buổi thứ hai
dành cho Hoạn Thư và Thúc Sinh, từ câu 1849 tới câu 1864. Buổi thứ ba, đàn hầu
Hồ Tôn Hiến "nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan" (Tản Đà), đoạn
này từ câu 2568 tới 2582 (toàn bộ thơ Kiều có 3254 câu sáu tám).
Ấy nhắc về những đoạn Kiều đàn, thường chỉ nói là bốn. Theo tôi thấy thì nó là
bảy kia. Và trong bảy chỗ, thì có chỗ diễn tả cụ thể nhiều lời: chỗ 32 câu, chỗ
23 câu, chỗ 16 câu, chỗ 15 câu. Còn ba chỗ khác, chỉ đả động thoáng qua, chung
chung. Như lúc đàn cho Mã Giám Sinh đang "đặt giá" Kiều, để Kiều chuộc
cha: "Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ" (câu 640). Như
lúc ở nhà hát đàn cho Thúc Sinh (câu 1298): "Bàn tay điểm nước, đường
tơ họa đàn". Như lúc đàn riêng cho Hoạn Thư (từ câu 1777 tới câu 1781):
năm câu này cũng tính chất chung chung, nhưng đã đi dần vào cụ thể để chao ôi!
Nói đến cái sự nghệ thuật Thúy Kiều khi bị đem ra mà hành hạ, đọa đày năm câu
thơ, để nói một cách nôm na như thế này:
Hoạn Thư bèn thét: "Con kia, ra đây đàn cho bà lớn nghe!" - Kiều bèn
sợ quá mà "Lĩnh lời nàng mới lựa dây" - Sau đó bề trên
"... xem cũng thương tài" và có thể ban khen chi đó. Trong bảy buổi
biểu diễn dài ngắn khác nhau, dĩ nhiên đẹp nhất vẫn là hai buổi dành cho
"người tình" và cho "người cũ" mình nể lòng. Khen cái tài
Nguyễn Du ở chặng đàn này, Tản Đà phê: "Nghe văn kém chi nghe đờn".
Cái buổi đàn chung cho Thúc Sinh Hoạn Thư rất nhiều tính kịch, đem ra làm được
một màn sân khấu không lời, chỉ cần chiếc đèn diễm huyền xoáy soi vào hai bàn
tay hầu đàn, và đôi mặt vợ cả thâm ác và anh chồng hèn nhát kia.
Về Kiều đàn, lại đờn những hai lần cho Kim Trọng, thấy rõ cái chí tình của Nguyễn
Du trong sự phân phối chương trình biểu diễn đàn; chắc ai ai hiểu sự đời cũng đều
thấy hai lần, chứ có đến bao nhiêu lần cũng cứ được đi, đó là cái quyền của những
cặp tình nhơn muôn thuở.
Nhưng tại sao Kiều lại không đàn cho Từ Hải một câu nào? Không cho Từ Hải một
câu nào, mặc dù đó là một đấng đường đường "Gươm đàn nửa gánh, non
sông một chèo"? Từ Hải ăn ở ăn nằm với Kiều như vậy, lại còn để
nàng "... cũng dự quân trung luận bàn", tại sao không có một tí
đàn nào? Nếu đây không phải là một sự sơ suất lớn, thì lại là một cao kiến gì của
Nguyễn Du. Tôi vẫn chưa tìm được ra cái lẽ cái lý của những cái đó.
° ° °
Tiếng nói của Nguyễn Du có nhiều chỗ thật là tiếng nói của điện
ảnh, mặc dù lúc sinh bình Nguyễn Du chưa có kỹ thuật và cách nói của
xinêma 1.
Tôi không nói Nguyễn Du đã biết làm xi nê, nhưng tôi muốn nói về một số nét hiện
đại của tiếng nói Nguyễn Du. Nếu cho tôi quay Kiều thành phim, tôi nghĩ rằng cứ
giở trang Kiều ra, như thấy ở đấy đã ghi chú sẵn sàng cách quay, sau khi đã có
sự bối cảnh đầy đủ. Ví dụ đoạn Kiều bị gán làm vợ một anh địa phương vùng Tiền
Đường: "Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền - Lá màn rủ thấp, ngọn đèn
khêu cao". Câu trên đối với đạo diễn và ống ảnh xi nê là một câu kịch bản
điện ảnh với lời dặn phải quay thành ra toàn cảnh. Câu dưới thì đầu câu là
trung cảnh, và cuối câu là cận cảnh, ngả hẳn sang đặc tả. Một ví dụ nữa: đoạn
(tả cảnh kiêm kể chuyện) Từ Hải cho tướng sĩ và thể nữ cung nga đi đón Kiều về
nội doanh mình để sánh đôi mà thưởng tướng khao binh. Từ câu 2257 đến câu 2272
đó, sao thấy nó hiện thực sống động như phim chiếu đến thế.
(Tiếng nói của Pouchkine cũng biểu hiện những dòng rất tạo hình theo cách làm
phim, và rất nhiều phẩm sắc theo cách tô tranh của phái vị sắc). Và trong cuốn
Kiều thân mến ấy, có bao đoạn phục hiện mờ chồng đích đáng, nó chuyển cảnh một
cách thật là mơ thơ.
Tiếng nói Nguyễn Du thực đến cái mức của điện ảnh lại còn lượng khối góc cạnh tạo
hình đến cả cái mức của kiến trúc nữa. Đọc những câu Kiều như
câu "Bóng tàu vừa nhạt vẻ ngân" thì cả người mình khoái hoạt,
như lúc đứng trước những công trình đẹp lớn của một thời kỳ gạch đá gỗ chạm của
Việt Nam ở triều đại Lý Trần Lê gì đó.
Cái lý thú của tiếng nói Nguyễn Du lại còn ở chỗ đa sắc nó ngồn ngộn đủ các mầu
cầu vồng, chữ cứ óng ánh cả lên như múa bằng hồi quang của hào quang. Thật
là "cỏ lợt màu sương", "thưa hồng rậm lục",
"một gian nước biếc...", "mặn phấn tươi son", "bạc
phau cầu giá, đen rầm ngàn mây", "non phơi bóng vàng",
"thành xây khói biếc", "và xơ xác vàng" cho liễu cùng
là "trôi dạt thắm" cho hoa, vân vân. Cứ bảo tư tưởng Nguyễn
Du nhiễm màu đạo và thuyết luân hồi Phật, tức là chiền già sắc sắc không không.
Tư tưởng không sắc, sắc không nhưng lời nói câu thơ thì phản hẳn lại, và sự mâu
thuẫn hiện lên thành đủ màu. Màu chữ của Kiều thỏa thuê mà tươi chói như màu
các họa sĩ vị sắc phái Coloriste.
Trong Kiều có 7 lần nói đến liễu và 51 lần nói đến trăng - nếu tôi không sót lầm.
Từ nay trở đi, khoa học thiên văn và bay vào vũ trụ khám phá mặt sau của mặt
trăng, ta sẽ có nhiều hình ảnh, hình tượng về mặt trăng.
Nhưng trước đây, cách nói của Nguyễn Du về giăng Kiều kể cũng đã là phong phú.
Hơn năm chục lần. Giăng khuyết 2 giăng
tròn, giăng già, giăng non - Giăng ngàn. Giăng thề. Giăng đèn. Giăng chân dung
(Thúy Vân), giăng giao mùa chuyển mùa, giăng lìa chia, giăng nhàn sầu, giăng
nhà chứa, giăng cửa chiền, giăng tị nạn, giăng bù khú, giăng tụng niệm, giăng cố
nhân, giăng nhớ quê, gặng "phải gió" , giăng biên thùy. . . Có khi
trong liền một hơi 4 câu, mà 2 lần nói đến giăng (như đoạn đi trốn khỏi nhà Hoạn
Thư). Có khi liền một hơi 5 câu, cũng hai lần có giăng (như đoạn ở chùa với
Giác Duyên).
Có khi lại lấy hẳn tên chữ Hán ra mà gọi giăng. Bóng nguyệt, điếm nguyệt,
"đừng điều nguyệt nọ hoa kia" và lại còn như là phong cách
siêu thực: "ngọn đèn khêu nguyệt tiếng chày nện
sương". Có khi gọi giăng bằng ảnh khác từ khác. Gọi là thỏ bạc, gọi là
gương Nga, gọi là "gương giọi", gọi là "vàng gieo ngấn
nước", là "thỏ ngậm gương", gọi là "vẻ
ngân" (Bóng tàu vừa nhạt vẻ ngân). Ở đoạn Kiều đánh đàn đóng kết truyện,
lại còn gọi giăng là "duềnh quyên" ("trong sao châu rỏ duềnh
quyên").
Người ta đã làm riêng một cuốn từ điển về tiếng nói Sếchxpia. Tự điển cho Sếchxpia,
về Sếchxpia, bởi Sếchxpia. Để thấy hết sự phồn vinh về cách nói của một nhà
thơ.
Ở cuốn tự điển về từ ảnh và tiếng nói Nguyễn Du, tôi tin nhất định phải có
trong tương lai gần đây, tôi nghĩ rằng cái tiết mục giăng này cũng thật là đậm
đà ê hề.
Mạc Tư Khoa - Hà Nội thu đông 1965
--------------------------------
Nàng Kiều của thơ Nguyễn Du ra đời năm 1813. Nguyễn Du mất
năm 1820, và 75 năm sau nền điện ảnh thế giới mới bắt đầu hoàn chỉnh cái máy
chiếu ảnh - mỗi dây xơ gông chiếu liên hồi được 16 ảnh tạo ra cái ấn
tượng vận động cho các ảnh đã nhiếp được.
Giữ nguyên chữ "giăng" ở đây, không đổi
sang "trăng".
THỜI VÀ THƠ TÚ XƯƠNG
Năm 1873, sĩ quan thủy quân Pháp hạ xong thành Hà Nội thì xuống
đánh luôn thành Nam Định quê hương Tú Xương. Thành Nam Định ba cửa: cửa Tây, cửa
Nam, cửa Đông cùng bị đánh một lúc, tướng Tây Gácnhe bắc thang leo vào thành.
Cũng như Hà Nội, ngày nay Nam Định vẫn còn một đường phố chính mang tên một cửa
thành của cái thành đã phá đi ấy. Hạ xong thành, việc trị an và bình định Nam Định
là do Tây Hácmăng. Tên người Hácmăng cai trị đó sau thành tên dãy phố ăn ra bến
Đò Quan, nhưng người Nam Định chân chính nay vẫn cứ gọi là phố Cửa Trường (để
nhớ những việc thi cử có nền nếp của tỉnh Nam?) Lúc bấy giờ bộ máy đàn áp danh
nghĩa chỉ có hai mươi tám Pháp thực dân văn võ, nhưng thực ra có nhiều tay sai,
và đắc lực là viên cố đạo ta Paulus Trinh đứng ra lừa phỉnh dọa nạt những nhà
nho ái quốc tỉnh Nam. Lúc bấy giờ nhà thơ Tú Xương còn lật sấp lật ngửa giữa
cái nôi sông Vị núi Gọi mà cười cái tiếng cười ra đời mà mếu cái tiếng mếu vào
đời của một em bé mới ba tuổi thơ.
Năm 15 tuổi, người học trò Trần Tế Xương đó bắt đầu mang chõng đội lều vào một
khu trường thi vừa dựng lại xong, sau khi bị lính Tây đốt trụi từ năm 1882. (Tức
là năm Hà Nội thất thủ lần thứ hai và trường Hà Nội mất một khóa thi năm Nhâm
Ngọ. Chỗ trường thi Hà Nội nay là khu Thư viện trung ương. Thí sinh Hà Nội cũng
như thí sinh Nam Định, đều phải vào thi nhờ trong Thanh Hóa đất nhà vua). Năm
1885 Trần Tế Xương đi thi hương khoa đầu tiên đó cũng là năm quan Đốc học chữ
Hán sau này của tỉnh Nam Định là Mai Sơn Nguyễn Thượng Hiền cũng đã thi hội ở
Huế, loa nhà vua ngày 23 tháng năm ta sắp xướng danh những vị tiến sĩ mới thì đại
bác Pháp lại nổ vào trường thi, lại nổ vào kinh thành.
Cảnh Huế thất thủ kinh đô ngày 25-7-1885, còn ghi lại ở bài từ Ông lão
sông Hương:
Cờ quạt rải rác bỏ khắp đường
Bên đường xương chất quạ bâu đặc
Sông Hương bóng xế nước ùn ùn
Mùi máu xông, người không qua được... "
(Thơ văn Nguyễn Thượng Hiền
của Lê Thước Vũ Đình Liên)
Năm 24 tuổi, Trần Tế Xương đã thành ông Tú Xương đỗ tú tài
"Tú rốt bảng khoa Giáp Ngọ; nổi tiếng tài hoa". Ở một đống giấy lộn
trong thúng một bà đồng nát bán rong sách báo Tây cũ làm giấy gói hàng ở dọc phố
Lãn Ông Hà Nội, thấy có những tờ rời nói về khóa thi hương Giáp Ngọ (1894) ông
Xương đỗ tú tài rằng:
Trường thi Nam Định năm 1894 đông như kiến cỏ. Năm 1891, Nam Định chỉ có 9000
sĩ tử, năm 1894 con số người đi thi lên tới 11 vạn. Từ giữa trường thi chỗ đường
thập đạo trông ra, trùng trùng điệp điệp những mu rùa bằng tre, những tấm mui
luyện nhà đò (ý nói những thí cụ lều chõng). Kỳ đệ nhất vào ngày 25-10-1894. Kỳ
đệ nhị, ngày 15-11. Kỳ đệ tam 25-11 . Và kỳ phúc hạch đệ tứ là ngày 2-12-1894.
Ngày 8-12-1894 là lễ xướng danh những người đỗ. Tiếng loa ran lên, ồm ồm lanh lảnh.
Tiếng í ới gọi nhau lạc đường của các thầy khóa, của tiểu đồng lão bộc quản gia
nhổ lều đội chõng ra về trong đêm tối lập lòe ánh đuốc. Đám đông lên tới hai
mươi nhăm ngàn người. Lễ xướng danh từ sớm cho đến chiều. Ghế bành của các quan
chấm trường dự lễ tai ghế cao đến bốn thước mét. Quan Toàn quyền bận không đến,
có quan cai trị Moren thay mặt dự lễ. Cứ xong mỗi tên ông tân khoa xướng lên là
mất 5 phút, tính từ lúc cất tiếng loa gọi tên xoáy sang phía phải xoáy sang
phía trái cho tới lúc người trúng thi thích cánh lách được lên chỗ đệ trình căn
cước.
Khoa thi 1894 lấy 60 cử nhân và 200 tú tài (lệ triều đình đặt ra thường lấy
theo tỷ lệ nhất cử tam tú, cứ chấm lấy một cử nhân thì lấy được ba tú tài). Xướng
xong tên 60 ông cử tân khoa, thì quan sứ Moren về. Các ông tân khoa phục xuống
lạy. Ở tỉnh đường quan Tổng đốc, quan Kinh lược Bắc Kỳ ban mũ, ban áo tấc xanh,
ban ô, ban tráp sơn, nó là những huân hiệu cụ thể của người men chân lên cái
thang hoạn lộ. Ngày yết bảng ấy được kết thúc nhốn nháo la đà ở tòa sứ Nam Định
bằng một tiệc rượu nhảy đầm có mặt đủ các thứ tai họng tai mũi thực dân nứt mắt
cũng như xồm xoàm (...)
Khóa Đinh Dậu sau đây khác với khóa Giáp Ngọ trước, có Toàn quyền Đume đến thật
chứ không phải ai đại diện, có cả công sứ Đặc (Darles) một trong "tứ hung
Bắc Kỳ". Lễ xướng danh lại có hàng loạt ca nông bắn dọa. Chả hồi ấy lại
hay xì xào về ông Kỳ Đồng khởi nghĩa. Thành Nam bỗng rầm rập răm rắp các thứ mật
thám áo dài áo cộc lính khố đỏ khố xanh, pháo thuyền hếch sẵn mũi súng ở bến Đò
Quan. Cô đầu Hàng Thao khó mà phân biệt làng chơi ai là đi hát thật ai là người
giả vờ nghe đàn để ngóng tin. Ngã sáu Mỹ Trọng rất là nhiều người lạ mặt, tốt xấu
lẫn lộn.
Khóa thi Giáp Ngọ 1894 ông Tú Xương đỗ rốt bảng ấy mở vào cuối thu và đóng vào
lúc sang đông đã vàng hết lá những gốc hòe bờ sông Vị Hoàng thành Nam. Đối chiếu
với lịch sử Pháp chiếm đóng Bắc Kỳ và so ngày vào kỳ đệ nhất (29-10-1894) với
ngày Pháp xin ký hòa ước ngừng bắn với (quan) Đề (Hoàng Hoa) Thám để mở nốt đường
xe lửa Hà Nội - Lạng Sơn, thì khoa thi Giáp Ngọ ấy được mở ra sau năm ngày ngừng
nổ súng ở căn cứ du kích Yên Thế. Trước đó mấy tháng Lê Hoan được gặp Đề Thám ở
Cao Thượng và định bỏ thuốc độc vào chén uống của Đề Thám; rồi đến Bá Phúc hàng
Tây vào thành Phồn Xương du thuyết vờ xem chèo mà gài bom định ám hại cụ Thám.
Thời kỳ ấy, giữa vườn hoa bách thú Hà Nội (nay gọi là Bách Thảo), một buổi trưa
hè oi ả tiếng ve sầu, tù phạm đi cỏ vê nổi dậy cướp súng lính tập áp tải. Giữa
Hà Nội năm 1894, lại có cuộc yến tiệc mừng trùm thực dân là Pavie, một tên Tây
hiểm độc phá những cuộc khởi nghĩa vùng Tây Bắc trước đây và có rất nhiều quan
hệ với gia đình tên phản nước Đèo Văn Long hiện nay đang âm mưu ở Lào. Chả là hồi
đó Pavie nguyên tổng lãnh sự Pháp ở Xiêm về họp ở Hà Nội rồi lại sang Lào với
cái danh nghĩa là chủ tịch ủy ban vạch biên giới Lào Xiêm 1894.
Chừng như thời thế phức tạp lúc ấy đã cho là gặp được nhà thơ làm chứng cho diễn
biến mọi sự việc, nên núi sông chỗ này chỗ kia đều luôn luôn có chuyện. Chính
năm 1894, Tú Xương đỗ tú tài là năm Pháp san bằng thành Thăng Long, gạch triệt
hạ thành đem bán đấu giá cho me tây thầu khoán, Pháp phá thành Hà Nội, Pháp lấp
sông Tô Lịch ở Hà Nội. Và ở Nam Định thì lấp sông Vị Hoàng. Con sông Vị Hoàng của
thơ Tú Xương."Ai xui khiến vậy sông nên bãi - Bỗng chốc xoay ra phố cả
làng.
Khúc sông Vị Hoàng Pháp lấp để mở tỉnh và đóng dấu Pháp vào đời hành chính tỉnh
Nam, con sông ấy bị mất rồi nhưng hôm nay đây, đọc thơ ông Tú, trong tai chúng
ta vẫn còn róc rách tiếng sóng nước vọng lại từ gậm cầu tre nào của một ngày
xưa gần đây:
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng riêng ai gọi đò.
° ° °
Ấy là thời Tú Xương. Bây giờ ta đi vào thơ Tú Xương - một thứ
thơ dội lên từ cái thời ấy, như mũ nấm thác sinh từ đống gỗ ruỗng mục nọ của buổi
giao thời.
Thơ Tú Xương là tiếng nói chung của dân tộc, không nặng nề về thổ ngữ âm nhưng
đọng cô vào một hương vị thổ ngơi Nam Định. Tú Xương là một chứng từ về đạo học
thành Nam tàn cục vào đuôi một thế kỷ và kéo cái tàn lụi ấy sang cả dần thế kỷ
chúng ta. Thơ và phú Tú Xương là tập ký sự chi tiết về đời sống thành Nam, về
sinh hoạt vật chất và tinh thần của một lớp nhà nho tỉnh Nam lúc Tây sang, cũng
lều chõng như ai, nhưng nghĩ thấy nó chả ra làm sao cả:
(...)Một việc văn chương thôi cũng nhảm
Trăm năm thân thế có ra gì.
(...)Dại chốn văn chương ấy dại khôn
(...)Nói dơi nói chuột khối người khen
(...)Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng.
Rồi Tú Xương than cho đạo học con tự không coi mù tịt mất, sách chữ Hán rồi
sẽ thay thế bằng chữ Tây, chữ nghĩa chính truyền không ai xem nữa, mà mọi người
đều xử thế theo cái lối Dẫu không bia đá còn bia miệng - Vứt bút lông đi
giắt bút chì.
Đã thế mà ngày xuân họ lại còn rủ nhau chè chén ngâm vịnh: Ý hẳn thịt xôi
lèn chặt dạ - Cho nên con tự mới thò ra.
Tú Xương lại càng than cho đạo học Sĩ khí rụt rè gà phải cáo - Văn trường
liều lĩnh đấm ăn xôi. Than rồi lại kêu Chúc cho khắp hết cả trên đời - Sao
được cho ra cái giống người. Tiếng thở dài, mang nỗi lo xa phảng phất tí giọng
sấm ký Sông bể khơi nguồn mãi cũng vênh, quả đất chảy ra rồi hỏng mất.
Con người thơ Tú Xương muốn đứng đắn mà đời sống lại thành ra lưu đãng hão huyền.
Con nhà nho khái muốn thanh bần với đạo thánh hiền mà cuộc sống đặt cho nhiều mối
lụy. Cái tâm hồn thèm chan hòa ấy lại sa vào cô đơn, con người khái ấy lại sống
nhờ vào tình bạn, lần hồi đắp đổi vào sự nhớ thương:
(...) Há rằng thiếu níp không bồ
Tri âm đã vắng Bồng Hồ cũng thôi
(...) Bạn đàn chưa dễ tìm nhau
Bạn nghiên bạn bút có đâu được nhiều
(...)Tương tư chẳng lọ là trai gái
Một ngọn đèn khuya trống điểm thùng.
Con người tú tài "nổi tiếng tài hoa", "phong nguyệt tình
hoài" chơi ngông ấy, hiên ngang ấy đâm ra phá bĩnh.
... Non nước thề bồi thôi xúy xóa
Quỷ thần nào chứng ở hai vai
Lại xoay ra ba rọi với người ta:
...Ba mươi mấy độ chôn chồng
Còn toan trang điểm má hồng chôn ai.
Tú Xương xóa những lời thề ước với phụ nữ này phụ nữ khác, nhưng lại đi
"thề với người ăn mày":
...Cha thằng nào có tiếc không cho
Ông chửi nặng, rồi ông chửi mát, mắng yêu:
... Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
Ông đâm ra ác khẩu. Ác khẩu trong cách đối chữ đối câu cái tôn nghiêm đem đọ với
những cái không tiện hô đúng tên thật, ông lỡm sự sống, ông cho lộn tùng phèo cả
đi. Nghĩ về người quan văn người quan võ thời nhí nhố ấy, ông đem
cái võng (võng điều võng thắm) ra mà đối với cái khố
dây (khố đỏ, khố xanh). Tường thuật việc trường thi chữ Nho có Tây đến ra
bài, ông đem cái lọng quan sứ mà đối với váy mụ đầm, đem
cái đít vịt bà đầm ra đối với cái đầu rồng một ông cử dốt
đang lạy tạ mũ áo vua ban.
Tú Xương tâm Phật, nhưng miệng xà, ông "thây mẹ thây cha" trong vần
điệu của ông, ông hành lạc một cách sục sặc, ông nhiếc, ông văng tục, ông nói
lái trong thơ, ông văng cái nọ cái kia, con này con khác trong câu đối viết lên
giấy hồng điều.
Hay khen hèn chê, mặc miệng thế
Giàu tậu khó bán, cười bòi ông
Ông Tú văng ra đủ các thứ, ông Tú văng vào cái lề lối khuôn phép, lúc nhố nhăng
đó. Đó cũng là một cách phá công thức của một con người không chịu được nữa, của
một nhà thơ thừa lễ độ chăng?
Nhưng cuối cùng, ở Tú Xương, sau những chửi bới om sòm đó thì còn lại cái gì?
Thưa rằng là còn lại cái gì đáng còn lại của Tú Xương mà ta vẫn đáng giữ lấy.
Nghĩa là những lời kiêu bạc kia, những cái cười phá phách kia, những câu gây sự
to tiếng chửi mắng kia cũng là sự chẳng được đừng của Tú Xương. Tình hình và thực
chất thơ Tú Xương là bay nhẹ ở trên tất những cái đó kia.
Đánh giá thơ Tú Xương, thấy công lao Tú Xương góp vào văn học ta không phải là
ít. Đừng quên rằng cái hồi đó chữ Tàu chữ Tây mới là tiếng nói con bà cả, chứ
tiếng ta chỉ là một thứ con bà hai nếu không là con sen con đòi. Tôi chưa dám
khẳng định xem ở Tú Xương, con người yêu nước đã cho Tú Xương cái ý thức nuôi
dưỡng tiếng nói dân tộc, hay là ngược lại, con người sành Nôm yêu tiếng mẹ đẻ ấy
đã hình thành cho tâm hồn ái quốc đó. Chỉ biết rằng trong Tú Xương có cả yêu nước
có cả yêu tiếng nói dân tộc.
Tú Xương là một nhà thơ có một vị trí rõ nét trong sự biết ơn của chúng ta, nhất
là những người cầm bút kể cả thơ kể cả văn xuôi. Tú Xương là một kho kinh nghiệm
sáng tác cho ta học. Nó còn là một cái phần hương hỏa trong gia tài tiếng nói
Việt Nam. Hương hỏa Tú Xương bên văn giữ hay bên thơ giữ? Tôi cho đó là của
chung của cả văn của cả thơ. Và nói như Béctôn Bờrét "cái đó thuộc về kẻ
nào làm cho nó khá hơn lên được". Thơ Tú Xương còn tác dụng lâu dài, và
cũng như Yên Đổ đã điếu Tú Xương:
Kìa ai chín suối XƯƠNG không nát
Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn.
Có lúc tôi đã thấy giật mình cho Tú Xương, khi tôi giả tỉ thơ Tú Xương không có
cái khía trữ tình cái hơi lãng mạn của nó, mà lại chỉ rặt những: "cống
hỉ, mét xì, thôi thôi lạy mợ xanh căng lậy...". Thú thật, tôi thấy chối
tai đấy. Ở ai thế nào thì tôi không hay, nhưng ở tôi, khi mà Tú Xương cứ hiện
thực chỉ có như vậy thôi, cái gốc hiện thực ấy mà không có cái ngọn trữ tình,
cái tán lãng mạn ấy, thì Tú Xương cũng tắt gió trong tôi từ lâu rồi, và đã bay
ra khỏi tôi lúc nào không biết chừng.
Cho nên ai muốn nói gì đến Tú Xương thì cứ nói, tôi đều coi trọng (cũng như
chúng ta đều tôn trọng cái quyền dân chủ tự do nói nghĩ của mọi người) nhưng
tôi vẫn cho rằng thơ Tú Xương đi bằng cả hai chân hiện thực và trữ tình, mà cái
chân hiện thực ở người Tú Xương chỉ là một cẳng chân trái. Tú Xương lấy cái
chân phải trữ tình mà khiến cái chân trái tả thực. Chủ đạo cho đà thơ là ở chân
phải và Tú Xương - đã băng được mình thơ tới chúng ta bằng nước bước lãng mạn
trữ tình.
Tôi có đọc thơ Đức Béctôn Bờrét, tôi cảm thấy như có thể láy một chút gì thi
pháp Bờrét ra mà cắt nghĩa thi pháp Tú Xương mặc dù hai người ở trường đời và
trường thơ khác nhau. Tôi dẫn ra đây một bài thơ Bờrét. Bờrét mượn lời và thắc
mắc của một công nhân đọc lịch sử rồi nghĩ về cái đám "anh hùng"
phong kiến tư sản toàn là vua này chủ kia mà tịt mù không thấy bóng dáng mảy
may quần chúng nhân dân nào cả:
...Mỗi trang là một chiến thắng
Nhưng ai đã nấu nướng phục vụ cho tiệc vui?
Cứ mươi năm lại một vĩ nhân
Quỹ nào đài thọ?
...Xây xong Vạn Lý Trường Thành
Rồi hiệp thợ nề đi về đâu...
Cũng như Tú Xương, một cách không phải là ngẫu nhiên, Bờrét bạo tay đưa vào thơ
mình những chữ những ảnh thông tục có khi trắng trợn, đưa nhiều vào thơ những
chi tiết nôm tạp của sự sống nó đã tệ rồi ngay ở cõi văn xuôi chứ đừng nói chi
đến trong cõi thơ. Nhưng mà chốc lát (cái chốc lát ấy là có tính toán cả đấy)
chốc lát Bờrét mới cho bổng lên một ảnh thơ nó vô hạn bâng khuâng tưởng như
không còn ai vạch được ra bến bờ cho nỗi day dứt đó. Như Bờrét vừa mượn cái trí
não người thợ mà đưa vào pho sử khập khiễng kia một chiều hoàng hôn làm nhòe hết
mặt mày vĩ nhân phong kiến đã chìm hết hào quang giả tạo.
Lại trở lại thi pháp Tú Xương phối hợp cả hiện thực cả trữ tình, lấy cái hơi trữ
tình mà làm sống động lên những sự vật thường dụng và sự việc dung tục. Như
trong bài Đi hát mất ô:
Đêm qua anh đến chơi đây
Giày giôn anh dạn, ô tây anh cầm
Rạng ngày sang trông canh năm
Anh dậy em hãy còn nằm trơ trơ
Hỏi ô, ô mất bao giờ
Hỏi em, em cứ ậm ờ không thưa
Chỉn e rày gió mai mưa
Lấy gì đi sớm về trưa với tình.
Ở tám câu lục bát này thì 42 tiếng trắc bằng của sáu câu đầu tôi gạt sang cho
phần hiện thực, với những tiếng choang choang lên chất tả thực: giày giôn - ô
tây - nằm trơ trơ - hỏi ô mất - ậm ờ không thưa. Sáu câu đầu, nói rành rọt về một
chuyện mất ô, mất ở đâu mất trong trường hợp nào, và có thể đoán được người ăn
cắp và thấy hiển hiện nỗi ấp úng lúng túng của kẻ gian đó. Câu chuyện kể lại bằng
thơ ít lời nhưng đủ sự việc tình tiết không kém gì lời văn xuôi, có thể làm thỏa
mãn được một ông quan tòa dự thẩm, và có thể làm mẫu cho một cách giảng văn ở một
lớp văn nào. Có thể ngừng ở đó. Nếu làm văn xuôi (làm một cách xuôi xuôi), được
phép ách lại đó.
Nhưng đây là làm thơ, chưa ngừng được, chưa thấy gì là mùi thơ tiếng thơ, chưa
thấy ló ra thi sĩ. Cho nên phải đi bước nữa, nếu thật sự muốn làm thơ. Chỉ thêm
có hai câu nữa mà cứu được đoạn văn xuôi xuôi dễ dàng đó, và chuyển tất cả sang
phạm vi thơ. Chuyển thể tài, chuyển đề tài và chuyển cả chủ đề. Bài thơ nổi gió
lên từ hai câu cuối cùng. Từ một chuyện ăn cắp đồ vật, đáng lý chỉ gây nổi một
chút tiếc của, Tú Xương trang trọng nâng nó lên thành một nỗi niềm hồi hộp xót
thương của những cặp tình nhân muôn thuở, - vẫn trên cái cơ sở thực tế đề hạ ấy
mà nâng lên, chứ không vu đàm khoát luận gì cả...
Bên cái tục tằn, Tú Xương lồng vào một nét thanh, Tú Xương lấy một cái trong trắng
mà gạn lọc cái vẩn đục và hút nó lên theo với thơ mình. Định nghĩa về chất thơ
cho thật chính xác và toàn thập, tôi thấy nó cũng khó như định nghĩa cho chất
uy mua (humour), nhưng cái cách xúc cảm và mở gỡ cho nhân sự thế tình như Tú
Xương vừa cho ta thấy trong việc lạc ô lầu hát đó, tôi ngờ rằng đấy cũng là một
cách đóng góp chí tình vào việc định nghĩa thế nào là thơ và nhà thơ.
Theo tôi nghĩ, thơ là ảnh, là nhân ảnh, thơ cũng ở loại cụ thể hữu hình. Nhưng
nó khác với cái cụ thể của văn. Cũng mọc lên từ cái đống tài liệu thực tế,
nhưng từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la, từ một cái điểm
nhất định mà nó mở được ra một cái diện không gian thời gian trong đó nhịp mãi
lên một tấm lòng sứ điệp. Thơ là mở ra được một cái gì mà trước câu thơ đó, trước
nhà thơ đó, vẫn như là bị phong kín. Bài Sông Lấp dưới đây càng rõ
cái điệu mở ra mở vào đó:
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ giồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Tôi không được tường về năm sinh tháng đẻ chính xác của bốn câu lục bát này,
nhưng theo ý riêng tôi thì đây là ngữ ảnh của những thanh điệu chín nhất tròn
nhất viên mãn nhất ở tiếng thơ Tú Xương.
Nếu chúng ta cũng thỏa thuận rằng nói chung trong thơ Tú Xương có cả hiện thực
có cả trữ tình, thì trong riêng bài Sông Lấp này lại càng rõ cả hai cái phần thể
phách hiện thực và linh hồn trữ tình ấy. Hai câu đầu không có gì là "mở cửa
sổ thấy núi" cả, bình thường thế thôi, các bạn làm thơ bình thường và tôi
làm văn nhật trình tường thuật đưa tin thực tế, mọi người chúng ta đều làm được
cả. Nhưng đó mới chỉ là đếm việc kể việc, như cái kiểu đi thực tế mà chưa biết
nâng thực tế lên, còn nô lệ thực tế mà chưa có tí gì là sự hóa sinh do tâm hồn
mình thổi vào. Nếu con sông Lấp Vị Hoàng mà chỉ có hai câu ấy thôi, thì con
sông Tây lấp đi kia có thể coi là tuyệt tự rồi, và tên tuổi nhà thơ của nó cũng
có thể phần nào lấp theo đi với con sông cạn. Nước con sông thời thế Vị Hoàng bất
chấp mọi sự ráo kiệt cạn lấp, đến ngày nay vẫn còn chảy tới thế hệ chúng ta hợp
lưu được với lòng chúng ta, chính là do cái nguồn mạch trữ tình của hai câu sau
đẩy nó đi xa lắm, và mạch nước ngầm ấy còn chảy xa lắm. Tôi nghĩ đến một tương
lai Việt Nam sông cái sông con suối chị suối em trên khắp Tổ quốc ta sẽ hết cả
đò ngang mà chỉ còn có toàn cầu sắt, cầu bê tông, hoặc cùng giả lắm là phà máy.
Cho là mười kế hoạch năm năm nữa thì căn bản có thể tuyên bố là hết đò ngang chứ
gì!
Và lúc ấy đò ngang không là hình ảnh của vận tải quốc doanh mà chỉ là những vốn
dân tộc giữ lại cho những cặp tình nhân nhàn tản trên mặt sông hồ sau những đợt
dài lao động xã hội chủ nghĩa. Tôi cho rằng tới ngày đó và sau sau đó nữa trong
lòng những người Việt Nam của năm 2000, của năm hai nghìn lẻ mấy trăm chi đó, vẫn
vang hưởng cái giếng Tú Xương gọi đò trên sông Lấp.
Những thế hệ sau này thật là không thể nào hình dung được đầy đủ cái thảm kịch
gọi đò đêm sông vắng, cái thảm kịch đợi nước gọi đò (hiểu theo cả nghĩa đen
kinh tế lạc hậu, hiểu theo cả nghĩa bóng chính trị của những người yêu nước trước
đây nói bóng gió về thời cục bằng hình ảnh thơ). Nhưng tôi tin rằng những thế hệ
đó được nâng cao vật chất và tinh thần, được học nhiều hiểu rộng gấp mấy mươi
chúng ta bây giờ, họ có một quan niệm rộng rãi hơn về xử sự xử thế của những
con người sống trước họ, họ ái ngại nhiều hơn là lên án những người trước đây
chỉ mới yêu nước trong phạm vi yêu tiếng nói dân tộc mà chưa chuyển được sang
những hành động trực diện. Cái học lực của họ sẽ tạo cho họ nhiều độ lượng nhân
ái hơn, tình cảm phong phú và thuần khiết hơn, và họ có thể còn cảm thông thâm
thúy và quán triệt sâu sắc hơn nữa với hiện tại gần đây của lớp chúng ta. Thực
ra cái lớp chúng ta đây cũng là một lớp người chưa thoát đò ngang, cũng là vừa
sang xong một vài chuyến, có những chuyến thuận chèo trót lọt, bến đông rộn lên
như hội mùa, nhưng cũng có chuyến gian nan tay lái không dẻo thì cũng dễ đắm
con đò có lúc đã chiềng hẳn đi.
Cái tiếng gọi đò u hoài trong thơ Sông Lấp Tú Xương còn là cái tiếng gọi đàn của
cả một đoạn sử ta cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, đất nước quê hương lộp cộp
móng lừa tây, vó ngựa lai, giày đinh sắng đá, và đì đoành ca nông chấm câu cho
những vần thơ yêu nước. ông Tú sinh lúc Tây hạ tỉnh phá tỉnh đóng tỉnh và năm
1907 ông Tú tịch đi là năm đất nước không gọi là yên tí nào được. Và đặc điểm của
Nam Định hồi đó là một địa phương sớm có nhiều thanh niên vượt biển ra ngoài mà
cầu học cách mạng. Thơ Sông Lấp đượm cái màu và cái mùi thời gian của nó. Bài
thơ Sông Lấp là một cái hồi quang trung thực cả thời đại khó khăn và đau khổ
đó. Phẩm chất nó rất hiện thực, nhưng phong cách nó lại tượng trưng và tác động
của nó lại trữ tình. Dẫn thơ Tú Xương, có thể lược đi bài kia bài khác, nhưng
không ai dám quên, nỡ quên bài sông Lấp. Bởi vì Sông Lấp là tiêu biểu cho hơi
thơ, giọng thơ Tú Xương, đồng thời tiêu biểu cho cái thời Tú Xương.
Nếu chúng ta cũng liệt Tú Xương vào loại đỉnh thơ Nôm, thì Sông Lấp chính là một
cái bóng cây hiên ngang trên sườn non đó vậy. Dẫn thơ Tú Xương mà vô tình hoặc
cố ý đánh rớt bài Sông Lấp, tức là bước lên lầu tháp, mở cửa tầng này tầng kia
mà quên đi mất cái chuông trên vọng lâu vậy. Tỉnh Nam Định chân phác của Tú
Xương đã khác hết cả Nam Định nay thi đua sản xuất với nhà máy tận thủ đô Bình
Nhưỡng Triều Tiên. Nam Định kết nghĩa anh em với thành phố Mỹ Tho quê hương của
tiếng hát vọng cổ hoài lang Nam Bộ. Nam Định công nghiệp đang dệt lụa khổ rộng
dệt nhiễu hoa óng ả nuột nà, Nam Định đang là một cái thành phố giàu có đóng
góp nhiều cho kho tàng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, cũng như Nam Định trước đây
đã đóng góp cho kho tiếng nói Việt Nam một nhân tài Tú Xương của mình. Thành phố
Nam Định mỗi ngày mỗi nâng cao mức đời sống rồi sẽ cần đến việc dựng những tượng
đồng bia đá để cho đời sống tỉnh mình đầy đủ hơn nữa nhuần đượm hơn nữa. Đến một
lúc nào của trình độ văn hóa được nâng cao mãi lên và trình độ kinh tế lại cho
phép, tôi nghĩ rằng những người thợ dệt Nam Định sẽ đòi cho thành phố kỹ nghệ
mình được có một pho tượng của nhà thơ Tú Xương tỉnh mình.
Giả thử tôi được làm nhà điêu khắc thì tôi muốn góp vào vườn hoa sông Lấp Vị
Hoàng Nam Định một ngôi tượng dong dỏng một dáng người áo chùng khăn chít thơ
thẩn bên dòng nước mà chờ một chuyến đò thời đại. Dưới chân tượng trước bệ tượng,
phẳng tắp con sông thời gian.
Con sông tuổi phù sa hoa niên của Tú Xương đã cạn đi từ lúc sinh bình nhà thơ.
Nhưng hôm nay tạc tượng Tú Xương, Tổ quốc là một cảnh nhộn nhịp "sông núi
có chủ nhân", những người thợ dệt Nam Định đã khơi nguồn lại cho sông thơ
nọ, để người thơ Tú Xương yên giấc bên sông mà không còn phải giật mình thức giấc
để nhớ thương cho bất cứ tiếng gọi đò đêm nào. Lúc còn sống để làm thơ, ông Tú
là một cây sầu đông ngoài tươi mà trong rầu héo, những lời trào lộng kiêu bạc
chỉ là những hiện tượng da thịt bên ngoài phủ lên một tủy cốt chung tình. Cho
nên pho tượng Tú Xương của tôi có cái dáng điệu thung dung tự tại của một người
bộ hành sang ngang tin rằng sông bao giờ cũng có đò, tin rằng bến lạnh có mịt
mù đến đâu đêm tối có đen ác đến mấy, thì cuộc sống tổ chức của Cái Thiện lúc
nào cũng vẫn sẵn một bóng người du kích đưa mình vượt qua bờ. Mà nó đúng là pho
tượng của một nhà thơ tự tin rằng khi mình đã cất nổi một tiếng gọi bên sông
văn thì vẫn có tiếng đồng điệu vọng trả lời sang.
Văn nghệ, tháng 5-1961
THẠCH LAM
Trong văn học Việt Nam trước Cách mạng 1945, Thạch Lam là một
trong số những nhà văn được nhiều cảm tình của người đọc. Lời văn Thạch Lam nhiều
hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc. Dưới
cái hình thức không những thoát ra khuôn sáo cũ của cách hành văn đương thời mà
lại có rất nhiều đức tính sáng tạo ấy, văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó
là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời. Thạch Lam có
những nhận xét tinh tế về cuộc sống hàng ngày. Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam
thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng
lớp dân nghèo thành thị và thôn quê. Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống,
trang trọng trước sự sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch
Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và
phẩm chất văn học. Mặc dù in ra ít, sách Thạch Lam có đánh dấu lại được cái tâm
hồn súc tích, rộng rãi và tiến bộ của một nhà văn xuôi chân chính.
° ° °
Thạch Lam sinh năm 1909, mất năm 1942, sự nghiệp văn học gồm
truyện ngắn, truyện dài, truyện thiếu niên, và những bài bình luận văn học. Tác
phẩm đầu tay là một tập truyện ngắn in năm 1938, tập Nắng trong vườn. Và
sau đó, tiếp theo luôn hai tập truyện ngắn Gió đầu mùa và Sợi
tóc.
Thạch Lam có viết sách cho trẻ em. Cuốn Quyển sách và cuốn Hạt
ngọc tả cảnh thôn quê cốt giới thiệu cảnh làm lụng nông thôn với một chú
bé quen sống ở thị thành.
Tiểu thuyết dài của Thạch Lam in năm 1939, và Thạch Lam cũng chỉ viết có một
truyện dài Ngày mới.
Nhưng nói đến Thạch Lam người ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện
dài. Ngoài các tập truyện, Thạch Lam có viết một tác phẩm xinh gọn duyên dáng để
riêng ca ngợi những phong vị và sắc thái của thủ đô. Tập Hà Nội ba mươi
sáu phố phường này, được truyền tụng nhiều, nhất là đối với những người có
ít nhiều quan hệ trực tiếp với cuộc sống vật chất và tinh thần hồi đó của thủ
đô Hà Nội. Hà Nội ba mươi sáu phố phường có giá trị của một tác phẩm văn học
giúp ta nhận thức thêm về những khía cạnh nhiều màu nhiều vẻ của "Tổ quốc
ta tươi đẹp" Thạch Lam còn có một số bài báo luận văn học, sau gộp lại in
ra năm 1941, với tên sách Theo giòng.
Nói đến nghệ thuật của Thạch Lam, tức là nói cụ thể đến nghệ thuật viết truyện
ngắn của Thạch Lam. Một số truyện ngắn của Thạch Lam có thể coi như là mẫu mực
được. Có những truyện ngắn Thạch Lam, ở cái thời bấy giờ, đọc xong thấy nó đọng
lại trong người ta như một câu hỏi bức thiết của tác giả, như là một lời trách
móc kín đáo của nhân vật truyện. Những vi phạm vào quyền sống của hạnh phúc tuổi
trẻ, những nỗi cay đắng oan uổng của cảnh bị ép duyên, đâm đầu xuống sông mà
không chết ngay được, để sau đó phải mòn chết oan trái trong truyện Hai lần
chết. Những cuộc sống phụ nữ hết lo cho em lại đến lo cho chồng, cứ chìm chìm
xám xám như thế quanh một cái chợ. Những "cô hàng xén" tuy không lên
tiếng đòi quyền sống trong truyện nhưng qua kẽ dòng truyện, vẫn như hỏi thầm
người độc giả rằng ý nghĩa cuộc sống có phải là như thế không?
Truyện Hai đứa trẻ có một hương vị thật là man mác.
Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng thời cũng gióng lên một cái gì còn ở
trong tương lai. Đây là một mẩu sinh hoạt hàng ngày và kéo dài của hai chị em đứa
trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một cái phố huyện, gần một cái ga
xép. Đêm đêm có những bóng người bình thường lù mù đi qua trước gian hàng. Những
bóng người ấy cũng lù mù như nhiều chấm lửa ở những nguồn ánh sáng quanh quất
nơi phố huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có những tiếng động mạnh
và những luồng sáng mạnh của một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em đứa
trẻ ngày nào cũng chờ một chuyến tàu đêm kéo qua rồi mới chịu đóng cửa hàng.
Nơi cái thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng
còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc Hai đứa trẻ, thấy
bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín.
Trong cái tấm lòng quê hương mát mẻ của Thạch Lam, đôi lúc vẩn lên cái bóng
dáng một vài con người thực dân Pháp, cái bóng dáng một Người đầm. Mặc dù
chỉ là vài nét chân dung chấm phá, lồng vào khuôn khổ hẹp của một câu chuyện kể
lại theo thể thức một truyện ngắn, truyện Người đầm gợi nhiều. Nó không dám
công khai hô hào cổ võ, nó chỉ nói thầm, nhưng lại nói thầm một cách rành rọt.
Dưới cái thời Tây còn làm chủ nước ta, Thạch Lam bỏ nhỏ vào tai bạn đọc mình những
điều ghê gớm mà Tây thuộc địa không muốn một người "bản xứ" nào bàn đến,
hoặc là đặt ra đặt lại bằng bất cứ cách nào.
Lòng yêu âm trầm đất nước quê hương ông bà đã luyện cho Thạch Lam một cách nhìn
ý nhị về người đầm xâm nhập trái phép vào ta. Thạch Lam đã lễ phép mà trình bày
một hình tượng của cái sự kiện lịch sử đó. Có người bảo lối viết hàm dưỡng kín
đáo ấy, cũng là một cách để lọt lưới kiểm duyệt thời xưa. Có thể có cái khía ấy
nữa, nhưng theo tôi nghĩ, đây chính vẫn là cái phong cách im ả thâm thúy của Thạch
Lam. Qua cái hơi văn càng bình thản bề ngoài ấy, ta thấy thực dân cái (cũng như
thực dân đực) càng trở nên kệch cỡm, nó dị dạng tới cái mức phải cho nó cút đi
khỏi cái chân trời chung của cả tác giả lẫn độc giả.
Truyện Người đầm xem như là lối truyện không nặng về cốt câu chuyện. Nó nặng về
biểu hiện mặt trong của suy nghĩ, hơn là diễn tả cái bên ngoài. Hầu hết là bút
pháp của độc thoại nội tâm, trừ một vài chặng đối thoại, như chỗ bà đầm nói
chuyện với chú bé bán kẹo vừng bên Hồ Kiếm. Đọc truyện, tôi thích những tác giả
có cái bút lực dựng đám đông tấp nập, ồ ạt nhiệt náo, quát thét, vận động nhiều,
hành động nhiều hơn là bàn bạc. Nhưng tôi lại thích cả những cách diễn đạt trầm
trầm mà chuyển, đêm dài một bóng một đèn, một nhân vật đó và mình, thấy cũng thấm
đáo để. Nhà văn Thế Lữ có kể lại rằng câu chuyện này là do họa sĩ Nguyễn Gia
Trí thuật lại và Thạch Lam đã viết ra theo một cách diễn tả riêng.
Nếu thật là như vậy, thì càng thấy rõ việc sáng tác chính là ở chỗ vận dụng được
kinh nghiệm sự sống, vận dụng được cái vốn suy nghĩ và tưởng tượng của bản thân
mình.
Còn như có sống trực tiếp hay chỉ là gián tiếp cái cốt truyện cái khung truyện
dựng ra kia, thì đó chưa phải là mặt quan trọng trong sáng tác văn học. Cái chủ
yếu vẫn là cái cơ sở nhân sự thực tế, cái vốn thực tế đã tầng trải, đã thể nghiệm,
đã tích lũy. Chuyện của người khác được sống lại một cách sinh động trong truyện
kể hấp dẫn của mình, ấy là nhờ có cái sự tích lũy quý báu đó vậy.
Truyện Nhà mẹ Lê viết cách đây khoảng hai chục năm mà đọc đến thấy
đâu như chuyện năm ngoái năm kia gì đó. Đọc Nhà mẹ Lê, có lúc cứ lầm tưởng đâu
như là Thạch Lam có đi theo một đội phát động nào? Cũng cảnh đi làm thuê ở mướn.
Cũng địa chủ tàn bạo. Cái thảm kịch của những người nhà quê sống những năm khủng
hoảng kinh tế 1930-1935 dưới thời đế quốc. Cũng cảnh nhà nghèo mà lại đông những
mười một mụn con, đến nỗi người cùng xóm phải nhắc "thỉnh thoảng đếm lại
con không quên mất". Người mẹ muốn lao động mà không có quyền lao động. Kẻ
giàu đã không cho vay gạo nuôi con, lại còn xùy chó Tây cắn chết. Bao nhiêu đoạn
khổ tình thương.
Để thấy rõ thêm con người và thái độ của tác giả Nhà mẹ Lê xin dẫn ra đây một
đoạn văn Thạch Lam ghi vào lời nói đầu tập truyện ngắn Gió đầu mùa:
"... Đối với tôi, văn chương không phải một cách đem đến cho người đọc sự
thoát ly hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc
lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn
ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn".
Trong bài phê bình Người nhà quê trong văn chương, Thạch Lam còn có những
mong muốn rất là cụ thể:
" Sự thực người nhà quê chỉ yêu quý ruộng đất chừng nào mà họ là chủ ruộng
đất...".
" Chúng ta phải đợi có một nhà văn nguồn gốc ở đồng ruộng, tự cày bừa lấy
trang sách nói về người nhà quê, vạch một luống thẳng thắn và mạnh bạo trên đất
° ° °
Thạch Lam hay đi vào những cảnh ngộ nghịch trái, mà đồng thời
cũng là đi sâu vào những tâm trạng, tâm tình, cảm xúc cảm giác. Truyện Tối
ba mươi dựng lên cái tâm trạng đau thương của những người đàn bà phải lấy
thể xác ra làm hiện vật buôn bán trong một cái xã hội mà tiếng nói của đồng bạc
là tiếng nói quyết định. Họ chịu đựng sự rẻ rúng của xã hội tiền bạc, nhưng đôi
lúc, - như cái lúc hết một năm để sang năm khác của đời con người ta, - trong
cái tâm hồn đọa lạc và đùng đục ấy, vẫn sáng lên những ý nghĩ và tình cảm trong
lành. Truyện Sợi tóc ghi lại một cơn bão phút giây trong một tâm tư,
ghi lại những cái tinh tế của một cuộc giao tranh luân lý giữa cái thiện và cái
ác, giữa chính và tà, mà "chỉ một sợi tóc nhỏ, một chút gì đó, chia địa giới
của hai bên". Không dùng những chữ to tát, giọng Thạch Lam điềm tĩnh pha mỉa
mai nhẹ nhàng nó cũng là cái lối nói quen thuộc của tác giả. Với giọng đó, Thạch
Lam trình bày một trường hợp về nhân phẩm con người, và ghi lại một chiến thắng
của một cuộc đấu tranh tư tưởng trong cái bản thân một người. Trong cuộc sống
phức tạp hàng ngày, con người đạo đức trong chúng ta, ở thời cũ đó, đã có dịp dẹp
tan biết bao vụ ăn cắp ăn trộm xảy ra trong ý nghĩ chúng ta như thế, mà chúng
ta, vì bận rộn quá, hay quên đi đó thôi! (Trong con người, vốn lại hay có những
cái vĩ đại bị vệt ố của hèn hạ). Nhìn qua Sợi tóc, vượt lên cái bề ngoài những
đoạn văn hoài nghi, người bạn đọc sâu sắc sẽ tìm thấy thực chất của truyện Sợi
tóc là một truyện đem lại sự yên tâm cho ta hơn là ngờ vực.
Dưới bóng hoàng lan, nhân vật có bà và cháu, cháu đi làm trên tỉnh. Một cô thôn
nữ Nga vẫn chờ đợi xây dựng với cái anh Thanh đi làm việc trên tỉnh kia. Cái
bóng cây có hoa thơm ở đây, dưới ngòi bút Thạch Lam, cũng đóng một vai nhân vật.
Nhân-vật-cây-cỏ-hoa ấy đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm thơm lành, và
mát dịu, và giúp thêm cho tác giả định nghĩa về danh từ quê hương nó là "một
nơi mát mẻ và sung sướng để thường về nghỉ sau việc làm". Bóng hoàng lan
đây, là một cái bóng mát ở một chốn quê cũ của tuổi thơ trẻ, nó giúp cho người
bộ hành nghỉ chân trên đường đời, trước khi tiến lên nhiều chặng nhiều quãng mới.
Những cái bóng mát này, rất cần, mặc dù trong thực tế cuộc sống nhỡn tiền, có
nhiều chặng nghỉ, có nhiều cách nghỉ không hoàn toàn giống hẳn như trong truyện
"có cái gì dịu ngọt chăng tơ đâu đây, khiến chàng vương phải".
Đi sâu vào sở trường của mình là tả những tâm trạng, Thạch Lam đã dựa trên một
sự việc nhỏ bé hàng ngày như cái việc đi xe và mặc cả xe kéo hồi trước đây, mà
dựng nên truyện Một cơn giận để nêu lên một cái sự thật thường xảy ra
luôn luôn trong cuộc sống tình cảm:
"Sự giận dữ có thể sai khiến ta làm những việc nhỏ nhen không ai ngờ".
Và "người ta có thể tàn ác một cách dễ dàng". Một cơn giận đây có giá
trị của một sự kinh nghiệm về cuộc sống hay bày vẽ ra một số oan khiên vô ích.
Cái kinh nghiệm ấy được kể lại với sự chân thành nhiệt ái và lòng hối lỗi. Nó
có cái tác dụng của những lời ân cần nhắc cuộc sống hàng ngày hãy coi chừng với
bản thân mình, tỉnh táo hơn, tỉnh táo trong xúc động, trong phản ứng để cuộc sống
mọi người bên mình thêm nhiều công bằng và nhịp nhàng hơn.
° ° °
Đọc Thạch Lam, có người chê câu văn Thạch Lam và nói chung
văn phẩm Thạch Lam là ít động tác ít hành động, và kết luận: "Cho nên Thạch
Lam viết truyện dài không thành công". Tôi đồng ý là truyện dài Ngày mới của
Thạch Lam không thành công, nhưng rất dè dặt về cái điểm "câu văn và văn
phẩm nhất thiết phải có động tác phải nhiều hành động" bởi vì nhiều khi,
nhiều động tác quá thì lại hóa ra túi bụi. Cái chính trong truyện là nhân vật
có làm, phải làm cái này cái kia, nhưng nhân vật còn phải có cảm có nghĩ, có
suy nghĩ nữa. Và cái thế giới bên trong đó của một nhân vật của những nhân vật
rất là cần cho sinh khí tiểu thuyết. Cái phần ấy mới đem đến cho nhân vật một
cái chiều sâu và do cái thâm thúy đó, mới thỏa mãn được người bạn đọc và giúp
gì cho người bạn đọc.
Về Thạch Lam và đọc truyện ngắn Thạch Lam, tôi cứ nghĩ như đó là một người tính
tình nhẹ nhàng tinh tế, từng trải sự sống ở một số mặt sống, vừa sống vừa lắng
nghe chung quanh cùng là lắng nghe mình phản ứng trước mọi diễn biến cả bên
ngoài bên trong mình. Rồi trang trọng đề nghị với mọi người cùng bàn về điều
hơn lẽ thiệt, mặc dù cái điều hơn thiệt đưa ra bàn bạc có khi chỉ nhỏ như một sợi
tóc... Nhưng đứng về mặt góp phần vào việc xây dựng một nền văn xuôi Việt Nam
hãy còn trẻ tuổi, đứng trên chỗ đó mà bàn về Thạch Lam thì cũng dễ có sự đồng
tình của tất cả, để cùng thấy cái chỗ đóng góp của nhà văn xuôi Thạch Lam. Bằng
sáng tác văn học, Thạch Lam đã làm cho tiếng nói Việt Nam gọn ghẽ đi, co duỗi
thêm, mềm mại ra, và tươi đậm hơn. Thạch Lam có đem sinh sắc vào tiếng ta. Và
theo tôi nghĩ, đứng bên cái tiêu chuẩn thái độ tư tưởng nó là cái tiêu chuẩn
chung cho các thể các ngành văn nghệ, thì đây là một cái chuẩn quan trọng - nếu
không là duy nhất - để nhận định giá trị của một nhà văn, nhà văn ấy dù qua đời
rồi hoặc còn đang làm việc cho văn học. Và đánh giá một nhà văn, đứng về nghề
nghiệp chuyên môn mà bàn, thì giá trị một nhà văn xuôi, cụ thể còn là những
công đức lập ngôn của nhà văn đó mở mang thêm vốn liếng dân tộc về tiếng nói được
tới mức nào, và đã góp được phần sáng tạo của mình vào ngôn ngữ Việt Nam như thế
nào.
10-1957Nguyễn Tuân
Tiểu luận và chân dung văn học 1
CHÉN RƯỢU VĨNH BIỆT
Cữ thượng tuần tháng tư năm nay, tôi có chút việc phải về
làng Mọc. Tôi nghĩ ngay đến việc ghé thăm ông Tản Đà. Từ chỗ ông ở đến làng Mọc
tôi, cách nhau độ năm trăm thước. Sẵn có bó đóm diêm gỗ bồ đề, tôi gói đi gọi
là làm chút quà cho ông bạn già vốn đặt cái thú hút thuốc lào ngang với cái thú
uống rượu. Con người ta chơi với nhau, đã mến được nhau, đã kính nhau, thường
hay có những cái tỉ mỉ như thế. Cái thanh đóm dùng để châm thuốc lào, ở người
khác tôi không hiểu nó như thế nào, nhưng giữa ông Tản Đà và tôi, thanh đóm đã
là một cái gạch liên lạc nối một trẻ vào một già.
Lần đầu tiên tôi giáp mặt ông Tản Đà là ở tòa soạn An Nam tạp
chí phố Hàng Da. Đầu năm 1932 gì đó, sau cái hồi rời bỏ phố Hàng Khoai, lúc ông
Hiếu còn cộng sự với ông Cử Ngô Thúc Địch. Sau bài thơ trường thiên của tôi gửi
đăng ở An Nam tạp chí lấy tên là Tương Tư Hành, Vũ Lang đưa tôi lại giới
thiệu cùng ông Tản Đà. Tôi còn nhớ buổi đầu đó, chúng tôi nói rất nhiều về bản
dịch bài Tỳ bà của Bạch Cư Dị, mà nhiều người gán cho Nguyễn Công Trứ
và một số người nữa thì bảo là của ông Đồ Phù Long (?) Những đoạn nhắc đến chữ
dịch hay quá, hay đến nỗi hóa được cả chữ của nguyên văn như chữ tẩm (biệt
thời mang mang giang tẩm nguyệt) mà dịch là dầm (nước mênh mông dầm vẻ
trăng trong) chẳng hạn, ông Tản Đà hút một điếu thuốc lào, tôi cũng hút một điếu
thuốc lào.
Chúng tôi thông điếu lẫn cho nhau và người hút thuốc thường
giữ một thanh đóm lúc vẫn cháy để chờ người sau kịp rịt một mồi thuốc thứ hai
vào nõ điếu. Lẽ cố nhiên, tôi thông điếu và giữ thanh đóm cháy nhiều hơn ông Tản
Đà.
Tôi rất vui vẻ giữ cái địa vị đàn em như thế có đến nửa giờ đồng
hồ vì hai cớ: cớ thứ nhất là trước mặt tôi, tôi có cả một cái tài hoa già dặn của
thời đại; cớ thứ nhì là ông Tản Đà cao hơn tôi những hai chục tuổi đầu. Lúc đứng
dậy xin cáo, ông Tản Đà tay sẵn thanh đóm còn cháy dở, nèo tôi hút một điếu thuốc
lào nữa và cười khà khà:
- Ngon nhất là cái điếu thuốc lào hút thế nào cho được nhất
khí.
Thấy bao diêm của tôi đã vợi hết ruột, ông sẻ cho mấy chục
que ở cái bao đầy của ông.
- Ngài cầm ít que dừng tạm. Bên đầy quá bên vơi quá.
Tôi lĩnh mươi cái que đóm diêm sinh, cảm tình vô hạn cái buổi
đầu gặp ông Tản Đà, buổi đó, để lại cho tôi nhiều thiện cảm. Nhớ đến cái tàn lửa
đóm của ngày cũ năm 1935, hồi ông Tản Đà thất thế lùi về Khê Thượng, tôi có gửi
lên cho tiên sinh một bó đóm diêm gỗ bồ đề. Có người bạn quen, bắt gặp tôi ra
nhà dây thép gửi cái bưu kiện đóm diêm lên tận tỉnh Đoài cho thi nhân, người đó
đã đùa nhả một câu:
- Anh định diễn lại cái kịch rau sắng chùa Hương, có phải thế
không?
Bó đóm đi không bao lâu thì ông Tản Đà gửi lại một bài thơ lục
bát trong đó có hai câu:
Tay cầm bó đóm con con,
Nhớ người xa nước xa non như gần.
Đã có bao nhiêu đêm đông lạnh, tôi ngồi xổm khoác mảnh chăn
bông lên bả vai, châm một thanh đóm, và nhớ đến người xa xa tôi cất tiếng ngâm
một bài "Thề non nước" giữa một vùng khói thuốc lào dầy đặc, như màn
đất núi.
Mãi đến đầu năm ngoái, tôi mới có dịp gần ông Tản Đà luôn
luôn. Mỗi dịp gần nhau lại là một dịp để say sưa, để hút thuốc lào với thanh
đóm cũ, để nói chuyện dịch Liễu trai, dịch Đường thi và phê bình về người và việc
trong Đông chu liệt quốc.
Biết là đóm đã hết, cữ này về làng Mọc, tiện đường qua nhà
ông Tản Đà ở Cầu Mới, tôi đem về biếu một bó đóm nữa.
Bấy giờ vào quãng chín giờ sớm. ông Tản Đà đang uống nước
trà, thấy tôi vào đã vội cười với một câu: "Cố nhân lai!" Cái mừng rỡ
này xiết bao thành thực. Đúng như vậy, đã mấy hôm nay rồi, ông Tản Đà đang khát
gặp người nói chuyện. Những bạn năng lui tới thường đã rõ ông Tản Đà vì sao phải
rời xóm Bạch Mai chạy về vùng Ngã Tư Sở. Mở ngôi hàng xem số tử vi Hà Lạc,
không có khách. Mở lớp quốc văn hàm thụ và lớp Hán văn diễn giảng cũng lại
không có học trò nốt. Rốt cùng đến thiếu tiền nhà, chủ nhà đuổi người thuê nhà
và giữ lấy đồ đạc.
Chỉ tay vào chồng sách cũ xếp trên cái ghế mọt dài, chỉ tay
vào hai chiếc ghế mây đã gần thành bảy chân choãi, ông Tản Đà vẫn còn hài hước:
- Nhiều lắm mà làm gì. Hai chiếc ghế cũng đủ chán. Chủ ngồi một
chiếc, khách ngồi một chiếc.
Tôi bâng khuâng. Tôi cố tìm trong đầu tôi, lục lại trong cái
mớ truyện Đông Tây cổ kim, để tìm lấy tên một thi sĩ giàu có. Thì ra, cái nghèo
của thi nhân đã là một nghiệp dĩ. Sự giàu sang người ta chỉ thấy ở một kẻ buôn
bán, ở một nhà viết tiểu thuyết. Có bao giờ, có mấy khi, một thi nhân được nằm
lên đống vàng mười. Tôi muốn bỏ đi ngay, để được phơi những ý nghĩ đen ngòm này
ra một chỗ thoáng.
Ông Tản Đà giữ tôi lại:
- Này, đi đâu? Lâu lắm không uống với nhau một chén nào cả. Ở
đây rồi ta tiểu ẩm.
Rồi ông chỉ cái thẩu rượu có ngâm đôi ba con cáp giới còn
nguyên hình:
- Của một ông bạn ngoài Quảng Yên làm quà cho. Để đợi hôm nào
khỏe, chúng ta sẽ dùng hết. Cái giống này tráng dương lắm. Lai ơi!
Lai là tên một người hầu cận thi nhân, cũng là người Khê Thượng,
theo ông từ ngày ông lùi về quê vùng Bất Bạt. Trước kia Lai thất học, nhưng từ
ngày ở với ông Tản Đà đã biết đọc, biết viết và nhiều khi ngồi bên bếp lửa thăm
dòm một bát canh, một niêu cơm, còn ngâm nga(!) nữa. Đã từ bốn năm năm nay, mọi
việc chuyên trà, xào nấu món ăn và những lúc đêm hôm phải cầm cái hũ đi lấy rượu
từ đầu làng đến cuối làng những lúc có khách, nhất nhất mọi việc đều qua tay
Lai cả. Nếu ông Tản Đà ở lùi vào thời trước, thì nhất định Lai phải để hai trái
đào như một hề đồng ngày ngày đeo một cái lẵng hoa quả theo thầy lên núi lau một
cái sườn đá cho thầy đề mấy vần thơ. Chiều cho được ông Tản Đà, tôi tưởng cũng
chỉ có một mình Lai thôi. Lai lúc nào cũng vui vẻ đứng hầu rượu. Với những
phong tục rất êm đềm ấy ở trong một khung cảnh rất thanh bạch ấy, hai thầy trò
ông Tản Đà đã gần như chọn nhầm thế kỷ.
Lai đã bưng siêu nước ra, đứng vòng tay chờ ông Tản Đà sai bảo:
- Này Lai, con chạy ra đầu phố xem có cái gì mua về uống rượu.
Con tùy tiện lấy.
Nghe mà thấy dài quá! Nghe mà thấy sang quá! Ai dám bảo ông Tản
Đà là luôn luôn túng quẫn. Tôi tủm tỉm cười.
Lai ở chợ đã về và đã nhanh nhảu bày lên bàn những món tửu
hào. Trên mặt cái bàn gỗ mộc tròn vốn dùng luôn làm bàn giấy (!) - những lúc dịch
thơ Đường bán cho báo Ngày nay, những lúc dịch Liễu trai bán cho
nhà Tân dân, những lúc chấm số Hà lạc bán cho khách bốn phương trời - trên
cái bàn gỗ mộc, Lai đã đặt lên đấy một cái hỏa lò than hồng. Một đĩa bún Thanh
Trì trắng phau điểm vài ngọn rau húng láng xanh ngát. Và mươi gắp chả thịt lợn
ba dọi có bóp riềng mẻ. Cái "tác phẩm" xinh xắn, gọn gàng này là của
Lai.
Khói mỡ bay đầy phòng
Ngoài đường nắng chang chang.
Gió nồm quạt lửa hạ vào nhà.
Lai cũng phành phạch quạt nan quạt lửa than hồng vào người
chúng tôi. Rượu nặng phân bắt đầu ngấm, bốc mãi nhiệt độ trong người. Nếu không
yêu và kính chủ nhân, thì có mà phải tội mới ngồi hầu một bữa rượu chín được
người như thế này. Cũng như bao giờ, ông Tản Đà là người nói nhiều nhất trong
những lúc cử tửu. Giữa cái nóng nực của bữa rượu trời hè, tôi, mồ hôi chảy ròng
ròng, ngồi nghe ông Tản Đà luận bàn về người trong thanh sử.
Nói xong cái tâm trạng Khổng Minh lục xuất kỳ sơn, ông quay
sang cái cảnh Phạm Lãi chu du Ngũ Hồ. Rồi ông chê người Đại phu Văn chủng, rút
những câu trong sách cũ về đoạn ấy: "Cao điếu tận, lương cung tàn, giảo thỏ
tử, tẩu cẩu phanh, địch quốc phá, mưu thần vong...".
- Con người ta ở đời, có hai thái độ đáng quý, một là làm
thánh hiền, hai là làm hào kiệt. Nhưng đem so sánh thì làm hào kiệt vẫn sướng
hơn. Cái cuộc đời ấy mới là ồ ạt.
Rồi không cần câu chuyển, ông Tản Đà đổi sang một câu chuyện
khác.
- Nội trong loài cá, chỉ có con diếc là sạch nhất và khó câu
nhất. Giống nó chỉ hay ở chỗ nước trong và ăn toàn bọt nước. Thả cái mồi gì nó
cũng chê cả. Định lấy một cái mồi thơm mà dử nó như là người ta thường dử một
con rô hay một con chuối, thực cái anh đi câu đã làm một việc tối vụng về.
Tôi liên tưởng mang máng nhớ tới câu tản văn của tiên sinh viết
trong cuốn "Giấc mộng con": "Có người, cho cái áo vải thì chê, đợi
cho đến cái áo gấm mới mặc..." Vừa ăn, vừa triết lý, vậy mà mặt trời đã đứng
bóng. Nhìn đồng hồ, ông Tản Đà nói:
- Đến một giờ, tôi phải ra ga. Hôm nay Nguyễn Tiến Lãng ở Huế
về. Trước khi theo Hoàng hậu đi Tây, hắn muốn về qua nhà, để bàn tính cùng ông
cụ Huyện cho nó xong cái việc vợ con đi. Tôi muốn gặp mặt Lãng vì có tí chuyện.
Thế rồi ông Tản Đà đưa tôi xem một lá thư. Lá thư của ông
Nguyễn Tiến Lãng gửi về giục ông Tản Đà gửi sách (?) vào để ông tâu với vua Bảo
Đại "trợ cấp" cho một số tiền năm trăm đồng.
Tôi cũng biết thế vậy. Tôi lặng lẽ trao lại lá thư cho ông Tản
Đà. Vẫn lặng lẽ, tôi nhấp một chén rượu. Rượu lúc này sao cay, sao đắng lạ -
ông Tản Đà sắp được triều đình Huế ban cho năm trăm đồng! Thi sĩ lúc túng còn
gì bằng. Nhưng có phải lần này ông Tản Đà mới được cầm một số tiền to đâu. Từ
năm xửa, năm xưa, có người hiệp khách ở Nam Kỳ đã biếu ông Tản Đà một số tiền lớn
hơn thế. Những nghìn đồng. Người hiệp khách có bụng liên tài ấy đã biếu không số
tiền đó và trái lại, không có đòi hỏi ông Tản Đà một điều kiện gì cả. Với số tiền
ấy, thi nhân đã làm những gì? Thi nhân đã uống được mười vò rượu bồ đào, dùng
thêm được mấy mươi thạp trà tàu, và du lịch thêm được ít vùng nữa với sự thừa
thãi hàng mấy tháng ròng. Giở lại tập thơ làm vào thời kỳ ấy, đã thấy nhẹ hẳn
phần tiêu sắt. Và có nhiều người đã không lấy làm thích lắm vì, đọc lên nó đã
không làm cho người ta lạnh và rùng mình như cái khối thuở tình xa xôi. Số bạc
ngàn lúc trước dùng cũng được có thế thì bây giờ nếu có thêm được nửa cái số
trước nữa, đã chắc hơn gì chưa? Mà rồi từ giờ trở đi, người ta sẽ đưa thi nhân
của chúng ta vào cái thế giới nào đây? Tôi tin rằng từ nay trở đi, cái đời văn
chương của một thi nhân sẽ bước sang một giai đoạn khác. Tôi ngờ rằng, với một
số tiền trợ cấp kia, ông Tản Đà sẽ không già tay để hạ những vần rất sái và tác
phẩm sau này sẽ nhan nhản những câu thơ rất có "hậu'.
Sao lại không như thế được?
Cái buồn của tôi vẫn không vợi, khi ông Tản Đà đọc lại mấy
câu lục bát rất hay làm từ những bao giờ.
Cho vơi hũ rượu, cho đầy túi thơ
Trăm năm thơ túi, rượu vò,
Nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai.
San sẻ cho tôi một gắp chả sốt, ông Tản Đà nói đến kế sinh
nhai.
- Tôi có lên trên báo Ngày nay, nói chuyện cùng Trần Giư
để lại dịch thơ Đường. Nhưng ông ta có bảo công việc ấy bây giờ giao cả cho ông
Thạch Lam.
Chuyến tàu điện Hà Đông đã nổi hiệu chuông ra gần tới Ngã Tư
Sở. Tôi lặng lẽ cầm tay ông Tản Đà, hẹn một ngày khác rất gần đây, sẽ xin trở lại.
Cái ngày khác rất gần đấy mà tôi lại trở lại căn nhà 71, Ngã
Tư Sở, là ngày hai mươi tháng tư, tây lịch là ngày 7 Juin 1939. Tôi trở lại để
không bao giờ gặp lại ông Tản Đà nữa. Tôi, một kẻ ở, đến để ngắm chủ nhân đã là
một người về. Lúc bấy giờ quá giờ Ngọ.
Sớm nay (7-6) ở thư viện ra, Vũ Bằng rủ tôi đi uống, một cốc
rượu mạnh. Dọc đường phố Hàng Bông, người trưởng nam ông Nguyễn Khắc Hiếu mếu
máo tin cho tôi biết rằng ông già cậu vừa mất. Thế là từ phút này, làng rượu đất
Bắc mất một tửu đồ và tao đàn mất một vị nguyên soái. Và cái bữa rượu bún chả
tôi uống hôm đầu tháng ở Cầu Mới với ông Tản Đà là bữa rượu vĩnh biệt một thi
nhân mà từ bây giờ chúng ta có quyền gọi xách mé là Tản Đà, là Nguyễn Khắc Hiếu
không cần chữ đệm.
Ngồi ở một tửu điếm Bờ Hồ tôi vừa quấy cốc rượu Borgia cho nổi
bọt lên, tôi vừa nghĩ đến một câu mà ông Tản đã gở miệng nói giữa bữa rượu hôm
trước.
"- Này bác Tuân, làm thế nào mà lúc chết được để mả ở chỗ
Hàm Rồng Thanh Hóa, ngay chỗ bên cầu treo. Ở đấy mát lắm".
Rồi nghĩ đến cái việc trợ cấp năm trăm bạc chỉ một chút nữa
là thành sự thực, tôi lại mừng cho cái thơm tho của một thi nhân. Có lẽ ông trời
muốn giữ cho thi nhân được trong sạch nên đã sớm gọi ông Tản Đà về.
Người trích tiên đánh vỡ cái chén ngọc ở Tiên cung đã đến lúc
mãn hạn đi đày? "Cái hạc" đã "bay lên vút tận trời"!
Năm mươi mốt tuổi đầu, thế cũng là đến cõi. "Của trời,
tham được có ngần ấy thôi". Tôi nâng cốc rượu còn đầy chỉ định nhớ chứ
không thương thi nhân vừa đặt chân vào cõi bất diệt.
Nhưng lúc tôi vào nhà 71 Cầu Mới, lòng tôi thắt lại. Ông Tản
Đà còn hấp hối và đang thở hắt ra. Cứ đều đều, cứ nhẹ thế cho đến hơi thở cuối
cùng. Hai môi mím khít lại ông Tản Đà có nét mặt răn rúm của một người chết khó
khăn. Phải, chung thân làm một người bất đắc chí, sống đã chẳng được toại lòng,
người nằm sóng sượt đây khó mà đi cho nó nhẹ nhõm được. Tôi bắt đầu cảm thấy
hơi lạnh. Ở đầu giường bệnh, vẫn bên chồng sách bừa bãi đây đó mấy trang bản thảo.
Tập di cảo! Trời? Và lẻ loi ở góc bàn vẫn cái hũ rượu cáp giới ngày nọ. Tất cả,
chỉ có thế thôi, với một đoàn thê tử yếu và đuối!
Cuối thế kỷ trước, một buổi chiều Avril 1939, tại Paris, nhà
viết kịch trứ danh Cenri Becque đã nhắm mắt giữa cảnh nghèo nàn và cô chiếc.
Không có vợ, không có cha anh, không có thừa tự. Becque đã để lại cho đời vẻn vẹn
có mấy vở kịch Les Corbeaux, La Parisiènne, v.v.. Cứ lời viên thừa phát lại thời
bấy giờ làm bản kê khai, thì ngoài tác phẩm kể trên, gia sản của nghệ sĩ để lại,
còn có mấy khoản này:
Một cái tượng bán thân do Rodin nặn cho, một cái nồi nấu, một
cái nệm, tất cả bán đấu giá được 0f50;
Một chồng sách in, bán được 30f,
Một cái va li, bốn chiếc khăn mặt: 2f,
Và ba chai rượu vang Mariani (vẫn rượu);
Và năm vạn ba nghìn quan tiền nợ.
Cái đám ma của Bacque, lẻ tẻ vài lăm người.
Tao Đàn số đặc biệt ngày 1-7-1939
MỘT ĐÊM HỌP ĐƯA MA PHỤNG
Tôi bước vào nhà in báo Con ong và hỏi luôn cái người
to lớn lù lù đang cầm bút trên giấy:
- Gì mà điện thoại nhắn nhe ầm lên thế?
Tam Lang - người to lớn lù lù ấy - bảo tôi hãy ngồi xuống đã, đợi một vài bạn nữa
đang bận tay chữa bài dưới nhà in lên. Tôi nghĩ thầm chắc lại hội họp để cắt cử
người đọc điếu văn Vũ Trọng Phụng ngày mai đây. Ngồi kéo nốt mồi thuốc đang tàn
trong lòng điếu, tôi nghĩ đến người vừa nằm xuống và nghĩ luôn đến cái chết lạnh
lẽo của các giống nghệ sĩ ở đời. Tôi nhớ đến một chiếc lá vàng vừa rụng khoảng
đầu năm nay trên lối đi vắng vẻ nơi ruột rừng văn An Nam. Đầu năm nay, Tản Đà mất.
Chiếc lá vàng ấy chưa kịp mục, thì rừng mùa thu lại hái thêm một chiếc lá xanh
ném xuống đất. Người ta tiếc thi nhân chưa nguôi, thì giờ người ta lại được
khóc một văn nhân nữa. Cái làng văn An Nam vốn đã thưa thớt, lại càng quạnh quẽ
muôn phần.
Chợ Hôm về chiều tháng chín mùa thu, vào lúc gần tan, càng gợi thêm cái mệt mỏi
trong lòng một thứ người sống với một chút hoài bão riêng ở đời.
Tia nắng hanh cuối cùng đã tắt. Gió heo gửi vào cửa sổ tòa báo Con
ong một chiếc lá vàng cuộn tròn mép.
Tam Lang bó những bản thảo và giấy má bừa bộn vào tủ và không vui, không buồn,
bảo tôi:
- Tí nữa đi sang sông. Bây giờ đi ăn.
- Au de là du Rhin?
- Phải.
Thế nghĩa là tối nay, nhân một cuộc hội họp về tin Vũ Trọng Phụng vừa mất,
chúng tôi qua bên kia sông nghe hát ả đào. Thường mỗi khi rủ nhau qua cầu Sông
Cái để thức đêm ở xóm Thượng Cát, chúng tôi sẵn có một câu nói lóng: Au de
là du Rhin. Con sông Rhin đây là sông Nhĩ Hà. Và sau cái bờ sông Rhin này là những
căn nhà hát...thứ nhà hát không sạch sẽ, không sáng sủa. Chúng tôi có cần gì đến
căn nhà rộng sáng, đến con hát đẹp và hay.
Chúng tôi tối nay chỉ cần một nơi để họp nhau cho trọn đêm để sớm tinh mơ ngày
mai, lại cả đoàn kéo nhau qua cầu chạy theo một cái xe đám ma người bạn chết
non.
Thấy người cùng tuổi cùng nghề phải chết một cách sớm sủa mau mắn như thế,
chúng tôi thấy đời là ngắn lắm mà chúng tôi càng phải gần sát mãi nhau lại cho
đỡ lạnh.
Hạng người cầm bút trong xứ không nhiều nhõi gì; mỗi khi có một người ngã vì bệnh
nạn, chúng tôi càng phải dồn nhau lại để hàng ngũ đỡ trống trải. Cái giây phút
này, ta thường buồn cho người vừa chết, ta thường buồn cả cho ta.
Hỡi những người chỉ sống cho luân lý, sống bằng luân lý, tôi không khi nào van
xin các người đừng cười chế chúng tôi sao lại dám khiêu vũ chung quanh một chiếc
quan tài chưa gắn kín sáu con cá. Có lẽ cũng chỉ vì những tiếng chày đang nện
cá nặng nề bên quan tài kia đã dội nhiều vào lòng bọn người sống một cách hốt
hoảng, vô thường định với cái cô quạnh của tinh thần như bọn tôi, nên chúng tôi
đã rủ nhau đêm nay sang sông mà uống rượu cho say, mà nghe hát, cũng cho đến
say, và điên cuồng mà nhẩy đầm quanh một cái xác chết. Có như là gần thời chiến
tranh, lúc này người ta lấy tốc lực ra mà sống cuộc đời mình. Biết đâu ngày mai
chẳng là không còn gì nữa.
Nếu lúc này gọi được hồn Vũ Trọng Phụng lên mà hỏi câu này, chắc anh lia lịa gật
đầu.
Người bạn tội nghiệp của chúng tôi chết. Ngày hôm sau, đưa đám buổi sớm. Nhận
cái tin buồn ấy - chúng tôi hát và hút thuốc phiện. Đã buồn chưa? Tôi muốn hỏi
tất cả những người bạn tha thiết với Phụng, những người sống với phụng sự nghệ
thuật bằng một chuỗi ngày chìm chìm tẻ tẻ, xem những ai là người chịu ngủ cái
đêm ấy ở nhà mình?
Đêm ấy, bên kia sông, nhà hát lạnh như nhà mồ. Bọn ca nhi trông người nào cũng
cao lênh nghênh. Sự nghèo đói làm cho người họ dài hẳn ra. Ngọn đèn dầu lạc chỉ
là một ngọn đèn thờ. Người kép khẳng khiu như một cây khô, cũng chỉ đủ là nhạc
công một phường bát âm cho nổi lên một bản hòa nhạc chết khi người ta dâng cơm
cúng.
Chúng tôi cười một cách điên dại như đám thủy thủ một con tàu ngầm gặp nạn, tàu
cặm vào rốn biển cả.
Chúng ta thương nhớ thằng Phụng nhiều nhất là giữa giờ này. Hỡi ôi!
Một người nói. Một người hút. Một người không làm gì cả. Hai người úp mặt vào
tường, cười và thở dài với cái bóng in trên tường đầy máu rệp và xác muỗi khô.
Tôi đánh trống, gãi hai chiếc roi chầu. Cố đánh cho tử tế, mà tôi nhận thấy tiếng
trống của tôi chỉ là tiếng trống bản.
Và tiếng phách của Tỳ bà đủ là những tiếng sênh chấp hiệu cho một cỗ đòn đám khởi
hành xuống huyệt. Cũng phong phanh như đám ca nhi, chúng tôi cảm thấy đêm thu cứ
thấm dần qua lần vải mỏng sơ mi và đi mãi vào lòng. Những manh sơ mi này phải
nương nhẹ, giữ sao cho vẹn màu hồ để ngày mai đưa Phụng nó lên đường.
"Chúng ta nên đẹp, quanh cái chết một người thân".
Đêm lạnh lắm, nhà hát nghèo, không có chăn.
Chúng tôi hút thuốc lá nhiều như bọn lính Tây cho nó được ấm bụng. Và nằm dịch
mãi vào nhau. Một người kêu không khéo mai về ốm mất. Khói thuốc ba thứ thuốc,
thuốc phiện, thuốc lào thuốc lá - đã có vị chát và ngửi nhiều quá, thấy lạc cả
mùi ngày thường.
Bây giờ giữa cái thấm thía của đêm nhà hát, chúng tôi mới bắt đầu nói đến Vũ Trọng
Phụng. Mỗi lúc nói đến chuyện bạn lại phải kèm thêm những câu: lúc sinh bình, hồi
còn mồ ma hắn.
- Nhiều người còn sống sờ sờ kia, oán thằng Phụng lắm. Chúng nhìn thấy hình ảnh
chúng ở Nghị Hách, Xuân Tóc Đỏ, v.v..
- Thằng Phụng mà đánh đàn nguyệt thì có giết người không? Ừ, nó đàn có những tiếng
nắn dễ thương và lẳng lơ lạ.
- Lại còn cái chướng nữa là hắn thích làm thơ. Các anh thử tưởng tượng xem cái
phản động lực văn chương của quần chúng độc giả sành xem nó ra sao, khi họ đọc
thơ Vũ Trọng Phụng?
Chúng tôi cười rộ. Và tiếp:
- Thế nghĩa là cụ Mính viên Huỳnh Thúc Kháng viết truyện ngắn đấy.
- Và cụ Phan Bội Châu nhận lời giữ mục phê bình "Màn ảnh và sân khấu"
cho một tuần báo văn nghệ.
Chúng tôi lại cười ồ.
Thằng Phụng, về đức tính, có điểm này khá nhất là nhận thầu tờ báo nào là không
hay quỵt tiền anh em viết giúp. Trong bọn cầm bút có những thằng đứng lên nhận
"đẩy" sách và bán bài giúp cho bạn, rồi lại ăn cả tiền nhuận bút
không chia cho bạn lấy một đồng xu nhỏ, kể ra Phụng là một người đáng được nêu
lên làm khuôn mẫu.
- Về tiền nong, Phụng phân minh về chỗ tài thượng lắm, nhưng nhiều khi hắn cẩn
thận như một con người công chức. Về xã giao, hắn quan tâm nhất về chỗ kẻ cười
người khóc. Ai phúng nhà mình một nghìn vàng, một thẻ hương; ai mừng một chai
rượu hắn đều có biên cả. Để rồi chờ đợi mà biếu lại, mà mừng lại. Có ai quen Phụng,
dầu là sơ sơ, mà ốm, là Phụng là người đầu tiên vào cửa nhà thương để thăm hỏi.
- Thế là hắn tốt chớ sao? Nhiều người đọc sách của Vũ Trọng Phụng lầm nhiều về
cái người ở Phụng. Họ đều cho Phụng là nham hiểm, là cơ tâm, là tâm điền xấu. Để
sinh ra ngộ điểm ấy, cái lỗi của Phụng là đã đem những cái thối mọt, cặn bã
nhân tâm vào trong tác phẩm mình đến đầy rẫy.
- Riêng gì Phụng, có chán vạn nghệ sĩ khác, từ trước tới đây, bị hiểu nhầm như
thế.
- Những anh nào ở đây đi lại với Phụng nhiều nhất nhỉ? Bà cụ đẻ anh Phụng, đáng
quý lạ. Thật là một bà mẹ chí từ. Hai mẹ con, một người chí từ, một người chí
hiếu. Cái hồi Phụng ốm lại về dạo sau này. Phụng nằm mãi, buồn tay muốn ngồi dậy
viết, bà cụ ngăn nhiều lắm. Rồi cứ thế mà ngồi quạt cho con cả đêm.
Phụng chết trẻ. Cái đáng tiếc nhất trong đời người bạn chúng ta là Phụng thiết
thực quá. Đời Phụng chưa có một cái mộng nào để mà ôm, chưa mơ màng đến một cái
gì để thỉnh thoảng lìa khỏi cái tẹp nhẹp mè nheo ở đời này. Trong đời Phụng, Phụng
cứ hành động theo suy nghĩ nhiều quá. Chưa có một giây phút nào, hắn dám điên
cuồng lấy một tị.
Tôi nằm tiêm thuốc bên khay đèn, tôi đã đánh cháy điếu thuốc...Tôi nhớ đến cái
chuyện tôi mua một bức tranh lụa bày ở phòng triển lãm mùa đông năm ngoái.
Hồi ấy, thấy tôi rước một bức thủy họa về để đến nỗi chậm cả áo mặc mùa rét đã
dồn về từ lâu. Phụng tìm đến tôi, ngắm bức họa với sự chế nhạo và "chửi"
tôi là một thằng điên và nói: "Tao không bao giờ lại có thể điên như thế".
Tôi lặng thinh. Từ đấy về sau, không bao giờ tôi thuật lại cho Phụng biết những
cái phút điên khác của tôi nữa.
Bạn tôi, sống ở đời, thực là một người thích sự phải chăng quá. Phải chăng khi
đụng chạm với người khác, phải chăng trong cái mặc, trong cái ăn. Nói đến cái
ăn tôi lại thêm buồn cười. Từ khi đánh bạn với Phụng, tôi biết Phụng chưa hề
"mạo hiểm" ăn một thực phẩm lạ bao giờ.
Chỉ hết phở xào rồi lại áp chảo và quanh quẩn chỉ đậu rán, bún chả, bún bung.
Có lẽ có một số tiền vài trăm giắt túi chẳng hạn, Phụng cũng chỉ đòi ăn có thế
và buộc bằng hữu ăn như thế. Nói đến ăn uống, tôi lại nhớ thêm đến một buổi họp
có cả Phụng, có cả Tản Đà. Thấy có ông Tản Đà, Phụng thành tâm đi mua hai gói kẹo
lạc va ni đưa về tiệm hút, cố mời người thi sĩ già.
- Mời cụ xơi kẹo lạc.
- Ông bảo cái gì?
- Dạ, kẹo lạc va ni, giòn và thơm lắm.
- Kẹo lạc! Ăn ra cái quái gì.
Buổi ấy, nhà thơ có tuổi đã làm tiêu hết chút ít cảm tình của Vũ Trọng Phụng.
Ngày thường, Phụng với cái tính cách thiết thực của một người phóng sự, đã
không chịu được Tản Đà kềnh càng rồi... Hai người ấy giờ đã là ma, cùng thở hơi
cuối cùng ở một xóm Cầu Mới, nhà số 71 và 73; cùng yên nghỉ ở một nghĩa trang.
Chắc ở dưới ấy, giờ gặp nhau, hai người tránh sao được nhiều cái lủng củng, nếu
hai hồn ma không chịu nghĩ đến cái tàn lạnh cuộc đời chung của tài hoa mà chịu
đựng lấy nhau!
Trong cái sống phải chăng của Phụng, có một cái phải chăng này đáng cảm động
hơn hết. Là những thứ văn phòng tứ bảo. Mực anh dùng viết là một thứ mực tím ít
khi tươi màu, phần nhiều là loãng và luôn luôn là nhạt, là chết. Giấy anh dùng
là thứ giấy sáu xu một thếp đã kẻ sẵn. Đấy là thứ giấy của vô danh với cái
khuôn khổ của tất cả mọi người. Ngòi bút Phụng thích dùng nhất là cái thứ ngòi
Incomparable, xu ba ngòi. Giấy, bút, mực ấy là giấy, bút, mực của học trò. Thật
là bình dị quá. Thế mà lời văn dùng bút ấy mà ký thác lên giấy ấy lại chẳng
xoàng xĩnh chút nào. Những người cầu kỳ về văn phòng tứ bảo như chúng ta, nghĩ
tới cái tiểu tiết này trong đời văn sĩ của Phụng, họ chẳng nên lấy làm nghĩ ngợi?
Phụng còn phải chăng cả đến những cái thèm muốn về tương lai. "Tao chỉ
mong sao mỗi khi chúng mày đàn đúm kéo nhau về chơi tao, thì có được mãi mãi một
mâm cơm cho tươm tất và cái khay đèn không phải thiếu thuốc". Đấy là câu
Phụng nói vào một buổi chiều tết Trung thu năm nay, khi còn ở phố Hàng Bạc và
trước hôm dọn về Cầu Mới được hai ngày.
Dạo ấy, Phụng vì thấy bệnh ấy phá phổi mình rõ ràng quá, theo lời thầy thuốc,
đã phải rước tĩnh về bày ở nhà. Nếu quả việc một người trẻ tuổi mà vướng nghiện
a phiến là có lỗi với danh giáo thì Phụng đã bằng lòng chịu xấu với dư luận để
cố mà lùi lại kỳ hạn của ngày lên đường. Lên đường về xứ chết. Phong, lao, cổ,
lại, tứ chứng nan y! Vả chăng ông bạn đầu xứ Ngô Tất Tố cũng đã nói riêng với
tôi rằng chả chắc Phụng có qua được mùa rét năm nay không. Mùa lạnh chưa tới. Mới
là có tiết thu thôi mà cái lá xanh đã lìa ngàn, một cái ngàn văn mà cây cối còn
thiếu những cổ thụ um tùm rắn rỏi.
Tôi đã lấy làm bằng lòng tôi là vào những ngày cuối cùng của Phụng, tôi đã
phóng túng hình hài với con bệnh lao chờ lúc lên đường ấy mà ăn, mà uống, mà
hút với Phụng cứ hàng nửa ngày. Phụng cười, chừng muốn hỏi: "Một người
thèm sống, sợ già, tránh chết như mày mà cũng dám coi thường vi trùng lao của
tao thả ra sao?". Những buổi ấy, tôi không cần giữ gìn vì tôi tin rằng làm
thế, sẽ tủi lòng người bạn thân mà ngày giờ đã bị đếm trước. Vả chăng, trong
người tôi ngầm cũng đã nhiều vi trùng lắm rồi. Có thêm một ít của Phụng nữa
cũng không sao.
Nhân Phụng vừa nằm xuống, tôi lại tìm trong đầu xem trong bọn nhà văn trẻ, những
người nào là cầm lỏng được cái chết. Thế Lữ, Tchya, Lưu Trọng Lư, Lan Khai,
Đoàn Phú Tứ, Thạch Lam . . . , đều là những người đủ tư cách để sớm lên đường lắm.
Ngực người nào cũng lép như cái đồng hồ ômêga trông nghiêng. Những người trẻ
trung này có nằm xuống cũng đều nhẹ nhõm lắm đây. Tôi không độc mồm nguyền rủa
ai. Trái lại. Và buồn thương lắm.
Ngẫm đến cái mỏng mảnh về thể chất người đồng điệu, tôi đã tự hào khoe với mấy
bọn nằm trong nhà hát rằng tạng tôi vững vàng và cứ cái thể chất chắc chắn này
thì cứ tha hồ mà lấy đêm làm ngày, cũng còn lâu tôi mới chịu mòn. Một anh bạn
đã làm vỡ điều tin tưởng ấy của tôi bằng một cái thí dụ lấy ở Đinh Huy Hạo, một
người cầm bút có luôn cả sức khỏe và sức mạnh, đã từng viết cuốn "Nòi giống
tốt".
- Trong bọn ta, đứa nào khỏe bạo bằng tên Đinh Huy Hạo. Vậy mà cũng chỉ một sớm,
một chiều thôi.
Tôi buồn rầu, thiếp dần. Thế rồi, trong gian nhà hát đã về sáng, như ngọn đèn bốc
mạnh lúc gần tắt, cả bọn chúng tôi mệt mỏi lại muốn nhổm cả dậy để nói chuyện
thương tâm. Thuốc đã làm chúng tôi vỡ giọng và tiếng nói ồ ồ.
- Phụng chết nhiều người thương tiếc hơn là Tản Đà. Một người chết trẻ bao giờ
cũng lấy được nhiều nước mắt hơn là người chết đứng tuổi.
- Thằng Phụng còn hứa hẹn cho văn học nhiều tác phẩm lắm. Sao trong làng văn,
những người như thế đã chết mà lắm thằng bất tài khác thì lại cứ sống mãi để
anh em phải sốt cả ruột?
Tôi cho rằng nghệ sĩ nên chết trẻ, nếu mình có quyền chọn tuổi chết. Tài sắc
con người ta ở đời, ai cũng chỉ có một thời thôi. Con tằm nhả được tơ óng mãi
hay sao? Sống bấy lâu, nhiều khi cũng hớ. Nó chỉ tỏ ra rằng mình có cái da thịt
cứng quá, trùng khó đục thủng mà thôi. Ai mà chịu được một nàng Tây Thi tóc bạc
da mồi. Một người tướng tài mà không chịu hết tắt với dặm nghìn da ngựa mà lại
chết già trong giường vợ, thì còn gì dại dột hơn nữa.
Chúng tôi thức cả đêm bàn tán về chuyện nên sớm nghĩ đến việc Hội ái hữu nhà
văn. Vào khoảng năm giờ sớm ngày chủ nhật 15-10, bọn tôi lại từ Thượng Cát kéo
bộ về Hà Nội. Trời thu thả sương sớm tựa như vào một buổi thả lưới bắt chim mồng,
chim két. Qua chín nhịp cầu Bồ Đề trên con sông lạnh, bụng chúng tôi cồn cào hết
sức.
- Đám đi sớm quá nhỉ. Bảy giờ đã cất. Đi hết cầu, về đến bờ bên kia sông ít ra
cũng mất 45 phút. Lại còn kéo ra đến ga tàu điện Bờ Hồ. Và từ đấy vào Cầu Mới.
Thế mà cũng vừa thời giờ thôi đấy. Nhanh bước lên! Các anh.
- Phải tìm cái hàng cháo mà ăn chứ không có lạnh bụng lắm.
- Ừ phải đấy, chỉ giữ lại đủ sáu suất vé tàu điện thôi, còn thì chén hết. Còn
được đồng bạc không?
Trời chưa hửng hết. Cái phố Hàng Bè. Chúng tôi sà vào một hiệu cháo lòng vắng vẻ.
Tiết canh, dồi mỡ, lòng chay. Và cháo khói. Xì xụp húp với nhau như một lũ con
đàn một gia đình kẻ khó ăn cháo canh bồi thay đồ ăn chắc, tôi vốn giầu tưởng tượng,
tôi nghĩ đến một cuộc tụ họp của các bạn phóng viên báo hàng ngày, một buổi sớm
tinh sương mùa lạnh ở một quán cơm Cửa Nam rồi đi "xem" hành hình ở cửa
Hỏa Lò vào khoảng những năm 1930, 1931. Chưa bao giờ tôi thấy một bừa điểm tâm
cảm động như sớm nay. Sớm nay húp quanh lợi bát cháo nóng như người phải trả nợ
dần, tôi tưởng đến người chết mà bùi ngùi, tôi nghĩ đến người còn sống lại mà
thêm thương tủi.
Thế mà đám đã khởi hành được mấy phút.
Tôi vốn có một tập phóng sự về tiệm hút. Chính Phụng đã xui gọi tôi viết thiên
"Tàn đèn dầu lạc" vào một tờ tuần báo và lúc góp những bài đăng ấy để
đưa xuất bản thành sách, ở trang đầu, đề lời tặng, tôi viết: "Những tập
phóng sự này, biết nên tặng ai?" ngụ một cái ý đùa giễu cả mình và luôn cả
những bạn thân có duyên nợ với Ẳ Phiền nghiệt chướng.
Theo xe tang, tưởng đến người bạn đã khuất, tôi đã đổi lời tặng trào lộng đó
thành một lời tặng hoài niệm: "Kính, Thành, Tiếc tặng vong hồn Vũ Trọng Phụng".
Tao đàn tạp chí số (12-1939)
VỀ TIẾNG TA
Gửi chị N.
Nghĩ về sự đầy đủ, trong trẻo, đẹp đẽ, sáng sủa, và sang giàu
của tiếng nói Việt Nam, có những lúc tôi ngừng lại đó trang sách đọc, tôi ngừng
lại đó câu viết chưa xuống dòng... mà nhìn trân trân tờ giấy bỏ dở. Tôi nhìn
trân trân vào giữa khoảng không ngoài cửa sổ lộng trời xanh, mà lòng thấy dào dạt
lên những lời cám ơn. Tôi lặng cúi xuống mặt trắng giấy trắng tinh đang om sòm
những tiếng mời chào kia mà nói bật lên những lời biết ơn đối với đất nước ông
bà tiên tổ. Thấy chịu ơn rất nhiều đối với quê hương ông bà đã truyền cho tôi
thứ tiếng nói đậm đà tôi hằng nói từ những ngày mới ra đời. Mà rồi cho đến cái
phút cuối cùng không được chứng sống nữa, thì câu cuối đời của tôi cũng vẫn lại
cứ nói lên vẫn chỉ bằng cái thứ tiếng nói ruột thịt tủy xương đó mà thôi. Tôi
biết rằng cái ngôn ngữ thừa tự tôi đang nói đang diễn viết ra đây, chính nó là
kết tinh bởi nhiều trăm nghìn năm công sức lao động của tổ tiên lưu truyền lại.
Trong hương hỏa thừa hưởng đây, lẫn vào với vô số thanh âm từ điệu, thấy như hiển
hiện lên không biết bao nhiêu là mồ hôi và máu huyết của đời đời ông bà khai rừng,
vỡ ruộng, mở cõi, giữ nước, chống giặc, tiến lên tới đâu là xây dựng ngôn ngữ tới
đó. Nay mỗi lần đụng tới di sản nhiệm mầu ấy, thấy bổi hổi bồi hồi, như vấn
vương với một cái gì thiệt là thiêng liêng vô giá, mà tất cả trữ kim trữ ngân của
tất cả ngân hàng thế gian cũng không sao đánh đổi được Có những lúc lại lẩn thẩn
nghĩ dại dột rằng bây giờ tự nhiên mình lại mất trí, mà quên hết mà bay hết khỏi
đầu mình chỗ kho tàng tiếng nói Việt Nam này, thì có lẽ mình... mình sẽ phải chết
mất. Nhưng không, không thể nào quên được cái tiếng Việt Nam hữu cơ, cái tiếng
nói Việt Nam linh diệu ấy được. Có đến chết cũng không quên được. Có chết, càng
vẫn nhớ.
Sự tinh vi linh diệu trong ngôn ngữ thần diệu cố hữu của ta, nó có nhiều vẻ,
càng chịu khó tìm, càng thấy. Ở đây, tôi hãy tạm dẫn ra một số từ liên quan đến
cái chết, đến sự truyền chủng trong đời sống chúng ta.
Nói về cái chết của con nhỏ tuổi, của người lớn, thì nói: "Cám ơn ông hỏi
thăm. Em nó đi (hoặc em nó ngủ) được gần tháng nay".
"Cụ tôi về từ năm ngoái". Ông ấy mà nằm xuống thì
anh em nhà kia loạn to...". Nói về cái chết của nhà chùa thì phải dùng chữ "tịch" nhà
sư ấy "tịch rồi", có nghĩa là đã được thoát khỏi sự sống náo động
để hoàn toàn trở lại cái chỗ tịch mịch tuyệt đối. Có khi vì muốn trang trọng
hóa cái chết của thân quyến mình, mặc dù người chết đó không là nhà tu hành,
nhiều người cũng dùng chữ "tịch" (người Việt Nam, nếu không đi đạo,
thì hình như ai cũng theo Phật cả, phải không!).
Người có vị trí xã hội thời cũ, hoặc cao hoặc thấp mà chết đi thì gọi
là "hết lộc" (lộc trời). Tránh đi tên thật của cái sự chết
đáng buồn, và cho nó có vẻ "đáng vui" hơn, ông bà chúng ta lại gọi nó
là "trăm tuổi", lấy cái sống trung bình tối đa ra mà gọi cái chết. Có
khi tuổi người chết mới chỉ bốn năm mươi, mà người ta cũng nói "nhân dịp
thầy mẹ chúng tôi được trăm tuổi. . . !" và đối với những trường hợp chết
già thỏa đáng vì đủ tứ đại đồng đường người ta tự cho phép coi đó là một điều
vui mà gọi cái việc ấy là "ăn xôi nghe kèn", hoặc gọi cái trăm tuổi
đó bằng một giọng vui ghen tị, bằng một câu nó hàm cái nghĩa rằng chết như thế
không oan buồn gì đâu: "Về việc hai năm mươi (2 x 50) cụ nhà tôi, tôi thiển
nghĩ nên sắm sửa nhiều vào cho các cháu...". Những cách nói giầu có của ta
về cái chết, tôi nghĩ rằng đó cũng là một nét cố hữu về sự thần diệu của ngôn
ngữ Việt Nam 1.
Ngay cả đến cái việc bốc mả cũng dùng chữ thay áo cho nó nhẹ đi.
Đối với sự chết, ngôn ngữ ta đã có những tiếng dùng và cách nói đại khái là như
thế. Nay ta thử xoay sang nhìn phía khác của sự sống (chẳng hạn như vấn đề truyền
chủng qua cái khâu giao hợp sinh lý) thì tiếng Việt Nam cũng chứng tỏ sự giàu
có của mình bằng cách dùng nhiều tiếng nhiều từ, và phân ra thứ chữ nào thì chỉ
cái việc ấy ở con người, thứ chữ nào thì dùng cho loài cầm thú. Ví dụ người ta
nói con gà sống đạp con gà mái, con vật gì đó phủ con gì
đó. Trường hợp chó lợn, đã dành riêng ra một tiếng: lẹo. Và chữ lẹo dùng
cho gia súc đó lại lấy ra từ loài thực vật, khi cái cây nào ra quả sinh đôi,
làm cho hai quả không tách ra trên cành mà lại díu vào nhau: "quả đào lẹo".
Với con người thì trang trọng mà dùng hai tiếng "ăn nằm với
nhau". Lấy tiếng thanh mà chỉ cái việc thô, ấy cũng là cái tài tình cổ
truyền của tiếng ta vậy. Mà đến ngay cả cái việc ấy ở con người, cái vật ấy
cũng có chữ riêng, tùy theo lứa tuổi. Ví dụ như ở cái tuổi hồn nhiên được có
quyền ở truồng hoặc mặc quần hở, thì cái quý vật kia phải gọi là chim,
là vịt thì mới là người sành sỏi tiếng Việt.
Phân biệt cái gì là dành cho vật, và từ gì là dành cho con người, sự tinh diệu
bản sắc của ngôn ngữ ta lại với tới cả mặt giải phẫu và thân hình sinh vật. Ở
con vật (nhất là con vật để ăn thịt) thì không gọi là phổi, thận, máu, huyết mà
lại gọi là bấc, bồ dục, tiết (hoặc son, hồng hoa) 2.
° ° °
Khen những cái hay trong ngôn từ một nhà thơ, ta thường dùng
tới hai tiếng câu thần. Cái được nêu lên thành một thứ thần thường tạo nên
bởi sự tinh luyện về hình tượng, bởi sự hợp kim tài tình về từ âm.
Trong Chinh phụ ngâm và Kiều rất nhiều chữ thần câu thần mà
càng đọc đi đọc lại nhiều lần, càng như đi vào những cuộc phát minh hứng thú
khó lòng chấm dứt. Sảng khoái và lâng lâng biết bao khi đọc khi ngâm: "Trống
tràng thành lung lay bóng nguyệt", "Bóng trăng đã xế, hoa lê lại gần",
"Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày".
Hồi còn nhỏ, đứng hầu đóm và thay bã trà trong các cuộc bẻ thơ tán thơ, cả cổ
kim cả nôm chữ giữa cha tôi và các cụ nhà nho, tôi đã từng nghe lỏm được những
lời phẩm bình sang sảng về những câu vừa dẫn ở trên. Đến mấy câu Chinh phụ
ngâm và Kiều (dẫn ra trên đó) thì các cụ đều lớn tiếng mà đồng
thanh: "Thi trung hữu quỷ!". "Ra trong những câu thơ này, đều có
quỷ, thưa các cụ!". Chữ ma quỷ đây dùng với cái nghĩa thánh thần, tức là
những thứ ẩn ẩn hiện hiện ghê gớm tài quái, người trần phàm như các cụ cảm thấy
khó mà đạt được. Ấy cũng là một cách khen của một lớp các cụ sống ở một cái thời
mà khoa học chưa phát triển ở nước ta. "Trong thơ có ma quỷ thánh thần xui
khiến!". Tỏ vẻ khoái hoạt hả hê về câu quỷ câu thần, có cụ vỗ đùi đen đét,
có cụ nhắp rượu chép miệng, có cụ vươn vai đột ngột đứng lên khỏi chiếu thơ, ra
võng nằm mà ngâm nga nho nhỏ giọng, hoặc đi đi lại lại ngoài sân cuội, vừa đi vừa
tủm tỉm gật gù.
Nay ở nước ta khoa học đã có, ý thức về khoa học cùng là kỹ thuật đã được phổ
biến thấu tới huyện tới xã, tôi đọc đến những câu thần Chinh phụ và Kiều,
tôi vẫn như tiếp tục kéo dài thêm nữa những xúc động nghệ thuật ấy của các cụ
nhóm tao đàn ngày xưa. Đúng thế, những câu thần kia vẫn mang trong nó một thứ
"ma lực", một thứ "quỷ!", một thứ "thiên", một thứ
"tài" gì tạo nên bởi sự lành nghề, bởi sự thần thông của những người
thợ cả về tiếng nói Việt Nam.
Chiều hôm hoặc đêm về sáng, một mảnh trăng treo trên lưng một cái thành dài. Rồi
tiếng hịch quốc phòng, rồi là tiếng trống động quân. Câu thơ thần không chịu
nói trống giục vào lòng người, mà lại đi nói đến vầng trăng động lay trên thành
gạch. Trống trận rung càng mau càng rền nhịp, trăng càng méo càng nhòe càng di
động. Bóng nguyệt lung lay mà chiếu vào những tấm lòng náo động của một đêm
truyền hịch. Chữ "động" ở nguyên bản chữ Hán của Đặng Trần Côn mà
Đoàn Thị Điểm chuyển thành "lung lay" ở bản dịch Nôm, càng chứng minh
sự tài tình sinh động của tiếng ta. Tai tôi chưa nghe người nào chê câu Chinh
phụ đó, bởi cái lẽ giản dị rất dễ hiểu: nó hay quá (cả về lời, ý, ảnh, âm, nhịp)
thì còn chê cái... cái gì! Và về những lời khen nó, cũng nên phải lọc ra một số
lời khen có mang tính phân tích thật là đời sống mới. Tôi đã nghe một anh bạn
trẻ ở ngành địa chất mang khoa học ra mà đánh giá cái hay của câu thơ tiếng trống
vần vò bóng trăng cũ trên mặt thành xưa. Vẫn còn văng vẳng bên tai tôi cái giọng
hừng hực hấp tấp của anh nói vào một buổi đó ở rừng Tây Bắc, đống củi cháy suốt
đêm cách bờ sông Đà hàng ngày đường: "Nghề của cháu (!) là đi rừng đi núi
chỗ đầu sông ngọn suối, cháu càng coi văn thơ là người bạn đường của cháu. Cho
nên cháu rất thích tìm hiểu văn học, bên cạnh cái thích dĩ nhiên của sự tìm hiểu
đất nước.
Câu Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt thấy nó thỏa mãn cách nhìn
của những người làm công tác khoa học tự nhiên như chúng cháu. Đây là cách nhìn
của người có kiến thức khoa vật lý, nhìn mặt trăng một cách tinh tế, nhìn mặt
trăng qua một lớp không khí đang bị xô dồn bởi nhiều vòng sóng âm phát tỏa ra từ
một nhạc cụ trầm hùng. Thời ấy ta chưa giảng dạy gì lắm về môn học vật lý,
nhưng sao đã có những câu thơ nhiều tính khoa học như thế. Câu thơ Chinh phụ
đó, nghĩa rộng nghĩa bóng nó rất hay, mà nghĩa đen nghĩa hẹp thì thật là chặt
chẽ - chặt chẽ của tính khoa học, khoa học vật lý. Câu thơ cổ mà lại đầy vẻ hiện
đại. Thấy các cụ ta xưa cũng tài giỏi thật. Chả bù với bây giờ, thấy có một số
câu thơ tả gió nhất là tả mây thì lại bất chấp cả quy luật khí tượng...".
Đến như câu Kiều "Bóng trăng đã xế, hoa lê lại gần" thì
càng rõ cái tính khoa học gửi vào động từ xế và lê. Nó đẹp một cách thật là vật
lý, rất vận động và tạo hình. Một bông hoa tĩnh tại và một nguồn sáng chuyển chỗ;
bóng trăng càng tà xuống thì bông hoa càng lết trên mặt đất vườn mà nhích thêm
về phía nền nhà. Có như dưới trăng suông, ngồi buồn tình mà nhìn một cái đòn
cân, đầu đòn này là bóng nguyệt, đầu kia là bóng hoa. Nguyệt nặng hơn hoa, bóng
trăng càng trĩu xuống thì bóng hoa càng bồng, càng bồng bềnh lên, từ vườn thấp
mà bềnh lên thềm cao.
Bởi câu thơ có cái nghĩa đen tinh vi thấu đáo về vật lý như thế mà nghĩa bóng của
nó càng nhiều hấp dẫn về mỹ học.
Cũng như nhiều vị, tôi cầm chắc rằng các cụ ta làm ra Chinh phụ ngâm và Kiều
không được học vật lý, âm học, quang học như thế hệ trẻ ngày nay tiến quân vào
khoa học. Nhưng tôi phải hiểu rằng những câu thơ hay đó phải là kết quả của một
trí quan sát thiệt là mẫn tuệ tinh tế ở những nghệ sĩ về tiếng nói. Mà sự quan
sát lại là một đức tính dính liền với cả người làm khoa học, cả người làm nghệ
thuật. Nhiều định luật, định lý khoa học cổ kim, nhiều sáng chế phát minh Đông
Tây đã bắt nguồn từ sự quan sát của con người đứng trước tự nhiên.
Nhìn mãi và nghĩ mãi về trái táo rụng xuống, nghe mãi và suy mãi về hơi nước
sôi đội nắp ấm lên, mà các bậc bác học ấy làm cho sự sống con người thêm tốt
thêm sáng.
Cũng như nhà thơ bậc thầy nước ta nhìn mãi, nghĩ mãi về cái bóng trăng kia cùng
là cái bông hoa nọ, mà đời sống văn hóa mình mới có được thêm sự giàu sang và
nó vui đẹp hơn hẳn lên.
Chỉ quan sát không thôi, không thể trở nên một nhà thơ. Nhưng ở trong nhiều câu
thơ thần sáu tám của Nguyễn Du bậc thầy, phải thấy cái bút lực ấy đã dựa vào một
sự quan sát quả là sắc nhạy thông tuệ. Không thế, thì không thể có được cái
tính cách hiện thực trữ tình như thơ Kiều. Trong vô số câu tài tình ấy, ta hãy
lấy vội ra hai câu "Xập xè én liệng lầu không - Cỏ lan mặt đất, rêu
phong dấu giày" mà thử "bình công chấm điểm" cho người thợ
Nguyễn Du (người thợ cả được tôn lên làm bậc thầy đã cơi cất thêm mấy tầng cho
lâu đài ngôn ngữ Việt Nam) và thử xem xem cái người thợ ấy đã lao động nghệ thuật
như thế nào. Trong hai câu sáu tám đó, tôi nghĩ rằng phải chấm điểm rất nhiều
cho động từ phong. Ở đoạn cuối truyện này, chàng Kim tìm đến chốn cũ của người
xưa, giữa cái sân Kiều đó, ta có thể hình dung ra được một thứ ngoại cảnh mà sự
vật cũng tầm thường vậy thôi - nếu không là ảm đạm gầy nghèo. Một khoảnh sân đất,
mấy vết chân in trũng xuống từ một trận mưa nào... Và trên những vết đọng của
dĩ vãng, ẩm ướt đã sinh nở một thứ rêu lưu cữu.
Hoàn toàn là một tấm tranh tĩnh vật: sân mốc và vệt xanh của sự vắng mặt. Sự vật
ở ngoài cảnh thì nghèo lạnh như thế, nhưng tiếng nói đặc sắc của người thơ đã
làm cho nó ấm cúng hẳn lên. Mà cũng nên vận dụng thêm đến cái lối nói của điện ảnh
ra mà tìm hiểu tỉ mỉ kỹ càng về phẩm chất tạo hình của ngôn ngữ Nguyễn Du nhé.
Khởi đầu là những miếng phim toàn cảnh thu cả cái sân rộng, rồi ống máy đi dần
vào chi tiết trên diện sân, và cuối cùng gí máy vào một cái khuôn đất in hình một
cái đế giày. Trên thành vết hài, ống máy soi thật sát vào những mảng rêu rờn rờn
lên một điều hy vọng nào. Cái hy vọng của chàng dò la tung tích nàng - nàng mà
rêu thương rêu nhớ vẫn "phong" lại gót hài. Rêu trong tiếng nói tinh
diệu Nguyễn Du đã thành hẳn một thứ phong bì xanh của bức thư tình bỏ quên lại
giữa trời. Trong quá trình lao động nghệ thuật, để tìm cho ra được cái hình tượng
nghệ thuật "phong bì rêu niêm phong lại hương thơm hài xưa" này,
không rõ Nguyễn Du đã mất bao nhiêu ngày giờ độc thoại trong chiếc cáng, trong
lòng đò, trên lưng ngựa, và trên những tấm gỗ bộ ngựa cố hữu của gia đình Việt
Nam. Chỉ biết rằng Nguyễn Du đã đặt cả tấm lòng mình vào cái phong bì xanh rêu
kia với tất cả sự trân trọng của một người tình nhân, của một nhà ngôn ngữ đa
tình đa cảm. "Lòng thành" ấy "đã thấu đến trời", trời đây
hiểu theo cái nghĩa lồng lộng một bầu trời sáng lành đang ngân hưởng những lời
trong lọc - hiểu theo cái nghĩa là đỉnh vút của ngôn ngữ, là cái vẻ ngất trời của
cách nói Nguyễn Du nhiệm mầu nó góp rất nhiều công của vào cái thần diệu bản sắc
của ngôn ngữ Việt Nam.
Sự trong sáng về ngôn ngữ ở mỗi người viết văn là một vấn đề đã đành của tấm
lòng và khối óc (tâm mình thành, trí mình thông, thì lời mình sáng đẹp). Nó còn
là cái vấn đề của tai của mắt mỗi người viết văn nữa.
Cái điều mình nghĩ được và cái điều mình cảm thấy, nay đều đã viết ra xong,
đúng như mình đã cảm nghĩ, và lại viết ra bằng một thứ ngôn ngữ mình tin là khá
nhiều hiệu năng. Đã nghĩ kỹ rồi mới cầm vào bút mà viết ra.
Nhưng khi đã viết ra rồi, chưa có nghĩa là đã xong hẳn.
Viết ra, nhưng mà đọc lại. Đọc lại để mà hoàn chỉnh cái đã viết tới. Đọc lại bằng
mắt, đọc lại bằng tai. Đọc thầm bằng mắt, và đọc to lên bằng miệng để cho tai
nó cũng đọc (tức là nghe) với. Tự mình duyệt lấy lời văn lời viết của mình, tự
mình thẩm tra lại cái ý tốt, cái lời trong của mình, trong năm giác quan đem ra
làm công cụ để kiểm nghiệm, cặp mắt soi xuống dòng trang vẫn là giữ vai trò cầm
trịch trong việc nhận dạng và đánh giá từng bước cho bộ điệu của đoạn văn.
Nhưng cặp mắt chưa đủ để lọc hết mọi bụi bặm vẫn còn bám theo cái tiếng vừa mới
phát biểu của mình. Cho nên phải dùng cả cái tai mình nữa. Và để phát huy tột
cùng hiệu năng của tiếng nói mình, có khi phải dùng tới cả năm giác quan. Ngoài
việc soi lắng, hình như còn phải ngửi lại, nếm lại cái lời mình viết ra kia,
trước khi bưng nó ra cho người khác thưởng thức (theo chỗ tôi biết, hình như
câu gì, trang gì mà mặn - dù có mặn đắng hoặc mặn chát - cũng vẫn chữa dễ hơn
là những câu nhạt và những trang nhạt - khác hẳn với sự cấp cứu chữa chạy trong
việc nhà bếp). Có khi lại như chính lòng bàn tay mình phải sờ lại những góc cạnh
câu viết của mình, xem lại xem có nên cứ gồ ghề chân chất như thế, hay là nên gọt
nó tròn trĩnh đi thì nó dễ vào lỗ tai người tiêu thụ hơn.
Tự mình kiểm tra về tính trong sáng của văn mình, cặp mắt vẫn là ở hàng đầu, rất
cần, nhưng một mình nó, riêng tôi cho là chưa đủ. Có những tiếng những chữ mỗi
lần vác từ trong kho dân tộc ra mà dùng, cần phải gieo nó xuống, cần phải gõ nó
lên mà đo lại cả những vòng ngân vang hưởng của nó. Người đã làm nổi thơ, thì rất
hiểu sự quan trọng của tai, cái tai nhạc của nhà thơ giúp việc đắc lực cho sự
trong trẻo của lời nhà thơ. Mà người làm văn xuôi càng phải hiểu điều này. Những
bạn dịch sách nghiệp dư mà định chuyển văn học ngoài thành văn ta, bên cạnh cái
việc tinh thông về chữ và nghĩa, càng cần phải luyện cái thứ tai thẩm âm này. Bởi
không thấy được cái tiềm lực kín đáo của chất nhạc trong mọi cái hơi của văn
xuôi, cho nên đã bục ra một số hiện tượng tê thấp và thấp khớp tại chỗ văn xuôi
này, tại chỗ văn xuôi kia. Và quan niệm về chất nhạc của văn xuôi, hãy khá đừng
lẫn nó với cái kiểu văn xuôi biền ngẫu con hoang của thể phú! (Cái thứ nhạc biền
ngẫu ấy đã từng phá đám mất bao nhiêu là trang văn xuôi có thể là hay).
Cho đến nay tôi vẫn là một kẻ thèm khát về sự trong sáng trong tiếng nói Việt
Nam. Thèm được xem (nghe thì đúng hơn là xem) một vở kịch nói thật trong sáng về
ngôn ngữ. Mà những trang văn xuôi ấy lại được "nói lên" bằng những
cách nói nhiều sáng tạo âm nhịp và dấu chấm dứt của những diễn viên cũng bậc thầy
về ngôn ngữ Việt Nam.
Chao ôi, quý vậy thay cái sân khấu? Cái sân khấu mới là chỗ đọ tài cuối cùng của
một nền văn xuôi sum suê và trong lắng. Thứ văn xuôi nào đã đưa lên sân khấu mà
không tứ tốt từ đẹp, mà lỗi nhịp lép lời thì nó hiện nguyên hình ngay (ở cuốn
sách chỉ đọc bằng mắt, còn xuề xòa nhập nhằng được Mà trang nào đã nhuần nhị
trong trẻo thì cái thứ văn xuôi ấy còn ngân mãi cho tới sáng hôm sau, cho tới
những buổi sáng mãi mãi của sau này.
Những lúc bàn về sự trong sáng của ngôn ngữ Việt Nam, bên cạnh cái ý nghĩa
trong trẻo trong lắng, tôi phải nghĩ tới ngay một mặt khác nữa của câu chuyện, ấy
là sự giàu có. Tôi nghĩ rằng trong sáng không khi nào lại có nghĩa là đạm bạc,
là nghèo còm trong tự vựng đem ra dùng, trong cách cảm trong cách nghĩ, và nhất
là trong cái cách nói ra những cảm nghĩ đó. Trong sáng càng không có nghĩa là
đơn điệu. Bởi vì có nhiều vẻ trong: nước mưa, nước lọc, nước cất, giấy kính,
cát nung chảy rồi ép bằng đi để lắp khuôn cửa sổ, rồi tới pha lê gọt, tất cả đều
là trong, nhưng không giống nhau về chất trong. Và sáng cũng có những nguồn
khác nhau: sáng của dầu cá, của lạc, của dầu than đá, dầu ô liu, của điện bóng
tròn và của điện ống dài màu sáng xanh. Lại có cái sáng nhấp nháy của đèn biển,
lại còn có cái sáng lóng lánh của ngôi sao trên đỉnh đầu. Trên cơ sở cộng đồng
của ngôn ngữ Việt Nam càng ngày càng phải giàu có phấn chấn lên nữa, mỗi người
viết văn chuyên nghiệp phải có lấy cái phong cách, cái vẻ riêng của mình về sự
trong sáng. Mỗi người như một cây nến thắp lên: sáp ong cũng thắp sáng, mỡ bò
cũng thắp sáng, và ánh cháy của nhiều thứ nến vàng đỏ trắng cháy nhanh cháy chậm
đều hòa kết lại thành cái tỏa chói chung của một lâu đài tiếng nói mà tầng dưới
tầng trên đều sáng trưng.
Sự giàu có dĩ nhiên bao giờ cũng là một sự bề bộn. Bề bộn các thứ các cái, các
cái "nhiều", cái "lắm". Nhưng phức tạp thường lại là dấu hiệu
của sự làm ăn khấm khá mãi lên. Đời sống không phải là một sự thu mình lại
trong giản đơn, mà nó càng ngày càng bành trướng lên vì những của cải vật chất,
nhưng của cải tinh thần do chính tay và đầu mình chế tạo ra. Muôn hình vạn vẻ vật
chất tinh thần ấy phản ánh vào ngôn ngữ ta. Sự sống bên ngoài càng mở ra càng
dâng lên ùn ùn, ngồn ngộn, vù vù. Tiếng nói của nhà văn phải là tiếng nói của
thời đại. Thời đại mình càng có tổ chức càng giàu về sự đời và tình người. Tiếng
nói ta cũng phải giàu theo. Trên cái cơ sở cũ vốn đã phong phú của ngôn ngữ,
nay ta phải dậy cái vốn đó lên nữa mà đầu tư nó vào thời đại. Quần chúng lao động
sản xuất và chiến đấu để bảo vệ sự sản xuất, sản xuất chiến đấu tới đâu, lại
đóng góp thêm tới mức đó vào kho tàng tiếng nói. Phía người làm nghề văn, càng
phải đẩy mạnh và nâng cao lao động nghệ thuật, càng phải góp nhiều. Muốn hay
không muốn, ngôn ngữ chung của chúng ta rồi sẽ là một triệu phú.
Ta không sợ nghèo, bàn nghèo nữa. Mà nay ta lại lo về cái sự giàu, cái sự đã
giàu và đang giàu thêm mãi về cả chữ dùng, về cả cách nói của ngôn ngữ Việt
Nam. Làm thế nào để cứ giàu có mãi hơn lên, mà càng giàu lại càng đẹp. Nói một
cách khác: bằng lòng và gắng sức cho thành một người giàu có vô kể trong sự phồn
vinh chung của tiếng Việt Nam. Nhưng hết sức chống lại mọi thứ "trọc
phú" trong đời sống ngôn ngữ ta. Giàu có, mà không vẩn đục-vẩn về tư duy,
đục về mỹ lý.
Tạp chí Văn học (3-1966).
--------------------------------
Về những uyển từ (euphémisme) quanh cái chết, tôi cho tiếng
ta giàu có hơn hẳn cả tiếng Pháp. Hình như tiếng Pháp chỉ có vài cách nói
thôi (ví dụ: a vécu, nghĩa là đã sống xong, trọn). |
|
Tiếng Pháp cũng có những cách nói tinh vi như thế, để gặp
nhau với tiếng ta về mặt này: poumon-mou; estomac-tripes, rein- rognon. |
TẲN MẠN XUNG QUANH MỘT ÁNG "KIỀU"
Hà Nội 1939. Một nhà xuất bản người Sài Gòn tính ngông định
in một bản Kiều không chữ mà chỉ toàn tranh phụ bản cả màu, cả đen chì, cả đen
mực. Một anh bạn họa sĩ giải thích về phác thảo của mình vừa trao tay nhà xuất
bản: "In được hay không, tùy ông. Nhưng ông hỏi, thì tôi cũng cứ phải nói
thêm, bên cạnh cái cách nói độc lập tự lực của hội họa. Phụ bản tôi vẽ hai người
đàn bà đã hết tuổi con gái. Một béo, một gầy. Một cái đẹp đôn hậu phúc phận đứng
bên một cái đẹp bạc mạng mây bèo. Cả Truyện Kiều, theo tôi chỉ là câu chuyện
hai cô gái nhà lành. Chuyện hai chị em. Em, phúc hậu, cho nên mặc dù không biết
bơi, nhưng động xuống nước thì nổi. Còn chị, bơi giỏi, nhưng nhẹ thịt nặng
xương, càng bơi càng chìm; vì đau nghĩ nhiều, quẫy lắm, nặng mãi mình ra. Tôi
dùng bút pháp chân dung toàn thân để tả tâm tính nhân vật. Bức chân dung sóng
đôi này tôi không cho một tí xiêm áo nào cả. Có thể vẽ người ta có đầy đủ quần
áo, nhưng lấy da thịt khỏa thân mà tả tim óc người mình vẽ đó, tôi tưởng cũng dễ
hiểu, nếu mình nhìn cho thật đến nơi đến chốn. Thêm nữa, quần áo nhiều khi vướng
cho sự diễn tả của người tạo hình. Quần áo là vật ngoài của thân, nó giả, nó
không thật như làn da thớ bắp bản thân. Vả chăng, áo quần suốt gầm trời này lại
hay luôn luôn thay đổi mốt này mốt nọ. "
Trong Kiều có câu "Đạm Thanh một bức tranh tùng treo
trên" và lại có câu "Trên treo một tượng trắng đôi lông
mày". Treo trên ý nghĩa khác với Trên treo như thế nào? Trên treo, tức là
hành văn lối điên đảo thể, nhưng sao lại không dùng thể thuận mà lại dùng thể
nghịch?
Trạng từ Trên đặt trước hoặc đặt sau một động từ Treo, có cái gì
là dụng ý của tác giả không? (chữ trên và chữ treo đều là loại phù bình thanh cả,
cho nên ở đây ta gạt ngay được ra cái lý do nhu cầu về nhạc luật bằng trắc của
thơ lục bát).
Một số bậc sành sỏi Kiều ở ta có thể coi cái điểm tôi gợi lên đây chỉ là một
chi tiết vụn vặt. Tôi cũng đồng ý là vụn là vặt, nhưng không có chi tiết thì
sao có làm được ra đại cục (mà ta thì ta lại đang nói về một đại cục văn học của
ta, thế giới sẽ kỷ niệm năm nay). Riêng tôi nghĩ rằng trong cái chi tiết treo
trên cùng là trên treo, nó không phải chỉ là một sự vô tội vạ không có dụng ý
gì của người làm thơ viết thơ. Mà ở đây, có vấn đề mỹ học. Mỹ học gắn liền với
vấn đề đức học (tôi tạm dịch chữ éthique). Và từ chi tiết đó, thử soi ra
các câu khác ở Kiều, các chi tiết khác ở các câu Kiều; có như thế, sự thưởng thức
Kiều mới thêm rộng, thêm sâu. Cứng cáp mà uyển chuyển, mạnh mẽ mà vui hòa. Sáng
sủa mà đẹp đẽ. Nội dung mà hình thức vậy. Và nói đến nghệ phẩm, không thể không
nói đến hình thức - cái hình thức sát cánh của nội dung.
Không thể tách nội dung, hình thức phải khuôn vào nội dung. Và nội dung lại
cũng nhờ vào hình thức. Tôi là người biết hãi sợ chủ nghĩa hình thức trong nghệ
thuật, nhưng tôi xin trộm nghĩ rằng: ví không có thứ nhịp sáu tám lỗi lạc lâng
lâng ấy của Nguyễn Du thì cũng khó mà truyền mãi cho hậu sinh cái tiếng đồng vọng
của Thúy Kiều, dù cái tiếng ấy có là gì gì đi nữa.
Người sành Kiều, lấy ra khỏi sách từng mảng đàn, từng mảng thơ về Kiều đàn. Nói
chung, thường bảo là có bốn buổi đàn. Cho Kim Trọng buổi đầu và buổi thứ tư, buổi
thứ nhất từ câu 465 tới 496; buổi thứ tư từ câu 3192 tới 3214. Buổi thứ hai
dành cho Hoạn Thư và Thúc Sinh, từ câu 1849 tới câu 1864. Buổi thứ ba, đàn hầu
Hồ Tôn Hiến "nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan" (Tản Đà), đoạn
này từ câu 2568 tới 2582 (toàn bộ thơ Kiều có 3254 câu sáu tám).
Ấy nhắc về những đoạn Kiều đàn, thường chỉ nói là bốn. Theo tôi thấy thì nó là
bảy kia. Và trong bảy chỗ, thì có chỗ diễn tả cụ thể nhiều lời: chỗ 32 câu, chỗ
23 câu, chỗ 16 câu, chỗ 15 câu. Còn ba chỗ khác, chỉ đả động thoáng qua, chung
chung. Như lúc đàn cho Mã Giám Sinh đang "đặt giá" Kiều, để Kiều chuộc
cha: "Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ" (câu 640). Như
lúc ở nhà hát đàn cho Thúc Sinh (câu 1298): "Bàn tay điểm nước, đường
tơ họa đàn". Như lúc đàn riêng cho Hoạn Thư (từ câu 1777 tới câu 1781):
năm câu này cũng tính chất chung chung, nhưng đã đi dần vào cụ thể để chao ôi!
Nói đến cái sự nghệ thuật Thúy Kiều khi bị đem ra mà hành hạ, đọa đày năm câu
thơ, để nói một cách nôm na như thế này:
Hoạn Thư bèn thét: "Con kia, ra đây đàn cho bà lớn nghe!" - Kiều bèn
sợ quá mà "Lĩnh lời nàng mới lựa dây" - Sau đó bề trên
"... xem cũng thương tài" và có thể ban khen chi đó. Trong bảy buổi
biểu diễn dài ngắn khác nhau, dĩ nhiên đẹp nhất vẫn là hai buổi dành cho
"người tình" và cho "người cũ" mình nể lòng. Khen cái tài
Nguyễn Du ở chặng đàn này, Tản Đà phê: "Nghe văn kém chi nghe đờn".
Cái buổi đàn chung cho Thúc Sinh Hoạn Thư rất nhiều tính kịch, đem ra làm được
một màn sân khấu không lời, chỉ cần chiếc đèn diễm huyền xoáy soi vào hai bàn
tay hầu đàn, và đôi mặt vợ cả thâm ác và anh chồng hèn nhát kia.
Về Kiều đàn, lại đờn những hai lần cho Kim Trọng, thấy rõ cái chí tình của Nguyễn
Du trong sự phân phối chương trình biểu diễn đàn; chắc ai ai hiểu sự đời cũng đều
thấy hai lần, chứ có đến bao nhiêu lần cũng cứ được đi, đó là cái quyền của những
cặp tình nhơn muôn thuở.
Nhưng tại sao Kiều lại không đàn cho Từ Hải một câu nào? Không cho Từ Hải một
câu nào, mặc dù đó là một đấng đường đường "Gươm đàn nửa gánh, non
sông một chèo"? Từ Hải ăn ở ăn nằm với Kiều như vậy, lại còn để
nàng "... cũng dự quân trung luận bàn", tại sao không có một tí
đàn nào? Nếu đây không phải là một sự sơ suất lớn, thì lại là một cao kiến gì của
Nguyễn Du. Tôi vẫn chưa tìm được ra cái lẽ cái lý của những cái đó.
° ° °
Tiếng nói của Nguyễn Du có nhiều chỗ thật là tiếng nói của điện
ảnh, mặc dù lúc sinh bình Nguyễn Du chưa có kỹ thuật và cách nói của
xinêma 1.
Tôi không nói Nguyễn Du đã biết làm xi nê, nhưng tôi muốn nói về một số nét hiện
đại của tiếng nói Nguyễn Du. Nếu cho tôi quay Kiều thành phim, tôi nghĩ rằng cứ
giở trang Kiều ra, như thấy ở đấy đã ghi chú sẵn sàng cách quay, sau khi đã có
sự bối cảnh đầy đủ. Ví dụ đoạn Kiều bị gán làm vợ một anh địa phương vùng Tiền
Đường: "Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền - Lá màn rủ thấp, ngọn đèn
khêu cao". Câu trên đối với đạo diễn và ống ảnh xi nê là một câu kịch bản
điện ảnh với lời dặn phải quay thành ra toàn cảnh. Câu dưới thì đầu câu là
trung cảnh, và cuối câu là cận cảnh, ngả hẳn sang đặc tả. Một ví dụ nữa: đoạn
(tả cảnh kiêm kể chuyện) Từ Hải cho tướng sĩ và thể nữ cung nga đi đón Kiều về
nội doanh mình để sánh đôi mà thưởng tướng khao binh. Từ câu 2257 đến câu 2272
đó, sao thấy nó hiện thực sống động như phim chiếu đến thế.
(Tiếng nói của Pouchkine cũng biểu hiện những dòng rất tạo hình theo cách làm
phim, và rất nhiều phẩm sắc theo cách tô tranh của phái vị sắc). Và trong cuốn
Kiều thân mến ấy, có bao đoạn phục hiện mờ chồng đích đáng, nó chuyển cảnh một
cách thật là mơ thơ.
Tiếng nói Nguyễn Du thực đến cái mức của điện ảnh lại còn lượng khối góc cạnh tạo
hình đến cả cái mức của kiến trúc nữa. Đọc những câu Kiều như
câu "Bóng tàu vừa nhạt vẻ ngân" thì cả người mình khoái hoạt,
như lúc đứng trước những công trình đẹp lớn của một thời kỳ gạch đá gỗ chạm của
Việt Nam ở triều đại Lý Trần Lê gì đó.
Cái lý thú của tiếng nói Nguyễn Du lại còn ở chỗ đa sắc nó ngồn ngộn đủ các mầu
cầu vồng, chữ cứ óng ánh cả lên như múa bằng hồi quang của hào quang. Thật
là "cỏ lợt màu sương", "thưa hồng rậm lục",
"một gian nước biếc...", "mặn phấn tươi son", "bạc
phau cầu giá, đen rầm ngàn mây", "non phơi bóng vàng",
"thành xây khói biếc", "và xơ xác vàng" cho liễu cùng
là "trôi dạt thắm" cho hoa, vân vân. Cứ bảo tư tưởng Nguyễn
Du nhiễm màu đạo và thuyết luân hồi Phật, tức là chiền già sắc sắc không không.
Tư tưởng không sắc, sắc không nhưng lời nói câu thơ thì phản hẳn lại, và sự mâu
thuẫn hiện lên thành đủ màu. Màu chữ của Kiều thỏa thuê mà tươi chói như màu
các họa sĩ vị sắc phái Coloriste.
Trong Kiều có 7 lần nói đến liễu và 51 lần nói đến trăng - nếu tôi không sót lầm.
Từ nay trở đi, khoa học thiên văn và bay vào vũ trụ khám phá mặt sau của mặt
trăng, ta sẽ có nhiều hình ảnh, hình tượng về mặt trăng.
Nhưng trước đây, cách nói của Nguyễn Du về giăng Kiều kể cũng đã là phong phú.
Hơn năm chục lần. Giăng khuyết 2 giăng
tròn, giăng già, giăng non - Giăng ngàn. Giăng thề. Giăng đèn. Giăng chân dung
(Thúy Vân), giăng giao mùa chuyển mùa, giăng lìa chia, giăng nhàn sầu, giăng
nhà chứa, giăng cửa chiền, giăng tị nạn, giăng bù khú, giăng tụng niệm, giăng cố
nhân, giăng nhớ quê, gặng "phải gió" , giăng biên thùy. . . Có khi
trong liền một hơi 4 câu, mà 2 lần nói đến giăng (như đoạn đi trốn khỏi nhà Hoạn
Thư). Có khi liền một hơi 5 câu, cũng hai lần có giăng (như đoạn ở chùa với
Giác Duyên).
Có khi lại lấy hẳn tên chữ Hán ra mà gọi giăng. Bóng nguyệt, điếm nguyệt,
"đừng điều nguyệt nọ hoa kia" và lại còn như là phong cách
siêu thực: "ngọn đèn khêu nguyệt tiếng chày nện
sương". Có khi gọi giăng bằng ảnh khác từ khác. Gọi là thỏ bạc, gọi là
gương Nga, gọi là "gương giọi", gọi là "vàng gieo ngấn
nước", là "thỏ ngậm gương", gọi là "vẻ
ngân" (Bóng tàu vừa nhạt vẻ ngân). Ở đoạn Kiều đánh đàn đóng kết truyện,
lại còn gọi giăng là "duềnh quyên" ("trong sao châu rỏ duềnh
quyên").
Người ta đã làm riêng một cuốn từ điển về tiếng nói Sếchxpia. Tự điển cho Sếchxpia,
về Sếchxpia, bởi Sếchxpia. Để thấy hết sự phồn vinh về cách nói của một nhà
thơ.
Ở cuốn tự điển về từ ảnh và tiếng nói Nguyễn Du, tôi tin nhất định phải có
trong tương lai gần đây, tôi nghĩ rằng cái tiết mục giăng này cũng thật là đậm
đà ê hề.
Mạc Tư Khoa - Hà Nội thu đông 1965
--------------------------------
Nàng Kiều của thơ Nguyễn Du ra đời năm 1813. Nguyễn Du mất
năm 1820, và 75 năm sau nền điện ảnh thế giới mới bắt đầu hoàn chỉnh cái máy
chiếu ảnh - mỗi dây xơ gông chiếu liên hồi được 16 ảnh tạo ra cái ấn
tượng vận động cho các ảnh đã nhiếp được. |
|
Giữ nguyên chữ "giăng" ở đây, không đổi
sang "trăng". |
THỜI VÀ THƠ TÚ XƯƠNG
Năm 1873, sĩ quan thủy quân Pháp hạ xong thành Hà Nội thì xuống
đánh luôn thành Nam Định quê hương Tú Xương. Thành Nam Định ba cửa: cửa Tây, cửa
Nam, cửa Đông cùng bị đánh một lúc, tướng Tây Gácnhe bắc thang leo vào thành.
Cũng như Hà Nội, ngày nay Nam Định vẫn còn một đường phố chính mang tên một cửa
thành của cái thành đã phá đi ấy. Hạ xong thành, việc trị an và bình định Nam Định
là do Tây Hácmăng. Tên người Hácmăng cai trị đó sau thành tên dãy phố ăn ra bến
Đò Quan, nhưng người Nam Định chân chính nay vẫn cứ gọi là phố Cửa Trường (để
nhớ những việc thi cử có nền nếp của tỉnh Nam?) Lúc bấy giờ bộ máy đàn áp danh
nghĩa chỉ có hai mươi tám Pháp thực dân văn võ, nhưng thực ra có nhiều tay sai,
và đắc lực là viên cố đạo ta Paulus Trinh đứng ra lừa phỉnh dọa nạt những nhà
nho ái quốc tỉnh Nam. Lúc bấy giờ nhà thơ Tú Xương còn lật sấp lật ngửa giữa
cái nôi sông Vị núi Gọi mà cười cái tiếng cười ra đời mà mếu cái tiếng mếu vào
đời của một em bé mới ba tuổi thơ.
Năm 15 tuổi, người học trò Trần Tế Xương đó bắt đầu mang chõng đội lều vào một
khu trường thi vừa dựng lại xong, sau khi bị lính Tây đốt trụi từ năm 1882. (Tức
là năm Hà Nội thất thủ lần thứ hai và trường Hà Nội mất một khóa thi năm Nhâm
Ngọ. Chỗ trường thi Hà Nội nay là khu Thư viện trung ương. Thí sinh Hà Nội cũng
như thí sinh Nam Định, đều phải vào thi nhờ trong Thanh Hóa đất nhà vua). Năm
1885 Trần Tế Xương đi thi hương khoa đầu tiên đó cũng là năm quan Đốc học chữ
Hán sau này của tỉnh Nam Định là Mai Sơn Nguyễn Thượng Hiền cũng đã thi hội ở
Huế, loa nhà vua ngày 23 tháng năm ta sắp xướng danh những vị tiến sĩ mới thì đại
bác Pháp lại nổ vào trường thi, lại nổ vào kinh thành.
Cảnh Huế thất thủ kinh đô ngày 25-7-1885, còn ghi lại ở bài từ Ông lão
sông Hương:
Cờ quạt rải rác bỏ khắp đường
Bên đường xương chất quạ bâu đặc
Sông Hương bóng xế nước ùn ùn
Mùi máu xông, người không qua được... "
(Thơ văn Nguyễn Thượng Hiền
của Lê Thước Vũ Đình Liên)
Năm 24 tuổi, Trần Tế Xương đã thành ông Tú Xương đỗ tú tài
"Tú rốt bảng khoa Giáp Ngọ; nổi tiếng tài hoa". Ở một đống giấy lộn
trong thúng một bà đồng nát bán rong sách báo Tây cũ làm giấy gói hàng ở dọc phố
Lãn Ông Hà Nội, thấy có những tờ rời nói về khóa thi hương Giáp Ngọ (1894) ông
Xương đỗ tú tài rằng:
Trường thi Nam Định năm 1894 đông như kiến cỏ. Năm 1891, Nam Định chỉ có 9000
sĩ tử, năm 1894 con số người đi thi lên tới 11 vạn. Từ giữa trường thi chỗ đường
thập đạo trông ra, trùng trùng điệp điệp những mu rùa bằng tre, những tấm mui
luyện nhà đò (ý nói những thí cụ lều chõng). Kỳ đệ nhất vào ngày 25-10-1894. Kỳ
đệ nhị, ngày 15-11. Kỳ đệ tam 25-11 . Và kỳ phúc hạch đệ tứ là ngày 2-12-1894.
Ngày 8-12-1894 là lễ xướng danh những người đỗ. Tiếng loa ran lên, ồm ồm lanh lảnh.
Tiếng í ới gọi nhau lạc đường của các thầy khóa, của tiểu đồng lão bộc quản gia
nhổ lều đội chõng ra về trong đêm tối lập lòe ánh đuốc. Đám đông lên tới hai
mươi nhăm ngàn người. Lễ xướng danh từ sớm cho đến chiều. Ghế bành của các quan
chấm trường dự lễ tai ghế cao đến bốn thước mét. Quan Toàn quyền bận không đến,
có quan cai trị Moren thay mặt dự lễ. Cứ xong mỗi tên ông tân khoa xướng lên là
mất 5 phút, tính từ lúc cất tiếng loa gọi tên xoáy sang phía phải xoáy sang
phía trái cho tới lúc người trúng thi thích cánh lách được lên chỗ đệ trình căn
cước.
Khoa thi 1894 lấy 60 cử nhân và 200 tú tài (lệ triều đình đặt ra thường lấy
theo tỷ lệ nhất cử tam tú, cứ chấm lấy một cử nhân thì lấy được ba tú tài). Xướng
xong tên 60 ông cử tân khoa, thì quan sứ Moren về. Các ông tân khoa phục xuống
lạy. Ở tỉnh đường quan Tổng đốc, quan Kinh lược Bắc Kỳ ban mũ, ban áo tấc xanh,
ban ô, ban tráp sơn, nó là những huân hiệu cụ thể của người men chân lên cái
thang hoạn lộ. Ngày yết bảng ấy được kết thúc nhốn nháo la đà ở tòa sứ Nam Định
bằng một tiệc rượu nhảy đầm có mặt đủ các thứ tai họng tai mũi thực dân nứt mắt
cũng như xồm xoàm (...)
Khóa Đinh Dậu sau đây khác với khóa Giáp Ngọ trước, có Toàn quyền Đume đến thật
chứ không phải ai đại diện, có cả công sứ Đặc (Darles) một trong "tứ hung
Bắc Kỳ". Lễ xướng danh lại có hàng loạt ca nông bắn dọa. Chả hồi ấy lại
hay xì xào về ông Kỳ Đồng khởi nghĩa. Thành Nam bỗng rầm rập răm rắp các thứ mật
thám áo dài áo cộc lính khố đỏ khố xanh, pháo thuyền hếch sẵn mũi súng ở bến Đò
Quan. Cô đầu Hàng Thao khó mà phân biệt làng chơi ai là đi hát thật ai là người
giả vờ nghe đàn để ngóng tin. Ngã sáu Mỹ Trọng rất là nhiều người lạ mặt, tốt xấu
lẫn lộn.
Khóa thi Giáp Ngọ 1894 ông Tú Xương đỗ rốt bảng ấy mở vào cuối thu và đóng vào
lúc sang đông đã vàng hết lá những gốc hòe bờ sông Vị Hoàng thành Nam. Đối chiếu
với lịch sử Pháp chiếm đóng Bắc Kỳ và so ngày vào kỳ đệ nhất (29-10-1894) với
ngày Pháp xin ký hòa ước ngừng bắn với (quan) Đề (Hoàng Hoa) Thám để mở nốt đường
xe lửa Hà Nội - Lạng Sơn, thì khoa thi Giáp Ngọ ấy được mở ra sau năm ngày ngừng
nổ súng ở căn cứ du kích Yên Thế. Trước đó mấy tháng Lê Hoan được gặp Đề Thám ở
Cao Thượng và định bỏ thuốc độc vào chén uống của Đề Thám; rồi đến Bá Phúc hàng
Tây vào thành Phồn Xương du thuyết vờ xem chèo mà gài bom định ám hại cụ Thám.
Thời kỳ ấy, giữa vườn hoa bách thú Hà Nội (nay gọi là Bách Thảo), một buổi trưa
hè oi ả tiếng ve sầu, tù phạm đi cỏ vê nổi dậy cướp súng lính tập áp tải. Giữa
Hà Nội năm 1894, lại có cuộc yến tiệc mừng trùm thực dân là Pavie, một tên Tây
hiểm độc phá những cuộc khởi nghĩa vùng Tây Bắc trước đây và có rất nhiều quan
hệ với gia đình tên phản nước Đèo Văn Long hiện nay đang âm mưu ở Lào. Chả là hồi
đó Pavie nguyên tổng lãnh sự Pháp ở Xiêm về họp ở Hà Nội rồi lại sang Lào với
cái danh nghĩa là chủ tịch ủy ban vạch biên giới Lào Xiêm 1894.
Chừng như thời thế phức tạp lúc ấy đã cho là gặp được nhà thơ làm chứng cho diễn
biến mọi sự việc, nên núi sông chỗ này chỗ kia đều luôn luôn có chuyện. Chính
năm 1894, Tú Xương đỗ tú tài là năm Pháp san bằng thành Thăng Long, gạch triệt
hạ thành đem bán đấu giá cho me tây thầu khoán, Pháp phá thành Hà Nội, Pháp lấp
sông Tô Lịch ở Hà Nội. Và ở Nam Định thì lấp sông Vị Hoàng. Con sông Vị Hoàng của
thơ Tú Xương."Ai xui khiến vậy sông nên bãi - Bỗng chốc xoay ra phố cả
làng.
Khúc sông Vị Hoàng Pháp lấp để mở tỉnh và đóng dấu Pháp vào đời hành chính tỉnh
Nam, con sông ấy bị mất rồi nhưng hôm nay đây, đọc thơ ông Tú, trong tai chúng
ta vẫn còn róc rách tiếng sóng nước vọng lại từ gậm cầu tre nào của một ngày
xưa gần đây:
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng riêng ai gọi đò.
° ° °
Ấy là thời Tú Xương. Bây giờ ta đi vào thơ Tú Xương - một thứ
thơ dội lên từ cái thời ấy, như mũ nấm thác sinh từ đống gỗ ruỗng mục nọ của buổi
giao thời.
Thơ Tú Xương là tiếng nói chung của dân tộc, không nặng nề về thổ ngữ âm nhưng
đọng cô vào một hương vị thổ ngơi Nam Định. Tú Xương là một chứng từ về đạo học
thành Nam tàn cục vào đuôi một thế kỷ và kéo cái tàn lụi ấy sang cả dần thế kỷ
chúng ta. Thơ và phú Tú Xương là tập ký sự chi tiết về đời sống thành Nam, về
sinh hoạt vật chất và tinh thần của một lớp nhà nho tỉnh Nam lúc Tây sang, cũng
lều chõng như ai, nhưng nghĩ thấy nó chả ra làm sao cả:
(...)Một việc văn chương thôi cũng nhảm
Trăm năm thân thế có ra gì.
(...)Dại chốn văn chương ấy dại khôn
(...)Nói dơi nói chuột khối người khen
(...)Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng.
Rồi Tú Xương than cho đạo học con tự không coi mù tịt mất, sách chữ Hán rồi
sẽ thay thế bằng chữ Tây, chữ nghĩa chính truyền không ai xem nữa, mà mọi người
đều xử thế theo cái lối Dẫu không bia đá còn bia miệng - Vứt bút lông đi
giắt bút chì.
Đã thế mà ngày xuân họ lại còn rủ nhau chè chén ngâm vịnh: Ý hẳn thịt xôi
lèn chặt dạ - Cho nên con tự mới thò ra.
Tú Xương lại càng than cho đạo học Sĩ khí rụt rè gà phải cáo - Văn trường
liều lĩnh đấm ăn xôi. Than rồi lại kêu Chúc cho khắp hết cả trên đời - Sao
được cho ra cái giống người. Tiếng thở dài, mang nỗi lo xa phảng phất tí giọng
sấm ký Sông bể khơi nguồn mãi cũng vênh, quả đất chảy ra rồi hỏng mất.
Con người thơ Tú Xương muốn đứng đắn mà đời sống lại thành ra lưu đãng hão huyền.
Con nhà nho khái muốn thanh bần với đạo thánh hiền mà cuộc sống đặt cho nhiều mối
lụy. Cái tâm hồn thèm chan hòa ấy lại sa vào cô đơn, con người khái ấy lại sống
nhờ vào tình bạn, lần hồi đắp đổi vào sự nhớ thương:
(...) Há rằng thiếu níp không bồ
Tri âm đã vắng Bồng Hồ cũng thôi
(...) Bạn đàn chưa dễ tìm nhau
Bạn nghiên bạn bút có đâu được nhiều
(...)Tương tư chẳng lọ là trai gái
Một ngọn đèn khuya trống điểm thùng.
Con người tú tài "nổi tiếng tài hoa", "phong nguyệt tình
hoài" chơi ngông ấy, hiên ngang ấy đâm ra phá bĩnh.
... Non nước thề bồi thôi xúy xóa
Quỷ thần nào chứng ở hai vai
Lại xoay ra ba rọi với người ta:
...Ba mươi mấy độ chôn chồng
Còn toan trang điểm má hồng chôn ai.
Tú Xương xóa những lời thề ước với phụ nữ này phụ nữ khác, nhưng lại đi
"thề với người ăn mày":
...Cha thằng nào có tiếc không cho
Ông chửi nặng, rồi ông chửi mát, mắng yêu:
... Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
Ông đâm ra ác khẩu. Ác khẩu trong cách đối chữ đối câu cái tôn nghiêm đem đọ với
những cái không tiện hô đúng tên thật, ông lỡm sự sống, ông cho lộn tùng phèo cả
đi. Nghĩ về người quan văn người quan võ thời nhí nhố ấy, ông đem
cái võng (võng điều võng thắm) ra mà đối với cái khố
dây (khố đỏ, khố xanh). Tường thuật việc trường thi chữ Nho có Tây đến ra
bài, ông đem cái lọng quan sứ mà đối với váy mụ đầm, đem
cái đít vịt bà đầm ra đối với cái đầu rồng một ông cử dốt
đang lạy tạ mũ áo vua ban.
Tú Xương tâm Phật, nhưng miệng xà, ông "thây mẹ thây cha" trong vần
điệu của ông, ông hành lạc một cách sục sặc, ông nhiếc, ông văng tục, ông nói
lái trong thơ, ông văng cái nọ cái kia, con này con khác trong câu đối viết lên
giấy hồng điều.
Hay khen hèn chê, mặc miệng thế
Giàu tậu khó bán, cười bòi ông
Ông Tú văng ra đủ các thứ, ông Tú văng vào cái lề lối khuôn phép, lúc nhố nhăng
đó. Đó cũng là một cách phá công thức của một con người không chịu được nữa, của
một nhà thơ thừa lễ độ chăng?
Nhưng cuối cùng, ở Tú Xương, sau những chửi bới om sòm đó thì còn lại cái gì?
Thưa rằng là còn lại cái gì đáng còn lại của Tú Xương mà ta vẫn đáng giữ lấy.
Nghĩa là những lời kiêu bạc kia, những cái cười phá phách kia, những câu gây sự
to tiếng chửi mắng kia cũng là sự chẳng được đừng của Tú Xương. Tình hình và thực
chất thơ Tú Xương là bay nhẹ ở trên tất những cái đó kia.
Đánh giá thơ Tú Xương, thấy công lao Tú Xương góp vào văn học ta không phải là
ít. Đừng quên rằng cái hồi đó chữ Tàu chữ Tây mới là tiếng nói con bà cả, chứ
tiếng ta chỉ là một thứ con bà hai nếu không là con sen con đòi. Tôi chưa dám
khẳng định xem ở Tú Xương, con người yêu nước đã cho Tú Xương cái ý thức nuôi
dưỡng tiếng nói dân tộc, hay là ngược lại, con người sành Nôm yêu tiếng mẹ đẻ ấy
đã hình thành cho tâm hồn ái quốc đó. Chỉ biết rằng trong Tú Xương có cả yêu nước
có cả yêu tiếng nói dân tộc.
Tú Xương là một nhà thơ có một vị trí rõ nét trong sự biết ơn của chúng ta, nhất
là những người cầm bút kể cả thơ kể cả văn xuôi. Tú Xương là một kho kinh nghiệm
sáng tác cho ta học. Nó còn là một cái phần hương hỏa trong gia tài tiếng nói
Việt Nam. Hương hỏa Tú Xương bên văn giữ hay bên thơ giữ? Tôi cho đó là của
chung của cả văn của cả thơ. Và nói như Béctôn Bờrét "cái đó thuộc về kẻ
nào làm cho nó khá hơn lên được". Thơ Tú Xương còn tác dụng lâu dài, và
cũng như Yên Đổ đã điếu Tú Xương:
Kìa ai chín suối XƯƠNG không nát
Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn.
Có lúc tôi đã thấy giật mình cho Tú Xương, khi tôi giả tỉ thơ Tú Xương không có
cái khía trữ tình cái hơi lãng mạn của nó, mà lại chỉ rặt những: "cống
hỉ, mét xì, thôi thôi lạy mợ xanh căng lậy...". Thú thật, tôi thấy chối
tai đấy. Ở ai thế nào thì tôi không hay, nhưng ở tôi, khi mà Tú Xương cứ hiện
thực chỉ có như vậy thôi, cái gốc hiện thực ấy mà không có cái ngọn trữ tình,
cái tán lãng mạn ấy, thì Tú Xương cũng tắt gió trong tôi từ lâu rồi, và đã bay
ra khỏi tôi lúc nào không biết chừng.
Cho nên ai muốn nói gì đến Tú Xương thì cứ nói, tôi đều coi trọng (cũng như
chúng ta đều tôn trọng cái quyền dân chủ tự do nói nghĩ của mọi người) nhưng
tôi vẫn cho rằng thơ Tú Xương đi bằng cả hai chân hiện thực và trữ tình, mà cái
chân hiện thực ở người Tú Xương chỉ là một cẳng chân trái. Tú Xương lấy cái
chân phải trữ tình mà khiến cái chân trái tả thực. Chủ đạo cho đà thơ là ở chân
phải và Tú Xương - đã băng được mình thơ tới chúng ta bằng nước bước lãng mạn
trữ tình.
Tôi có đọc thơ Đức Béctôn Bờrét, tôi cảm thấy như có thể láy một chút gì thi
pháp Bờrét ra mà cắt nghĩa thi pháp Tú Xương mặc dù hai người ở trường đời và
trường thơ khác nhau. Tôi dẫn ra đây một bài thơ Bờrét. Bờrét mượn lời và thắc
mắc của một công nhân đọc lịch sử rồi nghĩ về cái đám "anh hùng"
phong kiến tư sản toàn là vua này chủ kia mà tịt mù không thấy bóng dáng mảy
may quần chúng nhân dân nào cả:
...Mỗi trang là một chiến thắng
Nhưng ai đã nấu nướng phục vụ cho tiệc vui?
Cứ mươi năm lại một vĩ nhân
Quỹ nào đài thọ?
...Xây xong Vạn Lý Trường Thành
Rồi hiệp thợ nề đi về đâu...
Cũng như Tú Xương, một cách không phải là ngẫu nhiên, Bờrét bạo tay đưa vào thơ
mình những chữ những ảnh thông tục có khi trắng trợn, đưa nhiều vào thơ những
chi tiết nôm tạp của sự sống nó đã tệ rồi ngay ở cõi văn xuôi chứ đừng nói chi
đến trong cõi thơ. Nhưng mà chốc lát (cái chốc lát ấy là có tính toán cả đấy)
chốc lát Bờrét mới cho bổng lên một ảnh thơ nó vô hạn bâng khuâng tưởng như
không còn ai vạch được ra bến bờ cho nỗi day dứt đó. Như Bờrét vừa mượn cái trí
não người thợ mà đưa vào pho sử khập khiễng kia một chiều hoàng hôn làm nhòe hết
mặt mày vĩ nhân phong kiến đã chìm hết hào quang giả tạo.
Lại trở lại thi pháp Tú Xương phối hợp cả hiện thực cả trữ tình, lấy cái hơi trữ
tình mà làm sống động lên những sự vật thường dụng và sự việc dung tục. Như
trong bài Đi hát mất ô:
Đêm qua anh đến chơi đây
Giày giôn anh dạn, ô tây anh cầm
Rạng ngày sang trông canh năm
Anh dậy em hãy còn nằm trơ trơ
Hỏi ô, ô mất bao giờ
Hỏi em, em cứ ậm ờ không thưa
Chỉn e rày gió mai mưa
Lấy gì đi sớm về trưa với tình.
Ở tám câu lục bát này thì 42 tiếng trắc bằng của sáu câu đầu tôi gạt sang cho
phần hiện thực, với những tiếng choang choang lên chất tả thực: giày giôn - ô
tây - nằm trơ trơ - hỏi ô mất - ậm ờ không thưa. Sáu câu đầu, nói rành rọt về một
chuyện mất ô, mất ở đâu mất trong trường hợp nào, và có thể đoán được người ăn
cắp và thấy hiển hiện nỗi ấp úng lúng túng của kẻ gian đó. Câu chuyện kể lại bằng
thơ ít lời nhưng đủ sự việc tình tiết không kém gì lời văn xuôi, có thể làm thỏa
mãn được một ông quan tòa dự thẩm, và có thể làm mẫu cho một cách giảng văn ở một
lớp văn nào. Có thể ngừng ở đó. Nếu làm văn xuôi (làm một cách xuôi xuôi), được
phép ách lại đó.
Nhưng đây là làm thơ, chưa ngừng được, chưa thấy gì là mùi thơ tiếng thơ, chưa
thấy ló ra thi sĩ. Cho nên phải đi bước nữa, nếu thật sự muốn làm thơ. Chỉ thêm
có hai câu nữa mà cứu được đoạn văn xuôi xuôi dễ dàng đó, và chuyển tất cả sang
phạm vi thơ. Chuyển thể tài, chuyển đề tài và chuyển cả chủ đề. Bài thơ nổi gió
lên từ hai câu cuối cùng. Từ một chuyện ăn cắp đồ vật, đáng lý chỉ gây nổi một
chút tiếc của, Tú Xương trang trọng nâng nó lên thành một nỗi niềm hồi hộp xót
thương của những cặp tình nhân muôn thuở, - vẫn trên cái cơ sở thực tế đề hạ ấy
mà nâng lên, chứ không vu đàm khoát luận gì cả...
Bên cái tục tằn, Tú Xương lồng vào một nét thanh, Tú Xương lấy một cái trong trắng
mà gạn lọc cái vẩn đục và hút nó lên theo với thơ mình. Định nghĩa về chất thơ
cho thật chính xác và toàn thập, tôi thấy nó cũng khó như định nghĩa cho chất
uy mua (humour), nhưng cái cách xúc cảm và mở gỡ cho nhân sự thế tình như Tú
Xương vừa cho ta thấy trong việc lạc ô lầu hát đó, tôi ngờ rằng đấy cũng là một
cách đóng góp chí tình vào việc định nghĩa thế nào là thơ và nhà thơ.
Theo tôi nghĩ, thơ là ảnh, là nhân ảnh, thơ cũng ở loại cụ thể hữu hình. Nhưng
nó khác với cái cụ thể của văn. Cũng mọc lên từ cái đống tài liệu thực tế,
nhưng từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la, từ một cái điểm
nhất định mà nó mở được ra một cái diện không gian thời gian trong đó nhịp mãi
lên một tấm lòng sứ điệp. Thơ là mở ra được một cái gì mà trước câu thơ đó, trước
nhà thơ đó, vẫn như là bị phong kín. Bài Sông Lấp dưới đây càng rõ
cái điệu mở ra mở vào đó:
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ giồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Tôi không được tường về năm sinh tháng đẻ chính xác của bốn câu lục bát này,
nhưng theo ý riêng tôi thì đây là ngữ ảnh của những thanh điệu chín nhất tròn
nhất viên mãn nhất ở tiếng thơ Tú Xương.
Nếu chúng ta cũng thỏa thuận rằng nói chung trong thơ Tú Xương có cả hiện thực
có cả trữ tình, thì trong riêng bài Sông Lấp này lại càng rõ cả hai cái phần thể
phách hiện thực và linh hồn trữ tình ấy. Hai câu đầu không có gì là "mở cửa
sổ thấy núi" cả, bình thường thế thôi, các bạn làm thơ bình thường và tôi
làm văn nhật trình tường thuật đưa tin thực tế, mọi người chúng ta đều làm được
cả. Nhưng đó mới chỉ là đếm việc kể việc, như cái kiểu đi thực tế mà chưa biết
nâng thực tế lên, còn nô lệ thực tế mà chưa có tí gì là sự hóa sinh do tâm hồn
mình thổi vào. Nếu con sông Lấp Vị Hoàng mà chỉ có hai câu ấy thôi, thì con
sông Tây lấp đi kia có thể coi là tuyệt tự rồi, và tên tuổi nhà thơ của nó cũng
có thể phần nào lấp theo đi với con sông cạn. Nước con sông thời thế Vị Hoàng bất
chấp mọi sự ráo kiệt cạn lấp, đến ngày nay vẫn còn chảy tới thế hệ chúng ta hợp
lưu được với lòng chúng ta, chính là do cái nguồn mạch trữ tình của hai câu sau
đẩy nó đi xa lắm, và mạch nước ngầm ấy còn chảy xa lắm. Tôi nghĩ đến một tương
lai Việt Nam sông cái sông con suối chị suối em trên khắp Tổ quốc ta sẽ hết cả
đò ngang mà chỉ còn có toàn cầu sắt, cầu bê tông, hoặc cùng giả lắm là phà máy.
Cho là mười kế hoạch năm năm nữa thì căn bản có thể tuyên bố là hết đò ngang chứ
gì!
Và lúc ấy đò ngang không là hình ảnh của vận tải quốc doanh mà chỉ là những vốn
dân tộc giữ lại cho những cặp tình nhân nhàn tản trên mặt sông hồ sau những đợt
dài lao động xã hội chủ nghĩa. Tôi cho rằng tới ngày đó và sau sau đó nữa trong
lòng những người Việt Nam của năm 2000, của năm hai nghìn lẻ mấy trăm chi đó, vẫn
vang hưởng cái giếng Tú Xương gọi đò trên sông Lấp.
Những thế hệ sau này thật là không thể nào hình dung được đầy đủ cái thảm kịch
gọi đò đêm sông vắng, cái thảm kịch đợi nước gọi đò (hiểu theo cả nghĩa đen
kinh tế lạc hậu, hiểu theo cả nghĩa bóng chính trị của những người yêu nước trước
đây nói bóng gió về thời cục bằng hình ảnh thơ). Nhưng tôi tin rằng những thế hệ
đó được nâng cao vật chất và tinh thần, được học nhiều hiểu rộng gấp mấy mươi
chúng ta bây giờ, họ có một quan niệm rộng rãi hơn về xử sự xử thế của những
con người sống trước họ, họ ái ngại nhiều hơn là lên án những người trước đây
chỉ mới yêu nước trong phạm vi yêu tiếng nói dân tộc mà chưa chuyển được sang
những hành động trực diện. Cái học lực của họ sẽ tạo cho họ nhiều độ lượng nhân
ái hơn, tình cảm phong phú và thuần khiết hơn, và họ có thể còn cảm thông thâm
thúy và quán triệt sâu sắc hơn nữa với hiện tại gần đây của lớp chúng ta. Thực
ra cái lớp chúng ta đây cũng là một lớp người chưa thoát đò ngang, cũng là vừa
sang xong một vài chuyến, có những chuyến thuận chèo trót lọt, bến đông rộn lên
như hội mùa, nhưng cũng có chuyến gian nan tay lái không dẻo thì cũng dễ đắm
con đò có lúc đã chiềng hẳn đi.
Cái tiếng gọi đò u hoài trong thơ Sông Lấp Tú Xương còn là cái tiếng gọi đàn của
cả một đoạn sử ta cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, đất nước quê hương lộp cộp
móng lừa tây, vó ngựa lai, giày đinh sắng đá, và đì đoành ca nông chấm câu cho
những vần thơ yêu nước. ông Tú sinh lúc Tây hạ tỉnh phá tỉnh đóng tỉnh và năm
1907 ông Tú tịch đi là năm đất nước không gọi là yên tí nào được. Và đặc điểm của
Nam Định hồi đó là một địa phương sớm có nhiều thanh niên vượt biển ra ngoài mà
cầu học cách mạng. Thơ Sông Lấp đượm cái màu và cái mùi thời gian của nó. Bài
thơ Sông Lấp là một cái hồi quang trung thực cả thời đại khó khăn và đau khổ
đó. Phẩm chất nó rất hiện thực, nhưng phong cách nó lại tượng trưng và tác động
của nó lại trữ tình. Dẫn thơ Tú Xương, có thể lược đi bài kia bài khác, nhưng
không ai dám quên, nỡ quên bài sông Lấp. Bởi vì Sông Lấp là tiêu biểu cho hơi
thơ, giọng thơ Tú Xương, đồng thời tiêu biểu cho cái thời Tú Xương.
Nếu chúng ta cũng liệt Tú Xương vào loại đỉnh thơ Nôm, thì Sông Lấp chính là một
cái bóng cây hiên ngang trên sườn non đó vậy. Dẫn thơ Tú Xương mà vô tình hoặc
cố ý đánh rớt bài Sông Lấp, tức là bước lên lầu tháp, mở cửa tầng này tầng kia
mà quên đi mất cái chuông trên vọng lâu vậy. Tỉnh Nam Định chân phác của Tú
Xương đã khác hết cả Nam Định nay thi đua sản xuất với nhà máy tận thủ đô Bình
Nhưỡng Triều Tiên. Nam Định kết nghĩa anh em với thành phố Mỹ Tho quê hương của
tiếng hát vọng cổ hoài lang Nam Bộ. Nam Định công nghiệp đang dệt lụa khổ rộng
dệt nhiễu hoa óng ả nuột nà, Nam Định đang là một cái thành phố giàu có đóng
góp nhiều cho kho tàng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, cũng như Nam Định trước đây
đã đóng góp cho kho tiếng nói Việt Nam một nhân tài Tú Xương của mình. Thành phố
Nam Định mỗi ngày mỗi nâng cao mức đời sống rồi sẽ cần đến việc dựng những tượng
đồng bia đá để cho đời sống tỉnh mình đầy đủ hơn nữa nhuần đượm hơn nữa. Đến một
lúc nào của trình độ văn hóa được nâng cao mãi lên và trình độ kinh tế lại cho
phép, tôi nghĩ rằng những người thợ dệt Nam Định sẽ đòi cho thành phố kỹ nghệ
mình được có một pho tượng của nhà thơ Tú Xương tỉnh mình.
Giả thử tôi được làm nhà điêu khắc thì tôi muốn góp vào vườn hoa sông Lấp Vị
Hoàng Nam Định một ngôi tượng dong dỏng một dáng người áo chùng khăn chít thơ
thẩn bên dòng nước mà chờ một chuyến đò thời đại. Dưới chân tượng trước bệ tượng,
phẳng tắp con sông thời gian.
Con sông tuổi phù sa hoa niên của Tú Xương đã cạn đi từ lúc sinh bình nhà thơ.
Nhưng hôm nay tạc tượng Tú Xương, Tổ quốc là một cảnh nhộn nhịp "sông núi
có chủ nhân", những người thợ dệt Nam Định đã khơi nguồn lại cho sông thơ
nọ, để người thơ Tú Xương yên giấc bên sông mà không còn phải giật mình thức giấc
để nhớ thương cho bất cứ tiếng gọi đò đêm nào. Lúc còn sống để làm thơ, ông Tú
là một cây sầu đông ngoài tươi mà trong rầu héo, những lời trào lộng kiêu bạc
chỉ là những hiện tượng da thịt bên ngoài phủ lên một tủy cốt chung tình. Cho
nên pho tượng Tú Xương của tôi có cái dáng điệu thung dung tự tại của một người
bộ hành sang ngang tin rằng sông bao giờ cũng có đò, tin rằng bến lạnh có mịt
mù đến đâu đêm tối có đen ác đến mấy, thì cuộc sống tổ chức của Cái Thiện lúc
nào cũng vẫn sẵn một bóng người du kích đưa mình vượt qua bờ. Mà nó đúng là pho
tượng của một nhà thơ tự tin rằng khi mình đã cất nổi một tiếng gọi bên sông
văn thì vẫn có tiếng đồng điệu vọng trả lời sang.
Văn nghệ, tháng 5-1961
THẠCH LAM
Trong văn học Việt Nam trước Cách mạng 1945, Thạch Lam là một
trong số những nhà văn được nhiều cảm tình của người đọc. Lời văn Thạch Lam nhiều
hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc. Dưới
cái hình thức không những thoát ra khuôn sáo cũ của cách hành văn đương thời mà
lại có rất nhiều đức tính sáng tạo ấy, văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó
là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời. Thạch Lam có
những nhận xét tinh tế về cuộc sống hàng ngày. Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam
thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng
lớp dân nghèo thành thị và thôn quê. Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống,
trang trọng trước sự sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch
Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và
phẩm chất văn học. Mặc dù in ra ít, sách Thạch Lam có đánh dấu lại được cái tâm
hồn súc tích, rộng rãi và tiến bộ của một nhà văn xuôi chân chính.
° ° °
Thạch Lam sinh năm 1909, mất năm 1942, sự nghiệp văn học gồm
truyện ngắn, truyện dài, truyện thiếu niên, và những bài bình luận văn học. Tác
phẩm đầu tay là một tập truyện ngắn in năm 1938, tập Nắng trong vườn. Và
sau đó, tiếp theo luôn hai tập truyện ngắn Gió đầu mùa và Sợi
tóc.
Thạch Lam có viết sách cho trẻ em. Cuốn Quyển sách và cuốn Hạt
ngọc tả cảnh thôn quê cốt giới thiệu cảnh làm lụng nông thôn với một chú
bé quen sống ở thị thành.
Tiểu thuyết dài của Thạch Lam in năm 1939, và Thạch Lam cũng chỉ viết có một
truyện dài Ngày mới.
Nhưng nói đến Thạch Lam người ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện
dài. Ngoài các tập truyện, Thạch Lam có viết một tác phẩm xinh gọn duyên dáng để
riêng ca ngợi những phong vị và sắc thái của thủ đô. Tập Hà Nội ba mươi
sáu phố phường này, được truyền tụng nhiều, nhất là đối với những người có
ít nhiều quan hệ trực tiếp với cuộc sống vật chất và tinh thần hồi đó của thủ
đô Hà Nội. Hà Nội ba mươi sáu phố phường có giá trị của một tác phẩm văn học
giúp ta nhận thức thêm về những khía cạnh nhiều màu nhiều vẻ của "Tổ quốc
ta tươi đẹp" Thạch Lam còn có một số bài báo luận văn học, sau gộp lại in
ra năm 1941, với tên sách Theo giòng.
Nói đến nghệ thuật của Thạch Lam, tức là nói cụ thể đến nghệ thuật viết truyện
ngắn của Thạch Lam. Một số truyện ngắn của Thạch Lam có thể coi như là mẫu mực
được. Có những truyện ngắn Thạch Lam, ở cái thời bấy giờ, đọc xong thấy nó đọng
lại trong người ta như một câu hỏi bức thiết của tác giả, như là một lời trách
móc kín đáo của nhân vật truyện. Những vi phạm vào quyền sống của hạnh phúc tuổi
trẻ, những nỗi cay đắng oan uổng của cảnh bị ép duyên, đâm đầu xuống sông mà
không chết ngay được, để sau đó phải mòn chết oan trái trong truyện Hai lần
chết. Những cuộc sống phụ nữ hết lo cho em lại đến lo cho chồng, cứ chìm chìm
xám xám như thế quanh một cái chợ. Những "cô hàng xén" tuy không lên
tiếng đòi quyền sống trong truyện nhưng qua kẽ dòng truyện, vẫn như hỏi thầm
người độc giả rằng ý nghĩa cuộc sống có phải là như thế không?
Truyện Hai đứa trẻ có một hương vị thật là man mác.
Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng thời cũng gióng lên một cái gì còn ở
trong tương lai. Đây là một mẩu sinh hoạt hàng ngày và kéo dài của hai chị em đứa
trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một cái phố huyện, gần một cái ga
xép. Đêm đêm có những bóng người bình thường lù mù đi qua trước gian hàng. Những
bóng người ấy cũng lù mù như nhiều chấm lửa ở những nguồn ánh sáng quanh quất
nơi phố huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có những tiếng động mạnh
và những luồng sáng mạnh của một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em đứa
trẻ ngày nào cũng chờ một chuyến tàu đêm kéo qua rồi mới chịu đóng cửa hàng.
Nơi cái thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng
còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc Hai đứa trẻ, thấy
bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín.
Trong cái tấm lòng quê hương mát mẻ của Thạch Lam, đôi lúc vẩn lên cái bóng
dáng một vài con người thực dân Pháp, cái bóng dáng một Người đầm. Mặc dù
chỉ là vài nét chân dung chấm phá, lồng vào khuôn khổ hẹp của một câu chuyện kể
lại theo thể thức một truyện ngắn, truyện Người đầm gợi nhiều. Nó không dám
công khai hô hào cổ võ, nó chỉ nói thầm, nhưng lại nói thầm một cách rành rọt.
Dưới cái thời Tây còn làm chủ nước ta, Thạch Lam bỏ nhỏ vào tai bạn đọc mình những
điều ghê gớm mà Tây thuộc địa không muốn một người "bản xứ" nào bàn đến,
hoặc là đặt ra đặt lại bằng bất cứ cách nào.
Lòng yêu âm trầm đất nước quê hương ông bà đã luyện cho Thạch Lam một cách nhìn
ý nhị về người đầm xâm nhập trái phép vào ta. Thạch Lam đã lễ phép mà trình bày
một hình tượng của cái sự kiện lịch sử đó. Có người bảo lối viết hàm dưỡng kín
đáo ấy, cũng là một cách để lọt lưới kiểm duyệt thời xưa. Có thể có cái khía ấy
nữa, nhưng theo tôi nghĩ, đây chính vẫn là cái phong cách im ả thâm thúy của Thạch
Lam. Qua cái hơi văn càng bình thản bề ngoài ấy, ta thấy thực dân cái (cũng như
thực dân đực) càng trở nên kệch cỡm, nó dị dạng tới cái mức phải cho nó cút đi
khỏi cái chân trời chung của cả tác giả lẫn độc giả.
Truyện Người đầm xem như là lối truyện không nặng về cốt câu chuyện. Nó nặng về
biểu hiện mặt trong của suy nghĩ, hơn là diễn tả cái bên ngoài. Hầu hết là bút
pháp của độc thoại nội tâm, trừ một vài chặng đối thoại, như chỗ bà đầm nói
chuyện với chú bé bán kẹo vừng bên Hồ Kiếm. Đọc truyện, tôi thích những tác giả
có cái bút lực dựng đám đông tấp nập, ồ ạt nhiệt náo, quát thét, vận động nhiều,
hành động nhiều hơn là bàn bạc. Nhưng tôi lại thích cả những cách diễn đạt trầm
trầm mà chuyển, đêm dài một bóng một đèn, một nhân vật đó và mình, thấy cũng thấm
đáo để. Nhà văn Thế Lữ có kể lại rằng câu chuyện này là do họa sĩ Nguyễn Gia
Trí thuật lại và Thạch Lam đã viết ra theo một cách diễn tả riêng.
Nếu thật là như vậy, thì càng thấy rõ việc sáng tác chính là ở chỗ vận dụng được
kinh nghiệm sự sống, vận dụng được cái vốn suy nghĩ và tưởng tượng của bản thân
mình.
Còn như có sống trực tiếp hay chỉ là gián tiếp cái cốt truyện cái khung truyện
dựng ra kia, thì đó chưa phải là mặt quan trọng trong sáng tác văn học. Cái chủ
yếu vẫn là cái cơ sở nhân sự thực tế, cái vốn thực tế đã tầng trải, đã thể nghiệm,
đã tích lũy. Chuyện của người khác được sống lại một cách sinh động trong truyện
kể hấp dẫn của mình, ấy là nhờ có cái sự tích lũy quý báu đó vậy.
Truyện Nhà mẹ Lê viết cách đây khoảng hai chục năm mà đọc đến thấy
đâu như chuyện năm ngoái năm kia gì đó. Đọc Nhà mẹ Lê, có lúc cứ lầm tưởng đâu
như là Thạch Lam có đi theo một đội phát động nào? Cũng cảnh đi làm thuê ở mướn.
Cũng địa chủ tàn bạo. Cái thảm kịch của những người nhà quê sống những năm khủng
hoảng kinh tế 1930-1935 dưới thời đế quốc. Cũng cảnh nhà nghèo mà lại đông những
mười một mụn con, đến nỗi người cùng xóm phải nhắc "thỉnh thoảng đếm lại
con không quên mất". Người mẹ muốn lao động mà không có quyền lao động. Kẻ
giàu đã không cho vay gạo nuôi con, lại còn xùy chó Tây cắn chết. Bao nhiêu đoạn
khổ tình thương.
Để thấy rõ thêm con người và thái độ của tác giả Nhà mẹ Lê xin dẫn ra đây một
đoạn văn Thạch Lam ghi vào lời nói đầu tập truyện ngắn Gió đầu mùa:
"... Đối với tôi, văn chương không phải một cách đem đến cho người đọc sự
thoát ly hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc
lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn
ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn".
Trong bài phê bình Người nhà quê trong văn chương, Thạch Lam còn có những
mong muốn rất là cụ thể:
" Sự thực người nhà quê chỉ yêu quý ruộng đất chừng nào mà họ là chủ ruộng
đất...".
" Chúng ta phải đợi có một nhà văn nguồn gốc ở đồng ruộng, tự cày bừa lấy
trang sách nói về người nhà quê, vạch một luống thẳng thắn và mạnh bạo trên đất
° ° °
Thạch Lam hay đi vào những cảnh ngộ nghịch trái, mà đồng thời
cũng là đi sâu vào những tâm trạng, tâm tình, cảm xúc cảm giác. Truyện Tối
ba mươi dựng lên cái tâm trạng đau thương của những người đàn bà phải lấy
thể xác ra làm hiện vật buôn bán trong một cái xã hội mà tiếng nói của đồng bạc
là tiếng nói quyết định. Họ chịu đựng sự rẻ rúng của xã hội tiền bạc, nhưng đôi
lúc, - như cái lúc hết một năm để sang năm khác của đời con người ta, - trong
cái tâm hồn đọa lạc và đùng đục ấy, vẫn sáng lên những ý nghĩ và tình cảm trong
lành. Truyện Sợi tóc ghi lại một cơn bão phút giây trong một tâm tư,
ghi lại những cái tinh tế của một cuộc giao tranh luân lý giữa cái thiện và cái
ác, giữa chính và tà, mà "chỉ một sợi tóc nhỏ, một chút gì đó, chia địa giới
của hai bên". Không dùng những chữ to tát, giọng Thạch Lam điềm tĩnh pha mỉa
mai nhẹ nhàng nó cũng là cái lối nói quen thuộc của tác giả. Với giọng đó, Thạch
Lam trình bày một trường hợp về nhân phẩm con người, và ghi lại một chiến thắng
của một cuộc đấu tranh tư tưởng trong cái bản thân một người. Trong cuộc sống
phức tạp hàng ngày, con người đạo đức trong chúng ta, ở thời cũ đó, đã có dịp dẹp
tan biết bao vụ ăn cắp ăn trộm xảy ra trong ý nghĩ chúng ta như thế, mà chúng
ta, vì bận rộn quá, hay quên đi đó thôi! (Trong con người, vốn lại hay có những
cái vĩ đại bị vệt ố của hèn hạ). Nhìn qua Sợi tóc, vượt lên cái bề ngoài những
đoạn văn hoài nghi, người bạn đọc sâu sắc sẽ tìm thấy thực chất của truyện Sợi
tóc là một truyện đem lại sự yên tâm cho ta hơn là ngờ vực.
Dưới bóng hoàng lan, nhân vật có bà và cháu, cháu đi làm trên tỉnh. Một cô thôn
nữ Nga vẫn chờ đợi xây dựng với cái anh Thanh đi làm việc trên tỉnh kia. Cái
bóng cây có hoa thơm ở đây, dưới ngòi bút Thạch Lam, cũng đóng một vai nhân vật.
Nhân-vật-cây-cỏ-hoa ấy đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm thơm lành, và
mát dịu, và giúp thêm cho tác giả định nghĩa về danh từ quê hương nó là "một
nơi mát mẻ và sung sướng để thường về nghỉ sau việc làm". Bóng hoàng lan
đây, là một cái bóng mát ở một chốn quê cũ của tuổi thơ trẻ, nó giúp cho người
bộ hành nghỉ chân trên đường đời, trước khi tiến lên nhiều chặng nhiều quãng mới.
Những cái bóng mát này, rất cần, mặc dù trong thực tế cuộc sống nhỡn tiền, có
nhiều chặng nghỉ, có nhiều cách nghỉ không hoàn toàn giống hẳn như trong truyện
"có cái gì dịu ngọt chăng tơ đâu đây, khiến chàng vương phải".
Đi sâu vào sở trường của mình là tả những tâm trạng, Thạch Lam đã dựa trên một
sự việc nhỏ bé hàng ngày như cái việc đi xe và mặc cả xe kéo hồi trước đây, mà
dựng nên truyện Một cơn giận để nêu lên một cái sự thật thường xảy ra
luôn luôn trong cuộc sống tình cảm:
"Sự giận dữ có thể sai khiến ta làm những việc nhỏ nhen không ai ngờ".
Và "người ta có thể tàn ác một cách dễ dàng". Một cơn giận đây có giá
trị của một sự kinh nghiệm về cuộc sống hay bày vẽ ra một số oan khiên vô ích.
Cái kinh nghiệm ấy được kể lại với sự chân thành nhiệt ái và lòng hối lỗi. Nó
có cái tác dụng của những lời ân cần nhắc cuộc sống hàng ngày hãy coi chừng với
bản thân mình, tỉnh táo hơn, tỉnh táo trong xúc động, trong phản ứng để cuộc sống
mọi người bên mình thêm nhiều công bằng và nhịp nhàng hơn.
° ° °
Đọc Thạch Lam, có người chê câu văn Thạch Lam và nói chung
văn phẩm Thạch Lam là ít động tác ít hành động, và kết luận: "Cho nên Thạch
Lam viết truyện dài không thành công". Tôi đồng ý là truyện dài Ngày mới của
Thạch Lam không thành công, nhưng rất dè dặt về cái điểm "câu văn và văn
phẩm nhất thiết phải có động tác phải nhiều hành động" bởi vì nhiều khi,
nhiều động tác quá thì lại hóa ra túi bụi. Cái chính trong truyện là nhân vật
có làm, phải làm cái này cái kia, nhưng nhân vật còn phải có cảm có nghĩ, có
suy nghĩ nữa. Và cái thế giới bên trong đó của một nhân vật của những nhân vật
rất là cần cho sinh khí tiểu thuyết. Cái phần ấy mới đem đến cho nhân vật một
cái chiều sâu và do cái thâm thúy đó, mới thỏa mãn được người bạn đọc và giúp
gì cho người bạn đọc.
Về Thạch Lam và đọc truyện ngắn Thạch Lam, tôi cứ nghĩ như đó là một người tính
tình nhẹ nhàng tinh tế, từng trải sự sống ở một số mặt sống, vừa sống vừa lắng
nghe chung quanh cùng là lắng nghe mình phản ứng trước mọi diễn biến cả bên
ngoài bên trong mình. Rồi trang trọng đề nghị với mọi người cùng bàn về điều
hơn lẽ thiệt, mặc dù cái điều hơn thiệt đưa ra bàn bạc có khi chỉ nhỏ như một sợi
tóc... Nhưng đứng về mặt góp phần vào việc xây dựng một nền văn xuôi Việt Nam
hãy còn trẻ tuổi, đứng trên chỗ đó mà bàn về Thạch Lam thì cũng dễ có sự đồng
tình của tất cả, để cùng thấy cái chỗ đóng góp của nhà văn xuôi Thạch Lam. Bằng
sáng tác văn học, Thạch Lam đã làm cho tiếng nói Việt Nam gọn ghẽ đi, co duỗi
thêm, mềm mại ra, và tươi đậm hơn. Thạch Lam có đem sinh sắc vào tiếng ta. Và
theo tôi nghĩ, đứng bên cái tiêu chuẩn thái độ tư tưởng nó là cái tiêu chuẩn
chung cho các thể các ngành văn nghệ, thì đây là một cái chuẩn quan trọng - nếu
không là duy nhất - để nhận định giá trị của một nhà văn, nhà văn ấy dù qua đời
rồi hoặc còn đang làm việc cho văn học. Và đánh giá một nhà văn, đứng về nghề
nghiệp chuyên môn mà bàn, thì giá trị một nhà văn xuôi, cụ thể còn là những
công đức lập ngôn của nhà văn đó mở mang thêm vốn liếng dân tộc về tiếng nói được
tới mức nào, và đã góp được phần sáng tạo của mình vào ngôn ngữ Việt Nam như thế
nào.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét