Tiểu luận và chân dung văn học 3
"(...) còn tưởng tiếng ai gọi đò"
1. Quê Nam Định của Tú Xương.
2. Thơ Tú Xương vừa hiện thực vừa trữ tình.
3. Giọng cười trong tiếng nói Tú Xương.
4. Thực tế thi cử chữ Hán trong thơ Tú Xương.
5. Cái tâm của Tú Xương là đã đánh vào chữ Quốc ngữ.
6. Nếu Tú Xương đỗ cử nhân.
1
Đọc thơ Tú Xương, thấy bật lên một địa phương. Về địa lý cả
nước ta được phản ánh vào phú và thơ Tú Xương, hình như cũng chỉ thấy mỗi một địa
phương đó mà thôi. Ấy là vùng Nam Định. Trong thơ Tú Xương, trong phú Tú Xương,
chỉ rặt có cảnh Nam Định, sự Nam Định, lời Nam Định, người Nam Định, nhất là
cái đám quan to lại bé, tiểu thương tiểu chủ. Nói chung là cái đám giai cấp tiểu
tư sản vào lúc dở giăng dở đèn Tây về mở rộng tỉnh. Toàn là thực tiễn Nam Định,
Nam Định đã quán triệt toàn tập thơ phú Tú Xương. (Trừ ra mấy câu dưới đây là
vượt ra ngoài phạm vi địa lý Nam Định:
"Hay mình thấy tớ nay Hoàng Thao
Mai Phố Giấy mà bụng mình ghen..."
"Nay đi Phố Giấy, mai đào hát,
Khi ở sông Thương, lúc tỉnh Hà... "
Câu trên, ở bài văn tế sống vợ. Câu dưới ở một bài thơ cảm hoài. Chỉ ở hai câu
đó, là có nói đến những địa danh ngoài khu vực Nam Định, là thấy nói đến Hà Nội,
như cái phố nhà hát ả đào Hàng Giấy; thấy nói đến con sông Thương của tỉnh Bắc
Giang).
Ỏ đời sống hàng ngày, không rõ nhà thơ ngông Tú Xương đã giang hồ phiêu bạt tới
những đâu, nhưng ở thơ Tú Xương, chỉ thấy toàn một màu Nam Định. Có cái vẻ như
Tú Xương khoanh riêng ra cái vùng Nam Định đó mà cấy thơ mình vào. Tính địa
phương trong thơ Tú Xương nó độc đáo và nó đã tạo chiều sâu, tạo thêm nét sắc
cho phong cách hiện thực của nhà thơ. Tính địa phương đó (nó không phải tư tưởng
địa phương chủ nghĩa) đã có góp phần vào tính dân tộc của thơ Tú Xương.
Trước khi đặt chân vào miền thơ Tú Xương, ta hãy cùng nhau lướt qua cái vùng
Nam Định ấy. Hiểu thêm một thành phố sinh quán trú quán đó của nhà thơ, để càng
hiểu thêm thơ Tú Xương, và hiểu thêm một con người thơ của tỉnh Nam Định.
° ° °
Thói thường, mỗi khi dẫn ra một tỉnh nào, người ta hay hô
sông hô núi vùng đó ra. Tên sông tên núi gần như là tên hèm của một tỉnh. Nhắc
đến người của Nam Định, trước đây người ta hay gọi một cách văn hoa là khách
non Côi sông Vị 1. Sông Vị là sông Vị Hoàng sau này bị lấp đi.
Non Côi là núi Gôi ở ngay chỗ ga Gôi cạnh đường xe lửa Nam Định đi Ninh Bình.
Núi Gôi không có rừng rậm, không lâm tuyền, nó rộng khoảng một cánh ruộng, nó
to như một quả gò, cao bằng một quả đồi. Người chủ một vườn hoa cá thể ở một
vùng bao la đất thịt quý một hòn non bộ như thế nào, thì cả tỉnh Nam Định quý
cái núi Gôi như vậy. Trên một vùng bình địa mà những cái nhô lên theo chiều cao
hầu hết là những nóc chuông nhà thờ đạo, nhất định người ta phải quý cái cao điểm
non Côi (Gôi) đó. Thêm nữa, non Côi lại là nơi hàng năm hay có hội hè. Nó là
cái địa điểm tập kết của mùa xuân cũ trên đất Nam Định. Quanh núi Gôi, đã trảy
hội bao nhiêu thế hệ trai thanh gái lịch của tỉnh Nam và của cả mọi người tứ
chiếng miền Bắc. Người ta rước, người ta thi vật, người ta kéo chữ múa cờ; những
người trai trúng các giải thì thường được thiếu nữ chín huyện Nam Định kén làm
chồng. Ngày hội vui quanh núi Nam Định này, còn là một cái hội chợ bán mua nông
cụ đầu năm của gần sáu mươi vạn nông dân tỉnh Nam (nay đến trên một trăm vạn).
Cái tấm lịch xuân tươi của vùng Gôi đã được cả thơ dân gian ghi lại:
Mùng một chơi cửa chơi nhà
Mùng hai chơi chợ, mùng ba chơi đình
Mùng bàn chơi chợ Quả Linh
Mùng năm chợ Trình Mùng sáu non Côi
Qua ngày mùng bảy nghỉ ngơi
Bước sang mùng tám đi chơi chợ Viềng
Chợ Viềng một năm mới có một phiên
Cái nón em đội cũng tiền anh mua.
Non Côi, sông Vị thành ra một đôi câu đối của Nam Định, một vế đối sơn, một vế
đối thủy. Vế của núi thì vui như ca dao vừa nói đó. Còn vế sông thì... hơi buồn.
Cái sông Vị ấy lấp đi lâu rồi!
Sông Vị mất tích ấy ở về phía Đông phố Minh Khai (tên mới của phố Hàng Nâu cổ
truyền. Hàng Nâu là một cái phố cũ, nhiều nhà gác cửa mắt cáo, cái nhô ra cái
lùi vào như hàm răng khểnh của một cô gái không đẹp nhưng rất có duyên. Phố có
nhiều kiểu nhà lối kiến trúc cổ trông dễ bồn chồn vương vít. Khi còn con sông Vị
ở ngay sau lưng phố, thuyền lái nâu vào sát nách phố Minh Khai này. Những cái
cót nâu, bịch nâu lù lù trên bến và trong nhà. Những dáng người tung nâu từ mạn
thuyền tung lên, những tiếng đếm nâu, đếm từng củ một, nó không như tung gạch cặp
díp đến từng đôi một.
Đúng với cái tên nâu sồng của nó, phố Hàng Nâu xưa là một cái phố lam lũ của
người lao động chân tay. Nó cũng là cái phố của những nhà nho thanh bạch. Phố
"thượng lưu" ngày xưa của thành Nam thì phải là những phố hiện đại
lúc ấy như phố Carô Cửa Đông hoặc phố Bôn be nhiều ký phán, và quan tắt và mọi
thứ phụ tùng bổn xứ của bộ máy Pháp. Phố Hàng Nâu, cứ tan chợ chiều, là thấy diễu
qua những quang, gánh, thúng, mẹt của những người bán tôm tép rau cỏ nhì nhằng.
Nó là một cái phố ngoại ô, cái phố bìa bao tỉnh, giống như xóm nghèo vẹo bắn ra
ở tận chân lũy tre làng. Nó rất đúng với cảnh trong thơ Tú Xương:
Trời kia khiến vậy sông nên bãi
Ai khéo xoay ra phố cả làng.
Nam Định ít núi mà nhiều sông. Con sông Vị lấp đi, nhưng con sông đào vẫn chảy
đều cạnh thành phố công nghiệp, con sông đào Nam Định vẫn nối liền sông Đáy với
sông Hồng, trung tâm phố cũ cách sông Hồng khoảng năm cây số. Kế hoạch mở rộng
Nam Định trong mười lăm năm tới đây là sẽ dịch nó ăn ra mé sông Hồng. Ngày vui
đó đang tới dần. Ờ, ngày đó, bên cạnh một số tượng vĩ nhân dựng lên cho Nam Định,
có một pho tượng Tú Xương ở bờ sông, nghĩ cũng hay. Tú Xương không gọi đò nan
bên sông Lấp nữa, mà nay ra hẳn cửa sông Hồng mà gọi thuyền máy. Trên bến mới,
gợi lại một tiếng đò xưa của người cũ, thành phố chỉ càng đặm đà thêm!
Trong thời đế quốc Pháp chiếm nước ta, tỉnh Nam Định bị Tây đánh đi đánh lại
hai lần.
Lần thứ nhất, vào năm 1873, ngày 12 tháng 12. Thành Nam Định ba cổng thành (cửa
Nam, cửa Tây, cửa Đông) cùng bị đánh luôn một lúc, và thằng quan tư Gạc Nhe
(Francis Garnier) liền bắc thang leo vào thành. Lúc tai biến đó của cả tỉnh và
thành Nam Định, Tú Xương được ba tuổi thơ. Mười năm sau, Tú Xương lên mười ba,
thì Tây lại đánh thành Nam Định lần thứ hai.
Thành Nam Định mất vào ngày 27-3-1883, dưới sự chỉ đạo quân sự của quan tư
Rivie (Henri Rivière). (Có phải đó là một cái duyên cái nợ gì giữa hai thành phố
Hà Nội và Nam Định, khi hai thằng quan tư đánh thủ đô Hà Nội đó lại vẫn là hai
thằng tư lệnh Tây đánh Nam Định, để rồi hai tướng Tây đó cùng bị mất đầu dưới
mã tấu Cờ Đen!).
Trước ngày Nam Định thất thủ lần thứ hai, quan tư Rivie gửi thư cho quan Tổng đốc
Nam Định:
" ...Vì sự tôn kính và lễ độ trong quan hệ với chúng tôi, vì sự tự do đi lại
của chúng tôi trên sông nước, vì sự an ninh của chúng tôi tại Bắc Kỳ, và để cho
các vị khỏi mưu phá sự yên tĩnh, chúng tôi buộc thành Nam Định phải trở nên vô
hại đối với chúng tôi từ nay. Và do các lẽ đó, quan lớn phải thân chinh trao lại
thành đó cho chúng tôi(?) Nếu 8 giờ sáng mai, ngài không thân hành tới pháo
thuyền sơn trắng của tôi, tôi sẽ buộc tôi xử sự với ngài như là đối với kẻ địch".
Thư nó gửi ngày 25. Ngày 26 nó bố trận, và ngày 27 nó đánh luôn ta. Tàu chiến một
đoàn nó gồm những chiếc mang tên là Các bin, Gươm Thổ Nhĩ Kỳ, Lưỡi tầm
sét, Chộp, Tò te (tôi dịch những tên Carbine, Yatagan, Hache, Surprise,
Fanfare) cộng thêm một số tàu thủy và thuyền gỗ. Đạo thủy quân đánh bộ cho đổ bộ
đại bác từ pháo thuyền lên bờ. Nó đánh từ lúc sớm đã rõ mặt người, cho cốt mìn
vào thành, cốt phá cửa Đông. Tên trung tá Carô (Carreau) ham phá cửa Đông nên
gãy chân, cưa chân rồi chết. Tên thằng chết trận này, trùng với tên một thứ bài
hoa bài ít xì (con rô), sau thành tên cho trại khố đỏ Nam Định, thành tên cho
trường học Pháp Việt thành Nam, rồi thành tên cho một đường phố buôn bán chính
của thành phố Nam Định. Nhưng mặc cho Tây gọi là phố Carô, cho đến mãi sau này,
ta vẫn cứ gọi là phố Cửa Đông. (Cũng như Tây muốn lưu danh một thực dân quan
văn Harmand đã bình định tỉnh Nam, đặt tên phố Hác Măng, nhưng người Nam Định vẫn
cứ gọi phố đó là Cửa Trường - (Trường thi) .
Hạ xong thành Nam Định được chín ngày, Tây đặt luôn sở Đoàn thu thuế (để vét
cho nhanh về kinh tế!) và sau đó liền thiết lập luôn đồn quan binh. Và lính
Pháp liền đi đốt Trường Thi. Bộ máy đàn áp của nó lúc bấy giờ danh nghĩa chỉ có
hai mươi tám văn võ Pháp, nhưng tay sai bổn xứ của nó đã đông như dòi chồ, ghê
nhất là một tên cha cố ta mang tên thánh Phao Lồ (Paulus Trinh).
Cũng cần biết thêm rằng Nam Định có bảy mươi lăm cây số ven biển, là đất phát
triển đạo, thường niên lễ Xăngty, rước to hơn cả Hà Nội. Tỉnh Nam Định, cứ năm
người dân thì có một người tin đạo Thiên Chúa. Thiên Chúa giáo Nam Định, phần lớn
là các dòng Tây Ban Nha, có chủng viện đào tạo mỗi khóa tới năm trăm kẻ giảng.
Sáu huyện miền hạ trong tổng số chín huyện tỉnh Nam là rất vô khối gác chuông
nhà thờ. Những cái nóc chuông nhọn hoắt, xa trông chân giời cứ như là rừng cột
buồm trên ngấn bể. Tên cố Váckiê là tay sai đắc lực của đế quốc, đầu độc thanh
niên công giáo, và nhất là dụ dỗ người đi làm phu Tân Thế giới và làm culi cao
su đất đỏ Nam Kỳ. Sau kháng chiến thắng lợi, bọn phản động dụ dỗ và bức ép nông
dân có đạo phải bỏ ruộng đi Nam tới ba vạn rưởi người trong số mười chín vạn
giáo dân; từ trước ngày tiếp quản đã có một trăm ba mươi bảy cha cụ phản động bỏ
con chiên và đào ngũ thánh đường miền Bắc. Theo nguyệt san Missi chữ
Pháp của giáo hội thì riêng địa phận Bùi Chu có một trăm hai mươi cha đạo bỏ lại
con chiên mà vù chạy đi Nam.
Tỉnh Nam Định vừa là một đất văn học, vừa là một đất có truyền thống chống
Pháp, đóng góp trí dũng vào các phong trào và các cuộc vận động chung trong nước.
Phong trào văn thân, nhiều bậc khoa bảng và sĩ phu cùng nhân dân đều tham gia
vào. Nhiều thanh niên ưu tú có dự vào các luồng xuất dương ra nước ngoài để vận
động cách mạng. Lúc tổng khởi nghĩa, Nam Định giành chính quyền chỉ sau Hà Nội
có hai ngày. Và lúc Toàn quốc Kháng chiến, quân và dân Nam Định giam chân quân
đội viễn chinh Pháp trong thành phố Nam Định suốt ba tháng ròng. Thời chiếm
đóng, thành tích du kích chín huyện hậu địch Nam Định đã góp nhiều vào việc tổng
kết chiến tranh du kích trong chiến tranh ái quốc vừa qua. Và hòa bình trở lại
trên miền Bắc, Nam Định cũng là một trong những thành phố được giải phóng đầu
tiên.
Thành phố Nam Định có cái thế và có cái sức lực của một thành phố tựa hẳn vào một
bên sông đào. Lúc còn sông Vị Hoàng đổ ra sông đào, và sau này lấp sông Vị
Hoàng đó rồi, Nam Định vẫn là một cửa khẩu của một khu vực kinh tế. Dọc sông là
chợ, là kho hàng, là các mỏ cân nhà buôn lớn, là gác nhà trọ, quán cơm, và những
xe phở nghênh ngang cái hình tàu thủy có ống khói! Chạy song song với kè đá bờ
sông là đường sắt nối liền ga chính ra tận bến tàu. Và trên đường xe lửa cạp lấy
bờ sông, những chuỗi dài chuỗi dài toa xám đòi ăn hàng đòi bốc hàng. Bến tàu
lúc nào cũng dồn toa, đầu xe lửa xích xích xúp lê cả ngày cả đêm. Và chao ôi,
quên sao được cái tiếng còi tàu thủy và nhị hát xẩm Đò Quan Đò Chè!
Hỡi cô thắt dải lưng xanh
Có về Nam Định với anh thì về
Nam Định có bến Đò Che,
Có tàu Ngô Khách có nghề ươm tơ.
Tiếng còi tàu thủy ngày đêm quanh năm vang vang trên sông đào. Hình như lúc nào
cũng vô khối người về người đi Hưng Yên, Hà Nội, Hải Phòng. Bến Nam Định như là
một cái địa điểm sinh ly của đất tăng bo, luôn luôn nối tiếp lũ lĩ những người
vai tay nải, nách chiếc chiếu, mà bước chân lên tàu, mà bước chân xuống tàu.
Trước năm có phong trào Bình dân, ở cửa khẩu Nam Định, tàu thủy ăn bến nhả bến
có tới gần bốn ngàn chiếc, nghĩa là tính đổ đồng, tàu đi tàu về bến mỗi ngày
khoảng mười chuyến nhả bờ áp bờ. Nhìn vào sổ cuống vé, mỗi năm cứ trên dưới một
triệu vé tàu thủy.
Dọc sông và lùi sâu vào các phố răng bừa, là những bịch, những bồ, những cót,
những tràn, những mỏ cân, những kho. Kho chai, kho chăn, kho chiếu, kiện sợi,
con tơ, thập trà Tàu, những dây giăng ra bao nhiêu là tảng cao ban long, cao
quy bản, hàng gác thuốc bắc, hàng gian khô dầu, hàng dãy nhà gạc hươu, mai rùa,
vẩy tê tê. Và các lẫm thóc, đụn gạo, kho thóc, quầy ngô. Nước mắm và ruốc đặc,
chum và kiệu cao bằng đầu người bằng cổ người cứ xếp hàng mà lập chính giữa các
sân gạch. Mùi hồi quế lẫn với mùi mắm muối trà hương, mùi bao tải gạo hấp hơi.
Túi bụi mà cân, mà ghi sổ, mà cho ra tàu thủy tàu hỏa. Có gia đình cả ngày chỉ
cầm chổi quét theo mọi thứ rơi rụng trên hè, ở cầu tàu, ở bực toa, là đủ sống rồi.
Từ cái bến tàu thủy tới tấp, giờ ta đảo vào một cái chợ tỉnh tấp nập. Chợ Rồng.
Đủ thứ miếng sống miếng chín. Hoa, lá, quả, tươi cũng
đủ mà phơi khô rồi cũng có. Đủ các mặt hàng của núi của sông của biển,
của đồng rừng của đồng xuôi, như bất cứ cái chợ lớn tự trọng nào
của những khu vực phồn vinh cả thật sự và giả tạo.
Nhưng đặc sắc nhất của chợ Rồng mà không nơi chợ tỉnh nào sánh được là tơ tằm
và chuối ngự. Tơ chín vàng, chuối chín vàng, lụa choé vàng. Màu hoa hòe nở rộ
vào giữa mùa nhập trường thi chữ Hán ngày xưa, cũng khó mà đọ được với vàng chuối
vàng tơ của chợ Rồng chói lọi.
Cái màu vàng giãy nảy lên ấy, tưởng chỉ có được trong nghệ thuật và tranh màu,
chứ không ngờ nó lại ê hề giữa thiên nhiên và gian chợ tỉnh Nam. Tơ, lụa, chuối
làm cả chợ rực sáng lên như nhuộm tắm trong một cái ráng trời óng lộng cuối mùa
thu. Nó vàng một cách vừa êm mịn vừa nhộn nhịp, đông đảo như mấy sân áo cà sa
vàng sư sãi Miên Lào. Tỉnh Nam là đất cũ vua nhà Trần 2 cung nữ đời Trần có truyền thống lao động,
cái giống chuối thành ra tên là ngự ấy, không biết có dính gì đến những bàn tay
cung nữ nhà Trần không? Chỉ biết rằng cả thiên hạ đều khen chuối ngự Nam Định
là ngon thơm, và lành.
Vỏ mỏng tang, ruột chuối ngọt ánh lên chất cát đường. Có những buồng chuối, khi
mình vén những tua lá chuối khô phủ lên nó như những tấm áo nâu cũ màu, thì thấy,
eo ôi! Nó xếp tầng gác lên tới hai chục nải. Có người vì buồng chuối ngự mang từ
Nam lên thủ đô làm quà, mà đành đi tàu thủy; nó lâu thời giờ hơn tàu hỏa ô tô,
nhưng cho chuối đi tàu thủy nó đỡ bị lắc, gãy, rụng, đảm bảo hơn. Tôi đã từng
nghe một số bà con Nam Định hay nói:
"Đọc thơ Xương, ăn chuối ngự". Ý muốn khoe hai thứ "thổ
ngơi" quý giá của tỉnh Nam Định mình.
Nếu muốn thưởng thức cái thật ngọt thật lành, ngọt lành đến cái mức
gái đẻ ngày xưa cũng không nỡ kiêng khem, thì xin mời nếm chuối ngự; còn mà muốn
nếm sang cái vị chua mặn, mặn chát đi như ruộng đồng bể Nam Định, thì xin mời nếm
vào thơ Tú Xương thành Nam chúng tôi!
Trước đây, thời đế quốc, Nam Định là một cửa khẩu thương nghiệp. Nay, thời cộng
hòa dân chủ và xã hội chủ nghĩa ta, Nam Định là một khu công nghiệp to của miền
Bắc. Nhà máy liên hợp không ngừng làm ra vải khổ rộng, khăn mặt, voan, xát xi,
lụa kẻ, nhung kẻ. Hoàn toàn thay đổi khác hẳn ngày xưa là đời sống người thợ dệt
nay đi Người ta thường nhắc đến cái khéo tay nền nếp của những nghề thủ công tỉnh
Nam thành Nam. Người thợ ngõa, thợ mộc Nam Định. Người thợ tiện, người thợ chạm,
người thợ thêu Nam Định. (Những phường thợ chắc tay và hoa tay ấy đóng lại ở phố
nào thành Nam thì tên phường tên nghề họ bỗng chốc chuyển thành tên cái phố của
Nam Định).
Lúc này, nghĩ càng thấy thương nhớ tới anh thi sĩ kiết thiếu áo Tú Xương ngày
xưa vẫn đụp cái áo bông rách giữa cả mùa hè. "Bức sốt nhưng mình vẫn
áo bông", "Một tuồng rách rưới con như bố" và bố thì ốm
đóng áo bông đụp ra tiếp khách.
Tôi nghĩ rằng kinh tế Nam Định phát triển thì nền văn hóa của đất văn học Nam Định
ngày lại càng mở mang. Và tới một lúc nào đó, những người thợ máy dệt Nam Định
sẽ đòi cho Tú Xương phải có một pho tượng dựng ngay giữa thành phố Nam Định
giàu có cả về vật chất lẫn tinh thần. Họ có thể sẽ trích ngay quỹ phúc lợi của
họ ra mà đổ vào cái khuôn tượng nhà thơ Nam Định tỉnh họ.
Pho tượng ấy nay còn đang hình thành trong lòng người này người nọ, nhưng hôm
nay đây, chúng ta đã có bia cho Tú Xương rồi. Mặc dầu nó mới chỉ là một tấm biển
sắt treo lên tường vôi, chứ chưa phải là bằng đá trắng đá xanh bia cổ truyền,
hoặc sơn mài dân tộc, mặc dầu thế, tôi vẫn cứ thấy cảm động. Tấm bia ấy dựng tại
giữa nhà ông Tú ở phố Hàng Nâu Nam Định. Trong một mái nhà gạch cổ, kiểu rất cổ,
giữa một cái phố cổ thật là độc đáo, một ngày mùa đông 1961, tôi tần ngần trước
một tấm bia:
"Nơi đây, nhà thơ Trần Tế Xương tức Tú Xương (1870 - 1907) đã sống với gia
đình, đã ngâm vịnh văn thơ và trao đổi tâm sự với bạn bè, trong đó có cụ Phan Bội
Châu và một số nhà nho yêu nước khác.
Nơi đây nhà thơ Trần Tế Xương đã sản sinh 3 và "lưu lại cho kho tàng văn học Việt
Nam những kiệt tác có tính chất thời thế và đặc biệt có tính chất đả kích mạnh
mẽ vào chế độ xã hội đương thời, một xã hội phong kiến suy tàn dưới triều Nguyễn,
một xã hội lố lăng bỉ ổi của thời kỳ đầu thực dân Pháp xây dựng nền đô hộ trên
đất nước ta".
Tôi không thêm lời về cái lối văn bia đó. Mà ở đây, tôi chỉ muốn toàn tâm vào sự
quý mến tấm lòng của những người sống đang biết ơn kịp thời tới một người thơ.
Một người thơ, một nhà thơ vốn nhiều công đức trong cuộc trường kỳ xây dựng tiếng
nói văn học của dân tộc Việt Nam.
2
Chữ thơ Tú Xương rất nôm na, nghĩa là rất ít chữ Hán. Tiếng
thơ chân chất, rõ ràng, ít dùng điển cố. Và lúc cần tới, thì cũng rất là bay bướm,
lâm ly. Nó đủ mùi vị ngọt chua, đắng chát, nghịch ngợm, trang trọng và nhiều
khi trong bỡn cợt lại đọng nhiều thiện ý. Phong cách hiện thực, trào phúng
của Tú Xương kèm theo một phong cách trữ tình. Nói chung thơ Tú Xương rất
ít chữ ngoài, ưu điểm thơ Nôm Tú Xương cũng là ưu điểm một phái thơ nhiều tính
dân tộc.
Ở đây, không nói hết được cái giàu sang của phương pháp hiện thực Tú
Xương 4 mà tạm lọc ra ít nét ít bài, gọi là rao
lên một số đức tính của tiếng nói Tú Xương. Trước hết xin nói về tài đối trong thơ
Tú Xương.
Thơ bảy chữ tám câu, câu 3 và 4, câu 5 và câu 6, phải đối với nhau, mới là
trúng cách. Đối ý, đối lời, đối chữ, đối câu. Cái khó ở đó và cái hay cũng ở
đó. Mấy câu có đôi này lại là cái xương sống của bài thơ.
Đọc thơ tám câu của Tú Xương, ở nhiều bài bát cú Tú Xương, thấy nhiều câu đối
nhau chan chát, mà chữ dùng xem ra như là không phải tìm kiếm vất vả, không phải
chọn lọc công phu gì cả. Nó đáp nhau hơn là đối nhau, nó vẫn đối nhưng đức tính
của nó là nối nhau hơn là đối nhau. Nó cứ trơn êm đi thôi.
...Ăn mặc vẫn ra người thiệp thế
Giang hồ cho biết bạn tương tri...
(Tự đắc)
...Tường mai ngõ hạnh tuy như cũ
Lá bướm cành chim vẫn thế nào...
(Cảm xuân)
...Công nợ bớp bơ hình chúa Chỏm
Phong lưu đài các tựa ông Hoàng...
(Bợm già)
...Khôn nghề cờ bạc là khôn dại
Dại chốn văn chương ấy dại khôn...
(Dại khôn)
...Lấy ảnh khắp người ai chẳng tỏ
Làm gương trên đất để soi chung...
(Trông giăng)
...Có lúc vểnh râu vai phụ lão
Cũng khi lên mặt đấng văn thân...
(Tự trào) .
...Tròn tròn khuyết khuyết sao ra thế
Xuống xuống lên lên mãi vậy à. . .
(Hỏi giăng)
Hai câu cứ kèm nhau mà đối nhau, như bất cứ những câu nào phải đối nhau trong mọi
bài bát cú tám câu chân chính. Nhưng cái đặc biệt của những câu thơ đối của Tú Xương
là, lắm khi nó như là một câu văn xuôi nói liền một hơi. Nó như một câu nói
dung dị nào, nó như một câu văn xuôi bình thường nào, gộp cả hai vế mười bốn tiếng
lại làm một. Và cả hai vế dính nhau mà kéo đi một lèo. Thoải mái, nhẹ nhõm, êm
lướt: Đây là một nét bản lĩnh độc đáo của tiếng nói Tú Xương. Ngay cả những từ
đa âm, những chữ ghép nhịp ba Tú Xương vẫn cho đối nhau một cách khoái hoạt sướng
tai:
Con tự không coi mù tịt mít
Giống người có lẽ sạch sành sánh.
Làm thơ khi phải đối, cái mạch thơ của nhiều người thường dễ bị mất tự nhiên,
đâm ra gò, lên gân chữ. Nhịp câu đớ ra, hoặc kém buông nới êm mềm. Nó dễ bị câu
nệ, quá nệ về đối, biến thành một cái kiểu trần trần lắp chữ, mà các cụ thơ xưa
gọi là lối đối chân chõng. Tú Xương vẫn tôn trọng thi pháp, nhưng rất chủ động
được lời tiếng mình mỗi lúc phải đối, và càng ứng đối càng lưu loát.
Khác với những người non tay thơ, mỗi khi đối thì thấy như là vật nhau huỳnh huỵch
với từng tiếng thơ đem vào. Tú Xương cũng mồ hôi vã ra, cũng lao động như ai mỗi
khi tìm vần mỗi khi gieo chữ, nhưng không giống ai, ở chỗ lời đối thơ của Tú
Xương nghe nhiều lúc lại như là không đối đáp gì cả. Hai vế đối trong câu thơ đối
Tú Xương, nối nhau mà có một quan hệ bình thường, mặc dầu vẫn chọi từ chọi ý.
Cái thanh thoát đó trong nghệ thuật đối của Tú Xương, đã tăng thêm sức hấp dẫn
cho phong cách hiện thực Tú Xương.
Lối đối của Tú Xương nói chung là mềm dẻo tự nhiên, và có những lúc rất táo bạo.
(Ví dụ: võng điều võng thắm đối với khối đỏ khố xanh, lọng
cắm đối với váy lê, đầu rồng đối với đít vịt). Cũng
trong một bài thơ về thi cử, Tú Xương đối câu Tế đổi làm Cao, mà chó thế với
câu Kiện trông ra Tiệp, ối giời ôi. Tú Xương bạo đối đến nỗi một người
quen lỡm chọc sự sống như Tam Nguyên Yên Đổ 5 mà cũng còn phải kêu lên rằng: "Rằng
hay thì thật là hay - Giời đem đối Chó lão này không ưa!".
Một đặc điểm nữa của phương pháp hiện thực Tú Xương là dùng những hình tượng
thanh thoáng khi phản ánh một số sự việc u nặng hoặc bí đọng. Kể đến nông nỗi một
người quen bị đi tù, thơ Tú Xương gọi cái bất hạnh đó là "bỗng đâu gặp
những chuyện đâu đâu". Những u hoài trong cảnh buồn tình khi nhớ tình
nhân, cũng chỉ thoáng nhẹ như thế mà vào thơ Tú Xương: "Nhắn hỏi người
kia cái chuyện này"!.
Những chữ đâu, đâu đâu, kia, này rất là nhẹ (về thanh từ) nhưng mà
cũng rất là nặng (về động cảm). Mặt mỹ học đó của thơ hiện thực Tú Xương có lúc
đã bị hiểu lầm thành ra giọng lưỡi khinh bạc của một nhà thơ kém sĩ hạnh(!).
Cách nhìn phóng khoáng cợt bỡn của Tú Xương làm giàu thêm cho cách cảm của người
đọc thơ Tú Xương. Nghĩ về một người chửa hoang đẻ hoang giữa một xã hội Khổng Tử
chau mày nghiến răng, Tú Xương cười cười:
Chưa cưới nhưng mà hãy đẻ chơi
(...) Bà mụ lầm trao nắm bột rời.
Nghĩ thay và cảm đề hộ cho một người đàn bà buồn vì chồng đi tù "một ngày
nằm trong tù dài tợ ba năm ở ngoài hề", Tú Xương vẫn ỡm ờ trong cách ăn
nói hiện thực kiểu Tú Xương và, vẫn không quên mắc vào song sắt nhà tù nọ một
vài sợi mây trữ tình.
( ) Cơn cớ làm sao đến nỗi này
Bỗng chốc xui nên cơn vạ gió
Vì đâu mà phải cái tai bay
Nhác xa một bước như ngàn dặm
Thương nhớ ba thu khác một ngày (...)
Giọng trữ tình Tú Xương có lúc cũng ầm ĩ như ai, nhưng cái ồn ào đó vẫn không
phải là thứ ồn ào rẻ tiền mất giá:
Dang tay trỏ nguyệt bên bờ liễu
Đội bóng thề hoa trước cửa lầu
(Xuân tình)
Non nước thề bồi thôi xúy xóa
Quỷ thần nào chứng ở hai vai
(Thương tiếc)
Non non nước nước tình tình
Vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ
(Áo bông che mưa)
Có những vang hưởng trữ tình của Tú Xương như còn ngân tới hôm nay:
Tương tư lọ phải là trai gái
Một ngọn đèn xanh trông điểm thùng
(Nhớ bạn phương trời)
Đây là một cái đêm dài của hai người đàn ông mà nó day dứt hơn bất cứ nỗi niềm
trai gái vạn cổ nào. Tiếng trống đêm tương tư như ngân nga hộ cho một tiếng
chuông chiều. Và dựa vào bút lực trữ tình của Tú Xương mà chuông trống ấy đã đồng
vọng qua mười mấy ngàn buổi chiều thơ rồi. (Tú Xương chết trên nửa thế kỷ rồi,
và sở dĩ không chết đi trong tiếng nói ta, cũng là ăn nhờ vào những tiếng sóng
ngân âm như thế đó).
° ° °
Trong vốn dân tộc ta, về đồ chơi trẻ em, có một cái đèn, thường
gọi là đèn kéo quân (có nơi gọi là đèn chạy quân). Trong thơ Tú Xương cũng có một
cái đèn kéo quân:
Tiết rằm chẳng biết hắn vây ai?
Bán mặt quanh co kéo dại dài
Đứt nhạc ngựa Ô dong nước đại
Ngậm tăm quân đội kéo hàng hai
Hẳn rằng chúng nó cùng quên chết
Nên chẳng thằng mô chịu tháo lui
Động địa chừng còn chờ tướng lệnh
Cờ chưa thấy phất, trống chưa hồi .
Đây là một cái đèn hiền lành của thiếu nhi chơi cỗ rằm tháng tám Tết Trung thu.
Mà đây cũng lại là một thứ đèn cù, trong đó thời và thế lúc ấy đã được phản ánh
vào. Từ một nhà thơ nôm yêu nước Tú Xương, thấy hiện ra một người thắp đèn, một
người chiếu đèn rất lành nghề. Giữa một thiên lịch sử tối mịt lúc ấy, người thắp
ảo đăng Tú Xương mượn cái đèn đám trẻ, mà gửi vào ánh sáng kim đồng kia tất cả
nỗi u hoài trí lự của một người trí thức bực dọc. Và đây cũng là một nét độc
đáo về nghệ thuật ẩn dụ trong văn học cổ điển của ta, lấy một cái đèn chơi của
con nít đưa ra và, nhân đó, nói sang chuyện người lớn. Đây là một nét tài tình
của phép hiện thực Tú Xương: lấy cái trước mắt bé bỏng mà phản ánh cái xa cái
to, lấy đồ chơi con trẻ phản ánh lịch sử, lấy mắt hồn nhiên mà nhìn ra, mà đụng
đến việc người tráng sĩ đương thời.
Ở Nam bộ, Trương Định chống Pháp liền bốn năm (1861 - 1864). Ở Trung bộ, thực
dân tưới dần lửa đốt thành Ba Đình năm 1887. Phan Đình Phùng người Hà Tĩnh đánh
Tây ròng rã mười một năm (1885 - 1896), và cuối cùng bị tên Nguyên Thân tâng
công với Tây, đào di hài Phan Đình Phùng, trộn lẫn vào thuốc súng mà bắn ra bốn
phương tám hướng trời Nam. Ở Bắc, bốn năm khởi nghĩa Bãi Sậy (1885 - 1889) đã tạc
tên tuổi Tán Thuật vào tâm tư sĩ phu. Rồi ngọn cờ chống Pháp ấy bắt đầu chuyển
sang tay Hoàng Hoa Thám. Và riêng tỉnh Nam Định quê hương Tú Xương, cũng vọng lại
dư âm của nhiều cuộc khởi nghĩa non của quan Nghè Rao Cù, của cụ phó bảng Lã
Xuân Uy sau tịch ngoài Côn Đảo. Và nhất là cuộc khởi nghĩa hụt của Kỳ Đồng lan
rộng ra ba tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hải Dương. Người làm thơ là một cái cần điện
ăng ten nhạy cảm, và thơ Vịnh đèn kéo quân đã nháy nháy mãi lên những
cái chớp xanh thu thanh đó về những thời sự chiến sự xa gần.
° ° °
Cô Ký sao mà đã chết ngay
Ô hay, trời chẳng nể ông Tây!
Gái tơ đi lấy làm hai họ
Năm mới vừa sang được một ngày
Hàng phố khóc bằng câu đối đỏ
Ông chồng thương đến cái xe tay
Trong bài thơ Mồng hai Tết, viếng cô Ký khóc mướn thương vay đó, người
làm thơ điếu có nhắc đến một "ông Tây" và một cái "xe tay".
Tôi cho rằng hai cái hình ảnh đó mới là cái hứng vị chính của cả bài thơ hiện
thực một cách mỉa mai này. Còn cái chuyện mất Tết của ông Ký và chuyện trăm năm
đứt gánh giữa đường của một cô Ký trẻ đi lấy lẽ người ta, tất cả đều là cái phụ.
Hiện thực của Tú Xương sâu sắc ở chỗ như gọi được ra cả một chặng đường kinh tế
thuộc địa, và lôi được từ cái chết Tết ấy ra một chiếc xe tay, và một ông cẩm
Tây (cẩm tức là cò, cò mít xe, một ngạch quan lại trật tự an ninh của thực dân
Pháp). Bà con thành Nam khóc cô Ký bằng câu đối đỏ; và bằng một nụ cười hiện thực
tỉnh táo, Tú Xương đã ai điếu cô cai xe đó. Phải, cô vợ lẽ thầy Ký sở Cẩm tỉnh
Nam Định kia là một cô cai xe. Phải, người đàn bà chết đó là vợ một thầy Ký
kiêm cai xe. Không hơn không kém, mụ cai xe đó còn là một me Tây chính thức của
viên Cẩm. Trong cái quan hệ nam nữ này, trong cái quan hệ Pháp Nam này, trong
cái quan hệ bộ ba này cơ sở chính là cái gì? Là tình thương ư? Là tình yêu ư?
Không, động cơ chính là cái xe tay, thứ máy vận tải thô sơ chạy bằng sức người.
Động cơ là tiền, là đồng tiền buôn bán giữa lúc Tây mở tỉnh. Thầy Ký mở hiệu xe
tay hàng ngày thu thuế cu li xe; quan Cẩm hàng ngày khám xe, rút đi số xe chạy hoặc
cho tăng thêm xe chạy.
Thầy Ký cho cô Ký vào chài ông Cẩm, vợ chồng thầy Ký tỉnh nhỏ cùng coi đó như một
thứ thuế đóng một cách trắng trợn cho một ông Tây cai xe có quyền lực tối cao đối
với tất cả bao nhiêu xe tay trong cả tỉnh. Vì có cái xe tay mà thầy Ký làm bạn
với cô Ký hai. Vì có cái xe tay mà quan cẩm được sóng soài lên cô Ký. Vì có cái
xe tay do cô ký kéo vào cửa sau sở cẩm, mà quan hệ chủ tớ giữa quan Cẩm và thầy
ký sở Cẩm ngày càng được thêm khăng khít. Cái xe tay là hạnh phúc vật chất của
bộ ba này. Nay thiếu cô Ký, cô Ký chết tức là cả cái cơ nghiệp xe tay ông Ký
cũng lăn kềnh ra. Theo chỗ tôi biết, có một số tư sản nước ta đã xuất thân từ
con đường cai xe, thầu xe, trưng xe, đóng xe, chạy cạnh tranh với xe tay lùn
OMIC của Tây. Tôi tin rằng những vị tư sản đó, hẳn là rất thấm câu thơ
"Ông chồng thương đến cái xe tay" đây lắm!
° ° °
Tú Xương đi dạy học ở tỉnh Thái Bình. Thiết trướng căng màn tại
các tư gia tỉnh Thái để "cho chữ" thánh hiền, không rõ thầy đồ Tú
Xương đã đào tạo ra được bao người tài đức sau này, và trong đám môn sinh thầy
Xương, không rõ đã có bao nhiêu người hiển đạt? Cái này, cũng không thấy ai kể
lại cho biết. Chỉ biết có một bài thơ Tú Xương ghi lại những ngày gõ đầu trẻ:
(...) Có cả hòn son có cả roi
Mô phạm tiên sinh quần dính đít
Bô xu tiểu tử khố cong bòi
Thôi thôi tươm chán còn chi nữa
Đem cái xuân đi cũng đủ mài.
Bài thơ hiện thực lên tất cả nỗi thầy đồ kiết và cảnh trò nghèo. Nó hiện thực bằng
giọng tự trào, mỉa mình, mỉa trò, mỉa đời. Trong những từ dùng làm nguyên liệu
bài thơ, tôi lọc ra những từ "hòn son", "đít quần, bồi, khố",
"xuân", mài". Trong mấy tiếng chỉ vật chỉ việc lọc ra đó, tôi muốn
nêu lên giá trị thần hiệu và đức tính kiến thiết của động từ mài.
Trong một lớp học tư dạy chữ Hán thiết tại hàng hiên hoặc nơi đầu chái nhà nọ,
thấy nào bục, hoặc phản, hoặc chõng, hoặc tràng kỷ, ghế đẩu, án thư. Nhưng thường
là cả thầy cả trò đều bò nhoài ra trên gỗ ván, trên tre cật mà giảng, mà chép,
mà tô, mà chấm. Thầy đồ mài son, học trò mài mực. Những cái nghèo ấy đang phủ
phục xuống mà học mà dạy học. Ông thầy nghèo quá, cái quần ta cổ truyền có chân
què, gần như mất đũng, nó cứ dán vào cái mông đít hà tiện vải đang nằm phục xuống
kia. Phục xuống hơn nữa, là lũ trò đóng khố, cái khố ngắn quá thít vào rốn vào
bẹn. (Chú ý Tú Xương dùng chữ rất chính xác về liều lượng gia lên hoặc giảm nhẹ
đi. Những từ chỉ bộ phận sinh dục đàn ông, có cả một bảng cấp, từ cái của con
nít đến cái của người bạc đầu. Vào cái tuổi đi học vỡ lòng tam thiên tự đó, Tú
Xương dùng tiếng bòi, khác chi gọi được tuổi cho sự sinh dục của một đám
thơ dại còn để chỏm kia).
Trong cả một lớp học của hai lớp người, hai lớp tuổi đó xen vào tiếng ê a ngân
nga đọc to học to là những tiếng mài mực. Không những chỉ mài mực mài son, mà
còn mài cả khố cả quần. Học là một sự khổ luyện, một sự cần lao, một sự dùi mài
kinh sử, và tuổi xanh của người học trò cũng coi như là một thỏi mực thơm đem tới
đó mà mài. Cả đến thầy đồ ăn cái thứ chu cấp "thầy khóa tư lương nhấp
nhổm ngồi" của người ta đó, cả đến ông đồ trẻ như Tú Xương cũng phải
đem cái tuổi xuân của mình ra mà mài một cách trữ tình thật là quá ngao ngán vậy.
Để còn có thể tiếp tục mài tuổi mình ở khắp các khoa thi, anh đồ Xương đem cái
xuân đi mà mài nó ở chỗ thiên hạ; đổi cái xuân mài đó lấy cơm lấy áo độ nhật mà
ngóng chờ ngày mở hội khoa thi.
Bài thơ đi dạy học tư đây, ý và ảnh và chữ đều mang những đức tính hiện thực.
Trên những chất hiện thực đó, người thơ Tú Xương thả đưa vào một động từ mài: Động
từ mài làm sống động lên những nguyên liệu tập hợp lại để dựng bài
thơ. Ở bài thơ đây, giả thử không có cái biểu tượng mài đó, nhất định
các nguyên liệu rời rạc kia không cất nổi đầu lên thành một công trình gì đáng
kể. Mài cái gì ở bài thơ? Mài quần thầy, mài khố trò khi
cùng dùi mài kinh sử, mài mực mài son. Nhưng nếu chỉ có mài có bấy nhiêu
thứ thôi, thì cái công trình văn vần đó vẫn chỉ mới là một cái nhà chữ một tầng
xoàng xoàng nho nhỏ thế thôi, ở tạm thì vẫn cứ được, nhưng nó vẫn chưa hút được
người chọn nhà. Câu thơ cuối bài, "Đem cái xuân đi cũng đủ mài",
đã cất thêm lầu gác cho cái nhà một tầng. Cái xuân mài đưa vào, còn
như thêm cửa kính cửa chớp cho lầu thơ giờ mới thấy rộng khí thở và gió sáng.
Và nhà tàm tạm một tầng một cách thực thà ban nãy của anh, nay trở thành một
công trình kiến trúc duyên dáng ý nhị, làm vừa lòng người ở và làm nức lòng thơ
những khách qua nhà.
Trở lại một số từ hòn son, quần, khố, xuân, mài dùng trong bài
"đi dạy học" đó, thấy người làm thơ Tú Xương như đã giao cho mỗi từ
đó một vị trí và một chức năng riêng. (Thấy nó khác hẳn với cái cách của những
nhà thơ tồi hay mắc bệnh bình quân, san bằng chữ nào cũng như chữ nào). Những từ
hòn son, quần, khố coi như là những chữ quân; từ mài coi như là chữ chủ tướng
(những bậc nghề về thơ xưa, thường gọi là chữ cõng, chữ gánh), và từ xuân coi
như là chữ chỉ đạo. Những người trong nghề thơ đã bảo rằng khiến chữ khiến câu
khi làm thơ, không khác gì động binh điều tướng lúc xung trận. Những trận địa
giấy trắng hòa bình, nhưng tốn rất nhiều tâm huyết mới hạ nổi vật chất nó cưỡng
lại, mới chinh phục được từng con chữ một mà khuôn nó vào cái trật tự tạo nên bởi
mỹ lý mỹ học ?
Bài thơ đi dạy học vừa hiện thực một cách mỉa mai, vừa trữ tình một
cách yêu đời. Nói được câu "mình còn có cả một cái xuân đem theo đi để mà
mài ở đây ở đó", phải là một người còn tin sự sống lắm. Và mặc dù thế nào
đi nữa trong cái đời ông đồ dạy thuê, ta vẫn tự tin xuân lòng ta mài đi nhưng
khó mòn hết, và lòng xuân ta vẫn là một hòn son không chịu phai.
Hình như qua bài thơ dạy học, Tú Xương để lại được một kinh nghiệm của người
làm hiện thực. Là trữ tình không phá hiện thực. Biết đưa trữ tình vào hiện thực,
thì nhà chữ với cửa thơ của anh không những đã có cái mái vừa tiện nghi vừa đẹp,
mà còn ngoi cao trên toàn cảnh đám nhà thơ ụp xụp chung quanh.
° ° °
Bài Lạc đường dưới đây man mác một nỗi trữ tình của
một tâm hồn lẻ chiếc:
Một mình đứng giữa quãng đường xa
Có gặp ai không để đợi chờ
Nước biếc non xanh coi vắng vẻ
Kẻ đi người lại dáng bơ vơ
Gọi người chỉ thấy mây xanh ngắt
Soi nước càng thêm tóc bạc phờ
Đường đất xa khơi ai mách bảo
Biết đâu mà ngóng đến bao giờ.
Bài thơ lả xuống như một cái lá trĩu buồn. Và buồn như một cuộng lá trôi chỉ một
mình trên cả một dòng trữ tình. Nói theo giọng người tin đạo say kinh Thiên
Chúa, thì nó buồn như một trang Sáng thế ký lúc sự sống chỉ mới có một mình ông
A Dong mà chưa có bà Evà. Giảng đến bài Lạc đường, thường có những ý kiến cho rằng
Tú Xương mượn lối ẩn dụ để kín đáo bộc bạch chút lòng ái quốc của mình. Tôi
không biết có thật chắc là như vậy không, khi Tú Xương làm bài đó. Ở đây, cái
tôi cầm chắc được, là một cái chất buồn, một cái kiểu buồn nên thơ trong thời
đó của Tú Xương. Buồn trên tinh thần cả bài, buồn trong từng tiếng của chữ thơ.
Nó là cái buồn của một người có ý thức về cái buồn của mình. Nó là cái khổ não
của một người bộ hành vẫn bước đi nhưng chưa biết rồi đi tới đâu. Một người bộ
hành không muốn đơn độc, nhưng chưa biết là sẽ đồng hành với những ai đây! Cũng
muốn chờ bạn đường, nhưng phân vân không biết có nên chờ không? Tâm trạng nửa
tin nửa ngờ của người làm thơ, đã khuôn cho nhịp thơ cái dáng dấp của một ông
khách nhỡ độ đường, bước đi một bước một chờ. Nói đến phong cách trữ tình, ta
thường hình dung tới những cái gì sải dài sải dài, những bước lớn câu dồn.
Nhưng phong cách trữ tình, cũng có những cái chuyển chỗ ngắn ngắn, chân như còn
nghe đất rồi mới đặt xuống. Âu cũng là một tư thế trữ tình của Tú Xương, nhất
là ở bài Lạc đường đó.
° ° °
Lại trở lại thi pháp Tú Xương phối hợp cả hiện thực cả trữ
tình, lấy cái hơi trữ tình mà làm sống động lên những đồ vật thường dùng và sự
việc hàng ngày. Như trong bài Đi hát mất ô:
Đêm qua anh đến chơi đây
Giày giôn anh dận, ô tây anh cầm
Rạng ngày sang trống canh năm
Anh dậy em hãy còn nằm trơ trơ
Hỏi ô, ô mất bao giờ
Hỏi em, em cứ ỡm ờ không thưa
Chỉn e rày gió mai mưa
Lấy gì đi sớm về trưa với tình
Ở tám câu lục bát này thì bốn mươi hai tiếng trắc bằng của sáu câu đầu, tôi gạt
sang cho phần hiện thực với những tiếng choang choang lên chất tả thực: giày
giôn, ô tây, nằm trơ, hỏi ô mất, ỡm ờ, không thưa. Sáu câu đầu nói rành rọt về
một chuyện mất ô, mất ở đâu, mất trong trường hợp nào, và có thể đoán được người
ăn cắp và thấy hiển hiện nỗi ấp úng lúng túng của kẻ gian đó. Câu chuyện kể lại
bằng thơ ít lời, nhưng đủ sự việc tình tiết không kém gì lời văn xuôi, có thể
làm thỏa mãn được một ông quan tòa dự thẩm, và có thể làm mẫu cho một cách giảng
văn ở một lớp văn nào. Có thể ngừng ở đó. Nếu làm văn xuôi (làm một cách xuôi
xuôi), được phép ách lại đó. Nhưng đây là làm thơ, chưa ngừng được chưa thấy gì
là mùi thơ tiếng thơ, chưa thấy ló ra thi sĩ. Cho nên phải đi bước nữa, nếu thật
sự muốn làm thơ. Chỉ thêm có hai câu nữa mà cứu được đoạn văn xuôi xuôi dễ dàng
đó, và chuyển tất cả sang phạm vi thơ.
Chuyển thể tài, chuyển đề tài và chuyển cả chủ đề. Bài thơ nổi gió lên từ hai
câu cuối cùng. Từ một chuyện ăn cắp đồ vật, đáng lý chỉ gây nổi một chút tiếc của,
Tú Xương trang trọng nâng nó lên thành một nỗi niềm hồi hộp xót thương của những
cặp tình nhân muôn thuở.
Vẫn trên cái cơ sở thực tế đê hạ ấy mà nâng lên, vẫn từ cái vòng bo bíu khốn khổ
đó mà mở rộng nó ra, cho nó có được ít nhiều chân giời. Bên cái lụy tục,
Tú Xương lồng vào một nét thanh tâm, Tú Xương lấy một cái trong trắng mà
gạn lọc cái vẩn đục, và hút nó theo lên với thơ mình. Nếu ta có soạn san lại Tình
sử của ta, tôi nghĩ rằng ta họ nên không để bài thơ này vào?
Bài thơ Đi hát mất ô đây, "nghe" rằng còn có sáu câu lục bát trả lời
cho tám câu hỏi trên kia:
Mưa thời mưa cũng có khi
Nắng thời nắng cũng có kỳ mà thôi
Ví dù anh có thương tôi
Thì anh hãy cứ đội giời mà lên
Ví dù anh bắt em đền
Thì em đền cái hơn tiền bằng ba
Sáu câu đây, hồi tôi còn nhỏ tuổi, ngồi hầu đóm hầu trà các bạn của cha tôi,
nghe các cụ bảo là của Tú Xương. Lớn lên, những lúc đi hát ở một vài giáo phường,
lại thấy các cụ nhà nho bảo ả đào ngâm sáu câu đó lên, và không hết lời khen Tú
Xương đã khéo mượn lời chủ nhà hát mà trả lời ông khách thật tài. Vậy như thế
là toàn bài Đi hát mất ô có những mười bốn câu: tám câu vẫn đăng và sáu câu
phát hiện kia, nó là hai vế của một cuộc đối thoại tình tứ. Sáu câu của người
trả lời, thật là xứng đáng quá, ăn giọng quá với tám câu của người hỏi ô mất. Gần
đây, ông bạn Chu Thiên, cho biết rằng ở Nam Định, cũng nhiều người nhắc đến sáu
câu đó của Tú Xương. Thực hư ra sao, tôi chưa dám khẳng định, và chỉ xin ghi ra
đây, để những bạn yêu thơ Tú Xương rộng thêm đường tham cứu. Riêng tôi, tôi
cũng cho sáu câu đó rất có thể là của chính Tú Xương. Vẫn một hơi trữ tình đó,
vẫn một giọng ỡm ờ dễ thương dễ luyến đó, vẫn cái phong cách cởi mở ra đó của một
thứ thi nhơn hay đùa chữ mà cột người, ý tốt mà lời nhả.
Thơ là mở ra một cái gì mà trước câu thơ đó trước nhà thơ đó, vẫn như là còn bị
phong kín. Bài Sông lấp dưới đây càng rõ cái điệu "mở vào mở
ra" đó:
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ giồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng riêng ai gọi đò.
Tôi không được tường về năm sinh tháng đẻ chính xác của bốn câu lục bát này,
nhưng theo ý riêng tôi, đây là ngữ ảnh của những thanh điệu chín nhất, tròn nhất,
viên mãn nhất ở tiếng thơ Tú Xương của cả đời thơ Tú Xương.
Nếu chúng ta cùng thỏa thuận rằng nói chung trong thơ Tú Xương có cả hiện thực
có cả lãng mạn, thì trong riêng bài Sông lấp này, lại càng rõ cả hai cái phần
thể phách hiện thực và linh hồn lãng mạn ấy. Hai câu đầu không có gì là "mở
cửa sổ thấy núi" cả, bình thường thế thôi, các bạn làm vè bình thường và
tôi làm văn nhật trình tường thuật đưa tin, mọi người chúng ta đều làm được cả
Nhưng đó mới chỉ là đếm việc kể việc, như cái kiểu đi thực tế mà nô lệ chi tiết
thực tế, chưa biết nâng thực tế lên, còn lệ thuộc vào nét vặt mà chưa có tí gì
là sự hóa sinh do tâm hồn mình thổi vào. Nếu con sông lấp Vị Hoàng mà chỉ có
hai câu đầu lục bát ấy thôi, thì con sông Tây lấy đi kia có thể coi là tuyệt tự
rồi, và tên tuổi nhà thơ của nó cũng có thể phần nào lấp theo đi với con sông cạn.
Nước "con sông thời thế" Vị Hoàng bất chấp mọi sự cạn lấp, đến ngày
nay vẫn còn chảy tới thế hệ chúng ta hợp lưu được với lòng chúng ta, chính là
do cái nguồn mạch trữ tình của hai câu thơ sau tiếp đẩy nó đi.
Và mạch nước ngầm ấy còn chảy xa lắm. Tôi nghĩ đến một tương lai Việt Nam mà
sông cái sông con, suối chị, suối em, trên khắp Tổ quốc ta sẽ hết cả đò ngang
mà chỉ còn có toàn là cầu sắt cầu bê tông, hoặc cùng giả lắm là phà máy. Cho là
mười kế hoạch năm năm nữa thì căn bản có thể tuyên bố là đã hết đò ngang chứ
gì! Và lúc ấy đò ngang không là hình ảnh của vận tải quốc doanh, mà chỉ còn là
những vốn dân tộc giữ lại cho những cặp tình nhân nhàn tản trên mặt sông hồ sau
những đợt dài lao động vì mọi người. Tôi cho rằng tới ngày đó và sau đó nữa,
trong lòng những người Việt Nam của năm 2000, của năm hai nghìn lẻ mấy chục chi
đó, càng vang hưởng cái tiếng u hoài Tú Xương gọi đò trên sông lấp. Những thế hệ
sau này thật là không thể nào hình dung được đầy đủ cái thảm kịch gọi đò đêm
sông vắng và cái thảm kịch đợi nước gọi đò - hiểu theo cả nghĩa đen kinh tế lạc
hậu, hiểu theo cả nghĩa bóng chính trị của những người yêu nước trước đây nói bóng
gió về thời cục bằng hình tượng thơ. Nhưng tôi tin rằng những thế hệ sau đây được
nâng cao vật chất và tinh thần, được học nhiều học rộng gấp mấy mươi chúng ta
bây giờ, họ có một quan niệm rộng rãi hơn về xử sự xử thế của những con người đợi
nước ngóng đò trước đây, và họ cảm thông nhiều hơn là lên án. Cái học lực của họ
sẽ tạo cho họ nhiều độ lượng nhân ái hơn, tình cảm rộng rãi và trong lắng hơn,
và họ có thể còn cảm thông thâm thúy và xúc động sâu sắc hơn nữa với hiện tại gần
đây của lớp chúng ta. Thực ra cái lớp chúng ta đây, cũng là một lớp người còn
xơi mới thoát đò ngang, cũng là vừa sang xong một vài chuyến, có những chuyến
thuận chèo trót lọt, bến đông rộn lên như hội mùa, nhưng cũng có chuyến gian
nan, tay lái mà không dẻo không cứng, thì cũng dễ đắm con đò có lúc đã thấy chiềng
hẳn đi.
3
Tú Xương là người trong quá trình lao động nghệ thuật, đã thừa
kế được cái cười dân tộc.
Thừa kế và phát triển. Ở nhiều bài, chữ thơ, tiếng thơ, vần thơ, hơi thơ của Tú
Xương có giá trị bổ sung thêm cho tiếng cười dân tộc. Thêm cái điệu cười Tú
Xương vào, tiếng cười dân tộc như là thêm ra âm sắc, như là thêm ra nhiều đốt
nhiều khớp. Do đó, trong mọi tiếp xúc với đời sống để phản ánh lại sự sống, tiếng
cười duỗi ra co vào có sự thoải mái hơn.
Trong tiếng thơ, tiếng nói Tú Xương có một giọng cười một lối cười đặc biệt của
Tú Xương. Xin mời các bạn cùng tôi bước vào chốn vườn hoa Tú Xương đang nở nhiều
hương cười sắc cười. Nơi đó nhiều bông nẫu cánh lả cành mà vẫn có cái dư hương
của vui sống. Cũng không cần phải đi theo trình tự trật tự gì, mà thấy cây nào
ra hoa mà tiện mắt, tiện tay, tiện chỗ, thì ta nên xem trước.
Trong mớ tập tục xã hội cũ, còn gì nghiêm cẩn, trang trọng và phải kiêng cữ bằng
những quan hệ xã giao vào ngày Tết đầu năm. Không ai không chúc nhau một điều
gì. Và càng những người không ra gì về đức tài tư lại càng mang những cái đó ra
mà tặng nhau một cách thật là xa xỉ om sòm. Nghe mà lộn ruột lên được, Tú Xương
phải làm luôn năm bài tứ tuyệt, gọi là có ý kiến chút đỉnh với cái Tết bừa bãi
như thế của thiên hạ.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Cả trong năm bài chúc Tết, thì bốn bài đều dùng đại danh từ nó. Nó đây là ai? Nếu
tôi hiểu không sai lắm, thì nó đây tức là cái bọn rởm, cái lũ hợm, cái đám
hách, cái tầng lớp hãnh tiến, cái mặt trái của khẩu hiệu "phú, quý, thọ,
khang, ninh" đương thời. Cho nên, có vị độc giả nào thích chấm điểm cho hạnh
kiểm thi nhơn, cũng không nên máy móc mà kêu Tú Xương là khinh bạc. Không khinh
bạc với cái đám điêu bạc ấy thì rồi ra dành cái phần trung hậu với ai đây?
Cái cười Tết của Tú Xương, Tú Xương bèn rao to nó lên. Để cho cái đám đa thọ
(mà không thấy là đa nhục) kia phải chạy ra mà nhận lấy cái cười ấy. Tú Xương tự
cho mình là một ông bán cối thọ, và cái cười Tú Xương trở nên một thứ vôi của
miếng trầu lỡm mà đang "thiên hạ bao nhiêu đứa giã...!'.
Nó lại chúc nhau cái sự Sang
Đứa thời mua tuổi đưa mua quan
Tú Xương liền nhập cái cười của mình sang một cái lọng. Cái lọng xòe lên một đống
nhơ, và cái cười của ông lái lọng văng ra thành một câu chửi. Vừa chửi khách vừa
rao hàng, không những đã không ai đánh tên bán hàng mà thiên hạ lại còn cứ lăn
vào mà mua, vì cầu nhiều cung ít, vì quan nhiều lọng ít. Nói chung bốn bài tứ
tuyệt trong năm bài chúc Tết, cảnh tình khác nhau, nhưng đều chung một cái cười
trùm lên của Tú Xương. Một cái cười không cất lên thành tiếng. Cái cười ấy
không hiện trực tiếp ở chữ, ở từ, mà nó lẩn vào trong sự kiện. Nó có tí chua tí
chát, và cũng thuộc vào loại võ khí nổ chậm.
Tiếp đến bài tứ tuyệt thứ năm chúc Tết, hình như Tú Xương vừa cho thu hồi lại một
cái cười chẳng được đừng.
Vừa bảo với tất cả: Thôi, không đùa nữa. Bây giờ bàn vào cái chính tang của vấn
đề nhân phẩm. Thì với các người, ta có mấy lời rằng:
Sao được cho ra cái giông người (!).
Đến bài tứ tuyệt thứ năm, vì tắt cái cười, mà hơi thơ nhịp thơ đều chuyển hết.
Cái cười héo hết trên miệng cợt, và nơi khóe mắt cũng sa thầm mấy giọt thương.
Một cô me Tây, chán chồng Pháp cô-lô-nhần cô xoay ra đi ở chùa. Tú Xương cười.
Rứt cái mề đay ném xuống sông
Thôi thôi tôi cũng mét xì ông !
Loại cười này dễ hiểu nhất. Đọc bằng mắt hay nghe bằng tai, đều cười được ngay.
Kiểu cười này không có gì sâu sắc thâm thúy, nhưng ưu điểm của nó, là nó có
ngay, nó đến ngay, không phải thông qua sự giải thích nào.
Đắp móng xây tường cho cái cười này, không tốn công nhiều, chỉ cần ông phó cả ấy
biết chọn lấy những viên gạch cần thiết. Những âm chữ lai căng ngoại ngữ
"mề đay", "mét xì" đó, chính là những viên gạch được chọn
đưa vào. Những viên gạch này, đối với nhà khảo cổ, còn có cái đặc tính đánh dấu
lại một giai đoạn lịch sử lúc Tây mới chiếm nước ta.
Đùa một cô gái hàng phố khác làm ra bộ ta đây đoan trang lắm, Tú Xương vẫn cười
bằng cái cười đã dùng với cô me Tây vứt mề đay:
Hầu lô Khách đà ba bảy chú
Mét xì Tây cũng bốn năm ông
Cười ở đây, cũng vẫn dễ cười thôi. Cách thao diễn của Tú Xương ở trường hợp này
vẫn là lối kỹ thuật dễ dàng, đưa ra tới đâu, liền kết quả ngay tới đó. Nhưng muốn
cho cái cười đó trở nên ý nhị hơn, tự người bạn thơ trung bình của Tú Xương phải
hình dung ra cái môi trường "ông Tây chú Khách" nhố nhăng của tiếng
cười đó. Thử bằng miệng mình nhại lên mấy tiếng trọ trẹ ngoại lai xi xố xì xồ
kia, thì càng thấy chữ nghĩa nó thật là buồn cười!
Cũng vẫn lấy từ lấy chữ ra mà cười bằng từ bằng chữ, nhưng cái cười Tú Xương đã
đi dần vào chỗ tinh vi của ngôn ngữ. Ví dụ như vịnh đi thi, có hai người giành
nhau đỗ cao đỗ đầu:
Hai đứa tranh nhau cái thủ khoa
Những từ những chữ vốn thường dùng, nay trải qua một cách luyện kim của Tú
Xương, đã tạo hẳn một quan hệ mới. Câu thơ tả trường thi, hóa ra phản ảnh những
thực phẩm. Và hai người học trò công danh kia đang xùy chữ Hán ra, lạm danh kẻ
sĩ mà đòi mà nhận phần thịt, sao cho người nọ nhanh tay hơn người kia. Trên quầy
dính máu và mỡ, cái thủ khoa chỉ còn là một cái thủ lợn. Anh đang định xem cái
trật tự của một nơi học hành thi đua, thơm phức mùi mực tàu giấy lệnh, thì người
ta lại cho ông thấy một cái trật tự của cá thịt ỏm tỏi. Cái cười hiện ra từ chỗ
đột xuất đó, và người được cười không hề thấy mình bị đánh lừa gì cả.
Đi lần lần vào sự tinh tế của chữ nghĩa, tức là càng đi vào cái thế giới tiếng
cười của Tú Xương, Tú Xương khen để mà chê ngay những người trúng cử nọ:
Năm nay đỗ rặt phường hay chữ
Kìa bác Lê Tuyên cũng thứ ba.
Nếu thật tình là khen, thì phải nói là "... đỗ toàn những người hay chữ",
chứ tiếng rặt và tiếng cũng đó, chỉ là mỉa thôi. Cái cười mỉa,
tạo nên do biết đặt chữ, đặt nó khớp đúng vào chỗ đích đáng của nó.
Cũng cái cách lọc chữ luyện chữ đó để đánh cái hư cái hỏng, Tú Xương than cho một
người đàn bà hủ hóa:
Mới biết hồng nhan là thế thế
Trăm năm trăm tuổi lại trăm thằng.
Nếu hai câu này, tôi lấy tay bịt đi ba tiếng cuối, để cho anh chỉ đọc thấy
"...hồng nhan là thế thế - Trăm năm trăm tuổi ..." thôi, thì anh thấy
đó chỉ là câu mào đầu tầm thường nào của một sự tuyên bố nhạt nhẽo nào đó thôi.
Nhưng tôi lại mở chỗ tay bịt ra, anh đọc liền một hơi "trăm năm trăm tuổi
lại trăm thằng", thì anh thấy ở anh đang trở lại một tiếng cười. Một tiếng
cười quen thuộc. Tiếng cười Tú Xương đó, xếp ra một cách toán pháp như thế này:
năm = tuổi = thằng. Tưởng một trăm năm (trong cõi người ta) thì thành ra cái
gì, đưa cho ta cái gì, chứ một trăm năm là một trăm tuổi thì có gì mà trịnh trọng
bằng lời thơ như vậy? Nhưng thôi, một trăm năm một trăm tuổi rồi sao nữa: Rồi đến
"một trăm thằng"? Theo dõi thực tế sự sống trong câu thơ, ít ai chờ đợi
sự phát hiện này. Và trên cái đống gạch đá không ăn thua gì với nhau kia, chữ lại đã
là một thứ vữa xi măng, quyện chúng nó lại. Có cái chất vữa hồ lại đó, mới xây
nên được tiếng cười. Một trăm năm, một trăm tuổi, một trăm thằng, hay là mấy
trăm thằng? Cái cười kéo rần như một câu vè của cả hàng phố làm ra để cười cái
sự "bao nhiêu tuổi, bao nhiêu năm tháng, bao nhiêu đêm ngày là bấy nhiêu
thằng".
Đùa sang một ông đàng điếm có tuổi, tức là một con đi đực bệ vệ râu bạc tóc
bông, cái cười của Tú Xương loãng hơn nhẹ hơn:
Lắng tai non nước nghe chừng nặng
Chớp mắt trăm hoa giả cách nhèm
Cần lắng kỹ hơn, mới nghe thấy tiếng cười nó cười một người đui điếc, giả điếc
giả đui một cách có lợi cho riêng mình, cho riêng cái tuổi mình.
Và lý thú thay, khi Tú Xương đem cái cười mà soi vào một anh tiểu tư sản thành
thị lúc Tây bắt đầu mở mang thị trường. Cái ông nhà nho này xoay xở đủ cách, chạy
chọt đủ khóe, trưng thuế trưng thầu, nho, y, lý, số, thầy dùi, thầy cò, nguồn
kinh tế trong đời sống toàn là nghi vấn.
Bụng ông rặt những máy đồng hồ
Múa lộn vòng quanh đủ mọi trò
Một đám nhà nho biến chất và tâm thuật đã giống như cái kiểu đồng hồ bị anh chữa
đồng bất lương thay đi chân kính khác, đổi đi dây cót khác. Nay đem cái cười -
máy - đồng - hồ ra mà đả con người phức tạp đó, đã khá hiện đại thay và linh hoạt
thay cái cười của Tú Xương?
Sẵn có một cách nhìn nó nảy ra chất cười, Tú Xương bật buồn cười khi người khác
trịnh trọng khăn áo nhang khói... mà lạy múa, mà lên đồng, mà khiêu vũ tôn
giáo.
Khen ai khéo tạc sự lên đồng
Một lúc lên ngay sáu bảy ông
Đem cái cười này vào giữa điện, đền, phủ thì, trừ những con đồng định đùa dai
quá, còn nói chung các con đồng khác mà thánh thần chỉ nhập ốp đến mức nào, thảy
đều thấy có thể thăng được rồi. Trong bài Lên đồng, cái cười Tú Xương có
được tính khử độc dã độc. Từ chỗ làm mất thiêng đi những gì là tôn nghiêm giả tạo
trong cái đền thờ, cái cười Tú Xương đánh bồi luôn vào con đồng cho nó thăng hẳn
đi:
Đồng giỏi sao đồng không giúp nước
Hay là đồng sợ súng ca nông!
Từ một ngôi đền lăng nhăng, cái cười sắc cạnh của Tú Xương nhảy sang chiếu thơ
xuân của một tao đàn tầm bậy; nơi đây hồn thơ thì ít mà bã rượu bã thịt thì nhiều,
nói tâm hồn mà chỉ thấy có lòng tràng cổ hũ:
Ý hẳn thịt xôi lèn chặt dạ
Cho nên con tự mới thòi ra.
Cái cười ở đây phụt lên từ một thùng hỗn độn rượu thịt tọng vào những cái bụng
xuân đinh ninh là chứa chấp thơ. Trên cái đống thượng thổ hạ tả quá dung tục ấy,
thơ (con tự) đã xuống hết chất, và đặc lại thành một khúc dồi lợn thiu. Nó đã
có mùi hôi, nó lại xấu ở cái dáng nó thòi ra, như là mọi sự tục tĩu vẫn thòi ra
giữa lúc vô ý của người ta. Người ta liền trông thấy cái buồn cười, sau khi
đánh hơi phải cái buồn cười.
Các bậc triết nhân thường nói rằng cái cười là đặc tính của con người đã được
tách ra khỏi loài vật. Nay Tú Xương chơi khăm, lại lấy cái cười của mình ra mà
bắt một người đồng loại của ông phải "đầu thai" lộn vòng lại mà làm một
con vật. Con vật này nguyên là một ông cử nhân chính tên là Ba, và Tú Xương hóa
nó thành ra một sinh vật thuộc loại rùa. Ông cử Ba mặc dù dốt quá mà cứ được đỗ
đó, đã thành ra một con ba ba.
Ai ngờ mũ áo đến ba ba
...Tuy rằng cổ rụt mà không ngỏng
Hễ cắn ai thì sét mới tha
Bài thơ Ông cử Ba gây cười ở cái cách Tú Xương làm ngược lại cái kiểu
làm cổ truyền của những nhà thơ ngụ ngôn hay nhân cách hóa loài vật, cho con
chim con thú nói, nghĩ, làm như giống người. Tú Xương bắt quẹo lại, cho kiếp
người dốt đỗ to kia trở về kiếp vật. Mũ đẹp, thân danh nó không có tội lỗi gì
nhưng khi nó đặt lên cổ rụt ba ba, thì trông nó buồn cười: nó đè nặng xuống,
không cho cái bất tài đó ngỏng lên. Cái giống ba ba, đặc thù của nó là cắn rất
phàm, đớp được ngón tay ai, liền thụt đầu vào mu vỏ, có bật bùi nhùi vào đít
cũng không chịu nhả. Bà con nông dân có kinh nghiệm bị ba ba cắn, là chỉ còn có
chờ dông gió lớn, hễ sấm động thì nó mới chịu nhả ra. Ở câu cuối bài thơ ngụ
ngôn trái khoáy, Tú Xương muốn nói rằng "cái giống học dốt, đỗ được vì sự
cất nhắc bất công ấy mà bập được vào công danh, thì chỉ có giời họa chăng mới gỡ
nổi!". Thật đấy, con ba ba nghe sét nghe sấm còn nhả ra, chứ đến thứ
"người-dốt-ba-ba" thì sét có đánh chăng nữa, hắn ta cũng cứ xin chết
luôn tại trận, nghĩa là có phải chết, thì cũng xin cho được chết trên ghế sở ghế
tòa cho nó được trọn một kiếp!
Cái cười kiểu "ngụ ngôn con ba ba" đó muốn liệt nó vào loại tai ác
cũng được. Và bên cạnh cái cười quái ác đó, Tú Xương vẫn nhiều những nét cười
thật là lành hiền, lành hiền của những cái gì hồn nhiên thơ ngây. Ví dụ,
khi nhặt được của rơi, Tú Xương đã lấy một vẻ cười hồn nhiên ra mà nghĩ về cái
đồng tiền Tự Đức bắt được lúc đầu năm Tết vừa xuất hành ra khỏi ngõ nhà mình.
Ý hẳn nhà nho sang vận đỏ
Hay là con tạo thử người tiên
Muốn đem trả nợ đòi nhà lại
Hay để làm lương giúp chúa hiền.
Ai cũng thừa biết rằng cái đồng tiền đồng, cái đồng tiền kẽm nhặt được của đường
kia, không có được bao lăm giá trị mua bán trên thị trường hiện vật. Từ cơ sở một
giá trị vẩy hến tiền tệ đó, Tú Xương nghĩ và bàn đến nhiều thứ chuyện to ích nước
lợi nhà! Về tiết tháo! Về số phận! Nhìn vào bấy nhiêu chữ thơ, thì không có chữ
gì trực tiếp gây ra cười cả. Nhưng nó buồn cười ở cái cách tính toán và khuếch
đại của người nhặt được của rơi. Cái cười không nở ra. Cái cười chỉ mới là một
cái nụ của một thứ hoa muốn thơm thảo.
Tú Xương đã đem cái cười thơ lành ấy ra mà cười với một cỗ đồ chơi Tết rằm
tháng tám của trẻ em: ông tiến sĩ giấy.
Ông đỗ khoa nao ở xứ nào
(...) Mỗi năm một Tết Trung thu đến
Tôi gặp ông nhưng chẳng muốn chào
Thơ đùa này, truy cho cùng, vẫn có dính dấp đến cái tâm sự một người đỗ thấp mà
lại còn công khai coi thường những anh đỗ cao, coi phần nhiều thiên hạ chẳng
qua cũng là tiến sĩ giấy rỗng ruột cả đó thôi. Nhưng cái điều bực bội vốn có ở
Tú Xương ấy, trong bài thơ này, không thấy bật ra lời. Mà lời đây chỉ là một
cái cười hồn ngây góp vào một ngày vui của thiếu niên vui trăng chín trăng
tròn. Nhìn cái ông tiến sĩ làm bằng giấy bồi, Tú Xương như quên đi mọi tiến sĩ
giấy đang thật sự sống lù lù quanh đám hội.
Tú Xương dừng lại trước một đám cỗ trước một ông tiến sĩ đồ chơi, đối thoại thầm
với đồ chơi như mọi trẻ em khác. Nhưng dù muốn hay không muốn, cái tính nghịch
đùa lại vẫn bật ra: "Tôi gặp ông, nhưng chẳng muốn chào". Cái cười nằm
trong một câu hỏi. Hỏi như thế, thì đến cái đồ chơi kia không đáp lại được lời
chào (nếu Tú Xương muốn chào thật), đến nó cũng phải bật cười?
Những kiểu hồn ngây như thế, không cẩn thận thì cũng dễ thành ra lẩm cẩm và rẻ
tiền. Những câu thơ về chuyện bán thực phẩm thừa cho Tây cũng là nằm trong cái
mạch buồn cười hồn nhiên bất ngờ và mát mẻ đột ngột đó:
Trồng ngô lại trồng đậu
Cấy chiêm lại cấy mùa
Ăn không hết thì bán
Bán đã có Tây mua!
Nói về xúc cảm và tình cảm, cổ nhân lọc ra bảy tình:
1 Tình mừng, 2 - Tình giận, 3 - Tình thương, 4 - Tình vui, 5 - Tình yêu, 6 -
Tình ghét, 7 - Tình muốn (dục).
Khi bàn đến cái cười, tức là ta đụng vào hai tiết mục thứ nhất và thứ tư của bảng
tình cảm trên. Trong cái cười, thường là có hỷ (mừng) có lạc (vui). Nhưng cái
cười Tú Xương lại có cả ố nộ nữa (ghét, giận). Như bài than cho sự thi:
(...) Ới thi ơi là thi!
Ới khỉ ơi là khỉ!
Tôi như hình dung thấy tiếng cười sằng sặc này. Tôi muốn dàn cảnh và đạo diễn
cho tiếng cười này: sau khi trường thi yết lên những người dốt lại được đỗ, thì
ở một cái sân nhà nho nào đó, có một mâm rượu để mạn đàm tiếu đàm về thi thiếc
tài tiếc: Những tửu đồ bất mãn này, người nói, người chế, người chửi, người lặng
thinh mà tức giận chán ghét. Bùng lên hai câu than "Ối thi ơi! Ối khỉ
ơi!" Tú Xương sằng sặc, tiếng cười Tú Xương như tổng kết bữa rượu bất đắc
chí của cả bọn. Tiếng cười như phá.
Tiếng cười tung hê đi mâm rượu, tung hê đi cả cái sự khen thưởng của triều
đình. Trong lòng ngõ sâu, cả bọn chân tài say rượu ra về, rền lên tiếng cười ngặt
nghẽo mà phẫn nộ, cái tiếng cười dấy loạn của Tú Xương.
Thời của Tú Xương là cái thời mà người ta cũng hay cười. Tình hình nhiều mặt
trong một xã hội mất nước còn có gì là vui nhưng không phải tắt hết giọng cười.
Những cái cười dân gian và cười sĩ phu ấy nó vẫn nằm trong cái mục thanh nghị cổ
truyền. Nó là cái tiếng phê phán của một dư luận đối với một trật tự luân lý cũ
song song tồn tại một cách vật vờ cạnh một trật tự mới nhập cảng vào.
Làm sao mà lại không phì được cười vào cái giao thời đó, vào cái thời đó. Cái
thời mà có những vị:
(...) Tổng đốc khéo tinh ngầm
Chiều bố cu Tây cõng mẹ đầm
Đôi vú vắt vai đầu nghển nghển
Hai tay bưng đít mặt hằm hằm
(Yên Đổ Nguyễn Khuyến)
Cái cười của cái thời ấy thường phải rút vào bóng tối 6. Và những cái cười bí mật đã đóng góp vào văn
thơ bí mật thời ấy. Nó không được đông và nhiều như thơ văn yêu nước làm suốt
thời kỳ đi tù đế quốc, nhưng nếu các nhà sưu tầm đi sâu vào vỉa than này, tôi
cho rằng sẽ lọc được ra nhiều vè nhiều thơ quý. Trong số những loại cười bị vùi
kín đi đó, nhân một buổi đẹp giời uống rượu, có người cho tôi được mấy câu dưới
đây (mà tôi rất tiếc là chưa kịp hỏi được ra tên người chủ nó):
Chẳng phải chó cũng chẳng phải mèo
Cái mặt phèn phẹt đuôi cong queo
Ngày ngày hai buổi chầu quan sứ
Kiểu mẫu cụ tuần thật khó theo.
Để thấy cho đầy đủ ý nhị của cái cười nhà nho này, cho phép tôi thuật lại điển
tích của bài thơ. Hồi đó, ở một tỉnh miền Bắc nọ, quan tuần phủ cứ phải ngày
ngày sang làm việc ngay tại dinh quan công sứ Pháp. Sau này quan tuần mới có
dinh riêng. Một hôm nào đó quan sứ sang đáp lễ thăm quan tuần tại dinh quan tuần.
Lúc ra về, ngài sứ lịch thiệp vẫn chưa tìm được ra câu gì để ban khen cho quan
tuần phủ ngoan ngoãn. Xuống hết tam cấp gần ra đến cổng dinh, quan sứ bỗng nhìn
thấy hai con nghê nơi trụ cột đắp bằng vữa và mảnh sứ. Ngài sứ xoa đầu con nghê
tam cấp, tươi tỉnh và thích thú mà bảo quan tuần: "Mấy con này đẹp quá lắm".
Thế rồi ngài lên xe ra về, bụng hân hoan vì con nghê đã gợi ngài úy lạo được
quan tuần. Quan tuần tưởng là quan sứ thích giống nghê, bữa sau liền sai một hiệp
thợ nề sang đắp nghê bên tòa sứ. Chỗ nào có cấp xi măng lên xuống, là cho đắp
nghê hết. Quan lưu trú Pháp không có ý kiến gì. Chỉ có thời nhân thấy ngứa miệng,
nên phải vịnh cái mặt quan tuần nịnh thần qua cái mặt mấy con nghê phi nghê đó.
Trở lại cái cười của Tú Xương, thấy có lúc Tú Xương dựa hẳn vào con chữ trong từ
ngữ mà rắc gieo tiếng cười. Có lúc chữ thơ không trực tiếp làm ra tiếng cười,
mà ý cười lại lẩn vào cái cảnh ngộ tình tiết dẫn ra. Có cái cười tức khắc, có
cái cười mai phục, cái cười cốt mìn nổ chậm, có cái cười "làm giặc".
Có khi cười sỗ sàng, và khi không cần bóng bẩy tế nhị, thì Tú Xương như xin lỗi
người nghe mà văng luôn ra, cho nó tiện và cho nó trực diện hơn. Có khi cười
thoảng, hiểu nhau thì cùng cười, mà không hiểu để không cười thì cũng coi như
là không có gì cả. Tú Xương có một kiểu cười mà bà con Trung Bộ thường gọi là
cái kiểu tưng tưng của những hôm nghề về hí hước, nội dung hài đàm sục sôi, mà
hình thức kể thì như một thứ nước lạnh vô tình chảy qua đi bên tai trước mặt.
Trong tiếng cười Tú Xương, có cái ung dung tự tại, độ lượng dung tha của một
người từng trải thói đời, và lại có cả cái nhiệt huyết của một người muốn xông
ra chặn lại một vài thứ gì đang đọa lạc quá đỗi.
Cười hồn nhiên như trẻ, nhưng có khi cái cười Tú Xương chồm dậy đá một cú điểm
huyệt cho nó chết ngay đi một cái xấu đang cầm cân nẩy mực cho sự sống nhỡn tiền.
Nghĩ cho cùng, thì tiếng cười Tú Xương có ưu điểm này ưu điểm khác và ít sa vào
cái cười dễ dãi hề mồi hề gậy.
Cười Tú Xương, là một tiếng cười có dư âm. Dư vang tiếng cười ở một số câu, còn
là cái tiếng đồng vọng của một lối cười "nói cười trăm mặt, rơi châu
vắng người".
4
Từ vua Minh Mạng (1820-1840) trở đi, toàn quốc có bảy trường
thi. Tính từ trong ra, tính từ Nam đến Bắc, thì bảy trường thi đó là những trường:
1 Trường thi Gia Định (Sài Gòn).
2. Trường thi Bình Định.
3. Trường thi Thừa Thiên.
4. Trường thi Nghệ An.
5. Trường thi Thanh Hóa.
6. Trường thi Nam Định.
7. Trường thi Hà Nội.
Mỗi trường thi coi như một khu vực chiêu sinh chiêu hiền, bao gồm nhiều tỉnh.
Ví dụ trường Hà Nội thì chiêu sinh những sĩ tử gồm trong tám tỉnh Lạng Sơn, Cao
Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Sơn Tây, Ninh Bình và Hà Nội. Ví dụ
trường Nam Định thì gồm học trò bốn tỉnh Quảng Yên, Hải Dương, Hưng Yên và Nam
Định.
Những lúc bình thường thì trọng điểm địa điểm của nhà vua xưa tuyển mộ nhân tài
là như vậy, và học trò của tỉnh nào thì thi ở khu vực trường thi đó. Nhưng từ
khi Pháp đánh Hà Nội, đánh Nam Định, và nói chung là mưu chiếm Bắc Kỳ Trung Kỳ,
thì một số trường thi cũng "trải qua một cuộc bể dâu".
Ví dụ như chuyện mất trường thi Hà Nội. Ví dụ như chuyện sĩ tử bị treo giò
(bút), học trò Bắc Kỳ mất thi năm Nhâm Ngọ 1882 (cứ những năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu
thì mở khoa thi; nhưng năm Ngọ 1882 đó, Tây đánh thành Hà Nội lần thứ hai). Tất
cả sĩ tử thuộc hai trường Hà Nội Nam Định nghĩa là học trò mười mấy tỉnh Bắc Kỳ,
phải chờ mất thêm hơn hai năm nữa mới được triều đình Huế cho vào Thanh Hóa phụ
thi vào trường Thanh Hóa. Lý do của sự thứ ghép đó? Là vì Hà Nội thất thủ, thì
trường thi Hài Nội cũng "thất thủ", và sĩ tử thủ đô bị chiếm hãy đi
tìm nơi khác mà thi... Hà Nội mất trường thi, thế còn trường thi Nam Định thì
sao? Thì lính Tây cũng vừa đốt cháy rụi cả trường thi Nam Định vào năm 1883 đó.
Trường thi Nam Định cũng là một trường đặc biệt. Lúc thi, vì cháy trường thi,
mà sĩ tử trường Nam phải lưu vong mãi vào trong Thanh Hóa mà ghé ống quyển thi
nhờ. Đến lúc Nam Định đã dựng lại được trường thi, thì từ đó lại được nhận cả học
trò Hà Nội dồn về. Cũng như mấy khoa trước, khoa Đinh Dậu đó (1897), anh Hà Nội
bị Tây đuổi trường, lại vẫn phải chạy xuống Nam Định, chuyển cái không khí kinh
kỳ xuống vùng quê hương Tú Xương, "trường Nam thi lẫn với trường
Hà".
Riêng cái trường thi Hà Nội cũng đã bị đóng trường thi, ngay từ trước cái năm
1882 Hà Nội mất thi đó, lính Tây chiếm trường thi làm trại lính trong bốn năm
(theo lời ghi của Mát xông). Trường thi Hà Nội lúc đó tự nhiên thành ra một cái
địa điểm tập kết của lính Tây từ đó tấn công thẳng vào mấy mặt thành Thăng
Long, trong dịp Hà Nội thất thủ lần I (1873). Bọn lính kéo tất cả đi đánh
thành, và chỉ để có tám tên ở lại trong trường thi trông coi đồ đạc hậu cần.
Nó chiếm xong thành, nó lại trở về cái trường thi chiếm đóng. Liền mấy năm, cái
chỗ trang nghiêm thi đua giấy bản mực tầu tứ thư ngũ kinh đó, nay làm chỗ chuồng
phân ngựa Tây, hố tiêu lính đen lính trắng. Bọn lính Pháp giặt giũ quần áo trước
trại họ, và đào rất nhiều giếng ăn. Xưa kia là hố cọc trồng cột nhà thập đạo và
cột nhà các quan chấm trường, thì nay là hố giặt và giếng ăn của bọn lính kiết
lỵ.
Trường thi bị chiếm làm trại lính Tây, cũng như nửa thế kỷ sau, trường học Pháp
Việt con gái con trai đều trở thành bản doanh lê dương, đạo binh thuộc địa, và
trại lính Nhật. Võ cứ giẫm vào văn, hồ như đã sẵn cái nếp cũ đó
của trường thi Hà Nội xưa chăng? Giữa bãi trường thi, kéo lên chiếc cờ tam tài.
Ông quan Huế làm chức kinh lược Bắc Kỳ trọ trẹ xun xoe dàn ra một ngàn lính áo
nẹp, nón dấu, đón ông lãnh sự Pháp vào trường thi. Trường thi lại trở thành
hành dinh của lãnh sự Pháp.
Ta vẫn cần trường thi Hà Nội, mà Tây thì ì ra giữa trường thi, lấy cớ là khu Đồn
Thủy hai mẫu rưỡi ta cắt cho họ, thì chưa xong gì cả. Nó vòi ta, vừa vòi vừa áp
lực, đòi tăng diện tích nhượng địa Đồn Thủy phía bờ sông lên thành mười tám mẫu
lẻ mấy sào mấy thước gì đó. Ta cần lấy trường sớm, nên nó có bắt bí hơn thế nữa,
cũng phải nhận. Bấy giờ nó mới chịu giả trường thi, vào ngày 16-10-1876.
Một tháng sau đó, ta mở lại khoa thi. Khoa thi trường Hà Nội năm 1876 có năm
nghìn thầy khóa. Khóa thi sau 1879, có bảy nghìn sĩ tử (dân số Hà Nội lúc ấy là
năm mươi sáu nghìn ở sổ đinh). Trong suốt thời gian chấm trường, quan ta cấm
bán rượu, nhưng rượu bán cân vẫn lũ lĩ xuyên các cửa ô mà vào. Khóa thi 1879,
người đi thi, người không thi cử gì, tất cả Hà Nội trí thức năm ấy đều uống rượu
nhiều hơn những năm thi cũ. Vì khóa thi 1897 đó là khóa thi cuối cùng của trường
thi Hà Nội. Từ đó trở đi, anh học trò Hà Nội mất trường thi, lưu lạc đi các địa
phận khác mà trổ tài. Và trường thi Hà Nội dùng vào việc khác. Những năm đói
năm loạn, đến mấy chục vạn ăn mày tứ tỉnh đàng ngoài đều kéo về Hà Nội, và trường
thi biến thành nơi ăn mày lĩnh chẩn. Chín cửa trường thi trước đây mở ra cho học
trò len vào, thì nay lại mở ra để đổ gạo phát chẩn vào những bàn tay xòe ra nhận
nửa cân gạo một. Sau đó, thì Tây dùng nền trường thi làm nền cho Nha Kinh lược
Bắc Kỳ, làm nền cho nhà Đấu xảo đầu tiên của Pháp. Nói về trường thi Hà Nội hồi
đó, Tây còn giở giọng ba rọi mà bí bơ viết trong Tạp chí địa dư năm 1883 rằng
"... Trường thi bị coi như ô uế đi vì chúng ta đóng tại đó, và nó không xứng
đáng mà đón tiếp những cử tử và quan trường sau này. Có thể vì lẽ đó, có thể vì
họ cho rằng nhà nho sẽ bị hư hỏng vì xúc tiếp với chúng ta, có thể vì họ muốn hạ
giá đi một thành thị nay có đại diện chính quyền Pháp, mà từ đó trở đi, thi cử
đều chuyển về Nam Định...".
Ấy là chuyện râu ria về trường thi Hà Nội. Thủ đô Hà Nội đã có lúc mất trường
thi, thì kinh đô Huế cũng đã có lúc vỡ trường thi.
Năm 1885 đó (năm Trần Tế Xương lều chõng lần đầu tiên trong đời cử tử của mình
tại trường thi Nam Định), cũng là năm vỡ khóa thi hội thi đình, vỡ ngay giữa
sân rồng triều đình Huế. Khoa thi ở sân rồng năm mở đầu đời vua Hàm Nghi đó,
nhà thơ Nguyễn Thượng Hiền (sau này làm Đốc học tỉnh Nam Định) đỗ hụt tiến sĩ.
Loa vua sắp xướng danh thì đại bác lính Tây nổ vào kinh thành Huế thất thủ năm
Dậu đó. Các vị tiến sĩ hụt đều hoang mang ly loạn, và nhân dân tỉnh Thừa Thiên
thì làm giỗ tập thể. "Ngày quảy cơm chung" đó không ai là
không có thân nhân chết trong binh lửa vỡ thành.
Cờ quạt rải rác bỏ khắp đường.
Bên đường xương chất quạ bâu đặc
Sông Hương bóng xế nước ùn ùn
Mùi máu xông, người không qua được...
(Bài từ của Nguyễn Thượng Hiền
do Lê Thước và Vũ Đình Liên dịch)
Ở dọc phố Lãn Ông Hà Nội, nơi đống giấy lộn trong thúng một
bà đồng nát bán rong sách báo Tây cũ làm giấy gói hàng, thấy có những tờ sách
cũ Bắc Kỳ cố sự của Bua ranh nói về khóa thi hương Giáp Ngọ (1894):
"Trường thi Nam Định năm 1894 đông như kiến cỏ. Năm 1891, Nam Định chỉ có
chín ngàn sĩ tử, năm 1894 con số người đi thi lên tới mười một ngàn. Từ giữa
trường thi, chỗ đường thập đạo trông ra, trùng trùng điệp điệp những mu rùa bằng
tre, những tấm mui luyện nhà đò (ý nói những thi cụ lều chõng). Kỳ đệ nhất vào
ngày 25-10- 1894, kỳ đệ nhị, ngày 15-11. Kỳ đệ tam 25-11. Và kỳ phúc hạch đệ tứ
là ngày 2-12-1894. Ngày 8-12-1894 là lễ xướng danh những người đỗ. Tiếng loa
ran lên, ồm ồm lanh lảnh. Tiếng í ới gọi nhau lạc đường của người nhà các thầy
khóa, của tiểu đồng lão bộc quản gia nhổ lều đội chõng ra về trong đêm tối lập
lòe ánh đuốc. Đám đông lên tới hai mươi nhăm ngàn người. Lễ xướng danh từ sớm
cho đến chiều. Ghế bành của các quan chấm trường dự lễ tại ghế cao đến bốn thước
mét. Quan Toàn quyền bận không đến, có quan cai trị Moren thay mặt dự lễ. Cứ
xong mỗi tên ông tân khoa xướng lên là mất năm phút - tính từ lúc cất tiếng loa
gọi tên, xoáy sang phía phải xoáy sang phía trái, cho tới lúc người trúng thi
thích cánh lách được lên chỗ đệ trình căn cước. Khoa thi 1894 lấy sáu mươi cử
nhân và hai trăm tú tài (lệ triều đình đặt ra thường lấy theo tỷ lệ nhất cử tam
tú, cứ chấm lấy một cử nhân thì lấy được ba tú tài). Xướng xong tên sáu mươi
ông cử tân khoa, mất ba tiếng đồng hồ, thì quan sứ Moren về. Các ông tân khoa
phục xuống lạy. Ở tỉnh đường quan Tổng đốc, quan Kinh lược Bắc Kỳ ban mũ, ban
áo tấc xanh, ban ô, ban tráp sơn nó là những huân hiệu cụ thể của người men
chân lên cái thang hoạn lộ vân vân...".
Ngày yết bảng ấy được kết thúc nhốn nháo la đà ở tòa sứ Nam Định bằng một tiệc
rượu nhảy đầm đủ mặt các thứ tai họng tai mũi thực dân nứt mắt cũng như xồm
xoàm.
Những đoạn sách Tây nói về khóa sinh ta thi chữ Hán, lại có kèm cả ảnh, ảnh chụp
trường thi Nam Định. Một chu vi hàng rào tre đánh đai lấy một diện tích lều và
chõng. Lều, trong ảnh, toàn hình mui luyện. Không nhìn cước chú dưới ảnh, cũng
dễ lầm với một bến đò cạn nước, hoặc một cánh đồng lổm ngòm những mu rùa.
(Truyện ngắn Báo oán trong Vang bóng một thời (1940) của Nguyễn Tuân
cũng có dựng lại phần nào về những khóa thi của trường thi Nam Định).
Thơ và đời Tú Xương dính liền khít với thiết chế trường thi và sự thi cử ở trường
Nam Định. Có thể nói một cách khác: Tú Xương là một sự đi thi; hoặc: thơ và phú
Tú Xương là những hồi quang tê tái về sự thi cử lúc nó sắp tàn cục.
Tính lại mà xem về cả đời Tú Xương vẻn vẹn có ba mươi bảy tuổi, thì Tú Xương đi
thi liền một hơi suốt hai mươi hai năm, không khóa nào không lận đận trường ốc.
Mới mười lăm tuổi, đã đeo lên người một cái ống quyển và không ngoa ngoắt tí
nào, khi chúng ta nói rằng cái người Tú Xương ấy lều chõng từ khi còn để chỏm.
Này nhá:
Tú Xương sinh năm 1870, đến năm 1885 đã bắt đầu làm quen với cái tiếng loa kinh
hãi nơi cửa trường, nơi nhà thập đạo giữa trường. Khoa Ất Dậu 1885, không đỗ.
Và chúng ta cũng không lấy làm lạ vì cái sự hỏng thi của cậu Xương mười lăm tuổi
đó. Mà chỉ coi đấy như là một cuộc thực tập của cậu khóa Xương, đi chuyến đầu
đó, chưa đặt ra thi là phải đỗ, mà chỉ coi lần đó như là đi cho nó quen đi đã.
Năm Mậu Tí 1888, lại đi thi. Cái lều và cái chõng ai đóng ai phất cậy cho Trần
Tế Xương khá lắm, không mọt không rách gì cả. Lều chõng năm xưa, chỉ phủi đi lớp
bụi dày, Tú Xương nhập trường lần thứ hai, với cái tâm lý là thi thật, chứ
không thi thử như năm 1885 nữa. Nhưng lại hỏng, khoa Tân Mão 1891 lại đi và lại
vẫn hỏng.
Khoa Giáp Ngọ 1894, mới đỗ. Nhưng chỉ đỗ Tú tài.
Trần Tế Xương năm đó hai mươi bốn tuổi, và từ đó, đã chính thức thành tên là Tú
Xương.
Thời bấy giờ khối người hỏng hoài hỏng mãi, mà vẫn đi thi suốt đời. Huống chi
đã đỗ Tú tài, lại càng đi thi mạnh. Có người đỗ hai lần Tú tài gọi là Tú kép. Nếu
đỗ Tú tài lại đến những ba lần, thì gọi là Tú mền, Tú đụp, vân vân. Có những
ông Tú đi thi trọn đời mà chung thân chỉ là Tú tài, không bao giờ trở nên cử
nhân, hoặc hơn nữa, đại khoa đại khiếc.
Từ sau khoa Ngọ 1894, đỗ Tú tài rồi, Tú Xương còn lều chõng một lèo mười hai
năm nữa, tức là bốn khoa thi nữa: khoa Đinh Dậu, (1897), khoa Canh Tí, (1900)
khoa Quý Mão, (1903) và khoa Bính Ngọ (1906). Thế rồi Tú Xương mất vào đầu năm
sau. Tức là Tú Xương thi chết thôi, thi cho đến chết mới thôi.
Nếu Tú Xương không mất vào năm 1907, tôi tin rằng Tú Xương còn lều chõng cho đến
cái năm 1915 bỏ hẳn chữ Hán. "Nhà nước còn thi, hãy cứ thi" kia
mà! Với một người như Tú Xương, còn sống mà lại không đi thi nữa, thì là một việc
không thể quan niệm như thế được. Tôi vẫn cho rằng nếu Tú Xương còn sống quá
cái năm 1907 ông mất, thì ông còn thường trực có mặt nơi cửa trường và có lều
trong vi thi. Và chí ít, thể nào khoa thi vào lớp cuối chầu chữ Hán là khoa năm
1912 đó, thể nào Tú Xương cũng lại đi. Để mà được xem nốt những chuyện lạ lúc
giao thời Tây. Toàn quyền Pháp là Xarô tự tay phát mũ áo cho những ông cử nhân
khoa thi sắp thi vét. Chỉ một chút nữa thôi, thì toàn quyền Xarô đã tan xác nổ
giữa trường thi Nam Định do một trái tạc đạn của chiến sĩ Quang Phục hội. Bom
này đưa từ Trung Quốc về, cốt để giết thực dân cao cấp Pháp tại giữa trường thi
Nam Định, và kích động thêm giới trí thức nhà nho yêu nước chống Pháp mạnh hơn
nữa. (Theo Cách mạng cận đại Việt Nam của Trần Huy Liệu, Nguyễn Công Bình, Văn
Tạo). Không tạo được điều kiện khách quan để nổ đúng vào tháng 11-1912 tại giữa
trường thi Nam Định, tạc đạn ấy đầu năm sau đã nổ tại phố Tràng Tiền thủ đô Hà
Nội, giết một số võ quan cao cấp Pháp tại khách sạn Hà Nội. Tạc đạn nổ giữa Hà
Nội, và nổ luôn ở phố tỉnh Thái Bình, cho ngoẻo luôn một tên quan ta đại nịnh
Tây. Về cái chết của tên tuần phủ Nguyễn Duy Hàn đó, thời nhân (tôi xin lỗi
chưa tìm được ra tên họ nhà thơ nhân dân này) đã ',vịnh" rằng:
Bỗng đâu riêng sét đánh ngang trời
Tỉnh Thái quan tuần mất mạng toi
Bia tạc ngàn thu từ đấy nhỉ
Sấm kêu một tiếng ối giời ôi
Mề đay Bắc Đẩu đeo chưa đoạn
Tập án Đông Du kết chửa rồi
Cậu Kép là tay trinh thám giỏi
Thám ra cho kỹ nó là ai.
Bài thơ này hay ở chỗ "nhất điểm lưỡng diện" đánh luôn một lúc cả hai
bố con thằng nịnh Tây. Câu Kép (câu thơ thứ 7) là con thằng chết bom, và nó đã
sớm noi gương bố nó mà làm mật thám rồi.
Tóm lại, trong cuộc đời 37 năm của mình, Tú Xương đã đi thi liền tám khoa, như
Tú Xương đã tự mỉa rằng "tám khoa chưa khỏi phạm trường quy".
Hầu hết những phú và thơ Tú Xương có dính đến chủ đề thi cử, thường thấy trùm
lên một màu ảm đạm của những cảnh ngộ nửa buồn nửa bực.
Thoát ra cái thông lệ đó có lẽ là bài Đi thi nói ngông 7:
Ông trông lên bảng thấy tên ông
Ông tớp rượu vào, ông nói ngông
Trên bảng năm mươi thầy cử đội
Bốn kỳ mười bảy cái ưu thông
Xướng danh tên gọi trên mình tượng
Ăn yến xem ra có thịt công
Cụ xứ có cô con gái đẹp
Lăm le xui bố cưới làm chồng
Bài này không rõ Tú Xương làm vào năm tháng nào, nhưng có thể khẳng định được rằng
nó được hình thành ra vào thời kỳ thi đỗ năm hai mươi bốn tuổi. Trước khóa thi
đỗ năm Giáp Ngọ, Tú Xương khó mà có được cái giọng tự tin đó, mặc dầu đây cũng
chỉ là một kiểu ngông đùa của một thi sĩ ngông. Trước đó, cũng không được, và
sau thời kỳ hai mươi bốn tuổi tin mình tin đời đó cũng không được; bởi vì càng
về sau này, càng thi càng cay cú về lều chõng, hơi thơ Tú Xương càng nẫu đi,
màu thơ Tú Xương càng úa sắc, chất thơ Tú Xương có nhiều gia vị hơn, nhưng cũng
có mất nhiều đi cái hồn nhiên đó.
Cái hồn nhiên của một người tân khoa trẻ tráng, tin rằng có tài có học có thi
thì phải có đỗ, khoa này đỗ tú tài thì khoa sau khắc đỗ cử nhân, và càng thi
càng đỗ cao, cao cho tới tiến sĩ ông nghè thì có chăng mới chịu buông tay bút
và ống quyển ra. Cái tự tin của thời hồn nhiên đó tạo cho Tú Xương một nhỡn
quan an lạc về trường ốc và cuộc đời sĩ tử.
Ừ, thiên hạ giỏi lắm thì bốn ký chỉ đến tổng cộng mười sáu điểm, thông luôn mười
sáu chấm ưu, vậy mà mình lại được những mười bảy? Bên cái ngông, còn nổi nhọn
lên cái tâm lý của một nhà nho trẻ sung sức yêu hiện tại và tin hẳn vào bản mệnh
mình, tự cho mình phải đột xuất lên trên cái số năm mươi vị cử nhân thường lệ của
mỗi khoa thi hương. Lĩnh mũ lĩnh áo vua ban giữa một cái sân đá hoa mênh mông
có ngựa có cờ "phụng chỉ cầu hiền". Có tàn vàng, có lọng tía, có voi
ngà bít bạc nạm vàng. Và người ta lại phải nghển trên bành voi mà loa đi thật
cái họ cái tên mình, nghĩ mà thấy cũng đã "thỏa lòng mẹ cha", trong đạo
hiếu. Thế rồi nhà vua tứ yến. Cỗ yến ban xuống có nhiều hương vị mà ở mâm giữa
đình làng Vị Xuyên phong vận nhiều quan cũng không bao giờ biết tới. Chả phượng
thịt công. Bất nhẫn mà hưởng thụ lấy một mình, phải kín đáo bọc những miếng
chín đó vào vuông khăn điều, lấy phần đem về trao cho bố mẹ già đã có công sinh
dưỡng mình!
Tất cả hào quang vinh quang đó quý thì quý thật, nhưng vẫn chưa quý bằng cái cặp
mắt xanh của cô con gái thầy học, của con gái cụ đầu xứ tỉnh mình, của người
giai nhân đã ngấp nghé mình, dám phá cả công thức luân lý một thời mà "lăm
le xui bố cưới làm chồng". Đại đăng khoa như thế. Tiểu đăng khoa như thế!
Gọi bài thơ đó là ngông cũng được, và gọi đó là một cái mộng lành mộng đẹp của
tất cả những người học trò chân phương thời cũ, cũng là đúng vậy thay.
Cái lòng yêu đời ấy, tự tin về tài học ấy, Tú Xương đem nó cả vào trong văn tế
bạn: "... dễ văn hay, làm cho thị táo chết tươi . . . " ý
nói rằng đời phải ngả gỗ xuống nhiều hơn nữa đi, phải cưa xẻ gỗ thị gỗ táo nhiều
nữa đi, phải khắc nhiều mộc bản nữa đi, cho những bài thơ Tú Xương có tài này.
Lòng tin cậy của một thời hồn nhiên như nắng sớm mai ấy, còn lóe hẳn trong một
đôi câu đối Tết, lồng vào một bài ca trù hát ả đào:
Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài;
Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt.
Viết vào giấy dán ngay lên cột
Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay?
- Rằng hay thì thực là hay,
Không hay sao lại đỗ ngay tú tài!
Xưa nay em vẫn chịu ngài!.
Trước khi hạ những câu tự tin trên, dưới hình thức đối thoại với một người đàn
bà yêu mình trọng tài mình, Tú Xương đã tủm tỉm một cách mãn nguyện hơn bao giờ
hết "huống chi mình đã đỗ tú tài!' (?) Ngây thơ một cách biết bao dễ
thương! Và từ đó trở đi, cái hồn nhiên ấy đối với khoa cử cứ mỗi ngày mỗi giảm
sắc đi. Nó giống như cành hoa cứ úa nẫu dần trên án thư. Thực tế khách quan của
thi cử lúc giao thời thêm mãi vào thơ Tú Xương đủ các vị mặn, chát, chua, cay,
và biến hẳn đi cái hương vị tươi mát buổi sơ đầu. .
Lúc đầu, Tú Xương ngông vì đỗ một lần tú tài, về sau, chẳng khoa nào đỗ thêm gì
nữa, Tú Xương vẫn ngông và càng ngông nghênh. Đúng như cái kiểu Tản Đà (người đồng
thời với Tú Xương, tuy không đồng tuổi) đã làm thơ tự trào:
(...) Bởi ông hay quá! Ông không đỗ
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông!
Ngờ vực dần dần thay thế hẳn cho tấm lòng hồn hậu trai trẻ, theo với cái đà thi
hỏng về sau:
Thi là thế, học hành là thế
Trò chuyện cùng ai!
Sách vở mập mờ.
Văn chương lóng ngóng (. . .)
(...) Khăn khăn áo áo thêm rày chuyện
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng...
Buồn về thi hỏng, Tú Xương lồng nó vào cái đời thầy đồ dạy học, và đưa cái bực ấy
vào hơi phú:
Vài quyển sách nát
Dăm thằng trẻ ranh
Văn có hay đã đỗ làm quan, võng điều võng tía
Võ có giỏi đã ra giúp nước, khố đỏ khố xanh
(...)
Lại còn tủi mình và thấy thương cho chữ hiếu:
Đeo tiếng văn chương cho thế mỉa
Cực lòng cha mẹ đẻ con ra
Buồn bực, rồi tự an ủi:
(...) Đỗ đành may khỏi tiếng cha cu...
Rồi trở nên tiêu cực:
(...) Một việc văn chương thôi cũng nhảm
Trăm năm thân thế có ra gì...
Vào cuối thời chữ Hán tàn cục ấy, có một người hỏng thi khác cũng chán chường với
khoa cử. Ấy là một nhà thơ nữa: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, cũng thi ở trường Nam
(những khoa Hà Nam hợp thi gộp cả học trò Nam Định và học trò trường thi Hà Nội
đã bị giải tán trường thi). Trường Nam năm đó mưa bão to, bãi trường thi úng nước,
nhiều chiếc lều thi phất cậy rách bục, nhiều chiếc chõng thi bị ngập nước, phải
lấy tráp mà kê quyển lên; nhiều anh quyển bị tì ố không đổi kịp. Và có anh học
trò phục trên bản nháp mà chết gục, tay cứng vẫn không rời cái bút thủy, và cả
khu trường ấy nồng lên mùi tử khí của khói chổi xể và bồ kếp. Tản Đà hỏng thi
và bị tình phụ, đã mượn lời anh xẩm mù mà hát về Kiếp học trò rằng:
(...) Văn không hay, chẳng đỗ thì đừng
Gió mưa (anh) khỏi chết, nửa mừng (anh lại) nửa thương.
Cái nghiệp bút nghiên cay đắng đủ trăm đường.
Bảng vàng mũ bạc (thôi) anh nhường mặc ai.
Muốn lên bà (mà) khó lắm! Em ơi!
Tú Xương ngán mỏi cho mình, và trông ra chung quanh, càng thấy mệt mỏi thêm vì
những diện mạo và tâm địa các vị tân khoa đương thời. Có những anh dốt một cách
thật là quá công khai, mà lại đỗ tiến sĩ. Vịnh những thứ tiến sĩ oan ấy, Tú
Xương thay mặt cho những con người "học tài thi phận", đã phải kêu
lên rằng:
Nghe văn mà gớm cho ông mãi
Cờ biển vua ban cũng lạ đời
(Những câu thơ Tú Xương về ông tiến sĩ đương thời, sao nó như là họ hàng dáng dấp
với thơ vịnh Tiến sĩ giấy của Yên Đổ:
Cũng cờ cũng biển cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khôi
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh ấy mới hời
Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi
Đi thi, trúng thi, không lấy tài học làm tiêu chuẩn chính. Thi đỗ lại sở cứ vào
những thứ không tiện nói (thẳng) ra, mà Tú Xương tạm liệt nó vài cái tiêu chuẩn
phúc (đức) rất là co giãn:
Người ta thi chữ ông thi phúc,
Dù dở dù hay ông cũng vào.
Cửa trường mở ra không khác gì rạp tuồng lúc tháo khoán. Mà đã như thế thì:
Nhà nước còn thi hãy cứ thi
Việc gì mà chẳng rủ nhau đi.
Cho đến cái "đức vua" Minh Mạng là người đã bày ra các tổ chức bảy
trường thi từ Sài Gòn ra Hà Nội đi qua Huế, cũng đã tầng phải nói rằng:
"Lâu nay khoa cử làm cho người ta sai lầm. Trẫm nghĩ văn chương vốn không
có quy củ nhất định, mà nay văn cử nghiệp chỉ câu nệ cái hủ sáo (...) Học như
thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi" (Việt Nam sử lược,
Trần Trọng Kim).
Cái điều mà ông vua đó phải nói đến, lại vẫn chưa nguy hiểm bằng những cái điều
Tú Xương phải thấy bằng đôi mắt đôi tai mình hằng ngày. Thấy gì? Thấy những đứa
dốt đặc dốt lỏng, và nghe người ta đọc tên đám dốt đó trúng tuyển "phụng
chỉ cầu hiền", đúng như cờ vua thêu chỉ kim tuyến đang phe phẩy ở sân và cổng
trường thi gọi loa. Kết quả của một khóa thi, hai khóa thi, ba khóa thi, chỉ là
sự hoành hành của cái dốt đã được trâng tráo đề cao bằng mũ và áo cờ biển nhà
vua ban cho và đậy lên. Những tâm hồn ngay thẳng ở phố Nam Định ở làng tỉnh
Nam, không thể không đồng tình với những câu hỡi ơi của Tú Xương:
Ới thi ơi là thi!
Ới khỉ ơi là khỉ!
Than sự thi, đến thế là đã hết cả chữ, ráo hết cả mực và cạn cả nghĩa cho rồi.
Câu thứ tư của bài thơ ngũ ngôn vần trắc, khác chi một chữ xoẳn cộc lốc của thể
thơ yết hậu nó đánh đánh chát một cái vào những cái điều tiêu lên mà vịnh mà đề.
"Ới khỉ ơi là khỉ!". Buồn cười như anh không biết bơi bị uống nhiều
ngụm nước mùn thớt! Đồ con khỉ nhe răng cười khi bị giội nước sôi! Khi mà công
lý công luận bị nhục mạ thì hay sằng sặc lên cái hơi cười uất ức đó. Giữa bài
thơ mình đọc cho chung quanh, chẳng nhẽ lại văng ra đấy một con gì tục tĩu hơn
cả mọi sự lõa lồ? Con khỉ đây là một biểu tượng thế phẩm cho cái (cái hay là
con?) hình tượng mà một nhà nho tự trọng đã vừa kìm nó lại kịp thời. Con khỉ
đây chính là muốn nói cái con đó mà lại không chịu dùng cái tiếng đó! "ôi
khỉ ơi là khỉ!". Vừa cười, vừa chửi, vừa thét gào, vừa mếu cho mọi trò bú
dù đang xảy ra chung quanh những cuộc đánh giá văn chương của một thời bố láo lợm
mửa. Cần phải nôn thốc vào, cần phải cho ọe ọc ra cho kỳ hết.
Trong bấy nhiêu khoa thi mà Tú Xương đã đưa lều đưa chõng và đưa tâm trí mình
vào, phức tạp nhất, có lẽ là khoa thi năm Đinh Dậu 1897. Chưa khi nào lại ba
lăng nhăng, lại nhốn nháo đến thế. Đúng là một khóa thi của buổi giao thời xáo
ngầu cả ba món ta (học trò), Tàu (văn bài chữ Hán) và Tây (sự có mặt quan Pháp
chủ lễ, và các bà đầm vợ họ). Quan văn, quan võ, lính ta lính Tây, súng đại
bác, tàu chiến, mật thám, đầm thật, me Tây. Thôi thì đủ cả. Cả hàng mấy ngàn học
trò giữa trường thi, quanh trường thi, cả nhân dân khắp phố thành Nam và các
làng ngoại vi thị xã Nam Định, đều như chờ đợi một biến cố gì sắp xảy ra. Một
không khí khủng bố trùm lên cả một cái tỉnh văn học. Cho đến nỗi:
Câu văn đắc ý đừng ngâm ngợi
Chén rượu mềm môi chớ gật gù
Tú Xương dặn thế chưa cho là đủ lắm rồi, lại còn dặn thêm người đi thi "ra
phố khăn quàng quá trán". Nhưng, bất chấp cả sự cẩn thận giữ gìn kiểu làm
thơ ẩn dụ, bất chấp cả sự bao vây theo dõi bịt mồm bịt miệng của thống trị
Pháp, những tin tức về phong trào khởi nghĩa Kỳ Đồng vẫn được xì xào trong bóng
tối, và bàn tán trong những nhóm lẻ tẻ kín đáo.
Kỳ Đồng, tên thật là Nguyễn Văn Cẩm, thông minh từ nhỏ. Nhiều thứ "thần
thoại" hồi đó loan đi khắp nơi rằng Kỳ Đồng có tài đi trên mặt nước, và đạn
bắn không xuyên được vào người Kỳ Đồng. Người trẻ tuổi kỳ dị đó bỗng chốc trở
thành lá cờ tập hợp những người sẵn óc ghét Pháp và đánh Pháp. Pháp liền cho
tàu bể đưa luôn Kỳ Đồng sang Bắc Phi. Nghị định Thống sứ Bắc Kỳ năm 1887 đưa Kỳ
Đồng sang học trường trung học An giê. Kỳ Đồng ở An giê chín năm và vẫn có dịp
lui tới chỗ vua Hàm Nghi đang bị an trí ở đó.
Kỳ Đồng trở về nước năm 1896. Thời Toàn quyền Đu me đó, Kỳ Đồng vờ mở chung đồn
điền ở Bắc Giang với Tây thực dân. Nhưng cốt là để gần với Đề Thám ở vùng Nhã
Nam - Yên Thế. Kỳ Đồng liên lạc khắp nơi và mộ người nhiều tỉnh lên làm đồn điền.
Có đến ba ngàn người lên lập ấp, ai cũng mang theo tiền lên góp cho Kỳ Đồng.
Đông nhất là người Hải Dương, Thái Bình, Nam Định. Họ đi phu gì mà lại không
mang gia đình theo? Tây đâm nghi và theo sát (theo tài liệu của PaulChack trong
cuốn sách y viết về Hoàng Hoa Thám). Thiếu tá Pháp đóng quanh vùng Yên Thế, một
đêm ập tới bắt Kỳ Đồng đưa về Phủ Lạng Thương, đưa luôn thẳng xuống thuyền đi Hải
Phòng. Còn quản ấp và hương lý quanh vùng thì đưa xuống đồn Nhã Nam mà phạt tù.
Từ Hải Phòng, Kỳ Đồng bị đưa ra giữa Thái Bình Dương. Chuyến đi lần thứ hai
này, cũng là chuyến đi bể dài ngày, nhưng không phải là đi học như chuyến trước
mà là đi đày.
Theo Georges Reyer (đăng bài ở tuần báo Paris Match) thì Nguyễn Văn Cẩm (Kỳ Đồng)
lúc bị đày ở đảo Tahiti, đã là bạn thân của họa sĩ nổi tiếng thế giới Gôganh
(Gauguin) từ lúc họa sĩ mới tới đảo năm 1901. Lúc ấy Kỳ Đồng đang làm công ở mấy
hiệu cao lâu bánh mì của Hoa kiều mở ở đảo. Vẫn theo Georges Reyer thuật lại,
thì Kỳ Đồng là một người nhiều tài năng, và có óc làm lớn. Kỳ Đồng có làm giúp
cho họa sĩ Gôganh cái nhà sàn - xưởng họa. Gô ganh vốn là một người Pháp ghét
thực dân ra mặt.
Khoa thi Giáp Ngọ cách đây ba năm trước, cũng có Tây về chủ lễ. Nhưng chỉ là
Tây xoàng. Lần này lại có Tây to về kia. Toàn quyền Đu me về thị oai (một số
nhà nho bài Pháp hồi ấy còn gọi là thằng Đù mẹ). Toàn quyền "Đù mẹ"
đang bắt đầu bòn rút đủ cách. Bày ra đủ mặt sưu thuế nặng. Muối đánh nặng. Thuế
thuốc phiện, ai nghiện thì mới tức. Chứ muối thì tỉnh nào cũng chửi.
Không ai không chửi. Cờ bài rượu lại đề là RA. Ông thông ngôn Sài Gòn lại còn
đi dịch đùa ra là "Cộng hòa An Nam mít viết tắt đó? Đù mẹ!". Có cả
công sứ Đặc cũng tới dự lễ. Công sứ Darles này là một trong số bốn tên quan cai
trị Pháp loại hiểm ác mà thời nhân vẫn gọi là "Bắc Kỳ tứ hung". Pháp
điều động một số pháo thuyền về bờ sông Nam Định, ca nông đã lấy sẵn góc độ bắn
cầu vồng vào những mục tiêu định sẵn. Trường thi Nam Định được nằm trong tầm
súng đại bác.
Thành và phố Nam Định đông ăm ắp hẳn lên. Không phải cái đông đúc của tháng mở
hội, cũng không phải cái đông đảo bình thường của những năm vua mở khoa thi để chọn
hiền tài mọi lần. Cái đông đúc này được người phố phường thấp giọng xuống mà nhận
định là "hình như sắp có loạn gì". Đường hoa thị xóm Mỹ Trọng, người
như kiến cỏ. Chẳng ai biết ai. Sao tự nhiên ùn về nhiều người lạ mặt đến thế,
đông đến thế, mà phu cáng phu thuê lại mất cả làm ăn, không ai dám nghênh ngang
cái đòn ống.
Khám kỹ lắm, xem có giấu súng đạn dao mác gì không xuể, họ cấm. Khố xanh khố đỏ
đầy đường. Mật thám như rươi. Nhà hát ả đào Hàng Thao lúc nào cũng kìn kìn người
ra vào như gian hàng hội chợ đấu xảo, nhưng chẳng ra cái chầu hát gì cả. Các thầy
khóa trường Hà Nội xuống thi chung với các thầy khóa Nam Định khăn áo vẫn có vẻ
nền hơn bất cứ nơi nào. Nhưng cũng khó mà phân biệt người buồn tình đi nghe đàn
hát thật sự với kẻ nào giả vờ đi nghe hát cốt để mong tin. Một số đào nương nhởn
nhơ quen, nay cũng trở thành người ít nhiều có suy nghĩ, vừa suy nghĩ vừa chửi
thầm quan Tây và lính Tây. Tỉnh Nam Định, những gốc hòe ra hoa vàng, năm ấy
hình như xuống sắc, và vàng nẫu, nó không tươi như những mùa thi trước.
Trường thi Nam Định khoa Đinh Dậu đó, cái mà các thầy khóa hay bàn bạc nhiều nhất
với nhau, chính là mấy cái món thay đổi mới, mấy cái món mới thêm thắt vào. Ví
dụ như rồi sẽ bỏ hẳn chữ Hán (thực ra việc này Tây định làm ngay đấy, nhưng mãi
đến mười tám năm sau, họ mới bỏ được chữ Hán). Ví dụ như món bốn bài toán viết
bằng con chữ số A Rập. Nhất là cái món chữ quốc ngữ. Ngữ âm vẫn như tiếng nôm
ta, nhưng văn tự thì lại dùng cho La Mã (nay gọi là La tinh hóa) thứ chữ viết của
những người nước ngoài đến đánh chiếm nước ta. Và từ khóa thi này, chữ gọi là
quốc ngữ đó sẽ dần dần thay thế hẳn chữ Hán.
Chao ôi, việc thi cử thì rắc rối bày trò như thế, mà việc nước việc thời thế
thì như thế! Bụng người đi thi thật là một mớ bòng bong. Lại còn vọng ra, từ
trường thi hương Nghệ An, cái tin Phan Bội Châu bị án chung thân không được thi
cử bất cứ ở đâu 8.
Bài tám câu dưới đây của Tú Xương không đem tất cả ngột ngạt và nhốn nháo khoa
Đinh Dậu đó vào thơ nhưng, dưới một góc độ nhỡn quan cũng thật là hiện thực kiểu
Tú Xương, cũng đã khắc lại cho đời sau những nét tranh gỗ đặc biệt của cái năm
thi đặc biệt đó.
Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà
Tú Xương, ngậm ngùi mà thương cho cả cái trường thi, thương cho cả đám sĩ phu
đang bị một nhục hình chưa bao giờ xảy đến cho họ. Những con người đạo nho vốn
trọng nam miệt nữ đó, thì lại bị một lũ đàn bà, một lũ đầm ngoại lai tới thi mà
xúc phạm lăng mạ thẳng vào chính cái nhân sinh quan của họ. Không đỗ cũng cực,
mà đỗ để phải phủ phục xuống mà lạy Tây, lạy cả đầm, thì càng quá là nhục. "Ngoảnh
cổ mà trông cảnh nước nhà " và "Một đàn thằng hỏng đứng mà
trông", thì đã trông thấy thêm những gì nữa? Thấy thêm:
Trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân, ông cử ngỏng đầu rồng
Những mụ đàn bà đó - mặc dù nó là bà đầm, mặc dù nó là toàn quyền phu nhân, là
công sứ phu nhân hoặc là gì gì phu nhân đi nữa - hỏi xem ai cho phép nó bén mảng
đến cái chỗ trường thi tôn nghiêm của nhà vua cầu hiền, và phép nước, từ thượng
cổ, chỉ dành riêng cho nam nhi? Ai dám cho nó vào đây? Không, chả ai cho cả. Nó
là sự bắt buộc phải mời họ tới, mời vợ chồng họ tới. Cũng là sự bất đắc dĩ cả đấy
thôi. Mà không mời, họ cứ ập vào, phỏng thử ta ngăn nổi được chăng? Đại bác ca
nông pháo thuyền nó đã hếch cả mũi lên thành tỉnh lên trường thi kia kìa. Khi
mình đã là người thua ở lịch sử, khi đã mất nước, thì còn khối là cái sự nhục.
Đến vua thiên tử đấy, mà còn phải mở cửa chính Ngọ Môn cho nó, nó mới chịu lộp
cộp giày săng đá đi vào nữa là. Còn là nhiều sỉ nhục chả riêng gì việc Tây đầm
lọt vào trường thi. Cơn nó lên, chả thấy nó đốt béng cả trường thi Nam Định, nó
đuổi bắn mất cả trường thi Hà Nội đi đấy ư? Người ta mạnh, thuốc đạn đấy, người
ta muốn gì, mặc cho họ; khi mà ta chưa đủ thuốc súng, hẵng mặc kệ họ! Mụ đầm "váy
kéo lê quét đất", "trên ghế, ngoi đít vịt", thôi nó muốn đến,
nó muốn vào, nó muốn ngồi ghế, thôi thì nó muốn gì thì nó cứ việc làm cái việc
nó muốn. Chứ còn mình, sao mình lại đi mà lạy đàn bà!
Những mụ đàn bà vợ nọ vợ kia của đám Tây xâm lăng? Mà lại đội mũ mặc áo tân
khoa vào mà lạy! Ô kìa, chữ nghĩa và nhân cách, đem vứt cho lợn cho chó cả rồi
sao? Từ thuở khai thiên lập địa trên đất ta, chưa có những sự đó bao giờ. Trước
mặt Tú Xương, quả là một cuộc lộn phèo giá trị, đúng là loạn, loạn đến sau lưng
rồi, loạn ở trước mặt rồi.
Thôi thì có đứa lạy, nhưng cũng phải có người biết đường mà bảo họ đừng có lạy
thối nữa. Không cầm được quả nổ vứt đoàng được vào trường thi, thì Tú Xương làm
thơ vậy, và vẫn làm cái thứ thơ nửa cười nửa mếu đó.
Đương thời, hiệu lực bài thơ hiện thực phê phán đó ra sao và được bao nhiêu kết
quả, tôi không rõ. Nay chỉ biết rằng trường thi đã xa vắng như cái mùi ẩm mốc của
thứ giấy bản chưa rách cháy hết. Và trên những trang giấy bản ẩm nhòe ấy, thơ
nói về trường thi của Tú Xương giống như những lời thanh nghị của một lớp sĩ
phu thời đó. Không đánh được ai bằng khí giới, thì ít nhất cũng phải lấy bút ra
mà vẩy cái mực sĩ khí vào những nghè những cử bịt mũi xu thời! Vẩy vào, và than
một đôi lời.
Thời đại của ta hôm nay ngồi luận bình về thơ Tú Xương, là một thời đại khoa học
mà cách mạng đã rõ cái khí thế của sự tất thắng (ở trong nước cũng như ở trên
thế giới), thời đại hôm nay chỉ có hứng chứ không than, và nó không dung thứ những
người ngồi than suông bàn vã về thời cục. Nhưng cũng không nên quên rằng cách
đây trên nửa thế kỷ, cuộc sống trên khắp sông núi Việt Nam hầu như là chỉ có tiếng
than. Có người vừa than vừa chống Pháp. Có người chỉ than không thôi. Tiếng nói
Tú Xương cũng là nằm trong cái bối cảnh chung đó của than thở, và nó đòi có sự
cảm thông của hậu sinh, hơn là sự thương hại hoặc sự buộc tội rẻ tiền và đơn điệu
của một kiểu người hãnh tiến.
Cái tiếng than ấy của Tú Xương về trường thi xưa, cũng không ngoài cái đau buồn
về một đạo học đã nhạt dần sức hấp dẫn cuối chầu của nó:
(...) Mười người đi học chín người thôi
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khóa tư lương nhấp nhổm ngồi
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi.
5
Càng về cuối, những khoa thi trường Nam Định càng bày ra những
tàn tạ của chữ Hán, của đạo Nho. Chữ Hán rút lui dần, chữ ta La Mã hóa La tinh
hóa lấn dần chữ Hán. Chữ quốc ngữ loang ra đến đâu thì những phán, những ký, những
thông ngôn cũng ngày càng nhiều nhiều. Không cần thông báo với nhau, không cần
có một tổ chức một nghiệp đoàn nhất định, mà tất cả phán thông ký ấy đã trở
thành một đẳng cấp xã hội. Lúc giao thời này, Pháp đã căn bản "dẹp"
xong phong trào Văn Thân khởi nghĩa, và bước đầu bóc lột kinh tế. Nhiều giá trị
tinh thần trải qua một cuộc bể dâu đạo đức. Nho sĩ, đồ nho chẳng khác gì những
váng nước thoái triều, mà Tây thì cứ như con nước lên. Ngấn nước ngoại xâm dâng
vào đến đâu thì bọt bèo cũng được nâng theo mà tràn vào các ngóc ngách sự sống
thị thành. Những cái bèo dập dờn ấy, sinh sôi nảy nở mau và đông hơn cả bèo Nhật
Bản, chính là những cái mảng lớn phán ký thông.
Trong bài thơ vịnh lụt của Tú Xương có câu:
Trâu bò buộc cẳng coi buồn nhỉ
Tôm tép khoe mình đã sướng chưa!
"Trâu bò buộc cẳng" đây, không là cái số những nhà nho không biết chữ
quốc ngữ La tinh hóa (hoặc không muốn học tập nó) thì còn là ai vào đấy nữa?
"Tôm tép khoe mình" đây, không là cái đám thông ký phán, thì còn là
ai vào đấy nữa?
Thơ lụt đây không hẳn là thơ ẩn dụ như những lúc cần nói bóng nói gió đến đế quốc
thống trị. Nhưng nó vẫn ám chỉ bọn người cộng tác với Pháp, và đám tiểu nhân đắc
chí này cũng khối anh hống hách có thể làm hại tới những người dám đương diện đụng
tới họ - họ, những thứ tôm tép đắt hàng lên nước trong một trận lụt văn hóa!
Nhìn họ và nhìn vào đạo Nho suy bại trông thấy nhỡn tiền, Tú Xương ngứa mắt, rậm
mắt. Những hột bụi bặm ký phán ấy đã ít nhiều là căn nguyên của bệnh đau mắt ở
Tú Xương. Thơ "Đau mắt" Tú Xương hình thành lên cũng là bởi
tại cái bọn phán ký này.
Muốn mù giời chẳng cho mù nhỉ
Giương mắt coi chi buổi bạc tình.
Bạc tình với ai, với cái gì?
Bạc với nền học cũ đó. Bạc với chữ Hán đó?
Tú Xương vịnh cẩm Tây hay phạt, hết bài vịnh có nói đến cái việc:
Ngớ ngẩn đi xia may vớ được
Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to.
Ai bĩnh ra đường thì cứ phạt, thì cứ nộp phạt, đó là việc người bậy bạ, và nhất
là việc rình mò của cút lít của cẩm cò nơi bóp. Nhưng trên những đống uế kia thảm
mục thương tâm cho người cũ chữ cũ là phải trông thấy giấy bản chữ thánh hiền
vo nát lại thành giấy vệ sinh. Đối với một ông đồ nho, đó là một cử chỉ vô nhân
luân không thể nào tha bỏ được. Ngày xưa ra đường, cái điểm danh dự tối thiểu của
bậc nho giả chân chính là, mỗi khi thấy chữ thánh hiền vương xuống đất, phải
cúi mình xuống, nhặt lên, và để vào những cái bồ nhất định (nếu tôi không nhớ lầm
danh từ, thì những bồ đó, các cụ gọi là kính tích tự chỉ). Nay họ sinh
nhai bằng thứ chữ mới do Tây đưa vào, những con người thông ngôn thông phán bội
bạc chữ Nho, miệt thị chữ Hán chưa đủ, họ lại còn đọa lạc họ vào những việc hôi
bẩn hạ đẳng ấy, chao ôi?
Con tự không coi mù tịt mít
Giống người có lẽ sạch sành sanh
Thôi, sự nó đã bày ra như thế ấy, thì chữ Hán, và những nho sĩ chung thủy với
nó, sẽ chỉ còn là hủy diệt "sạch sành sanh". Và cuối cùng, chỉ còn lại
có cái đám ký phán thông ấy mà thôi!
Tây mở kinh tế, Tây củng cố và phát triển cuộc bình định Bắc Kỳ Trung Kỳ".
Những đầu tay thuồng luồng vươn ra tới đâu, thì phán ký thông cũng tủa ra tới
đó. Việc kín việc hở, tòa quan văn, dinh quan võ, sở hộ, sở hình, sở công, sở
tư, nhà buôn, đồn, ga, trại, thành, tỉnh, đại lý, phân tỉnh, nhan nhản là thông
ngôn ký phán. Thời ấy, trừ ra một số nào, còn thì ở thị thành, hình như con người
ta cũng dễ biến thành một thứ ký kiếc gì của cái bộ máy lớn đó. Và từ đó, từ vựng
tiếng ta tự nhiên rồi thêm ra không biết bao là tiếng gọi cho những cái chức vụ
tiểu lại mới đó. Tiếng ký còn díu luôn với tên cúng cơm mỗi người làm việc Tây
đó mà trở nên một thứ đại danh từ.
Trên hết là các thứ phán sự Toàn quyền, Thống sứ, Khâm sứ, Công sứ. Thứ đến là
các thứ biện, thứ tham. Rồi là đến những binh đoàn các thứ ký.
Ký nhà thương, ký cẩm, ký đoàn, ký kiểm lâm kho bạc, ký muối, ký nông giang, ký
rượu, ký kho, ký nhà băng, ký nhà tắm (nhà tắm ông Bảy, tức là quan Toàn quyền).
Ký Bôđa. Ký thịt bò. Ký nhà xéc. Ký máy đèn (có bao nhiêu thứ nhà máy công nghiệp
nhẹ, thì có bấy nhiêu thứ ký). Ký tải (vận tải). Ký (trạm) ét xăng. Ký (la) ga.
Ký lục lộ. Ký nhà. Ký phà đo. Ký vân vân.
Đế quốc thực dân "làm văn" nơi thuộc địa vẫn có một thứ tổ chức quy
mô của nó. Muốn cho được có đủ một đạo quân hành chánh cầm bút sắt cầm bút chì
để thỏa mãn cái nhu cầu sai bảo và cai trị của nó, Tây bèn mở ngay trường Thông
ngôn từ năm 1886. Đến 1887, mở trường Hậu bổ. Lại còn gọi là trường Sĩ hoạn cho
nó xôm trò thêm. Lại còn phát triển các lớp gọi là trường Tân quy (?) Ở đấy,
sách vở giấy bút, đã có Nhà nước lo cho. Quý vị chỉ cần mang đến đấy cái linh hồn
tầm thường của các vị thôi. Học ba năm chữ quốc ngữ và ít tiếng Pháp
"maxuen" bồi bồi chắp chữ một. Tập làm tờ bẩm, tờ trình, tập làm biên
bản, dịch nó từ chữ Hán ra chữ quốc ngữ, rồi dịch sang tiếng Pháp thống trị. Dịch
lối thuận, rồi lại dịch lối nghịch, dịch ra, dịch vào. Có lớp dự bị, có lớp
chính ngạch, xong ba năm rồi là xuất chính. Cái không khí chuẩn ký ấy (chuẩn bị
thành phán ký thông) có được ghi lại trong thơ Tản Đà:
Cử, Tú, ấm sinh vài chục kẻ
Tây, ta, Quốc ngữ bốn năm kỳ.
Cái buồn của Tú Xương than đạo học ("thôi có ra gì cái chữ Nho - Ông nghè
ông cống cũng nằm co"), cũng là sự bất bình của Tú Xương đối với những bệ
rạc tinh thần ở đám phán ký ấy. Câu "Sao bằng đi học làm ông phán - Tối
rượu sâm banh sáng sữa bò" đó, không khi nào là một sự thèm thuồng của
Tú Xương, mà trái lại, là một câu chửi mát mẻ chì chiết, khinh khô đi? Người
làm thơ tự mỉa mình rằng đau khổ tâm hồn để mà làm gì, trong khi có nhiều người
đã giải quyết thảm kịch đời sống lúc ấy bằng cái cách tợp ngay vào cái cốc, và
bú ngay vào cái vú của Tây chìa cho.
Ông có đi thi ký lục không
Nghe ông quốc ngữ học chưa thông
Ví rằng nhà nước cho ông đỗ
Thì hạng lương ông được mấy đồng
Tây chưa đến, thì chỉ gọi là ơn vua, phấn vua, lộc nước. Nay mất nước, thì lại
gọi là lương tháng. Về cái lương phận một thời đó, người ngang tàng Cao Bá Quát
cũng đã lấy thơ mình ra mà nghĩ về nó rằng "Đỉnh chung chiếc rưỡi cái
lương vàng". Cho nó lên hết cái nghĩa rẻ rúng của lương tháng do Tây ban
phát, lại phải mượn đến thơ của Yên Đổ: "Bẻ cò, tính lại cái lương
vàng" hoặc câu "Ăn tiêu, nhờ được chiếc lương Tây" cũng
của Yên Đổ gửi một ông bạn làm quan mới. Và xin dẫn thêm Tản Đà ra (bài Thuật
bút):
Mười mấy năm xưa ngọn bút lông
Xác xơ chẳng bợn chút hơi đồng
Bây giờ anh đổi lông ra sắt
Cách kiếm ăn đời có nhọn không.
Về cái đẳng loại phán ký thông, mọc ra từ ngày lịch sử buộc ta phải chung sống
một cách không bao giờ hòa bình với Tây thực dân, về cái thế giới ký phán đó,
thảm hại nhất, thảm hại một cách kinh khủng, có lẽ chưa có câu nào vượt qua được
hai câu dưới đây của Tú Xương:
Biết thân, thuở trước đi làm quách
Chẳng ký, không thông, cũng cậu bồi 9
Vẫn cái kiểu vờ vờ thèm cái địa vị "...làm ông phán, tối rượu ...sớm
sữa..." đó để lập tức tát trái ngay vào mặt cái địa vị đó. Vừa đánh
tát, vừa rơm rớm một thứ nước mắt u hoài. Đọc lại một số thơ Tú Xương, thấy bút
pháp hiện thực của Tú Xương đã đóng đinh ký phán vào một cái tủ triển lãm lịch
sử. Và cái đám ấy, chắc không bao giờ họ nghe ra rằng chính họ đã là những kẻ
phần nào đẩy Tú Xương vào cái thế của một người mắc cái bệnh ghét chữ quốc ngữ
và cái bút chì đại biểu của chữ quốc ngữ. Cái mẫu người ký phán ấy đã sống một
thế kỷ ở nước ta đấy. Cũng như tổng lý lệ lại ký phán đã khắc hằn nét lên sự sống
của cái triện đồng có những chữ ký thay mặt thay lời và ủy thác ủy quyền. Nó đã
thành một thứ cảm nghĩ ký phán, xử sự ký phán, khôn ngoan ký phán, vui buồn ký
phán, vân vân...
Thực dân Pháp, chấm dứt toàn bộ ở trận lớn Điện Biên Phủ rồi, mà những râu ria
chân rết đời cũ đó, cho đến hôm nay, vẫn còn phải coi chừng, những tàn dư của
nó, chưa phải là không chút gì còn lưu lại. Tàn dư nọc ký phán ấy, có còn tí
nào, nếu nó không dám đương diện hãm hại được con người mới đã lớn khỏe, nhưng
nếu không tiếp tục tỉa nó, nó vẫn cứ làm vướng được bước đi đấy. Cái cỏ may
trên lối rừng vẫn đủ làm cho ngựa anh vấp ngã, khi anh đang vội đi đang lao miết
về mặt trước.
° ° °
Thời kỳ quốc biến cuối thế kỷ XIX ăn lèo sang đầu thế kỷ XX,
cũng là cái vận hội bở béo nhất của mẫu người phán ký hãnh tiến. Tách lẻ ra,
thì từng người ký, người thông, người phán chưa thành ra một sự kiện xã hội,
nhưng đem cộng lại, cả cái lượng xấu ấy đã hiển nhiên chuyển thành chất, một
cái chất xấu nó hết sức hoành hành. Bên cạnh nó, bên cạnh họ, nhà nho thuần túy
chỉ là những người thất thế.
Đỗ đâu hết cả nhà thông ký
Phần của nhà nho có một ly
Người thất thế Tú Xương không màng gì cái chân ký thông viết lách toàn bằng kiểu
chữ mới ấy, nên cũng dễ hiểu tại sao Tú Xương đểnh đoảng với chữ quốc ngữ La
tinh hóa.
Ông có đi thi ký lục không?
Nghe ông quốc ngữ học chưa thông.
Tú Xương mỉa mình, mỉa đời, và mát mẻ hờn hận mà đả luôn sang cả phía những anh
nhà nho có vẻ bấp bênh về lập trường chữ Hán, và có vẻ chung chiêng sang phía
chữ mới:
Nghe nói khoa này sắp đổi thi
Các thầy đồ cổng mau đi
Nếu không bia đá còn bia miệng
Vứt bút lông đi, giắt bút chì
Tú Xương mỉa mai những bạn đồng song nào đó, những ông đồ cổ nào đó, và kháy
nhau hãy đi thi mau lên (như là chớp lấy bát cháo thí). Tú Xương còn dọa họ rằng
ví có thế nào mà không được lưu tên vào sử xanh bia đá, thì chí ít, cũng được
miệng thế nó réo lên cho. Chớ có lo rằng không ai nhìn thấy mình, không ai nói
tới mình. Cứ đi thi chữ quốc ngữ đi, cứ đi theo Tây đi, nếu không "nghìn
thuở còn giữ thơm" thì ít ra cũng được "bỏ cái thối lại sau cho trăm
năm" chứ có làm sao. Còn riêng về phần mình, thì Tú Xương đã có biện pháp
rồi:
Hán tự chẳng biết Hán
Tây tự chẳng biết Tây
Quốc ngữ cũng mù tịt
Thôi thì về đi cày
Thơ Tú Xương về trường thi giai đoạn sau, lởn vởn những từ ký phán, từ quốc ngữ,
từ bút chì. Những từ và ảnh này đã trở thành một ám ảnh. Một ám ảnh chành chạnh
đủ ba góc theo: phán ký - quốc ngữ - bút chì.
Muốn sống phải chăm mài bút sắt
Cho mau chớ chậm đổ hòn chì
Cái biểu tượng bút chìm ở Tú Xương có lúc đã thành một cơn mê sảng nặng.
Ba kỳ trọn vẹn thêm kỳ nữa
Ú, ớ, u ơ, ngọn bút chì.
Đọc lên nghe nó hãi hãi như phải nghe một ông dở người cắm đầu bút vào mồm thấm
nước bọt cho đậm thêm nét bút chì, và lấy quá tay hóa ra hóc thỏi chì. Nghe nó
còn ghê ghê như người cảm xúc quá khích vì bút chì, máu uất bốc lên, đâm cấm khẩu,
giẫy đành đạch, và ú ớ be be, như có sự oan khiên càng cần nói ra lời thì lại
càng thất thanh đi.
Nghe còn thảm thương một cách buồn cười như người hay chữ nằm mơ mơ, cuốn sách ấp
vào ngực, bỗng bị ma dốt bóp cổ và bịt mồm không cho cầu cứu.
Nghe như truyện dị đoan nói về anh học trò đêm đầu hỏng thi bị bóng ma mộc đè
nơi quán trọ.
Cái tài của câu thơ Tú Xương còn ở cái cách nó nhại được cả cái thứ văn tự mới
mà nó không cảm tình một tí nào. Nó nhại, để nó trả thù cho thứ chữ Hán có lễ
nhạc thánh hiền? Nó nhại vần trắc nó nhại vần bằng, ở đây nó nhại cả mẫu tự mẫu
âm quốc ngữ và cho nó hiện lên như cái lối trẹo giọng của kẻ méo mồm méo miệng.
Kẻ sĩ chân chất thì phải bình phải ngâm phải chi hồ giả dã, nó nền nã
bổng trầm, chứ đâu lại đi ê a, uốn éo trẹo giọng, ú ớ ù ùy như cái đám bồi bếp
phán ký ấy. Nói lên thì thế, viết ra thì lại không dùng bút thủy mà đi dùng
ngòi chì, viết không dọc mà chỉ có ngang, lại đi bút từ trái sang phải. Ối cha
sinh mẹ đẻ ơi? Thật là "cái mả nhà tôi thiếu bút chì ! " .
Cái thời thi chữ Hán mà lại ghép các trò ngoại lai như cái kiểu "Toán
pháp thêm bài hội Trí tri" đó, Tú Xương đứng giữa sân khấu trường thi
mà dằn dỗi như thế. Thì từ trong hậu trường thi cử, sau này lại xa xa vẳng lên
cái tiếng đồng vọng của Tản Đàn đề vào Khối tình con:
Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang
Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng
Nửa ngòi bút ngỗng ba sinh lụy
Một mối tơ tằm mấy đoạn vương
Có kẹo có câu là sách vở
Chẳng lề chẳng lối cũng văn chương...
Cũng là người một hội một phường với Tú Xương, cũng đi thi chữ Hán vào lúc trường
thi ghép thêm quốc ngữ như Tú Xương, cũng bực bội với thi cử linh tinh, nhưng Tản
Đà còn thích ứng được dần đần với văn tự mới - mặc dầu Tản Đà cũng đã mỉa sẵn
mình rằng "nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng". Còn như Tú Xương
thì cho đến lúc chết vẫn là không có điều đình nhượng bộ gì với quốc ngữ.
Quốc ngữ, ký phán, bồi bếp, bút chì đều là những biểu tượng liên hoàn cùng xuất
xứ ở một nguồn duy nhất: Tây dương thực dân. Tất cả bốn cái món ấy (phán thông,
bồi bếp, bút chì, quốc ngữ) là cùng nằm trong một hệ thống, cái hệ thống của địch.
(Chao ôi phải được nhìn anh Tây chụp cái lũ thông ngôn Sè Goòng (ngồi xe nhà,
ngậm ống đót, cầm ba toong) nịnh bợ quan thầy thực dân, hách dịch quát mắng hăm
dọa người An Nam, thì mới thấy hết cái khả ố của bọn tay sai tân trào này)!
Không được như một ông Đề, ông Đốc, ông Lãnh đương thời nào đó dấy quân mà bình
Tây, thì Tú Xương vận dụng thơ mà đánh, không đánh đầu sỏ thì đánh quân tá nó.
Mà đã đánh thì cũng không cần phân biệt đối xử.
Chữ quốc ngữ bị nằm chung vào cái diện đánh mạnh đó.
Chữ quốc ngữ vì có mật thiết với đời sống ký phán thông mà đã trở thành một đối
tượng oan uổng của thơ đả kích Tú Xương.
Tú Xương đánh phán thông và phong cách phán thông trong một thời, tôi tán đồng,
vì tôi nghĩ rằng trong một số bài thơ về phán ký, Tú Xương đã cho chung quanh
thấy thế nào là thanh nghị của sĩ phu một thời. Nhưng đến lúc Tú Xương lại đánh
cả chữ quốc ngữ nữa thì, tôi phải nói thật, là Tú Xương đã làm cái điều không
nên, đã làm cái điều không phải, đối với một thứ văn tự có liên quan chặt chẽ với
tương lai ngôn tự văn hóa nước ta. Gọi nó là cái thành kiến, cái non cái hở,
cái bậy, cái khuyết của Tú Xương, gọi là cái gì cũng được. Gọi bằng tiếng này
hay chữ kia, đều thấy mình bực bực với Tú Xương. Bực hơn nữa là cái người mình
quý mến đó, lại chết mất rồi.Vạch ra cái thiếu sót sai lầm của người nào, mà có
người ta đối diện với mình thì vẫn thoải mái thỏa đáng hơn là nói vắng mặt chứ!
Ai ai ngày nay cũng đều biết thừa đi rằng chữ quốc ngữ là của cố đạo thực dân nặn
ra. (Cuốn sách đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ, sau cuốn tự vị La tinh - Việt,
là một cuốn sách dạy người ta đi đạo. Ấy là cuốn Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn
chịu phép rửa tội in tại La Mã năm 1651). Họ bày ra thứ chữ Nôm La Mã hóa đó,
La tinh hóa đó, để làm cái việc truyền đạo của họ. Họ dùng chữ đó, không phải để
đem ánh sáng tới, mà chính là vì cái mục đích làm tối tăm thêm sự sống ở nước
ta. Âm mưu nguyên thủy của chữ quốc ngữ cố đạo là cốt làm mù óc người An Nam kể
cả người đi đạo lẫn người không theo đạo. Nhưng, cái hình thức văn tự mới ấy có
làm được hay không cái sứ mạng ngu dân mà cố đạo định giao cho nó, đó là một
chuyện khác. Tất cả những gì do đối phương, do đối địch chế tạo ra, không phải
là ta tuyệt đối từ chối hết.
Nếu cái họ chế ra đó mà tiện lợi cho phía ta, thì ta phải dùng. Ngay như chữ quốc
ngữ cố đạo đưa ra, ta tỉnh táo mà dùng, và đã có biết bao nhiêu trang sách báo
in ngay bằng chữ quốc ngữ để phê phán vai trò giáo hội, và lật mặt nạ những cha
cố làm mật thám cho địch, làm Việt gian bán nước 10. Tôi không bao giờ nói Tú Xương là hủ nho,
nhưng đứng trước sự thành kiến đối với quốc ngữ của Tú Xương, tôi phải thẳng thắn
mà nói rằng ông Tú của tôi, không còn nghi ngờ gì nữa, đã là một con người thủ
cựu, bảo thủ, và có phần nào là hủ nho thật đấy.
Cái đáng tiếc nữa cho Tú Xương là chưa nhận rõ được thế nào là tiếng nói và văn
tự trong tiếng nói dân tộc. Nếu Tú Xương, ngoài tài thơ mà lại rộng có những kiến
thức về khoa học tiếng nói, thì nhất định Tú Xương, lúc đánh đám thơ lại quốc
ngữ xu thời theo Tây, đã không đánh hồi lùng cả sang văn tự quốc ngữ. Một nhà
thơ lớn quốc ngữ Nôm lại đi đánh vào quốc ngữ La tinh!
Trước khi Tú Xương mất thì đã có nhiều nhà nho yêu nước dùng quốc ngữ mới để
khai thông dân trí ta.
Tú Xương "rõ thực nôm hay" ấy, tưởng lầm rằng mất chữ Hán, mất chữ
Nôm, Tây đưa quốc ngữ thay vào, là ta mất luôn cả hồn nước. Sự thực là thực dân
đã làm hại được ta nhiều thứ, cái ấy rõ quá, nhưng tiếng ta vẫn vững như bàn thạch.
Tiếng ta vẫn lớn khỏe, bất kể sự trải qua dâu bể của văn tự, và mặc dầu văn tự
Nôm (cấu tạo trên cơ sở chữ Hán) phải rút đi trước sự lan tràn của văn tự ta La
tinh hóa đi. Mới hay lịch sử tiếng nói dân tộc ta có lúc thay đổi hình thức văn
tự, mà không ai và không bao giờ thay đổi được tiếng nói dân tộc. Hình như đó
cũng là một quy luật khoa học về ngữ ngôn học.
Lúc Tú Xương chết, nhà thơ Yên Đổ Nguyễn Khuyến có phúng:
Kìa ai chín suối XƯƠNG không nát
Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn
Không rõ lúc phúng điếu, câu đối này viết bằng chữ Nôm gốc văn tự Hán hay là bằng
thứ chữ gì khác. Nhưng đôi đối ấy đã đến với tôi bằng con đường của chữ quốc ngữ,
và nay tôi đọc lại câu đối ấy là trên bản in bằng thứ chữ quốc ngữ La tinh hóa
đó. Bằng cái thứ chữ quốc ngữ càng ngày càng lưu lại tên tuổi cho tuổi thơ Tú
Xương, và ngày càng làm sáng thêm danh nhà thơ đấy. Nếu Tú Xương của chúng ta lại
đỗ cao hơn? - không cần đỗ to đến mức trạng, đến mức tiến sĩ đại khoa, chỉ cần
nhích lên một mức trên cái tú tài cố hữu đó thôi!
Nếu Tú Xương đỗ cử nhân?
Khi đã giả thử được một câu như vậy về đời Tú Xương, thì đồng thời cũng có thể
có những câu giả thử khác quanh quanh thân thế một ông Tú riêng giữa làng thơ
ngồi hẳn một chiếu điều hoa - nửa cạp hiện thực nửa cạp trữ tình.
Nếu Tú Xương đỗ cử nhân?
Nếu Tú Xương mà không chết năm 1907? Mà lại vẫn còn kéo dài tuổi thọ cho tới
hôm nay? (Thì cũng chín mươi hai tuổi thôi mà! Tuổi thọ các cụ ta, nay vẫn có cụ
sống lâu trên một trăm tuổi đó) .
Nếu Tú Xương đỗ cử nhân mà lại làm quan, được triều đình An Nam cho đi làm kinh
lịch, tri huyện tri hiếc, hoặc Tây bổ cho làm huấn đạo đốc điếc gì đó, nếu giả
thử vạn nhất mà lại có những sự ấy xảy tới cho Tú tài Xương, thì có gì đổi thay
vặn lệch hẳn thơ Tú Xương sang một dòng phái khác không?
Trước khi giải đáp cho câu giả thử này, tôi muốn được bàn về câu giả thử trên
đã: "Nếu Tú Xương không chết năm 1907 đó?".
Năm 1907 là năm tử của một nhà thơ yêu nước bằng chữ Nôm, và cũng là năm binh
lính khố đỏ ta rục rịch khởi nghĩa giữa Nam Định. Cũng trong cái năm 1907 mà thời
nhân gọi là năm "cha con phế đế" ấy, Tây hạ bệ vua Thành Thái xuống,
đặt lên bệ đó vua Duy Tân, để rồi sau cùng cho cả hai cha con gặp lại nhau ở một
hòn đảo phát vãng Rê Uyniông xa lắc, mỗi năm chỉ còn có rừng mía là còn gợi lại
ít nhiều phong cảnh cố quốc biệt tích. Phong trào khởi nghĩa văn thân lúc đó
coi như là Tây "bình định" xong về căn bản. Và lá cờ khởi nghĩa đang
rung phất ở tay nông dân Yên Thế. Và năm 1907 đó, cũng là năm Hoàng Hoa Thám
phát triển căn cứ Phồn Xương.
Sửa chữa cái hẹp hòi đối với sĩ phu trí thức, lần đầu Đề Thám đã mở rộng căn cứ
đón nho sĩ. Trong các trại nghĩa quân và tướng lĩnh tham tán quân cơ, mở thêm một
trại mới. Trại lập riêng trên một quả đồi. Quả đồi không tên tuổi giữa rừng Yên
Thế bao la ấy được có tên từ đó: đồi Tú Nghệ. Đồi Tú Nghệ gần ngay chỗ Đề Thám
đóng ấy, là dành riêng cho tất cả nghĩa sĩ Trung Kỳ lưu vong mất đất hoặc ra Bắc
bàn tính phối hợp chiến trường Trung Bắc lưỡng kỳ.
Về chính trị quân sự thì năm 1907 đại khái là như vậy. Nhưng năm 1907, về chính
trị và văn hóa, có một sự kiện khá đặc biệt: ấy là sự ra đời của phong trào
Đông Kinh nghĩa thục. Nói rộng ra là cả một phong trào, nói cụ thể thu hẹp lại
là một trường tư thục mở tại thủ đô Hà Nội, có thầy giáo, có học trò, có giáo
trình. Các nơi tứ chiếng Đông Nam Đoài Bắc nhiều tỉnh xin chương trình, mở trường
địa phương, tự coi như những chi nhánh của trường trung ương Hà Nội. Xu hướng của
Đông Kinh nghĩa thục là muốn làm cách mạng nặng về văn hóa.
Trường Nghĩa Thục thọ được chín tháng, nhưng đã có một tác dụng và ấn tượng
chính trị sâu đối với sĩ phu đương thời: thức tỉnh hồn nước, và đổi mới hơn lên
cái lòng yêu nước cũ đó. Không rõ công việc chuẩn bị mở trường khởi công từ bao
giờ, nhưng nhà trường chính thức khai giảng vào tháng 3-1907. Tức là sau
"năm mươi ngày Tú Xương" chi đó (Tú Xương mất 20-l-1907). Tôi muốn
người bạn đọc của tôi lưu ý giùm cho tôi hai niên hiệu khai sinh (nhà trường),
khai tử (nhà thơ) cùng trong một năm đó.
Tôi vẫn còn nhớ dân gian ta trước đây lưu hành cái giai thoại: ai đánh vỡ chén
ngọc nơi thiên cung, thì bị đày xuống hạ giới làm một anh học trò hay chữ, với
điều kiện chỉ được thi đỗ đến tú tài. Lại còn buộc thêm điều kiện nữa là số phải
đông con. Nếu giai thoại ấy là đúng như thế, thì ý ác đó cũng thật nghiêm khắc
thay luật trời và cũng tinh vi thay hình phạt của nhà giời. Hay chữ mà cho hỏng
tuột đi, thế nó lại đi một cái nhẽ rõ rệt về "học tài thi phận". Đằng
này lại cho nếm một tí mùi bảng phấn, và bắt ngừng ngay ở nấc thang đó. Tú tài
là gì, nếu không là me mé ghe ghé bể hoạn, mà lại chưa đủ tiêu chuẩn bằng cấp để
vào quan chế vua. Tú tài chưa được là một chức năng hành chính phong kiến. Nó dở
quan, dở dân, dở thầy đồ, dở thầy khóa, dở ông dở thằng. Tức là một hạng bất đẳng
trong cái xã hội đã có một trật tự biên chế lâu đời như thế.
Với đủ các thứ dở dang đó, lại bồi thêm vào máu anh một chút vi trùng của thiên
tài, vừa đủ cho anh hóa ra một nhà nho vô chính phủ, một nhà thơ ngông hoặc một
người cuồng chữ. Nếu chỉ mới có thế thôi, anh tú ngông đó chưa thấy được cho kỳ
hết mọi khóe khổ đau. Cho anh thêm một đàn con nữa để hoàn chỉnh hết hộ anh cái
nhục lụy của sự sống: "Mấy khoa hương thí không đâu cả - Ba thước vườn
hoang bán sạch rồi - Gạo cứ lệ ăn ba bữa một - Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi".
Đời Tú Xương về tinh thần như thế, về vật chất như thế, còn xin cho Tú Xương
kéo dài thêm tuổi thọ ra để làm gì? Để đi thi thêm vài ba khoa nữa, kỳ cho hết
thi chữ Hán ư? Để làm gì? Để đỗ cử nhân ư? Ai tin tài phận Tú Xương sẽ phải đỗ
cử nhân, nếu nhà nước còn mở mãi khoa thi, thì xin cứ mà tin. Không, chả bao giờ
Tú Xương đỗ cử nhân đâu. Tôi cho rằng Trần Tế Xương đỗ đến tú tài đã là một sự
lọt lưới rồi, đối với các quan chấm trường hồi đó. Nếu chấm trường nhận ra được
văn bài đích là của cái anh làm thơ không nghiêm túc cợt nhả tỉnh Nam thành Nam
Trần Tế Xương đó, e mà họ đã đánh hỏng luôn cả cái tú tài của Tú Xương nữa kia
đó. Khéo không mà lại suốt đời ông Tú lại chỉ là một ông Tam trường, chung thân
Tam trường? Thơ như thế, phú như thế, khẩu khí như thế, quan trường nào mà cho
là hay được!
Nghĩ đến cuộc đời Tú Xương và nghĩ về cái lúc Tú Xương chết năm 1907 đó, tôi lấy
làm tiếc cho Tú Xương sao không cố sống thêm ít năm nữa, hoặc mươi tháng nữa
thôi. Để làm gì? Để cho Tú Xương được gặp phong trào Đông Kinh nghĩa thục chính
thức ra đời sau hai tháng Tú Xương từ trần.
Tú Xương là người ghét chữ quốc ngữ. Trường Đông Kinh nghĩa thục làm cách mạng
văn hóa, và chủ trương dùng chữ quốc ngữ làm thứ chữ phổ thông đắc lực nhất
trong dân chúng để đẩy rộng mạnh công cuộc khai thông dân trí. Nay mong muốn một
người ghét cay ghét đắng chữ quốc ngữ tìm đến chữ quốc ngữ của Đông Kinh nghĩa
thục, liệu cuộc gặp có dẫn tới kết hợp tích cực gì không?
Tú Xương ghét chữ quốc ngữ vì chỉ thấy cái đám ký phán thông dùng nó để cho Tây
sai khiến mình và làm hại mình. Nó là thứ chủ nghĩa của đám bất lương, đám bất
lương từ bể ngoài đến, đám bất lương từ trong nước mọc lên, do Tây vừa đào tạo
ra. Vua quan phong kiến giết đạo buộc con chiên họ dẫn qua thập tự mà chết như
thế nào, thì Tú Xương ghét ký thông phán như thế. Tú Xương cho đám thơ lại tân
thời đó, đám ký phán đó chẳng qua cũng lại là một thứ đi đạo nữa mà thôi. Chữ
quốc ngữ họ viết ra, cũng vẫn là một thứ chữ mật mã gì đó của đám chỉ điểm cho
giặc. Cho nên thơ Tú Xương giương cung giương nỏ lên mà bắn sả vào đám văn thư
ký phán nhị tâm và, mỗi câu ngày nay xem lại, vẫn còn thấy rung lên như những
mũi tên tre vừa mới cắm phập vào điểm đen.
Trong lúc bắn để lùi để cố thủ cho chữ Hán, Tú Xương bắn bừa cả vào chữ quốc ngữ.
Chê trách Tú Xương thiếu nhỡn quan chính trị, không nhìn xa rộng về tiền đồ
ngôn tự và văn hóa là đúng quá đi thôi.
Nhưng chữ quốc ngữ do Đông Kinh nghĩa thục đưa ra, do chính những nhà khoa bảng
những bậc tiêu biểu cho sĩ phu yêu nước viết ra và đọc lên, để cảnh tỉnh hồn nước
cũ, nhất định Tú Xương phải nhận định nó có khác đi, nếu Tú Xương còn được sống
nốt cả cái năm 1907 đó.
Chữ quốc ngữ của Đông Kinh nghĩa thục vang vọng khắp các tỉnh miền Bắc, đâu đâu
cũng xin giáo trình và tham gia công cuộc duy tân bằng văn tự quốc ngữ. Tỉnh
Nam Định cũng nhận làm một phân hiệu của Đông Kinh nghĩa thục. Nếu mấy tháng
sau đó mà Tú Xương còn sống ở thành Nam Định, tôi tin Tú Xương sẽ có những hoạt
động như mọi nhà nho chân chính của phong trào Đông Kinh nghĩa thục. Bỏ lối học
từ chương sáo hủ, bỏ lối tứ thư ngữ kinh đúng như chủ trương của Đông Kinh
nghĩa thục, Tú Xương ký cả mười ngón tay chứ còn gì nữa!
Trong những bài học của nhà trường, Đông Kinh nghĩa thục soạn ra bằng văn vần để
giảng dạy, bài tụng chữ quốc ngữ có những đoạn rất cụ thể:
. . Chữ quốc ngữ là hồn trong nước.
Phải đem ra tỉnh trước dân ta
Sách các nước, sách China 11
Chữ nào nghĩa ấy dịch ra cho tường
Tôi nghĩ rằng nếu Tú Xương còn có mặt ở đời lúc Đông Kinh nghĩa thục ra đời, Tú
Xương sẽ hưởng ứng văn tự mới, và một cách cũng rất biện chứng, Tú Xương cũng sẽ
có thơ cổ động cho chữ quốc ngữ. Với những đức tính hiện thực và trữ tình sẵn
có, thơ Tú Xương phục vụ tuyên truyền lúc đó có thể còn mạnh hơn, dẻo hơn,
phong phú và réo rắt hơn những đoạn những câu như trên kia đó.
6
Nếu lúc đi thi, Tú Xương đỗ cử nhân?
Trên kia tôi đã dám khẳng định rằng chả bao giờ Tú Xương đỗ cử nhân đâu. Nhưng
thôi, chiều lòng một số người cứ muốn Tú Xương phải đỗ ít ra là cử nhân, ta
cũng thử cứ cho Tú Xương đã đỗ cử nhân, cái đó không quan trọng lắm. Cái đáng
bàn, có cái chiều quan trọng của nó là: có vì cái cử nhân thêm thắt vào đời
mình đó, mà Tú Xương làm thơ khác đi không? Có vì đỗ cử nhân mà thơ Tú Xương biến
chất hoặc mất hẳn chất đi không? Có thể Cử Xương sẽ duyệt lại tất cả những bài
thơ của Tú Xương đã làm ra trước đó không? Có thể Cử Xương sẽ cải chính hoặc
công khai từ bỏ những bài thơ Tú Xương đã được truyền tụng không?
Muốn trả lời được những câu hỏi này, tôi thấy cần nhớ lại một số nhận định của
một số độc giả Tú Xương.
Về Tú Xương, thường vẫn lưu hành một kiểu dư luận. Rằng, Tú Xương là một tay
chơi không được toại nguyện về vật chất, và là một nhà nho thèm khát địa vị xã
hội.
Trước mắt số độc giả này, thì tất cả chùm thơ Tú Xương chỉ là kết quả của một
thứ cây bất mãn, bất mãn hiểu theo cái nghĩa rất xoàng xĩnh thông tục của nó.
Chỉ vì đỗ thấp mà Tú Xương bất mãn về vật chất đời tư, bất mãn về sự công danh
một thời, và cuối cùng viết ra những câu phá đám, những dòng những chữ không có
tí gì xây dựng cho chung quanh. Cả đời và cả sự nghiệp Tú Xương chỉ là cái vòng
luẩn quẩn của một anh thích hành lạc, thích công danh, càng hành lạc càng thèm
công danh, và chưa có được sự công danh thì còn là nói đổng, còn là chửi bới
mãi cuộc đời. Tất cả Tú Xương chủ yếu là có bấy nhiêu thôi, còn ngoài ra, câu
thơ câu phú có còn khuyên được câu nào, thì chẳng qua cũng chỉ là cái phụ ở một
tay có kỹ xảo thơ Nôm.
Trên cái cơ sở nhận định thông tục đó về Tú Xương, nay chúng ta thử mặc cho Tú
Xương một cái áo tấc cử nhẩn màu lơ da trời, và chính thức đun Tú Xương vào hẳn
cái lớp người quan lại hồi đó. Có thể phân phối cho "Cử" Xương, theo
quy định quan lại triều đình, một cái chức hành tẩu ở Lục bộ trong kinh, một chức
kinh lịch ở tỉnh, hoặc một chức giáo thụ ở phủ huyện nào. Được vào quan chế
vua, được ăn cái lương vua, không rõ "Cử" Xương đã hết "cao
lâu, thổ đĩ , tổ tôm, ả đào" chưa? Đã nắn lại cái sinh hoạt bừa bãi của
một ông Tú bất mãn chưa? Cái đó tôi chưa dám phác vẽ ra như thế nào, nhưng tôi
có thể dứt khoát mà nói rằng, khi Tú Xương đã thành Cử Xương và đi làm quan nằm
trong quan chế nhà vua, thì đời sống vật chất, dù có bạc bẽo ít ỏi đến đâu, vẫn
cứ là đỡ bấp bênh hơn cái hồi chỉ là tú tài sống bằng cái lương gạo lần hồi của
người vợ tần tảo hàng ngày.
Nhưng thôi, tất cả những điều đó, vẫn chưa là cái điều chính yếu chúng ta cần
biết về "Cử" Xương. Nếu giả tỉ Tú Xương đỗ cử nhân, rồi vì thế mà được
xuất chính, thì cái thắc mắc ghê gớm của mọi người là muốn hỏi xem vậy thì, thơ
Tú Xương có thay đổi gì về nội dung tư tưởng và về hình thức nghệ thuật không?
Theo tôi nghĩ, dù có đỗ cử nhân, dù có được bổ nhậm chức gì quan gì, "Cử"
Xương vẫn lại làm thơ như Tú Xương mà thôi. Đây không phải là đem thột thứ định
mệnh ra mà cắt nghĩa cho con đường thơ của một nhà thơ độc đáo. Mà đây là vấn đề
nhìn cho rõ cái bản chất của Tú Xương. Chuyện cử nhân cử nhiếc đem ra làm giả
thuyết kia, chẳng qua cũng chỉ là vấn đề hiện tượng vặt thêm vào cho một cuộc đời
đã sẵn một bản lĩnh. Cái hiện tượng, cái sự kiện cử nhân ấy thêm vào cho Tú
Xương, vẫn không thể lái nổi và buộc Tú Xương rẽ sang một đường thơ khác, một
dòng thơ khác. Thơ Tú Xương biếm họa và trữ tình, là cái phát tiết của một con
người Tú Xương vừa phóng khoáng vừa khát nhớ một nếp trật tự trong sự sống. Cái
nếp trật tự ấy đã không còn nữa từ lúc Tú Xương vào đời. Càng lớn lên, Tú Xương
càng thấy thêm những phức tạp mới do xâm lăng Pháp đem thêm vào một trật tự cũ
vốn đã biến chất đi nhiều.
Nếu nói rằng một cái cử nhân có thể chuyển được phẩm chất người và phẩm chất
thơ của một người, nếu cứ khư khư nói rằng Tú tài Trần Tế Xương làm thơ chống đối
(chống đối sự sống hàng ngày, phủ nhận mọi giá trị của sự sống đó) vì đỗ thấp
vì bất mãn, nếu kết luận như vậy, thì trong cái thời đó, còn làm gì có những sự
việc những con người để tên cho mai sau văn học như là Cao Bá Quát, như là Nguyễn
Thượng Hiền, như là Nguyễn Khuyến?
Cao Bá Quát chả là cử nhân của trường hương thí Hà Nội đấy ư? Tại sao "Cử"
Quát vẫn nổi "loạn" cầm đầu "giặc châu chấu", tại sao ông
quan giáo dục Cao Bá Quát tỉnh Sơn Tây, phủ Quốc Oai đó lại đi làm tham mưu cho
nông dân hai tỉnh Bắc Ninh Sơn Tây chống lại sự áp bức của đời vua Tự Đức?
Nguyễn Thượng Hiền không phải là đỗ thấp, mà đỗ rất cao, đỗ tiến sĩ, rồi cuối
cùng Tây bổ nhiệm cho làm đốc học chữ Hán tại Nam Định. Theo cái nghĩa thông
thường, thì đời ông nghè đó, không còn có gì đáng bất mãn nữa về danh về lợi.
Thế thì tại sao, ông nghè Nguyễn Thượng Hiền đó lại gói tất cả chỗ bạc lương bấy
lâu làm đốc học, hoàn trả lại cho Tây, và treo ấn từ quan và cuối cùng, bỏ ra
nước ngoài?
Yên Đổ Nguyễn Khuyến đi thi hương, đi thi hội, vào thi đình, ở đâu cũng đỗ đầu.
Triều đình Tây thuộc địa, triều đình vua quan ta đều mời ra làm quan. Quan kinh
lược nọ mời về làm gia sư, quan khâm sai kia mời ra chấm thi văn học, rồi lại
còn được giao cho làm văn tế tướng Tây Gạc nhe, Rivie chết trận. Danh vọng Nguyễn
Khuyến có thiếu đâu, tại sao thơ văn ấy vẫn bàng bạc cái cười phủ nhận mọi thực
tế chung quanh?
Cho nên tôi vẫn tin rằng cuộc đời lúc bấy giờ có quàng vào cổ Tú Xương mấy thứ
bằng sắc cử nhân, tiến sĩ và mấy thứ quan chức bổng lộc gì đi nữa, thì thơ Tú
Xương vẫn là thơ Tú Xương và có khi, lại càng Tú Xương hơn nữa.
° ° °
Nghĩ về kiếp người Tú Xương và nghiệp thơ Tú Xương, tôi cho rằng
ở Tú Xương, thật sự có một thảm kịch, thật sự có những mâu thuẫn trong nội tại
một con người thơ ấy.
Trong lớp nhà nho cũ có tên tuổi ở sử văn thơ ta, người để lại cho hậu sinh
chúng ta nhiều ấn tượng sâu sắc nhất về thi cử chữ Hán, có lẽ không ai bằng Tú
Xương, cả về mặt lượng, cũng như về mặt chất. Tú Xương là một người rất tin vào
nguyên tắc thi cử (thi cử chữ Hán là phương pháp chính thống để lọc tài chọn hiền
ra giúp chúa phò vua), nhưng lại rất nghi ngờ mỉa mai đến sự tổ chức thi cử.
Thơ phú Tú Xương về thi cử, thường gài vào đấy cái quan niệm hiếu (đền ơn cha mẹ
sinh thành), cái quan niệm trung (phò vua giúp nước) của mình. Tú Xương đi thi
liền liền mấy chục năm, và đến lúc chết, buông tay lều tay chõng ra, vẫn chưa
giải quyết được cho đích thân mình cái tâm sự của một người đi thi. Suốt đời lụi
hụi lóc cóc với trường thi, mà cuối cùng vẫn không trang xong chút nợ công
danh: cái luân lý thông thường đương thời coi công danh là một món nợ danh dự
mình mắc vay của đời sống, và phải lấy đỗ đạt trường ốc ra để trả ơn nhà và đền
nợ nước. Cái tiếng tú tài ấy vẫn chỉ là một cái danh, có danh mà không có phận
(cái phận của người muốn được phân công gánh vác xã hội tổ chức theo lúc đó)
Cái tiếng tú tài ấy là một cái có tiếng mà không có miếng (sinh kế gieo neo).
Con người tú tài ấy vui tin đạo học, lạc đạo nhưng cũng khó bề an bần. Cũng
trà, rượu, lầu ca, thuyền hát, cũng trai gái thư đi thư về nhưng có chơi mà
không hẳn là thú, con người Tú Xương hành lạc một cách thật là sục sặc, lòng hậu
mà lời thì bạc khinh ra mặt.
Nhưng theo tôi nghĩ, cái khía đau xót nhất trong thảm kịch Tú Xương, là con người
chuyên thơ Nôm ấy (tôi chưa từng nghe ai đọc thơ chữ Hán Tú Xương. Thường thường
các nhà thơ hồi đó làm cả thơ Nôm, làm cả thơ chữ Hán, rồi có khi lại tự mình dịch
thơ Hán của chính mình thành ra thơ Nôm. Trong cái tình hình chung đó trường hợp
chuyên thơ Nôm của Tú Xương cũng là một trường hợp đặc biệt) - lại là một người
không hòa mình được vào với chữ quốc ngữ (như những nhà nho Đông Kinh nghĩa thục
cùng thời) và vì thế, càng làm nặng nề thêm cái phần thương tiếc của người thức
giả lớp sau, mỗi lần đọc lại thơ Tú Xương, và nghe lại cái tiếng "gọi
đò" xưa đó.
° ° °
Về nhà thơ Tú Xương, một số sách thường hay đưa ra một số tên
tuổi những bậc ái quốc và những nhà hoạt động cách mạng lúc bấy giờ, hoặc là dẫn
ra một số sự việc riêng Tú Xương có quan hệ ít nhiều với các bậc chí sĩ ấy.
Mặc dù tất cả tấm lòng kính trọng của tôi đối với các bậc yêu nước tiền bối ấy,
tôi thấy nhiều dẫn chứng dẫn việc đó là không cần. Mà nó chỉ tạo cho người đọc
các sách nghiên cứu tiểu luận kia một ấn tượng khó chịu: hình như sự nghiệp thơ
của một thi sĩ đó chưa đủ thành trọng lượng rồi sao mà thuốc thang còn cứ phải
gia thêm bốc thêm vị này vị khác vào!
Không khi nào tôi lại đi nói rằng chớ có đưa các bậc chí sĩ cách mạng vào trong
sách đang nói về nhà thơ Tú Xương. Chúng ta hoan nghênh những dẫn chứng dẫn việc
đó nếu những cái dẫn đó làm cho ta thấy được cách mạng hồi đó (xuyên qua sự việc
đã dẫn ra) có trực tiếp gián tiếp ảnh hưởng như thế nào đến tư tưởng và nhỡn
quan Tú Xương, đến thi thuật đến mỹ học Tú Xương, đến cách cảm nghĩ diễn tả của
riêng từng thời kỳ sáng tạo của nhà thơ. Nhưng khi mà tất cả mọi cái dẫn đó
không mảy may dính líu gì đến cơ cấu, đến bút pháp thủ pháp thơ Tú Xương, đến
phần hậu trường của mỹ lý mỹ học trong thơ Tú Xương, thì tôi cho mọi cái dẫn đó
chỉ là những thứ việc có tính chất vơ vào. Tôi nghĩ rằng nếu thơ Tú Xương mà đã
không hay, thì có đưa thêm gì gì đi nữa vào đời Tú Xương, cuối cùng vẫn không vực
nổi được Tú Xương. Thơ Tú Xương và con người Tú Xương không cần đến những thứ
biện trợ không cần thiết đó. Những ý tứ và tình cảm, những từ, những âm, những ảnh,
những vần, những nhịp trong thơ Tú Xương, cả tập thơ Nôm Tú Xương độc đáo ấy, tự
nó đủ để bảo vệ khá vĩnh cửu rồi cho tất cả những gì gọi là giá trị Tú Xương.
Hà Nội, 5-10-1962.
--------------------------------
Thơ Tú Xương mừng người trong họ cất nhà mới ở tỉnh Nam,
cũng có câu: Nhà gỗ năm gian lợp lá gồi - Trông dòng sông Vi tựa con
Côi. |
|
Cung Trùng Quang, cung Trùng Hoa nay không còn nữa, phủ
Thiên Trường cũ của nhà Trần nằm giữa thành phố Nam Định mở rộng ngày nay,
chính là cái chỗ đang đào ba mươi hai vạn thước khối đất để làm hồ bơi Vị
Xuyên đó. |
|
Cái sờ sờ ra ở thơ Tú Xương là ít dùng tới chữ Hán. Nay tôn
trọng và kỷ niệm cái tài thơ Nôm đó, có nên đưa vào lòng bia những cái thứ mà
chính nhà thơ ấy vốn không ưa thích không? |
|
Về bút pháp hiện thực của Tú Xương, xem tiếp ở chương
4: Thực tế thi cử chữ Hán trong thơ Tú Xương. |
|
Yên Đổ Nguyễn Khuyến mến tiếc tài trào phúng Tú Xương, nên
có câu đối phúng Tú Xương: |
|
Tú Xương mới chết cách đây năm mươi lăm năm. Vậy mà toàn bộ
trứ tác Tú Xương không lưu lại một tự tích gì, chỉ toàn là truyền khẩu lại.
Người truyền ra thế này, người truyền ra thế khác, mạnh ai thì nấy truyền. In
thơ Tú Xương, nơi in 64 bài, nơi thì in 128, rồi 140, rồi 193, có nơi thì đến
199. Cái sự lộn xộn đau đớn ấy của một nền văn học cận đại rõ ràng đã có văn
tự từ lâu, có lẽ cũng lại phải vin vào thứ hoàn cảnh nói chung giấu giếm bí mật
đó mà tìm cho nó một lý giải gì. |
|
Không rõ những nhan đề từng bài thơ (bài này, và tất cả những
bài khác nữa của Tú Xương) là do chính Tú Xương tiêu nó lên như thế, hay là
do người đồng thời đặt hộ cho Tú Xương, và cứ thế mà "truyền khẩu tới
chúng ta". Tác phẩm Tú Xương vốn không có bản thảo và tự tích, hỡi ôi! |
|
Sau vụ án đó, Phan Bội Châu vào kinh (Huế) giả danh vào xin
với Bộ xét lại án cấm thi, nhưng chính là để tìm gặp Nguyễn Thượng Hiền (Thơ
văn Nguyễn Thượng Hiền của Lê Thước, Vũ Đình Liên). |
|
Làm bồi bếp nấu nướng cho quan Tây, ngoài nghĩa đen, nó còn
có cái nghĩa bóng của nó nữa. Ví dụ chuyện một ông quan ta ăn mừng thăng chức.
Một nhà nho liền mừng hai chữ đại tự cho bức hoành phi. Hai chữ "Quần thần"
mừng đó, cả tiệc khao đều cho là khen chủ nhà làm quan to. Nhưng chính nó là
một câu chửi độc của nhà nho thâm. Ông quan đó nguyên làm bồi bàn cho một
viên công sứ, sau nó cho làm quan. "Quần thần" dịch ra là bầy tôi.
Nói lái lại, thì bầy tôi = bồi Tây! |
|
Vì hoàn cảnh lịch sử đưa dân tộc mình mà nhiều nhà văn da
đen yêu nước ở châu Phi ngày nay vẫn viết và phát ngôn bằng tiếng Pháp hoặc
tiếng Bồ Đào Nha. Trả lời một cuộc phỏng vấn, thi sĩ và kịch tác gia người
Angiên là Kateb Yacine đã nói về cái tiếng Pháp và chữ Pháp mình vẫn dùng:
"Giữa nước Pháp và chúng tôi, đã xảy ra chiến tranh. Được rồi! Nhưng mà
cái người đang chiến đấu không khi nào lại tự hỏi xem khẩu súng mình đang
dùng là súng Pháp, súng Đức hay súng Tiệp. Nó là súng của mình, nó là võ khí
của mình. Ấy là mình phụng sự cuộc chiến đấu của mình (...) Đặt vấn đề ở một
phương diện cao hơn thì, viết bằng tiếng Pháp, tức là giống như giành lấy
súng từ tay tên lính nhảy dù xuống". |
|
Tức là Trung Quốc, phiên âm qua tiếng Pháp. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét