Thứ Ba, 30 tháng 11, 2021

Mai Nương Lệ Cốt 1

Mai Nương Lệ Cốt 1

BÀI TỰA CỦA TÁC GIẢ

Sự tích này là sự tích một người quá đắm say nơi tình dục cũng là một cái gương hay cho bọn đầu xanh. Des Grieux (Đê-Ghi-ri-ơ) công-tử, đóng vai chính trong truyện này, là bậc niên-thiếu nam-nhi, say mê một gái giang-hồ, đến nỗi như đui, như điếc, như dại, như ngây. Sung sướng vẻ-vang chẳng muốn, tự mình lại đem mình vào nơi khổ-hải trầm-luân, cực-nhục trăm chiều. Trời bẩm sinh ra có tài-năng, có đức-hạnh, lại là con nhà thế-tập, đường công danh thật rộng mở cho mà bước tới, vậy mà tự mình lại đi giúi mình vào chỗ tối tăm hèn-hạ, tự mình đem thân lưu-lạc giang-hồ, nay đây mai đó, ăn ở một cách rất đê tiện. Biết trước những cơ nguy-hiểm mà không muốn tránh nguy-hiểm. Cực thì biết cực, đau thì biết đau, mà tay người vớt đẩy ra không vịn, thuốc kề tận miệng mím môi không uống. Tính khí con người đâu quái lạ: hay có, dở có, nết có, tật xấu có; cảm-khái những tình rất cao-thượng, mà làm ra những việc rất càn. Đó là cái cảnh giữa trong bức tranh tôi vẽ cho thiên-hạ xem. Người có trí hẳn cũng công-nhận cho rằng công việc ấy không phải là công việc vô ích. Trước nữa đọc quyển sách cũng nên cuộc tiêu-khiển, sau trong truyện cũng lắm câu mở mắt cho người đời. Làm cho người ta vui mà hóa ra dạy người ta, ấy cũng là một chút công với người đọc sách.

Ngẫm đến những lời luân-lý, lạ một điều rằng ai cũng lấy làm hay mà ai cũng biếng. Vậy mới biết cái tấm lòng con người ta là kỳ-quặc, nói đến đạo đức, nói đến lời hay lẽ phải, nói đến điều thiện thì ai nghe thấy mà lòng không cảm-động, không náo-nức, như thèm, như muốn, như khát khao ở thiện; mà đến việc làm, đến cách ăn-ở, thì ai cũng xa điều thiện.

Các đứng hiền-nhân quân-tử thử ngẫm mà xem: có phải từ câu đàm luận với nhau, cho đến những khi một mình nằm nghĩ ngợi, vui nhứt, thú nhứt, là những điều hay, điều phải, điều đạo đức. Ta nói chuyện gì, nghĩ ngợi điều gì, rồi kết cục cũng xoay ra một đôi câu luân-lý. Mà trong một đời ta, nghĩ cho cùng thì vui thú nhứt duy có những lúc hoặc ta một mình ngồi nghĩ ngợi, hoặc cùng với một người bạn tri-kỷ mà đàm luận đến những việc đạo đức, những điều tình nghĩa, những cách cầu hạnh phúc, những câu bài trách nỗi đời, những chỗ suy yếu của tạo hóa làm cho ta xa đạo đức, xa nhân nghĩa, và những cách tu-thân cho gần điều tốt, xa điều xấu. Các đứng cổ kim hiền-triết thường hay lấy những cách đàm-luận, những cách tư tưởng ấy làm cái tượng hình đẹp nhứt của cuộc đời sung-sướng. Vì cớ gì mà người ta đàm-luận với tư-tưởng thì ai cũng hay như thế, mà thả ra ăn ở với đời, thì không mấy ai là khác ai cả? Tôi xin biên cái lẽ sau này, chẳng biết có trúng hay không.

Nguyên những điều hay lẽ phải, toàn là những ý-tưởng viển-vông, toàn là những lẽ chung, mà những việc của ta làm ra thì việc nào hình như cũng có một thế đặc-biệt, so-sánh với lẽ chung, không biết nó vào thứ loại nào. Ta lấy lẽ chung mà thi-hành thì cứ e rằng không biết có hợp với cái cảnh riêng của ta chăng?

Nói thí-dụ ngay một câu thiển-cận như thế này:

Phàm người ta có giáo-dục, ai cũng biết sự khoan-từ, sự thương đồng-loại là sự hay, ai cũng muốn có hai nết ấy cả. Nhưng đến lúc cần phải thi-hành hai cái đức-hạnh ấy đối với người ta, thì ai thường cũng phân vân, chẳng hay đối với người này mình có nên ở nhân-từ hay không? Mà đối với kẻ kia thì cái độ-lượng nhân-từ của mình nên đến đâu là phải? E rằng ở nhân-từ không phải lối; với người đáng nhân-từ ít mà mình nhân-từ nhiều thì quá đáng chăng? Hoặc kẻ không đáng nhân-từ mà ta ở nhân-từ chăng?

Mỗi việc ở đời, làm cho ta ngần-ngại không biết ở thế nào là phải. Ta mỗi chốc cứ sợ thái quá hoặc bất cập. Nhân-từ e là dại. Tử-tế quá e chúng gạt mình. Hiền-lành quá e chúng cho là hèn nhát. Phần nhiều là bởi sự e ngại ấy mà người ta không nhân-từ, không tử-tế, không hiền-lành. Mà nhân-từ, tử-tế, hiền-lành, ai cũng biết là nết hay, ai cũng muốn có.

Trong cái cơn hồ-nghi không biết ăn ở thế nào cho phải ấy, duy chỉ có cái lịch-duyệt làm mối dẫn-lộ cho ta mà thôi; mà phi lịch-duyệt thì duy chỉ lấy gương kẻ khác mà so-sánh, mà liệu chừng nên bắt chước hay nên kiêng lánh.

Lịch-duyệt không phải là một điều ai muốn cũng có được. Người ta phải tùy cái may rủi, tùy cái tình thế, tùy cảnh ngộ, mới có được lịch-duyệt. Họa là mới có một người gặp mà cảnh-ngộ có lịch-duyệt. Vậy thì chỉ còn có cái gương cổ tích, là dùng làm hướng-đạo trong cách ăn ở được cho phần nhiều người mà thôi.

Những sự-tích như sự-tích này mà được người thật mắt biết xem, biết xét, mà lại thật lòng không thêm không bớt những điều cốt-yếu thuật lại cho người không có lịch-duyệt nghe, thì tưởng cũng không phải là câu chuyện vô ích. Mỗi việc kể ra là một ngọn đèn soi rạng, là một cái nêu trỏ nẻo cho người vụng dại việc đời. Mỗi cảnh-ngộ là một cái kiểu mẫu cho người xem chuyện so-sánh với cảnh-ngộ mình mà ăn ở. Sự-tích này tự trước đến sau là một quyển sách luân lý có hoạt động, không dạy người bằng những câu nói viễn-vông mà dạy bằng những việc thật xẩy ra trong đời người.

Người đọc sách nào có tánh nghiêm-khắc quá, thì có lẽ trách tác-giả tuổi cao đã đến ngần này mà còn cầm lấy bút để tả những việc phong-tình hoa-nguyệt. Nhưng nếu những câu nghị-luận trên kia mà độc giả cho là phải, thì câu trách ấy không công. Bằng câu nghị-luận ấy là sai lầm, thì xin cũng biết cho cái ý tác-giả là như thế, dầu có lầm nữa cũng không là tội.

MAI-NƯƠNG LỆ-CỐT
MANON LESCAUT

Của ông thầy dòng PRÉVOST soạn

ĐOẠN THỨ NHỨT

Hôm ấy, tôi ở thành Rouen (Ru-ăng) về. Đi đến Évreux (Ê-vơ-rơ) thì trời tối, ngủ trọ lại đó. Đến sáng hôm sau lại đi, vừa đến bữa trưa thì tới ấp Pacy (Ba-cy), cách Ê-vơ-rơ độ chừng năm sáu dặm. Khi tôi bước chân vào ấp ấy, thì thấy người trong ấp náo động. Ai nấy để nhà mà kéo nhau đến trước một cái quán trọ tồi-tàn. Trước cửa quán, tôi thấy có hai cỗ xe kín. Ngựa hãy còn chưa tháo, con nào con ấy mồ-hôi ướt đầm, thở hơi ra như khói, coi đủ biết là xe mới ở đâu xa mà lại.

Tôi đứng lại xem duyên cớ làm sao mà náo-động trong một ấp lên như thế. Nhưng tôi hỏi những kẻ xúm-xít lại xem thì không ai nói cho tôi biết rõ, ai nấy chỉ nghĩ đến sự len cho được mà vào trong quán, chứ không ai nghĩ gì đến câu tôi hỏi hết. Mãi sau tôi mới thấy một tên lính cung-thủ ra cửa, tôi sẽ vẫy hắn ra mà hỏi, thì hắn thưa rằng: “Thưa ông có gì đâu! Chỉ có mười-hai đứa kỹ-nữ, anh em tôi giải ra bến Lơ-hao để cho xuống tầu chở sang nước Mỹ đó mà thôi. Cũng được một vài con xinh-đẹp. Ý chừng, là tại thế mà dân nhà-quê xúm-xít lại xem đông”.

Tôi nghe chuyện biết được đầu đuôi như vậy rồi, tôi cũng toan đi thẳng không xem nữa. Nhưng lại thấy một mụ già trong quán bước ra, hai tay chắp lại vái trời mà kêu rằng: Ác-nghiệp, giã-man, thái-quá, ai mà chẳng thương tình!

Tôi mới hỏi: “Cái gì đấy, mụ?” - Thì mụ thưa rằng: Ông ơi! ông thử vào mà nhìn xem, có thảm-hại, chua xót, hay không? Ai mà nỡ cầm lòng cho đang?” - Tôi bèn xuống ngựa, giao ngựa cho tên thị-mã giữ, rồi tôi cố chen đám đông mà vào trong quán, thì quả nhiên thấy một cảnh-tượng não-nùng.

Trong mười-hai đứa kỹ-nữ, trói làm hai bọn, mỗi bọn sáu đứa, thừng buộc ngang lưng; có một đứa coi hình-dung, coi diện-mạo thật không phải là đồ bán thân nuôi miệng thí nào. Giả sử tôi gặp ở nơi khác thì tôi đồ ngay là một cô con-gái nhà khuê-các nào, chứ không phải là con đĩ. Tuy rằng nét mặt u-sầu thảm-thiết, xống áo bẩn thỉu, mà coi vẻ vẫn ra con người lịch-sự, tôi nhìn thấy mà kính-trọng, mà đoái thương. Tuy dây trói chặt, quay mặt trở ra, mà nàng cố sức vặn mình cho được, để quay đầu vào vách, không muốn để cho thiên-hạ nhìn mình. Mà trong cái cách hổ-thẹn ấy có một vẻ tự-nhiên, không ai dám bảo là làm bộ.

Nhân tôi thấy sáu tên lính đi giải bọn ấy cũng ở trong phòng, tôi bèn gọi riêng người cai ra một chỗ, tôi hỏi thăm dò xem con bé nọ là thế nào, thì người cai cũng chỉ nói qua cho tôi biết đại-khái mà thôi: “Thưa ngài, con này trước cũng ở nhà thương đàn-bà, quan chánh Cảnh-sát sai chúng tôi vào bắt nó ra mà đem đi. Đồ này chắc cũng chẳng phải thiện-nhân, không dưng sao có vào nhà thương con-gái. Đi đường tôi cũng có hỏi qua gốc-tích, nhưng nó một niềm chẳng nói. Quan trên cũng không có dặn riêng tôi phải nể-nang gì nó cả, song tôi thấy con người nó khá hơn những đứa kia, thì tôi cũng có ý muốn vì-nể đôi phần, song hỏi nó không nói mà gọi nó chẳng thưa, thì tôi cũng mặc nó. Họa may ông hỏi cái gã kia, có biết được hơn chút nào chăng. (Vừa nói vừa trỏ một người con trai, ngồi trong xó buồng). Gã đi theo nó từ Ba-lê, luôn luôn khóc-than năn-nỉ. Tất nhiên là anh em ruột, hay là nhân-ngãi chi đây”.

Tôi quay mặt vào góc tường mà nhìn, thì thấy một chàng trẻ tuổi ngồi xo-ro, coi bộ thảm-sầu đau-đớn. Áo quần tuy xềnh-xoàng, mà thoạt nhìn ai cũng biết là con nhà thế-gia, lại có giáo dục. Tôi lại gần thì chàng đứng dậy, giương mắt nhìn tôi. Tôi thấy vẻ mặt khôi-ngô, dáng người lịch-sự, tôi cũng phải đem lòng hâm-mộ. Tôi mới ngồi ghé bên cạnh mà rằng:

- Xin người chớ bận lòng vì tôi. Tôi chỉ muốn hỏi người có một điều. Vì cớ làm sao mà người con-gái yểu-điệu nhu-mì như kia, lại phải đến nỗi này. Người có biết chăng, xin ngỏ cùng tôi biết với?

Chàng lấy lời khiêm-tốn lễ-phép mà đáp lại tôi rằng:

- Nếu tôi nói cho ngài biết người ấy là ai, tất là tôi phải xưng cả danh-hiệu của tôi ra nữa. Ngặt vì tôi có lẽ riêng không muốn cho ai biết đến tên tuổi mình. Duy có một điều là tôi nói được. Điều ấy thì những quân đồ khốn kia cũng biết rồi (vừa nói vừa trỏ bọn lính cung-thủ). Điều ấy là tôi yêu nàng quá đỗi, vì nàng mà nay tôi hóa ra một người cực-khổ nhứt trong hết cả bọn nam-nhi. Ở Ba-lê tôi đã dùng hết chước để cứu cho nàng thoát khỏi nạn này mà không được. Giờ tôi quyết chí đi theo nàng, nhứt là chúng đem nàng đi đến cùng trời cuối đất, đâu tôi cũng xin đi. Nàng xuống tầu, tôi cũng xuống tầu, nàng sang Mỹ, tôi cũng sang Mỹ.

Rồi lại trỏ bọn cung-thủ mà rằng:

- Nhưng mà quân này độc-ác đến rất mực, chúng nó không cho tôi được đến gần nàng. Lúc đi khỏi kinh-thành một thôi, tôi đã toan phục binh mà đánh tháo cho nàng. Tôi mất nhiều tiền thuê một bọn tay chơi, chẳng may tôi gặp phải đồ hèn-hạ, chúng lấy tiền của tôi rồi bỏ tôi một mình mà đi mất. Thế-lực tôi kém, đành là chịu thua. Tôi đã có cho tiền bọn cung-thủ này để chúng cho tôi được đi theo nàng. Chúng tham tiền cho tôi đi theo, nhưng mỗi lần tôi đến gần nàng, nói được ba câu chuyện, chúng lại vòi tiền. Chảng được mấy bữa, túi tôi dần mòn cạn ráo. Bây giờ tôi hết tiền rồi, thì động mon-men đến gần chúng lại đuổi. Mới rồi tôi thử ghé lại thăm nàng, vừa tiến một bước, chúng giơ súng đẩy ra. Thành ra tôi có con ngựa còm, cưỡi từ kinh-thành đến đây, lại phải bán đi để lấy tiền ăn đường mà đi theo, và để đút lót cho quân bạc-ác.

Tuy chàng kể lể cho tôi nghe mấy lời đó, giọng cũng ôn-tồn, nhưng khi kể hết, mắt cũng tuôn hai hàng lệ.

Tôi nghe câu chuyện lấy làm thương. Tôi mới bảo chàng ta rằng:

- Chàng đà muốn giấu nỗi riêng, tôi đây cũng không muốn hỏi căn-vặn. Song giả sử tôi giúp được chàng điều gì thì tôi cũng sẵn lòng giúp lắm.

Chàng thưa rằng:

- Thưa ngài, tiếc thay tôi không còn ngó thấy mẩy may hi-vọng gì nữa! Âu đành nhắm mắt đưa chân. Thế phải theo nàng sang Mỹ thì tôi sang Mỹ. Thôi thì chẳng được gì, hãy được cùng người yêu mà tự-tiện. Tôi đã viết thư cho một người bạn, gửi cho ít tiền bạc đến bến Lơ-hao, để chi lộ-phí. Giờ tôi chỉ phiền một nỗi, là từ đây cho đến đó, không thể mua được đồng quà tấm bánh cho nàng, gọi là đỡ khổ ít nhiều trong bước lưu-li cực-nhục.

Chàng nói vậy, rồi đưa mắt nhìn người con-gái mà tuôn rào rào nước mắt. Tôi rằng:

- Nếu vậy thì tôi có thể giúp được người việc ấy. Thế này không phải, xin người nhận lấy cho tôi. Tiếc rằng gặp người quân-tử mà không có cách giúp-đỡ nào khác.

Tôi nói thế, rồi tôi đưa giúi cho chàng bốn đồng tiền vàng (80 phật-lăng), không để cho quân cung-thủ nom thấy, bởi tôi cũng biết, nếu quân này biết gã lại có tiền, thì ân nhỏ lại càng bán đắt. Tôi lại nghĩ ra một chước, là gạn-gùng với người cai cho nó ít tiền, để nó cho chàng luôn luôn gần gụi chuyện trò với người con gái, từ đó cho tới bến tàu. Tôi vẫy người cai lại, tôi bảo thế, thì tuy nó xưa nay thói nhà lính-tuần, lính-lệ đã quen, mà nó đã sượng-sùng, rồi ấp úng thưa rằng:

- Thưa ngài, không phải là anh em chúng tôi có nghiệt gì. Song nếu để cho anh ta tự-tiện, thì anh ta cứ bám riết lấy con bé không dời ra nữa, làm ngăn trở việc quan của chúng tôi. Bởi vậy mà chúng tôi phải lấy tiền, trước nữa để bõ cái phiền cho chúng tôi, sau nữa để cầm chừng cho anh ta đừng làm thái quá.

Tôi hỏi:

- Thế bây giờ ta đãi anh bao nhiêu thì anh không thấy sự phiền đó nữa?

Thằng ấy cả gan đòi tôi tới hai đồng lô-y (40 phật-lăng). Tôi liền đưa cho nó, mà bảo nó rằng:

- Đây, thì ta cho ngươi cả hai lô-y, nhưng ngươi liệu hồn. Hễ tiền ngươi lấy mà việc ta không như ý, thì rồi ta sẽ có phương trị tội cho ngươi đó, biết không?

Thành ra vì việc ấy, tôi mất cả thảy sáu lô-y (120 phật-lăng). Cứ lấy cách người trẻ tuổi tạ ân tôi mà suy, thì người ấy hẳn cũng con ông cháu bà chi đó, tiền tôi chắc cũng không hoài. Trước khi đi ra, tôi lại nói và ba câu với người con-gái, thì nàng đáp lại tôi một cách nhu-mì thuần-thục khiến cho tôi về sau nghĩ mãi không hiểu cái tánh nết đàn-bà con-gái ra thế nào, người như thế, sao lại sa chân đến thế!

Sau tôi về nơi ẩn-dật mà yên cõi già, cũng không tưởng nghĩ gì đến chuyện ấy.

Cách đó chừng hai năm, tôi quên bẵng không nhớ gì đến nữa. Một ngày kia, thế nào tình-cờ tôi lại gặp một việc, làm cho tôi biết hết gốc ngọn cái chuyện đó thế nào.

Hôm ấy cùng với một người học-trò là Mỗ hầu-tước, ở bên Anh-quốc về đến bến Ca-lê. Thầy trò nhân có việc phải lưu lại chốn ấy, nên vào tiệm Kim-sư mà ở trọ một ngày một đêm. Đến buổi chiều, đi dong ngoài phố thì tôi gặp một người giống như anh chàng trẻ tuổi gặp ở Ba-xy năm trước. Lần này thì chàng ta lại xanh-xao yếu-đuối, lại ăn bận tồi tàn hơn lần trước. Nách thì cắp một bọc áo, ở đâu xa vừa tới. Tuy nhiên, mặt chàng khôi-ngô lắm, dẫu ăn mặc xấu xa làm sao, đi đâu trộn cũng không lẫn, nên chi tôi nhận ngay ra mà nói với hầu-tước rằng:

- Để tôi phải gặp người này mà hỏi ba câu chuyện mới được.

Người ấy nhận được mặt tôi thì mừng rỡ khôn xiết kể, vội-vàng chạy lại nắm lấy tay tôi hôn-hít mà rằng:

- Nếu vậy may! nếu vậy may cho tôi quá! Còn được gặp tôn-ông ở đây lần nữa để tỏ tấm lòng cảm-tạ chung thân.

Tôi hỏi chàng ở đâu mà đến thì chàng nói ở châu Mỹ mới về bến Lơ-hao, rồi từ bến Lơ-hao lại vừa đi tàu đến đó. Tôi rằng:

- Già nghe như thiếu-niên mã-thượng giờ đương túng-bấn thì phải. Già trọ ở quán Kim-sư, xin mã-thượng lại đó chờ già một lát. Già đi xong việc rồi già về.

Tôi vừa đi bận công việc, vừa nóng ruột muốn về ngay để nghe xem những chuyện người này lưu-lạc thế nào, sang bên châu Mỹ ở hai năm ra làm sao. Tôi về tới quán, tôi ân cần chào hỏi, rồi bảo chủ quán hầu hạ chàng ta, cho ăn cho uống, thay áo thay quần, không để chàng thiếu-thốn một chút gì hết.

Chàng không chờ tôi phải giục, kể ngay cho tôi nghe những chuyện sau này:

- Thưa ngài, ngài xử với kẻ hèn này một cách đại-lượng quá, nếu chuyện riêng còn giấu li hào với ngài thì chẳng hóa ra bội-bạc lắm sao! Vậy thì ngu-hèn này chẳng những xin đem mọi nỗi phiêu-lưu kể hết, mà xét trong lòng còn có điều gì xấu-xa hèn-hạ, đáng bỉ đáng khinh, ngu-hèn cũng xin đem ra trần thuyết ngài nghe. Khi ngu-hèn đã kể xong chuyện rồi, chỉ xin ngài dẫu có ghét bỏ, cũng phàn-nàn cho đôi chút.

Đây tác-giả xin trình với khán-quan biết trước rằng câu truyện nghe xong, tay liền cầm bút thảo. Vậy thì những việc kể ra đây, toàn là những việc quả nhiên không thêm bớt mẩy may nào cả. Thật cả từ đến những câu nghĩ ngợi, những cách người thiếu-niên công-tử diễn đạt tính tình.

Từ đây trở đi là thuật những lời kể-lể ấy. 

Lạy ngài, con vốn là con nhà thế-tước đại danh ở đất Mỗ. Cha mẹ cho con đến thành A-miêng đi học. Đến năm mười-bẩy tuổi, con vừa tốt-nghiệp thành-chung khoa Triết-học. Khi con còn ở nhà tràng, tính nết thật là ngoan-ngoãn, thầy dạy thường lấy làm gương cho anh em bắt-chước. Mà con được như thế, thật chẳng phải là cố ý mua chuộc lấy tiếng ngợi khen, nhưng thật là trời cho bẩm tánh hiền-lành, ham học, lại ghét riêng những cách chơi bời.

Con nhà thế-phiệt, con lại học hay, dáng người cũng ra nho nhã, nên chi các nhà tử-tế trong thành-phố, ai nấy cũng có lòng hâm-mộ.

Đức-cha ngài thấy vậy, ngài có khuyên con nên vào thụ pháp nhà dòng. Nguyên cha mẹ tôi vẫn có ý muốn cho tôi theo vào phái tôn-giáo hiệp-sỹ Ma-nhĩ-đức. Đức-cha khuyên tôi đừng theo phái ấy, ngày sau không được danh-giá như trong đạo phái của ngài. Cha mẹ tôi vốn từ thuở nhỏ đã bắt tôi đeo câu-rút, và đội tên De Grieux (Đê Ghi-ri-ơ) hiệp-sĩ rồi, mùa nghỉ hè tới nơi, tôi sắp-sửa hành-trang để về quê thăm cha tôi. Cha tôi vẫn hẹn từ trước hết mùa nghỉ đó thì cho tôi vào học tại Hàn-lâm-viện.

Tôi từ bỏ thành A-miêng mà đi, chẳng tiếc gì, duy chỉ tiếc có một người bạn chí thân, lớn hơn tôi vài ba tuổi. Hai anh em từ nhỏ đến năm ấy, cùng học với nhau một tràng, cùng theo kịp nhau tốt nghiệp một khoa. Chẳng may nhà bạn tôi thì hơi bần bách, không có thể theo đuổi tôi được nữa. Xong khoa Triết-học rồi, đành phải ở lại A-miêng, vào tràng nhà dòng học nốt khoa Thần-học để đi tu-hành về sau. Bạn tôi thật nhiều nết tốt. Rồi ngài nghe một chuyện này thì biết được mấy nết tốt nhất của bạn tôi. Anh tôi xử với bằng-hữu một cách rất thảo ngay, một cách rất quảng-đại, đối với những cách thảo ngay, những cách quảng-đại của người đời xưa có lẽ anh tôi còn hơn. Ví nếu tôi biết nghe lời anh tôi khuyên bảo, thì đến bây giờ, tôi vẫn còn là người khôn-ngoan sung-sướng. Những khi tôi lầm-lỗi, anh tôi trách mắng tàn tệ; ví dù tôi biết ăn lời, thì thân tôi đâu có đến nỗi này, thì cái cơ nghiệp nhà tôi, cái danh-giá của tôi, dẫu có đắm đuối, cũng còn vớt được ít nhiều. Chẳng may, anh tôi nói lắm không những hoài công, mà lại còn mang oán mang hằn với tôi nữa.

Tôi định trước ngày từ-biệt thành A-miêng, tiếc thay tôi không định sớm một hôm! Bởi vì giá tôi đi một hôm về trước, thì có phải đem được tấm linh-hồn trong sạch, mà về với cha mẹ không?

Số là ngày hôm trước hôm tôi định lên đường, tôi cùng với anh Tỉ-ba (Tiberge) - đó là tên bạn tôi - đi chơi dong phố. Bỗng thấy xe trạm chở khách ở thành A-ra-xĩ đến. Hai anh em rồi công, mới theo xe đến nơi quán trọ, là nơi thường xe trạm các nơi vẫn đến: Thật chẳng có ý gì, chỉ vì rỗi mà anh em rủ nhau đến xem khách tới có những ai mà thôi. Đi tới nơi thì thấy trên xe bước xuống một bọn đàn-bà, các bà ấy xuống rồi, vào ngay trong quán. Duy có một người con-gái đứng lại thơ-thẩn ngoài sân. Có một ông già cùng đi với nàng ta, đương lúi húi dỡ đồ trên xe xuống. Cô nàng xuân-xanh chừng đôi tám, mà nhan-sắc tuyệt với. Tôi tuy từ thủa nhỏ chưa nghĩ đến sự nam nữ phân biệt bao giờ, mà cũng chưa hề có nhìn kỹ một người con gái bao giờ; tòng lai vẫn đứng-đắn, mà sao hôm ấy, tôi vừa ngó thấy người con-gái ấy, tự-dưng thấy trong lòng nóng rực lên như lửa đốt. Mà tính-khí xưa nay cả thẹn, hôm ấy thế nào lại hóa liều-lĩnh khác thường, thấy người con-gái ấy, mê tít ngay đi, mà lại ngay gần chào hỏi.

Nàng tuy bé tuổi hơn tôi mà lại bạo-dạn hơn, thấy tôi chào cũng đáp lại một cách tự-nhiên. Tôi mới hỏi nàng đến A-miêng có việc gì, có quen thuộc ai ở A-miêng chăng? Thì nàng thật-thà mà đáp tôi rằng cha mẹ cho đưa nàng đến A-miêng để vào nhà tu thụ pháp. Không biết cái ái-tình ở đâu mà chóng thế, tôi với nàng chẳng hay có duyên nợ gì với nhau, mà tôi vừa gặp nàng lần ấy là một, có dễ dáng người nhìn cũng chưa tỏ hết, vậy mà nàng nói đến chuyện bị ức-bách phải đi tu, tôi đã cầm ngay như là cái nạn của tôi rồi. Mà khen thay con người bằng ấy tuổi đầu, cũng lại lịch-duyệt hơn tôi. Nàng thuật chuyện riêng cho tôi như thế, tôi mới ấp-úng đáp lại vài lời, nàng đã rõ ngay tâm-sự của tôi rồi. Nhân tôi có bài-trách cái sự tàn-nhẫn của cha mẹ nàng. Phần thì lòng yêu ứng miệng, phần thì cái hùng-biện mới tập ở học đường bước ra, lời tôi nói ai mà chẳng xiêu động, nhưng nói với nàng thì chẳng biết có ăn thua gì. Nên chi nàng cũng chẳng ra dáng nhiệt-thành chịu lẽ, mà cũng chẳng ra điều nguội-lạnh không nghe. Nàng lặng yên một lát rồi thưa rằng: “Thiếp cũng biết thân này rồi khổ, nhưng lòng trời đã tỏ cho hay, nên chi mới đến nỗi này”.

Hai con mắt nàng có cái vẻ dịu-dàng, giọng nàng nói não nùng mà có có ý-vị, khiến cho tôi không còn phải nghĩ đến hai phút. Hoặc-giả là cái duyên-kiếp tôi với nàng nó xui ra thế. Tôi bèn quyết ngay với nàng rằng nếu nàng tin-cậy ở cái lòng quân-tử của tôi và chứng cho cái dạ yêu-thương vô-cùng của tôi, thì tôi xin đem cả một đời xuân-xanh tận hiến, để cứu cho nàng khỏi bước lao-lung, và tôi sẽ hết sức đãi nàng cho được một đời sung-sướng. Xưa nay tôi vốn là người cực nhát mà lại hay cả thẹn, thế mà khi ấy không biết thần nào ứng miệng, nói năng được như đàn ngọt hát hay thế vậy. Thôi nhưng lại ngẫm, nếu ái-tình không làm được ra phép lạ, cổ-nhân sao có gọi là thần. Sau tôi còn nói thêm đến trăm nghìn câu cẩm-tú nữa.

Nàng cũng biết tuổi tôi không phải là tuổi điêu-ngoan dối-giá, nên chi nàng thú thật với tôi rằng nếu tôi có cách gì cứu cho nàng vượt khỏi quyền ức-bách, thì ân ấy nàng sẽ coi to hơn cải-tử hoàn-sanh.

Tôi đáp lại rằng muôn chết tôi cũng không từ. Nói vậy thì nói chứ thật tình thì tôi chưa nghĩ ra được phương-kế nào tiện diệu cả. Nguyên tôi tòng lai chưa lịch-lãm việc đời cho lắm, dầu lòng đã quyết cứu nàng mà trí chưa kịp nghĩ ra cứu cách nào cho tiện. Đương khi lưỡng-lự, thì lão-già xếp xong đồ-đạc xuống sân, chạy lại với nàng. Tôi đã tưởng phen này thôi hết đường hi-vọng; may đâu tôi ngu-độn, nàng lại có trí-khôn hoạt-bát. Lão-già đến nơi, nàng gọi ngay tôi bằng cậu, nhận anh nhận em tíu tít, rồi giả vờ nói với tôi rằng:

- Tình-cờ tôi gặp cậu đây, đáng lẽ hôm nay tôi vào nhà tu thụ-pháp. Song chị em cửu biệt tương-phùng, vả phen này lại giã nhau một lần sau rốt, âu là tôi xin hoãn lại ngày mai, mời cậu ở đây xơi cơm với tôi một bữa.

Tôi nghe nói, hiểu ngay kế giỏi, tôi bèn lấy nê đã quen nơi quen chốn, mà khuyên nàng khá đến trọ một lữ-quán kia, chủ quán là người đánh xe cũ của ông thân-sinh tôi thì tiện hơn là vào nơi lang-chạ đó.

Nói rồi, tôi liền đưa nàng đến tiệm cơm ấy. Lão-già thấy vậy, lẩm-bẩm một hồi. Còn anh Tỉ-ba tôi thì không hiểu đầu đuôi sao hết, thấy tôi đi thì cũng đi theo, mà không nói lấy nửa lời. Vốn lúc tôi cùng nàng trò-chuyện thì bạn tôi đi bách-bộ ngoài sân, không nghe không thấy gì hết. Tôi vốn vẫn sợ anh tôi lấy điều luân-lý mà ngăn-cấm, tôi bèn nghĩ ra một kế, nhờ bạn đi cho một việc ở nơi xa để một mình vào quán cùng nàng thù-tạc.

Bấy giờ tôi mới vỡ lòng, biết rằng tôi đã qua thời ấu-trĩ. Trong một giờ trò-chuyện tâm-trí thêm ra biết bao mối cảm-giác lạ-lùng, xưa nay chưa hề nghĩ đến. Lần lần huyết mạch thấy nóng ran. Dạ khoái-lạc làm cho quên mất cả tiếng nói, ý-tình chỉ mượn hai con mắt nhìn mà giãi tỏ cùng nàng.

Mai-nương Lệ-cốt, đó là danh-hiệu của nàng xưng với tôi như thế. Nàng thấy tôi đam-mê như vậy, thì thích-chí rằng thói khuynh-thành trêu ngươi đã công-hiệu. Nhưng tôi có ý nhìn nàng, thì đây say-mê đó, đó cũng chẳng lạnh-lùng đây. Nàng nói cho tôi biết rằng nàng thấy tôi nàng cũng dễ yêu, cũng mầng lòng mà nợ ơn phóng-thích. Sau nàng lại hỏi danh-hiệu tôi. Khi nàng biết tôi là con nhà thế-tước, thì nàng lại mầng rằng thân hèn lê-thứ mà đã chiếm được tấm lòng của khách dòng sang. Rồi thì tôi với nàng bàn tính cuộc trăm năm với nhau mãi mãi.

Nghĩ quanh nghĩ quẩn hồi lâu, rồi cùng tính đến kế ba-mươi-sáu. Trước hết phải nghĩ phương lừa-dối lão-già, tuy là một kẻ tôi-tớ, mà cũng phải chiều nể. Về sau hai chúng tôi mới định rằng tôi thì đi mướn một cỗ xe ngựa trạm, sáng sớm tinh-sương đem đến đón nàng, trước khi tên lão-bộc thức dậy, rồi cùng nhau lên xe mà đi thẳng cho đến Ba-lê. Tới kinh-thành thì tìm ông cụ-đạo nào làm phép cưới cho, để ở với nhau làm chồng làm vợ.

Trong khi ở nhà tràng, tôi để dành để dụm những tiền cha mẹ gửi cho, được cả thảy chừng 50 ê-cưu (250 phật-lăng). Nàng thì có chừng hai ngần ấy. Hai đứa cùng là con trẻ, chưa trải việc đời là mấy, có bấy nhiêu tiền, tưởng là nhiều lắm, tiêu bao giờ cũng không hết được. Vả hai bên cùng tính nhiều phương lấy được tiền nữa.

Ăn cơm tối với nàng xong rồi, tôi lui ra để thi-hành mưu-kế. Hành-trang sắm-sửa đã sẵn cả rồi, vốn tôi vẫn định hôm sau thì lên đường về quê nhà. Chỉ còn một việc dặn xe đến chỗ ấy đón mình từ năm giờ sớm mà thôi. Vả đến giờ ấy, các cửa ô mới mở, dầu muốn đi sớm nữa, cũng không được. Có một điều ngăn-trở thật to, mà tôi quên đứt đi mất không nghĩ gì đến nữa. Thí nữa vì điều ngăn-trở ấy mà công-việc mình lỡ hết.

Anh Tỉ-ba tuy hơn tôi có ba tuổi, mà con người nền-nếp, đúng mực lạ-lùng. Anh ấy lại thương-yêu tôi, coi như thể em ruột vậy. Bạn tôi thấy một người con-gái đẹp như Mai-nương, mà lại thấy tôi ân-cần với nàng, đến nỗi phải tìm cách bảo bạn đi xa ra, thì bạn tôi đem ngay lòng nghi-ngại. Tôi đã bảo đi thì anh ấy biết ý cũng không trở lại chỗ lữ-quán nữa, anh ấy về nhà tôi mà ngồi đợi kỳ cho được. Mười giờ đêm tôi về qua nhà thì thấy bạn ngồi chờ đó, tôi ra dạng trái ý. Bạn biết tình, bèn lấy ngay cách thành-thực mà bảo tôi rằng:

- Anh ơi, em biết là anh đương mưu chuyện gì mà anh lại giấu em. Em nhác nom dạng anh, em cũng đã biết rồi.

Tôi nổi ngay cơn tức lên mà nói phắt rằng: tôi không có lẽ gì phải trình anh biết hết sự tôi.

Bạn vẫn cứ ngọt-ngào mà đáp:

- Đành vậy. Nhưng xưa nay anh vẫn hạ-cố đến em mà coi em như bậc thân-hữu. Anh em đã kết bạn cùng nhau, phải tin nhau, và có sự gì ngỏ cho nhau biết mới là phải.

Bạn tôi nằn-nì mãi, tôi đành phải đem chuyện đầu đuôi thú thật với bạn hết cả, nỗi nàng tân khổ, nỗi mình say mê; thôi thì chân răng kẽ tóc, tôi đem nói hết. Bạn tôi nghe tôi kể chuyện, tỏ ý bất-bình, nhưng tôi coi bộ mà sởn dạ, mà hối-hận, biết thế này giấu hẳn cho xong. Quả nhiên, bạn tôi nghe tôi như thế, thì bảo thật tôi rằng anh em chí-thiết với nhau, phải ngăn cấm nhau những khi sa chân vào nơi càn-dỡ; tôi đã như vậy, thì anh tôi quyết chí ngăn-ngừa cho kỳ được mới nghe. Trước hết anh tôi còn lấy lời lẽ mà khuyên-ngăn tôi, sau anh tôi dọa rằng hễ chẳng ăn lời thì anh tôi sẽ mách bảo những kẻ có quyền ngăn-cấm, để mà ngăn-cấm không cho tôi đem người con-gái ấy đi. Bạn tôi diễn-thuyết cho tôi nghe vừa trong một khắc đồng-hồ, hết ngọt đến xẵng, hết khuyên-răn đến nạt-dọa.

Tôi thì chỉ ân-hận tự mình làm dở-dang mình. Tuy nhiên, tôi mới biết mùi say-đắm được vài ba tiếng đồng-hồ, mà ngẫm trí-khôn tôi nó đã mở mang rộng rãi ra nhiều lắm. Bấy giờ tôi sực nhớ ra rằng điều chi tôi cũng đã thú thật với bạn, duy có cái giờ đem nhau đi trốn là tôi chưa nói. Tôi bèn nghĩ mưu lấy đấy làm phương dối bạn.

Tỉ-ba anh hỡi! Em xin thú thật câu này. Đó là em thấy anh xưa nay vẫn có lòng hạ-cố thương em, thì em nói ướm lòng anh đó mà thôi, chứ em đâu lại có cả gan dường ấy. Người con gái ấy thì em say-mê thật. Câu ấy em không nói dối. Còn như chuyện cùng nàng đi trốn là câu em nói đùa, chứ có đâu em lại dám liều như vậy. Âu là đến chín giờ sáng mai, anh khá lại đây rủ em, em sẽ đưa anh đến nơi lữ-quán, để anh xem mặt tình-nương của em, rồi anh sẽ thử nói em nghe con người như thế, phỏng có khiến nổi được em làm việc càn-dỡ đó không?

Bạn tôi lại khuyên can thêm mấy câu nữa, rồi mới ra về. Đêm hôm ấy tôi thức lủng-củng để chỉnh-đốn hành-trang. Sáng tinh sương tôi lại đón nàng nơi quán trọ, thì đã thấy nàng đứng chờ trong cửa sổ. Nàng thấy tôi thì thân-hành ra mở cửa. Hai đứa dắt tay nhau nhẹ gót mà ra. Đồ đạc của nàng nhân-thân chỉ có bọc xống áo thì tôi cầm lấy. Xe ngựa đã sẵn-sàng, nàng chỉ lên ngồi là đi thẳng.

Khi anh Tỉ-ba biết là bị tôi gạt rồi làm ra những việc gì thì rồi về sau tôi sẽ kể, để ngài biết cho bạn tôi thương tôi biết chừng nào, mà khốn-nạn cho tôi, gặp hiền-hữu chẳng biết vâng lời khuyên bảo, để sau nên nỗi lầm than!

Giờ tôi hãy xin kể những sự tôi với nàng đi đường, giục ngựa chạy mau quá, chưa tối đã tới Thánh Đơ-ni. Nàng thì ngồi trong xe mà tôi thì cưỡi ngựa đi bên cạnh, thành ra cứ đến chỗ đổi ngựa mới chuyện trò được vài ba câu. Mãi cho đến khi đã tới gần kinh-thành, chắc không ai đuổi kịp được nữa rồi, bấy giờ đỗ lại mới nghỉ-ngơi thong-thả, ăn no uống mát cho rõ thỏa-thuê. Số là từ A-miêng mà đi đến đó, tất-tả vội-vàng, chưa ăn miếng nào vào bụng hết.

Tôi dẫu thương-yêu nàng đến thế nào nàng cũng có cách tỏ được cho tôi biết rằng nàng cũng thương-yêu tôi được đến thế ấy. Hai bên ganh nhau mà chiều chuộng, mà quí-báu nhau: ngày vui sợ vắn chẳng đầy gang, tối đến chẳng chờ cho vắng khách, âu-yếm nhau ở trước mặt người, để cho những quân đánh xe ngựa, những người trong các quán trọ, ai nấy phải nhìn mà khen đôi ấy còn trẻ con như thế mà keo sơn có một.

Đến Thánh Đơ-ni thì quên mất cả những lời hẹn nhau làm lễ cưới, quịt cả Giáo-đường cái lễ giao-hôn, thành ra không nghĩ đến đã hóa vợ chồng. Tôi tánh vốn là người biết âu-yếm mà lại có thủy-chung, ví nếu nàng ở được trọn nghĩa một đời với tôi, thì vợ ấy đủ thỏa sướng cho tôi trong một kiếp. Tôi ăn ở với nàng, mỗi ngày là thấy thêm ra một vẻ nên yêu. Tài ấy, bụng ấy, tính nết thuần-hòa ấy, nhan-sắc tốt tươi ấy kết thành một cái dây quyến-luyến, thắt buộc lấy tôi, đây dẫu buộc chặt mà êm mềm, tôi chỉ ước được trăm năm chịu trói. Ngờ đâu tâm-sự mỗi ngày một khác, những tưởng rằng vì đấy vui sướng một đời, mà lại hóa ra vì đấy tôi nên một người sầu khổ khắp cả trong bọn tu-my!

Chúng tôi thuê một gian nhà trọ ở con đường V. Vô-phúc cho tôi lại ở láng-diềng một ông dòng sang phú-hộ kia, tên là B. Suốt trong ba tuần lễ, miệt mài trong cuộc truy-hoan, quên cả cửa nhà, quên cả ông thân sinh tôi ở nhà mong đợi. Cũng may, chúng tôi đắm say nhau ở bề tình-nghĩa, mà không đắm say nhau ở chỗ tà-dâm, cho nên thấm-thoắt qua mấy ngày keo sơn buổi mới, rồi tôi cũng nhớ đến nghĩa luân-thường. Tôi bèn quyết chí lại nhà quì lạy nghiêm-đường thú thật, những mong rằng thân-phụ tôi thấy người thấy nết Mai-nương, mà dung túng con người lỡ bước, họa may ông tôi lấy lòng hà-hải, dầu chẳng cho nên gia-thế, cũng lấy cách nhân-từ mà nhắm mắt bịt tai để cho đôi trẻ thương nhau được tự-tiện. Tôi ngỏ ý với Mai-nương sự ấy, tôi phân giải cho nàng nghe rằng, dầu bên tình bên hiếu dám cân chăng nữa, thì cũng còn một lẽ bất đắc bất nhiên. Số là chỗ tiền vốn chung đã thấy cạn nhiều, tôi đã vỡ ra ngần ấy đồng không phải là kho vô tận. Nàng nghe tôi nói, lạnh-lùng có ý dụt-dè ngăn-trở. Nhưng tôi cũng nghĩ là nàng chỉ lo thân-phụ tôi không nghe, nếu biết chỗ ẩn, phen này có khi chia rẽ. Tôi không ngờ đâu sự ngần-ngại ấy là do một nghĩa khác, đau-đớn cho tôi, sau này mới biết. Khi tôi nói đến nỗi túng tiền, thì nàng bảo còn đủ được vài ba tuần lễ, vả nàng còn lắm chỗ mong nhờ, có lẽ từ đây đến đó túi vơi kia lại bốc được đầy. Kết cục là nàng không chịu; nhưng khéo thay những vẻ nói cười, những lời âu-yếm, khiến cho tôi thế nào cũng cho là phải; vả bụng nghĩ rằng trăm năm thôi cũng từ đây, nhân-duyên biết có cuộc này mà thôi, thì trăm sự, sự mình, sự nhà, chỉ nghe nàng chứ lại nghe ai? Hai món tiền góp với nhau, thì phó mặc nàng tay-hòm thìa-khóa, liệu thế ăn tiêu, bao còn, bao hết, tôi có biết đâu chỗ ấy. Lạ thay là cách mấy ngày, tôi bỗng thấy bữa cơm ngọt bùi thêm thức; trong việc ăn mặc, tôi lại thấy nàng sắm đôi ba thứ nhiều tiền. Số bạc chung lưng, thì dẫu tôi không biết tính, cũng nhớ ra chỉ còn đến mươi mười lăm bích-tôn là cùng. Thế thì không biết nàng lấy bạc đâu mà sắm? Tôi có hỏi qua, thì nàng khúc-khích thưa rằng: “Việc ấy xin chàng chớ bận, thiếp đây còn lắm chỗ nương nhờ”. Yêu nhau như tôi yêu nàng, câu nói ấy làm gì mà chẳng xuôi tai?

Một hôm kia, tôi cần phải đi đâu có việc, giao hẹn nàng rằng chầm chậm trở về. Khi về tới ngõ, thấy cửa đóng kín, tôi phải chờ đến hai ba phút, mới thấy người nhà ra mở; con bé ở cũng ngang ngang với tuổi chủ nhà, khi nó ra mở cửa, tôi hỏi sao lâu, thấy nó lúng ta lúng túng, rồi thưa rằng ở trong xa lúc mới chưa nghe tiếng gọi. Tôi biết ngay là lời nói dối, bởi vì tôi chỉ gõ có một lần, rồi tôi đứng đợi. Tôi hỏi vài câu, thì con bé thật thà thất đảm, tuôn ngay nước mắt, thú thật rằng bà chủ bảo phải chờ ông B. ra khỏi cổng sau, mới được mở cổng trước. Tin đâu như sét đánh ngang đầu, tôi những, tưởng liệt hai chân, không bước vào được nữa. Tôi mới lấy nê còn quên chút việc lại phải trở ra, dặn con bé vào thưa lát nữa tôi về mà chớ đả động đến câu tôi đã biết.

Cơn đau tôi như choảng vào đầu, vừa bước xuống thang vừa khóc, nhưng trong trí chưa nhận ra rằng khóc vì đâu, cảm khái thế nào mà khóc? Ra đến đường, gặp tiệm rượu thứ nhất tôi ghé ngay vào ngồi phịch xuống ghế, hai tay ôm lấy đầu mà nghĩ, ngổn ngang ruột rối bời bời! Câu chuyện ghê tai, nên bụng cố quên đi bẵng, cầm bằng lóa mắt ù tai, sảng mê mà thấy. Đã đôi ba lần tôi khiến lẳng lặng mà về, cầm như lần trước không có, quyết chẳng hỏi han chi cả. Trong lòng tôi không thể sao tin được Mai-nương lòng chim dạ cá; tôi nghĩ chừng như mắt tôi dẫu thấy rõ làm sao, bụng tôi cũng không được phép nghi ngờ người lòng son dạ sắt. Tôi yêu, tôi mến, tôi kính, tôi thờ nàng, sự ấy đã hẳn. Nhưng tôi chắc tôi yêu nàng bao nhiêu, nàng cũng đã yêu tôi được bấy nhiêu, hai bên cũng đã cho nhau được tang chứng. Vậy thì tôi không có cớ gì mà ngờ được cho nàng không thành thực với mình, không nhất tâm với mình. Vả ngẫm mà xem, nàng phải dối tôi mà làm gì? Mới được ba tiếng đồng-hồ về trước, hai bên âu-yếm cùng nhau, nguồn ân bể ái, không thể nói sao cho xiết; lòng đây lòng đấy đã tin nhau hết cả mười phần. Vậy thì không, không, quyết không sao có lẽ Mai-nương lại phụ bạc cùng ta. Nàng biết từ đây tôi chỉ vì nàng mà sống; cả cuộc đời tôi, chỉ có một nghĩa yêu nàng. Đã biết ta như vậy, lẽ nào lại có ghét ta?

Tuy nhiên, dẫu muốn đui mù, cũng khó đui mù cho được hẳn; sự ông B. đến nhà trong khi ta đi vắng, sự con hầu chậm mở cửa cho khách tháo cửa sau, dẫu cố ý không tin điều trước mắt, lại còn lắm nỗi buộc nên tin! Bạc hết mà có cơm ngon; tiền khan mà sắm đồ trang-điểm lịch-sự. Hai điều ấy đem ra mà so-sánh với cảnh ngộ người khách dòng sang phú-hộ, phong nhã hào hoa, hình như rõ mồn một: ngọn kia là ở gốc này mà ra. Sực lại nhớ đến câu nàng quyết mong nhờ còn lắm chỗ, mà chẳng nói cho ta là những chỗ nào. Hiện-trạng đã rành rành như thế, thì dẫu mắt kia muốn nhắm, tai này hồ dễ bịt xong?

Nhưng nghĩ đi còn có nghĩ lại. Tôi với nàng từ khi đem nhau đến kinh-thành, phỏng xa nhau mấy lúc. Nào là công kia việc nọ, lo toan lấy nơi ăn chốn ở. Hồ rảnh lúc nào thì quàng tay cắp nách, đem nhau đi dạo chơi hết đó cùng đây. Cuộc chơi bời nọ, cuộc tiêu khiển kia, đâu đâu cũng là có nhau cả. Những lúc dời nhau nửa phút, cầm bằng ly-biệt ba thu. Hết đây yêu đấy, lại đấy yêu đây, một câu nói trao đi đổi lại, một ngày kể đến nghìn lần, mà tưởng vẫn như chưa nói đủ. Ngẫm như thế thì tôi tưởng Mai-nương còn rảnh phút nào để ngoại-tình với ai nữa. Tôi suy tính mãi, sau tôi tưởng óc khôn đã nẩy ra được một câu giải khéo. Ừ phải rồi! Ông B. này là một người quảng giao ở chỗ kinh-địa, tất nhiên có liên lạc gì với họ hàng của Mai-nương. Ý hẳn thân thuộc Mai-nương dùng người này mà tư-cấp cho nàng. Hôm nay đến nhà tất là để đưa tiền nong chi đó. Nàng giấu ta, cùng là một cách úp-mở rỡn nhau đó mà thôi. Hôm nay ví dầu ta cũng về sớm như mọi khi, thì có lẽ nàng cũng tự nhiên mà nói cho ta biết. Nhân nàng thấy ta về chậm thì giấu mà chơi đó. Phải rồi! Nhưng ta hỏi đến thì rồi nàng cũng nói thật. Rõ ta ngu xuẩn! Có vậy thôi, mà chẳng sớm đồ ra!

Lạ thay là cái yên trí! Tôi đã tính ra như thế thì tự hồ trong bụng thấy mất hẳn cái lo phiền. Tôi tức-khắc về nhà, lấy cách âu-yếm như thường mà hôn-hít Mai-nương. Tôi đã toan nói nhỏ ngay trước cái điều mình đoán ra cho nàng biết. Song chẳng biết tôi tính lại thế nào, tôi lại im đi, để chờ nàng nói trước.

Con ở dọn ăn. Tôi vui vẻ mà ngồi vào bàn ăn cơm tối với nàng. Nhưng có ý nhìn một lát thì thấy dưới bóng đèn, vẻ mặt Mai-nương có chiều sầu thảm. Tôi thấy nàng rầu thì tôi cũng hóa rầu. Khi nàng ngước mắt lên nhìn tôi, hình như không giống mọi khi. Tuy cách nhìn ấy là cách nhìn êm-ái dịu-dàng, mà tôi chẳng phân ra được là nhìn yêu hay nhìn xót. Tôi cũng chừng mắt nhìn nàng, thì nghe như nàng cũng lấy mắt nhìn ấy mà hiểu được tâm sự tôi. Hai người ngồi ăn mà chẳng ai nghĩ đến ăn, cũng không ai nghĩ đến nói. Sau tôi thấy mắt nàng rỏ xuống đôi ba giọt lệ.

Tôi thấy nàng khóc, tôi giật mình mà kêu lên-rằng: Trời đất ơi! Nàng có nỗi gì sầu thảm đến phải khóc than, mà sao nỡ tệ không ngỏ cho ta biết cùng? Tôi hỏi vậy thì nàng không thưa gì hết, chỉ thở dài, làm cho tôi lại thêm lo ngại. Tôi run lên lẩy-bẩy mà đứng ngay dậy, hết cách yêu thương mà ân-cần han hỏi cho ra. Thấy nàng khóc, tôi cũng tuôn rơi nước mắt. Tưởng chừng như lúc bấy giờ, thằng sá mọi đi ăn cướp, giết người không chớp mắt, mà nom thấy tôi cũng phải thương tâm.

Trong khi tôi săn sóc hỏi nàng như thế, thì tôi bỗng nghe tiếng người rầm rầm trèo thang mà lên chỗ gác tôi ở. Bọn đông người ấy lên đến phòng tôi, thì sẽ gõ cửa. Mai-nương hôn tôi một cái, rồi vùng ra mà chạy thụt vào phòng trong. Tôi vẫn tưởng nàng thấy khách lạ vào, thì chạy vào nhà trong chỉnh lại xiêm áo, để ra tiếp đãi. Tôi thì thân đứng dậy ra mở cửa.

Tôi vừa mở cửa ra, thì thấy ba người lực lưỡng xúm lại nắm chặt lấy tôi, tôi nhìn ra thì là những kẻ gia-hạ của ông thân-sinh tôi. Chúng nó nương tay mà nắm tôi, chứ không dám làm điều gì hung tợn với tôi cả. Hai thằng nắm lấy hai cánh tay còn một thằng thì lần lưng, lần túi, chỉ thấy có con dao con là đồ bằng sắt, thì nó lấy ra. Chúng nó vừa ôm, vừa khám lưng tôi, vừa van, vừa lạy, xin tôi đừng chấp trách chúng nó là kẻ tôi đòi, cha tôi sai bảo làm sao thì chúng nó cứ vâng lệnh mà làm như thế. Chúng lại nói rằng anh cả tôi đem xe đến đón, chờ tôi trước cửa. Trong cơn bối rối, chúng lôi kéo tôi đi thì tôi đi theo, chẳng tìm phương kháng cự, mà cũng chẳng nói nửa lời. Xuống đến cửa thì quả thấy anh tôi chờ đó. Chúng để tôi lên xe ngồi cùng với anh tôi, xe chạy thẳng một mạch đến Thánh Đơ-ni. Anh tôi ôm tôi mà hôn một cách rất âu-yếm, song không nói gì với tôi hết. Thành ra tôi được tự do mà nghĩ ngợi đến tình-cảnh của mình.

Tình-cảnh ấy thật là mờ tối, tôi không hiểu duyên-do ra làm sao cả. Sự có người phản tôi thì đã chắc hẳn đi rồi, không còn ngờ được nữa. Nhưng ai phản? Tôi tự vấn như thế, thì nghĩ ngay đến Tỉ-ba. Tỉ-ba hỡi hỡi! Nếu sự này mà thật bởi mi, thì ta thề rằng mạng mi không toàn đó. Nhưng tôi lại nghĩ Tỉ-ba có biết đâu rằng tôi ở chỗ ấy mà đi tố cáo với cha tôi được. Chẳng lẽ lại ngờ ra Mai-nương. Lòng tôi không bao giờ dám phạm đến cái tội ngờ vực cho nàng câu ấy. Kể thì cái sự buồn rầu của nàng trong lúc ăn cơm, cái cơn nước mắt nước mũi, cái cách nàng hôn tôi trước khi chạy thụt vào phòng trong, bấy nhiêu sự cũng hơi tối nghĩa. Song tôi lại nghĩ đến điều tai nạn lắm khi biết trước. Khi nàng nghe tiếng động mé ngoài, nàng đã vì yêu tôi quá mà thấy bồi hồi trong dạ, như thể có quỉ-thần báo trước nạn gì, cho nên lúc ấy buồn rầu mà thương tôi như thế. Sự đã rành rành trước mắt, mà tôi lại vẫn còn cứ lo cho nàng mà sợ rằng nàng khổ hơn tôi.

Tôi nghĩ mãi, sau đoán ra rằng ý hẳn tôi đi chơi với nàng trong thành phố gặp ai quen mà vô ý rồi họ thăm dò ra mà mách với cha tôi. Nếu vậy thì tôi cũng cam lòng đôi chút, mong rằng cha tôi phen này bất quá cũng chỉ mắng đánh qua loa, gọi là thi quyền giáo-huấn mà thôi. Tôi quyết chí dầu cha làm gì cũng chịu, bắt thề bắt hẹn làm sao tôi cũng xin hẹn cho xuôi, rồi về sau chờ lấy cơ-hội tốt, ta lại đi ra đô-thành với tình-nương, kẻo nữa ly-biệt này chua xót cho nàng lắm lắm.

Xe đi một lát thì tới Thánh Đơ-ni. Anh tôi thấy tôi ngậm miệng không nói nửa lời, thì nghĩ rằng tôi sợ quá. Anh tôi bèn kiếm lời an-ủy dỗ-dành, nói rằng em nếu thật lòng hối-hận, chịu lần lần bỏ con đường gai-góc mà theo đường ngay, thì nghiêm-đường có lẽ cũng dủ lòng thương mà nguôi cơn giận, mà hồi lại tấm yêu ngày trước. Đến Thánh Đơ-ni, xe nghỉ lại, tối anh em đưa nhau vào nhà trọ ngủ. Anh tôi bắt ba thằng ở phải cắt canh nhau mà giữ lấy tôi cho kỹ.

Phiền thay cho tôi là tình-cờ lại vào phải cái nhà trọ mà tôi với nàng đã trọ qua bữa trước. Chủ quán và người hầu hạ trong hàng đều nhận được mặt tôi cả. Chúng thấy tôi khi đi như thế, khi về như thế, đoán ngay ra hết chuyện. Tôi trộm nghe chủ quán nói rằng:

- À! cậu này con cái nhà ai giỏi trai quá đỗi. Mới cách tháng rưỡi nay, đi qua đây cùng với một cô ả xinh đẹp làm sao! Tội nghiệp! hai người cùng xinh cùng trẻ mà yêu nhau, quấn-quít nhau như thể keo-sơn. Thế mà ai đang chia rẽ!

Tôi tảng lờ không nghe gì hết, cứ ở lì trong phòng, bất đắc dĩ mới thò mặt ra ngoài.

Anh tôi có một cỗ xe hai ngựa để ở Thánh Đơ-ni. Sáng tinh sương hôm sau chúng tôi từ quán trọ mà đi. Đến chiều hôm sau nữa thì về tới quê nhà. Anh tôi vào hầu cha tôi trước, nói lót cho tôi rằng, đến bắt đi ngay, không kháng cự chút đỉnh nào hết, khiến cho cha tôi cũng dẹp được trận lôi-đình mà không quở mắng tôi tàn-tệ quá. Cha tôi chỉ mắng tôi điều bất hiếu, đi mà không xin phép. Còn việc trai gái thì cha tôi không trách mắng, chỉ mỉa rằng như thế đáng kiếp; cha vẫn tưởng con khôn kia đó, ai ngờ còn dại đến dường, có vậy lần sau mới chừa tin gái vu-vơ…

… Tôi nghe lời nghiêm-huấn, chỉ hiểu nghĩa chung mà không ngờ rằng có ý gì riêng về tình cảnh tôi cả. Tôi mới thụp lạy cha tôi, tạ ân cha răn dạy cho điều hay lẽ phải, và xin cha dung thứ một lần, từ sau xin hối mà ăn ở cho phải đạo. Miệng thì nói thế mà trong bụng mầng thầm rằng nếu việc đã xoay ra thế, thì chỉ từ giờ đến tối ta sẽ đánh tháo mà ra được khỏi.

Đến bữa cơm, cả nhà nhạo báng tôi về việc gặp-gỡ tại A-miêng, ai nấy mỉa-mai, lời này tiếng nọ, những là nàng nhân nghĩa thủy-chung, tiết trinh thuần-thục. Tôi cũng tưởng là câu nói rỡn vô tình, cho nên tôi làm mặt tươi-cười mà để cho nhà chế báng. Vả tôi đương nhớ bạn, mà được nghe người nhà nói đến bạn, thì gì mà thỏa dạ cho bằng. Mãi về sau, tôi thoảng nghe một vài câu nói của cha tôi, thấy nói đến điều phản-trắc, đến câu ông B. vị kỉ mà mách giúp, thì tôi có ý lắng tai. Nhưng nghe những câu nói nhát gừng như thế thì tôi không hiểu rõ, tôi bèn xin cha tôi phân giải cho hay. Cha tôi bèn quay lại anh tôi mà hỏi: “Cả, con chưa kể chuyện cho em mày nghe sao?” Anh tôi thưa rằng trong khi đi đường, anh tôi thấy tôi ngoan-ngoãn quá cho nên anh tôi nghĩ chẳng nên đem chuyện buồn ra kể lại làm chi. Cha tôi cũng ngần-ngừ, tính thôi không nói nữa. Tôi phải lạy van, cha tôi mới chịu đem câu chuyện đốt ruột cắt gan mà kể cho tôi nghe.

Trước hết cha tôi hỏi tôi rằng:

- Vậy thế con đã hết cái thật-thà mà tin rằng con ấy yêu con chưa?

- Thưa cha, sự nàng một dạ với con, thì con dám quyết con tin nàng đến nỗi dầu ai làm sao cũng không thể khiến cho con ngờ vực được nàng.

Cha tôi nghe tôi nói thế, thì cười ha hả một trận dài, rồi gật-gù mà rằng:

- Nếu vậy, hay! hay! Con ta thật thà có một. Trời ơi, ví bằng cha biết tính-nết con như thế, thì cha để cho con ở nhà làm một thằng chồng dễ-dãi, chứ đâu cha lại cố cho con vào phái Tôn-giáo Hiệp-sĩ Mã-nhĩ-đức làm gì.

Rồi lại vừa cười vừa nói đến trăm nghìn câu xám mặt tím gan cho tôi nữa.

Sau cha tôi thấy nói làm sao thì nói, tôi cũng làm thinh không đáp, cha tôi mới bấm đốt ngón tay mà bảo tôi rằng:

- Con ơi, nó có yêu mày thì nó yêu cả thảy vừa được mười-hai hôm tròn. Mày ở A-miêng đi, hôm 28 tháng trước. Hôm nay là 29 tháng này. Ông B. viết thư cho cha được 11 hôm nay. Trước khi ông ấy viết thư cho cha nói quyết như thế, thì ít ra ông ấy đã đi lại với nó được 3 ngày, 11 với 8 là mười chín, 31 ngày trừ đi 19, còn là 12 có hơn kém bất quá một ngày mà thôi.

Cha tôi tính xong, lại cười dài một trận nữa. Tôi nghe mà điên ruột sốt gan, những sợ không nhịn được cho đến hết. Cha tôi lại nói:

- Vậy thì con chưa biết, cha nói nốt cho hay này. Ông B. đó là tình-lang của con nhân ngãi mày đó. Trong thư ông ấy nói ngoa rằng ông ấy vị cha mà tranh cướp của mày. Nhưng kỳ thực là ông ấy không vị ai hết, chỉ vị mình mà thôi. Xưa nay ta có quen biết bao giờ mà người ta vị. Chẳng qua là con kia bảo mày là con cha, nó cũng muốn trừ tiệt mày đi cho khỏi quẩn chân nó, cho nên nó mới xui lão viết thư cho cha, mách bảo cho biết rằng con ở chỗ ấy với nó, để khiến cha đem người đến bắt. Hai đứa nó tình nguyện với cha rằng cho người đến, nó xin làm nội-ứng cho mà bắt. Mày thử hỏi anh mày xem có phải rằng nó đến trúng được giờ ấy ở chỗ ấy mà bắt mày, là nhờ tay cả hai đứa nó giúp-đỡ cho không? Thôi thì con khá mầng lòng đã dễ chiếm được nhân-tâm. Nhưng mà nghề nhà hiệp-sĩ, con nên nhớ lấy miếng đầu khí vụng. Hạ thành thì chóng thật mà giữ thành thì con không biết giữ lâu. Đó là một lỗi trong binh-pháp đó, con ạ. Con nên nhớ lấy lần sau mà sành.

Mỗi tiếng nói là một nhát dao đâm vào ruột tôi như thế thì phỏng tôi chịu làm sao được. Tôi mới vùng đứng dậy đi ra, nhưng chỉ đi được có bốn bước, ngã lăn đùng xuống đất, mà ngứt người đi. Cả nhà đổ xô vào cứu chữa, lay gọi mãi tôi mới hồi tỉnh lại. Tôi hồ mở mắt ra là tuôn nước mắt ràn rụa. Hồ mở miệng ra là than khóc một cách rất thảm sầu, đến nỗi ai nghe cũng phải động tâm. Cha tôi vốn có lòng mến tôi lắm lắm, nên chi dùng hết lời ngọt tiếng êm mà an ủy dỗ dành.Tôi lắng tai mà không nghe. Tôi quì gối lạy cha tôi, xin phép cho tôi lại trở về Ba-lê chuyến nữa, để tôi đâm cho xổ ruột cái lão B. kia. Tôi mới rằng:

- Cha ơi! con nói câu này, xin cha tin cho. Chuyện này một là cưỡng hiếp, hai là bùa mê bả dột chi đây; gái kia cùng với lão này không có lẽ đồng-tình với nhau được. Thưa cha, Mai-nương nó dốc một lòng, nó chỉ yêu có một mình con mà thôi. Điều ấy con chắc, cha ạ. Có khi lão này kề dao vào cổ nó mà bắt nó phải bỏ con ra, cho nên nó sợ mà nó phụ con như thế. Trời cao đất dầy ơi! con người quốc-sắc thiên-hương như thế, trách nào mà nó chẳng dùng hết mưu hết kế để cướp sống của con. Trời cao hỡi hỡi! có đâu Mai-nương lại phụ bạc cùng ta. Có lẽ đâu Mai-nương lại không yêu ta nữa, hử trời?

Cha tôi cứ thấy tôi nói hoài đến chuyện trở về Ba-lê, lại thấy tôi cứ nhấp nhổm hình như muốn chạy đi ngay, cha tôi bèn sợ tôi trốn đi mất, phải đem tôi lên một cái phòng riêng trên từng gác, rồi giao cho hai đứa ở coi giữ tôi luôn luôn. Tôi bị cầm buộc như thế, tức tối đến cuồng lên, ví thử ai cho tôi được ở Ba-lê một khắc đồng-hồ, rồi bắt tôi phải chết xuống âm-phủ lộn kiếp nghìn lần tôi cũng bằng lòng xin chịu. Tôi đã nói ngỏ ra như thế rồi, thì cũng biết chẳng ai để cho mình ra khỏi phòng đâu. Tôi nhiều lần ngó ra dòm qua cửa sổ xem từ đó xuống sân cao thấp bao nhiêu, thì thấy cao quá, không thể nào nhảy ra được. Tôi bèn nghĩ đến kế dỗ ngọt hai thằng canh cửa, tôi chỉ non thề biển mà tình-nguyện với chúng nó rằng hễ chúng nó để yên cho tôi trốn được, thì ngày sau tôi sẽ tạ ân rất hậu. Hết ngọt rồi tôi đâm sẵng, hẹn thưởng mãi nó không chịu, thì tôi đe dọa chúng nó cũng chẳng gờm, cứ một mực làm thinh. Mất hi-vọng, tôi mới nghĩ đến cung tự-tử. Tôi bèn trèo lên giường nằm sóng-sượt, quyết nhịn đói nhịn khát cho chết. Suốt đêm hôm ấy rồi suốt cả một ngày hôm sau, tôi nằm như thế. Ai đem cho ăn uống gì, tôi cũng đẩy ra.

Đến chiều cả, thì cha tôi vào thăm tôi và khéo lựa lời an-ủy, rồi bắt tôi ăn cho được. Sợ nữa bất hiếu, tôi phải vâng lời, nhưng tôi chỉ chiều cha tôi mà lấm nhấm vài ba hột trong khi cha tôi đứng đó mà thôi. Như thế trong ba bốn bữa. Cha tôi ngày nào cũng vào, phần để dỗ tôi ăn uống, phần để lấy lời xúc động mà khuyên giải cho tôi, cố khiến cho tôi quên người phụ bạc.

Hâm-mộ nàng thì quyết tôi không hâm-mộ nữa. Con người sớm mận tối đào, lòng chim dạ cá như thế, thì phỏng không khinh rẻ sao được. Song tôi tưởng nhớ đến cái hình dung, đến cái vẻ mặt nàng lúc nào, thì lại thấy hình như nét vẽ đã ăn sâu trong óc. Bấy giờ thì tôi đã yên bệnh đi nhiều ít, tưởng chừng như đã chết. Xấu hổ như thế, đau đớn như thế, sống mà làm chi nữa. Nhưng chết thì quyết được, chết nghìn lần cũng quyết được, mà quên đứt cái con Mai-nương bội-bạc này đi thì quên không nổi.

Cha tôi thấy tôi cứ đau-đớn sầu-thảm mãi như thế, thì cha tôi cũng khí ngạc-nhiên bởi vì cha tôi biết tôi là người có khí-khái, con đàn-bà nó đã phụ mình đến như thế thì dầu trước yêu-mến đến đâu, cũng phải khinh bỏ đi rồi, chứ không thể thương yêu được nữa. Cha tôi mới đoán ra rằng cái bệnh tương-tư của tôi, không phải là tương-tư vì một con Mai-nương, mà là tương-tư chung cả đàn-bà, nghĩa là trai tới thì, cần đến vợ đây, cho nên mới vớ được con ấy, mà thương yêu tiếc nhớ đến dường này. Cha tôi đã yên trí như vậy, một hôm kia, cha tôi mới bảo tôi rằng:

- Con ơi, xưa nay cha vẫn có ý cho con đeo dấu thập tự Ma-nhĩ-đức thật, giờ cha xét ra thì con không có khiếu riêng về việc tôn-giáo. Con là đứa ham sắc. Nếu vậy thì để cha tìm vợ cho con. Việc ấy con khá thật tình mà ngỏ ý cho cha hay để cha liệu.

Tôi thưa lại rằng: phàm đàn-bà, có chồng có phân-biệt ai với ai nữa. Cứ như cái chuyện khổ tâm cho con mới xẩy ra đó, thì con ghét đều cả một giống đàn-bà. Cha tôi lại rằng:

- Cha sẽ kiếm cho con được một người đẹp cũng như Mai-nương, mà phần trinh-thục thì hơn Mai-nương.

- Lạy cha, cha có lòng thương con thì con xin cha lấy nàng Mai-nương cho con. Con chắc nàng không phụ con đâu. Người ấy không lẽ nào làm nên việc xấu ấy. Chắc rằng cha con nhà ta và nàng, ba người cũng bị cái lão B. nó lừa hết cả. Cha ơi, ví bằng cha biết con người ấy thành-thực thế nào, nết-na thế nào, mà âu-yếm con thế nào, thì con chắc rằng cha cũng phải thương-yêu nó.

- Con ơi, con còn trẻ người thật bụng quá, con ạ! Cha đã nói đến thế, chuyện nó đã rành-rành như thế, sao mà con còn đui điếc đến thế, hử con? Con há lại không biết rằng chính nó lừa con để anh con vào mà bắt con ra ư? Chết nỗi! con ơi! con mà có nam-nhi chí-khí thì đến tên nó con cũng không nên nhớ nữa. Cha đã quá thương con, con phải vâng lời cha mà tỉnh lại.

Mấy-lời nghiêm-huấn đã rõ rành rành, không thể cãi làm sao cho được. Vậy mà không biết làm sao tôi cứ gân cổ lên cãi cho nàng lấy được. Sau tôi nghe cha tôi nói thế, thì tôi phải ắng cổ ra mà chịu, không nói làm sao được nữa, tôi mới than thở cùng cha tôi rằng:

- Thương hại cho con, dẫu muốn đui mà không đui được nữa, đành là con phải công-nhận rằng con là người chủ bị thiệt-hại trong cái án lường-đảo kia!

Rồi tôi lại ràn nước mắt khóc hu hu lên mà rằng:

- Phải, thưa cha, giờ con mới biết con còn trẻ dại, cho nên mới để chúng lừa-đảo như thế. Nhưng thù này phải trả làm sao, việc ấy bụng con đã quyết.

Cha tôi hỏi tôi quyết làm sao? Thì tôi thưa rằng: Lạy cha, con xin về Ba-lê, con đến đốt nhà lão B. đi, con làm kỳ cho đứa gian-phu, dâm-phụ ôm nhau trong đống lửa mà chết.

Cha tôi nghe tôi nói dữ-tợn như thế, thì chỉ phì cười, rồi lại bắt người nhà phải canh giữ tôi cho thật kỹ.

Tôi bị giam cầm như thế trong sáu tháng. Tháng thứ nhứt, trong suốt 30 ngày, đại-cương ngày-nào cũng như tôi mới kể. Cả cuộc tình cảm của tôi trong khi ấy, chẳng qua cứ hồ ghét lại yêu, hồ xót thương lại ra căm tức; hết ngã chí lại hớn-hở mầng, tùy ở cái bụng tôi nghĩ lần-thần, lúc đồ cho nàng thế kia, khi đoán cho nàng thế nọ. Cũng có hôm tôi sực nhớ đến con người thùy-mị dễ-dàng, hiền-lành ngay-thật, thì tôi lại mong làm sao cho chóng gặp mặt nàng. Cũng có hôm tôi nguyền rủa đứa bạc-ác điêu-ngoan, lòng chim dạ cá, thì tôi lại thề rằng vô-phúc cho nó mà có lần còn gặp mặt tôi.

Cha tôi cho đem thật nhiều sách vở vào cho tôi đọc, tôi nhờ có những sách ấy mà nhiều lúc cũng dẹp yên được lòng bối-rối. Tôi đọc lại hết cách bách gia chư tử. Kiến-thức tôi hình như cũng có rộng thêm, lần lần nết quen ham học. Sau này rồi ngài sẽ biết, sự ấy ích cho tôi được những thế nào. Nguyên dĩ cái ái-tình của người ta, cũng là một ngọn đèn rất sáng làm cho thêm rõ nghĩa cổ thánh-hiền. Này như mấy câu văn của ông Horace, ông Virgile, xưa kia tôi vẫn cho là tối nghĩa, sau cũng nhờ cái đuốc lịch-duyệt nhân-tình thế-thái này, mà tôi mới vỡ hẳn. Nhân tôi có soạn một tập nhan-đề là “Lấy ái-tình mà giải nghĩa quyển thứ tư sách Enéide”. Sách ấy tôi quyết đem xuất-bản, chắc hẳn rồi thiên-hạ khen hay. Khi tôi đặt ngòi bút viết ra quyển sách, tôi đã than rằng: Hỡi ơi! lòng thảo như nàng Didon (Đi-đông) có một, tiếc thay sao chẳng gặp ta!

Một hôm, anh Tỉ-ba vào thăm tôi trong nơi cấm-cố, tôi thấy bạn ôm tôi mà hôn tôi một cách âu-yếm lạ-lùng. Nguyên trước tôi cùng Tỉ-ba cũng đã thân nhau, nhưng cách thân đó, chẳng qua là cách thân nhau trong bạn học một trường; chưa hề thấy bao giờ bạn tôi có tỏ cách thiết-tha âu-yếm với tôi đến dường ấy. Tôi xa cách bạn có năm sáu tháng trời, nay sao thấy bạn hình dung đã khác, cách nói năng lại khác dường nào. Nghiêm-nghị thay! hùng-hồn thay! tôi nghe mà phải kính phải sợ. Bạn phàn-nàn cho tôi về bước xa chân; rồi lại mầng cho tôi nay đã khỏi nhiều rồi đó. Sau hết, bạn khuyên tôi nên lấy việc trẻ-con ngu-dại đó làm gương ngày khác, sau này chớ tin chi những cuộc vui chơi là sướng. Tôi ngẩn-ngơ nhìn bạn. Bạn biết ý rằng tôi nghe câu nói đã lạ tai. Bạn lại nói:

- Anh ơi, mấy lời em biện-bạch, toàn là những chân-lý quả nhiên, em đã từng khảo xét, nghĩ ngợi, cho biết đến nơi đến chốn. Số là em xưa kia, lòng cũng hơi khuynh-hướng về nơi sắc-dục. May sao trời lại phó cho em được nết biết ưa điều đạo-đức. Em thường lấy lý-tình ra mà so-sánh hai bên hay dở thế nào. Em đà chịu nghĩ, ông trời kia lại mở mắt ra cho, để từ khi em nom rõ cái chân-tướng cuộc đời, thì em không khinh-bỉ cái gì cho bằng cái cuộc phù-thế của người ta. Anh ơi, anh có thấu bụng em chăng tá, bởi vì đâu mà em với đời còn chút vương-tơ, không đến nỗi vào xó rừng hang núi mà đi ẩn? Ấy cũng bởi hai ta có chút tình bè bạn đó anh ạ. Bấy nhiêu năm cùng học với nhau, em đã bao phen từng biết cái lòng anh quảng-đại, cái chí anh cao-xa; phàm những việc gọi là hay, là đẹp, là thiện, là mĩ, không có việc gì là việc anh không làm nổi. Chẳng may mà anh ngộ phải cái thuốc độc tà-dâm, cho nên anh trót xa con đường chính-đạo. Cơn rứa em đà khóc than cho đạo-đức thiệt mất một người! Anh ơi, từ hôm anh bỏ em ở A-Miêng mà anh đi trốn, lòng em đau-xót cho đến bây giờ, cũng chửa bao khuây. Anh thử xét xem những công-việc của em từ hôm ấy đến giờ thì anh biết rằng không phải là em nói mua-chuộc.

Nhân bạn tôi mới kể cho tôi nghe chuyện hôm ấy khi đã biết rằng tôi lừa-dối, bận vội-vàng lên ngựa đuổi theo. Nhưng hai người đi trước với kẻ đi theo, cách nhau kể 4, 5 giờ, thì phỏng đuổi sao cho kịp? Tuy nhiên, khi bạn tới Thánh Đơ-ni, cũng chỉ hụt tôi với nàng có một nửa giờ đồng-hồ mà thôi.

Bạn tôi biết tất đem nhau về kinh-thành cùng ăn ở, bạn cững về kinh-thành, tìm trong tháng rưỡi, dò la khắp cả mọi nơi.

Một hôm bạn tôi vào nhà diễn-kịch, gặp Mai-nương bộ cánh rỡ-ràng, đã đoán ngay nàng hẳn đã qua tay nào khác. Khi tan buổi hát, bạn theo hút xe cho đến chỗ lầu trang, hỏi đứa ở thì biết ra rằng má phấn nay đà trong tay B. phú-hộ. Đến hôm sau, bạn thân đến hỏi nàng. Mai-nương thoạt nghe nói đến tên tôi, đã quay lưng trở vào, không tiếp nữa. Bạn đành phải trở về A-miêng mà không biết âm-hao gì về tôi cả. Về đến nhà, được thư Ba-lê gửi lại, mới vỡ chuyện về sau. Nay biết tôi đà hồi tỉnh, nên chi mới lại thăm nom.

Tôi thở dài mà ngơ-ngác hỏi:

- Vậy ra anh đã gặp Mai-nương! Nếu vậy, ngô-huynh có nhiều hạnh-phúc hơn đệ. Thương hại cho tôi, tôi với nàng đành rằng từ đây vĩnh-biệt.

Bạn thấy tôi thở dài mà kêu lên như thế, thì trách tôi chưa khỏi hẳn bệnh mê-man. Xong đó rồi, bạn tôi lại giảng đạo-đức thuyết nhân-nghĩa cho tôi hồi lâu nữa, khéo tìm những chỗ tôi ngứa mà gãi, những nơi tôi ưa phỉnh-phờ mà tán-tụng. Bạn tôi mới lại khuyên-răn có một lần, mà khi bạn về tôi nghe trong lòng, hình như cũng thấy chuyển động, quyết chí muốn bỏ đường tục-lụy, mà từ nay chuyên nghĩ việc tu-hành.

Dần dần tôi thích chí về việc ấy, đến nỗi những khi thơ thẩn một mình tôi không nghĩ điều gì khác nữa. Tôi sực nhớ lại những lời của đức-cha ở A-miêng khuyên bảo, những lẽ nên mong mỏi cho tôi về sau có thể nên vinh-dự lớn ở trong chỗ giáo-đường. Vả lòng tôi khi đó, bỗng lại thấy sùng riêng về đạo Chúa. Định bụng phen này đi tu ăn ở một cách an nhàn thuận đạo, ngày đêm tụng-niệm học-hành, không để cho lúc nào rảnh trí, mà nghĩ ngợi đến những cuộc vui-thú nguy-hiểm của ái-tình. Phàm những sự người ta quí-trọng, mình quyết khinh bỏ từ đây. Nghe trong lòng tưởng chừng như tự đó về sau, những điều mình sở mộ, quyết là làm nổi; tấm lòng chỉ ao-ước những điều hay, bỏ quách được điều tình-dục, tĩnh tâm mà thờ Chúa.

Tôi đã tưởng-tượng trước ra một cuộc ẩn cư rất lý-thú: Gian nhà cất nơi tĩnh mịch, cỏ cây bốn phía bùm tum; góc kia vườn đôi ba hòn núi đá, suối nước trong róc rách lưng đèo; sách đầy tủ tha hồ khảo cứu: tri-kỷ một đôi người, thỉnh-thoảng đến chuyện trò; hai bữa cơm thanh-đạm mà ngon. Giao-thiệp với thành-thị thì đã có một người bạn chí thân, chí thiết, ngày ngày thư đi thư lại, để báo cho ta biết những nỗi phiền thiên-hạ mà cười. Như thế thì còn gì mà chẳng sướng? Thật phỉ lòng ao-ước xưa nay, thật quen với tính nết của ta đã luyện tập. Nhưng nghĩ như thế rồi lại ôm trán hỏi lòng một lần nữa, thì cái cảnh tưởng-tượng ra đó, thật là vui thú, thật là xứng với cái trí khôn cao thượng; nhưng xét ra cho kĩ, thì mười phân chưa đủ hoàn-toàn. Vẫn thiếu đứt Mai-nương trong cảnh thú.

Tuy vậy, nhờ có anh Tỉ-ba đến khuyên bảo tôi luôn, khiến cho tôi mỗi ngày càng thêm quả-quyết. Khi tôi nghe trong chí đã nhất định rồi, tôi mới trình với cha tôi. Cha tôi nói rằng ý cha tôi xưa nay vẫn định để cho các con tùy thích mà chọn lấy nghề-nghiệp, không muốn ép uổng con nào, duy con nào muốn hỏi thì cha sẵn lòng chỉ bảo cho mà thôi. Nhân tôi có xin dạy điều khôn phải, thì cha tôi lại giảng-giải kĩ-càng, khiến cho tôi lại càng quyết chí ở việc tu-hành lắm lắm.

Giữa độ ấy, sắp tới ngày khai tràng Nhà-dòng. Tôi bèn rủ anh Tỉ-ba cùng tôi vào học ở tràng Nhà-dòng Thánh Xung-bích, bạn tôi thì để học cho trọn khoa Thần-học, mà tôi thì để vỡ lòng. Bạn tôi vốn nết chăm học đã có tiếng từ thuở còn ở A-miêng, Đức-cha cũng đã biết đến, nên chi được thụ học-bổng tối hậu.

Cha tôi thì tưởng tôi đã khỏi hẳn cái bệnh say mê rồi cho nên tôi xin đi thì cho đi ngay. Hai anh em đến kinh-thành. Tôi thì cái câu rút Ma-nhĩ-đức đã đổi lấy bộ áo thâm dài ông cố đạo, tên Đê Ghi-ri-ơ hiệp-sĩ thì đổi là Đê Ghi-ri-ơ đạo sĩ. Tôi học riết lắm; chỉ trong mấy tháng trời thấy tấn-tới nhiều. Cả ngày đã học, đêm lại học khuya, không để phí chút thì-giờ nào cả. Sau tôi cũng nổi danh tiếng lớn trong một tràng như anh Tỉ-ba tôi vậy, ai nấy đã khen rằng tài cán ấy chắc nên danh-phận lớn. Tôi cũng được ghi tên trong sổ học-bổng. Việc đạo giáo tôi chăm nom lắm lắm. Phàm các việc lễ-nghi, việc gì tôi cũng sùng. Anh Tỉ-ba thấy tôi như thế thì mầng hớn-hở, những tự phụ rằng vì công khuyên-bảo của mình mà đã kết nên giai-quả đó.

Lòng người dễ đổi, câu ấy đã đành, thế sự đã từng nom thấy. Người ta vì một dục-tình mà sinh ra một ý tưởng, mà xui nên một việc quyết-định; kế đến phải dục-tính khác, ý tưởng ấy đi đời, việc quyết-định ấy cũng đi đời. Nhưng khi tôi nghĩ đến những ý-tưởng cao-thượng, tối tĩnh, tối khiết, nó đã xui khiến tôi vào nhà-dòng Thánh Xung-bích, khi tôi nghĩ đến cái cách tu-hành trai-tĩnh của tôi trong bấy nhiêu lâu; mà sau tự-dưng lại thấy bỏ được tu, phá được giới, thì tôi rùng mình vì cái tính dễ thay đổi của lòng người.

Sách thường dạy ân Chúa cứu độ chúng ta bao giờ cũng dồi-dào ngang sức với cái tình-dục cám-dỗ. Nếu vậy thì như tôi sùng-mộ tôn giáo như thế, vì đâu mà bỗng tự-dưng bỏ phứt được dường phận-sự, không hối hận, không phải miễn cưỡng một li một đỉnh nào hết.

Trước kia tôi đã tưởng tôi với sắc-dục là tuyệt-giao rồi. Những lúc tôi đương sùng đạo thì tưởng chừng như gái đẹp nào, tính cả từ đến Mai-nương, lại có làm sướng dạ cho tôi bằng một trang sách của Đức Thánh Âu-cúc-tân, hay là một khắc đồng-hồ tĩnh-tâm mà tư-lự đến việc tôn-giáo. Thế mà chỉ trong một lúc không may, tôi lại sa chân vào chốn hang hầm. Tôi nguyên ở chỗ sâu thẳm ấy mà lên đến chỗ đạo-đức tột cao, nay lại ngã xuống hang sâu thẳm hơn nữa, thì thật là một cái tai họa không thuốc chữa.

Nguyên tôi đã ở Ba-lê gần một năm tròn mà không hỏi thăm hỏi dò gì đến Mai-nương cả. Lúc trước thì còn là miễn-cưỡng. Sau may được bạn tới luôn luôn, khuyên nhủ bên tai, vả tôi lại là người biết nghĩ, gắng sức tu cho kỳ được, cho nên về sau thấy mỗi ngày một nhạt sự say mê, lần lần quên bẵng hẳn tình-nương điêu bạc. Kế đến kỳ thì, công-đồng khảo-sát, tôi lại mời bà con đến cho đông mà xem tôi cao chiếm bảng vàng. Tôi nhờ sức học, đậu được thủ-khoa, danh-giá lan đi khắp vùng kinh-địa, thế nào đến cả Mai-nương cũng biết. Trước nàng thấy nói Đê Ghi-ri-ơ đạo-sĩ, còn ngờ trùng danh trùng hiệu. Sau hoặc giả thấy người đồng-tính, cũng muốn nhìn xem thế nào; hoặc giả biết là bạn cũ mà hối lại những sự lừa nhau thuở trước. (Sau tôi tra mãi mà không biết trong hai lẽ ấy, vì lẽ nào). Nàng mới nhủ mấy người bạn đàn-bà đến tại Học-đường mà nhìn cho rõ mặt.

Tôi thì mải ứng đối với quan chấm trường, cũng không nom thấy. Vả ở nơi nội-thí, các bà vào xem đã có chỗ riêng ngồi kín. Khi tôi thi xong, ngửa mặt vinh quang mà về nhà-dòng, ai nấy hoan hô mầng rỡ. Lúc đó, chừng sáu giờ chiểu tối. Vừa về được một lát, thì có người gọi ra phòng tiếp khách, nói có bà nào vào hỏi. Tôi tức-khắc ra, tưởng là ai, hóa ra là Mai-nương. Giật mình thay! hoảng hốt thay! còn ngỡ tinh ma hiển hiện! Chính là Mai-nương, mà Mai-nương xinh đẹp hơn, ngọt ngào hơn trước, chưa bao giờ tôi thấy nàng được xinh đẹp như thế. Năm ấy tuổi nàng vừa mười tám, đào non vừa độ, nhan sức đương thì, không bút nào mà tả ra cho được hết cái vẻ xinh đẹp. Hay là chân tượng của ái-tình thần chính đó. Nhìn vào cái mặt lồ lộ như bức tranh tuyệt diệu.

Tôi nhìn thấy mà ngây dại, mà thẫn thờ. Không biết ý nàng đến đó làm gì, tôi mở khép mi mắt nhìn trở xuống, hơi run run mà đợi nàng nói trước. Trong một hồi lâu, nàng nghe chừng cũng ngượng nghịu như tôi. Sau nàng thấy tôi chẳng nói gì, thì nàng lấy bàn tay bưng mặt khóc, rồi thỏ-thẻ mà thú nhận rằng tội thất-tiết đã cam chịu, nhưng trách chàng sao cũng nhẫn tâm thay! Xa cách nhau một chốc đã năm chầy, mà chẳng đoái thăm dò còn sống chết. Đến nay gặp người xưa đứng trước mặt, mà không nói năng lấy được nửa lời nào. Tôi nghe nàng thưa thốt bấy giờ, lòng tôi bồi hồi thương xót, không thể nói sao cho xiết được.

Nàng ngồi xuống. Tôi vẫn đứng quay nửa mình trở lại, không dám nhìn nàng tận mặt. Miệng tôi thì ấp úng toan trả lời mấy cách mà không ra tiếng, nói được vài lời lại bẵng, không sao nốt cả được câu. Sau tôi cố mãi thì chỉ gầm lên được có mấy tiếng sỉ nhuốc sau này: “Mai-nương bội bạc hề! bội bạc! bội bạc!” Nàng khóc hu hu lên mà thú rằng xin chịu tiếng bội-bạc, không dám cãi. Tôi hỏi:

- Thế thì nàng đòi gì tôi bây giờ?

- Thiếp không ở với chàng thì không sao sống được, cho nên phải đến đây mà xin chàng trả lại cho tấm lòng yêu ngày trước.

Tôi cũng ràn-rụa ngay nước mắt ra, không sao cầm xiết được mà rằng:

- Mày có lấy mạng tao thì mày lấy. Chỉ còn có cái mạng tao là của tao mà thôi. Đến như cái lòng tao thì từ ấy đến giờ vẫn ở tay mày cố chấp, tao đã thu được về lúc nào đâu, mà nay đòi tao đem trả?

Tôi vừa nói buông miệng, nàng đứng dậy ôm lấy tôi mà hôn-hít, âu-yếm. Phàm bao nhiêu tiếng, bao nhiêu chữ hay của ái-tình sanh ra cho mà gọi nhau, là nàng đem ra mà gọi tôi hết cả. Kỳ-thủy tôi còn lấy cách nguội-lạnh mà đáp lại, chẳng lẽ mình đương bình-tĩnh như thế, mà bỗng dưng làm ra những cách lả-lơi, thì cũng bất tiện. Cho nên tôi còn nghĩ xem lấy cách nào cho nó dần-dà từ phai sang thắm, từ trầm lên bổng. Tôi nghĩ đến cái tình-cảnh mà ghê mà sợ. Tôi rợn người lên khác nào như đang đêm khuya thanh vắng mà đi vào chỗ đồng không mông quạnh; khác nào như thấy mình bước chân vào một thế-giới nào mới rờn-rợn lúc đầu, sau dần dần nom rõ quanh mình, rồi mới yên được thần lại.

Hai người cùng ngồi xuống, tôi nắm lấy hai tay nàng, tôi nhìn nàng một cách sầu-thảm mà rằng:

- Mai-nương hỡi! Ta không ngờ ta yêu Mai-nương như thế, mà Mai-nương lại nỡ phụ ta. Tâm thần ta đã ở trong tay Mai-nương hết cả, thì ta dốc một lòng mà chiều nịnh Mai-nương, mà vâng chịu Mai-nương, mà làm đứa tôi mọi cho Mai-nương, thế thì phỏng Mai-nương muốn dối ta, còn có khó gì? Nay Mai-nương đã đi từng trải kẻ khác, thử nói ta nghe xem có trai nào âu-yếm Mai-nương như ta, dễ bảo như ta hay không? Chắc là không. Tạo-hóa không có thể đúc ra được hai tấm lòng như tấm lòng ta ở trong thiên-hạ. Vậy thì từ bấy đến giờ, Mai-nương có tiếc ta lúc nào chăng? Nay bỗng thấy Mai-nương trở lại đây mà tưới gội mấy lời âu-yếm đó cho tấm lòng khô héo của ta, thì chẳng hay ta nên tin được đến dường nào? Mai-nương ơi, Mai-nương ơi! Ta nhìn thấy Mai-nương là đủ cho ta chết mệt rồi, lựa là Mai-nương còn phải hỏi ta chịu tái hồi chăng! Nhưng nếu Mai-nương có cám cảnh cho ta xót-xa vì bạn trong bấy nhiêu lâu, thì Mai-nương nói cho ta biết lần này Mai-nương định ăn ở với ta có vững-bền hơn lần trước không?

Nàng thưa lại mấy lời rất cảm-động, trỏ trời vạch đất mà thề thốt đến điều, khiến cho tôi cũng phải dẹp nỗi còn nghi-ngại, những tưởng từ đây nàng giữ tiết một niềm. Tôi bèn nửa giọng say-mê, nửa giọng sùng-tín mà rằng:

- Mai-nương hỡi! Mai-nương xinh đẹp muôn phần, không phải là bậc người phàm ở thế-giới. Lòng ta hiện như bị một trận khoái-phong bay bốc lên đến từng mây xanh khí biếc. Than ôi! Giờ ta mới biết bao nhiêu những lời sách dạy ở Thánh Xung-bích về chữ tự-do, tự-chủ, toàn là những hư-văn vô nghĩa. Ta cũng biết phen này ta bỏ hết công-danh vinh-dự, mà đi với Mai-nương. Ta nhìn lòng con mắt Mai-nương, hình như ta đã được đọc số trời tiền-định cho ta thế nào rồi. Nhưng nếu ta được lòng Mai-nương một niềm yêu-mến ta, thì dẫu ta mất đến gì, tưởng cũng không là thiệt. Điều tài lợi, thì lòng đây không chút bận, cái vinh-quang chẳng là một đám khói nhứt thời, cơn gió nhẹ đã tan-tành đâu mất. Thì ra bao nhiêu những cảnh tu-hành ta định trước toàn là một cuộc mơ-màng. Nói rút lại thì bao nhiêu những cái khoái-lạc ngoài cái khoái-lạc với Mai-nương cộng hưởng, toàn là những khoái-lạc khả khinh, vì rằng ta đem lòng ta ra mà hỏi thì bao nhiêu khoái-lạc ấy, dẫu đánh đổi lấy một đuôi con mắt Mai-nương, cũng không xứng-đáng.

Tôi vừa tình nguyện với nàng quên hết các tội trước, tôi vừa xin nàng kể lại cho tôi nghe cái chuyện ông B. quyến-dũ ra làm sao, thì nàng nói với tôi rằng nhân một khi nàng đứng ngóng ở trên cửa sổ, ông B. ngước mắt lên nhìn thấy, mê-mẩn ngay tinh-thần mà tìm đường han-hỏi, rồi lại viết thư hẹn những muôn vàn. Nàng đương túng bấn, cũng liều kiếm một món tiêu, họa chăng vợ chồng có thêm ra được ít lưng vốn mà ăn ở với nhau thêm được chút thảnh-thơi. Sau nàng thấy lão hào-phóng, máu tham cũng trót bén hơi đồng. Nhưng ngẫm một cơn sầu-thảm, trước hôm nàng phải cùng tôi ly-biệt, thì cũng đủ biết thế phải buông nhau ra vị đồng bạc trắng, thôi cũng đứt từng khúc ruột. Về sau thấy tuy được ở lầu son gác tía, mặc đồ tế nhuyễn, ăn vị cao-lương, mà cùng lão cũng không thấy chút gì được thỏa. Trước nữa là khách má hồng gặp quan-viên thị của, dầu đồng bạc mát lạnh bàn tay, nhưng trong tình ý cũng không có điều sướng thỏa. Sau nữa, thiếp cùng chàng một chốc bấy lâu, tâm đầu ý hiệp; đàn-bà nhẹ dạ bởi đồng tiền nỡ biệt nhau ra, phần thì nhớ yêu người cũ, phần thì thâm hận điều phụ-bạc với Tiêu-lang. Nàng lại kể cả cho tôi nghe cái chuyện Tỉ-ba đến hỏi, nghĩ mà thẹn-thùng với bạn của lang-quân. Nhìn mặt khách như gươm đâm thủng ruột, cho nên phải quay lưng vào mà giấu cái mặt dạn dầy, không chịu được mắt khách nhìn nửa phút.

Sau nàng lại kể tôi nghe ngẫu nhiên thế nào mà nàng biết tôi ở Ba-lê, tôi vào học đạo, và tôi thi cử thế nào. Trong khi tôi đối-đáp với quan tràng, nàng nhìn thấy tôi mà bồi-hồi tấc dạ, chẳng những khôn cầm giọt lệ, mà lại còn khó đè lòng cho khỏi rỉ rên. Nhiều lúc nàng bật tiếng kêu, hu tiếng khóc, phải lủi ra ngoài. Nàng ở Đại-học-đường ra, thì đi thẳng ngay lại nhà-dòng mà chờ tôi ở đó, quyết chí rằng hễ tôi không chịu tiếp thì chết ngay đó không về.

Trời đất ơi! đi tìm ở đâu cho được một người vô tình, đến nỗi thấy người đã ăn-năn tội trước như thế, mà không tha-thứ? Tôi không biết giá người khác ở địa-vị tôi thì thế nào, nhưng tôi khi ấy thì nghĩ bụng bao nhiêu quyền cao chức trọng, bao nhiêu phú-quí vinh-hoa mà chẳng ném phăng đi cả, để hòa-hiệp với nàng. Tôi mới hỏi nàng cơ-sự đã ra như thế, thì nay định tính làm sao. Nàng bảo tôi phải tức-khắc bỏ chỗ nhà dòng, rồi cùng nàng kiếm một nơi kín đáo mà ở. Nàng bảo thế mà thôi, chứ bảo gì nữa mà tôi lại không nghe? Hai bên hẹn nhau như vậy rồi, nàng lên xe bảo đánh xe ra chờ đầu phố, để cho tôi sửa-soạn mà trốn theo sau. Tôi lên xe với nàng, cùng nhau đến một tiệm bán áo, tôi sắm một bộ áo quần có lon vàng, có dây đeo kiếm. Tiền tôi không có nửa xu, những món ấy nàng ứng ra mà trả hết. Nàng e tôi trùng-trình thì cơ-mưu tiết-lộ, nên nàng không để cho tôi vào phòng riêng mà lấy tiền nong. Vả cái số tiền của tôi bỏ lại cũng không là mấy, mà nàng thì trong bấy lâu nhờ B. phú-hộ, lưng vốn cũng đã đẫy rồi. Trong khi sắm áo quần ở trong tiệm, thì hai đứa bàn nhau quyết định những việc về sau.

Nàng có ý tăng giá cái việc bỏ B. công với tôi, nàng bèn đoan quyết rằng từ nay cùng lão tuyệt đường nhân-nghĩa, không còn một chút vương-tơ. Nàng rằng:

- Nhà-cửa cùng những đồ-đạc của lão sắm cho thiếp, thì thiếp bỏ lại trả hết. Duy những đồ vàng ngọc điểm-trang, cùng những tiền nong của lão đã cho thiếp rồi, là kỉ-vật của thiếp, thì thiếp đem đi. Lưng vốn của thiếp nay ước chừng được gần sáu vạn phật-lăng. Thiếp vốn không có cam-đoan gì với lão hết, quyền thiếp muốn bỏ lúc nào thì bỏ. Vậy thì đôi ta có thể ở với nhau đường-đường chính-chính tại đất Ba-lê này cũng được. Âu là ta khá kiếm lấy cái nhà nào cho tiện, mà ở với nhau cho sung-sướng thảnh-thơi.

Tôi nói dầu nàng không phải sợ ai, song tôi thì ở Ba-lê nhiều lẽ nguy-hiểm. Chẳng được bao lâu, tất có người quen gặp mặt mà mách với nghiêm-đường, thì nạn trước chắc lại phải từng lần nữa. Nàng rằng nàng ở Ba-lê đã quen thói nết, bây giờ phải đi nơi khác thì e không chịu nổi. Tôi e phiền lòng cho nàng, cho nên thấy nàng đã muốn thế, thì dẫu muôn điều nguy-hiểm, cũng không dám từ. Tôi mới bàn cùng nàng một diệu-kế được việc cho cả đôi bên, là thuê nhà trong làng nào ở chốn ngoại ô, để đi về thành-phố cho tiện. Chúng tôi chọn phía cửa ô Chaillot là nơi gần nhứt. Mai-nương tức-khắc về lầu. Tôi thì ra đứng đợi nàng tại trước chỗ Hoàng-thành Công-viên.

Tôi chờ trong một giờ thì thấy nàng đi xe hàng mà tới, chỉ có một con đòi đi theo hầu và đôi ba cái rương đựng xống áo cùng các của quí.

Xe đi một lát tới cửa Chaillot. Đêm hôm đầu đưa nhau vào ngủ quán trọ, để ngày mai đi tìm nhà mướn. Tìm chẳng bao lâu được một gian nhà vừa ý.

Tôi đã tưởng như thế là cuộc trăm năm vui thú của tôi đã vững cây sâu rễ rồi. Mai-nương là một gái hiền-lành lại khéo chiều người. Nàng ăn ở với tôi một cách yêu đương quí trọng vô cùng, dẫu tôi đi theo nàng biết bao nhiêu nỗi phiền bực chua cay, cũng là cam chịu hết. Nguyên hai đứa cùng đã từng trải việc đời nhiều ít, cho nên cùng nhau đàm đạo về cách ăn ở với nhau lâu dài, tính toán đã đâu ra đấy. Cũng biết sáu vạn phật-lăng không phải là một cái vốn ăn tiêu cho đủ được suốt một đời. Vả hai đứa cùng quyết chí chẳng tội gì ăn tiêu chắt bóp. Nết cần-kiệm không phải là nết hay thứ nhất của Mai-nương mà cũng không phải là nết của tôi. Tôi mới bàn cùng nàng cách ăn ở sau này:

- Sáu vạn phật-lăng khéo chi dùng, vừa được mười năm. Đôi ta cứ ở chỗ Chaillot này, thì mỗi năm sáu nghìn là đủ tiêu pha một cách lịch-sự mà giản-dị. Trừ ra tiền nhà, tiền ăn, còn ngoại phí thì duy chỉ có cỗ xe ngựa với thỉnh-thoảng đi lên phố coi hát mà thôi. Thôi thì ta chịu khó tần-tiện một chút. Mình thích đi coi hát rạp Đại-nhạc thì cứ mỗi tuần lễ ta đi hai lần. Bài-bạc thì ta cũng đánh cò-con cho tiêu khiển, nhưng khéo giữ gìn chớ để canh nào thua tới ngoại hai bích-tôn. Chẳng có lẽ trong mười năm trời mà trong nhà ta lại không có việc biến cải. Cha ta nay đã già, chết ở sớm tối. Khi cha ta đã quá khứ đi rồi, gia tài về ta. Bấy giờ thì đôi ta không còn phải e ngại gì nữa.

Tôi xếp công việc nhà ra như thế, tưởng cũng là điên rồ lắm rồi. Vậy mà giá thử tôi với nàng cứ theo đó mà ăn ở, thì cũng đã là ngoan lắm. Chẳng may cái chí quyết định của chúng tôi chỉ vừa được một tháng mà thôi. Mai-nương thì mê chơi bời, mà tôi thì mê Mai-nương. Mỗi lúc là một dịp tiêu tiền. Nàng đã hoang, mà tôi thì cũng không biết tiếc đồng bạc một chút nào cả. Sẵn tiền đó, hồ thấy cái gì ưa mắt là mua cho nhau. Dần dần thấy ở chỗ Chaillot đi về nhiều điều bất tiện.

Mùa lạnh gần tới, các nhà phong-phú đến ở nghỉ mát chốn nhà quê, ai nấy lục tục về dần, ấp Chaillot mỗi ngày thấy vắng. Nàng bàn với tôi lại tìm nhà trên phố mà ở quách. Tôi không chịu, nhưng tôi bàn với nàng một kế, tưởng đã diệu lắm, là mướn lấy một cái phòng có sẵn đồ đạc, để những khi chơi bời hội tiệc, hoặc đi coi hát về khuya quá thì vợ chồng đem nhau vào đó nghỉ đêm.

Thành ra muốn tần tiện, hóa phải hai nhà. Vì việc ấy mà sau này xẩy ra hai sự tai biến lạ-lùng, làm cho khánh-kiệt, không còn lấy một chữ để nương thân.

Nguyên Mai-nương có một người anh làm thị-vệ. Vô-phúc thế nào, mình lại đi thuê nhà ở ngay cùng một phố với gã đó. Một hôm, gã đi qua đường, nghếch mắt lên nhìn thấy em đứng cửa sổ. Gã là một đứa vũ-phu, ăn nói khiếm-nhã. Gã chạy ngay vào mà chửi bới tàn-tệ, mắng em thế nọ thế kia.

Khi ấy tôi vừa ra khỏi, ấy cũng là may cho gã, hoặc cho tôi, vì tôi không phải là người chịu để cho ai to tiếng trước mặt mình. Khi tôi về đến nhà thì gã đã đi khỏi. Tôi thấy Mai-nương mặt ủ mày chau, tôi đoán ngay ra là có sự gì quái lạ. Nàng kể lại cho tôi nghe câu chuyện toang-hoang như thế, thì tôi nổi cơn tức-giận lên, toan vùng té đi tìm cho được thằng anh đó mà trị tội cho nó một mẻ. Sau nàng khóc-lóc can mãi, tôi mới thôi.

Trong khi tôi với nàng đương nói chuyện với nhau về việc ấy thì gã kia ở đâu lù lù dẫn tới, chẳng hỏi ai mà vào, coi ra dáng tự tiện quá. Giá tôi mà biết là chính gã, thì tôi sửa ngay cho một trận mà tống ra ngoài. Nhưng tôi chưa kịp biết là ai, thì gã đã cười cười nói nói, chào hỏi cả hai người, rồi xin lỗi với cô em cái việc nóng nẩy khi nẫy. Nói rằng tưởng cô nó dại, đương ở chỗ hay, đi cả nghe đứa không ra gì, mà chịu khổ thân, cho nên tôi thương em mà cả giận, nói chẳng nể lời, bây giờ hỏi đứa ở, mới biết ra tân-lang của em, cũng là người thế-gia lệnh-tộc.

Tuy câu chuyện hỏi dò đứa ở, tôi nghe cũng khí trái tai, song tôi cũng gượng cười mà thâu nhận cái câu ca-tụng đó. Mai-nương thấy câu chuyện xoay ra như thế, coi bộ cũng hể-hả mầng. Chúng tôi bèn giữ ông anh lại xơi cơm tối.

Chuyện trò một lát, ông anh làm thân ngay như xưa nay vẫn ở luôn một nhà với hai em vậy. Sau ông anh nghe nói đem nhau về Chaillot, thì ông anh nhứt định đòi đi theo. Chúng tôi đành phải để cho ông anh ngồi xe chung. Ông anh về đến nhà thì làm ngay ra mặt ông chủ nhà, tự tiện mọi việc, chứ không còn biết nể nang gì hết. Ông anh gọi tôi bằng chú nó, rồi lấy nê anh em thân-thiết, trước còn tự-tiện một mình, sau đem bạn-bè đến từng lũ-lượt, nào mời ăn, nào mời uống, không còn quản chi tốn kém cho ai. Ông anh đi sắm những áo quần rất sang trọng, bắt cô em trả tiền, rồi lại đem cả khách nợ đến cho cô em trả nữa. Tôi sợ mất lòng nàng, không dám nói chi cả. Thỉnh thoảng ông anh lại còn đẽo của cô em từng trăm từng nghìn một. Nói cho tiêu tội thì khi nào ông anh đi đánh bạc gặp canh đỏ, được đồng nào thì cũng có đem về cho cô em nhiều ít. Chẳng may cái số ông anh cho không sao bù được cái số ông anh lấy, mà lưng vốn của Mai-nương thì không được mấy, chẳng bao lâu mà cạn mất.

Tôi đã tính nói phăng với ông anh một lần cho dứt khoát, nhưng chưa kịp nói thì trong nhà xẩy ra một việc lạ lùng, miễn trừ cho tôi được cái việc khẩu-thiệt đó, song cũng lại vì chuyện xẩy ra ấy mà vợ chồng tôi khánh-kiệt gia-tài, không còn mong nhờ được vào đâu, để dung thân nữa.

 

Một ngày kia, Mai-nương với tôi đi chơi khuya quá, không về Chaillot được, phải ngủ lại Ba-lê. Sáng ngày ra thì con đòi ở Chaillot tất-tả chạy ra báo rằng đêm qua nhà phát hỏa, chữa mãi mới tắt. Tôi hỏi thăm đồ đạc trong nhà có hư hại nhiều không, thì con bé nói rằng trong khi bối-rối, tấp-nập người ra kẻ vào để cứu hộ, thì nó không kịp xoát xem thiếu thốn những gì. Tôi run lên về món tiền lưng vốn, giấu trong một cái rương nhỏ. Tôi vội vàng về Chaillot, thì ra về cũng uổng công. Cái rương để bạc đã đâu mất!

Bấy giờ tôi mới nghiệm ra cái câu người ta nói: Không cứ biển-lận mới yêu tiền, là câu nói thật. Tôi thấy mất hòm bạc, lòng tôi đau đớn xót xa tưởng dễ phen này hóa dại. Nhìn đường trường mà ghê gớm, không biết phen này cực khổ đến làm sao! Cái cực nhẹ nhất cho tôi ở buổi tương-lai này là cái cực đói rách. Còn như nàng thì tôi đã từng biết tính rồi. Còn có cách nương thân, còn có cách ăn tiêu dồi dào thì còn vợ, còn chồng, còn nhân, còn nghĩa, còn anh có một tôi, tôi có một anh. Cơn đen vận túng mà đã đến nơi, thì chớ có ai cam-đoan cho cái trinh-tiết của nàng mà thua cuộc đứt. Số là nàng yêu tôi thì cũng có yêu, nhưng sự chơi-bời vui-thú, sự tiêu tiền rộng rãi thì nàng lại còn thích hơn nhiều, vì tôi mà nhịn vui chơi, nhịn tiêu tiền, sự ấy thì không thể có. Tôi bèn than khóc mà rằng:

- Thương hại cho ta! Lần này thì ta thật mất nàng! Mà mất nàng là mất hết sự yêu-mến ở đời!

Tôi nghĩ như thế, thì lòng tôi bối rối, bụng tôi ngổn ngang, những tính phen này tự-tận cho xong hết các nỗi phiền.

Tuy nhiên, trong óc tôi cũng hãy còn đủ trí-khôn, để mà xét xem còn kế nào hơn kế ấy. Trời đã không phụ, lại linh-ứng cho một phương-kế thần diệu, khiến cho lòng lại hởi lên mà không phẫn chí nữa. Tôi nghĩ việc mất trộm này giấu biệt, không cho Mai-nương biết, cũng không phải là việc khó đến nỗi không sao làm được. Nhiên-hậu ta mới lo cách gì sinh lý, hoặc ta trông mong ở ông thần Hạnh-phúc, mà kiếm lấy đủ tiền cho nàng ăn tiêu được đủ là yên.

Nguyên trước tôi đã tính mỗi năm sáu nghìn phật-lăng, ăn tiêu túc dụng; số sáu vạn vừa đủ mười năm. Nay ta thử ví dụ như hạn mười năm ấy đã qua rồi, mà bao nhiêu những việc ta ao-ước, chưa có việc gì xẩy ra cả. Cha già còn sống, gia-tài chưa đến tay ta. Như vậy thì ta phải tính làm sao? Tính làm sao thì ta chưa biết rõ, nhưng nay hãy thí-dụ như cái việc bấy giờ mới đáng phải làm, ta hãy lo mà làm ngay tức-khắc, xem nó ra sao? Vả ở đất kinh-thành, thiếu chi là những kẻ không có tài ta, nết ta, mà cũng được phong-lưu phú-quí.

Tôi mới lại nghĩ đến các nghề-nghiệp của người ta thường làm, mà mình bàn nhỏ với mình rằng: Ừ, mà ngẫm ông trời khuôn xếp mọi việc cho người ta cũng là khéo lắm. Phần nhiều những kẻ cao sang đại phú là những đứa ngu-xuẩn. Ai đã gọi là trải đôi ba chút thế-tình, thì câu ấy rõ-ràng mồn-một. Trong sự ấy có một công-lý đáng phục vô cùng. Vì nếu kẻ kia đã có của-cải, có thần-thế rồi, mà lại có cả trí-khôn nữa, thì chúng nó sướng quá, mà bao nhiêu người khác thì chẳng hóa ra cực-khổ quá ru! Bởi vậy cho nên Hóa-công bù đắp, những kẻ khốn-cùng ti-tiểu thì ông ấy lại thường cho được cái vẻ người đẹp, được cái tính-nết hay, trí-tuệ thông-minh để mà chế cái sự nghèo-nàn, để cứu cơ những khi túng-bấn. Cũng có kẻ thì lấy tài mình làm trò vui-thú cho đứa giàu, để mà hưởng chung một phần của-cải chúng nó. Cũng có người thì đem kiến-thức mà dạy cho chúng nó nên được người khôn, người tử-tế. Nói cho phải thì ít khi công thầy có hiệu, nhưng phàm người trí-giả đã có công, thì trời nào nỡ phụ. Dầu không dạy được cho đứa dại nên khôn, cũng khiến được cho người khôn không đến nỗi bụng đói. Mà cuộc ấy dầu muốn xoay thế nào mặc lòng, cái dại của đứa giàu-sang, vẫn là một cái vốn sinh-nhai cho lũ hàn-vi.

Tôi nghĩ đến những điều ấy thì lòng tôi thấy phấn-chấn, trí tôi thấy nở-nang. Kỳ-thủy tôi mới định rằng hãy đến vấn kế ông anh nàng Lệ-cốt. Ông anh là một tay lõi ở đất Ba-lê, và tôi đã nhiều phen từng biết rằng ông anh được ăn chơi phỉ chí, không phải là nhờ có tư-bản, mà cũng không phải là trông vào mấy đồng lương của nhà-nước. Cũng may cho tôi, rờ đến túi còn sót độ hai-mươi bích-tôn. Tôi mới đến giơ tiền cho ông anh mà kể cho ông anh biết cái chuyện nhà mất trộm. Rồi tôi hỏi ông anh thử nghĩ xem một bên chịu chết đói với một bên đập đầu tự-tận, ở giữa hai phương đó, ông anh có biết phương nào diệu hơn thì mách bảo cho. Ông anh mới bảo tôi rằng đập đầu tự-tận là một phương-kế của đứa ngu-xuẩn. Nhịn đói mà chết, là một thế, không phải là một kế. Thế ấy gián hoặc cũng có kẻ trí-giả không dùng cho kiệt kỳ tài mà đến nỗi phải vào. Vậy thì tôi nên xét mình xem có thể thi được những tài gì, biết làm được những việc gì, nói ngỏ ra, rồi ông anh chỉ-giáo cho, giúp đỡ cho mà làm ăn nuôi lấy miệng. Tôi mới đáp rằng:

- Ông anh dạy thế, tiểu-đệ nghe khí viển-vông. Cái bệnh nguy của tiểu-đệ, là bệnh cần đến thuốc cấp-cứu. Em biết nói làm sao với Mai-nương bây giờ?

Ông anh liền ứng đối:

- Mai-nương à? khốn-nạn! phải lo gì đến Mai-nương? Công-tử đã có con em tôi ở trong tay, thì tôi tưởng còn có bao giờ phải lo gì nữa. Một gái như Mai-nương có thể nuôi được thân cho sướng, lại nuôi được cả công-tử với tôi, tha-hồ ba đứa cùng ăn chơi cho thỏa-thích.

Tôi nghe câu nói, lộn mấy khúc ruột, muốn mắng cho thằng đồ khốn mấy câu tàn-tệ, mà nó không để cho mình mở kịp mồm ra, nó cứ luôn miệng ca-tụng những tài-năng của Mai-nương, nói rằng nếu nó bảo tôi mà tôi biết nghe lời nó, thì trước khi trời tối, có nghìn ê-cưu mà tiêu ngay. Số là nó có quen một ông quan-lớn, hào-phóng đã nên danh trong chỗ làng chơi, được một gái như Mai-nương thì muôn nghìn nào cũng coi như đồng xu nhỏ. Sau tôi phải bắt nó im đi, mà bảo nó rằng:

- Tôi vẫn tưởng anh là người cũng khá. Tôi vẫn nghĩ anh có bụng thương-yêu đi lại với hai em là vì cảm-tình cao-thượng gì, chứ ngờ đâu bụng anh lại nghĩ điều đê-mạt làm vậy?

Nó cứ trơ mặt ra mà nói rằng xưa nay bao giờ nó cũng chỉ nghĩ có một điều như thế mà thôi. Em nó vốn là gái giang-hồ, may mà lại làm bạn được với tôi là người nó hâm-mộ đôi chút, cho nên dầu em nó đi với tôi là dại, mà nó cũng dung cho, những mong rằng rồi ra em nó cũng có ngày mở mắt ra, để cho anh được nhờ.

Tôi nghe nó nói trân-trân như thế, tôi mới vỡ ra rằng Mai-nương với tôi phải lừa nó. Tuy rằng lời nói như đâm vào tai, mà tôi nghĩ một câu mình vụng-dại, đương cần phải dùng đến nó, cho nên tôi cũng phải gượng cười hể-hả, mà đáp lại nó rằng:

- Kế ấy là kế cùng. Bất-đắc-dĩ lắm mới phải nghĩ đến, giờ anh có lối nào hay hơn, xin hãy mở ra cho.

Nó lại bảo tôi nhân người trai-trẻ, mặt mũi khôi-ngô, khá kiếm gái già nào có của mà nương-tựa. Kế ấy trước nữa lại càng mạt lắm, sau là phụ-bạc với Mai-nương. Tôi không thể theo được. Tôi mới hỏi nó xem trong cuộc đánh bạc, có cách nào dậy-hóa kiếm tiền, họa chăng tôi có liều được, nó cũng không đê-tiện cho cái thân danh tôi lắm.

- Đánh bạc cũng là một kế cứu cơ thật, nhưng hồ dễ đã mấy tay đánh bạc mà ăn được người. Vả nghề ấy phải học lâu mới thạo, mà lại phải tràng vốn mới mong lấy được của người. Ví nếu đem cái mong ước tầm-thường của những kẻ cờ bạc ngu-xuẩn mà vào đám đổ-bác, thì dậy-hóa chẳng thấy đâu, lại thấy thua nhẵn mấy đồng sót túi. Kể thì nhà cờ bạc khéo tay, cũng có mấy phương chữa được rủi may hồi vận, nhưng phàm cờ bạc gian, phải có vây-cánh, một mình mà đi dùng những cách ấy trong đám bạc, thật là một nghề nguy-hiểm. Còn một kế thứ ba nữa là kế đi đánh đâu có tụi, nhưng tôi coi chú còn nhỏ tuổi, vào tụi nào họ cho là bậc đi theo đóm ăn tàn, mà không được việc gì cho tụi. Tuy nhiên, để tôi cũng xin cất-nhắc cho chú. Mà chú có túng-bấn, tôi cũng sẵn lòng cấp vốn ra cho.

Tôi tạ ân mà lĩnh kế, chỉ xin ông anh đừng nói ngỏ cho Mai-nương biết chuyện mất tiền, và đừng cho biết những việc mới bàn nhau đó.

Khi tôi bước chân vào nhà gã, tôi đã lấy làm khổ-não trong lòng; khi tôi bước chân ra thì tôi lại lấy làm khổ-não hơn nữa. Nghĩ mà hối-hận sao mình lại đem việc kín của mình ra mà bàn với một đứa như thế. Những việc nó hẹn cùng tôi, toàn là những việc tôi không cần phải ngỏ tâm-sự cho nó biết, mới xin được nó cả. Mà tôi lại lo ngay-ngáy, không biết nó có giữ kín cho mình không, hay là câu chuyện mất tráp bạc, nó hẹn mình đừng tiết-lộ, rồi nó lại đi nói cho em nó biết. Mà cứ như lời nó đã nói ra miệng, thì tôi lại nên e điều nữa, là nó nhân cơ-hội này mà rủ-rê nàng đi theo khách nào lắm của, cho nó được nhờ, thì thật là trơ mắt tôi ra. Tôi lấy điều ấy làm nghĩ-ngợi, trong lòng bối-rối bời-bời, buổi sáng đã cực thân buồn-bã, buổi tối lại cực thân thêm. Đã có lúc tôi nghĩ đến mưu lừa cha lần nữa, viết thư về mà giả hàng thú tội, để lừa ông già lấy ít tiền sài. Nhưng nghĩ lại thì sực nhớ ra rằng lần thứ nhứt tội mình còn nhẹ, mà cha cũng đang tâm giam cầm mình trong sáu tháng trời ròng rã, huống chi lần này, tội nặng rành rành khôn chối, thì lượng trên dẫu sông biển đến thế nào, chắc cũng chẳng dung.

Tôi nghĩ quanh nghĩ quẩn như thế trong hồi lâu, thì nó kết-quả nên một điều, chẳng biết làm sao không nghĩ ra từ trước. Sao không đi cầu anh Tỉ-ba? Tỉ-ba là người bạn rất tốt, rất thảo của tôi. Người ta ở đời không cái gì thỏa sướng cho bằng những khi lâm nạn có được một nơi tin cậy, có thể vững lòng mà chạy đến ngửa tay, không sợ ai lừa đảo. Được, không, không, được, cũng chẳng ngại gì. Dầu chẳng có thể đỡ đần mình được, bạn cũng có một đôi câu thành-thực, đem ra mà vỗ-về lòng ta đau xót. Khi ta được một người bạn như thế, thì cái lòng ta, dẫu kín với khắp cả nhân gian, cũng phải mở ra trước người tri-kỷ, như là cái nụ hoa thơm gặp được hơi đầm-ấm mặt trời, nở nang ra trước ánh nắng vậy.

Tôi sực nhớ đến anh Tỉ-ba tôi như thế, cầm như có thần linh ủng-hộ. Tôi mới quyết nội ngày hôm ấy, đi tìm cho được cố-tri. Tôi về ngay nhà mà viết thư hẹn bạn đến một nơi nào. Tôi khẩn-khoản xin với bạn một niềm kín đáo, không ngỏ ra cho ai biết một li một đỉnh chuyện riêng tôi.

Tôi trông mong gặp được mặt bạn như thế, thì quên mất cả sự buồn. Vậy cũng là may, ví như không thì Mai-nương nhác nom bộ mặt tôi cũng đủ đoán ra hết cả. Khi tôi về thấy mặt nàng, thì tôi kể lại việc hỏa-tai, tôi nói là việc nhỏ mọn, nàng chẳng đáng lo phiền. Nàng đương thích ở Ba-lê, âu là xin cứ ở lì tại đó, chờ cho nhà cháy chữa lại xong đâu đó hãy về. Nàng thấy tôi khuyên ở lại Ba-lê, thì lại càng mầng rơn, mà không lo chi nữa.

Cách trong một giờ đồng-hồ, thì tôi được thư Tỉ-ba đáp lại, xin chịu lời dặn đến chỗ hẹn. Tôi vội vàng mà đến. Trời đất ơi! những nhìn mặt bạn đủ thẹn trăm chiều, còn mặt mũi nào mà thấy nhau nữa đây. Song phần thì tôi biết bụng anh tôi hà hải, phần thì việc nàng thế phải lo xong, nên tôi cũng mặt dạn mày dày mà vội-vàng đến trước bạn.

Hẹn nhau ở chỗ Công-viên, xóm Hoàng-thành. Tới nơi thì tôi đã thấy bạn rồi, bạn chạy lại ôm tôi mà hôn, nước mắt chứa chan, làm cho tôi ướt cả hai bên má. Tôi nói rằng tôi cũng biết tôi tìm đến bạn là dày dạn trăm chiều mà biết mình là đứa bội-bạc với bằng-hữu. Trước hết tôi e dè mà hỏi bạn chẳng hay tôi ăn ở đã ra như thế, thì lòng bạn còn có đoái thương nữa chăng? Bạn đáp rằng tình gắn-bó đã từ khi thơ-ấu thì dẫu sao dời vật đổi, bạn đâu có dám quên tôi. Bạn lại ra dạng âu-yếm nữa, mà nói rằng càng thấy nhau sa chân sẩy bước, lầm-lỗi dở-dang, nên nỗi phiêu-lưu cực-khổ, thì lại càng thương yêu không biết nói sao cho xiết. Nhưng trong tình thương yêu ấy, có lẫn đôi chút xót-xa, khác nào như khi nom thấy người yêu quí của mình, bước quá chân vào đến chỗ vực sâu, giếng thẳm rồi, muốn cứu vớt cũng không sao kịp nữa.

Hai anh em đến ngồi trên một tấm ghế. Tôi thở dài mà rằng:

- Anh ơi, ví nếu cái lòng anh thương em mà cũng to được bằng cái cơn sầu thảm của em, thì lòng thương ấy em cho là thái quá, người ta không ai thương nhau cho đến được độ ấy. Em phải ngỏ tâm sự cùng anh, thật là muôn phần hổ thẹn. Anh ơi, em mà đến nỗi này, cái căn duyên thật là ô xú, mà cái kết quả thật là buồn tênh! Dẫu anh chẳng thương em được đến như thế, anh biết ra, anh cũng phải ái-ngại trong lòng.

Bạn tôi bắt tôi thật tình mà kể hết cho nghe những nỗi phiêu-lưu từ ngày ở nhà dòng trốn ra thế nào. Tôi thật tình kể hết, không những tôi chẳng giấu-giếm nửa li, tôi chẳng tìm câu hoa mỹ nào mà nói cho nhẹ tội, tôi lại còn bày tỏ hết cho bạn nghe cái tình tôi với Mai-nương say đắm nhau đến thế nào. Tôi coi sự ấy như một cái duyên nợ của trời đã định, khuôn thiêng quyết hại một người, không để cho trí khôn ngoan nào phòng được trước; không để cho lòng đạo đức nào chống được sau. Tôi lại kể cho bạn nghe những nỗi phân-vân trong bụng, những điều lo nghĩ khổ tâm, cái cảnh cùng-bách của tôi lúc hai giờ đồng-hồ về trước, mà nếu bạn cũng bỏ tôi nốt không cưu, thì thế cùng-bách ấy lại càng thêm bĩ lắm. Tôi kể lể cho bạn nghe một cách thảm sầu, đến nỗi bạn cũng phải đau lòng khổ dạ như tôi vậy.

Bạn cứ ôm tôi mà hôn hít mãi mà an-ủy, mà khuyên ngăn. Tôi nghe chừng bạn tôi còn có hi-vọng phân rẽ được tôi với Mai-nương, tôi vội nói ngay rằng sự phân rẽ ấy là cái nạn to nhứt của tôi lo sợ đó. Vì tôi sợ phải phân-rẽ với nàng mà tôi phải mang mặt dày đến cầu bạn. Thà rằng sấm sét búa rìu, trăm chiều cực khổ, gì tôi cùng cam chịu, còn hơn là phải đến nước lìa nàng, vì một cái khổ ấy to hơn hết cả mọi nỗi cực khổ khác của tôi. Bạn tôi lại rằng:

- Ý anh thế nào, xin phân cho rõ, em nghe. Nếu em khuyên bảo điều gì anh cũng không chịu, thì chẳng hay anh cầu cứu ở em những cách gì?

Tôi vẫn chửa dám nói hẳn là tôi cần bạn giúp bạc cho tôi. Song lâu lâu rồi bạn cũng hiểu ra. Bạn mới hỏi tôi, thì tôi thú thật rằng quả ý tôi muốn thế. Bạn ngần ngại một hồi lâu, hình như người cân nhắc, rồi nói rằng:

- Xin anh chớ có đồ cho em nghe nói đến đồng tiền mà nguội-lạnh cái lòng yêu mến với anh đi đâu. Nhưng mà anh nghĩ ra xem có phải anh cần em một việc rất khó hay không? Không giúp anh thì ra vị tiếc đồng tiền để bạn van nài chẳng đắt, mà giúp anh ra, thì có phải cũng trái nghĩa bằng hữu hay không? Khiến cho anh ở mãi trong nơi hư dại, ấy lại chẳng như cùng với anh làm việc hư dại ra?

Bạn tôi nghĩ ngợi một lát, rồi lại nói rằng:

- Tuy vậy, em cũng còn nghĩ rằng có lẽ bởi anh quả đắm say, lại gặp lúc cơn đen vận túng, mà mất hết trí khôn không nghĩ được ra điều phải. Cổ lai muốn nom rõ chân lý, muốn biết rõ đạo-đức, trí khôn phải bình tĩnh. Giúp anh ít tiền tiêu, thì em tưởng em cũng còn phương sách. Vậy giúp anh thì em xin giúp, duy em chỉ xin anh có một điều là anh cho em biết nơi anh ở và anh cho phép em thử lấy lời hay lẽ phải mà khuyên nhủ cùng anh, họa may ra em có hạnh-phúc mà khiến được anh bỏ đường queo, đi đường thẳng. Em vẫn biết tính anh vốn ưa điều chính, chẳng may gặp bước say mê, mà anh bị lạc đó thôi.

Tôi thật lòng mà thuận hết với bạn, lại năn-nỉ xin cùng bạn thương hại cho tôi số phận chẳng ra gì, gặp được bạn hiền như thế, chỉ bảo cho những lời quí báu biết dường nào, mà tôi chẳng biết nghe. Bạn đưa tôi đến nhà ngân-hàng quen kia, ký văn-tự mà vay cho tôi một trăm bích-tôn. Bạn tôi vốn không làm gì có tiền sẵn. Nhà bạn thanh-bạch, tôi đã nói rồi. May có chỗ học-bổng (đồng niên một nghìn ê-cưu) mà bạn tôi chưa lĩnh đồng nào, cho nên đi vay được đắt.

Tôi ngẫm ra mới biết cái giá-trị việc bạn giúp tôi đó thật to bằng trời biển, lòng tôi cảm-động vô cùng, lúc ấy mới hối hận mình vì một việc đắm say, mà đã trái hết luân-thường đạo-lý. Trong lúc ấy thì cái đạo-đức của tôi hình như đè-nén được cái tình dục trong một lát. Trong phút đồng-hồ sáng mắt ấy, thì tôi nom thấy cái nhục, cái hèn, cái bất-cố liêm-sỉ, những muốn cựa mình bẻ xích mà ra cho khỏi nơi trói buộc. Nhưng sự lo nghĩ ấy, cơn lưỡng-lự ấy, chỉ một phút đã vội tan. Than ơi! ví dù tôi đã bước lên đến được tận trời, ngó xuống nom thấy Mai-nương là đủ ngã. Đến khi tôi về ở bên mình nàng, tôi sực nhớ đến câu tôi nghĩ-ngợi vừa rồi, thì tôi ngạc nhiên mà tự vấn, rằng tình âu-yếm phải lẽ dường ấy, người âu-yếm xứng đáng dường ấy, sao ta dám cho làm đáng hổ, dầu trong một phút, tội cũng to thay!

Mai-nương là một gái tính nết lạ lùng, thiên-hạ tôi chửa hề thấy ai không thiết tiền như ả. Những khi rồi dào thì thế, nhưng hồ gặp cơn túng bấn phải lo thiếu tiền, thì ả không ngồi yên được nửa phút. Vốn nàng là gái ăn chơi, cuộc vui đầy tháng trận cười hết năm, cứ luôn luôn miệt-mài trong cuộc vui chơi cho thỏa-thích. Vì nếu chơi mà chẳng mất tiền, thì chắc đồng xu nhỏ nàng cũng chẳng muốn. Người ấy không bao giờ tính toán xem lưng vốn nhiều ít còn bao; quí hồ trong một hôm nay ăn chơi có đủ thì nàng không bao nghĩ đến ngày mai. Cờ bạc không; những cách xa-xỉ hão thì chẳng thiết; nàng cũng không phải là một gái ăn chơi khó tính, quí hồ sớm tối lúc nào cũng kiếm cho nàng được cách tiêu-khiển hợp ý là đủ thỏa-thích. Nhưng mà người đâu tính-nết lạ dường, cả một đời là một cuộc vui; động kém vui, thôi thì tâm tính tự-nhiên đâu mất hết. Nàng yêu-mến tôi thì yêu-mến thật, thường nàng vẫn nói duy với tôi nàng mới hưởng được một cách hoàn-toàn mọi điều lý-thú của cuộc thương yêu. Tuy vậy, mà tôi dám chắc có mấy thứ lo-sợ khiến cho tình kia đương thắm phải phai. Ví-dù trời cho tôi hết kiếp cứ được phong-lưu túc dụng, đủ chi cấp cho nàng được ăn chơi thỏa-thích, thì tôi chắc rằng trong thế-giới nàng không còn yêu cái gì hơn tôi nữa. Nhưng phải khi túng-bấn, mà tôi chỉ còn có tấm lòng yêu-mến, có tấc dạ thủy-chung, để cho nàng nữa mà thôi, thì tôi chắc rằng bất cứ anh phú-hộ nào nó gật nàng đi, nàng cũng bỏ trơ tôi lại đó.

Tôi bèn quyết định từ nay việc tiêu riêng của tôi thì hết sức dè-dén, để tiền mà chi các món vui chơi của nàng cho dư-dật. Khoản nên lo nhứt là cỗ xe song-mã. Tiền trữ có bấy nhiêu phỏng nuôi sao cho được hai con ngựa với một tên thị-mã.

Tôi đem nỗi lo-phiền ngỏ cùng ông anh Lệ-cốt. Tôi cũng nói thật rằng nay gặp bạn thân cho tôi một trăm bích-tôn.

Bấy giờ ông anh bèn nhắc lại câu chuyện hôm trước, muốn vào cánh với bọn con bạc giỏi, chịu phí chừng trăm phật-lăng, làm một bữa tiệc giới-thiệu, nhiên-hậu theo họ vào sòng, dậy-hóa có lẽ cũng nổi được cơ-đồ. Tuy tôi tánh vốn thật-thà, xưa nay không lừa-đảo ai, khi ấy gặp cơn thế bất-đắc-dĩ, nó bảo làm sao cũng nghe làm vậy.

Ngay tối hôm ấy, anh Lệ-cốt đem tôi mà giới-thiệu với lũ cờ-bạc láu, nhận tôi là người tộc-thuộc, lại nói rằng tôi đương phải lúc vận cùng, anh em cho vào nhập bọn, có lẽ lính mới cũng chẳng phụ cơm làng. Phương-ngôn thường nói: Cùng tắc biến, biến tắc thông. Ông anh lại còn khéo tán-tụng rằng: cùng cũng giăm bảy thứ cùng; cái cùng của tôi không phải là cái cùng kẻ thất-phu. Dẫu lưng đã cạn, cũng còn đặt nổi tiệc lớn, mời cả anh em trong bọn. Khách nhận lời. Tiệc bày rất lịch-sự. Trong khi ăn uống, ai nấy ngắm diện-mạo tôi mà khen lấy khen để, rằng tráng-kiện, rằng thông-minh, rằng anh em nhiều điều hy-vọng. Người này diện-mạo thật-thà, chắc hẳn đám nào cũng lọt, chẳng ai mà nỡ nghi-ngờ. Sau họ cám ơn ông Lệ-cốt đã đưa cho bọn được tên lính mới có tài, rồi họ lại cử một người trong bọn để dạy tôi trong một hai hôm, cho thuộc những ngón cờ gian bạc lận. Họ giao cho tôi đi kiếm riêng một sòng Mỗ. Sòng ấy đánh đủ các thứ. Vốn là của ông Hoàng-thân Mỗ mở ra lấy lợi, mà phần nhiều những quan hầu của Hoàng-thân vương lại vào bọn với chúng tôi.

Trời đất ơi! nói ra mình lại thẹn mình! Những phép lạ của chúng dạy tôi, chẳng bao lâu mà tôi thông-thuộc hết. Này là những nước bốc con trên, không bốc con dưới; con xấu gảy đi, con tốt giữ lại; cổ tay áo rộng giấu từng nửa cỗ bài, cũng không ai biết. Bộ mặt lại hiền-lành ngay-thật, còn ai mà dám hồ-nghi. Tài lạ ấy đem ra thi-thố, chẳng bao lâu mà thời-vận đã thấy lên, chỉ trong hai ba tuần-lễ, trong tay đã thấy muôn vàn, ấy là không kể những số phải quân phân cho cả tụi.

Bấy giờ tôi mới dám nói thật với Mai-nương cái chuyện mất tiền ở Chaillot bữa nọ. Tôi e nàng biết tin ấy mà buồn, tôi bèn kiếm cớ an-ủy; tôi mới gạn thuê cho nàng ở một cái nhà lịch-sự, đủ đồ bày-biện trang-hoàng.

Trong khi ấy, thì anh Tỉ-ba thường thường vẫn lại thăm tôi. Vẫn cứ những lời đạo-đức, những cách khuyên-ngăn, ở đâu mà tuôn ra hết giờ này sang giờ khác. Bạn tôi luôn miệng bảo tôi rằng ăn ở như thế, trước nữa tủi cho lương-tâm, sau nữa thiệt cho danh-giá một đời, và uổng mất một phận làm trai, không còn có hi-vọng nào ngày sau nữa. Bạn tôi khuyên dỗ tôi thế, tuy rằng trong bụng tôi vẫn định không nghe thí nào cả, nhưng tôi cũng làm mặt ân-cần tử-tế mà để cho bạn tôi nói. Tôi biết bạn tôi thật có lòng thương-yêu tôi mà ra riết khuyên-ngăn tôi như thế, chứ không phải là vì lẽ tư kỉ hoặc là làm bộ mà nói, cho nên tuy tôi không ăn lời mà trong lòng tôi cũng hơi hơi cảm-động. Cũng có hôm thì tôi lại nói dỡn bạn tôi ở trước mặt Mai-nương và tôi khuyên bạn chớ nên đạo-đức quá người đi tu như thế, nhiều bậc linh-mục, giám-mục cũng còn nhân-ngãi sờ sờ bên cạnh. Rồi tôi lại trỏ hai con mắt Mai-nương mà bảo bạn rằng:

- Đại-huynh tính hai con mắt kia, em đây vị nó dầu có phạm đến đại tội làm sao, mà Chúa trời lại chẳng tha-thứ.

Bạn tôi dẫu tức đầy ruột cũng cứ gượng cười. Nhiều khi bạn tôi còn nhẫn-nại được thế khác nữa. Nhưng đến khi bạn tôi thấy tôi tiền của mỗi ngày một lắm, chẳng những chỗ tiền bạn cho tôi vay, tôi đã trả xong, mà tôi lại còn mướn một cái nhà lầu lịch-sự, ăn tiêu thêm một gấp hai ngày trước, sự chơi-bời vui-thú cứ luôn luôn mài-miệt, bấy giờ bạn tôi không thể kiên-nhẫn tươi cười với tôi được nữa, bạn tôi bèn giở mặt cau-có nghiêm-khắc, mắng tôi gan lim dạ sắt, nói làm sao cũng cứ dửng-dưng; bạn tôi dọa hết tội âm, rồi bạn tôi dọa đến tai-ách nhỡn tiền. Phần nhiều những điều bạn tôi đe dọa tôi như thế, về sau quả thị sinh ra. Một hôm sau rốt bạn tôi giận quá mà rằng:

- Tôi xét ra những tiền của mà anh tiêu dùng cho thỏa-thích bây giờ đó chắc không phải là của nhân-nghĩa mà kiếm ra. Anh làm điều bất-nhân mà kiếm được của ấy, thì rồi có ngày anh cũng bị kẻ dùng cách bất-nhân mà lấy lại của anh thôi. Vì nếu Chúa Trời lại để cho anh được ở yên mà hưởng cái của phi-nghĩa ấy, thì thật là Chúa đã trừng phạt anh đến cách cực nghiêm. Bao nhiêu những lời tôi đem ra khuyên bảo anh đều bỏ cả ngoài tai. Tôi cũng biết giờ anh còn đút-nút tai chịu chuyện, ít nữa rồi đến anh nhìn mặt tôi bận mắt, nghe lời tôi ói tai. Thôi thì tôi từ-giã anh ở lại. Tôi ước-ao rằng những cuộc vui-thú có tội của anh, có ngày phúc cho anh mà tan cả đi như cuộc chiêm-bao. Tôi cầu-nguyện làm sao cho những tiền bạc xú uế của anh có một ngày kia nó đi đâu hết, để trơ anh ra như con nhộng, bấy giờ thì họa may anh mới hiểu được cái hư-vô của những sự vui-thú nó đương làm cho anh say-đắm bây giờ. Đến lúc ấy thì họa may tôi lại sẵn lòng yêu-mến anh và giúp-đỡ anh. Ngày nay thì tôi với anh phải tuyệt-giao, mà tôi phải nói cho anh biết rằng tôi coi cái cách anh ăn ở bây giờ là đê-nhục lắm.

Bạn tôi giảng cho tôi mấy lời đạo-đức ấy ở trong phòng tôi, lại có cả Mai-nương cũng ngồi đó. Nói xong rồi, bạn đứng dậy đi. Tôi toan chạy theo giữ lại, Mai-nương nắm lấy tôi mà bảo bạn tôi là thằng rồ, để nó đi đi cho rảnh. Tuy nhiên, tôi nghe mấy lời nói, trong lòng cũng thấy chuyển động. Nhân đó tôi mới biết ra rằng thỉnh-thoảng cũng có lúc lòng tôi còn hồi tỉnh lại, mà về sau này, trong những cơn khổ não thứ nhứt, tôi còn đủ sức đương được nổi với nỗi sầu, cũng là bởi tôi sực nhớ đến cái năng-lực hồi-tỉnh của lòng tôi đó.

Nhưng hôm ấy tôi có buồn-rầu về mấy lời nói dỗi của bạn, cũng không buồn-rầu được lâu, Mai-nương khéo vuốt-ve tôi thế nào, chỉ trong một lát là quên hết cả từ bạn cho đến lời khuyên-ngăn của bạn. Từ đó hai đứa cứ việc mà ăn chơi cho thỏa-thích, cùng nhau dắt-díu đi hết đám tiệc này, đến đám hội khác, cờ bạc chán rồi, đến đàn hát nhảy múa, xong rồi lại đưa nhau về mà hú-hí với nhau. Tiền bạc thì tha hồ mà xài phá, hồ hết lại có, một canh bạc đủ tiêu hàng tháng, mà đồng bạc dồi-dào thì bể ái cũng đầy luôn. Hai bên chỉ những chiều nhau nịnh nhau mà hết ngày hết tháng. Chắc hẳn trong đám nô-lệ của Ái-tình-thần và Hạnh-phúc-thần, không có hai đứa nô-lệ nào sướng cho bằng nàng với tôi. Có lúc sướng quá tôi phải kêu lên: Trời hỡi! thế-gian có những cảnh vui-thú dường này, sao có kẻ dám kêu là nơi trần-lụy. Than ôi! hay đâu cuộc vui ngắn-ngủi. Ví nếu đã vui mà lại lâu dài thì thiên-hạ hà tất còn phải ước-ao cuộc vui nào khác nữa. Bởi thế cái tiết vui của hai chúng tôi rồi sau cũng nên một số-phận với tiết vui của mọi kẻ ăn chơi khác, không bao lâu mà hết, đã hết lại còn trăm thứ ân-hận đắng-cay theo đàng sau nữa.

Tôi đánh bạc thì được nhiều lắm. Đã toan đem một phần tiền được bạc ấy mà sinh tức. Mà tôi được bạc bao nhiêu, đứa ở thường biết hết, nhứt là thằng hầu phòng của tôi và con thị-tì của Mai-nương; bởi vì chúng tôi thường hay vô ý, có mặt chúng nó, cứ tự-tiện mà nói chuyện với nhau những việc cờ bạc. Con bé thì xinh, thằng hầu tôi phải lòng nó. Hai đứa thấy chủ còn nhỏ tuổi, tính khí lại dễ-dãi, muốn lừa lúc nào mà chẳng được. Chúng bèn nghĩ ngay kế phản chủ, làm cho một mẻ khánh kiệt, từ đó trở đi lụn bại, không bao giờ chúng tôi còn ngoi-ngóp trở dậy được nữa.

Hôm ấy, ông anh Lệ-cốt cho hai em ăn cơm tối, mãi đến nửa đêm mới về. Về đến cửa tôi thì gọi thằng hầu, nàng thì gọi con đỏ. Gọi mãi chẳng thấy đứa nào thưa hết. Hỏi người ở chung nhà, thì họ nói chúng nó đi đâu từ tám giờ tối, khuân những mấy cái rương đi, họ hỏi thì chúng nó nói rằng ông chủ bảo khuân đồ ấy đi đàng này đàng nọ.

Tôi cũng đã đoán ra một góc chuyện rồi, nhưng lòng tôi dẫu hồ-nghi đến đâu, sự hồ-nghi ấy cũng chưa bằng cái cảnh-tượng lúc tôi bước vào đến phòng ngủ. Khóa cửa thì bị nó bẻ gãy: tiền-bạc, sống-áo thì bị nó lấy sạch, không còn lấy một thí gì. Trong khi tôi đứng một mình ngẫm nghĩ về việc ấy, thì Mai-nương hốt-hoảng chạy vào mách tôi bên buồng nàng cũng bị chúng phá cửa vào lấy sạch.

Cái tai-vạ ấy tôi lấy làm một tai-vạ đau đớn cho tôi vô cùng, phải gắng hết sức mới nhịn được kêu được khóc. Tôi e rằng mình mà phẫn chí ra mặt, thì nàng không biết thiểu-não đến thế nào, cho nên tôi phải cố nén lòng, làm cho lấy được bộ mặt ung dung mà hẹn với nàng rằng một canh đủ kéo lại, hà tất phải kêu ca. Nhưng tôi nói làm sao thì nói, nàng cũng không nguôi được lòng tiếc của, mà cái vẻ buồn của nàng nghe như sức truyền nhiễm sang tôi lại mạnh hơn cái vui gượng của tôi, tôi cố gắng khiến cho nàng vui lây mà không được. Sau nàng đầm-đìa nước mắt mà rằng: “Đôi ta phen này thì chết mất!” Tôi cạn lời tán-tỉnh, hết cách nâng-niu, mà cũng không công hiệu chi hết. Vả tôi miệng gượng cười, mà nước mắt vẫn vòng quanh, tự mình lại tiết lộ cái nỗi thất vọng của mình ra. Mà ngẫm cho chín, thì tình cảnh thật là vô khả-nại: Cờ-bạc gian dẫu là nghề bở, song cũng phải tràng lưng vốn; mà ta nay cái áo lót mình cũng không còn sót trong nhà. Tàn nhẫn thay đứa kẻ trộm, lấy từ cái giẻ rách mà đi.

Tôi cho đi mời ông anh Lệ-cốt đến thì ông anh mách tôi nên đi trình quan phó cảnh-sát rồi lại đi trình quan chánh cảnh-sát ở Ba-lê. Tôi dại đi nghe câu ấy, bởi vì trong khi tôi mất thì giờ vào sở này ra sở nọ để khai báo nọ kia, thì ông anh ở nhà gạn-gùng ngay với cô em cho Mỗ công là người già cả mà còn đam mê sắc-dục, được gái tốt bao nhiêu tiền cũng không quản. Ông anh khéo dỗ-dành cô em thế nào, vả Mai-nương lại đương gặp lúc cơn đen vận túng, anh bảo sao nghe vậy. Trước khi tôi về, giao ước đã ký hết xong, định đến sáng hôm sau thì thi-hành mọi khoản.

Tôi về đến nhà thì thấy ông anh đã chờ đó. Còn Mai-nương thì thấy nói nằm nghỉ trong phòng, lại dặn thằng ở mới, hễ tôi có về thì nói cô tối nay nhọc mệt, xin thầy để yên cho cô nghỉ đừng vào. Ông anh đưa cho tôi mấy đồng bích-tôn gọi là anh em tư giúp, rồi từ giã mà đi.

Khi tôi lên giường đi nằm, bấy giờ đã gần bốn giờ sáng. Tôi chưa ngủ được ngay, còn nghĩ lẩn-thẩn mãi, còn lo lắng những cách kéo lại chỗ của mất đi rồi, té ra sáng bạch mới ngủ, chừng mười-một mười-hai giờ mới trở dậy. Vội-vàng chạy sang hỏi thăm nàng mạnh-khỏe làm sao, thì đứa ở nói rằng ông cậu đem xe ngựa thuê đến đón cô đi đâu đã cách một giờ. Tuy rằng việc ấy khả nghi, song tôi cũng cố nén lòng không nỡ nghi-ngờ chi vội. Tôi kiếm sách ngồi xem trong mấy tiếng đồng-hồ. Sau không thể nào nén được cái nỗi lo sợ nữa, tôi bèn vứt sách mà đi bách bộ trong các phòng. Trợt bước vào phòng nàng, tôi nom thấy một phong thư niêm kín, để trên một cái bàn. Nhìn đề thì là thư gửi cho tôi, mà nét chữ thì là nét chữ nàng. Tôi rợn gai ốc, mà mở ra coi, thư rằng:

“Vũ-sĩ ơi, thiếp thề rằng vũ-sĩ là thần là trời của lòng thiếp kính thờ, khắp trong thiên-hạ duy chỉ có vũ-sĩ là thiếp mới thương-yêu được đến như thế. Nhưng vũ-sĩ ơi, vũ-sĩ há lại không xét, trong cái cảnh khổ-não của đôi ta, chữ trinh-tiết lại chẳng là một cái đức ngu-xuẩn lắm ru! Vũ-sĩ thử ngẫm xem, bụng lép mà ngồi yêu nhau sao cho được. Thiếp e rằng trong nỗi cơ-hàn, có ngày kia thiếp lẫn cái nấc yêu với cái nấc chết, thở dài một tiếng, ngỡ là âu-yếm vũ-sĩ mà thở dài, lại hóa ra tiếng thở hắt ra sau cùng, thì chẳng cực phận lắm ru! Vậy thời thiếp yêu chàng quí chàng, điều ấy xin tin lời thiếp. Nhưng trong bước túng, xin chàng buông rộng thả dài cho thiếp lấy ít lâu, để thiếp cố ra tay chống đỡ lấy cơ-đồ đổ nát. Hại thay cho đứa vô phúc nào mà chạm lưới mắc dây của thiếp! Thiếp ra công gây dựng lấy giang-sơn, để cho vũ-sĩ yêu của thiếp được giàu có, thỏa thuê mọi cách. Anh thiếp sẽ thông tin của thiếp cho chàng và sẽ nói cho chàng biết rằng thế thiếp phải ra đi như thế này, trăm đắng nghìn cay, nước mắt thành sông thành suối, chứ nào có sướng gì đâu. Xin chàng chớ vội vu cho bội bạc.”

Tôi đọc xong cái thư ấy, trong lòng cảm-động một cách lạ-lùng khó mà tả ra cho rõ được. Đến ngày nay tôi hồi tưởng lại, tôi cũng còn chưa biết đích cái tình-cảm của tôi trong lúc bấy giờ là thứ tình-cảm gì. Người ta trong một đời dễ mấy chốc đã gặp những cảnh-ngộ như thế. Mà có gặp chăng nữa, cũng là một việc hãn-hữu, trong một đời gặp phải có một lần mà thôi, không có sự trước mà so sánh được với sự sau, không lấy đâu được cảnh người mà so-sánh được với cảnh mình. Cho nên tôi cũng biết rằng tôi cố tả ra đó thôi, chứ người khác cũng không ai lấy ý-hội được cái tình cảnh của tôi khi ấy là ra làm sao. Đại-cương nói rằng trong lúc đó tôi vừa đau, vừa tức, vừa ghen, vừa thẹn mặt. Mà chết một nỗi lại cũng vẫn còn nhiều ít tình thương nhớ, chứ nếu chỉ đau, chỉ tức, chỉ ghen, chỉ thẹn mặt mà thôi, thì cái tình-cảnh nó cũng không não-nùng cho lắm.

Nàng yêu tôi, câu ấy thì tôi muốn tin là thật. Thường tôi vẫn kêu lên rằng có họa nàng là đồ yêu-quái thì mới nỡ lòng ghét tôi. Phàm bao nhiêu quyền lợi của người đàn-ông mà có được ở trong lòng người đàn-bà, ấy là tôi có hết ở lòng nàng rồi. Ừ mà thử nghĩ xem, tôi đã vì nàng mà thí bỏ đi biết bao nhiêu điều quí-báu, ví dù có muốn vị nàng mà làm điều gì to-tát hơn, cho đủ chứng cái lòng mến yêu, tưởng cũng không thể nghĩ ra được điều gì mà làm nữa. Thế mà nó bỏ mình nó đi. Nó tưởng nó nói với mình một câu rằng bao giờ nó cũng vẫn yêu mình là xuôi được hết! Nó lo đói! Hỡi hỡi Chúa Trời chứa chan ân-ái! có nước đời nhà ai mà lại cảm những tình thô-tục như thế không? Mình yêu nó thì mình cảm những tình rất tao-nhã, lựa lấy góc lòng nào mềm-mỏng êm-dịu nhứt mà để cái thương-yêu, sao nó nỡ đối-đáp với mình như thế! Mày nói mày sợ đói! Mày có thấy tao sợ đói bao giờ không? Tự tao, tao bỏ của, bỏ nhà, bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ chỗ no ấm, bỏ danh phận, bỏ cho đến cả những sự thiết-yếu đi, để mà đi theo mày, để chiều mày từng cái dở-hơi mà chiều đi! Mày nói mày yêu tao, mày thờ tao. Nếu thật lòng mày yêu tao, thì việc gì mày cũng phải hỏi tao trước đã chứ, sao mày đi mày chẳng nói trước với tao nửa lời. Mày há lại không biết tao đây là đứa đã từng trải cái đau li-biệt hơn cả. Mày có hỏi tao, thì tao cũng bảo mày rằng ở đời đã yêu nhau, đến cái li-biệt là thảm nhứt. Duy những đứa cuồng-dại đã mất trí khôn, mới không chờ đến nước bất đắc dĩ, vội cam lòng mà chịu biệt-li.

Tôi đương than thân như thế, thì thấy chàng Lệ-cốt vào. Lúc ấy tôi không ngờ gã dám vác mặt đến trước tôi. Tôi vừa thấy nó bước vào tôi tuốt ngay gươm, nhảy xổ ra đón nó mà quát tháo hỏi rằng:

- Thằng độc-ác kia, Mai-nương đâu? Mày đem em mày đi đâu rồi?

Thằng cha thấy tôi làm hung-tợn như thế thì cũng khiếp-đảm. Nó mới run sợ mà bảo tôi rằng:

- Tôi đến đây là đến báo tin mầng cho chú, những tưởng chú tiếp-đãi tôi thế nào, nếu chú tiếp tôi như thế, thì chú để tôi xin chỗi, từ rầy không bao giờ tôi còn bước chân vào đây nữa.

Tôi chạy ngay ra cửa vào mà đóng chặt lại, rồi tôi quay mặt vào thằng Lệ-cốt mà bảo nó rằng:

- Mi chớ tưởng lần này mi lại dối được ta nữa đâu. Thôi, một đàng mi đưa ta đi tìm cho được Mai-nương; một đàng ta cho phép mi đi tìm khí-giới mà bảo-thủ lấy mạng cho ta giết.

- Thì hãi để yên nào. Chú này mới nóng nảy sao! Tôi đến đây là đến để báo cho chú hay một tin may-mắn lạ dường, chắc vạn đại không bao giờ chú dám ao-ước đến. Nay chú mà được thế, cũng nhờ ơn tôi.

Tôi thét bắt nó phải nói đầu đuôi cho tôi nghe tức-thì. Nó mới kể với tôi rằng em nó nhân bị việc mất trộm, lo phen này nghèo khổ đói rách, mà lo nhứt là phải đổi cách ngựa xe đài-các xưa nay, nên chi có cầu nó làm mối cho một ông Mỗ Mỗ phú-hộ kia, có tiếng là người hào-phóng lắm. Nó không dám nói với tôi rằng chính nó gạn gùng với Mai-nương trước, và mọi việc đưa dắt nàng đi, là do ở nó cả. Nó xưng xưng mà tân-công rằng:

- Sáng nay tôi đưa nó đến cho lão phú-hộ, lão thấy người, thấy nết con bé, lão thích mê ngay đi, mà mời về ở nơi biệt-thự nghỉ mát với lão trong mấy ngày. Tôi thoạt đánh hơi, đã biết đó là một nơi béo bở cho chú, tôi mới khéo nói bỏ-nhỏ với lão một câu rằng: Tội-nghiệp! con bé có bao nhiêu vừa mất trộm ráo. Lão thương tình, hôm đầu mở hàng ngay cho nó hai trăm bích-tôn. Tôi lại nằn-nì với lão rằng: hai trăm bích-tôn vừa ứng dụng cho cô nó trong buổi đương thời mà thôi, còn hậu-nhựt của cô nó, phú-ông đã có lòng đoái mến, thì xin nghĩ xa một chút cho cô nó được nhờ về lâu dài. Vả cô nó lại còn một thằng em út, cha mẹ chết cả, giờ chị phải nuôi. Nếu phú-ông có lòng quyến-cố thì đã thương chị, xin chớ bỏ em. Tôi nói khéo thế nào, thấy lão rầu rầu nét mặt, chừng như cũng cảm chút tình thương, lão bèn hẹn với tôi rồi xin thuê một nhà riêng để cho chú với cô nó ở, vì chính chú là cái thằng em út mồ-côi đó. Lão hẹn rằng cho nhà ở, lại sắm đồ đạc cho đủ thử, rồi cứ ba tháng lại đãi cu-cậu một kỳ lãnh bổng mỗi tháng là 400 phật-lăng là đi mỗi năm 4.800. Trước khi lão về nhà quê, tôi đã nghe thấy lão dặn bảo người quản-gia tìm nhà và sắp đặt như thế, để khi lão về thì sẵn-sàng hết. Vậy thì Mai-nương rồi chú lại được gặp. Nó có bảo tôi hôn hộ chú cho nó một nghìn lần, và nói để chú biết rằng bây giờ nó lại càng thương-yêu chú lắm.

Tôi ngồi phệt xuống mà nghĩ ngợi về cái cảnh-ngộ của họ xếp danh-phận cho tôi như thế. Trong lòng tôi phân-vân không biết bao nhiêu thứ tư-tưởng, mà mọi nỗi khó khăn, rất là khôn bề quyết đoán, khiến cho tôi phải bóp đầu gò óc mà nghĩ cho ra, đến nỗi Lệ-cốt hỏi dồn tôi đến chín mười câu, mà tôi không đáp lại. Trong lúc ấy thì cái danh-tiết của tôi, cái lương-tâm của tôi, làm cho tôi hối hận vô cùng; nghĩ đến phận như kim châm vào từng khúc ruột. Tôi mới hồi tưởng đến những ngày còn đi học ở A-miêng, nhớ đến chỗ sân nhà cha mẹ, đến chỗ tràng nhà dòng Thánh Xung-bích, thì lại ngậm-ngùi tiếc những thuở thơ-ấu, những lúc mình còn chay lòng sạch dạ, hớn-hở vẻ-vang. Trời đất ơi, từ nơi ấy mà cho đến bây giờ, xa cách nhau biết mấy vực sâu. Hồi đầu mà vọng tưởng đến, nó tít mù đâu ở tận nẻo xa, tự hồ một cái bóng mát từ sớm ngày của người khách qua đường sa-mạc đã quá trưa còn nhớ đến, khiến cho tiếc, cho nhớ, cho thèm, cho khát, mà không đủ sức đi trở lộn lại nữa. Than ôi! Chẳng hay trời kia ghét bỏ, đã giun giủi làm sao, mà tôi con người căn do như thế, bỗng hóa nên một đứa tội lỗi thế này. Ái-tình xét ra cũng là một cách cảm-động rất bình-dị của lòng người ta, chứ có phải là một sự dâm-bôn xú-uế gì đâu. Sao riêng cho một mình ta, nó lại hóa ra một cái nguồn khổ-não, một sự trái luân-thường? Vì đâu mà ta không được cùng Mai-nương yên hưởng cái hạnh-phúc ái-ân như thể mọi người? Sao trước khi cùng nàng chăn-chiếu, ta lại không cùng nàng kết hôn-nhân như mọi kẻ khác? Cha ta vốn vẫn yêu ta, ví dù ta cứ lẽ phải mà nằn-nì xin phép cưới, thì chắc rằng cha ta cũng cho lấy; mà nàng như thế, cha ta sao lại chẳng thương-yêu như con đẻ vậy? Như thế thì có phải thuận trên hòa dưới, thiên-hạ công nhận cho đôi ta là cặp vợ chồng bách niên giai lão, cùng nhau lập nghiệp sinh-cơ, vẻ-vang sung-sướng biết là chừng nào! Bởi tôi với nàng lấy nhau không theo một lệ ấy mà nay đến nỗi này, đã cực chưa! đã sầu-thảm chưa! Bây giờ nó đến nó bảo tôi đi đóng một cái vai hề mặt mo làm vậy. Biết tính sao đây? Chết nỗi! Thân-danh ta như thế này mà đi chia dôi… Nhưng mà ngẫm một câu việc này bởi tại ý nàng trù tính, nếu ta không thuận thì từ nay sao cho thấy được mặt nàng nữa đây? thì lại không dám rụt rè li đỉnh nào nữa… Bấy giờ tối mới nhắm mắt lại, hình như để cho khỏi nom thấy những lẽ phân vân vừa kể, mà tôi đánh bạo nói quả-quyết với gã Lệ-cốt rằng:

- Thôi, ông anh ơi, nếu có phải ông anh đã vị đệ mà lo loan các việc như thế, thì đệ cũng xin cảm-tạ ông anh. Giả sử ông anh chịu chọn một cách giúp em nó tử-tế hơn một chút, thì tưởng như cũng được. Song việc là việc dĩ nhiên mất rồi, có phải không? Âu-là ông anh đã xếp, em xin bái lĩnh, ông anh đã hẹn làm sao, cứ thế mà làm đi cho.

Lệ-cốt trước thấy tôi nổi giận, rồi lại thấy tôi tần-ngần trong giờ lâu như thế, đã lo không biết việc này vỡ lở ra làm sao, sau thấy tôi hiền-từ mà đáp lại như thế, cũng ngạc-nhiên mà lại mầng thầm. Hắn tuy là nhà võ-sĩ, mà bề can-đảm nghe như kém nhứt. Về sau này còn nhiều dịp biết cái hèn nhát của nó. Khi ấy nó thấy tôi chịu, thì nó mầng lắm, vội-vàng bảo tôi rằng:

- Vâng, chú coi đó thì biết rằng tôi hết lòng giúp chú. Mà rồi ra chú mới biết rằng món này là món bở.

Tôi bàn bạc với nó về cách làm để cho Mỗ Mỗ phú-hộ khỏi nghi-ngờ, bởi vì nó bảo tôi là em út của Mai-nương, mà mặt tôi thì nom già hơn nàng một chút. Nghĩ mãi chỉ có một phương là khi nào tôi đến trước lão thì tôi làm ra bộ thật-thà, quê-kịch, và khiến cho lão tưởng là tôi chuyên một việc tôn-giáo, để đi tu-hành, ngày nào cùng vào tràng học-tập. Hai đứa lại tính với nhau rằng lần đầu tiên tôi vào chào phú-hộ, tôi ăn-bận cho xốc-xếch.

Cách ba bốn hôm, thì quả phú-hộ từ nơi biệt-thự trở về nhà ngoài phố. Phú-hộ thân đưa Mai-nương đến chỗ nhà mới mướn. Nàng sai người báo tin trước về cho anh biết, Lệ-cốt lại báo cho tôi, rồi tôi cùng gã đưa nhau đến đó. Tới nơi thì lão phú-hộ đã đi về khỏi rồi.

Tuy lòng tôi đã quyết định phen này nàng bảo tôi làm sao, tôi cũng cứ nhắm mắt cúi đầu mà làm vậy rồi, nhưng tôi nom thấy nàng thì ruột tôi nó lại sôi lên sùng-sục, lương tâm mình tự-hồ nó mắng nó nhiếc mình ri-rỉ ở đâu trong lòng, không thể sao mà ngăn-giữ được vẻ mặt cho khỏi buồn-rầu. Tưởng là mất mặt nàng rồi, bỗng đâu lại thấy, mầng thì mầng thật, nhưng cái mầng ấy bõ làm sao cho được cái tủi bị nàng bỏ trơ ta lại đó mà đi theo người khác. Còn nàng thì chẳng biết cái gì là cái buồn cả, vẻ mặt cứ tươi hớn-hở, mầng rằng lại thấy mặt tôi, rồi lại trách tôi sao nguội-lạnh. Tôi thể chẳng [chẳng thể] cầm lòng được, phải mắng, phải trách nàng tệ-bạc vô-tâm, cứ mỗi câu tôi lại thở dài thở vắn.

Kỳ-thủy nàng còn nhạo tôi, bảo tôi là đứa quê-mùa, đeo chi những thói ghen-tuông tầm-thường. Sau nàng thấy tôi cứ nước mắt vòng quanh mà nhìn nàng trô-trố, mà áy-náy khó chịu cái cảnh ngược đời, trái hẳn với tính-nết mình xưa nay, và không hợp với ý mình một chút nào cả, thì nàng đứng phắt dậy mà đi vào phòng một mình. Được một lát, tôi cũng theo nàng vào, thì tôi thấy nàng ràn-rụa nước mắt. Tôi hỏi vì đâu mà khóc, thì nàng rằng:

- Vì đâu thì chàng biết, lựa còn phải hỏi. Chàng cách-biệt ta trong bấy ngày chầy, nay nhìn thấy ta, cái mặt cứ rầu-rầu như kia, thì phỏng ta sống làm sao được! Từ lúc chàng vào đây đến giờ, đã vừa một tiếng đồng-hồ, mà chàng chưa vuốt-ve ta, chưa hôn-hít ta một thí nào cả. Ta hôn-hít chàng thì chàng nguội-lạnh đài-các mà thâu nhận, khác nào như vua Thổ-nhĩ-kỳ ở giữa đám cung-nữ chưa?

Tôi nghe nàng nói thì tôi ôm lấy nàng tôi hôn mà rằng:

- Mai-nương ơi! Ta chẳng giấu gì Mai-nương. Cái ruột ta bây giờ như xâu, như xé, như lửa cháy, như than vùi, tưởng chừng như chết ngay đi được, không phải là vì cái tội Mai-nương bỏ trơ ta đó đi mà đi, không phải là vì cái sự Mai-nương đang tâm mà bỏ ta chăn đơn gối chiếc, lạnh-lùng trong bấy nhiêu ngày ta mà đi ôm-ấp với người ta ở trong giường kẻ khác. Những tội vặt ấy, tưởng dầu nặng đến thế nào, ta nom thấy cái mặt Mai-nương cũng đã đủ mà nguôi giận. Nhưng mà có lẽ đâu ta lại không thở vắn than dài, ta lại không xùi-xụt rỉ-rên - chỗ này tôi vừa nói vừa khóc xụt-xịt - mà đi cam nhận lấy cái địa-vị nhơ-nhuốc lạ-lùng mà Mai-nương tính xếp cho ta ở trong cái nhà này được? Thôi thì chẳng kể chi đến cái thứ bậc, đến cái phẩm-giá của chữ tên ta đội, đến những điều danh-giá, liêm-sỉ làm chi nữa. Tỉ với cái tình ta yêu-mến Mai-nương thì những lẽ ấy thành ra những lẽ nhỏ-mọn, không tài nào mà khiến nổi được việc cử-chỉ của ta nữa. Duy hãy nói đến cái tấm lòng của ta yêu-mến Mai-nương mà thôi, thì Mai-nương thử nghĩ tấm lòng ấy chịu phận thiệt-thòi như thế này, chịu cách bạc-đãi như thế này, làm sao mà nhịn được rên-rỉ đây…?

Nàng lấp câu chuyện của tôi đang nói, mà rằng:

- Thôi, xin chàng đừng đâm vào ruột đừng châm lửa vào lòng thiếp làm chi nữa cho nó đau-xót lòng thiếp mà không được ích gì. Thiếp cũng tưởng cái thế túng-bấn của đôi ta như vậy, thì chàng cũng sẵn lòng giả dại làm ngây, để cho thiếp ra tay gắn-bó lại cái cơ-đồ đổ nát. Bởi chưng thiếp biết chàng khí-khái, cho nên cái việc của thiếp mưu-đồ, trước hãy không cho chàng biết, ấy cũng là tránh cho lang-quân khỏi mang cái tiếng đồng-mưu đối với lương-tâm người quân-tử. Nay chàng đã biết, mà lại không y cho thiếp thi-hành, âu-là thiếp xin thôi không làm nữa.

Nàng nói xong như thế rồi xin tôi nhắm mắt bịt tai cho đến hết ngày hôm ấy. Số là lão phú-hộ đã cho nàng 200 bích-tôn, lại hẹn buổi chiều thì đem cho ít châu-ngọc, một cái vòng hạt-trai, với sáu tháng tiền lương cho mà tiêu trước. Nàng rằng:

- Thôi thì chàng để thiếp thâu-nhận cho xong mấy món bổng trời cho đó. Còn thì thiếp thề với chàng rằng những chuyện nguyệt-hoa hoa-nguyệt, không có bao giờ. Từ nọ đến nay, cứ đến lúc nào nguy-hiểm thì thiếp lại khéo lừa được lão ra ngoài. Vậy thì chàng có thiệt chăng nữa, là chỉ thiệt mất chừng trăm vạn cái hôn tay của thiếp mà thôi. Ân ấy thì phú-hộ phải mất tiền mua, mà mua thì ta tính giá đắt, năm sáu nghìn phật-lăng là phải, họa chăng có xứng với cái gia-tư và cái tuổi-tác của khách mua hàng.

Tôi mầng về món bổng năm nghìn phật-lăng thì ít, mà mầng về sự quả-quyết của nàng thì nhiều. Nhân cơ-hội đó, tôi mới nhận ra rằng trong lòng tôi cũng chưa đến nỗi mất hết liêm-sỉ. Qua khỏi được cầu nhơ-nhuốc còn biết là may. Chẳng may cho tôi, số trời đã định, trọn đời vui ngắn sầu dài. Cứ tránh qua nơi sóng cả thì lại ngã nơi tuần Vường [?], kiếp long-đong không biết bao giờ cho hết.

Khi tôi đã hôn-hít Mai-nương kể mấy nghìn lần, để tỏ cho nàng biết rằng tôi thấy nàng định lại như thế thì tôi mầng rồi, tôi mới lại bàn với nàng nên ngỏ ý cho anh nàng biết với, để cho làm gì cũng hòa-thuận với nhau. Kỳ-thủy ông anh còn lầm-bầm lẩm-bẩm, sau nghĩ một câu hết ngày hôm ấy tiền ngay đã được 5 nghìn, thì ông anh lại vui ngay lòng mà theo ý hai em. Ba người bàn nhau đến bữa cơm tối của phú-ông thì kéo nhau vào cả, lẽ thứ nhứt là bởi cuộc lừa người, đem tôi trình-diện là em út Mai-nương, bụng trẻ-con chúng tôi cũng hơi lấy điều làm thú. Lẽ thứ hai là bởi tôi cũng muốn thừa lúc người ta ăn cơm với tình-nương của tôi mà kéo nhau vào, để ông già dầu có muốn lả-lơi bỡn-cợt, cũng còn phải ngượng. Định trước với nhau đến lúc ông già cơm xong, đòi vào phòng nàng đi ngủ, thì Mai-nương tảng lờ hãy xin ra ngoài với tôi một lát. Giữa lúc đó thì Lệ-cốt đi mượn cỗ xe đến chực ngay trước cửa.

Bữa cơm tối đã đến, phú-ông khéo tới chẳng sai nửa phút. Lệ-cốt và Mai-nương khi ấy túc-trực ở trong phòng ăn. Phú-ông mở miệng ra chào mầng câu thứ nhứt đã thấy chảy ra tiền bạc rồi. Nào là biếu chuỗi hạt-trai quấn cổ, nào là vòng, nào là xuyến, nào là nhẫn mặt, nào là hoa tai, một chập cũng đã đủ nghìn ê-cưu rồi. Rồi lại còn tính ra sáu tháng lương trước, mà phát cho toàn bằng tiền vàng mới, cộng là 2.400 phật-lăng. Đã bấy nhiêu thứ, lại còn tra thêm gia-vị, những lối hôn tay quì gối, theo đâu lễ-nghi từ thuở tiền-triều. Mai-nương thế chẳng từ-chối được, phải để lão hôn-hít một chập. Trong bụng tôi nghĩ có thế tiền của lão mới hóa ra tiền của nàng được. Tôi thì đứng chờ ngoài cửa, chờ cho Lệ-cốt gọi vào thì vào.

Khi Mai-nương đã thâu lễ cất cả đi rồi, Lệ-cốt mới ra dắt tôi vào đưa đến trước phú-ông mà bảo tôi vái chào đi. Tôi cúi vái hai ba cái thật già-giặn. Lệ-cốt giới-thiệu mà rằng:

- Xin tôn-ông miễn chấp cho thằng em nó nhỏ tuổi mới ở nhà-quê ra, chưa biết những lễ-phép kinh-thành một chút nào cả. Nhưng rồi ra em nó nhờ cửa tôn-ông đây, có lẽ cũng không mấy chốc mà theo đòi được đôi ba chút lịch-sự. (Rồi Lệ-cốt lại quay về phía tôi mà rằng): Chú ở đây rồi ra thường được trông thấy tôn-ông đi lại, nên có ý xem-xét những cách con người lịch-sự mà bắt-chước lấy. Khôn-khéo ra thì chẳng mấy chốc đã nên người.

Lão-già hình như ưa tôi. Gọi lại gần mà vỗ má đôi ba cái, khen tôi giỏi trai đẹp-đẽ, rồi khuyên dạy tôi ở Ba-lê chớ nên la-cà bạ đâu đi đó, mà tập-tành những thói ăn chơi. Lệ-cốt đoan kết với phú-ông rằng tính-khí tôi ngoan lắm, chỉ chăm-chỉ một sự học-hành để đi tu mà thôi. Gã lại khen riêng tôi từ thuở nhỏ có thói bày bàn thờ, tụng-niệm làm cách tiêu-khiển.

Lão già lại nâng lấy cằm tôi hất lên mà rằng:

- Cậu em này giống chị Mai-nương lắm nhỉ?

Tôi làm ra cách thật-thà mà đáp rằng:

- Thưa ngài, chị em ruột thịt liền nhau như thế, trách nào chẳng giống. Bởi thế tôi yêu chị tôi quá thể, thưa ngài ạ.

Phú-ông ngảnh mặt vào Lệ-cốt mà rằng:

- Đó, nghe không? Cậu em này ăn nói có nhiều trí khôn! Tiếc thay không được giao-thiệp với người ta cho lắm.

Tôi nói: Thưa ngài, ở nhà-quê tôi đi lễ thường gặp nhiều người ngu-ngốc ở trong các giáo-đường. Ở Ba-lê chẳng lẽ tôi lại không gặp được nhiều kẻ ngu-ngốc hơn tôi nữa hay sao.

- Lạ chưa! thằng bé nhà quê sao nói được những câu đáo-để như vậy?

Trong suốt một bữa cơm, câu chuyện đối đáp đại cương như thế cả. Mấy lần xuýt nữa tiết lộ cả ra, vì Mai-nương tính hay cười quá. Cứ mỗi câu nói là nàng cười bò lăn bò càng. Nhân lão bắt hầu chuyện cổ-tích cho vui, tôi nghĩ ra được một câu chuyện lão già say mê sắc dục, bị chúng lừa cho y như là chuyện hiển-nhiên của lão vậy. Tôi coi hình dung lão mà tưởng tượng ra một vai trong chuyện, giá đem so với lão thì thật giống nhau bên mười bên chín. Hai anh em nhà Mai-nương ngồi nghe cứ run lên lẩy-bẩy, nhứt là lúc tôi tả cái chân-dung lão-nhân hiếu sắc. Cũng may mà con người ta có cái lệ nom thấy chân-tướng mình hễ tướng nhiều chỗ xấu, thì dầu hệt đến đâu cũng ít kẻ nhận ra; thế mới biết thế-gian không mấy kẻ chịu mình là xấu. Vả tôi cũng khéo liệu lời, lúc nào xem nét mặt người nghe thấy hơi có nguy-hiểm, thì hòa thêm mấy nét pha vào bức ảnh truyền-thần, nó hóa ngay ra người khác, khiến cho lão cũng phải cười mà chê cái lão trong chuyện là xấu. Sau này rồi độc-giả hiểu rõ vì cớ làm sao mà tôi kể dàng-dênh câu chuyện ấy.

Tiệc tan, đến giờ đi nghỉ, lão ngà ngà nói đến chuyện trêu hoa ghẹo nguyệt, rồi lại bóng bảy để tỏ ra rằng nóng việc động phòng. Lệ-cốt và tôi biết ý, lui ra. Lão gọi người nhà đưa vào phòng nghỉ, còn Mai-nương thì tìm cớ xin ra một lát. Cỗ xe chờ ở đàng xa, thấy chúng tôi thập thò ra cửa thì đánh lại gần, chỉ trong giây phút, ba chúng tôi đã đi cách xa cái nhà thuê riêng của lão phú-hộ.

Tuy rằng tôi ngẫm ra biết việc đó là một việc đảo-điên, nhưng xét trong các việc đảo-điên của tôi từ thuở khôn lớn cho đến bây giờ thì việc đảo-điên ấy còn là nhẹ tội nhứt. Tôi lấy việc cờ gian bạc lận khi trước làm đáng ân-hận hơn nhiều! tuy nhiên của phi-nghĩa thế nào cũng vẫn là của phi-nghĩa. Hai chuyến đi lừa người mà chẳng lần nào được ăn cả, mà ý trời xanh cũng còn tựa kẻ lương-tâm, cho nên tội của tôi nhẹ nhứt mà việc báo ứng lại đau đớn hơn trước.

Chẳng bao lâu phú-ông chờ mãi chẳng thấy nàng vào, biết là mắc mưu lừa đảo. Không biết ngày đêm [ngay đêm] hôm ấy, thì lão có sai ai đi tầm nã chúng tôi hay không, nhưng về sau thì biết rằng lão thần-thế lắm, đồng tiền bỏ ra, không núi nào cao, không sông nào sâu, mà chẳng thăm dò được khắp. Vả chúng tôi lại là một lũ trẻ người non dạ, nghĩ đất Ba-lê là to lắm, nhà mình ở tận đầu này, nhà phú-ông ở tận cuối kia, rộng dài như chim trên trời, như cá dưới nước, ai mà tìm được, cho nên không có giữ gìn chi hết. Chẳng bao lâu phú-ông không những dò ra chỗ chúng tôi cư-trú, biết hết tình cảnh hiện-đương của chúng tôi thế nào, mà lại còn biết được cả đến căn do tôi, sự trước của tôi với nàng đem nhau đến ở Ba-lê ra làm sao, việc nàng đi lại với B. phú-hộ trước thế nào, rồi nàng lừa bỏ B. phú-hộ mà đi theo tôi ra thế nào; nói tổng lại thì bao nhiêu những nỗi lăng-nhăng đê-tiện nhứt của chúng tôi, lão thăm dò ra hết. Lão bèn quyết chí trình quan để quan cho đi tróc nã chúng tôi, coi như một lũ đãng tử, cần phải trừng giáo, chứ cũng không coi như quân gian đi trộm cắp.

Hôm ấy tôi với nàng còn nằm, bỗng thấy một tên đội với chừng sáu tên lính cảnh-sát gọi cửa mà vào. Trước hết bao nhiêu tiền bạc của quí, quân ấy thu lấy cả, rồi dựng chúng tôi dậy, bắt chúng tôi bận quần áo vào mà đi theo chúng nó ra cửa. Ra đến đường thì thấy đã sẵn hai cỗ xe. Nàng thì họ bắt bỏ lên một cỗ xe, rồi đem đi đâu mất. Tôi thì họ để lên cỗ xe kia, mà điệu cho đến nhà-ngục Thánh La-da.

Trời đất ơi! ai có từng trải những bước ấy mới hiểu được cái xót-xa đau-đớn của tôi khi bấy giờ nó thế nào. Những quân đâu mà ác-nghiệt làm vậy, nó không cho hai đứa hôn nhau một lần sau rốt, rồi hãy phân rẽ nhau ra. Nói với nhau một lời nó cũng không cho được nói. Về sau mãi mãi tôi chẳng có tin tức gì của nàng cả, không biết nó đem nàng đi đâu, nó hành hạ nàng những cách gì. Cũng là một cái may cho tôi, ví nếu tôi biết ra mà không làm gì được, thì có lẽ tức lên mà hóa rồ hóa dại, hoặc uất lên mà chết mất.

Sau tôi mới biết ra rằng hôm ấy tình-nương của tôi bị bắt đem giam trong một sở, đến bây giờ tôi nghĩ đến, hãy còn kinh-khiếp, không dám gọi tên là sở gì. Than ôi! một mảnh hồng-nhan thế ấy, ví dù những khách đế vương mà cũng mắt ta, lòng ta, thì phỏng tôn lên bậc hậu-phi nào cho xứng đáng sắc tài này! Họ đãi nàng không tàn nhẫn lắm, duy họ chỉ giam cầm chặt chẽ, ngày ngày bắt làm công việc gì đó, rồi cho ăn hai bữa rau dưa. Mãi mấy tháng về sau, tôi mới được biết tin ấy. Trước tôi cũng phải giam cầm khổ sở, ú-lì chẳng biết một thí gì.

Hôm ấy họ bắt tôi đi, họ định giải tôi đi đâu, họ không nói cho tôi biết, thành ra tôi đến cửa nhà-ngục Thánh La-da mới nhận ra. Như lúc ấy thì tưởng chừng tôi có thể chết được, tôi xin chết ngay còn hơn là bị cái nhục này. Số là tôi những nghe nói đến tên cái nhà ấy, đã sởn lông rồi. Khi tôi vào trong cửa, những quân ngục-tốt đến khám mình tôi xem có khí-giới, hoặc đồ nhọn, đồ sắc gì nữa không thì tôi lại kinh nữa.

Được một lát thì ông cố coi nhà trừng-trị ấy ở trong bước ra. Thì ra ông đã biết trước tôi rồi, ông ngọt-ngào mà chào hỏi tôi. Tôi ngỡ ông sắp ra làm điều gì tàn nhẫn với tôi, tôi vội-vàng thưa trước ông rằng:

- Cha ơi, xin cha chớ làm nhục con! thà con muôn chết còn hơn chịu một sự nhục!

Ông cố vội-vàng đáp lại:

- Không, không. Điều ấy công-tử đừng sợ. Công-tử ở đây cứ ngoan-ngoãn, thì rồi đôi ta tử-tế với nhau vô cùng.

Cố lại mời tôi lên một cái phòng trên từng gác. Tôi lẳng lặng đi theo. Những quân áp giải đưa tôi lên đến tận cửa phòng. Đến đó, ông cố bảo họ lui ra. Tôi mới hỏi:

- Thưa cha, vậy là con làm tù của cha đó hay sao? Cha bắt con mà làm gì đây?

Ông cố rằng thấy tôi ăn nói biết điều như vậy thì mầng, phận sự ông là săn nom tôi, và cố sức răn bảo, đề [để] khiến cho tôi biết ưa điều đạo-đức và điều tôn-giáo; mà phận sự tôi là cố gắng nghe lấy những lời khôn lẽ phải. Nếu tôi chịu khó chăm chỉ, không phụ công giáo-huấn, thì dẫu là phận thằng tù, nhưng cũng sẽ có cảnh vui. Tôi liền đáp:

- Cảnh vui ư? thưa cha! Cha há lại không hay duy chỉ có một sự làm được cho con vui mà thôi à?

- Cha cũng biết rồi. Nhưng cha còn ước ao con có ngày đổi cái sở-thích ấy đi.

Tôi nghe câu đáp lại ấy, hiểu rằng ông cố này biết chuyện trước của tôi rồi mà có lẽ biết cả danh tính nhà tôi. Tôi vội hỏi có phải thế chăng, thì ông gật đầu nói rằng đã biết hết.

Đó là cái hình phạt nặng nhứt cho tôi. Tôi mới ràn-rụa nước mắt ra mà khóc-lóc. Nghĩ mình cực-khổ vô cùng, không còn có hi-vọng gì nữa. Thành ra việc xấu của mình người quen kẻ thuộc, ai ai cũng đã biết cả, mà thật là dê-dếu cho cha mẹ họ hàng, thiên-hạ người ta chê cười, không biết thế nào mà kể. Trong tám ngày trời, tôi rũ-rợi không còn muốn nghe, muốn nói với ai, chỉ phẫn chí về một cái cực-nhục của mình. Đến nỗi cái tình-cảnh phải biệt-ly với Mai-nương cũng không thêm đau-đớn cho tôi được chút nào nữa, bởi vì cái đau-đớn của mình nó đã đến cực-điểm rồi. Sự tiếc nhớ Mai-nương là cái cảm-tình đã có trước rồi, mới đến cái xót-xa này nó lại to bằng gấp mấy, thật là xấu, thật là nhơ-nhuốc! Mặt nào mà còn dám giơ ra cho ai coi nữa đây!

Thế-gian có ít người biết cái sức mạnh của những cách cảm-khái đặc-biệt ấy. Kẻ tầm-thường chỉ cảm độ năm sáu mối tình mà thôi, cả cuộc sinh-hoạt cảm-động ở trong cái giới-hạn ấy, ngoại-giả hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục, là những thường tình, còn thì họ không biết cảm cái gì nữa cả. Duy những bậc có chí-khí hơn người, là biết động lòng trăm nghìn cách khác. Hình như những bậc ấy có hơn ngũ-quan ngoại-giả mấy giác-bộ thường của người ta, họ lại có những giác-bộ riêng, để mà cảm những tình, ngụ những ý mà người thường không cảm, không ngụ được. Mà những bậc có cái giác-bộ riêng ấy, hình như cũng biết rằng mình có, mà có là hơn người ta có ý vẻ-vang ở cái cảm-khái đặc-biệt đó. Bởi lẽ ấy mà người quân-tử cực ở sự kẻ khác chê cười khinh-bỉ hơn là kẻ tiểu-nhân nó không cần gì sự ấy. Cái xấu-hổ thành ra một cái đau-đớn to hơn cả mọi sự đau-đớn.

Khi tôi bị giam ở Thánh La-da, thì tôi có cái đặc-biệt quyền lợi buồn tênh ấy. Cái bộ tôi khi ấy sầu thảm thái quá, đến nỗi ông cố sợ tôi phát phiền mà chết mất, phải chiêu đãi tôi hết cách tử tế. Mỗi ngày vào thăm tôi đến hai ba lần. Thỉnh-thoảng đem tôi đi bách-bộ ngoài vườn vừa đi vừa khuyên dỗ vừa dạy bảo tôi những điều hay lẽ phải. Tôi nhu mì mà chịu dạy, tôi lại tỏ bụng cảm ân. Cố thấy vậy lại càng mong-mỏi cho tôi lắm lắm. Một hôm cố bảo tôi rằng:

- Công-tử bẩm tính hiền-lành, ngọt-ngào như vậy, ta không hiểu làm sao lại nên được câu người ta đổ tội cho công-tử ăn chơi trái ngược luân-thường. Ta xét việc công-tử có hai điều khả ngạc-nhiên. Một là công-tử tính-nết bẩm sinh tốt như thế, sao lại đam-mê sắc-dục quá đa. Hai là công-tử đã mấy năm hư thân dại-dột như thế rồi, sao mà còn có bộ sẵn tai nghe lời ta khuyên dạy? Nếu là tại công-tử biết hối quá, thì đó là một việc Chúa Trời tha-thứ ít có ở trong thiên-hạ. Ví nếu là tính-khí tốt bẩm sinh vẫn thế, thì ta mầng cho công-tử, và ta tin-mong rằng không cần phải lưu công-tử tại chốn này bao lâu nữa, mà khiến được công-tử lại nên một con người có đức-hạnh, có tiết-độ.

Tôi nghe ông cố khen tôi như thế, thì tôi mầng lắm. Tôi quyết lòng ăn ở hơn lên, để ông khen thêm chút nữa, chắc đó là cách chóng ra ngoài nơi giam cấm. Tôi xin cố cho ít sách mà đọc. Cố cho tự ý chọn, thì tôi chọn toàn những sách nói đạo-đức, cố lại càng ngạc-nhiên nữa. Tôi làm ra dáng chăm học quá, cố chắc hẳn là tâm-tính tôi đã đổi như ý cố sở-nguyện rồi.

Tuy nhiên, sự đổi tâm tính ấy, thật chỉ có ở bề ngoài mà thôi. Giờ tôi xin đeo nhuốc mà thú thật rằng khi tôi ở Thánh La-da, chẳng qua tôi đóng một vai hề đạo-đức đó mà thôi. Khi tôi ở một mình thì nào có học-hành gì đâu, tôi chỉ nằm rền-rĩ khóc than, mà nguyền-rủa cái đứa nào nó đã cho giam tôi vào đó. Lúc nào hơi nguôi được nỗi sầu ấy, thì tôi lại đâm vào nỗi tương-tư. Bấy lâu cách-biệt với nàng, đói no ấm lạnh thế nào không biết, những sợ ngày biệt nhau là ngày vĩnh-quyết mất rồi, bấy nhiêu nỗi ngổn-ngang trong lòng, làm cho tôi chẳng lúc nào khuây được. Lúc mới, tôi cứ tưởng Mỗ phú-hộ chỉ bẩm quan giam bắt một mình tôi, còn nàng thì lão đem về nhà mà vui-thú lấy một mình. Nghĩ đến câu ấy thì lại như dao băm từng khúc ruột.

Đêm ngày tôi cứ nghĩ lẩn-thẩn như thế, khắc canh ngày một thấy dài ghê. Duy chỉ còn hi-vọng ở cái vai hề mình đóng nữa mà thôi. Tôi có ý nhìn từng nét mặt, nghe từng tiếng nói của ông cố, đề đoán xem ông xử đoán mình thế nào, rồi tôi lại hết sức chiều tính nết ông, những mong nhờ tay ông tế-độ, khiến người trên phóng-thích ra cho. Tôi hết sức chiều ông như thế, thì hình như ông cũng xiêu lòng.

Một hôm kia, tôi mới đánh bạo hỏi ông xem ông có thể buông tha được tôi ra chăng. Thì ông nói rằng việc ấy tuy không phải ở quyền ông định được, nhưng có lẽ ông cứ sự thực mà nói cùng Mỗ công rằng tôi nhân nay đà tri-quá, thì dễ thường Mỗ công cũng sẵn lòng bẩm lại với quan trên, để cho tôi được ân phóng-thích.

Tôi sẽ hỏi cố:

- Cha ơi, con tại tù hai tháng trời ròng-rã, tưởng cũng đã đáng tội lắm rồi, dám mong phú-ông lấy từ-tâm mà nói cho con được phóng-thích.

Cố bảo tôi muốn, thì cố xin nói giúp với phú-ông. Tôi bèn van nài cố đi nói hộ.

Cách hai ngày thì cố bảo tôi rằng phú-ông nghe người kể lại sự tôi ăn ở tại nhà tù như thế, thì chẳng những quyết lòng nói cho tôi được tha ra, mà lại còn muốn thân hành vào thăm tôi trong ngục-thất. Tuy cái hân-hạnh ấy, tôi không lấy gì làm vui cho mình cả, song tôi nghĩ có vậy mới chóng ra ngoải, cho nên tôi cũng mầng lòng mà đợi khách.

Phú-ông quả đến thăm tôi. Hôm ấy tôi coi bộ người hình như thấy nghiêm-trang hơn và ít ngu-xuẩn hơn cái hôm tôi gặp ở nhà riêng lão mướn cho Mai-nương ở. Phú-ông diễn-thuyết với tôi một hồi về sự dại của tôi trước. Tôi nghe cũng không chướng tai cho lắm. Phú-ông lại nói để gỡ tật mình rằng việc người ta ai chẳng có lúc lửa dục bừng-bừng khôn nén, nhưng mà dùng đến chước lừa-đảo người ta những kế điêu-ngoan, man-trá, thì là những tội phải trừng phạt.

Tôi lấy dáng chịu lụy mà nghe lời lão nói, thì hình như lão cũng đẹp lòng. Lão lại nói rỡn tôi mấy câu về sự tôi với Mai-nương nhận nhau đồng-bào tỉ-đệ, và tính tôi hay bày bàn thờ cúng bái, ý hẳn từ ngày vào Thánh La-da cũng chuyên-cần việc ấy lắm. Tôi không giận mà nghe lão rỡn. Chẳng may cho lão mà lại chẳng may cả cho tôi nữa, lão lại không rỡn thế mà thôi, lão lại còn thuật cho tôi biết rằng Mai-nương thì đã bị lão đem bỏ phúc-đường (chỗ giam kẻ phụ-nữ bắt được làm nghề đĩ lậu). Tôi vừa thoạt nghe đến tiếng phúc-đường, tôi đã rùng mình kinh-khiếp; tuy nhiên, tôi cũng hãy còn đủ sức nén lòng khoan-hòa mà hỏi lại cho rõ, thì lão đủng-đỉnh mà rằng:

- Thật thế. Con điêu, ta cho vào học chút nữ-tắc ở nhà phụ-nữ phúc-đường đã hai tháng nay rồi. Ta ước cho nó cũng tu-tỉnh được như nhà con ở nơi ngục-thất Thánh La-da này.

Lúc ấy ví thử ai dọa tôi khổ-sai chung thân, hay là trảm-quyết, tôi tưởng cũng không làm cho tôi dẹp được cơn giận. Tôi nổi hung ngay lên mà nhảy xổ vào lão một cái dữ quá, đến nỗi tay nắm được lão thì sức người tôi đã nhược mất nửa rồi.

Tuy vậy, cái sức còn dư lại của tôi cũng đủ mạnh mà đè ngửa lão xuống đất, và nắm lấy cổ họng lão. Tôi đương bóp hầu lão ặc-ặc, thì ở ngoài ông cố cùng mấy người thầy tu nữa, nghe tiếng hùy-huỵch vật nhau và nghe lọt mấy tiếng lão kêu, đổ xô cả vào mà cứu lão ra khỏi tay tôi.

Lúc ấy thì tôi cũng đã mệt nhoài, thở không ra hơi nữa rồi. Tôi hồng-hộc mà kêu lên rằng:

- Trời đất cha mẹ ơi! cơ-sự đã đến thế, thì tôi còn sống làm sao được nữa!

Nói rồi tôi lại muốn nhảy xổ vào mà đánh cho lão-già một trận nữa. Họ ngăn tôi ra. Bấy giờ tôi kêu, tôi khóc, tôi vật mình-mẩy dữ-dội quá. Tôi làm ra những sự quái-lạ, khiến cho những người đứng đó không hiểu duyên-do, thì ai nấy nhìn nhau có phần ngạc-nhiên, có phần e-sợ.

Trong khi ấy, thì Mỗ phú-hộ sửa-sang mái tóc và cà-vạt lại. Căm tức sàu cả bọt mép, lão mới truyền cho ông cố phải giam tôi lại cho chặt, và trong nhà ngục có những hình phạt gì tàn-tệ hơn cả, thì đem ra mà thi-hành cho tôi. Ông cố cãi cho tôi rằng:

- Tôn-ông quên đi mất, công-tử đây là người quí-tộc, không thể để cho quân ngục-tốt làm nhục công-tử được. Vả công-tử bẩm tánh rất hiền-lành, tự dưng công-tử làm hung như vậy với tôn-ông, chắc không phải là không có cớ.

Lão phú-hộ nghe câu ấy thì tức lắm, vùng vằng đi trở ra mà đe dọa rằng phen này sẽ nói với quan trên bắt kỳ được ông cố và tôi phải chịu phép, cho mà biết tay thần-thế.

Ông cố sai mấy người đạo-sinh đưa lão ra ngoài, còn ông ở lại một mình với tôi. Ông mới hỏi đầu đuôi thế nào mà sinh ra sự đánh nhau vừa rồi đó.

Tôi vẫn còn khóc hu-hu mà đáp cố rằng:

- Thưa lạy cha, cha thử tính xem có nước đời nhà ai mà độc-địa, mà khoảnh-ác, mà tàn-nhẫn như là lão đó không? Lão đâm cổ mổ ruột con, thật cũng không bằng. Thế này thì con chết mất, chứ sống làm sao được đây cha! Âu là con xin kể hết cha nghe. Lòng cha nhân-từ quảng-đại như thế, cha biết căn duyên, há lại chẳng thương con trẻ?

Tôi mới kể vắn tắt cho cố nghe cái việc ngẫu-nhĩ gặp nàng khi trước, duyên nợ với nhan nên nỗi keo sơn; rồi tôi kể trước khi xẩy bị người nhà nội phản, tiền bạc dồi dào là thế; kế đến khi sa-sút, phú-gia ông ỷ của mà quyến dụ nàng; tôi thế bách phải toan mưu lừa dối cho khỏi mất vợ. Đại-cương tôi cũng có đưa đẩy lời nói ít nhiều, để câu chuyện khiến cho người thương hại vì ta. Tôi tổng kết:

- Lạy cha, bởi thế mà Mỗ phú-ông khẩn khoản việc răn dạy con-trẻ dại. Kì thực là lão ỷ thế lấy hình-pháp làm việc tư-thù. Sự ấy thì con sẵn lòng dung thứ cho lão. Nhưng lão thật đa-đoan thái quá, đã bắt giam con, lại nỡ lòng vùi rập liễu đào, đem người rất yêu rất quí của con mà bỏ vào nơi ô-uế, để trăm năm không sạch tiếng hôi tanh. Thế mà lão lại còn cả gan dám vào tận đây mà mở miệng khoe thần khoe thế, chọc cho con thêm tức nỗi nghèo hèn. Cha ơi, người yêu của con như thế, mà nỡ nào đem bỏ phúc-đường. Trời đất cao dày có thấu? con người quốc sắc thiên hương, đáng đem mà để lên ngồi cái ngai cao nhứt ở trong thiên-hạ, thế mà nỡ lòng nào đem bỏ vào một chốn cực-nhục đê-tiện, như thể một đứa ca-nhi kĩ-nữ ô danh vậy! Cha ơi, như thế thì tài nào mà con sống được, lại chẳng xót xa, lại chẳng hổ thẹn mà chết đây?

Ông cố thấy tôi đau đớn thái quá như vậy, thì khéo kiếm lời ngọt ngào mà khuyên dỗ. Nói bây giờ mới biết rõ đầu đuôi, trước vẫn tưởng tôi là một đứa ăn chơi đãng-tử may gặp Mỗ phú-ông vì tình bạn hữu với cha tôi xa vắng, mà thay quyền trừng phạt. Cố rằng Mỗ phú-ông thường vẫn kể công như thế. Nếu sự quả như lời tôi mới nói đó, thì công chuyện của tôi chắc rằng sẽ xoay ra thế khác, cố đem chuyện thật đầu đuôi như thế mà kể với quan trên, thì quyết được ân phóng-thích.

Cố lại hỏi tôi sao không gửi thư tin gì về nhà cho cha mẹ hay, cha mẹ biết tin giam cấm thì hẳn là lo chạy cho ra. Tôi thưa lại phần cha mẹ già đau xót, phần sợ tai tiếng đến nhà. Sau hết cố hẹn với tôi đi ra bẩm ngay với quan chánh Cảnh-sát, nói rằng:

- Con để cha cứ ra bẩm quan chánh Cảnh-sát, dầu chẳng được việc gì, cũng đón trước được cái lòng điên-đảo của Mỗ phú-gia. Lão hầm hầm mặt giận mà ở đây bước ra, chắc rằng có sự chẳng lành, vì thần-thế lão to lắm đó.

Tôi nóng lòng nóng ruột mà chờ ông cố trở về, khác nào đứa có tội chờ lời thẩm kết một sống hai chết của quan Tòa vậy. Tôi nghĩ đến nàng phải vào phúc-đường thì trong lòng cực-khổ khôn nói xiết. Nơi đó là một nơi ô-uế, người đàn-bà đã vào đến đó là mất danh tiết một đời. Vả tôi lại không biết họ đem nàng vào đó thì họ đãi nàng tàn-tệ ra thế nào? Chỉ văn thanh thấy một vài cách áp-chế kẻ phụ-nữ ở trong sở ấy, những nghe thấy nói mà kinh. Tôi quyết lòng đi cứu nàng cho được, muôn sông cũng lội, muôn non cũng trèo, mấy mươi ức triệu lần chết, tôi quyết cũng không quản. Ví nếu tôi không nghĩ được cách gì ra khỏi Thánh La-da, thì chắc hẳn tôi dám đem lửa mà đốt cho cháy nhà ngục-thất.

Tôi bèn nghĩ đến phương-kế trốn ra cho khỏi, để ngộ quan trên cố tình cầm giữ, thì đem kế ấy mà quyết thi-hành. Bao nhiêu não-lực của tôi, tôi đem hết ra mà nghĩ-ngợi, tính ngược tính xuôi, đủ các cách làm, mà không nghĩ được cách nào diệu cả, chỉ những e thoát khỏi chẳng thấy đâu, cơ-mưu làm không khéo mà tiết-lộ ra thì đang tội nhẹ lại hóa tội nặng, đang buông lỏng lại hóa buộc chặt. Tôi sực nhớ đến một vài người bạn thân, có thể cầu-cứu được, nhưng biết làm thế nào mà thông được tin mình cho những người ấy biết bây giờ? Sau cùng tôi nghĩ ra một kế, chắc là kế diệu nhứt, quyết hẳn phải được. Tôi tính chờ ông cố đi nói cho tôi về đã, xem nói mà đắt thì thôi, bằng nói không xong thì tôi quyết là dùng đến kế hay mới nghĩ ra sau đó.

Một lát thì ông cố về. Tôi nhìn mặt cố từ đàng xa, chẳng thấy thí gì là thí hớn-hở, chắc không phải là người đem tin mầng rồi. Cố về cố nói:

- Con ơi, cha đã vào hầu quan chánh Cảnh-sát, nhưng cha vào hầu ngài khí chậm quá. Mỗ phú-ông đã vào hầu ngài từ trước cha, thì ra lão ở đây lão đi ra, lão vào liền ngay đó, lão bẩm báo làm sao chẳng biết, cha ra đến nơi thì vừa thấy quan-lớn ngài truyền lệnh giam giữ con cho chặt. Tuy nhiên, cha cũng cứ chuyện thật của con, cha đem kể ngài nghe, thì trận lôi-đình hình như cũng ngớt. Ngài cười lão-già tính-khí tòm-tem, rồi ngài dạy cha rằng phải giữ con cho đủ sáu tháng, để lấy lòng phú-ông một chút; ngài lại truyền thêm một câu rằng: Vả sự giam chấp đó, cũng hơi có ích cho thằng bé, rồi ngài dặn cha rằng từ nay phải đãi con một cách nhân từ. Trước kia không có ai dặn, cha còn đãi con như thế, phương-chi là từ nay được lệnh quan trên.

Cố nói dông-dài mãi mãi, để cho tôi kịp nghĩ được một câu hay, tôi nghĩ rằng nếu bây giờ ta ra mặt nóng-nảy muốn ra ngoài quá, thì có lẽ hỏng mất cơ-mưu. Vậy thì ta phải làm ra dạng đành lòng ở đó, gặp người thương mến cũng là may, sau tôi chỉ xin cố cho tôi có một thứ ân đặc-biệt, là được thông tin với người bạn tu-hành ở tràng Thánh Xung-bích, và cho phép bạn thỉnh-thoảng vào thăm tôi ở nơi ngục-thất, cố liền thuận cho tôi điều ấy.

Người bạn tôi muốn thông tin cho biết đó chính là Tỉ-ba. Không phải là tôi có mong gì Tỉ-ba giúp được tôi trong việc trốn đâu. Song tôi muốn dùng bạn một cách lắt-léo mà không cho bạn biết. Nói tổng lại thì mưu của tôi định bày như thế này: Việc tháo cũi xổ lồng thì phải giao cho Lệ-cốt kiếm lấy vài người trong bọn. Viết thư cho Lệ-cốt thì khó, phải viết qua tay Tỉ-ba mới được. Nhưng Tỉ-ba vốn đã biết Lệ-cốt là anh tình-nương tôi rồi, chắc không khi nào bạn có chịu mang tin của tôi cho người ấy. Vậy thì thư gửi cho Lệ-cốt, tôi phải bỏ vào một phong-bì khác, để gửi cho người nào lương-thiện khác, rồi nhờ người ấy chuyển đưa cho, thế thì họa may nhờ Tỉ-ba có nhận mà đưa giùm. Nhưng việc khó-khăn như thế, đưa thư cho nhau, e nữa không đủ, tôi cần phải gặp mặt Lệ-cốt. Trong thư tôi mới bảo hắn giả danh là anh cả tôi ở nhà-quê ra, xin vào thăm em trong ngục-thất, nhiên-hậu mới bàn định với nhau những phương kế chắc nhứt và nhậy nhứt thì dùng.

Ông cố liền sai người ra bảo Tỉ-ba rằng tôi muốn gặp mặt. Tỉ-ba vốn biết tôi ở Thánh La-da rồi. Có lẽ bạn tôi biết tin ấy thì cũng mầng thầm, mong rằng có họa thế phen này tôi mới tu-tỉnh lại. Bạn được tin mời, bạn liền chạy tới.

Hai anh em trò chuyện với nhau, thật là thân thiết. Bạn tôi muốn biết ý tôi định những sau này ăn ở làm sao. Tôi thành-thực mà cởi mở bụng dạ ra cho bạn xem hết, duy trừ có việc mưu đồ đi trốn là tôi giấu kín mà thôi. Tôi nói với bạn rằng:

- Anh ơi, ai kia thì em còn giấu giếm. Đến như trước mắt anh, thì em bụng dạ làm sao, há lại chẳng phơi ra làm vậy. Nếu anh nhìn thấy em ngày hôm nay, mà anh tưởng là nhìn thấy một người ngoan nết, tiết độ, đã tu-tỉnh được sự đam-mê, đã quên đứt được nàng Mai-nương Lệ-cốt rồi, thì anh thật nhìn sai. Em xin thú thật rằng bốn tháng về trước anh gặp em thế nào thì bây giờ anh gặp em cũng như thế, vẫn say, vẫn đắm, vẫn yêu, vẫn thương, vẫn khổ vì một tấm tình bó-bíu; vẫn nhiệt thành mà đuổi theo cho kì được một cái sướng thỏa với nàng mà thôi.

Bạn tôi nghe tôi nói thế, thì lắc đầu mà nói rằng tôi đã liều mồm mà nói đến câu ấy thì tội nan dung thứ. Thế mới hay trong những kẻ phạm tội, có kẻ đắm say ở cái khoái-lạc hư-vô của sự ăn chơi đến nỗi dám đại thanh tật hô mà nói rằng ăn chơi sướng hơn là đạo-đức. Than ôi! những kẻ ấy không biết rằng cái khoái-lạc họ thích đó, nhứt dai [giai] là bào-ảnh mà thôi, chứ có phải là cái khoái-lạc thật ở đâu. Nhưng mà công-nhận như tôi rằng vì sự đắm say nên tội lỗi, nên khổ sở, mà lại cứ thuận tình ở nơi tội lỗi, ở nơi khổ sở, thì thật là một ý-tưởng phản-đối, cảm-tình phản-đối lạ lùng, tủi thay cho cái lý tính của một đứng nam-nhi, trời cho đã biết nghĩ mà lại từ chối cái điều mình đã nghĩ ra.

Tôi đáp lại:

- Anh ơi, đánh người ta, người ta không kháng cự lại mà thắng, thì dễ thay! dễ thay! anh đã thuyết lý, để em cũng xin có một đôi lời biện bạch. Thế anh đã chắc rằng cái khoái-lạc của sự đạo-đức là khoái-lạc thật, không có điều gì khổ sở, điều gì cách trở, điều gì phiền não theo sau ru? Thế thì những chỗ ngục hình, những cách áp chế của phường bạo-chúa hôn-quân thường đem ra mà làm cực người ngay, anh gọi tên nó là những cái gì? Hay là anh cũng sảng như mấy người tin thượng huyền-lý mà nói rằng phàm những cái làm đau xác thịt, là khoái-lạc cho linh-hồn? Câu ấy thì em chắc là anh không dám nói, vì đó là một câu ngược lý, tài biện bạch nào cũng không chống cho đứng nổi. Vậy thì cái khoái-lạc của đạo-đức mà anh ca-tụng luôn mồm đó, cũng có lẫn lộn với muôn vàn nỗi đau đớn, nỗi cực khổ. Nói cho đúng nghĩa thì chẳng qua nó cũng là mớ ưu phiền kết lại, hình như một cái màn lụa, để cho bọn anh mơ hồ mà soi qua tưởng thấy cái khoái-lạc đâu ở bên kia. Ấy thế mà cái sức mơ-tưởng của người ta làm được cho kẻ đau thấy sướng, khổ thấy vui, cũng bởi chưng tưởng rằng bên kia cái sầu-não khổ-sở, có cái khoái-lạc. Cái sự tôi mơ-tưởng rằng bên kia cái sầu-khổ của tôi, cũng có một cái khoái-lạc của tôi, ngẫm ra cho cùng, nó cũng là một giống mơ-tưởng với cái mơ-tưởng của anh, thì sao anh lại gọi nó là một cuộc ý-tưởng phản đối, cảm-tình phản đối? Tôi yêu Mai-nương. Vì sự yêu-đương ấy mà tôi phải chịu trăm nỗi đắng-cay sầu-khổ, nhưng tôi trông qua cái màu sầu-khổ ấy thì tôi hi-vọng thấy một cuộc cùng nàng an-nhàn vui vẻ. Cái lối tôi đi là một lối thảm-sầu, nhưng đi con đường gai góc mà mong đến chỗ cực-điểm khoái-lạc của mình, thì chông gai cũng hóa ra hoa. Tôi chật-vật để đến được với nàng trong ba năm mà đến được trong một giây phút thôi, tôi cũng bõ hết cả những điều chật-vật rồi. Vậy thì bên anh với bên tôi, mắt tôi nom mọi sự đều tương-tự cả. Có khác nhau chút nào chăng nữa, thì tôi tưởng cái chỗ khác ấy, hay ở bên tôi mà dở ở bên anh. Bởi vì cái khoái-lạc của tôi mong đợi, là một cái khoái-lạc gần, mà cái khoái-lạc của anh mơ-tưởng là một cái khoái-lạc xa. Cái khoái-lạc của tôi cùng với mọi điều cực-khổ là đồng chủng-loại, nghĩa là có cảm-giác đến ngũ quan, lúc khổ thân mình thấy khổ thế nào, thì lúc sướng thân mình cũng thấy sướng như thế. Còn cái khoái-lạc của anh, thì thật là không biết nó về chủng loại nào, chỉ nhớ có cái lòng thành tín mà chắc được rằng có nó mà thôi.

Tỉ-ba coi dạng nghe tôi nói thế mà giật mình lùi lại hai bước, nghiêm nét mặt mà rằng những lời tôi nói đó chẳng những ngược lý mà lại còn trái hết cương-thường tôn-giáo:

- Anh đem những nỗi cực-khổ của anh ra mà tỉ với những cách gian-truân vì đạo, thật là một ý-tưởng ngỗ-nghịch hỗn-hào, ngạo-mạn quỉ thần trời đất.

- Em xin thú rằng, sự so sánh ấy không thích hợp nhưng mà xin anh đã bác em thì cẩn thận ở chỗ này: Việc thuyết-lý của em không phải lấy cuộc so-sánh ấy làm cột-cái đâu. Nguyên em thấy anh cho kẻ mê gái vô duyên là một cuộc cảm-tình phản-đối thì em có ý giảng nghĩa cái cuộc phản-đối ấy cho anh nghe đó mà thôi. Em tưởng em đã phân biện tách bạch ra rằng nếu đó là một cuộc cảm-tình phản-đối, thì bọn đạo đức anh cũng ở trong một cuộc cảm-tình phản-đối khác. Em coi hai lẽ tương đồng là tương đồng theo cái nhỡn-giác đó mà thôi. Giờ em cũng vẫn còn cãi rằng hai lẽ tương đồng như thế. Hoặc anh cãi lại em rằng, cái giới-hạn của đạo-đức cao hơn cái giới-hạn của ái-tình nhiều. Câu ấy nào có ai từ chối không nhận? Nhưng mà đó không phải là vấn-đề đôi ta đương giải đâu mà. Chính-đề của câu chuyện anh em ta đàm-luận, là đàm-luận về cái sức chịu được cực-khổ của ái-tình, đối với cái sức chịu được cực-khổ của đạo-đức. Ta thử lấy cuộc kết-quả mà suy nguyên-nhân, thì có phải bên đạo-đức biết bao nhiêu người đào tị, nghĩa là phá giới, đương đạo-đức mà đâm hư dại. Mà bên ái-tình thì ít kẻ đào-tị lắm. Lấy đó mà suy, thì bẩm sinh cái tính người, ta nên thiết-tha về ái-tình hơn là thiết-tha về đạo-đức. Hoặc-giả anh lại cãi em câu nữa, rằng kẻ làm việc đạo-đức họa là mới có khi gặp hoạn-nạn, chứ có phải hoạn-nạn là một sự bất đắc bất nhiên của nhà đạo-đức đâu. Những phường bạo-quân ác-chúa đời bây giờ còn đâu nữa. Bây giờ làm gì có câu-rút đề hành hình kẻ có đạo nữa đâu. Biết bao nhiêu là kẻ đạo-đức được trúng câu tích thiện phùng thiện, được an nhàn sung sướng. Anh nói thế, thì em lại xin thưa anh rằng cũng nhiều kẻ trai gái mê nhau mà được an nhàn sung-sướng. Mà có khác nhau một điều chăng nữa, lại là một sự khác nhau lợi cho bên ái-tình. Bởi vì trong cuộc ái-tình dẫu kẻ yêu nhau cũng có một đôi khi phụ-bạc cùng nhau, nhưng yêu nhau lúc nào, hãy biết vui-vẻ sung-sướng với nhau một lúc ấy. Đến như tôn-giáo thì chỉ buộc người ta những việc buồn-rầu đau-đớn mà thôi.

Tôi nói đến câu ấy, tôi thấy cái vẻ mặt bạn tôi lại thêm ưu-phiền, thì tôi lại vội-vàng chống-chế ngay rằng:

- Xin anh chớ vội ưu-phiền. Em nói ra bấy nhiêu câu, không phải là em có ý ngạo-mạn thần-linh, hay là bài-bác điều thiện đâu. Chủ-ý của em là chỉ cốt tỏ cho anh biết rằng muốn khuyên ngăn người đang mê gái, không cách nào là cách vụng cho bằng nói sự mê gái không có điều gì khoái-lạc, chỉ có đạo-đức là khiến cho ta khoái-lạc mà thôi. Anh ơi, ta cứ lấy ngay cái thân thể chúng ta ra mà xét, cũng đủ biết trời bẩm sinh ra ta, duy có sự vui-vẻ là toại chí chúng ta mà thôi. Em đố ai có biện được xác-lý mà tỏ ra ý-tưởng nào tương-phản với ý-tưởng ấy. Mà trong cuộc vui-vẻ, thì không cuộc nào êm đềm cho bằng cuộc trai gái thương nhau. Câu ấy ta chẳng phải hỏi lòng lâu mới biết là thực. Dầu ai khéo kiếm những lời vóc gấm mà làm cho ta tin được rằng ở đời còn có thú khác thú hơn cái thú ái-tình, thì ta có mắc lừa mà nghe chăng nữa, cũng chẳng mắc lừa được lâu. Khi ta đã vỡ ra rồi thì ai nói làm sao cho ta tin ở thú khác, ta cũng nghi-ngờ mà không tin nữa. Vậy thì hỡi hỡi anh đạo-đức của em ơi! anh có muốn khuyên can cho em hồi tỉnh mà trở về đường đạo-đức, thì xin anh cứ việc nói rằng đạo-đức là một sự khẩn-thiết của người ta. Nhưng em xin anh đừng dạy quá lời, mà giấu em không cho em nom thấy cái đạo-đức là một gái già hay nhăn-nhó mặt. Anh có muốn can em đừng đam-mê sắc dục nữa, thì xin anh cứ nói rằng cái thú sắc dục là thú một thời, là một sự phải răn, phải cấm, toại chí trong một lúc, mà trăm nghìn nỗi đau-đớn theo sau, rằng nó khoái-lạc như thế, nên ai nhịn được, trời mới đền công. Anh nói thế, thì họa may có chuyển động được lòng em, chứ xin anh đừng phũ miệng mà nói rằng những tấm lòng biết cảm-giác như lòng chúng ta, mà lại không biết trần-gian duy có thú ấy là thú cực điểm.

Tôi nói mấy câu sau đó, thì coi vẻ mặt bạn thấy dần dần tươi-tỉnh lại, bạn cũng chịu rằng trong tư-tưởng đó, lắm lẽ xuôi tai, duy bạn chỉ hỏi có một câu: sao tôi đã biết trời có đền công kẻ nhịn như thế, mà tôi lại không cố nhịn? Tôi mới đáp rằng:

- Anh ơi, đó là chỗ hèn-yếu của cái gan em. Em biết rằng nghĩa-vụ thì phải theo như câu em thuyết-lý đó mà làm. Nhưng mà việc cử-chỉ của em, giờ có do quyền em nữa đâu? Phép thiêng-liêng nào mà khiến cho em quên được cái vẻ đẹp của Mai-nương bây giờ?

Bạn rằng:

- Đó lại là một câu ý-tưởng phản-đối lạ-lùng của bọn môn-đồ ông Jansénius.

- Em không biết em có phải là người của đạo-phái đó chăng? Mà lý ưng phải theo môn nào, giờ em cũng không được rõ cho lắm. Duy em biết rằng câu nói đó là câu nói rất thật.

Mấy câu đàm-luận, dầu chẳng được việc gì cho tôi, cũng được một điều khiến cho bạn thương tình mà không nỡ bỏ. Bạn hiểu rằng trong sự hư dại của tôi, phần là hèn không đủ sức nhẫn-nại thì nhiều, mà phần cố ý làm điều xấu thì ít. Vì đó mà về sau bạn tôi mới hết lòng cứu giúp. Bằng không thì chắc là tôi chết ở phen này, chứ khổ như thế không sao mà sống được. Tuy nhiên, tôi cũng không ngỏ cho bạn biết thí gì về việc mưu đồ thoát ngục. Tôi chỉ nhờ bạn mang giúp cho tôi phong thư mà thôi. Vốn trước khi bạn vào thăm, tôi cũng đã tìm cơ đón trước rào sau cả rồi, khiến cho bạn không nghi-ngờ gì về cái thư đó cả. Bạn nhận lấy phong thư mang ra. Ngay hôm ấy thì thư đến tay Lệ-cốt.

Sáng hôm sau thì Lệ-cốt mạo xưng là anh cả tôi mà vào ngục thăm tôi. Tôi vừa nhìn thấy gã, tôi đã mầng lòng. Tôi bèn đóng kín các cửa phòng lại, rồi tôi bảo gã rằng:

- Ta không nên để phí thì-giờ một phút nào cả. Anh khá cho em biết tin Mai-nương tức thì. Rồi có cách nào cứu tôi ra thoát khỏi chốn này thì xin anh bảo cho tôi biết ngay, kẻo chậm.

Lệ-cốt thề với tôi rằng từ hôm trước khi tôi với nàng bị bắt, hắn không gặp mặt Mai-nương, về sau hỏi han, thăm dò mãi mới biết việc xẩy ra như thế. Đã đôi ba lần va đến tận phúc-đường xin vào thăm nàng mà không được. Tôi cắn răng mà rít lên rằng:

- Hỡi hỡi Mỗ Mỗ phú-hộ! Thương hại cho thân mày? Phen này thù kia sẽ trả gấp đôi!

Lệ-cốt lại rằng:

- Còn như việc đánh tháo cho cho chú ra được khỏi đây, thì khó lắm, chú đừng tưởng dễ đâu! Ngay tối hôm qua, tôi đã cùng hai người bạn đến thăm phía ngoài cái nhà ngục này rồi. Phòng này có mấy cái cửa sổ đều thông với một cái sân, mà sân ấy xung quanh những nhà vây kín. Vậy thì qua cửa sổ mà ra, chắc là không được rồi. Vả chú lại phải giam ở trên từng lầu thứ ba. Mà đem thừng đem thang vào đây không được. Vậy thì phương-kế đào-tẩu không nên mang ở ngoài đem vào, mà phải tìm những cách có ngay trong nhà này mới được.

Tôi rằng:

- Trong nhà cũng không có phương-kế chi hết. Tôi đã xem xét cả rồi. Nhứt là từ khi ông cố coi việc tôn-giáo ở đây, đã lấy lòng nhân-từ mà buông lỏng cho tôi nhiều ít. Cửa phòng tôi thì họ không khóa nữa. Tôi lại được tự-tiện đi bách bộ trong phòng các nhà thầy. Những [nhưng] các lối thang đi xuống, đều có cửa sắt thật dày, đêm ngày đóng kín. Vậy thì những một sức tôi không sao ra nổi. Nhưng mà khoan! Tôi mới nghĩ ra một kế. Anh có thể mang vào đây cho tôi một khẩu súng vắn [ngắn] không?

- Dễ lắm. Nhưng chú định giết ai hay sao?

Tôi đáp rằng ý tôi không định giết ai hết. Mang cho tôi khẩu súng, không cần phải nạp thuốc đạn sẵn. Tôi nói:

- Mai anh đem khẩu súng ấy vào cho tôi, rồi đến đêm mai, độ 11 giờ, thì anh kiếm đâu lấy vài ba người bạn đến chờ tôi ở trước cửa cái nhà kia. Tôi mong rằng có thể ra với các anh được.

Lệ-cốt hỏi tôi định làm thế nào mà ra cho thoát. Tôi nói rằng phàm những kế mạo-hiểm như kế của tôi nghĩ ra đó, khi nào làm được xong, nói ra người ta mới cho là phải. Tôi lại giục va chong chóng đi ra để mai lại vào cho dễ.

Đến hôm sau, Lệ-cốt lại vào thăm tôi, vào ra cũng dễ-dàng như lần trước vậy. Dáng điệu va khi ấy nghiêm-trang lắm, nhác nom có dễ người ta tưởng là bậc quân-tử.

Tôi được khẩu súng, chắc rằng thoát được ngục. Kế ấy kỳ-khu mà mạo-hiểm nhưng tưởng chừng khó-khăn, nguy-hiểm đến thế nữa, khi ấy tôi cũng làm được.

Nguyên từ khi tôi được phép ra ngoài phòng đi lại chỗ phòng các đạo-sinh, tôi vẫn có ý nhận ra, cứ mỗi tối thì tên canh cửa lại thu hết các thìa khóa mà đem vào nộp ông cố, từ lúc đó trở đi thì trong các phòng lặng ngắt, ai nấy đi ngủ cả. Đêm tôi có thể tự tiện mà đi được từ phòng tôi đến phòng ông cố. Tôi bèn nghĩ ra kế cầm súng mà sang dọa ông cố, bắt ông phải đưa chùm thìa khóa cho mình, rồi cứ thế mở cửa lấy mà đi ra ngoài. Tối hôm ấy, tôi chờ mãi mới thấy tên canh cổng mang thìa khóa vào. Thì ra tại mình mong nên thấy lâu, chứ tên ấy cũng cứ một giờ như mọi khi mà mang thìa khóa vào nộp, nghĩa là lúc quá chín giờ một chút. Tôi chờ trong một giờ để các đạo-sinh và các đứa hầu hạ đều ngủ cả. Bấy giờ tôi mới một tay cầm khẩu súng, một tay cầm cây nến, thắp sáng hẳn hoi mà đi sang phòng ông cố. Trước tôi còn gõ sẽ vào cửa, để cho một mình cố nghe tiếng thức dạy mà thôi. Cái thứ hai tôi gõ hơi mạnh thì ông cố nghe tiếng, ngỡ là thầy đạo-sinh nào, đêm hôm đau yếu làm sao đến cầu cứu, cố bèn lật đật trở dậy ra mở cửa. Trước khi mở, cố còn đứng trong hỏi ai gọi, muốn gì? Tôi đành phải xưng danh, và tôi lên giọng rầu-rĩ mà kêu giở trời khó ở. Cố bèn tất-tả mở cửa ra mà rằng:

- À ra con! Con sao đây? Có việc chi mà đêm hôm phải lật-đật sang hỏi cha làm vậy, con?

Cố vừa hé cửa thì tôi bước vào, tôi kéo cố vào một góc buồng xa chỗ cửa mà nói phăng ngay rằng tôi không thể nào chịu giam được lâu nữa. Đêm vắng là lúc rất tiện để lẩn ra ngoài. Xưa nay cha đã có lòng thương-mến, nên dám cậy cha mở cửa cho ra, hoặc xin cha cho mượn thìa-khóa để con mở lấy.

Ông cố nghe tôi nói thế, thất đảm. Giương hai con mắt trô-trố lên mà nhìn tôi, không nói chi cả. Tôi thì vội quá, không thể đứng đó mãi mà chờ cha đáp lại được, tôi bèn lại nói rằng cha đãi con một cách nhân-từ như thế thì con cũng cảm ơn cha vô cùng, nhưng mà cái tự-do là của báu nhứt trong đời, mà con bỗng phải cường-quyền áp-chế, thì ức lắm, nhứt định đêm nay cướp lại cái tự-do mất đó, dầu thế nào con cũng không quản. Tôi e ông cố hô-hoán cho người trong ngục thức dậy, thì phải giở vạt áo cho cố nom thấy cái vật làm lẽ-cả cho cố phải im mồm, mà tôi thu thu trong bọc. Cố nom thấy thế, thì cố bảo tôi rằng:

- Chết nỗi! Con cầm súng! Con ơi! Cha xử với con như thế, mà bây giờ con định giết cha để cảm ơn cha hay sao đó?

- Lạy cha, nếu con có bụng khuyển-lang như thế, thì còn trời nào có dung con nữa. Vả cha là bậc trí-giả, lẽ phải chăng thế nào cha biết, thì đâu cha lại có để cho con đến nước phải làm việc càn-dỡ ấy. Nhưng mà lạy cha, con muốn khôi-phục lấy tự-do của con, con đã quyết lòng thế nào đêm nay con cũng chạy ra được khỏi chốn giam cầm này, con mới nghe. Cái quả-quyết của con gớm lắm, cha ạ. Nếu vì cha mà lỡ việc của con đêm nay, thì thế nào con cũng phải giết cha, đành rằng mang tiếng phụ-bạc.

Cố xanh mặt run lên mà rằng:

- Chết nỗi, con! cha có làm gì con bao giờ mà con nỡ lòng tàn-nhẫn với cha như thế! Vì cớ gì mà con muốn hại cha?

Tôi gắt lên mà rằng:

- Con đã bảo con không có bụng nào muốn hại cha thế mà! Hễ cha muốn sống thì xin cha cứ mở cửa cho con ra. Sau con xin làm thân trâu ngựa mà báo-đáp.

Tôi đương nói thế, thì tôi nom thấy chùm thìa-khóa để trên bàn, tôi liền cầm ngay lấy, rồi tôi ra hiệu mời cha nín lặng mà đi theo tôi.

Cha đành phải chịu phép. Cứ qua mỗi lần cửa, ông cố mở khóa ra thì lại lẩm bẩm oán trách tôi rằng:

- Chết nỗi, con ơi! Ngờ đâu con thế!

Cứ mỗi câu tôi lại nhắc:

- Xin cha im hơi kín tiếng cho.

Đi quanh-quẩn qua mấy lần cửa rồi đến chỗ hàng rào, chỉ còn một từng cửa nữa thì ra đến đường cái. Tôi đã tưởng là qua cầu thoát nạn rồi. Ông cố vẫn đi trước, tôi vẫn tay cầm súng, tay cầm cây nến đi sau.

Trong khi ông cố mở lần cửa ngoài nhứt đó, thì có một tên ngục-tốt đương nằm trong một cái phòng canh cửa, nghe tiếng động tự-dưng trở dậy, mở cửa phòng, thò đầu ra mà ngó. Ông cố tưởng thằng ấy có thể nắm được tôi lại, bèn dại-dột mà kêu nó ra cứu giúp. Thằng cha lực-lưỡng hùng-hổ, thấy ông già vẫy, liền nhảy sổ ra khiến bắt tôi lại. Tôi không nghĩ-ngợi gì nữa, giương ngay súng, nhắm vào giữa ngực thằng ấy mà bắn. Khi nó ngã rồi, tôi vênh mặt lên mà bảo ông cố rằng:

- Đấy cha xem, có phải vì cha mà nên nỗi có người thiệt mạng không? Nhưng thôi, cha đã giúp con thì giúp cho trọn việc.

Vừa nói tôi vừa đẩy ông già ra chỗ cửa ngoài để ông mở nốt. Ông già không dám từ-chối. Tôi ra đường đi bốn bước, thì gặp Lệ-cốt với hai người nữa đứng chờ đó.

Bốn người kéo nhau đi, Lệ-cốt hỏi tôi lúc nãy nghe như có tiếng súng. Tôi nói: “Sự ấy là lỗi anh. Tôi đã bảo anh đem súng không nạp thuốc đạn vào cho tôi, sao anh lại đi cho tôi súng nạp rồi?” Tuy nhiên, tôi cũng tạ ân Lệ-cốt, vì nếu Lệ-cốt nghe lời tôi mà đưa súng không có đạn, thì chắc là mưu tôi lỡ hết, mà rồi tôi còn phải ở lâu trong ngục Thánh La-da. Chúng tôi kéo nhau đến một tiệm kia ăn cơm tối. Vừa gần ba tháng, tôi phải ăn uống cực-khổ, đến hôm ấy mới được một bữa thỏa-thích. Tuy vậy, tôi ăn không biết ngon, chơi không biết vui gì cả, vì vắng mặt nàng, thì cảnh nào cũng là cảnh buồn. Nhân tôi có bàn với họ rằng:

- Các ông phải giúp em việc này nữa mới được. Thế nào ta cũng phải cứu cho Mai-nương ra khỏi ngục hình. Em mà cố trốn ra ngoài, cùng chỉ cốt có việc cứu nàng mà thôi. Xin các ông cố sức cho. Về phần em thì dầu chết cũng không quản, em phải làm cho kỳ được.

Lệ-cốt vốn là người khôn-ngoan lại ý-tứ, khuyên tôi rằng nên đi cho vững bước, mình vừa trốn khỏi ngục hình mà ra lại đeo thêm một cái án-mạng, chắc là tiếng đã lẫy-lừng, giữ lấy mình còn không được kín, quan chánh Cảnh-sát hẳn đương tầm-nã, mà quan chánh Cảnh-sát là một người dài tay, đâu cũng với đến. Vậy nếu tôi biết e sợ phải vào nơi ngục hình nào còn khổ gấp mấy chỗ Thánh La-da thì tôi nên tìm nơi nào kín đáo mà ẩn núp trong ít ngày, chờ cho cơn giận của kẻ thù dần dần nguôi bớt, bấy giờ hãy nên thò mặt ra ngoài.

Mấy lời khuyên-bảo đó, thật là khôn, nhưng mình cũng phải khôn mới nghe mà theo được; ngặt vì cái lửa tương-tư của tôi đương bốc ngùn-ngụt, thì tôi nào mà đóng cửa ngồi yên được những hàng ngày, thành ra tôi nể Lệ-cốt lắm mới đoan được với hắn rằng hôm sau tôi xin ngủ suốt ngày, Lệ-cốt bèn đem tôi nhét vào phòng riêng của hắn, tôi ở đó mãi cho đến tối.

Trong ngày hôm ấy thì tôi cũng có ngủ ít nhiều, để tĩnh dưỡng tinh-thần nhọc-mệt, còn thì tôi băn-khoăn nghĩ-ngợi để tìm phương-kế cứu Mai-nương ra khỏi phúc-đường. Tôi cũng biết nơi nàng bị giam cấm, lại còn khó ra vào hơn chỗ giam tôi khi trước. Vậy thì việc này phải dùng trí, không nên dùng lực. Nhưng chắc đem ngay ông thần Mưu-mẹo xuống mà hỏi, thì trong việc này cũng không biết nên bắt đầu cử sự ở chỗ nào. Tôi đành phải chờ khi nào hỏi thăm cho biết đại-cương cái địa-thế chỗ nàng ở ra làm sao, bấy giờ hãy nên tìm mưu nghĩ kế.

Tối đến tôi nói với Lệ-cốt đi theo cùng tôi. Kì-thủy chúng tôi là-cà đến gạ chuyện với một tên canh cổng. May gặp được đứa cũng biết điều. Tôi tự xưng là một người biệt xứ, nhân nghe tin nhà phúc-đường ấy tổ-chức nên thật có qui-củ thứ-tự, cho nên tôi lấy điều du-lịch hỏi-han để về làm kí-sự. Tôi hỏi hết điều này điều nọ, rồi tôi hỏi đến tên các quan quản-lý, và chức vị các ngài làm gì? Nhân được mấy câu tên canh cổng đáp lại về khoản sau cùng đó mà tôi nghĩ được ra một kế tuyệt diệu. Nguyên tôi ngẫu hứng hỏi chê hỏi chán rồi hỏi đến câu các quan quản-lý có con cháu gì? Tên canh cổng trả lời rằng trong bấy nhiêu ông, ông nào có con ông nào không có thì va không được biết tường-tận. Duy chỉ biết rằng ông T… là một bậc quyền cao nhứt trong đám trị-sự, có một cậu con trai, cũng vừa đến tuổi lấy vợ, đã nhiều lần theo cha đến thăm phúc-đường. Có một câu như thế, mà cái tài bày vẽ của tôi nghĩ ngay ra được một kế rất thần tình.

Tôi nghĩ được câu ấy là đủ mãn nguyện, tôi liền từ giã tên canh cổng mà về bàn với Lệ-cốt như sau:

- Tôi chắc cậu T… này con nhà giàu lại có thần-thế, hẳn cũng có tính ăn chơi như phần nhiều kẻ niên-thiếu nam-nhi. Người ấy tất không ghét đàn-bà, mà chỗ đồng-niên ai có việc nhân-tình cầu cạnh chi hẳn cũng sẵn lòng giúp-đỡ. Vậy tôi có ý cầu người ấy giúp tôi trong việc đánh tháo cho Mai-nương, ví bằng người ấy là người khoan-từ quảng-đại, thì chắc sẽ lấy tình đồng-chí liên-lạc mà giúp cho tôi. Bằng người ấy không vì những lẽ cao thượng như thế chăng nữa, thì cũng vì cái nhan-sắc của Mai-nương mà giúp-đỡ mong lấy chút báo ân của khách má-đào. Từ nay đến mai, thế nào tôi cũng muốn gặp mặt người ấy. Tôi tin trong bụng rằng việc này cầu đến người ấy thì xong.

Lệ-cốt cũng cho tôi là cao đoán, cũng chịu mưu ấy là hay. Đêm ấy cơn sầu-thảm của tôi cũng bớt đi nhiều ít. Sáng ngày ra, tôi cố công chải-chuốt bộ quần áo cũ cho nó tươm tươm một chút, rồi tôi kêu một cỗ xe ngựa thuê nó đem tôi đến trước cửa nhà ông T…; T… thấy người lạ vào thăm, cũng ngạc-nhiên, nhưng lấy cách hớn-hở lễ-phép mà ra tiếp. Tôi thoạt coi người đã biết là nơi cậy được. Tôi bèn cứ tình thật mà nói ngay chuyện mình ra cho người biết. Tôi khoe tình-nương của tôi nhan-sắc tuyệt-vời như thế, cho nên tôi đeo-đẳng say-mê là thế. T… đáp rằng tuy chưa gặp mặt Mai-nương bao giờ, song đà từng nghe người ta nói đến việc nàng cũng là nhân có cái chuyện lôi-thôi với Mỗ Mỗ phú-ông ngày nọ, mà bị bắt tới đấy. Tôi bèn tỏ hết lòng tin mà kể lại cho T… nghe gót đầu chuyện tôi với nàng từ trước, rồi tôi kết rằng:

- Túc-hạ nghe tiện-đệ đã bày tỏ ra đó, thì biết rằng việc tính mạng của tiện-đệ, và việc ái-tình của tiện-đệ ngày nay ở trong tay túc-hạ. Hai bên tiện-đệ cũng lấy làm khẩn-thiết bằng nhau. Tiện-đệ tình cảnh làm sao, xin nói hết để túc-hạ nghe, chẳng dám nửa li giấu-giếm, bởi vì tiện-đệ đã từng nghe túc-hạ đây là người quảng-đại, và đôi ta tuổi lại ngang nhau, thì chắc trong ý tình tất cũng có nơi tương-tự, nghe nhau nửa câu là hiểu.

T… thấy tôi thành-thực mà cởi lòng cho biết như thế, cũng có ý đồng lòng. Trong câu đáp đã có về người lịch-thiệp, lại có cảm-tình. Hai nết ấy ít khi được cả ở trong một người, vì sự lịch-thiệp thường hay khiến cho người ta nhụt bớt cái lòng cảm-khái. Chủ nhà nói rằng coi cái việc tôi vào thăm hôm ấy như một hạnh-phúc đặc-biệt, mà được kết bạn với tôi thì coi như một sự may-mắn trong đời, xin hết lòng giúp-đỡ để không phụ hai cái phúc trời đã ban cho đó. Không dám hẹn gỡ được cho Mai-nương ra khỏi phúc-đường, vì mình không có thần-thế gì ở trong sở đó, nhưng xin dùng hết chước để cho tôi được vào thăm nàng, còn như việc phóng-thích thì để xin tùy đáo tùy biện ngày sau. Tôi thấy người nói thật tình như thế, thì tôi lại mầng lòng hơn là gặp phải người hay khoe-khoang tự-phụ thần-thế hão. Nói tổng lại, thì khi tôi từ-biệt chủ nhà mà ra, trong bụng tôi đầy chứa những hi-vọng. Những một việc cho được vào thăm nàng, là đủ nên ân khuyển-mã. Tôi lấy lời tạ ân một cách não-nũng, khiến cho người cũng phải tin rằng tôi không phải là đồ bạc-bội. Hai bên ôm nhau mà hôn-hít, thành ngay ra một đôi bạn tri-kỷ, đồng thanh đồng khí với nhau.

Bạn tỏ lòng hâm-mộ với tôi một cách tối thân nữa, bạn đoán ra rằng tôi mới ở ngục Thánh La-da mà trốn ra như thế, tất nhiên là đồng tiền túng-bấn, bạn bèn mở túi bạc ra mà nài tôi cứ tự-tiện dùng cho. Tôi từ-chối mà rằng:

- Tiện-đệ dâu dám quá lạm như thế. Những một cái ân túc-hạ làm cho tiện-đệ được giáp mặt nàng, cũng đã đủ khiến cho tiện-đệ trọn đời phải nhớ túc-hạ rồi. Ví nếu sau này túc-hạ lại tìm được phương cứu nàng ra khỏi nơi giam cấm nữa, thì tưởng thân này dẫu vì túc-hạ mà thác, mai sau hồn về chín suối cũng chưa trắng nợ.

Trước khi biệt-giã, chủ nhà hẹn tôi ngay chiều hôm ấy, lại sẽ gặp nhau. Tôi y ước đến chờ ở một tiệm rượu kia. Độ bốn giờ thì thấy bạn đến, rồi hai người dắt tay nhau mà đến phúc-đường. Tôi đi qua cổng trước vào đến sân, thì đùi gối run lên lẩy-bẩy, trong bụng tôi phải khấn thầm rằng:

- Hỡi hỡi Tinh-thần linh-nghiệm! Xin để cho ta vào được đến trước mặt nàng, đến trước mặt vị thần của lòng ta thờ kính, cho nó bõ những lúc ta vì ai mà than khóc, mà lo buồn. Hỡi hỡi trời cao đất dầy! Cho ta được vừa đủ sức khỏe mà vào cho đến đó rồi thì dầu có bắt ta khổ nữa, có bắt ta phải chết, bấy giờ hãy hay. Khi ta đã được mãn kì sở-nguyện ấy rồi thì ta không dám cầu khẩn điều gì nữa.

T… công-tử vào hỏi thăm mấy tên canh cửa, thì thấy chúng vâng dạ vội-vàng, có ý nể sợ lắm, và bắt chúng trỏ nẻo cho vào chỗ phòng Mai-nương ở thì tôi thấy một tên người hầu cầm một cái thìa-khóa to cốc lếu, mà đi lên trước. Tôi hỏi thăm tên người hầu ấy chính là đứa coi phòng nàng, xem từ khi nàng phải vào đó ra làm sao, thì nó thưa rằng nàng thật thiên-thần giáng thế, người đâu thuần-thục lạ dường, không hề bao giờ có nói nửa câu bất lịch-sự với kẻ hầu người hạ. Trong sáu tuần-lễ thứ nhứt, nàng chỉ hai hàng nước mắt khóc hoài! Sau cũng thấy nguôi dần cơn sầu-thảm. Từ đó đến nay, buông mũi kim, lại giở sách ra xem. Tôi hỏi việc ăn uống thế nào thì tên ấy thưa rằng dẫu không được sung-sướng, song cũng no đủ.

Đi gần đến cửa phòng, trống ngực tôi đổ hồi thình-thịch. Tôi bèn bảo bạn rằng:

- Xin tôn-huynh hãy vào một mình, để nói cho nàng biết trước, kẻo nàng đương không mong mà gặp mặt, có lẽ giật mình mà biến sắc.

Cửa mở-ra, tôi đứng nấp phía ngoài, T… công-tử vào trước, nói chuyện những câu gì, tôi nghe thấy cả. T… công-tử nói là một người bạn thiết của tôi, vì tôi mà vào thăm nàng và kiếm lời an-ủy. Nàng vội-vàng săn-sóc hỏi tin tôi, thì bạn hẹn rằng chầy kíp sẽ đem tôi đến quì dưới gối, rằng tôi vẫn yêu-đương, vẫn ngay-thảo với nàng như trước. Nàng hỏi:

- Bao giờ, ông?

- Ngay hôm nay. Lát nữa. Nếu nàng muốn thì tức-khắc bây giờ cũng được.

Nàng hiểu là tôi đứng ngoài. Nàng vội chạy ra, thì tôi chạy vào. Hai người ôm nhau mà hôn, ba tháng trời xa cách, nay mới gặp nhau, nguồn ân bể ái, nói sao cho xiết được. Nào là thở vắn thở dài, những tiếng reo mừng như rên như rú, những lời nói ra bỏ nửa quãng, những tiếng thương-yêu, tớ, mình, đây, đấy, những giọng nói ngọt như đường phèn, êm như gió thổi, trong một khắc đồng-hồ, thành ra một cảnh-ngộ xúc động, khiến cho T… công-tử phải ngẩn-ngơ ra mà rằng:

- Túc-hạ làm cho tiểu đệ thèm muốn cái hạnh-phúc lạ-lùng của túc-hạ đó. Trời đấi ơi! công-danh phú-quí nào mà lại chẳng nên vứt bỏ đi để mà theo một người tình-nương xinh đẹp như kia, mặn-mà như kia.

Tôi đáp:

- Thưa túc-hạ, bởi vậy mà bao nhiêu ngai vàng trong thiên-hạ, tiểu-đệ cũng không thèm hết, để cho một người này yêu đến mà thôi.

Còn cả khúc sau câu chuyện, đại khái ý tình chỗ nào cũng nồng mặn như thế hết. Nàng kể cho tôi nghe những nỗi nàng từ ngày phải bắt. Tôi cũng kể lại nàng nghe những việc của tôi. Hai đứa cùng tuôn bốn dòng nước mắt chua-xót đắng cay, mà than cái tình-cảnh hiện đương của nàng, và cái tình-cảnh vừa qua của tôi. T… công-tử lại khéo lấy lời ngon-ngọt dỗ-dành khuyên-giải, lại hẹn ra công ra sức để làm cho chúng tôi chóng được đoàn-viên. Bạn khuyên tôi lần đầu không nên ở lâu quá, thì lần sau mới lại dễ vào. Tuy là lời nói rất phải, mà bạn nói đi nói lại nhiều lần, chúng tôi mới chịu nghe cho. Nhứt Mai-nương thì cứ muốn giữ riệt tôi lại đó, không để cho đi. Đứng lên ngồi xuống kể đến trăm lần. Cứ thí nữa rồi lại thí nữa, hết cầm tay rồi lại nắm áo, khắc canh chẳng mấy mà chầy. Nàng rằng:

- Mình nỡ bỏ tôi lại một mình ở chốn này ru! Ai đoan được cho tôi rằng mình ở đây đi ra, rồi còn có trở lại?

T… công-tử phải hẹn với nàng rồi xin đem tôi lại luôn luôn. Công-tử lại vui cười mà rằng:

- Còn như chỗ này, thì từ đây xin chớ gọi là nơi ô-uế nữa. Từ khi cái phòng này đã khóa kín xuân-xanh của một người đáng vì phi-hậu như nàng, thì chốn ấy tôi cầm như chỗ cực-lạc thế-giới. Vê-xay hoàng-cung, tưởng cũng không vui đến thế vậy.

Khi tôi ra, tôi cho thằng hầu phòng đó ít tiền, để nó săn-nom cho nàng tử-tế. Thằng ấy thật là có lòng tốt, không tàn-nhẫn như những quân một giống với nó. Nó đứng nhìn hai chúng tôi thương nhau, nó cũng xiêu lòng cảm tuất. Kế đến tôi lại dúi vào tay cho nó một đồng tiền vàng sáng quắc, thì nó lại càng thêm nể thêm vì. Khi xuống đến sân, nó bèn ghé vào tai mà nói riêng với tôi:

- Ông ơi, ví bằng ông đoan với tôi rằng sau này tôi có mất chỗ làm thì ông nuôi tôi hoặc ông thưởng tôi cái gì cho bõ, thì tôi xin hiến kế đem nàng ra khỏi nhà này.

Tôi muốn khoan cho rộng hai tai mà nghe lời nó nói. Bấy giờ tuy tôi đã cạn hết tiền đến nỗi những thứ khẩn-thiết của mình cũng không có, mà tôi dám đoan kết với nó những sự trời bể, ở trên sức tôi làm được cả. Tôi cũng tưởng về sau thế nào mình chẳng có khi vận khá, mà báo-đền cho kẻ hảo-tâm. Sau tôi bảo nó rằng:

- Con cứ giúp thầy. Sau này con bảo thầy làm sao, thầy cũng xin làm được cho con vừa ý. Từ đây cái danh-phận của con, thầy cũng xin hết sức lo-lắng như là danh-phận của thầy vậy.

Tôi sẽ hỏi nó xem nó định dùng phương kế nào, thì nó nói rằng:

- Thưa ngài, phương-kế của con thật giản-dị, tối đến con xin mở cửa phòng cho nàng ra, rồi con đưa nàng cho đến cổng ngoài. Ngài phải đón nàng ở ngoài ngõ để đưa ngay nàng đi.

Tôi lại hỏi thế ngộ đi qua các phòng, các sân, mà gặp ai nhận được mặt nàng thì ra làm sao? Nó đáp rằng việc tất nhiên là nguy-hiểm, chứ nếu dễ thì ai không làm được. Trong cơ-mưu tất cũng phải có việc làm liều, nếu không, sao gọi là khó.

Tuy rằng tôi thấy thằng bé quả-quyết như thế, tôi đã mầng lòng, song tôi cũng gọi T… công-tử mà thuật lại câu chuyện ấy và ngỏ cho bạn biết cái chỗ nguy-hiểm nhứt trong việc mưu toan. Bạn lại lấy việc làm khó hơn nữa mà rằng:

- Đành là mưu ấy có lẽ công-hiệu. Nhưng nếu nàng đi qua mấy cái phòng và mấy cái sân mà không lọt, quân canh nom thấy mà bắt lại thì thật đương tội nhẹ hóa ra chung thân cấm cố. Vả túc-hạ ở kinh-thành này lâu nữa cũng nguy-hiểm lắm, cần phải lánh ngay cho xa đi, mới được. Chắc là cảnh-sát đương tìm. Đến khi Mai-nương trốn nốt thì hẳn họ lại tầm-nã ra riết lắm. Một người đàn-ông đi trốn thì còn là dễ, đeo-đẳng thêm một người đàn-bà nữa, mà người đàn-bà ấy lại là một bực khuynh-thành, thì ẩn núp chỗ nào cho kín được?

Tuy lời khuyên ngăn đó là phải lẽ, mà không đè nén nổi được cái hi-vọng của tôi muốn cứu nàng ra tức-thì kia. Tôi lấy tình thật mà ngỏ cùng T… công-tử, và tôi xin công-tử dung thứ cho kẻ say mê cái tội nóng-nảy vội-vàng đó. Tôi nói rằng cứu được nàng ra tôi xin từ ngay kinh-địa mà đem nàng đi ẩn núp đâu trong chỗ làng xóm ngoài thành. Tôi bèn bịt tai không nghe lời bạn bảo, giục tên hầu phòng khá lo-liệu khởi hành mưu kế ngay, chớ để lâu lại. Chúng tôi định ngay đến tối hôm sau thì hành-sự. Định thêm một điều nữa cho chắc, là đem quần áo đàn-ông vào cho nàng mặc giả trai mà đi ra. Hiềm vì đem được quần áo vào trong phúc-đường là việc khó. Nhưng mà trí-khôn tôi khi ấy thì khó đến đâu mà không nghĩ ra được cách làm liều. Tôi bèn xin với T… công-tử đến hôm sau có vào thăm cùng với tôi lần nữa, thì bận hai áo trong mình, chọn lấy thứ áo nào mỏng-mảnh, còn mọi việc khác tôi xin kham lấy, không dám phiền bạn.

Sáng hôm sau, tôi cùng T… công-tử lại vào nhà-thương. Tôi thì bận trong mình những thứ áo lót mình cùng là bít-tất. Ngoài tôi khoác một cái áo vừa dài vừa rộng, để không ai nom thấy phồng-phều trong ngực và các túi. Chúng tôi vào chỉ đứng một lát ra ngay. T… công-tử thì cởi một lần áo ra để lại. Tôi thì cởi những áo lót mình và bỏ đôi bít-tất giắt trong túi ra cho nàng dùng. Bộ cánh nam-nhi đủ cả, duy còn có cái quần, tôi quên không nghĩ đến.

Việc quên ấy giá phải lúc khác thì là một việc buồn cười, nhưng trong cái bước nguy-hiểm này thì làm cho chúng tôi thật là bối-rối. Tôi đã than thân kém phúc vô duyên, mọi điều lo đâu đó cả, chỉ còn sót có một ly một đỉnh như thế mà đến nỗi lỡ cả công việc. Sau tôi có nghĩ ra một kế hơi liều là cởi quần của tôi ra mà đưa cho nàng bận

Cũng may, cái áo ngoài của tôi dài lắm, chắc rằng cứ mạnh-bạo mà đi, cũng không ai nom thấy.

Ngày hôm ấy làm sao tôi thấy dài dằng-đẵng, chờ mãi mới thấy đến tối. Tối rồi, tôi với T… công-tử đi xe ngựa đến chờ ở xế cửa phúc-đường. Chờ được một lát thì thấy Mai-nương cùng tên hầu phòng từ trong nhà-thương mà ra. Xe mở cửa sẵn, hai người trèo tuột ngay lên. Tôi mở rộng hai cánh tay cho nàng đâm choàng vào. Nàng hãy còn run lên lẩy-bẩy. Tên đánh xe quay lại hỏi tôi kéo đi đâu. Tôi mầng quá nói dại ngay một câu rằng:

- Anh xe chúng tôi đi đến chỗ nào là cùng thế-giới thì xe. Chỗ nào là chỗ tôi với Mai-nương vĩnh-viễn không phải dời nhau ra nữa thì anh xe chúng tôi đến đó.

Vì một câu nói dại thích chí quá mà để buột miệng ra đó, xuýt nữa nên tai-vạ lớn cho mình. Câu nói ấy làm cho tên đánh xe nghĩ-ngợi lôi-thôi. Đến khi tôi nói tên phố chỗ tôi muốn đi thì nó trùng-trình đứng lại mà nói rằng nó nghe công-chuyện không minh, nó không muốn can liên đến những việc ngầy-ngà như thế. Nó lại nhìn kỹ Mai-nương mà rằng nó tưởng là trai, hóa ra con-gái, thì ra người này là người phải giam cấm trong nhà-thương, mà tôi đem trộm ra ngoài. Sau hết nó nói rằng nó với tôi chẳng có tình-nghĩa gì với nhau, mà nó đi nhúng tay vào một việc gian lận trái phép như vậy.

Những câu nói nhân-nghĩa đạo-đức của thằng đánh xe ấy, chẳng qua là để vòi tiền mà thôi. Chúng tôi khi ấy hãy còn ở gần nhà phúc-đường quá, cho nên tôi không dám cãi lại với nó. Tôi chỉ bảo nó rằng:

- Mày im đi thì có một đồng tiền vàng 20 phật-tăng [phật-lăng] để phần mày đây.

Tôi vừa nói thế, thì tưởng chừng như giá có sai nó vào đốt cả phúc-đường đi nó cũng đốt.

Chúng tôi bèn bảo xe kéo đến nhà Lệ-cốt. Bấy giờ đêm đã khuya; T… công-tử từ-giã chúng tôi mà về, hẹn đến hôm sau xin lại đó thăm. Thằng hầu phòng thì ở lại đó với chúng tôi hầu-hạ.

Khi ở trong xe, tôi với nàng ôm chặt lấy nhau mà ngồi, thành ra hai người chỉ chật có một chỗ. Nàng thì mầng quá mà tuôn từng sông nước mắt ra chảy xuống ướt cả hai bên má tôi như giội.

Đến lúc xuống xe, vào nhà Lệ-cốt, mới lại sinh ra một việc lôi-thôi quá đỗi với tên đánh xe. Vì việc ấy sau này mà tôi với nàng lại qua một bước gian-truân. Bấy giờ tôi sực nhớ ra câu tôi hứa cho nó đồng tiền vàng, thì tôi hối-hận vô cùng: Một là vì số tiền ấy đắt quá, tỉ với cái việc nó giúp mình không đáng chút nào; hai là trong mình tôi không có tiền đâu mà cho nó được. Tôi sai gọi Lệ-cốt ra. Ông anh ra tận cửa đón. Tôi sẽ ghé vào tai mà nói nhỏ cái nguồn cơn túng-bấn. Tính nết Lệ-cốt vốn đã phũ-phàng, tòng lai lại không có thói kiêng nể giống phu-xe, va bèn mắng tôi một trận.

- Thừa tiền mà cho thằng này đến 20 phật-lăng. Chú để tôi cho nó hai-mươi gạy.

Tôi thấy ông anh to tiếng, tôi phải can đi, sợ nữa lôi-thôi việc gì thì mình có vạ. Nhưng nói thế nào thì nói, ông anh cũng chẳng nghe, nhân nom thấy tay tôi cầm gạy, ông anh giằng ngay lấy, khiến đánh tên cầm xe thật.

Thằng này ý dáng xưa nay cũng đã được biết tay các ngài thị-vệ với các ngài ngự-lâm rồi, cho nên thấy nói thế thì không chờ gạy vào lưng, giật ngay cương ngựa cho phóng nước đại, nhưng nó vừa chạy, nó vừa kêu vừa chửi tôi, bảo tôi lường-đảo, rồi lại đe rằng sau sẽ biết tin. Tôi cố sức vẫy nó lại để tôi khất và nói tử-tế với nó, mà nó không quay cổ lại.

Vì việc ấy tôi lấy làm lo-sợ lắm. Chắc là nó đi báo cảnh-sát. Tôi phải bảo ông anh rằng:

- Thật là anh làm hại em. Chúng tôi vào đây quyết là không được ở yên, thôi, anh để chúng tôi lánh đi nơi khác vậy.

Nói đoạn, tôi ôm cánh tay Mai-nương mà kéo nàng đi, tất-tả dảo bước cho chóng ra khỏi cái nơi nguy-hiểm đó, Lệ-cốt cũng đi theo với chúng tôi. 

Đê-ghi-ri-ơ vũ-sĩ kể chuyện cho tôi nghe trong hơn một tiếng đồng-hồ thì đến đoạn đó. Tôi sợ vũ-sĩ mỏi miệng, tôi bèn xin hãy nghỉ một lát ăn cơm. Trong khi vũ-sĩ nói, thấy thầy trò nhà tôi ngây mặt ra mà nghe, thì biết rằng câu chuyện chúng tôi cũng thích. Khách bèn nói rằng đoạn sau còn nhiều nơi áo-não nữa. Cơm xong rồi, vũ-sĩ lại kể nốt chuyện mà rằng:
Abbé Prévost
Nguyễn Văn Vĩnh dịch
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...