Thứ Ba, 30 tháng 11, 2021

Phong trào Duy Tân 5

Phong trào Duy Tân 5

KHỦNG BỐ TRẮNG

BẮT ĐẦU cuộc đàn áp, vây bắt truy nã các thân sĩ có liên quan ít nhiều tới phong trào Duy Tân. Huỳnh thúc Kháng hồi đó đang ra Hội An kêu gọi Công Ty lập thương hội, nghe nói nhiều thân sĩ đã bị bắt nên quay về nhà chờ.
Cuộc vây bắt «một chàng thư sinh tay trơn chân trần phải dùng một đề đốc Tỉnh, hai quan Đồn binh lại đèo hai chục lính tập, chia đường lục tục kéo đến xem tôi như một lãnh tụ dân đảng nào, một địch tướng, phòng có việc gì xảy ra bất trắc chăng», (Tự truyện 29). Lý do bị bắt ra sao, Huỳnh thúc Kháng cũng không bao giờ được nghe nói cho rõ. Nhưng đại khái chắc không ngoài những lời mà viên Đại Lý Pháp ở Tam Kỳ bảo với ông :
«- Ông đã biết quan Công sứ gọi về việc gì chăng ? (Do thông ngôn nói lại)».
Tôi nói một cách thản nhiên: «Không biết gì cả».
Ông nói: «Ông là hàng khoa giáp của An Nam; sĩ dân trong tỉnh đều suy phục. Ông thường đi các nơi diễn thuyết, đề xướng dân quyền. Nay hạt dân dấy loạn, kéo nhau cự sưu, trong số có đồ đệ của ông theo xúi giục, quan Sứ triệu ông cũng vì cớ ấy».
Tôi nói: «Việc tôi diễn thuyết là việc trước tai mắt trăm ngàn người. Vấn đề diễn giảng không ngoài việc tỉnh xa sùng kiệm khai trí trị sinh, cùng bỏ cái học khoa cử, cổ lệ Âu Hóa, tuyệt không có việc dẫn người làm việc phạm thượng vi pháp. Ngày nay nhân dân xin xâu, chỉ vì bần khổ bức xúc cùng bị quan lại tham nhũng bức hiếp, không nơi kêu thấu, họ làm thế chỉ là kêu oan, tôi có dự vào việc ấy làm gì?»
Ông nói: «Đúng rồi, ông diễn thuyết đều là việc khai hóa mà có bọn nghe lầm, làm sai, nay thành ra việc không hay như thế; ở Điện Bàn, Thăng Bình đều có tấn kịch tụ tập vây phủ, bức bách quan, chính phủ hiện đã dùng quân pháp trị tội, nay bọn ông lại mở ra các vụ thương quán, học đường đã không chút nào tấn bộ, lại theo đó mà thụt lùi».
Tôi nói: «Việc ấy do nhà đương đạo chính trị lưu tâm minh sát, nghiêm trị kẻ xướng loạn; bằng cứ nhân đó mà làm hại tới các việc thương, việc học, thế chẳng phải sái tôn chỉ khai hóa của chính phủ lắm sao?»
Ông nói: «Tôi chẳng phải nhà diễn thuyết, và đây chẳng phải nơi diễn đàn. Ông đến gặp quan sứ Hội An để bày tỏ thì hơn». (Tự truyện trang 30)
Xuống Hội An, lẽ tất nhiên ông sẽ không bao giờ gặp công sứ, mà bị dẫn vào phòng nhà binh «chành» một tiếng cánh cửa đóng kín ! Tôi mới biết đây là bóp giam tù. Đấy là ngày đầu tiên, tôi bước vào trường học thiên nhiên.
Ngày hôm sau Huỳnh thúc Kháng được gặp người quen, khi viên cai ngục mở cửa: ở phòng đối diện, có một người sắc mặt sầm sậm. Ai quen? Té ra Tiểu La Nguyễn Thành (Triết Phu). Hai bên ngó nhau cười.»
Những thân sĩ khác đã vào tù hoặc lần lượt vào tù. Trong đám người bị bắt, Châu thượng Văn đã là người tự hy sinh trước hết bằng một tinh thần và một cái chết can cường, làm rung động hết giới sĩ phu.
Ông hiệu Thơ Đồng, người Minh Thương (Hội An) bạn thiết của Tiểu La, nhà ở giữa thành phố. Chính nhờ ông mà nhân sĩ Nam Bắc vào Quảng Nam có chỗ ăn ở mà thơ từ ngoài thông tin tức cho Tiểu La cũng qua tay ông. Khi xảy ra dân biến, ông bị bắt, bị giam. Lập tức ông tuyệt thực. Đối với tất cả câu hỏi của quan Tây, quan ta đều khẳng khái nhận chịu : «Người nước (Việt) sang Nhật Bản và hạt dân xin thuế, chính tôi là một người chủ mưu, không ai dám dự vào cả».
Tòa Nam An kết án chung thân đầy Lao Bảo. Liên tiếp 20 ngày tuyệt thực, không một hạt cơm vào miệng, mỗi ngày chỉ uống vài chén nước trà loãng do người con đem vào thôi.
«Nghe Châu quân nhịn ăn lâu ngày, tôi định không thể sống được, (Châu quân đã giải lên tỉnh mà tôi cùng Tiểu La tiên sanh còn giam ở ngục Faifo (Hội An). Bỗng một ngày nọ, 11 giờ cảnh cửa phòng giam tôi bỗng mở toang, có mấy người lính tập dẫn 5,6 người tù vào, có 2 người dân võng 1 người đau vào, cùng giam vào phòng tôi. Hỏi thì họ nói bị đày đi Lao Bảo, gởi giam tạm buổi mai, đợi chiều lên xe hỏa (…)
Sau lính ra, cửa khóa rồi, tôi nhìn thấy người bệnh kia mặt đen như than, tay chân như ống quyển, hai mắt nhắm khít, không còn là hình dạng người, hơi thở như sợi tơ, chừng như muốn tắt nghỉ, trong lòng cảm động, lại gần nhìn kỹ một chặp lâu mới nhận ra, thì không phải người lạ mà chính là Châu Thơ Đồng tiên sinh! Mà ốm o gần chết vì đã tuyệt thực trên 20 ngày nay.
Tôi gọi thử: «Châu tiên sanh! Châu tiên sanh! Còn nhìn biết tôi là ai không?»
Khi ấy Châu quân mở hai mắt, nhìn tôi một chốc lâu rồi nói nhỏ trong cổ : «Minh viên quân, tôi làm cái dễ, còn anh em gắng gánh lấy cái khó».
Nói rồi nhắm mắt lại như cây khô vậy.
Hai giờ chiều bữa ấy, Châu quân bị bồng lên võng chở ra hỏa xa cùng đi với bọn tù kia. Đến Huế thì Châu quân chết trong lao phủ Thừa.
Bị giam trong ngục mà nhịn ăn, từ Thánh cam Địa Ấn Độ về sau, nhiều nơi bắt chước đã thành việc cơm bữa không lạ gì. Nhưng Châu quân lại trước Cam Địa và nhất định tuyệt thực đến chết, cao hơn Thánh hùng Cam địa một bậc nhỉ!». (T.T.T.T trang 21, và 22)
Có nhiều câu đối khóc Châu thượng Văn, nhưng chỉ có câu đối sau này có ý nghĩa hơn hết của Trần cao Vân. Ý nghĩa không chỉ bởi nội dung cao sâu mà còn bởi dám hẹn hò: «Ngã bất nan xả sanh, nại hà tai Trung Thiên dịch sơ khai, Dũ lý thất niên tiền vị diễn. Quân nãi năng tựu nghĩa, nan đắc giả vạn thế kinh độc thủ, Thú dương thiên tải hậu do 1 văn ».
Huỳnh thúc Kháng dịch : Ta có tiếc sống đâu, ngặt vì dịch Trung thiên mới mở đầu, Dũ lý bảy năm chưa kịp diễn 2. Người hẳn theo nghĩa đấy, khó nhất kinh muôn đời hay giữ chắc, Thú dương ngàn thuở vẫn còn nghe. 3
Sau đó là cái chết vô cùng hãi hùng mà cũng hào hùng của Trần quí Cáp.
Trần quí Cáp bị đổi vào Khánh Hòa đầu tháng giêng 1908 đến cuối tháng hai ở Quảng Nam mới nổ ra vụ kháng thuế. Ông không can dự vào việc xin xâu. Hiện tôi có một số tài liệu của nhiều tác giả khác nhau nói về cái án đó. Riêng ông Phan châu Trinh trong Trung Kỳ Dân Biến thỉ mạt ký đưa cho Toàn quyền Đông dương lúc ấy (1911) đang ở Pháp và thượng thơ thuộc địa Pháp để kêu oan (tên chữ Pháp: Manifestations de 1908 en Annam) có trình bày một cách thống thiết, sắc bén, đanh thép, hùng hồn những sai lầm, tàn bạo, vô loại của cái án ấy gồm có:
a) Cái án ấy có tám điều oan
b) Cái án ấy là gian dối và vì sao mà gian dối
Trong bản án, có rất nhiều điều uẩn khúc mà Phan châu Trinh đã phanh phui để vạch mặt chỉ tên cả bè lũ quan lại tham nhũng, tàn bạo Nam triều và thực dân Pháp kết cấu với nhau giống như loài lang bối, con thì chân trước ngắn, sau dài, con thì trước dài, sau ngắn phải nương nhau mà đi để tàn hại dân nước Việt Nam. Tôi rất ngạc nhiên là một bản án như thế, một bài văn biện hộ danh tiếng như thế mà không được ai ở Việt Nam chú ý. Tôi mong sẽ có dịp công bố để bạn đọc biết thêm một khía cạnh thiên tài của Phan châu Trinh: biện hộ, dù ông không hề là luật sư 4 . Tóm lại, người ta thường cho cái án của Trần quí Cáp là rất oan. Và để trưng bằng cớ giết ông, Bố Chánh Nguyễn văn Mại, Án sát Phạm ngọc Quát đã vin vào một lá thư của ông mà kết án. Nguyên lúc bấy giờ Trần văn Thống làm tri phủ Điện Bàn vốn có tư thù với Trần quí Cáp về bài thơ cái trống nên đã xui sử việc đổi ông vào Khánh Hòa. Sau đó Thống bị dân Phủ Điện làm nhục quá thể trong việc xin xâu nên khi dẫn lính đến lục soát nhà Cử nhân Phan thúc Duyên, làng Phong Thử, bắt được lá thư của ông Trần quí Cáp mới gởi về, liền gởi ngay vào cho quan tỉnh Khánh Hòa kết tội. Thư ấy chỉ có câu: «Cận văn ngô Châu thử cử, khoái thậm! khoái thậm!
Dịch: « Gần đây được nghe tỉnh ta cử hành việc ấy sướng lắm, sướng lắm! Các quan tỉnh gạn mãi, ông khảng khái nói: «Tôi chỉ đem sở học nhi hành để mong dìu dắt cho dân khôn nước mạnh, nay dân trí như vậy là đã khá cao do lòng định liệu cho tương lai mình ; cho vận mệnh nước nhà đó. Tôi có tội tình gì, dân có tội tình gì… Trong bản xử, chúng tự rằng : thế phát (cúp tóc) Âu trang (mặc đồ tây) là mưu vãng tha quốc (mưu ra nước ngoài) bội nghịch đích tình, ghép vào tội bất trung, bất hiếu mà xử tiên sinh về hình lăng trì (xẻo một trăm miếng thịt). Tòa khâm sứ Huế nhận được bản án bằng điển về Pháp xin giảm một bực là xử quyết thì hội Nhân quyền bên Pháp điển qua trả lời bảo phải hoãn lại, nhưng khi quan tỉnh Khánh Hòa tiếp được bức điện trả lời của tòa khâm thì bọn Bố Mại, án Quát đã đem tiên sinh hành hình rồi». (Tiểu sử TQC trang 17, 18)
Người ta gọi cái án ấy là «Mạc tu hữu», không cần có tội danh gì ; án Tần Cối đã dùng để giết Nhạc Phi ngày xưa: «Nhớ khi Ông ra tới Trường chém, dao đã kề cổ, còn thung dung xin với quan giám trảm, cho đặt án đốt hương, áo mão nghiêm trang bái tạ quốc dân ngũ bái, rồi khảng khái tựu hình, sắc mặt in như khi nhóm trò giảng sách». (Phan Bội Châu, Thi văn quốc cấm trang 390)
Cái chết của Trần quí Cáp gây một xúc động mãnh liệt như chưa từng thấy. Người ta đã nói nhiều về nỗi oan của Trần quí Cáp và những kẻ giết ông đều vì thù riêng. Nhưng theo chỗ tôi nghĩ thì trong các tay lãnh tụ Duy Tân ở Quảng Nam, Trần quí Cáp lợi hại hơn hết và cũng đã từng có sự hợp tác bí mật với Nguyễn Thành cũng như đã từng có ý định xuất ngoại… Nhiều người biết mà chính Huỳnh thúc Kháng cũng có điếu ông bài thi với câu :
Bồng Đảo gió chưa đưa giấc mộng (dịch)
Vậy giết ông, những kẻ cầm quyền muốn nhân cơ hội dứt một hậu hoạn mà chúng ngày đêm lo sợ hơn là vì những lý do khác, đồng thời chúng trả được thù riêng!
Phan châu Trinh bị bắt từ Hà Nội giải về Kinh, giam ở Hộ Thành vì ông tuyệt thực mấy ngày rồi. Cường quyền lập hội đồng vấn xử có cả quan Tây Nam.
Các câu hỏi ông đều giải đáp khúc chiết, rành mạch. Khi đổ tội dân biến – chống thuế – cho Ông, Ông nói: «Các ngài ngồi lên đầu dân lại ăn lộc nước mỗi ông một tháng hoặc bốn tháng, năm trăm đồng hoặc hai ba trăm đồng, dưới nữa cũng một trăm, tám chín chục, bổng ấy không phải là máu mủ của dân sao ? Thế mà cứ ngồi ăn lịt, không lo vì dân mở đường sinh kế, toan việc công lợi, để cho nó cùng vô sở xuất, không biết lấy chi nộp thuế mà rủ nhau đi làm hạ sách đi yêu cầu như thế, ấy là cựu các ngài, các ngài đã không biết tội thì chớ, lại đổ cho người khác sao? Các quan giận lắm, muốn kết án tử hình, quan Tây không chịu (nghe đâu có hội Bảo Trợ Nhân Quyền bênh vực và cũng có một ông quan Nam không ký tên) mới giảm đẳng kêu án xử tử phát Côn Lôn ngộ xá bất nguyên (gặp dịp ân xá không được hưởng) 5 (G.N.K.N trang IIV)
« Một bữa có người đội và hai người lính vào nhà giam, xem xét xiềng gông, khóa tay cụ rồi dẫn ra cửa ngục. Cụ định chắc là dẫn đi chém. Theo lệ, phàm tù trọng tội xử tử dẫn ra cửa Bắc (của An Hòa). Nay lại dẫn ra cửa Nam. Cụ hỏi thì người đội trả lời: Anh bị đày đi Côn Lôn. Cụ liền khẩu chiếm bài thi :
Luy luy già tỏa xuất đồ môn,
Khảng khái bi ca thiệt thượng tồn.
Quốc thổ trầm luân, dân tộc tụy,
Nam nhi hà sự phạ Côn Lôn.
Huỳnh thúc Kháng dịch :
Xiềng gông cà kệ biệt Đô môn.
Khẳng khái ngâm nga lưỡi vẫn còn.
Đất nước đắm chìm, nòi giống mỏn,
Thân trai nào sợ cái Côn Lôn».
(TTTT trang 11, 12)
Bài thơ ấy sau này tù nhân được đọc trong các nhà lao,cảm thấy phấn khởi lạ lùng ngay trong cảnh bi đát nhất.
Phan châu Trinh sẽ được một vinh dự lịch sử không ai tranh nổi với ông : đứng tên đầu trong quyển sổ tù ở Côn Lôn.
Ông ra đấy ít lâu sau, các tù nhân khác mới tiếp tục ra theo.
°
Vì không nắm được những bằng cớ thật chắc chắn nên các quan tòa Nam triều phải dựa vào lời khai của Ngụy tác Hạ, tàn tướng của Phan đình Phùng, vừa nghiện, vừa có nghề làm thuốc phiện tuyệt giỏi. Lúc bắt được Hạ, Cao Ngọc Lễ, án sát Hà Tĩnh dọa dẫm thì y không sợ, nhưng khi cho ăn hút thật nhiều vào thì Hạ khoái chí. Trước bàn đèn, Hạ ta hăm hở nói : «Sĩ phu nước Nam mưu ra sao, tôi đều biết cả». Từ đó về sau Cao ngọc Lễ dùng Hạ để buộc y phải khai là Ngô đức Kế có thông mưu với Phan bội Châu :
« Hôm sau là ngày đem ông Tiến Sĩ đối chứng với tên Hạ, lại mời Công Sứ thân đến xét hỏi. Công Sứ nghe nói, trong lòng cũng khen tài. Không ngờ khi Công Sứ hỏi, thì tên ấy nhứt nhứt trả lời y như án sát dặn. Công Sứ cũng bảo làm bản cung, cũng mừng lắm, nhưng khi công sứ bảo nó lại gần hỏi nó sao mà biết được thì nó trả lời rằng : «đó đều là những lời án sát bảo nói». Công Sứ giận lắm mắng rằng : «Nếu quả án sát đã bảo, thì sao mày lại nghe theo ?». Nó trả lời : «không nghe thì không có thuốc phiện để hút, lại không có rượu thịt». Công Sứ nạt rằng : «Mày đã nghe theo, sao nay lại phản cung ?». Nó nói: «Sợ vu chúng thì làm cho người ta chết oan». Quan của hai nước không biết làm sao, chỉ đem nó giam lại thôi, nhưng nó không vợ con, không nhà cửa, thì dầu ở địa ngục, nó cũng xem như thiên đàng vậy.
Từ đó về sau, phàm án tử hình của thân sĩ Trung Kỳ, đều nói cứ theo lời khai của tên Hạ làm chứng mà không lục ra lời khai thế nào, lại không dẫn nó đối chứng nữa». (Trung Kỳ Dân biến 20)
Những lời khai vu vơ của một tàn tướng nghiện ở tại Hà Tĩnh đủ cho các quan Nam triều có tài liệu để ghép các thân sĩ Quảng Nam tội giao thiệp với Phan bội Châu «Theo đảng bội quốc, ngầm thông nước ngoài đề xướng Dân quyền kết án đày Côn Lôn (Bản án này có ghi trên nhiều sách, do Huỳnh thúc Kháng thuê người chép lại khi còn bị giam ở ngục Quảng Nam)». Về chủ thuyết Dân quyền, bản án này có nêu ra mấy điểm, thực sự phải nhìn nhận là rất đúng với trào lưu thời ấy: «Nay xét làm thì có câu «xóa mạ lao lung» gởi thơ có câu «cường quyền duyên tự» mà các bài diễn thuyết đều nêu câu: «lấy yêu đồng bào làm tôn chỉ» 6. Tuy trong cuộc diễn thuyết vẫn nói các chi tiết: «khai trí, trị sanh, tỉnh xa, sàng kiệm», song đại khái lấy đề xướng «dân quyền» làm mục đích, khêu mối bội loạn cho phần đông. Dò xét đến nguồn gốc là do Phan châu Trinh, Huỳnh thúc Kháng đề xướng mà các người kia phụ họa theo. Hiện hạ hạt dân nào đông, hẳn do thuyết dân quyền làm bước đầu mà kích thành cuộc biến này». (Vụ kháng thuế (Sđd) trang 378)
Đứng về phương diện nhà luật pháp, kết án mà không cần chứng cớ, không có tang vật, không có lời cung được ký nhận… là lối kết án hồ đồ của chính thể chuyên chế, đã vậy mà kết án xong, không tuyên án là lối làm ám muội. Nhưng cái điểm Dân quyền được xem là chủ thuyết khởi phát cuộc dân biến thì phải nhìn nhận không sai. Nhưng như thế thì phải bắt tội những người Pháp từ dưới lên cho đến Lư Thoa. Nói cách khác, bản án này đánh dấu lần đầu trên lịch sử Việt Nam một bước rẽ cực kỳ quan trọng của triết học, của ý thức hệ và chính trị, và đây còn hiểu không phải chỉ có tư thù của cá nhân với cá nhân mà là tập đoàn mãi quốc kết án những nhà ái quốc vì sợ bị tiêu diệt, tập đoàn bảo vệ ý thức hệ cũ, chống ý thức hệ mới, học thuyết mới sợ tràn ngập sẽ làm cho họ mất chân đứng trên mọi địa hạt.
Nhưng chắc chắn không có gì cản nổi bánh xe tiến hóa của lịch sử.
Đám sĩ phu bị bắt, ngoài các lãnh tụ nói trên còn có: Nguyễn Thành (Tiểu La) Lê bá Trinh, Trương bá Huy bị án đánh trăm roi, đày ba ngàn dặm khổ sai chín năm (sau đổi bảy năm). Chín năm giam lại ở tỉnh như Châu Chế (có tội vì đi đồng thuyền với Trần quí Cáp) Tư Cán (vì tội dạy thể thao). Trần cao Vân bị giải vào Bình Định sau mới kết án chung thân đày Côn Lôn, Tú Dương, Hương Cảnh, Hương Quản cũng đày ra Côn Lôn. Còn hạng những người như Lê Cơ, các giáo sư v.v… bị án hai ba năm không biết bao nhiêu 7 chưa kể những người như Thông Cào, Dương Thưởng v.v… bị đày ra Lao Bảo.
Số học sinh từ Quảng Nam ra học Pháp Văn ở Hà nội (chắc là tại Đông Kinh Nghĩa Thục) hơn mười người, có Cử nhân Nguyễn bá Trác, Tú tài Phan Khôi, Nguyễn Mai… đều được điện sức về. Ai về thì đều bị làm án. Nguyễn bá Trác trốn đi ngoại quốc (sau về đầu thú, hợp tác với Phạm Quỳnh mở Nam Phong Tạp Chí) cha ông bị bắt, nhà cửa đang giàu có, đổ ra nghèo xác xơ.
°
Sau khi bắt người rồi thì đến giải tán các cơ sở của Phong Trào.
a) Giải tán hội buôn tại Hội An, do ông Bang kỳ Lam (Nguyễn Toản) và ông Phan thúc Duyên làm chủ. Ông Duyên bị xử tử đày Côn Lôn, ông Toản 70 tuổi được miễn nghị. Tiền thì chiếu theo sổ sách trả lại cho chủ hùn, còn người hùn vốn thì từ thân sĩ đến các nhà giàu đều bị kết án khổ sai từ ba tháng đến ba năm. Cũng có khi bắt tội cả vợ hay cha chủ hùn nữa 8. Khi trả cổ phần thì mỗi cổ phần là 50 đồng, (hồi đó là số tiền rất to, gọi là bạc gói) chỉ trả chừng 5, 6 đồng. Nhưng chủ hùn đang bị bắt nào dám nói chi, hoặc không dám lãnh, chỉ ký khống là đã nhận rồi. Bọn quan lại mặc sức làm giàu. Còn những hàng hóa trong cửa hiệu đều bị chúng chia tay nhau, tan tành hết.
b) Phá trường học và các tổ chức khác do thân sĩ lập ra.
Theo Phan châu Trinh thì xã nào có lập trường học thì sức ngay quan binh khố xanh người Pháp, dẫn trên 20 lính, hiệp với quan tỉnh người Nam đến tại chỗ hủy phá đuổi bắt như là vào trận giặc lớn vậy. Ông có kể vài vụ tiêu biểu :
Làng Tây Lộc (Làng Phan châu Trinh) trường Pháp và Hán do một giáo sư dạy, trên 40 học trò. «Bảo học trò ra chỗ tập thể thao, thao diễn thử một lượt. Quan binh mang gươm trợn mắt đứng xem. Thình lình tay đánh, chân đá giáo sư ngã quỵ xuống đất, nạt lính trói xấp ké hai tay dắt đi ra (…) Lại bắt người anh con nhà bác của tôi là ông Phan Khải, 60 tuổi, bắt người phu trường (…) cùng với hai giáo sư cột chung một giây, khiến lính tập lôi chạy, rồi theo sau đánh đập túi bụi như lùa bày trâu dê. Từ đó đến tỉnh phải đi bộ một ngày đường, đương lúc trời nắng gắt gao đầu không cho đội nón, chân không cho mang dép guốc, đói khát không cho ăn uống. Ôi ! độc ác biết bao ! Sau Phan Khôi bị án khổ sai một năm, mỗi giáo sư bị tù ba năm».
Sau làng Tây Lộc, tác giả có kể thêm trường hợp những làng Phú Lâm của Lê Cơ, giáo sư ba đàn ông và một đàn bà. «Quan binh liền hủy phá trường học, hoặc lấy làm chuồng ngựa, hoặc làm phòng trú cho lính, bàn ghế phá chụm hết phần nửa, sau rồi dỡ nhà trường đem làm chỗ khác cho vợ con lính tập ở». Lê Cơ bị tù ba năm. Đó là những trường hợp Phan châu Trinh biết chắc chắn vì là trong làng hay ở làng có thân thích : «Đây tôi chỉ kể mấy việc tôi biết chắc (lính và nhà chức trách nhân cơ hội đánh đập cướp bóc) mà thôi, ngoài ra, phàm xã thôn nào có trường học, lính cũng đóng lại một hai ngày, bắt dân sắm ăn uống, nói là bắt phạt, cướp nhiễu cũng nhiều, không thể kể xiết. Tình hình đó, tỉnh nào có trường học thì cũng đều có như vậy cả, nhất là ở Nghệ An, Hà Tĩnh lại càng dữ hơn».
Việc phá trường và các cơ sở khác sở dĩ tiến hành mạnh như thế là thực dân và quan lại Nam triều muốn nhân cơ hội phá tan những mầm mống của một lực lượng dân chúng hùng mạnh đang bắt đầu kết tụ lại một cách khoa học, có phương pháp, có lãnh đạo, có hướng tiến. Vả chăng, dù muốn hay không, khi quan lại Pháp sang thuộc địa họ cũng đều biết chắc chắn là không bao giờ nên để cho quần chúng giác ngộ, đoàn kết… Một số trí thức, dù hàng trăm người đứng dậy la hét, phản đối ồn ào mà không có quần chúng hưởng ứng thì cũng như tiếng kêu trong sa mạc. Mà khi quần chúng bắt đầu đứng lên, tập họp thành khối là bắt đầu có sự tranh đấu khó khăn, gian lao, nguy hiểm. Nhất là khi quần chúng đó được những trí thức can đảm đứng ra lãnh đạo nữa thì sức mạnh, sức phát triển sâu rộng sẽ không thể nào lường trước được. Phong trào Duy Tân Quảng Nam khi đã đi sâu vào dân chúng và dân chúng muốn biến các lý thuyết trừu tượng thành hành động cụ thể là muốn có một kết hợp chặt chẽ giữa sĩ phu lãnh đạo và quần chúng để thử thí nghiệm quyết liệt chủ thuyết Dân Quyền trên đường lối tranh đấu bất bạo động sau khi thu được vài thắng lợi trong các cuộc tranh đấu hợp pháp khác. Nhưng cuộc tranh đấu này lại đụng vô chính cuống họng của vấn đề nên bị phản ứng dữ dội, đồng thời theo đó, người Pháp biết là đến lúc Duy Tân đã từ sĩ phu xuống quần chúng, giờ báo nguy đã điểm nên chúng lồng lộn, đàn áp điên cuồng, chấp nhận hết tất cả những lối trừng trị, trả thù tàn bạo, vô loại của bè lũ phong kiến, cốt để nhổ cỏ nhổ cho tới gốc. Chính Khâm sứ Trung Kỳ, bình nhật đối với sĩ phu khá tử tế, thế mà lần này «đánh điện sức các tỉnh trừng trị thẳng tay» 9 chém ngay một Tiến sĩ Giáo thọ, giam hết thân sĩ, bắn bỏ những người chống đối, các lãnh tụ của dân… Cuộc khủng bố ấy lẽ tất nhiên sẽ tràn nhập cả Trung Việt, nơi nào Phong Trào Duy Tân tràn đến, nơi nào có cái đầu cắt tóc (Tân văn hóa) và có lời kêu gọi xin sưu (Dân Quyền)!
«Bao nhiêu người cúp bắt không có chừa»
(Vè xin xâu)
Những trang lịch sử vĩ đại từ căn cứ địa bị càn quét dang dở lần đến các tỉnh dọc dãy Trường sơn. Và Định Mệnh của Thượng đế Pháp muốn rằng cả hai Phong Trào Duy Tân và Quang Phục vốn căn bản càng ngày càng tách rời nhau thì bây giờ càng xích lại gần nhau : người chết dưới chung lưỡi dao và người sống sẽ đoàn viên nếu không ở tại côn đảo Côn Lôn thì tại rừng sâu Lao Bảo.
Chú thích:

1

Bản in đề sai là dụ.

2

Trần có diễn bộ sách DỊCH gọi là Trung Thiên dịch tự sánh với dịch Thiên tiên (chắc lộn: Tiên Thiên?) của Phục Hy, dịch Hậu Thiên của Văn Vương cũng bạo gan nhỉ! Người tầm thường đâu có gan ấy. Dù Lý là tên ngục mà vua Văn Vương bị giam và làm kinh dịch trong ấy (HTK chú)

3

Thú Dương là núi mà Bá Di, Thúc Tề không ăn cơm nhà Châu, chịu chết.

4

Xin đón xem hai tập : Tiền phong trào và Hậu phong trào Duy Tân của cùng tác giả, đang soạn.

5

Như Huỳnh thúc Kháng, Phan thúc Duyên.

6

Phan châu Trinh phê bình bản án: «Lấy điều thân yêu đồng bào làm đầu. Đọc đến câu này thì càng phải than rằng lòng người nước Nam đã chết mất cả rồi! Câu nói như thế, dầu hạng chót trong loài người cũng không nói ra, huống chi đường đường là quan lớn ở trên dân! Than ôi! Người Nam sao mà thoái thóa mau quá vậy. Thương yêu đồng bào mà phải xử tử, thì ghét đồng bào chắc có công to, mà giết nhiều đồng bào chắc nó thưởng lớn! Có lẽ nào như vậy sao? Nhưng mà 4, 5 năm nay, ở Trung Kỳ, trên từ Đại Thần, dưới từ quan nhỏ, không ngày nào là không thấy thăng quan tấn tước, nhiều người không hiểu tại sao, nay thì đã biết rõ rồi vậy». (THDB, trang 13, 14)

7

Theo Phan châu Trinh trên một trăm án từ hai đến ba năm.

8

Thế còn Công sứ và các quan Nam có phần hùn thì sao?

9

Riêng ông Gạc Nhe Công sứ Bình Thuận không chịu thừa hành chống lại lịnh khâm sứ, không hủy trường học, phá hội buôn, bắt thân sĩ. (Do đó Công Ty Liên Thành còn?) (Theo P.C. Trinh)

DỌC THEO DÃY TRƯỜNG
SƠN ĐẾN HÀ NỘI
QUẢNG NGÃI là tỉnh giáp giới Quảng Nam nên khi những người ra buôn bán ở Hội An mang tin về, lập tức nhân dân đứng dậy.
Chúng ta chưa quên lúc Phan châu Trinh ở Nam về đã ghé và thuyết phục Lê Khiết ra sao. Còn nhiều nhân vật khác không rõ ông đã nắm được những ai, rồi họ liên lạc với Phong Trào Quảng Nam ra sao, như Cử Sụy 1, Cử Quảng, Cử Cẩn, Nguyễn bá Loan 2, Tú Phạm, Cao Chẩm. Ở Quảng Ngãi cũng có nhiều người từng xuất dương theo Phan sào Nam.
Trước hết, dân chúng tụ tập quanh tỉnh và các phủ huyện. Có một số người ở Quảng Nam mang kéo, lược vào truyền nhau cúp tóc xin xâu. Phong Trào lan rộng, vây tòa sứ. Công Sứ bảo: «Chúng mày muốn làm cách mạng thì phải đợi vài mươi năm nữa sẽ làm còn nay thì chỉ tìm đến chỗ chết mà thôi». 3
Dân không nghe, cứ hò hét đòi duyệt lại chính sách thuế khóa, làm xâu và lăn xả vào. Công sứ truyền lệnh lính nổ súng. Dân chết và bị thương nhiều lắm. Nhưng dân nhất định không đi. Những người bị thương nằm rên la khắp đường.
Vừa có quan Tây làm thương chánh tới, đi qua chỗ dân bị thương, đè lên chân một người. Người ấy rên la to lên, tức thì dân ùa tới cản xe, không cho đi nữa. Tây Thương Chánh hỏi họ muốn gì : «Nhờ quan lớn vào thành nói với Công sứ là dân nghèo không chịu nổi xâu thuế, đi đến tay không, xin giảm bớt chứ chẳng có ý gì khác. Xin Công sứ thương tình, đừng giết hại kẻ vô tội».
Quan Tây ấy nhận lời và bảo người phu kéo xe đi. Dân nghèo không cho đi, nói rằng : «Chúng tôi xin giữ xe cho quan lớn, quan lớn vào nói với quan Công sứ được thì khi về chúng tôi sẽ kéo xe cho quan lớn đi».
Tây Thương chánh đành đi bộ vào. Một lát sau thấy Công sứ lên đứng trên thành, bảo người cầm 50 đồng bạc cho dân và ra lệnh phải trả xe cho quan Tây. Dân nghèo đồng thanh kêu to : «Nay ngoài thành có tới vài ngàn người chết và bị thương, quan Công sứ cho chừng đó tiền không biết dùng làm gì, không dám lấy, chỉ xin đừng sai lính bắn giết mà thôi».
Đồng thời, ở các phủ huyện, dân khí cũng hết sức bồng bột. Riêng tên lãnh binh là võ quan cao cấp, trong khi coi đốc việc thu thuế, đã hành hạ dân quá đáng, gieo thù oán khắp nơi, dân liền vây bắt vợ con, làm nhà giam lại. Đồng thời, cũng tung ra những truyền đơn kể tội Nguyễn Thân tức quận công Thạch Trì. Nguyễn Thân là nhân vật trọng yếu bậc nhất nước ta vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Y nhờ diệt các lực lượng Cần Vương Quảng Nam. Nghệ Tĩnh mà uy danh chấn động cho đến những đại phản quốc cỡ Hoàng cao Khải mà cũng đến phải tránh ra ở Bắc làm một thứ « phó vương ». Nguyễn Thân được quyền chém trước tâu sau (tiền trảm hậu tấu) nên y chẳng từ ai, khi y muốn, khi cơn điên đẩy y đi tới. Vì bị Binh bộ thượng thư Hồ Lệ lãnh đạm khi thấy y giết nhiều hàng binh của Phan đình Phùng, y kiếm cớ bắt con Hồ Lệ chém đầu lập tức. Bấy giờ, tuy không còn ở thời hiển hách cũ, nhưng uy danh còn vang dậy, một lời nói còn tạo nên phúc họa cho bất kỳ ai. Thế mà Cử Cẩn công nhiên bài xích, mắng nhiếc y không kiêng nể.
Cuộc đàn áp ở Quảng Ngãi rất hãi hùng tàn bạo, sĩ phu và dân tranh đấu rất kiên quyết. Đến đỗi kẻ cường quyền thấy bắt giam đông quá, mới nghĩ ra một hình cụ lạ : làm những cái gông bằng cây tre dài, gông chung ba bốn người vào một gông bắt phơi nắng.
Sau vụ này, Lê Khiết và Nguyễn bá Loan (cựu đảng Cần Vương, cũng gọi Ấm Loan) bị giải kinh giam ba tháng rồi đem về chém ở Quảng Ngãi. Khi đem các ông ra chém, Cử Cần chắc chắn là đến lượt mình rồi nên la lớn : «Làm trai có chết thế mới tươi tốt !»
Nhưng ông ta lại không bị giết, nhân thế có làm bài thơ, Huỳnh thúc Kháng dịch ra quốc văn:
Nước cũ, non sông nặng,
Triều tân, thế lực hèn.
Thân sá kiêng dầu vạc,
Lòng thề giết loài kình
Muốn học Cao luôn khóc,
Nào hay Cát chả nên 4
Ta hồ ! trôi máu đỏ,
Đồng loại hưởng văn minh
Phong Trào Duy Tân không phải Duy Tân hóa mà là một ý thức, một ý chí, một ý khí để đẩy quốc gia dân tộc đi tới để «Đồng loại hưởng văn minh», Bởi thế, kể gì «trôi máu đỏ». Chính ở chỗ lời thơ khẳng khái đó, người ta mới có thể nhận rõ, phân biệt rõ Phong Trào Duy Tân với mọi hình thức hóa Duy Tân của những lớp người chỉ muốn chạy theo trào lưu hưởng lợi, không băn khoăn, không lý tưởng:
Túng nhiên lưu nhiệt huyết,
Đồng loại hấp văn minh.
Sau Bố Khiết, Ấm Loan bị tử hình, dân bị bắn chết thì các ông Cử Sụy, Cử Quản, Tú Chẩm, Tú Tuyên, huyện Mai bị đày ra Côn Lôn. Cử Quản chết ngoài đảo. Còn Cử Sụy, Tú Chẩm thả về, lại tham gia vụ vua Duy Tân khởi nghĩa do Thái Phiên, Trần cao Vân lãnh đạo. Cử Sụy bị tử hình, Tú Chẩm lại đày ra Côn Lôn. Nhưng anh hùng không tranh đấu ngoài đời được thì lại vào lao ngục tranh đấu: cùng Nguyễn trọng Thưởng, ông vùng lên trong cuộc «tù chung thân khởi nghĩa» năm 1918 và bị bắn chết.
Công cuộc chống thuế ở Nam Nghĩa hùng dũng tràn vào Bình Định và được hưởng ứng bồng bột lạ thường. Những lớp sóng cúp tóc xin xâu từng đợt tung trào, không gì ngăn cản nổi. Lúc bấy giờ vì tình hình Nam Ngãi quá găng nên các quan phủ huyện đều phải về trú tại tỉnh cho quân lính bảo vệ. Thế là dân hoàn toàn chủ động, dân tới các phủ huyện, gặp thầy thông lính lệ nào họ đều bắt cúp tóc, còn toàn dân thì nêu hai chữ « Đồng bào » có khắc cả con dấu « Đồng bào ký » phát cho mỗi người một thẻ truyền khắp dân gian, có lẽ không khác gì ngày xưa Nguyễn Huệ đã từng phát thẻ Tín bài cho dân chúng toàn quốc. Họ không tự nhận chức Anh Cả, nhường hẳn chức ấy cho ngoài Nam Nghĩa, còn các cấp lãnh đạo thì tùy theo đó mà gọi «anh hai, anh ba, anh tư». Ta cũng nên nhớ là dân Bình Định chuộng võ nghệ, những tay giỏi võ trong dân chúng không thiếu gì nên lối hành động của họ cũng có vẻ bạo động hơn hết. Họ cho những đoàn dân đi bắt bọn người nguy hiểm, độc ác và hạng thâu thuế chợ rồi đem về tự trừng trị, tự xử phạt. Những kẻ có nợ máu với dân đều bị giải ra cho anh cả (Nam Ngãi) xử án và rồi không thấy trở về nữa ! Đồng thời việc vây tỉnh cũng hết sức hùng dũng, trật tự. Các tay lãnh tụ làm thẻ cắm cho các từng lớp chiến đấu theo đó mà sắp xếp. Lớp vây hãm là dân cảm tử, dành cho những người dám hy sinh. Có lẽ họ phải kêu gọi cảm tử là vì rút được những kinh nghiệm ở Quảng Ngãi, lính bắn vào những người yếu đuối khiến gây náo loạn nên phải có cảm tử để dám chết một cách kiêu hùng thay cho dân tay yếu, chân mềm; sau đó là thẻ dành cho dân tự cường điều này cho thấy bài học tự cường của Phong Trào Duy Tân đã vang đi sâu rộng… Ta cũng đừng quên khi đoàn phát động Phong Trào Duy Tân của Phan châu Trinh vào Bình Định, đã ghé lại đây để tuyên truyền và nhất là sau vụ làm bài thi của các chí sĩ thì tư tưởng mới rất được hâm mộ. Lúc ở Nam về, Phan châu Trinh vẫn còn ghé lại Bình Định cũng như Quảng Ngãi để cổ xúy học mới nên tân triều không chỉ phổ cập trong hàng sĩ phu mà cả quan lại nữa. Thành ra chính ở Bình Định quan lại cũng có cảm tình với dân biến động… dù họ đã biến thành giặc Đồng bào, chứ không chỉ mang tên «đảng cúp tóc » và về sau này, chữ đồng bào ấy gần như chữ Cấm kỵ, ít ai dám nói tới. Cuộc vây hãm kéo dài gần cả tháng, lớp người nọ mệt mỏi thì lớp khác vào thay, người ở nhà sắp đặt mang cơm nước cho người ngoài mặt trận. Tôi nói quan lại có cảm tình, như Tri huyện Hồ sĩ Tạo một thân sĩ đạo đức rất được biết tiếng cũng chịu ký tên vào đơn xin xâu. Sau này, khi bị kết án, Công sứ tỉnh ấy xử chém nhiều người, nhưng tổng đốc tỉnh nói : «Dân nghèo không hiểu làm bậy, phạm pháp, nhưng xét ra cũng không hại gì lắm, nên lựa vài ba người đầu nậu xử quyết, thừa ra thì phân biệt định tội».
Công sứ không nghe, đánh điện triệt chức tổng đốc; viên quan kế nhiệm chỉ đành cúi đầu vâng theo các ác ý của công sứ nên xử chém rất nhiều. Theo Huỳnh thúc Kháng thì vài mươi người bị tử hình ở chợ Cầu Chàm (Phan châu Trinh bảo là 20, 30 người trở lên) không kể số bị giết chết trong khi xung đột, mười một người bị đày ra Côn Lôn: Tú tài Nguyễn duy Viên, học sinh Hồ như Ý, Chánh Hàm, phó Khả, Trùm Lập, Xã Hữu, Hồ Cương, Hương Thức…; các nhà danh vọng như Hồ sĩ Tạo, Nguyễn trọng Trì (Cần Vương cựu đảng) cũng bị bắt. Trong số này, có lẽ cũng có người mắc oan. Phan châu Trinh có kể: «…khi tôi ở Côn Lôn thấy giải đến tám người, trong số đó có một người bị kêu án là làm tướng cầm đầu, tay cầm địa đồ vào núi, tính mưu chiếm cứ làm loạn. Tôi tới hỏi mới biết: người ấy trạc độ 25 tuổi, mặt mày thô kệch, nói năng khờ khỉnh, gần như không phân biệt được lụa hay vải, trông qua cũng biết không phải là người hiểu việc vậy. Tôi lấy làm lạ, hỏi kỹ đầu đuôi mới rõ: người ấy tên là Hồ như Ý, nhà giàu, con một, không học, năm trước thi hương ở tỉnh, lấy tiền mua được đỗ tú tài (có lẽ là chức học sinh của trường thi ở tỉnh chăng, vì gọi là Học Ý? 5. từ đó ở nhà làm ăn. Khi dân dậy, quan Nam thèm tiền anh ta, vu hãm, bắt giam kỹ, làm án nặng, bảo trút sạch của nhà ra chuộc, anh ấy tiếc tiền không chịu, nên vu làm tướng cầm đầu, xử tử đày Côn Lôn». (Trung Kỳ Dân Biến trang 34)
Không rõ nhận xét của Phan châu Trinh về Hồ như Ý có hoàn toàn đúng không, nhưng chắc chắn việc ăn hối lộ thì nhân vụ này, bất kỳ tỉnh nào cũng có đều như nhau cả. Bao nhiêu gia đình tan nát, điêu linh.
Về phong trào «đảng cúp tóc» này ở Bình Định sâu rộng đến đâu? Ông Huỳnh thúc Kháng có nhắc lại một tờ cảnh cáo của viên tri phủ nọ, có hai câu rất được truyền tụng «Than ôi! Biển khổ ngàn trùng, cứu vớt ngoa truyền Phật sống! Gió to một trận, dân đen thảy hóa thầy tu (Ta hồ khổ hải thiên trùng, tế độ ngoa truyền hoạt Phật; cuồng phong nhất trận, kiềm lê tận hóa hành tăng)» ý ông ta muốn ám chỉ cái đầu hớt tóc ngắn của toàn dân Bình Định mà trận cuồng phong Duy Tân thổi vụt qua đã để lại.
Nhưng trận cuồng Phong ấy đã tiêu mất hẳn chưa sau cuộc khủng bố trắng ?
Chưa.
Vì «Sau khi tan cuộc, quan tỉnh cho lính về nhà quê phát bài chỉ, thuế cho các làng mà còn có người bị dân bắt giết» (Vụ kháng thuế trang 383)

Các Tỉnh Phú Yên trở vào trong, Phong trào «cắt tóc xin xâu» không lấy gì làm mạnh lắm nên số người tù tội cũng ít. Chỉ có ở Khánh Hòa, Trần quí Cáp bị chém, Bình Thuận Đặng nguyên Cẩn làm đốc học ở Nghệ An, đổi vào đây bị giải lại về Nghệ An rồi sau đày Côn Lôn: tại tỉnh này, công sứ Gạc Nhe không tuân lệnh tòa khâm nên các cơ sở của Phong Trào Duy Tân không bị phá hủy và chắc nhờ đó Công Ty Liên Thành đến nay vẫn tồn tại, phát triển.

Thừa Thiên là nơi sĩ phu tụ tập, sách báo mới lạ ở ngoại quốc ít nhiều gì cũng có du nhập nhất là tân thư. Do lẽ đó, dù ở nơi chế độ phong kiến, đời sống xa hoa khiến sĩ phu mất tư tưởng thực tế mà vẫn không ngăn cấm nổi một số đông hưởng ứng phong trào Duy Tân. Do đó, tại Thừa Thiên cũng có mở hội buôn để đáp ứng với tiếng gọi của Hợp Thương, Triều Dương, Liên Thành… Nhân cuộc chống thuế bột phát ở Quảng Nam, dân chúng có nổi lên bắt một viên lãnh binh cầm giữ… Nhưng rồi công cuộc ấy dàn xếp mau chóng vì thiếu khối quần chúng tích cực được đào luyện trước.
Hà Tĩnh và Nghệ An theo cuộc cự sưu «hò reo như gió đưa diều». Huỳnh thúc Kháng có kể một giai thoại, chứng minh sức mạnh vũ bão của tư tưởng mới, của Dân quyền đã lôi cuốn dân chúng và sĩ phu đứng dậy ra sao:
«Hà Tĩnh thì huyện Can Lộc cùng vùng Hạ Lôi, Kỳ Trực dân chúng tụ tập vây huyện, Nghệ An dân cũng xôn xao tụ tập, truyền đơn dán khắp nơi, kể tội quan lại rất kịch liệt. Có chuyện thú là quan huyện Can Lộc hỏi đến:
- Ai bày các anh làm việc này?
- Bẩm quan Tân Thơ».
Thật là một sức mạnh mới lạ, sức mạnh của Dân quyền như chưa hề có. Về vụ này, những người bị chém thì Hà Tĩnh có Trịnh khắc Lập, Nghệ An có Nguyễn hàn Chi. Những người bị bắt trước như Tấn sĩ Ngô đức Kế, cử nhân Đặng văn Bá, Lê văn Huân bây giờ cũng bị đày đi Côn Lôn với Đốc học Đặng nguyên Cẩn.
Câu đối khóc Nguyễn hàn Chi cũng nói lên phong trào Tân học ở Nghệ Tĩnh đã biến thành tiếng reo hò sắt máu (dịch): «Bút muốn viết thì viết, miệng muốn reo thì reo, phơi phới đáng yêu thay, nhân cách rèn nên từ học mới. Hỏi con vẫn chưa con, hỏi vợ vẫn chưa vợ, khăng khăng làm gì đấy? Máu tươi tuôn chảy với đồng bào».
Thanh Hóa lúc ấy Phong Trào Duy Tân cũng khá mạnh. Về giáo dục đã có Hà Thành thư xã, giao thông với Đông Kinh Nghĩa Thục Hà Nội cùng Hợp Thương và Triều Dương… 1906 Phan châu Trinh ở Nhật về, có gặp sĩ phu ở Thanh.
Để hưởng ứng cuộc chống thuế bùng ra ở Quảng Nam, sĩ phu Thanh chỉ mới cho dán một tờ hiệu triệu, tỏ ý hưởng ứng nhiệt liệt công cuộc ấy. Tờ hiệu triệu mới dán lên, chưa kịp hành động (theo Phan châu Trinh thì mới có một đôi xã tụ họp mà chưa đến tỉnh) thì nhiều người bị bắt rồi bị đánh đập một hai trăm roi, giam cầm không cần rõ tội gì. Ông Tú Lê nguyên Thành khẳng khái đứng ra tự nhận cả, nhưng các bạn cũng không khỏi bị án chung thân hay chín hoặc năm năm đày Côn Lôn: Cửu Xưng, Cử Soạn, Tú Thiệp, Tú Ta, Cử Khai, Huyện Nam, Ký Tín.
Các nhân vật trọng yếu của Đông Kinh Nghĩa Thục tuy hết sức tách rời lực lượng bạo động ra khỏi mọi hoạt động của nhà trường, nhưng triều bạo động ở bên ngoài vẫn ảnh hưởng nhiều tới nghĩa thục. Những vụ mua và chở khí giới về Hà nội, xuất dương du học, sĩ phu Nghệ Tĩnh lập thêm đồn Tú Nghệ cạnh chiến khu của Đề Thám ở Yên Thế… đều khiến người Pháp lo ngại là do ảnh hưởng của Nghĩa Thục nếu không phải Nghĩa Thục đóng vai trò quan trọng «Đầu năm 1908, họ thu giấy phép của Nghĩa Thục, lấy cớ rằng có thể làm cho lòng dân náo động. Tính ra trường hoạt động trước sau được khoảng một năm (…) tin chưa ra, các cụ đã đoán trước, thủ tiêu hết những giấy tờ quan trọng nhất là bản in các bài ca ái quốc, và những sách của cụ Sào Nam gởi về (…) công việc dạy học và diễn thuyết phải dẹp, còn công việc chấn hưng công nghệ vẫn tiến hành, nhưng ít lâu sau những hiệu buôn cũng lần lần phải đóng cửa vì nhiều cụ tạm lánh mặt, nên thiếu người quản lý». (Đông Kinh Nghĩa Thục trang 116, 117)
Nhiều nhân viên của Nghĩa Thục bị bổ đi làm quan. Hoàng tích Phụng và Nguyễn Quyền vào ty giáo huấn, Lương trúc Đàm và Dương bá Trạc được mời làm tri huyện nhưng hai vị cử nhân trẻ này đều từ chối.
Thời kỳ Nghĩa Thục bị đóng cửa tức là sau khi các vụ kiện cáo quan lại ở Trung Việt đã xảy ra lung tung, ở Nghệ Tĩnh ba người trong đó có Ngô đức Kế bị bắt giam từ 1907 rồi ở Quảng Nam Trần quí Cáp bị đổi vào Khánh Hòa. Không nghe nói có cấm chỉ các trường hoạt động. Nhưng sự giam cầm và đẩy xa các nhân vật trọng yếu nhất của Phong Trào là đã manh nha sự đàn áp hoạt động các trường để dẫn tới triệt hạ cơ sở giáo dục lừng lẫy nhất của Phong Trào. (tức ĐKNT).
Liền khi Nghĩa Thục bị đóng cửa, xảy ra vụ dân biến «hớt tóc xin xâu» ở Quảng Nam kéo theo những cuộc biểu tình vĩ đại khắp các tỉnh miền Trung, rồi tới vụ âm mưu bạo động của Đề Thám, sau rốt là vụ Hà Thành đầu độc. Những nhân vật trong Nghĩa Thục đều bị liên lụy vì Pháp muốn tận diệt mọi hoạt động chống đối họ. Các ông Võ Hoành, Dương bá Trạc, Nguyễn Quyền, Lê Đại… đều bị bắt, phải ra tòa Đề hình và bị kêu án trảm giam hậu, sau đổi làm chung thân khổ sai đày ở Côn Đảo (theo Nguyễn Hiến Lê):
Cơn mây gió trời Nam bảng lảng
Bước anh hùng nhiều chặng gian nan.
Ngẫm xem con tạo xoay vần
Bày ra một cuộc Duy Tân cũng kỳ
Suốt thân sĩ ba kỳ Nam Bắc
Bỗng giật mình sực thức cơn mê...
Khi lên như gió thổi diều
Trong hò xin thuế, ngoài reo hãm thành
Cách hoạt động người mình còn dại,
Sức oai quyền ép lại càng mau,
Tội nguyên đổ đám nho lưu,
Bắc Kỳ thân sĩ đứng đầu năm tên.
Trang sử vĩ đại của Phong Trào tạm kết thúc.
Chú thích:

1

Có lẽ là Cử Thụy hay Nguyễn Thụy (1878-1916) Thôn Hổ Tiếu, xã Tư Nguyên, quận Tư Nghĩa, Quảng Nghĩa đỗ cử nhân 1903 sau vụ kháng thuế, bị lưu đày tại Côn Lôn. Ông là người có sáng kiến dùng điệu ca Huế để đặt những bài ca tuyên truyền cho quần chúng sáu phủ huyện Quảng Nghĩa hăng hái theo Dân Quyền, như bài sau đây :
…Anh em ta thảy cả
Xin khuyến ngã.
Khuyến ngã dân quyền,
Răng rứa chứ không khai trí hoá.
Sao cho khá với người,
Để tiếng cười.
Xấu hổ nghìn năm…
Nghìn năm lâu dài ai hỡi là ai!
Cũng mắt tai trong cõi trần ai.
Sáu phủ huyện anh em ta gắng sức…
Sau khi ở Côn Đảo về, ông tiếp tục tham gia và lãnh đạo «vụ Duy Tân 1916» tại Quảng Ngãi rồi việc bại, bị chém cùng bảy đồng chí khác, cũng năm ấy. (Theo Từ Điển 315)

2

Nguyễn bá Loan : Con quan Tổng đốc Nguyễn bá Nghi, huyện Mộ Đức Quảng Ngãi.

3

Lời nói ấy ai ngờ ứng nghiệm! từ 1930 về sau ở Quảng Ngãi làn sóng cách mạng lên cao, biểu tình phản kháng liên miên.

4

Theo tôi hiểu đây là hai nhân vật Duy Tân rất lừng danh ở Nhật Bản: Phúc Trạch Dụ Cát (lập Khảng Ứng Nghĩa Thục) và Cao Sơn Chánh Chi?

5

Nghi vấn của tác giả sách này. Vì chỉ nghe gọi là Học chứ không nghe gọi là Tú Ý bao giờ.

CÁI QUAN LUẬN ĐỊNH
ẤY THẾ là toàn thể sĩ phu tích cực, cá nhân tích cực, ai không bị giết, tự sát đều đã vào ngồi trong ngục tối hoặc đã đi Lao Bảo nơi rừng sâu Quảng Trị, hoặc lên đường đi Côn Lôn, tập quen với trường học thiên nhiên ở giữa đại dương. Thời kỳ này, có lẽ lần đầu trong lịch sử chính trị Việt Nam mà sự tù tội không còn bị xem bằng con mắt hãi hùng, vô vọng mà được nhìn như nơi huấn luyện cần thiết cho bậc anh tài. Phan châu Trinh ngạo nghễ «Nam nhi hà phạ sự Côn Lôn» (Thân trai nào sợ cái Côn Lôn) dù ông là người đứng đầu sổ tù nơi cô đảo ấy thì Huỳnh thúc Kháng chỉ bình tĩnh và khoa học gọi nó là «trường học thiên nhiên» như một chính trị gia thành thực muốn tiến bộ.
Cũng nhờ có Côn Lôn mà đường đất xa khơi trên đất nước không làm cho các chí sĩ gặp nhau dễ dàng dù vẫn thân nhau, bây giờ mới thật là đại đoàn viên.
Vào khoảng tháng tám năm 1908 Huỳnh thúc Kháng ghi: «Lúc bấy giờ cùng đi với tôi có Phan thúc Duyên 1 Lê bá Trinh, Trương bá Huy, Dương phu Thạc cùng hương Cảnh (Phước Yên) Hương Quần (Địch Thái), người cựu đảng Cần Vương Tiểu La, cả thảy tám người, do chuyến xe lửa đường Hội An ra Đà Nẵng lên tàu thủy. Tại khoang thuyền phía sau, một đoàn xiềng gông lang thang, té ra thân sĩ Nghệ Tĩnh cùng dân bị án đầy Côn Lôn. Lần hỏi ra mới rõ : Ngô đức Kế, Đặng nguyên Cẩn, Lê văn Huân, Đặng văn Bá, đều là bạn từ lâu đã giao nhau trên đường tinh thần chớ chưa lần nào xáp mặt, nay mới thấy qua đã như người cũ, cùng Đồ Tịnh, Đội Phương, Lý Tư, Lý hạ Lôi, Hương Hợp. Kế Thừa Thiên : Lê đình Mộng cũng bị giải lên Tàu. Đến Bình Định vào cửa Thị Nại có thân sĩ và Dân Nghĩa, Định xiềng xích lên thuyền: Nguyễn đình Quản, Hồ Khê, Nguyễn Sụy, Nguyễn Mai, Phạm cao Chẩm, Nguyễn Tuyên (Quảng Ngãi); học sanh Bình Định: Hồ như ý, Hương Đôn cùng dân: Chi, Tịnh, cộng tất cả đồng thuyền 27 người, đến Sài Gòn vào khám cúp tóc 2 thay áo quần, ở lại độ một tuần đợi kỳ tàu, ngày 28 tháng 8 đến Côn Lôn. Từ đây đến 45 tuổi, trải 13 năm đều thuộc thời kỳ ở đảo». (Tự truyện trang 34)
Rồi sang năm 1909 ông ghi thêm: «(…) Năm ấy các thân sĩ Hà nội bị đày như: Nguyễn Quyền, Dương bá Trạc, Lê Đại, Võ Hoành, Nguyễn Chỉ Tín; ở Thanh Hóa ra như Nguyễn Xứng, Nguyễn Soạn, Nguyễn Thiệp, Nguyễn nguyên Thành, Huỳnh văn Khải, Lê trọng Nhỉ, Lê duy Tá, Nguyễn Tiến; ở Quảng Ngãi như Trần kỳ Phong, Bình Định: Nguyễn duy Viên, Nguyễn Hàm cùng Phó Khả, Xã Hữu, Hương Thức, Hồ Cương, Danh Can lục tục kéo ra. Ngoài đảo Côn Lôn có bóng quốc sự phạm duy lúc này là nhiều (như kể cả binh sĩ Bắc Kỳ can án đầu độc có hàng trăm)». (Tự truyện trang 35)
Đó có phải là tiếng kêu than hay tiếng reo! Mặc dù sau mấy chục năm mới viết lại tự truyện mà ta có cảm tưởng tác giả vẫn còn reo vui trong một niềm hân hoan trầm mặc của người đang được đưa vào «Trường học thiên nhiên». Phong Trào Duy Tân bây giờ lãnh tụ và toàn bộ tư lệnh, toàn bộ thân sĩ xuất sắc đang bị giam cầm, nhưng nó vẫn chưa chết. Nó đang được hoạt động theo một phương thức khác. Nhưng đó là điều ta cần biết trong một cuốn biên khảo khác.
Ở đây, ta hãy ôn những thành bại của nó để tìm thấy thực sự vai trò lịch sử của nó. Người xưa nói «Cái quan định luận». Ngày nay nó đã chết, nắp quan đóng kín với lãnh tụ và «đảng viên» cuối cùng: Huỳnh thúc Kháng đã giữ một địa vị cao trong chính thể mới và chết cùng sứ mạng của mình trong thời kháng chiến… Cái chết của ông đã khiến người ta bàn luận khá nhiều, khá nhiều về ông, nhưng dầu khen, dầu chê, thiết tưởng không ai không nhìn nhận là ông có cái nhìn thực tế và ông đã hy sinh những giọt máu cuối cùng cho dân tộc như các đồng chí thuở ban đầu của ông. Cũng như cái chết của Phan Khôi, một cán bộ mà có lẽ là người học trò tiếng tăm cuối cùng của Phong trào cũng cho chúng ta thấy thêm, một cách khá rõ ràng, khả năng đào tạo con người của Phong trào. Chúng ta có thể không yêu gì ông Huỳnh thúc Kháng nhưng làm sao không trọng, không phục ông khi dõng dạc rủ áo dứt vai trò viện trưởng viện dân biểu bù nhìn ở Trung Kỳ, khi lặng lẽ từ chối vai trò «sào mũi» mà Cường Để thay mặt Nhật Bản phó thác cho ông để sau này Trần trọng Kim dấn vào nhận lãnh thất bại đau thương… Ta có thể không yêu ông Phan Khôi, nhưng làm sao quên được cái công lớn lao của ông đối với văn học khi chủ trương Phụ nữ Tân văn, làm mới nền tuần báo là loại báo đóng vai trò tích cực thời 1929-1945, đối với thơ mới khi ông đưa một «tuyên ngôn» phát động phong trào và liền đặt bút thử thách bài thơ đầu tiên, mở đầu cho một cao trào thơ mới suốt mười mấy năm trời! Ta có thể chê nàng Lô Gích của ông, nhưng trước khi có những biện chứng pháp mới mẻ, luận lý học của ông vẫn là một biện chứng pháp tiến bộ gấp nhiều lần cái lối lý luận xô bồ của bạn đồng thời…
Nhưng tôi tạm dừng. Chúng ta sẽ còn gặp lại những Con người của phái Duy Tân sau năm tổng khủng bố.
Bây giờ ta thử tìm hiểu vai trò lịch sử của nó.
Vậy muốn tìm hiểu vai trò lịch sử, ta phải nhìn lại vóc dáng nó lần cuối cùng. Sở dĩ như thế là vì cho đến nay, cho đến 1969 này, vẫn chưa ai chịu biết rõ Phong Trào Duy Tân thực sự mặt mũi ra sao.
Đối với những nhận định cũ, ta thấy có những lối nhìn khác nhau:
- Phan châu Trinh, Huỳnh thúc Kháng… chính những lãnh tụ lớn của Phong Trào vẫn không công nhận vụ «cúp tóc xin xâu» là một bộ phận của Phong Trào. Như thế là vì các ông không nhúng tay vào! Nhưng không phải không nhúng tay vào là không làm, nhất là khi những người đứng dậy lãnh đạo xin xâu là những môn đệ xa hay gần của các ông và họ đi đúng các điều khoản mà lãnh tụ Phan châu Trinh gởi cho Pháp như các yêu sách tối thiểu : yêu cầu Pháp đối xử tử tế, trừng trị quan lại tham nhũng tàn ác, xét lại chánh sách xâu thuế… Và đặc biệt, họ cũng theo sát từng chữ của lãnh tụ: không vọng ngoại, vọng ngoại tất ngu. Không bạo động, bạo động tất chết. Nào họ có bạo động đâu! Có khi họ dẫn nhau đến tám ngàn người mà họ không đập phá, đốt cướp… Chỉ có một số người dẫn đi trừng trị đôi ba kẻ có tội máu với dân : trong mỗi tỉnh cơn sốt chính trị lên cực điểm mà chỉ có lẻ tẻ đôi ba hành động như thế thì không ai không công nhận căn bản của họ là «bất bạo động» cả. Vậy thì nó chính là bộ phận bột phát của Phong Trào Duy Tân mà cái đầu hớt tóc tiêu biểu cho Tân văn hóa và việc đưa yêu sách chống thuế tiêu biểu cho Dân quyền: tổng chi, đó là những hành động Duy Tân của những đứa con ưu tú của Phong Trào thực hiện. Có gì mà phải cãi.
- Tuy nhiên ta cũng hiểu thêm là lối nghiên cứu phê phán, nhận định xưa vốn thiếu phương pháp, hệ thống. Nói như Huỳnh thúc Kháng : thấy đầu nói đầu, thấy chân nói chân… Nhà chính trị cũng như nhà biên khảo chưa chịu nắm toàn bộ vấn đề và chưa nhận chân nguyên nhân, diễn tiến, bột phát v.v… để theo dõi, sắp xếp… Do lẽ đó mà có hai sự ghi nhận lệch lạc như tôi nhắc lại nhiều lần. Phong Trào Duy Tân gồm đủ mặt: Thương, nông, học, tân văn hóa (cúp tóc, âu trang…) cơ sở trên học thuyết Dân quyền dù lúc ấy học thuyết này chỉ được hiểu một cách lù mù. Nhưng vì ở Phan Thiết, sản xuất và thương mãi lên cao, hóa ra người ta chỉ biết có Công Ty Liên Thành; ở Hà nội công cuộc giáo dục lên quá cao so với các ngành khác nên người ta gọi gọn lỏn nó là Đông Kinh Nghĩa Thục. Thật sự, ai cũng thấy ngay nó, Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ là một bộ phận của Phong Trào, nhưng tầm vóc quá lớn hoặc nhà biên khảo thiếu phương pháp hệ thống, khiến người ta có cảm tưởng nó biệt lập đối với Phong Trào.
- Lại cũng do nhiều nhà biên khảo không thu thập được tài liệu (in, viết hoặc sống) đủ khắp nơi nên không liên hệ Đông Kinh Nghĩa Thục với các trường học khác ở miền Trung cũng như Phong Trào miền Bắc với Phong Trào Miền Trung. Hóa cho nên, nơi phát xuất, hình thành và khai triển «xuất cảng» Phong Trào hoặc ít ai biết tới hoặc bị hiểu lầm là nơi «nhập cảng» Phong Trào từ miền Bắc vào! Sự lầm lẫn đó dẫn tới bao nhiêu lầm lẫn lớn lao khác do đó đã không tìm thấy đúng diễn tiến và tiến trình lịch sử. Cũng như chính tác giả quyển sách này vì không tìm được tài liệu đầy đủ ở các tỉnh, ở các miền cho nên vẫn chưa phản ảnh trung thực sự hình thành và tiến triển Phong Trào ở khắp nơi. Phong Trào Duy Tân rút lại, phần lớn chỉ được đề cập ở nơi xuất phát, ở các lãnh tụ lớn tại Quảng Nam. Đó không phải vì tinh thần cục bộ mà tại không có tài liệu, những tài liệu quý báo đã lần lượt theo cùng chứng nhân qua bên kia thế giới. Nếu không mau mau cứu vớt chắc sẽ chẳng còn dấu vết trong thời gian ngắn gần đây. Điều đó thật hết sức đau lòng khi ta thấy những vụ xuống đường «khơi khơi» của sinh viên Pháp mới đây mà ngoài báo chí, còn bao nhiêu tác phẩm nói tới, bán chạy như tôm tươi mà những công cuộc vĩ đại như Phong Trào Duy Tân gần như chẳng ai biết tới, cả giới trí thức cũng ít biết tới so với tên một nhà trí thức lừng khừng cỡ Phạm Quỳnh ! Trong khi đó thì Phong Trào vọt lên hàng đầu mọi vận động Tân văn hóa, tân sinh hoạt, phát dương Dân Quyền, đề cao nghề nghiệp, cải thiện sản xuất, thúc đẩy khẩn hoang, thương mãi, giáo dục, một nền giáo dục mới chống từ chương, khoa cử, đề cao khoa học, lấy quốc ngữ làm chuyển ngữ việc mà đến 1945 mới thực sự thực hiện cho các cấp Trung học. Điều lớn lao nhất là Phong trào muốn đòi lại giá trị thực sự của người Việt Nam trong thân phận con người bằng cách chống vọng ngoại, chống cá nhân chủ nghĩa, đề cao đoàn thể. Đó cũng là bước căn bản để chống phong kiến có hiệu quả phần nào trong tiến trình chống thực dân.
- Chính Đoàn Thể là mục tiêu mà Phong Trào phải đi tới. Và đoàn thể tính là một nhận thức không thể thiếu sót khi muốn gia nhập mọi công cuộc có tổ chức của Phong Trào. Phan châu Trinh vẫn luôn luôn nhắc tới, không chỉ những hội cỡ lớn như thương, nông, mà cả những hội cỡ nhỏ, rất nhỏ như hội mặc đồ Tây. Tôi chắc chắn đó là bài học vô cùng quan trọng mà ông đã học được một cách xác thực ở một nước mạnh: Nhật Bản! Nếu ông qua Tàu quan sát, chắc ông không bao giờ giật mình trước sự cần thiết và giá trị vô song của «học hội dân đoàn» để tạo «quốc dân nội lực» đảm bảo cho mọi hoạt động tương lai. Phan châu Trinh là người đầu tiên nhìn thấy sự đồng tiến của dân tộc, sự thay đổi toàn diện cơ cấu vì không vấn đề nào quan trọng hơn vấn đề nào trong một cái nhìn xa và toàn bộ về sự phát triển của Dân tộc.
- Cũng chính nhận thức đoàn thể ấy, tuy bị người Việt xem thường, nhưng thực dân thấy ngay khả năng lớn lao của nó. Do đó, trong khi sĩ phu rầm rộ la hét từ Trung ra Bắc mà vỏn vẹn họ chỉ giam ba người ở Nghệ Tĩnh (thực sự vì nghi có liên lạc với Phan bội Châu) đổi đôi ba người khác ở Quảng Nam (Trần quí Cáp) hay ở Bắc Kỳ (Nguyễn Quyền…). Mãi tới năm 1908 vì ở Bắc có những rục rịch chính biến (lực lượng Phan bội Châu lập đồn Tú Nghệ, Hoàng hoa Thám cựa mình) họ mới đóng cửa Đông Kinh Nghĩa Thục. Nhưng chưa bắt người nào. Mà các cơ sở Phong Trào Nam Nghĩa, Nghệ Tĩnh vẫn chưa hoạt động thường xuyên. Nhưng khi dân chúng mới đứng lên, đội ngũ còn sơ sài, họ đã biết ngay Duy Tân không còn là trừu tượng, sĩ phu không phải là hạng trí thức suông và dân chúng không phải hành động thiếu mục đích gần cũng như xa! Họ đã đứng lên có tổ chức, có lãnh đạo, có yêu sách tối thiểu, có sách lược tranh đấu, có lực lượng tiền phong, lực lượng trừ bị, hậu phương tiếp ứng. Các lãnh tụ đại trí thức bị vượt qua dành cho lãnh tụ trẻ, học thức ít nhưng quả cảm và thực tế lãnh đạo. Điều đáng ghê sợ đối với bọn chính trị gia thực dân lọc lõi kia là tinh thần bất bạo động và tinh thần ấy chỉ thoát ra từ một ý thức chính trị không non nớt nữa, chưa kể sức tranh đấu dằng dai, kiên nhẫn kéo dài đến những tháng khác… trời. Rồi hết lớp dân tỉnh này nổi lên lại đến lớp dân tỉnh khác nghĩa là tinh thần đoàn thể địa phương đã biến thành đoàn thể dân tộc.
Thực dân không phải là bọn ngu si về chính trị. Cho nên nếu trước kia dung dưỡng trí thức để tô son, điểm phấn lên bộ mặt chúng thì bây giờ chúng hiện nguyên hình kinh tởm. Chính Khâm sứ Lê Viết (?) ở Huế bình nhật khá dễ dãi, thế mà được tin dân biến là «đánh điện đi các tỉnh bảo không cần xét hỏi, thẳng tay trọng trừng» (Trung Kỳ Dân biến trang 5). Khủng bố trắng, bắn dân, chém và giam sĩ phu, dùng mọi phương cách tiêu diệt hẳn cái lực lượng mới mà chúng thấy trước tối nguy hiểm cho chế độ thực dân. Mà nếu Lê Viết không làm như thế, Toàn quyền sẽ làm. Mà nếu Toàn quyền không làm, Chính quyền tại Pháp sẽ làm. Những kẻ, những tổ chức rành rõi về chính trị không sợ những cá nhân dù cá nhân ấy tài giỏi tới đâu. Họ không sợ những trí thức dù trí thức ấy ồn ào, la hét om sòm gây xúc động. Nhưng họ rất sợ quần chúng khi quần chúng đứng lên. Và nhất là quần chúng có lãnh đạo, có tổ chức, có sách lược tranh đấu, có mục tiêu hướng tới. Thế nào nó cũng như những đại sinh vật sẽ mỗi ngày một lớn, một đồ sộ, rồi bất thình lình sẽ nhai ngấu nghiến những ai chống đối.
Bởi thế Pháp chỉ bắt Phan châu Trinh và đồng nhân khi họ đã có sau lưng một khối quần chúng, Pháp chỉ thực sự theo dõi Phan bội Châu, tìm cách đẩy ông ra khỏi Nhật không phải chỉ vì du học sinh mà chính vì lực lượng tư bản Nhật đang tìm thị trường, vì cái đồn Tú Nghệ bên cạnh «vương quốc» Hoàng hoa Thám và các tổ chức Duy Tân mà Pháp ngờ trá hình đã bắt đầu thu hút dân chúng… Tôi dám nói chắc nếu không có những phản kháng quan trọng thì hai ông Phan vẫn còn nhởn nhơ, kẻ ở Hà Nội, người ở Đông Kinh. Chính Cường Để cũng công nhận: Năm 1908 tháng 4 phát sinh vụ «Trung Kỳ kháng thuế» tháng 5 phát sinh vụ «Hà Thành đầu độc» đều là những cuộc phản kháng có tính cách nghiêm trọng.
«Người Pháp cho đó toàn là kết quả của sự tuyên truyền và sự hoạt động của những phần tử cách mệnh Việt Nam tại Nhật…» và liền đó họ yêu cầu Nhật đuổi hết các phần tử Việt Nam tại Nhật. Lẽ tất nhiên Nhật chấp nhận ngay vì chính nhờ quyền lợi của Nhật, hẳn nhiên ! Nhưng thực sự phải nói là nhờ vụ kháng thuế đó mà cái mặt của các nhà hoạt động cho Phong Trào Duy Tân được tô son điểm phấn, để đi từ những tân nhân vật lên thành nhà cách mạng, chiến sĩ Duy Tân, đi từ quốc nội vang ra quốc ngoại, chấn động Đông Kinh, Ba lê… Và cũng chính nhờ vụ dân biến ấy, chúng ta, kẻ hậu sinh mới tin như rựa chém xuống đá rằng bản chất Phong trào chính là cách mạng, hoạt động Phong Trào là hoạt động cách mạng, vì bao giờ lại có những công cuộc cải lương đi sâu và kích thích quần chúng tới mức độ tranh đấu không kể máu xương theo bóng cờ chủ nghĩa Dân quyền, dọc khắp dãy núi Trường Sơn? Quần chúng đã giác ngộ, đã đứng lên trong khi sĩ phu chưa tiến kịp, chưa kịp chuẩn bị để lãnh đạo. Đó chỉ là bệnh ấu trĩ của thuật lãnh đạo, vẫn còn có thể sửa chữa nếu có quyết tâm. Nhưng… chính các lãnh tụ Phong Trào không chịu tiếp tục vì họ thiếu trì chí, thiếu tích cực và thiếu sáng kiến trong khi… thế giới nhược tiểu chưa cung cấp cho họ một kiểu mẫu!
Nói thế tức là ta đã bước sang phần phê phán các khuyết điểm của Phong Trào.
Thật ra, ngoài thuật lãnh đạo cách mạng, trì chí quyết tâm, sáng kiến, các lãnh tụ Phong Trào còn phạm biết bao khuyết điểm.
- Điều đáng kể là các lãnh tụ chỉ hiểu Dân quyền một cách thô sơ. Dân quyền, kể cả xã ước của Lư Thoa thích hợp với những quốc gia nặng về sản xuất bằng cơ khí lúc ấy đã không còn đắc dụng ở Âu Tây khi có những đảng khuynh tả xuất hiện ; tất nhiên nó lại càng không thích dụng cho các nhược tiểu dân tộc nông nghiệp lạc hậu đang bị cả thế lực phong kiến, thực dân chế ngự.
- Vì quá tin ở Dân quyền, ở hoạt động nặng Tân văn hóa, Tân sinh hoạt hơn chính trị nên ít sợ đàn áp mà quên đề phòng. Do đó, có bao nhiêu khả năng, nhân vật, phơi trần ra cả bên ngoài. Lại thêm lãnh tụ không có kinh nghiệm, có thực quyền rõ rệt nên chẳng người nào biết rõ trách nhiệm, biết phóng ra những cuộc tranh đấu thử thách và biết kềm chế những hoạt động quá trớn rất có hại cho công cuộc chung.
- Tuy hai lãnh tụ họ Phan đã dùng lý trí chia rẽ hẳn hoạt động của nhau, đó là cái thế tất nhiên phải xảy ra, nhưng do cán bộ không hiểu ý nghĩa, mục đích sự chia rẽ ấy phải độc lập đến mức nào và liên lập những điểm nào nên vẫn sống với nhau thuần tình cảm, thu nhận bừa bãi người của nhau khiến gây nên những khó khăn về lãnh đạo và sự ngộ nhận của cường quyền. Vẫn biết khi cường quyền tìm cơ hội để tận diệt thì dù thế nào chúng cũng diệt; những kỹ thuật lãnh đạo không cho phép có sự lẫn lộn đó dù nó có lợi cho công cuộc tuyên truyền, nhưng rất khó giữ kỷ luật nội bộ. 3
- Phan châu Trinh vẫn lẫn lộn Dân quyền với một số người Pháp, tin là dầu thế nào chế độ bên Pháp cũng khá và mình có thể nương cậy nơi đó, nương cậy các đồng chí Nhân quyền, nhưng khi sang Pháp ông vỡ mộng…
- Có thể nói Phong Trào còn nhiều, rất nhiều khuyết điểm. Nhưng không phải thiếu những ưu điểm có tính cách căn bản để tự tạo cho mình một vai trò lớn lao trong lịch sử như đã nói trên kia. Sự thành công lớn của Phong Trào có thể tóm tắt trong mấy điểm mà chắc đời đời còn ghi nhớ:
- Tin ở nội lực quốc dân.
- Tin ở học hội, dân đoàn, đoàn kết toàn dân.
- Tin ở nỗ lực phát triển các ngành, các nghề để thực hiện Duy Tân toàn diện.
- Lấy Dân quyền làm chánh giáo, nghĩa là hành động có chủ nghĩa, có lý tưởng, và biết quan tâm tới đối tượng mới: nhân dân.
- Không có óc vọng ngoại, tuy vẫn trọng sự khai phóng.
Sau khi bị quét sạch ra đảo, các chiến sĩ anh hùng của Phong trào Duy Tân vẫn giữ được tiết tháo và niềm tin ở lý tưởng cao đẹp của mình. Điều đáng khâm phục là tuy bị giam cầm, tra tấn nhưng rất ít người cung khai sự thật để cho quan lại và thực dân vin vào đó mà kết án. Chúng ta đều biết chắc nếu có một số cán bộ, lãnh tụ phản bạn khai thật là họ có liên lạc Phan bội Châu, giúp tiền cho du học sinh như họ đã từng làm, hay ít hơn, như phổ biến các tài liệu ở Hải ngoại gởi về thì chắc chắn họ nhẹ tội và Cường quyết đã phanh phui ra manh mối và các bản án không còn phải nói vu vơ là theo lời khai của Ngụy tác Hạ… Các cuộc thẩm vấn kéo dài suốt mấy tháng, khắp mấy tỉnh vậy mà chỉ có vài tiết lộ nho nhỏ đủ cho ta thấy khả năng chịu đựng của các chiến sĩ Duy Tân thật đáng khâm phục, tiết tháo của họ đáng học hỏi. Cả sau này, khi bị đày Lao Bảo, Côn Lôn, họ vẫn kiên gan chịu đựng hay anh dũng tranh đấu, kẻ thả bè vượt ngục (Cửu Cai, Hy Cao) kẻ dựng tóc lên chống bọn quân nhân tàn bạo để bênh vực một tội nhân bị hành hạ rồi bị xử bắn ngay : Lê Cơ, kẻ đứng lên nổi loạn gây nên biến cố vĩ đại trong vụ «tù chung thân phá ngục»…
Các chiến sĩ Duy Tân là những người đầu tiên khám phá ra sự ở tù không phải hoàn toàn là hình phạt mà là «trường học thiên nhiên». Mang tâm trạng ấy, Huỳnh thúc Kháng thảnh thơi rời khỏi Đà Nẵng với một bài hát nói:

Trăng trên trời khi tròn, khi khuyết,
Người ở đời đâu khỏi tuyết gian nan.
Đấng trượng phu tùy ngộ nhi an
Tố hoạn nạn, hành hồ chi hoạn nạn 4.
Tiền lộ định tri thiên hữu nhãn,
Thâm tiêu du hứa mộng hoàn gia 5.
Mấy nhiêu năm gẫm cũng chưa già,
Nọ núi Ấn, này sông Đà
Non sông ấy còn chờ ta thêu dệt
Kìa tụ tán chẳng qua là tiễn biệt,
Ngựa Tái ông họa phúc biết về đâu?
Một mai kia, con tạo khéo cơ cầu,
Thảy bốn bể cũng trong bầu trời tất cả.
Ư bách niên trung tu hữu ngã 6.
Dầu đến lúc núi sụp, biển lồi, trời nghiêng, đất ngã
Tấm lòng vàng tạc đá vẫn chưa mòn
Trăng kia khuyết đó lại tròn.
Và bài hát, hai câu đầu và cuối liên kết nhau theo thế chu kỳ như chính vầng trăng mới khuyết độ nào nay thành «mãn nguyệt» lại tròn. Ai có thể tin rằng nhà nho xưa kia mà lại có quyết tâm tranh đấu đến thế! Thân là thân trảm giam hậu, rồi xử tử, đày Côn Lôn, gặp kỳ tha nào cũng không được tha… nghĩa là lối về đã bị chồng lên nghìn tảng đá đá mù! Thế là kẻ tử tù kia vẫn ngạo nghễ và lặng lẽ tự hẹn: kia núi Ấn, nọ sông Đà,
Non sông ấy đang chờ ta thêu dệt...
Dầu đến lúc núi sụp, biển lồi, trời nghiêng, đất ngã
Tấm lòng vàng tạc đá vẫn chưa mòn.
Thi ca ta, hùng thi của ta tự cổ chí kim có bảo nhiêu lời sắt đanh giản dị như thế. Nhất là phát xuất từ cái miệng của nhà nho trên con đường vĩnh cửu lưu đày! Ấy thế mà có ai ngờ rồi sau 13 năm cũng có ngày trở lại sông Đà, tạo nên bao phen thêu dệt lẫy lừng đất nước và dù trời nghiêng đất ngã chí vẫn không mòn, để cuối cùng hy sinh cho công cuộc vĩ đại của dân tộc và yên nghỉ tại chính núi Ấn kia năm Đinh Hợi.
Chúng ta có thể tạm dùng bài hát nói ấy để kết thúc cho tập biên khảo này. Tôi muốn là tuy Phong trào Duy Tân đã chấm dứt, nhưng trong con mắt những anh hùng chí sĩ, nó chưa chấm dứt, nó còn sẽ được tiếp tục, tiếp tục mãi… Phong trào Duy Tân có cái vinh dự đào tạo những chiến sĩ đầu tiên không chỉ coi tù ngục là trường học mà còn dám nhận lãnh trách nhiệm đối với quốc gia dân tộc cả trên con đường vô vọng : một trang sử mới bắt đầu từ đây, hoàn toàn khác trang sử tuyệt vọng của các chiến sĩ Phong trào Cần Vương mới độ nào.
Nếu cần nói thêm một điều gì cuối sách, tôi muốn mời tất cả bạn đọc đã quen những lối nhìn sử sách chính trị, văn hóa, văn học cũ, hãy thay bằng cái nhìn mới, xét lại tất cả những hiện tượng lịch sử để định cái ý nghĩa và giá trị lịch sử: Phong trào Duy Tân có phần yếu kém về chính trị nếu so với những tổ chức chính trị lớn lao, có lãnh đạo chặt chẽ, có sách lược vững vàng, có kinh nghiệm tranh đấu thực tế 7. sau này, nhưng chưa tổ chức nào hơn nó về phương diện đại vận động Tân văn hóa, tân sinh hoạt phát triển toàn diện giáo dục, nông, công, thương. Kể cả những nhóm chuyên về văn hóa như Tự Lực Văn Đoàn sau này chỉ thành công phương diện xuất bản, báo chí, chứ các hoạt động khác thật thua kém nó rất xa… Có thể nói là sau Phong Trào Duy Tân 1908, các hoạt động Duy Tân khác chỉ khiêm nhượng đi qua tổ chức phiến diện con con dù nó là của thực dân hay độc lập và chỉ nặng về báo chí, tiểu thuyết… Chỉ có sau 1945 mới có lại một công cuộc vận động Tân văn hóa, Tân sinh hoạt có khí thế lớn lao như vậy, hơn vậy vì kẻ lãnh đạo có đủ uy quyền. Nhưng «Duy Tân» lần này tuy cũng có tính cách toàn bộ mà đã rẽ theo con đường khác, chấm dứt con đường của Phong Trào Duy Tân dưới bóng lãnh đạo của ngọn cờ Dân Quyền của một độ nào.
Chú thích:

1

Tác giả sách này bỏ bớt những tiếng xưng hô hay biệt hiệu cho bạn đọc dễ hiểu, dễ nhớ tên các nhân vật.

2

Bây giờ thì bị đè đầu ra cúp tóc nhé! Đâu còn những ngày tung hoành hô hào cúp tóc cho dân!

3

Đúng ra, phe Phan bội Châu làm việc bí mật nên nắm được người trong nội bộ dễ hơn phe Phan châu Trinh nhiều.

4

Ý nói biết tuy hoàn cảnh nào thì ứng phó hoàn cảnh ấy.

5

Trên đường đời biết trước là trời có mắt. Đêm sâu chiêm bao về lại quê nhà.

6

Trong cảnh trăm năm, đành có ta (ý nói dám nhận lãnh trách nhiệm).

7

Sự thật, những cuộc biểu tình bất bạo động từ sau 1930 đều phần lớn xuất phát chính từ những nơi đã xuất phát cuộc cúp tóc xin xâu. Người sau vẫn tiếp tục rút bài học tranh đấu của người trước.

I. SÁCH BÁO THAM KHẢO
A. SÁCH ĐÃ IN:
- (G.N.K.N.) Giai Nhân Kỳ Ngộ Phan châu Trinh. Lê văn Siêu giới thiệu. Lam Hồng 1958.
- (T.P.) Tự Phán. Phan bội Châu. Anh Minh 1956.
- (Tây Hồ Thi Tập) Tây Hồ và Santé thi tập. Di thảo. Lê Ấm sao lục 1961.
- (T.T.T.T.) Thi Tù Tùng Thoại. Huỳnh thúc Kháng. Tân Việt 1957.
- (H.T.K. Tự Truyện) Huỳnh thúc Kháng Tự truyện. Anh Minh 1963.
- (T.V.Q.C.) Thi Văn Quốc Cấm. Thái Bạch. Khai Trí 1968.
- (N T.T.) Ngục Trung Thư. Phan bội Châu. Tân Việt 1950.
- (C.Đ.C.M. Cường Để) Cuộc đời cách mạng Cường Để. Tráng Liệt 1957.
- Nguyễn lộ Trạch. Minh Viên Huỳnh thúc Kháng. Anh Minh 1966.
- Ngũ Hành Sơn Chí sĩ. Ngô thành Nhân. Anh Minh Huế 1961.
- (Đ.K.N.T.) Đông Kinh Nghĩa Thục. Nguyễn hiến Lê. Lá Bối tái bản 1968.
- Hải ngoại kỷ sự Thích Đại Sán, Viện Đại Học Huế 1963.
- Việt Nam Phật Giáo Sử Lược. Thích Mật Thể. P.H.V.T.P 1960.
- Một tài liệu về cuộc di dân Nam Tiến của Tiền Nhân. Lâm hoài Nam 1959.
- Văn Học Miền Nam. Phạm việt Tuyền. Khai Trí 1965.
- Khổng Học Đăng II. Phan bội Châu. Anh Minh 1957.
- (Từ Điển) Việt Nam Danh Nhân Từ Điển. Nguyễn huyền Anh. Khai Trí 1967
Những chữ viết tắt có khi thay đổi tùy trường hợp để độc giả dễ nhận thấy hoặc phân biệt.
B. SÁCH CHƯA IN (DI CẢO):
Có hai tập chưa ấn hành:
1. Tiểu sử Chí Sĩ TRẦN QUÍ CÁP: Trần huỳnh Sách 1958: Ông Trần huỳnh Sách là học trò của Trần quí Cáp, viết về thân thế, sự nghiệp của Thầy. Chính ông Trần đã đưa di hài của Trần quí Cáp về chôn ở Quảng Nam.
2. Trung Kỳ dân biến thỉ mạt ký của Phan châu Trinh 1911, viết lúc mới sang tới Pháp để tiếp tục tranh đấu hợp pháp. Nguyên thảo bằng Hán văn, Ông tự dịch ra Quốc Văn để cho Trung Tá Roux dịch ra Pháp Văn đưa cho toàn quyền Đông Pháp và Thượng Thư thuộc địa Pháp khiếu nại về việc cường quyền bắt giam các thân sĩ và đồng bào Việt Nam bị bắt oan trong vụ kháng thuế 1908. Sau Hội Nhân Quyền Dân Quyền Ba Lê lại có bản dịch riêng khác đề là Manifestations de 1908 en AN NAM (Các cuộc biểu tình năm 1908 ở An Nam). Bản dịch này do Ông Lê Ấm thực hiện theo bản chữ Hán. Vì bản này nặng về việc thân oan nên luận cứ có nhiều chỗ không tránh thiên vị, chủ quan, giống bản biện hộ của các luật sư nên tôi chỉ dùng một cách cân nhắc, dè dặt.
C. BÁO VÀ TẠP CHÍ:
- Bách Khoa số 101, 1961
- Tiếng Dân 1932
- Văn Hóa Nguyệt San số 3, 4 (1967) số 2 (1968)
- Các số Cổ học Tinh hoa Quảng Nam
- Văn số 90
- Tân Văn số 11, 1969
II. PHỎNG VẤN
Ngoài ra, tôi đã thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn khác nhau ở các vị cao niên mà tên tuổi có nhắc trong bài tựa:
- Ông Cử Lương trọng Hối
- Ông Cử Hồ Ngận
- Ông Bà Lê Ấm
- Ông Võ Hoán
- Ông Nguyễn xương Thái
Chính nhờ phỏng vấn các vị trên dưới tám mươi tuổi này mà tôi dựng lại được Phong Trào Duy Tân ở trong khuôn khổ các tài liệu của Phan châu Trinh và Huỳnh thúc Kháng, sử gia của Phong Trào.
CÁC ẢNH TRONG TẬP NÀY: Các ảnh trong tập này phần lớn do nhà Anh Minh sưu tầm và cung cấp. Riêng có bức ảnh các thân sĩ bị bắt, mang gông, tôi chưa biết rõ xuất xứ.
THƯ MỤC LÁ BỐI
10/1964-1969)
1) Tình người (tái bản, hết). Tâm Quán
2) Đạo Phật đi vào Cuộc Đời (tái bản). Nhất Hạnh
3) Chắp Tay Nguyện Cầu Cho Bồ Câu Trắng Hiện (thơ, hết). Nhất Hạnh
4) Bông Hồng Cài Áo (tái bản lần III). Nhất Hạnh
5) Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ và Triết Học (hết). Phạm công Thiện
6) Trầm Tư Của Một Tên Tội Tử Hình (hết). Hồ hữu Tường
7) Đạo Phật Hiện Đại Hóa (tái bản). Nhất Hạnh
8) Đừng Quên, Xin Đừng Vội Quên (hết). Nhất Hạnh
9) Dialogue. Nhất Hạnh, Phạm công Thiện, Hồ hữu Tường, Tam Ích, Bùi Giáng
10) Đạo Phật Ngày Nay (tái bản lần IV). Nhất Hạnh
11) Vết Hằn Năm Tháng (hết). Võ Hồng
12) Câu Chuyện Của Dòng Sông (tái bản, hết). Hermann Hesse, Phùng Khánh, Phùng Thăng (dịch)
13) Những Ngã Đường (hết). Võ đình Cường
14) Mười Bài Tâm Ca (hết). Phạm Duy
15) Aujourd’hui Le Boudhisme. Nhất Hạnh, Lê văn Hảo (dịch)
16) Ảo Tượng (hết). Sơn Nam, Hồ hữu Tường, Chinh Ba, Võ Phiến, Thiều Chi, Nhất Hạnh, Tuệ Uyển
17) Giáo Dục Cộng Đồng. Vương Pển Liêm
18) Nhớ Cảnh Nhớ Người (hết). S. Pearl Buck, Nguyễn thế Vinh (dịch)
19) Nói Với Tuổi 20 (tái bản kỳ IV). Nhất Hạnh
20) Con Suối Mùa Xuân (hết). Võ Hồng
21) Những Đứa Trẻ ở Guernica (hết). Hermann Kestan, Tam Ích (dịch)
22) Phật Giáo Trong Mạch Sống Dân Tộc. Thích thanh Từ
23) Hiroshima Trong Cơn Ác Mộng. M. Hachiya, Bà Vũ bá Hùng tự Thiếu Mai (dịch)
24) Hoa Bươm Bướm (hết). Võ Hồng
25) Hành Hương (thơ). Trụ Vũ
26) Nói Về Miền Nam. Sơn Nam
27) Việt Nam Văn Minh Sử Cương. Lê văn Siêu
28) Kiếp Người. S. Maugham, Nguyễn hiến Lê (dịch)
29) Thiền Học Việt Nam. Nguyễn đăng Thục
30) Tuyển Tập Thi Nhạc Họa Mừng Phật Đản. Nhất Hạnh, Vũ hoàng Chương, Thi Vũ, Trụ Vũ, Phạm thế Mỹ, Nguyễn hữu Ba, Trương đình Cử, Trọng Nội, Hiếu Đệ, Phạm đăng Trí, Hùng Cường.
31) Ý Văn I. Tam Ích
32) Đất và Người. Bà Minh Quân
33) Hương Rừng Cà Mau. Sơn Nam
34) Nẻo Về Của Ý (tái bản). Nhất Hạnh
35) Trường Ca Mẹ Việt Nam. Phạm Duy
36) Đạo Phật Việt Nam và Hướng Đi Nhân Bản Đích Thực. Trần thạc Đức
37) Một Tuần với Vinoba. Hoài Khanh (dịch)
38) Trà Đạo. Bảo Sơn (dịch)
39) Quốc Sư Vạn Hạnh (kịch). Lê văn Siêu
40) Tiếng Kêu Trầm Thống Trước Sự Tàn Phá Con Người. Võ Văn Ái
41) Chiến Quốc Sách I, II (hết). Giản Chi, Nguyễn hiến Lê giới thiệu, chú thích và dịch
42) Buông Xả (Tư Duy về Zen). Hubert Beroit, Nguyễn minh Tâm (dịch)
43) Sâm Thương. Liên Chi
44) Gió Cuốn. Võ Hồng
45) Đông Kinh Nghĩa Thục (tái bản). Nguyễn hiến Lê
46) Lối Thoát Cuối Cùng. V. Gheorghiu, Hằng Hà Sa và Bích Ty (dịch)
47) Chiến Tranh và Hòa Bình I, II, III, IV. Léon Tolstoi, Nguyễn hiến Lê (dịch)
48) Những Giọt Đắng. Võ Hồng
49) Vấn Đề Nhận Thức Trong Duy Thức Học. Nhất Hạnh
50) Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh. Erich Maria Remarque, Phạm trọng Khôi (dịch)
51) Đất Phù Tang Cái Đẹp và Tôi. Y. Kawabata, Cao ngọc Phượng (dịch)
52) Cuống Rún Chưa Lìa. Bình nguyên Lộc
53) Hoài Cố Nhân (tái bản). Võ Hồng
54) Em Bé Phù Tang. Isoko, Ichiro Hatano, Trương đình Cử (dịch)
55) Phương Pháp Chủ Điểm Tại Trường Tiểu Học Cộng Đồng. Vương pển Liêm
56) Áo Em Cài Hoa Trắng. Võ Hồng
57) Xứ Trầm Hương. Quách Tấn
58) Phong Trào Duy Tân. Nguyễn văn Xuân
59) Heidegger Trước Sự Phá Sản của Tư Tưởng Tây Phương. Lê tôn Nghiêm
60) Lúa Sạ Miền Nam (thơ). Kiên Giang
61) Cầm Ca Việt Nam. Toan Ánh
TÁC PHẨM LẦN LƯỢT IN TỪ 1970
- Chứng Đạo Ca. Huyền Giác, Trúc Thiên giới thiệu
- Sử Ký Của Tư Mã Thiên. Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (giới thiệu, chú thích và dịch)
- Triết Lý Hiện Hữu. Jean Wahl, Hoàng văn Giàu (dịch)
- Hải Đảo Thần Tiên (14 truyện ngắn quốc tế). Đặng trần Huân (chọn và dịch)
- Anna Karénine Léon Tolstoi. Nguyễn minh Hoàng (dịch)
- Lịch Sử Văn Minh Ấn Độ Will Durant. Nguyễn hiến Lê (dịch)
- Exodus. Léon Uris, Thế Uyên (dịch)
- Như Cánh Chim Bay. Võ Hồng
- Những người Sống Sót. Edita Morris, Nga và Chín (dịch)
- Tóc Hạ. Quán Như
- Khúc Tiêu Đồng. Hà Ngại, Nguyễn văn Xuân (đề tựa và nhuận sắc)
- Cỏ Khô (thơ). Hoài Khanh
- Lá Vẫn Xanh (tái bản). Võ Hồng
- Phép Biện Chứng Phá Chấp và Thực Tiễn Hành Động. Võ văn Ái
- Nhốt Gió. Bình nguyên Lộc
- Tiếng Phèng La. Xuân Tùng
- Tiếng Ca Lặng Lẽ. Võ Hồng
- Đạo Phật Ngày Mai. Nhất Hạnh
- Đạo Phật của Bạn. Tadish Kasyapa, Thế Tịnh (dịch)
- Con Đường Trước Mặt và Lửa Thiêng (nhạc). Phạm Thế Mỹ.
- Ngày Về. Võ Hồng.
- Thiền Việt Nam. Nhất Hạnh.
- Lịch Sử Triết Học Tây Phương (I, II, III). Lê Tôn Nghiêm.
- Tình Máu Lửa. Phan Du.
12-11-1969 
Nguyễn Văn Xuân
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...