Rừng xưa xanh lá 1
Phần I
Cơm áo không đùa với khách thơ
Xuân Diệu
Cơm áo không đùa với bất kỳ ai. Lại càng không đùa với các
nhà văn nhà thơ. Nhất là vào cái thời cuối thập niên 80 (của thế kỷ trước) nền
kinh tế cả nước đang chuyển từ hệ thống bao cấp sang kinh tế thị trường. Biến động
mạnh từ suy nghĩ, quản lý, hàng hoá, giá cả tới bản thân giá trị đồng tiền.
Ðình Kính, nhà văn quân đội với đồng lương đại uý (ngày ấy
anh đeo lon bốn sao một vạch) mà phải cùng vợ nuôi hai con nhỏ đang đi học, đó
là chưa kể bố mẹ già. Không dám ước vọng cao xa ti vi cát xét tủ đứng tủ li. Chỉ
nghĩ đến cái ăn để tồn tại, có đủ tiền mua sách bút, đóng tiền học cho con và
có đủ tiền mua được manh áo ấm cho bố mẹ vợ con mỗi khi gió rét từ biên giới thổi
về. Lại còn phấn đấu có một chút dự trữ chiến lược phòng khi ốm đau.
Phải có tiền. Tiền là tiên là phật, sức bật tuổi trẻ, sức
khoẻ tuổi già.. . Và cũng chỉ còn mỗi cách kiếm tiền: Viết thuê. Dùng nghề
nghiệp của mình kiếm sống. Thôi thì đành gác lại những trang sách vẫn nghiền ngẫm
nung nấu, những tác phẩm sẽ được viết ra bằng tim gan mình. Hãy để lại sau. Ðể
đến bao giờ chưa biết, nhưng trước mắt là kiếm sống.
Ðình Kính đã đi viết thuê và đã kiếm được tiền. Bữa ấy anh
lang thang vào tận vùng rừng núi Ðồng Nai, tìm ra được một ông giám đốc một lâm
trường quốc doanh và cũng là một đồng hương. Ông là người đi đầu trong việc
tháo gỡ cơ chế cũ, táo bạo, dám nghĩ dám làm, một người có thể tuyên dương
anh hùng được mà bắt bỏ tù cũng được theo như quan niệm của thời đầu mở cửa.
Anh đã hoàn thành một bộ phim về ông, về lâm trường. Phim đã chiếu cho lâm trường
xem và còn được phát cả trên màn ảnh nhỏ. Không thể diễn đạt được xúc động của
lâm trường, của ông giám đốc khi thấy hình ảnh mình trên ti vi. Với lâm trường,
Ðình Kính là một thiên tài, là hiện thân cho sức mạnh toàn năng của nghệ thuật.
Phấn khởi đầy lòng, ông giám đốc nọ nhờ Ðình Kính giúp cho một tập
sách về đơn vị.
Nghĩ ngay đến những bạn bè cũng đói rách như mình, nhưng Ðình
Kính vẫn làm ra vẻ cân nhắc, đắn đo:
- Sếp nói rất chính xác. Giấy trắng mực đen bình thường thôi
nhưng vô cùng quan trọng. Nó đi vào từng gia đình, từng người. Nó đi vào chiều
sâu lòng người. Nó đi vào thư viện. Con cháu chúng ta vào thư viện là sẽ biết
cha ông chúng đã sống và làm việc như thế nào. Phim cũng quan trọng nhưng không
thể ví với sách được. Nhưng đây là một việc khó khăn, một mình tôi không làm nổi.
Phải vài người cùng làm mới bảo đảm được thời gian. Ðể kỳ này ra Hà Nội
tôi nói khó với mấy anh ngoài ấy.
It ngày sau Ðình Kính đưa hai nhà văn khác cùng vào. Giám đốc
rạng rỡ nét mặt khi được giới thiệu đó là hai nhà văn nổi tiếng, những cái tên
ông đã nghe thấy từ lâu mà hôm nay ông mới vinh dự được gặp. Với thói quen của
một người làm kinh tế, giám đốc cho thảo hợp đồng gồm những nội dung chủ yếu:
Thời gian hoàn thành bản thảo là hai tháng, ăn nghỉ, tầu xe ra vào lâm trường
lo, khi bản thảo được duyệt và thông qua, mỗi nhà văn sẽ được bồi dưỡng một chỉ
vàng! (Giám đốc giải thích thêm: Phải quy ra vàng các đồng chí ạ. Nếu tính nhuận
bút bằng tiền tôi sợ thiệt cho các nhà văn. Ba trăm đồng tháng này là ba trăm,
tháng sau còn trăm rưởi, tháng sau nữa chỉ còn một trăm. Cho nên ta cứ tính
thành vàng, vàng bản vị, các nhà văn tán thành không? Nhất trí! Tiếng ba nhà
văn đồng loạt cất lên.) Mỗi người một chỉ vàng! Một tài sản khó mà hình dung được
ngày ấy!
Như mở cờ trong bụng, ba nhà văn nhanh chóng dự các cuộc họp,
nghe báo cáo, xuống các đội sản xuất, vào rừng vẩn vơ, nhìn suối chẩy, nghe
chim hót để lấy... không khí.
Ba người không viết ở lâm trường. Ðích thân giám đốc đưa họ
xuống biển, xuống Long Hải, một khu nghỉ mát sang trọng, yên tĩnh, cách Vũng Tầu
hơn mười ki lô mét. Chả lâm trường còn liên doanh với một đơn vị du lịch và có
những khách sạn sát biển. Ông giám đốc họp toàn thể cán bộ nhân viên khách sạn
để giới thiệu ba nhà văn:
- Trân trọng giới thiệu với các đồng chí ba nhà văn quốc gia!
Ba nhà văn nổi tiếng ở Hà Nội. Các đồng chí vào giúp chúng ta viết và xuất bản
một tập sách về lâm trường. Ðây là nhà văn Ðình Kính mà các đồng chí đều đã biết.
Ðây, nhà văn Chu Lai, nhà văn quân đội kiêm kịch sĩ. Còn đây nhà văn Nguyễn
Quang Thân, tác giả nhiều tập tiểu thuyết, truyện ngắn mà các đồng chí đã đọc.
Các nhà văn lần lượt đứng lên, cúi đầu chào, nở nụ cười khiêm
tốn, lịch sự, nụ cười ra mắt. Ông giám đốc ôm vai từng người như những chiến hữu
cánh hẩu trước bao con mắt kính phục của các nhân viên dưới quyền. Ông nói về
việc bố trí phòng ở "mỗi người một phòng, trong phòng phải có cả bàn viết",
về tiêu chuẩn ăn, về lượng bia phải có hàng ngày, không được để các đồng chí ấy
thiếu thốn cái gì:
- Còn khoản thuốc lá nữa. Các nhà văn hút nhiều, hút nặng đấy.
Mỗi người một ngày một bao thuốc lá Jet. Nhớ là thuốc lá Jet. Các đồng chí ấy
chỉ hút thuốc lá Jet. Ðừng có mang Ba số đến. Ðừng tưởng ai cũng thích Ba số cả
đâu!
- Mỗi nhà văn một ngày một bao Jet! Ông nhắc lại một lần nữa
và nhìn lướt đám nhân viên của ông như nhắc họ chớ quên điều quan trọng ấy.
Ðám cán bộ nhân viên xì xào:
- Mình thì cứ cho Ba số là nhất. Khách nào cũng Ba số.
Những tiếng thì thầm ấy đến tai giám đốc. Ông cười, hài lòng. Còn anh chị em nhân viên khách sạn từ ấy nhìn giám đốc của mình với đôi mắt hoàn toàn khác: Sếp không chỉ là người quản lý tài ba táo bạo, mà còn là chiến hữu với các nhà văn lớn, những nhà văn quốc gia, hiểu biết cặn kẽ những điều nhỏ nhất trong sở thích của họ.
Ba nhà văn của chúng ta bắt tay vào việc bán chữ. Tất nhiên
là sau khi tắm biển, uống bia, ăn sáng và phì phèo thuốc lá Jet.
Chu Lai, Ðình Kính hút thử một hơi và ho sặc sụa. Cả hai đều
không biết hút. Còn Nguyễn Quang Thân hút vào lại thở ra, không có tí khói nào
lọt tới họng, phì phò như một cái bễ. Thân hút thuốc lào, Thân chịu được, không
ho. Thân nhận trách nhiệm thỉnh thoảng làm một điếu trước đám nhân viên khách sạn.
Ba phòng làm việc của ba nhà văn lúc nào cũng có ba bao thuốc lá bóc dở và có
tàn thuốc trong ba cái gạt tàn. Nguyễn Quang Thân chẳng viết được một dòng nào,
nhưng bù lại, Thân bập bập thuốc lá chăm chỉ. Cứ xuất hiện giữa đám nhân viên
khách sạn là Thân bật lửa châm thuốc. Ác cái là loại thuốc Jet này quá nặng. Chẳng
hiểu căn cứ vào đâu mà ông giám đốc anh hùng kia lại tuyên bố là các đồng
chí ấy chỉ hút thuốc lá Jet. Ðừng có mang Ba số đến. Ðừng tưởng cứ Ba số là hay
đâu. Không. Ba số hay lắm chứ đồng chí giám đốc ơi. Ba số có bập bập thế
này cũng không ho. Ba số dễ bán. Giá cao. Bán ở đâu cũng được. Ba người đã đi
chung quanh khu nghỉ mát, rụt dè hỏi han xem người ta có mua thuốc lá Jet
không. Họ đều lắc. Ở đây không ai hút Jet. Ở đây người ta chỉ hút thuốc thơm.
Ba số, Dunhill, bét ra cũng Capstan. Jet không bán cho ai được.
Không bán được, không hút nhưng vẫn nhận thuốc đều đặn. Một
tháng đầu đã 90 bao thuốc Jet. Trừ ba bao để ở ba phòng cho Nguyễn Quang
Thân hút nghi binh còn 87 bao. Chỉ trông cái túi du lịch phồng căng
cũng đủ sốt ruột. Cho nên thật tỉnh người khi Chu Lai nguyên chiến sĩ đặc công
nước từ đâu chạy về khách sạn:
- Mình đã tìm được nơi bán thuốc lá Jet rồi. Chỗ này nó không
mua thuốc gì khác ngoài thuốc Jet.
Chuyện cứ như đùa. Cứ như thần thoại.
- Thật không?
- Ở đâu?
Chu Lai nhấn mạnh:
- Nó không mua thuốc gì! Nó chỉ mua thuốc Jet! Nó đang chờ
mình ở cuối bãi tắm! Ði nhanh!
Thế thì thật rồi! Ðặc công có khác! Giỏi thật! Cả ba ôm túi
du lịch chứa đầy thuốc lá ra khỏi khách sạn. Ông chủ nhiệm khách sạn đang ngồi
trong phòng Reception tươi cười:
- Vừa tắm rồi các nhà văn đã lại tắm nữa à? Máu thế?
Ðình Kính cười tít mắt:
- Biết làm sao. Lại thích bơi!
Cả ba bước nhanh ra bãi tắm, còn nghe tiếng trầm trồ của ông
chủ nhiệm:
- Chịu mấy ông. Giữa trưa nắng thế này mà cũng rủ nhau đi tắm
biển. Ðúng là văn nghệ sĩ!
Ba nhà văn cuốc thẳng ra bãi tắm, cười rinh rích về phẩm chất
nghệ sĩ của mình.
- Ðâu? Nó đâu?
Chu Lai chỉ tay về một chấm đen ở cuối bãi. Tới nơi, một
thanh niên ngồi trên xe 67 chờ sẵn. Chu Lai ôm túi du lịch nhẩy lên ngồi sau
xe, vênh mặt nhìn hai người, đắc thắng. Xe vút nhanh phóng ngược trở lại. Cát
bay mù mịt. Nguyễn Quang Thân, Ðình Kính đứng nhìn theo mãi chiếc Honda 67 rũi
bụi dọc bãi tắm và khuất vào khu khách sạn. Hai người rất ngạc nhiên thấy chiếc
xe quay về ngay, lần này phóng nhanh hơn lần trước, tiếng rú rít lên giận dữ.
Từ trên xe, Chu Lai xách túi du lịch nhẩy xuống, cái túi vẫn
căng phồng như thế. Dừng lại một tí. Hình như là để cãi cọ. 67 phóng đi. Rồ ga.
Thổi bụi vào mặt Chu Lai.
- Sao? Sao lại quay lại?
- Không bán được à?
Chu Lai nhăn nhó:
-Tưởng bán ở đâu. Ai ngờ nó lại bán cho đúng khách sạn ba thằng mình ở!
Thuốc lá rồi cũng bán được. Ði xa hơn. Bán ít một. Giá rẻ. Thế
thôi.
Còn lại là viết. Nhưng chỉ Chu Lai, Ðình Kính viết. Nguyễn
Quang Thân không. Không được chữ nào. Lại còn hay sang quấy nhiễu:
- Cách đây mấy năm tớ đi dự tổng kết của một ngành. Trong hội
nghị có lựa ra một số ít cốt cán tin cậy cho đi xem vi đê ô. Vi đê ô ngày ấy
còn là của hiếm. Mấy ai được xem. Mình được chọn. Nhà văn nhé. Ðảng viên nhé.
Không được đi thì còn ai vào đấy. Mình vẫn ức cái dạo xem phim Chiến tranh
và hoà bình. Cán sự ba mới được xem. Mình mới cán hai. Lần này thì không
trệch được. Ðúng giờ các đồng chí cốt cán xếp hàng một đi xem trước bao con mắt
thèm thuồng ghen tị của các đại biểu khác. Bọn này hồi hộp đi không một tiếng động.
Tới một cầu thang đã có người đứng chờ sẵn. Kéo rèm. Bấm đèn. Hất hàm ra hiệu để
chỉ lối. Tới một thang gác khác. Lại kéo rèm. Lại đèn pin lập loè, thì thầm:
Các đồng chí đi lối này. Tối tối rợn rợn đến nỗi có lúc mình tưởng như đang đi
xem thử bom nguyên tử.
Thân cười khặc khặc:
- Mà hôm ấy chiếu một phim rất vớ vẩn. Một băng tâm lý sướt
mướt của Ðài Loan.
Hôm khác Thân lại sang, mồm phì phèo điếu Jet:
- Này. Tớ kể cho các cậu chuyện này...
Lần này bị cự tuyệt thẳng thừng:
- Thôi. Ông về cho người ta viết. Ông có muốn vỡ hợp đồng
không thì bảo.
Thân về nhưng lại sang. Không cười mà cứ ấp úng:
- Mình muốn nói với các cậu. Nhưng không biết có nên không.
Mình cứ nói nhé.
Ðược khuyến khích, Thân mạnh dạn:
- Mình nhớ Dạ Ngân quá. Không biết có cách nào kéo Dạ Ngân ra
đây được không?
Ðề nghị ấy được cả nhóm ủng hộ ngay. Có Dạ Ngân, chắc chắn
Thân sẽ để yên cho hai người viết. Kính đặt vấn đề với chủ nhiệm khách sạn. Ô
kê. Nguyễn Quang Thân toại nguyện. Chu Lai, Ðình Kính không bị quấy rầy, năng
suất tăng hẳn.
Cứ thứ bẩy ông giám đốc lại từ rừng xuống biển. Tiếng ông
oang oang giữa đám nhân viên dưới quyền.
- Chuẩn bị nhé. Hôm nay làm việc khuya đấy.
Ông về duyệt những trang bản thảo vừa được viết trong tuần.
Ông có tác phong làm việc dứt điểm. Duyệt từng phần. Và cuối cùng duyệt lại một
lượt toàn bộ là xong.
- Tuần trước ăn gì rồi nhỉ. Cháo chim à? Hôm nay thay món
khác đi. Làm món gì nhẹ nhưng lại có thể lai rai được. Gà à? Không. Có đồ biển
gì không? Mới ăn cua xong à? Ðồ biển ăn nhiều rồi à? Hay là ăn thịt nai rừng?
Cả khách sạn sôi động lên khi sếp từ rừng về với những mệnh lệnh
oang oang. Họ biết thế là lại bao nhiêu trang sách, những dòng văn chương viết
về họ, bạn bè họ, tuôn chẩy từ những bộ óc nhà văn hẳn là rất đặc biệt và khác
thường kia. Ðã bao lần họ nín thở nhìn trộm qua cánh cửa khép, thấy những cái
lưng cong cong, cái đầu bù xù cúi xuống và bàn tay cầm bút bò chậm chạp trên
trang giấy. Ôi! Thật là cao cả thiêng liêng! Lại còn những lúc các nhà văn ngồi
thừ thượi nhìn vào những dòng vừa viết. Nhìn như muốn xuyên thủng giấy. Nhìn, mắt
rỗng không. Nhìn đấy nhưng chẳng nhìn thấy gì. Cả khi họ đẩy cửa đem vào phích
nước sôi mới. Viết văn, quả là ghê. Lao tâm khổ tứ, vắt óc, bại người, tổn thọ.
Bây giờ mình đã nhìn thấy người ta viết văn rồi. Mấy ai được như vậy!
Vốn là chuyên gia trong việc viết thuê, Ðình Kính, Chu Lai biết
phải viết như thế nào. Phải có tình hình gay go. Phải có lúc tưởng như bế tắc.
Phải có những đêm khuya trằn trọc trăn trở. Phải có những ngày dài bức xúc. Phải
có tinh thần trách nhiệm. Những cuộc họp. Những phút giây loé sáng. Những dám
nghĩ dám làm. Phải có đối thoại. Phải có tả cảnh. Không ai bảo ai, cả hai cùng
thống nhất một văn phong. Ðó là thứ văn không phải để xem bằng mắt mà để nghe bằng
tai. Bởi vì ông sếp không xem. Ông sếp chỉ nghe đọc lại.
Tối nay làm việc đến khuya. Ba nhà văn quốc gia của
chúng ta tề tựu đông đủ. Chu Lai ngồi cầm xếp bản thảo vừa hoàn thành trong tuần,
rỗ rỗ xuống mặt bàn cho ngay ngắn, lật lật vài trang, nhíu mày chăm chú, hoặc cầm
bút chữa một chữ nào đấy, có khi chỉ là tô lại một nét mờ, hoặc xem lại chỗ nào
cần uốn giọng, cần nhấn mạnh, cần ngẩng đầu lên. Nguyễn Quang Thân khoanh chân
vòng tròn, bắn một điếu thuốc lào, móp má kéo cho thật đã, để rồi sau đó có thể
chăm chỉ thực hiện nhiệm vụ bật lửa bập bập thuốc lá Jet. Ðình Kính hết nhìn mấy
cô phục vụ bưng vào những bia, những nước ngọt, lại nhìn ông giám đốc tanh tách
bật lửa ma nhê tô hút ba số. Sếp toàn hút ba số. Thế mà lại đi tuyên
bố bọn mình chỉ hút thuốc lá Jet. Chẳng ra làm sao! Cũng may đã tìm được nơi
bán. Ở đây người ta ít hút thuốc này lắm. Chỉ mấy anh xích lô, mấy chú xe
lam. Mỗi ngày bán được vài bao là nhiều. Có, các chú cứ mang ra đây. Vài
bao. Vài là ba. Vừa quá. Mỗi ngày bọn mình cũng chỉ ba bao.
Dù tiết mục duyệt bản thảo này đã được tiến hành mấy lần rồi
nhưng vẫn cứ căng thẳng. Vẫn cứ hồi hộp. Căng thẳng hồi hộp cho đến khi sếp
tuyên bố ta bắt đầu làm việc thôi các đồng chí nhé. Như chỉ đợi có vậy, Ðình
Kính tóm tắt những đoạn đã được duyệt kỳ trước và sau đó giọng đọc của Chu Lai
bắt đầu một tối làm việc tới khuya.
Ðình Kính kéo Chu Lai đi đánh thuê là có cân nhắc kỹ lưỡng.
Không phải chỉ vì Chu Lai là một nhà văn đã thành danh, dễ dàng gây nên cú
sét mến phục từ cái nhìn đầu tiên, cũng không phải Chu Lai từng là đặc
công đã lăn lộn ở vùng này. Ðiều chủ yếu Ðình Kính chấm Chu Lai là ở giọng đọc.
Không chỉ lão luyện ở những chiêu văn hùng tráng, là một diễn viên kịch
nói, Chu Lai có một giọng đọc không chê vào đâu được. Ấm. Vang. Âm. Sang sảng.
Lăn vào lòng người.
Cái trò đọc truyện đêm khuya không là cái đinh gì với Chu
Lai. Nhưng không được chủ quan. Dù chính là người viết ra nó, anh vẫn đọc kỹ lại
một hai lần, để thể hiện đúng tình cảm. Chu Lai như đã nhìn thấy trước hiệu quả
của từng chữ phải nhấn mạnh, những chỗ tạm ngừng, những từ phải đọc uốn cong
lên mà anh hình dung ra ngay từ khi còn đang cầm bút viết.
Ông giám đốc im lặng đốt ba số. Lắng nghe. Ðình Kính, Nguyễn
Quang Thân cúi đầu, thỉnh thoảng lại liếc trộm ông giám đốc, dò tìm phản ứng
trên nét mặt đăm chiêu của ông. Sao ông ta lại chau mày. Ðoạn này có gì không ổn
đâu. Chỉ là nói về nghị quyết đảng bộ lâm trường thôi. Sao ông ta lại ngả hẳn
người ra ghế lim dim mắt thế kia nhỉ? Hay ông ta ngủ. Kìa. Sếp đã cười. Sếp còn
gật gật nữa. Chắc ăn rồi. Thắng rồi. Chắc chắn sản phẩm của mình đã làm vừa
lòng sếp, đã được sếp duyệt, sếp OTK rồi. Mà không ưng sao được khi giọng oanh
vàng của Chu Lai ngân nga: Rừng xưa lá úa. Nhưng những con người đến cùng
rừng hôm nay đã thay lá cho rừng. Không phải đất trời, sự vận động của thời tiết,
của bốn mùa đã làm nên điều kỳ diệu ấy. Mà chính là những con người(...) (...)
Con đường mới mở trong rừng đâu phải chỉ làm bằng máy móc. Trước hết nó được
làm bằng trí tuệ, bằng tinh thần trách nhiệm, lòng yêu nước yêu chủ nghĩa xã hội
của những người làm việc âm thầm không cần ai biết đến, lặng lẽ giản dị như những
gốc cây rừng (...) (...)Ngồi trên chiếc xe lu lăn trên con đường xuyên rừng
đang được hoàn thiện, họ có cảm giác đây là con đường tiến vào thế kỷ 21 và thả
tâm hồn vào thiên niên kỷ tới. Giám đốc không ưng sái cổ sao được khi vẫn
cái giọng tuyệt vời của một diễn viên đã bao lần chinh phục khán giả trên sàn
diễn tiếp tục: Rừng thay lá. Rừng sống lại. Rừng lại hát khúc ca hùng tráng
của rừng. (Ðọc đến đây Chu Lai ngừng lại, ngước nhìn lên mà chẳng nhìn ai,
với cặp mắt thẫn thờ thăm thẳm chiều sâu.) Ðình Kính cha đẻ của những dòng văn ấy
và cả Nguyễn Quang Thân không đóng góp một chữ nào cũng thấy sởn hết cả gai ốc
vì xúc động. Giám đốc kêu lên:
- Tốt! Tốt! Cứ như vậy là rất tốt!
Và quay ra cửa hét to:
- Các đồng chí chuẩn bị ăn khuya đến đâu rồi? Xin phép các
nhà văn, tôi ra xem anh em họ làm ăn ra sao.
Ngồi trong buồng còn nghe thấy giám đốc nói với chủ nhiệm
khách sạn ngay phía ngoài cánh cửa (rõ ràng đủ to cho bên trong nghe thấy):
- Ðồng chí có trách nhiệm hỏi ba nhà văn xem có cần giải trí
không? Nhà văn cũng là người chứ! Cũng cần giải trí chứ! Ðả thông các đồng chí ấy
đừng ngại. Các đồng chí ấy giải trí không phải vì các đồng chí ấy, mà vì chúng
ta, vì công việc, vì lâm trường!
°
Hai tháng qua nhanh. Bản thảo đã hoàn thành. Hợp đồng đã kết
thúc. 180 bao Jet trừ ba bao để ở ba phòng, còn lại một trăm bẩy bẩy bao đã được
bán, tiền đã được cho vào túi. Tên tác phẩm đã được đặt. Ðứa con tinh thần ấy
được các ông bố thống nhất đặt tên là RỪNG XƯA XANH LÁ. Nhưng lại xẩy ra một trục
trặc nhỏ: Những ai là tác giả, những ai đứng tên ngoài bìa sách? Nguyễn Quang
Thân tự xét mình không đóng góp một chữ nào cho tập sách này, nhất định không
chịu ký tên:
- Bỏ tên tớ ra. Tớ không muốn là kẻ đạo văn.
Chu Lai trừng mắt:
- Ông đã được ở đây hai tháng. Ăn uống. Bia bọt. 59 bao thuốc
Jet. Lại đón Dạ Ngân ra. Không ký tên là không xong đâu!
Ðình Kính ôn tồn:
- Ông Thân không ký tên cũng được. Thôi thì tiền thuốc lá Jet
chúng tôi cho ông. Nhưng cái khoản một chỉ vàng ông phải để lại. Hai thằng tôi
cưa đôi.
Ðòn ấy làm Thân choáng. Coup décisif! Thân đành chấp
nhận ký tên, chấp nhận làm kẻ đạo văn.
Sau bữa liên hoan chia tay có cả sâm banh, có cả bia và đủ thứ
sơn hào hải vị, ba nhà văn được ông giám đốc trực tiếp nong vào ngón tay mỗi
người một chiếc nhẫn một chỉ vàng kết thúc hợp đồng. Nguyễn Quang Thân tút về Cần
Thơ với Dạ Ngân. Chu Lai, Ðình Kính về thành phố Hồ Chí Minh. Từ bến xe, hai
người hai chiếc xe đạp khung dựng guồng về khu nhà nghỉ của Hải Quân. Ðình Kính
vừa đạp xe vừa ngắm chiếc nhẫn vàng óng trên ngón tay nắm ghi đông. Một chiến
công. Một thắng lợi dòn dã. Ðây là chiếc nhẫn vàng thứ hai trong đời Ðình Kính.
Chiếc nhẫn vàng thứ nhất mua cách đây không lâu. Biết bao phấn đấu, tằn tiện của
hai vợ chồng mới có được. Mua về, gói vào vải, bọc túi ni lông, cho vào tủ rồi,
nằm ngủ rồi, lại tung chăn, dậy mở tủ lấy nhẫn ra ngắm, rồi lại gói lại bọc lại
cất, mới vào màn ngủ được. Chỉ vàng to lắm, mấy ai có...
Ðang ngẫm ngợi như vậy thì đã tới Thảo cầm viên. Một đám đông
con gái trẻ măng ríu rít ùa ra, vây lấy hai đồng chí bộ đội. Một cuộc tập kích
bất ngờ. Người nắm ghi đông. Người nắm tay. Người ôm vai. Người bóp đùi. Người
kéo áo. Hoảng. Hoảng quá. Không còn biết ra sao nữa. Dù họ trẻ. Dù họ đẹp. Họ
nũng nịu. Họ tươi như hoa. Dù họ ríu rít như chim:
- Hai anh. Ði đâu mà vội thế?
- Dừng lại. Ði chơi với chúng em.
- Ði. Chút xíu thôi mà, anh Hai.
- Anh Hai. Xem em nè.
Vội xuống xe, kẻo ngã. Họ nài nỉ. Họ thơm tho. Họ nưng nức nước
hoa. Họ phụng phịu như dỗi. Họ nắm chân nắm tay, họ ôm lấy hai người.
Cố gắng gạt bầy tiên nữ ấy ra, hai nhà văn thoát khỏi vòng
vây, lên xe guồng một mạch về nhà nghỉ. Vừa đặt ba lô xuống, thoáng nhìn bàn
tay đeo nhẫn, Ðình Kính rụng rời: Chiếc nhẫn vàng trên ngón tay không còn nữa!
- Chu Lai ơi! Cái nhẫn của mình mất rồi! Giọng Ðình Kính thất
thanh.
Chu Lai giật mình giơ tay lên. Nhẫn vẫn còn.
Ðình Kính nằm vật xuống giường không nói được một lời. Tiếc
đã hẳn. Nhưng giận. Giận điên lên, cái lũ con gái khốn nạn ấy. Và cuối cùng thì
phục. Cái nhẫn khi ông giám đốc đeo vào ngón tay mình còn chật cơ mà. Không hiểu
nó lấy cách nào nhanh thế.
Lại phải cười vì Chu Lai cứ giơ bàn tay có nhẫn ra trước mặt
như khiêu khích. Ðình Kính bảo:
- Mất. Tức thì tức thật nhưng phải công nhận chúng nó tài. Nó
đã nâng lên hàng nghệ thuật.
Một lúc sau lại:
- Tài thật! Tài thật!
Chu Lai tiếp:
- Tài đến thế là cùng! Tiên sư em Tào Tháo!
Ðang đau như hoạn cũng phải cười. Ðang cười bỗng im bặt. Giật
mình. Sục vội tay vào túi quần. Thở phào. Chỗ tiền bán thuốc lá Jet vẫn còn.
Lời cuối truyện: Xin lỗi các bạn Ðình Kính, Chu Lai, Nguyễn
Quang Thân và cả Dạ Ngân nữa. Nếu các bạn không bằng lòng, hãy cứ coi đây là
chuyện...bịa.
Phần II
Tôi là bạn của ông Dương Tường
Chuyện ở thành phố Hồ Chí Minh: Một lần Dương Tường đưa nhóm
hoạ sĩ 5 người (gang of five) từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh mở triển lãm.
Nguyễn Quân mời tất cả tới khách sạn chiêu đãi. Dương Tường đi xích lô, tay cầm
tờ Vietnam News cẩn thận, bước vào khách sạn. Người gác cửa khách sạn to lớn, mặc
sắc phục nắm chặt vai anh đẩy ra vỉa hè:
- Không được bán báo ở trong ấy! Ði ra ngoài kia mà bán!
Chuyện ở Hà Nội:
Một ngày giáp tết, nghe mấy hoạ sĩ trẻ rủ rê, Dương Tường đi
chợ hoa với họ. Vào chợ, họ tản mát khắp nơi để chọn bằng được một cành đào ưng
ý. Lơ ngơ một mình giữa chợ, Tường mua đại một cành đào, vác ra ngoài cổng chợ
đứng chờ. Ðang cầm cành hoa mới mua, xo ro trong mưa dầm gió bấc, bỗng một bàn
tay nắm lấy vai anh, đẩy anh vào trong chợ:
-Không được bán hoa ở đây! Mang vào trong chợ mà bán!
Ðó là người bảo vệ chợ.
Người ta nhầm Dương Tường là người bán báo, người bán hoa.
Nhưng học theo cách nói của Nguyễn Tuân, tôi nghĩ chưa ai nhầm Dương Tường là
nhà thơ, nhà văn hoá cả...
Buổi biểu diễn kết thúc, đèn bật sáng trong những tràng vỗ
tay ran và khán giả đứng dậy ra về, gặp tôi trong hành lang nhà hát, lối thông
lên sân khấu, bà Lorelle Browning vẫn giữ nguyên nụ cười trước thành công của
buổi diễn. Thấy tôi, bà tiến sĩ người Mỹ này dừng lại, chắp hai tay trước ngực,
xá tôi một xá và cúi đầu chào tôi một cách rất phương Ðông:
-Chào ông. Tôi là bạn của ông Dương Tường.
Tất nhiên bà phát âm lơ lớ, kiểu phát âm của một người ngoại
quốc đang tập nói những câu giao tiếp tiếng Việt. Và một trong những câu đầu tiên
bà học để có thể tự nói bằng tiếng Việt là câu nói trên. Tôi là bạn của ông
Dương Tường. Trong câu chuyện giữa chúng tôi đó là câu duy nhất bà nói không phải
qua phiên dịch. Còn cứ là phải nhờ "phiên dịch" Thu Hà, một nữ nghệ
sĩ sân khấu xinh đẹp, người vừa từ sàn diễn trong vai một phu nhân lộng lẫy quyền
quý của Giấc mộng đêm hè bước xuống.
Hồi chiều, khi đoàn kịch nói Việt-Mỹ (tôi cứ tạm đặt tên như
vậy) vừa từ Hà Nội về Hải Phòng, còn đang nhận phòng tại khách sạn Hoà Bình trước
cửa ga, tới thăm nữ nghệ sĩ Thu Hà, tôi đã gặp bà Lorelle Browning tại đó. Bà
cùng ông chồng ở phòng gần bên. Thu Hà giới thiệu tôi với bà một cách vắn tắt
nhất:
-Nhà văn Bùi Ngọc Tấn, bạn của nhà thơ Dương Tường.
Bà reo lên:
-A!
Và đứng thẳng người, chắp hai bàn tay trước ngực, xá tôi một
xá:
-Chào ông. Tôi là bạn của ông Dương Tường.
Ðó là một cách nói: Tôi với ông là bạn. Bởi chúng ta cùng có
một người bạn chung: Ông Dương Tường. Nó cũng đồng thời như một chứng chỉ bà là
người bạn của nghệ thuật Việt Nam.
Chúng ta còn nhớ năm 1999, một đoàn kịch nói Việt Nam đã sang
Mỹ diễn Hồn Trương Ba da hàng thịt. Một tháng rưỡi đoàn lưu diễn ở các trường đại
học. Diễn tiếng Việt nhưng phụ đề màn hình bằng tiếng Anh. Tưởng như sẽ khó
khăn cho việc tiếp nhận nghệ thuật, cho việc giao lưu tình cảm giữa sàn diễn và
người xem. Nhưng kết quả có thể nói là vượt sự mong đợi. Dư luận Mỹ rất hoan
nghênh. Hoan nghênh về nghệ thuật. Hoan nghênh về một hình thức giao lưu văn
hoá mới, về sự hiểu nhau thêm giữa hai dân tộc. Mặc cho một số Việt kiều quá
khích ở Los Angeles biểu tình phản đối, những buổi biểu diễn của đoàn kịch Việt
Nam vẫn cứ đầy ắp người xem. Diễn xong khán giả còn đứng dậy hoan hô (đứng dậy
hoan hô là một hình thức hoan nghênh đặc biệt tại Mỹ).
Một năm sau, năm 2000, chương trình hợp tác sân khấu Việt Mỹ
lại có những sáng kiến mới. Không chỉ là đoàn kịch nói Việt Nam sang Mỹ như trước,
hay ngược lại, một đoàn nghệ sĩ sân khấu Mỹ tới biểu diễn ở Việt Nam, mà là các
diễn viên Mỹ và Việt Nam cùng diễn chung một vở, diễn viên Việt nói tiếng Việt,
diễn viên Mỹ nói tiếng Anh, tất nhiên là phải dùng đến phụ đề trên màn hình vi
tính. Vở được chọn là Giấc mộng đêm hè của Sêch-xpia. Và Những con thú thuỷ
tinh (The glass menagerie) của Tennessee Williams, Mỹ. Tôi gặp bà Lorrelle
trong dịp đoàn về Hải Phòng công diễn hai vở trên trước khi bay vào thành phố Hồ
Chí Minh. Bà Lorrelle là chủ nhiệm chương trình. Diễn ở các thành phố lớn Việt
Nam rồi sẽ sang Mỹ biểu diễn. Chắc chắn chương trình giao lưu nghệ thuật này có
tác dụng góp phần vào việc nhân dân hai nước hiểu nhau hơn, một bước tiến trong
quá trình hai dân tộc cùng nhau hướng tới tương lai.
Nhưng thật ít người biết được rằng sáng kiến gây tiếng vang
này lại nẩy sinh trong một buổi trò chuyện về sân khấu giữa Dương Tường với bà
Lorrelle. Là tiến sĩ văn khoa, giảng dạy ở trường đại học Pacific University,
bà tới Việt Nam giảng dạy về Sêch-xpia ở trường Ðại học Huế và trường đại học Tổng
hợp Hà Nội. Những lúc rỗi rãi bà muốn có người trò chuyện. Một hôm bà ngỏ ý ấy
với cô Diana, một người nước ngoài làm phóng viên cho tờ Vietnam News: Giá có
ai ở Hà Nội mà nói chuyện về Sêch xpia được thì thích quá nhỉ?
Cô Diana tươi cười bảo bà:
- Có chứ. Sao lại không?
Cô Diana đưa bà Lorrelle Browning đến nhà Dương Tường, 3B
Phan Huy Chú. Thế là chuyện dứt không ra. Rất tâm đầu ý hợp. Tường nói cho bà
biết Tường đã dịch Sêch-xpia, sân khấu Việt Nam đã từng dựng Sêch-xpia: Rô-mê-ô
và Juy-li-et, vua Lia. Ô-ten-lô thì đang dựng dở... Bà Lorrelle nói về
Sêch-xpia bên Mỹ, về những nhà hát đã công diễn Sêch-xpia, về sự mãi mãi say mê
của công chúng Mỹ đối với nhà viết kịch vĩ đại...
Bỗng nhiên Tường hỏi:
-Sao bây giờ chúng ta không làm một cuộc trao đổi sân khấu giữa
Việt Nam và Mỹ nhỉ?
Ðó là một ngẫu hứng, một ngẫu hứng "nhiều khi không phải
xuất phát từ những kế hoạch định sẵn, mà nảy ra từ sự gặp gỡ giữa con người với
con người cụ thể" như một bài báo đã viết về anh.
Lorrelle Browning im lặng. Bà suy nghĩ và như đang cân nhắc
những vấn đề gì đó. Rồi bảo:
-Tôi phải xem sân khấu Việt Nam thế nào đã.
Dương Tường đưa bà khách Mỹ, một chuyên gia về Sêch xpia của
nước Mỹ tới gặp những người có trách nhiệm trong Hội Nghệ sĩ sân khấu. Trọng
Khôi, Nguyễn Ðình Nghi vốn từ lâu đã là những người bạn của anh. Ðôi bên thống
nhất trước tiên hãy cử một đoàn nghệ sĩ Việt Nam sang Mỹ công diễn một vở kịch
Việt Nam, tất nhiên là diễn bằng tiếng Việt. Bà Lorrelle đề xuất sáng kiến khắc
phục rào cản ngôn ngữ bằng phụ đề. Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ
được chọn. Nhạc sĩ Xuân Oanh dịch kịch bản. Dương Tường hiệu đính. Tường cùng Trọng
Khôi làm dự toán. Bà Lorrelle không biết mỏi mệt trong việc chạy thủ tục, chạy
kinh phí. Cuối cùng ông Oscar người Thuỵ Ðiển đại diện quỹ Ford-Foundation tại
Việt Nam đồng ý tài trợ cho cả chuyến đi.
Dương Thụ nói rằng Dương Tường là người của giao tiếp.Vợ con
anh bảo anh ham vui, thích lang bang nơi này nơi khác. Ngay từ thập kỷ 60, thời
gian rất căng thẳng, mặc dù đã bị công an thẩm vấn nhiều lần, mỗi bước đi đều bị
giám sát chặt chẽ, anh vẫn cứ lang bang. Anh tin rằng rồi người ta sẽ hiểu anh,
anh chỉ đến với nghệ thuật và như vậy chẳng có gì để sợ. Với lại cảm giác
"nhồn nhột sau gáy"[1], anh đã quen rồi. Như anh quen với việc một số
người, trước đây từng là bạn, lảng tránh anh. Những người anh đến chơi cũng đều
là những người đã quen "giật mình một cái vỗ vai"[2] như quen với sự hiện diện của anh. Thế giới
giao tiếp của anh thật đa dạng. Từ ông chủ tịch hội nghệ sĩ sân khấu tới các diễn
viên trẻ, từ những ông tổng biên tập báo tới các phóng viên mới vào nghề, từ những
hoạ sĩ còn hàn vi, vẽ tranh bảo hộ lao động kiếm sống đến những nhân vật tiếng
tăm như Nguyễn Tuân, Sĩ Ngọc, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên... Anh chơi thân với
Văn Cao, với Trịnh Công Sơn. Nhà anh giống một câu lạc bộ. Câu lạc bộ đa ngành
đa nghề. Trong đám khách đánh tá lả thâu đêm trên tầng gác mới xây thêm ở Mai
Gallery ngõ số 3B Phan Huy Chú ta dễ dàng bắt gặp nhóm hoạ sĩ trẻ Hà Trí Hiếu,
Ðinh Quân, Ðặng Xuân Hoà, Ðỗ Phấn...Cũng có khi là một đám khách "tạp"
nhiều ngành nghề uống bia chuyện gẫu: Hoàng Cầm, Nguyễn Quân, Bảo Ninh, Dương
Thu Hương. Và đoàn xe nổ máy ầm ầm đang ngoặt vào nhà anh mời anh đi ăn cơm cá
bống kho phố Lò Ðúc kia là Thanh Sơn, nữ phóng viên báo Tuổi Trẻ Thuý Nga vừa từ
thành phố Hồ Chí Minh ra, Ngô Hà Thái và Phạm Xuân Nguyên. Lại nữa, một ông già
tuổi trên 90 nhưng còn rất nhanh nhẹn, khoẻ mạnh và cả vui tếu nữa: hoạ sĩ
Hoàng Lập Ngôn đang dán mũi vào một tập tranh in. Vợ chồng Ðỗ Minh Tâm, Vũ Bích
Thuỷ về nhà "chú Tường" như về nhà mình. Hoàng Ðức Nhuận từ Huế xuống
ga Hàng Cỏ tới thẳng nhà Tường, quẳng ba lô trèo lên giường ngủ vùi, ngủ như
chưa bao giờ được ngủ. ở Sài gòn anh có không biết bao nhiêu bạn: Cao Xuân Hạo,
Nguyễn Thanh Bình, Lưu Công Nhân, Trịnh Cung, Trần Tiến, Hồ Thu Hồng, Tường
Vân...Tôi nhớ vào buổi sáng sau khi bế mạc đại hội nhà văn một ngày, Nguyễn Thị
Minh Thái và con gái lại nhà Dương Tường kéo chúng tôi đi ăn sáng tại một nhà
hàng Lý Thường Kiệt và gặp Phú Quang ở đó,
Phú Quang mời Dương Tường vào thành phố Hồ Chí Minh dự một
chương trình biểu diễn ca khúc của anh, Dương Tường nhận lời và hôm sau bay
cùng Phú Quang tắp lự.
Châu Diên đã viết một bài về Dương Tường mà ngay đầu đề cũng
đã nói đúng cái chất Dương Tường: Rồng rắn lên mây...Ông Tường có nhà
không? Với ông Tường thì cẩn thận réo lên như thế cũng không thừa. Vì
ông... không bao giờ có nhà, ông vắng nhà ngay cả khi ông có nhà theo cái nghĩa
dung tục đời thường. Ông đang vớ vẩn đâu đó... Ta cứ việc réo lên rồi ta cứ xộc
đến với ông. Ông không từ chối ai hết.
Giờ đây người ta đã hiểu toàn bộ con người anh là thuộc về
nghệ thuật. Câu nói hơi có vẻ to tát này chỉ để nói một điều: Ðã bớt đi những
câu hỏi đặt ra về sự giao du phức tạp, đáng ngờ của anh và sự phức tạp đáng ngờ
của chính bản thân anh. Bớt đi thôi vì ngoài những người "có vấn đề"
lại còn cánh tây đầm cứ ra vào nhà ông Tường tơi tới. Luôn có những người châu
Âu châu Mỹ, cao mét tám, hai mét, tóc vàng, tóc bạch kim, mắt xanh, mũi lõ, quần
bò, quần soóc, váy dài, váy ngắn, đàn ông, đàn bà khoác ba lô, mang túi đi từ
ngõ vào, hỏi những người trong ngõ bằng một giọng lơ lớ mà chỉ về sau mới quen,
mới hiểu còn lúc đầu nghĩ mãi không ra:
-Tôi hoi nha ôn duôn tuôn.
Vào nhà ông Tường một lúc. Rồi ra. Chẳng biết chuyện với nhau
những gì. Chỉ biết khi vào, tay xách một gói vuông vắn. Khi ra tay không. Xóm
phố nhìn anh bằng cặp mắt soi mói ngờ vực. Anh được mời ra đồn làm việc. Và
không quên phải cầm theo cái gói nhỏ người nước ngoài tặng anh: Một gói sách.
Ðầu năm 1990 Joren Gerhart, nhà nhiếp ảnh người Thuỵ Ðiển từ
Hồng Kông tới Hà Nội và tìm đến Dương Tường do nữ phóng viên Shelly Goll giới
thiệu. Chàng trai (bằng tuổi Hải Âu con trai anh) cao một mét chín tám này làm ảnh
cho một số tạp chí của Hồng Kông, trong đó có chuyên mục chân dung nghệ sĩ cho
tờ Asian art News. Anh ta ngỏ ý muốn được chụp ảnh một số văn nghệ sĩ Việt Nam.
Rất vui vẻ, Tường kéo anh ta đi ăn cơm bụi, đi chơi, đến nhà những người bạn của
anh ở Hà Nội, toàn những người Gerhart sẽ phải chụp ảnh. Anh chàng phóng viên
nhiếp ảnh rất phấn khởi:
-Shelly Goll đã đúng. Cô ấy bảo cứ đến ông là gặp đủ mọi người.
Trần Phương Mai, con gái anh đưa Gerhart đến những địa chỉ phải
đến. Chỉ ít ngày sau, Gerhart đã có trong tay chân dung những văn nghệ sĩ nổi
tiếng của Hà Nội. Rồi Mai đưa Gerhart vào Huế gặp Bửu Chỉ, Hoàng Phủ Ngọc Tường,
tổ chức chụp ảnh các văn nghệ sĩ Huế. Chưa hết, Mai còn đưa Gerhart vào thành phố
Hồ Chí Minh... Kết quả chuyến đi của Gerhart là collection ảnh những văn nghệ
sĩ tiêu biểu của Việt Nam. Và...Mai Gallery. Chính Gerhart gợi ý với anh là nên
mở phòng tranh. Ðến nhà Dương Tường, đi cùng hai bố con anh, hiểu được kiến thức
của anh đối với hội hoạ nói riêng và nghệ thuật nói chung cũng như sự quen biết
rộng rãi của anh và bằng con mắt của một người am hiểu sinh hoạt văn hoá khu vực
Ðông Nam Á, Gerhart cả quyết Gallery không chỉ giải quyết những khó khăn về
kinh tế của gia đình anh mà còn giới thiệu được hội hoạ Việt Nam ra thế giới.
Mai Gallery ra đời.
Rồi Stephen Mac Guinness chủ Gallery Plum Bossoms được Trịnh
Cung và Thi Uyên đưa từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội đến thăm anh. Lại một
phút giây xuất thần loé sáng: Dương Tường, Trịnh Cung cùng Nguyễn Quân làm việc
với Gallery 7 Hàng Khay (do Việt Hải phụ trách) và Stephen, đề xuất một kế hoạch
giới thiệu có hệ thống hội hoạ Việt Nam ra nước ngoài. Thế là năm 1991 lần đầu
tiên hội hoạ Việt Nam được giới thiệu với một quy mô lớn ra quốc tế. Gallery
Uncorked Soul (có nghĩa Tâm hồn bộc bạch) Hồng Kông đã giới thiệu và trưng bầy
tranh Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Lê Công Thành, Phạm Việt Hải, Trần Lưu Hậu,
Trịnh Cung, Nguyễn Trung, Hoàng Ðăng Nhuận, Ðỗ Thị Ninh, Bửu Chỉ, Nguyễn Quân,
Nguyễn Thân, Buì Suối Hoa, Ðặng Xuân Hoà, Trần Trọng Vũ... Ðể đạt kết quả trên,
Nguyễn Quân, Trịnh Cung, Dương Tường đã làm việc không mệt mỏi. Tường tập hợp
cánh hoạ sĩ để họ chọn tranh. Nhà Tường lúc nào cũng đông hoạ sĩ. Jeffry nhà
phê bình hội hoạ Mỹ được Plum thuê sang Việt Nam giám định tranh. Lúc đầu không
có Trần Trọng Vũ. Tường đưa Plum đến nhà Trần Dần. Jeffry quyết định chọn Vũ. Lần
đầu tiên, tác phẩm của Vũ được ra nước ngoài. Cùng với triển lãm, một catalogue
được phát hành. Ðó là một cuộc triển lãm mang tính đột phá trong quá trình hội
nhập của hội hoạ Việt Nam.
Ở Hồng Kông sau này có một gallery chuyên giới thiệu tranh và
bán tranh của hoạ sĩ Việt Nam: Gallery Lã Vọng. Chủ gallery, bà Shirley Hui, một
tiến sĩ người Mỹ gốc Hoa tới Việt Nam và đến Dương Tường. Gallery Lã Vọng là kết
quả của những lần anh dắt bà Hui đến chơi Ðặng Xuân Hoà, Nguyễn Tư Nghiêm, nhóm
5 người (gang of five). Trong tập sách đầu tiên của Gallery Lã Vọng có đoạn viết:"
Ông này (Dương Tường), nhà thơ và nhà phê bình lỗi lạc đã soi sáng cho tôi rất
nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam" (The latter, eminent poet and
critic, has enlightened me greatly on many aspect of Vietnamese culture). Bà
Shirley Hui còn kéo thêm bà Judith Day cộng tác và sau này khi bà Judith Day rời
Hồng Kông về Mỹ, chưa có điều kiện mở gallery, bà lập salon tranh, triển lãm
tranh Việt Nam ở Si-ca-gô, Nữu Ước và vài nơi khác.
Khi David Thomas, cựu chiến binh, giáo sư hoạ sĩ trường đại học
Emmanuel, người đầu tiên tổ chức triến lãm mỹ thuật Việt-Mỹ mang tên "Nhìn
từ hai phía" sang Hà Nội tìm đến Dương Tường, cảm phục nhiệt tình và kiến
thức sâu rộng của anh đối với hội hoạ đã tới Hội đồng Văn hoá Châu Á (Asian
cultural council) xin tài trợ để có thể mời anh cùng với Nguyễn Quân, Ðặng Xuân
Hoà sang Mỹ, dự triển lãm thứ hai do David tổ chức với tên gọi "Cách nhau
một đại dương". Ðó là vào năm 1995. Hộ chiếu đòi hỏi nhiều thủ tục không
đơn giản. Một trong những thủ tục bắt buộc: anh phải là người của Hội Nghệ sĩ tạo
hình. Mà Tường thì chưa ở trong bất kỳ một hội nghệ thuật nào (Cho đến tận bây
giờ anh vẫn chưa có chân trong Hội Nhà văn). Anh phải làm đơn xin vào Hội Nghệ
sĩ tạo hình, ngành lý luận phê bình. Hội đồng lý luận không giới thiệu anh lên
ban chấp hành, mặc dù đơn của anh được Trần Lưu Hậu, chủ tịch Hội Ðồng nghệ thuật
và Thái Bá Vân nhà lý luận hàng đầu ký tên giới thiệu. Mà thời hạn đi Mỹ đã gần
kề. Bà Vũ Giáng Hương khi đó là Tổng thư ký Hội biết chuyện phát biểu:
-Anh Dương Tường viết những bài phê bình, giới thiệu hội hoạ
rất có chất lượng, và viết nhiều hơn bất cứ một nhà phê bình chuyên nghiệp nào.
Hai anh Thái Bá Vân, Trần Lưu Hậu đã giới thiệu. Nếu cần tôi xin là người thứ
ba giới thiệu anh Dương Tường.
Dương Tường được kết nạp vào Hội Nghệ sĩ tạo hình. Anh được cấp
hộ chiếu đi Mỹ với tư cách là nhà phê bình nghệ thuật.
"Tường đã sang thăm Hoa Kỳ, đã tới Boston -Châu Diên viết
như vậy- đã đi nhiều ngả, đã đến bên đài kỷ niệm có tên Bức tường Việt Nam. Một
ngày cuối tháng chạp năm 1995, Tường ngồi thụp xuống chân đài kỷ niệm viết vội
những dòng thơ bằng tiếng Anh, vẫn như mọi lúc, không bao giờ có ý định công bố,
thơ viết vội cho chính mình, đơn giản là thơ, thế thôi. Tuy chỉ là ghi vội cho
mình, song bài thơ đã lọt vào mắt xanh một chuyên san đại học Yale. Nữ nhiếp ảnh
Ellen Kaplowitz đã xin phép viết bài thơ lên một tấm pa nen lớn đặt ngoài cửa
ra vào triển lãm của chị. Còn hoạ sĩ Rodney Dickson thì in bài thơ của Tường
vào thiếp mời triển lãm của mình có tên là Life~Death (Sống~Chết) đầu tháng
2-2001 ở New York".
Tên Dương Tường cùng ngôi nhà của anh đã trở thành quen thuộc
với nhiều người làm văn hoá nghệ thuật ở nhiều nước. David về Mỹ nói với bạn
bè:
-Gia đình Hà Nội của tôi là nhà Dương Tường.
Anh được Cộng đồng Pháp ngữ mời sang Pháp. Anh sang Ðức trong
Festival Gặp Việt Nam của Ðức. Tôi nói đùa với Dương Tường:
- Chỉ vì ham vui mà ông làm được khối việc ra đấy. Có thể gọi
ông là Vụ văn hoá đối ngoại nghiệp dư. Ðược không? Dù lúc đầu có hơi phiền phức,
nguy hiểm.
Tường cười:
-Cũng là do cái tính của mình.
Báo Lao Ðộng cũng đã phỏng vấn anh về đề tài này, tất nhiên
không như chúng tôi đùa bỡn cùng nhau. Bài báo viết:... không thể là ngẫu hứng,
nó là kết quả của những tình bạn thâm giao với các văn nghệ sĩ tài năng từ lúc
họ còn hàn vi, đến các hoạ sĩ trẻ thời mở cửa được "lăng xê" một cái
là lên như diều...Ông được tiếng là người chu đáo tận tình với bạn bè. Và Tường
đã bộc bạch: "Tôi yêu quý các nghệ sĩ, ở thế hệ đàn anh, đó là phẩm chất
mà người Pháp gọi là "intégrité morale", tức là một sự toàn vẹn
"nguyên khôi" hết mình, trung thực không thể chê trách. Nguyễn Sáng,
Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Trần Dần là những người như thế. Ðáng buồn là
những con người như thế ngày càng ít. Với thế hệ trẻ tôi "sướng" lây
cái sướng của họ: Không mặc cảm, không ràng buộc, với người đi trước họ không đạp
đổ, vẫn kính trọng nhưng không bị đè...Tôi yêu văn hoá Việt Nam, nghệ thuật Việt
Nam. Và tôi yêu tấm lòng đối với văn hoá Việt Nam của những người nước ngoài đến
với Việt Nam, đến với tôi, một cô hoạ sĩ Hà Lan tôn thờ Trần Trung Tín của mình
còn hơn Van Gogh, một David Thomas lặn lội gõ cửa các nơi để giới thiệu "Bẩy
cột trụ hội hoạ Việt Nam" cho dân Mỹ.
Nói Tường ham chơi, ham vui là một cách nói yêu. Anh là người
lao động nghiêm túc. Anh đã dịch hơn 50 đầu sách từ tiếng Anh, tiếng Pháp ra tiếng
Việt. Ðó là những tác phấm nổi tiếng của văn học thế giới, những tác phẩm luôn
gợi mở cho những người cầm bút Việt Nam những suy nghĩ mới mẻ về sáng tác, những
tác phẩm mà Nguyễn Quang Thân nói đọc xong thay đổi cả nhận thức như Anna
Karenina (Lev Tolstoi), Alexis Zorba (Nikos Kazantzaki, Hy lạp). Và Ðất dữ (
Jorge Amado, Brazil), Cuốn theo chiều gió (Margarret Mitchel, Mỹ), Ðồi gió hú
(Emily Bronte, Anh), Cội rễ (Alex Haley, Mỹ), Con đường xứ Flandres (Claude
Simon, Pháp), Bức thư của người đàn bà không quen (Stefan Zweig, áo), Người
dưng (Albert Camus, Pháp), Truyện ngắn Tchekhov, nhiều vở kịch của Shakespeare
như Othello, Anthony và Cleopatra, Ðêm thứ 12 v.v...Hiện Tường đang đánh vật với
tiểu thuyết Trống thiếc của Gunter Grass, nhà văn Ðức, Nobel văn học 1999.
Không chỉ chọn sách dịch, Tường luôn cố gắng hết sức mình để
đạt được một chất lượng chuyển ngữ tốt nhất. Những bản dịch của anh đọc thật sướng.
Rất nước ngoài nhưng cũng rất Việt Nam. Và đặc biệt, rất Dương Tường. Anh quan
niệm dịch văn học như sau: "Tôi muốn người dịch là đồng tác giả, làm sao
vượt lên định kiến "dịch là phản", bản dịch phải là kết quả trong đó
có 100 phần trăm tác giả và 100 phần trăm dịch giả, làm sao có thể ký tên (nói
cho vui) Nguyễn Du-Dương Tường dưới bản dịch Truyện Kiều. Nói cách khác, bản dịch
phải thể hiện cá tính của dịch giả trong từng chữ. Ðiều đó cũng tựa như trong
âm nhạc, biểu diễn nhạc là "dịch" một tác giả theo cách của mình;
cũng là Chopin, nhưng Chopin do Ashkenazy đánh là ký tên Ashkenazy, Chopin do Ðặng
Thái Sơn đánh là ký tên Ðặng Thái Sơn...Tôi thích làm cái khó, làm cái gì hơn
mình một tý, như người kiễng chân từng mi-li-mét. Tôi muốn mình phải dịch những
gì có thể tác động đến văn học Việt Nam, đến người làm nghề văn thì mới bõ. Ðối
với văn học đương đại, vấn đề không phải là viết khó hay dễ, mà cần phải biết
có bao nhiêu con đường khác nhau, đó là gợi ý để mình thám hiểm. Ðừng ăn sẵn,
dù là ăn sẵn của ông cha hay ăn sẵn của thiên hạ, phải phăng những con đường mới."
Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho những điều anh nói trên
là tập "Những con đường xứ Flandres" của Claude Simon, Nobel văn học.
Tường nói với tôi:
- Những con đường xứ Flandres chưa đến 400 trang mà tôi dịch
lâu gấp đôi "Cuốn theo chiều gió" dầy cả ngàn trang. Tôi dịch vì nghĩ
đến anh em viết mà chưa được đọc quyển này thì thiệt quá. Nhiều lúc rất mệt
nhưng cố.
Trong lời giới thiệu in đầu sách, Tường viết: Tôi dám khẳng định:
cuốn sách này sẽ chỉ có một công chúng hạn hẹp. Nó không dành cho những người
tìm khoái thú dễ dàng ở một cốt truyện nhiều tình tiết ly kỳ hay éo le hấp dẫn
theo cách thông thường. Chúa chứng giám là tôi tuyệt nhiên không có ý làm nản
lòng độc giả, mà quả thực là ngay cả ở Pháp, quê hương của tác giả, thái độ của
nhiều trí thức trung bình đối với sách của Claude Simon cũng chỉ "kính nhi
viễn chi" mà thôi.
Song tôi lại dám nói những ai tìm đến cuốn sách này với lòng
ham muốn khám phá đích thực sẽ như bị bùa mê và sẽ đọc lại nó chí ít vài lần nữa.
Lời giới thiệu này dành cho loại độc giả đó. Hy vọng nó sẽ
cung cấp được một số đường dây khả dĩ giúp họ tìm được lối trong mê cung kỳ thú
trong thi pháp tiểu thuyết của Simon.
"Những con đường xứ Flandres" đúng là một mê cung.
Mê cung đối với người đọc, mê cung đối với người dịch vì nó là mê cung ngay cả
đối với Claude Simon, người viết ra nó. Chính tác giả đã làm việc 8 tháng ròng
trên từng đoạn nhỏ, trên từng dòng lẫn lộn không phân biệt, đến nỗi ông phải
dùng những sợi chỉ mầu đánh dấu mới có thể định hướng được trong cái mê cung do
chính ông tạo ra. Ðánh giá đúng công sức cố gắng của anh chuyển ngữ mê cung
"Con đường xứ Flandres", Hội Nhà văn đã trao giải thưởng về văn học dịch
cho anh.
Tổng kết về Dương Tường, Phạm Xuân Nguyên viết:
Ông là nhà báo? dịch giả? nhà phê bình văn học? nhà phê bình
mỹ thuật? nhà phê bình âm nhạc? nhà phê bình sân khấu? nhà thơ?
Ðúng cả.
Sau khi dẫn chứng về nhà báo, nhà dịch thuật của Dương Tường,
Phạm Xuân Nguyên chứng minh anh là nhà phê bình văn học:
"Hãy nghe ông Tường giải một nỗi buồn của Nguyễn Tuân:
"Xưa nay, người ta ưa nhìn Nguyễn Tuân như một mặc khách không ngừng bị ám
ảnh bởi nỗi khát khao xê dịch, luôn luôn thèm đi, cuồng đi. L'invitation au
voyage -mà anh dịch rất hay là Thỉnh Du- đó là một khúc nhạc quyến rũ nhất đối
với lòng chàng lãng tử họ Nguyễn. Nhưng những năm cuối đời, những chuyến đi xa
dường như không cám dỗ anh nữa. Phải chăng nỗi cuồng đi đã nguội lạnh trong
anh? Tôi, tôi nghĩ thế này: Có lẽ, như Celine làm cuộc viễn du đến tận cùng
đêm, anh cũng thấy cần dành thời gian còn lại để hoàn thành cuộc viễn du đến tận
cùng lòng mình. Vả chăng, theo tôi, cuộc hành trình lớn nhất, dài nhất trong đời
anh- mà anh chưa đi hết- đó là cuộc hành trình chữ. Với anh, mỗi lần động bút
là một chuyến phiêu du-du lịch trên địa đồ chữ nghĩa." Còn đây, ông viết về
Raymond Carver-một Chekhov của nước Mỹ hậu hiện đại: Truyện ngắn của Carver tựa
như những mẩu giáo khoa về phân huỷ. Làm thế nào để đánh hỏng đời mình và đời
người khác, để nẩy sinh hằn thù điên loạn và tội ác? Carver đã tạo ra một thế
giới thiếu vắng tình yêu, thiếu vắng đến độ dã man. "Chúng tôi nói gì khi
bàn về tình yêu" là đầu đề một kiệt tác ngắn của ông. Thật kỳ lạ, từ lâu lắm
rồi người ta đã quên hẳn không còn biết nói gì, nói thế nào về tình yêu. Trái
tim bị xâm thực bởi quá nhiều tham vọng nhỏ nhoi đã trở nên khô héo cằn cỗi
không còn biết đến nhịp đập yêu thương."
Cùng với Phạm Xuân Nguyên, tôi dẫn ở đây một Dương Tường phê
bình hội hoạ bằng những gì tôi có trong tay: Một trích đoạn anh viết về Nguyễn
Quân "Hành trình vào cái không nhìn thấy":
(...)Những tác phẩm gần đây của Nguyễn Quân vẫn lúa túa hình
sắc, vẫn ươm những mảng mầu mát rượi như da thịt người con gái vừa tắm, song có
phần u trầm hơn, vẫn chan chứa nhục cảm song chín mọng tịch lặng hơn. Xem tranh
Quân, có lúc tôi tự nhủ: Này đừng mắc lừa! Lật cái lớp sum suê rực rỡ bên trên,
ta sẽ thấy ở tầng sâu cái mà các nhà hiện tượng học hiện sinh gọi là "cô
đơn bản thể". Nói cách khác là cái tâm thái bơ vơ lạc lõng mà vì nó, người
nghệ sĩ cần đến nghệ thuật để hoà nhập trở lại vào âm dương vũ trụ...
Và những dòng anh viết về Hà Trí Hiếu: Hà Trí Hiếu có nỗi đam
mê vừa cuồng nhiệt vừa e ấp, thể hiện ở độ ào ạt của mầu sắc và sự tinh tế của
ánh sáng dường như được cổ vũ bởi sức sống bao lâu bị nén lại nay bỗng một lúc
vọt trào: những bộ mặt không có nét với những cái hốc trắng thay vì miệng từ đó
cất lên những khúc ca im lặng. Những con bò có khi dài ngoằng mà vẫn gợi một cảm
giác vuông vức, thường là một mầu đất trầm tĩnh như cuộc đời người nông dân. Ở
Hiếu, dạt dào cái trữ lượng đồng quê của một tâm hồn thôn dã chưa kịp thành thị
hoá. Bút pháp và mảng mầu ngày càng thiên về xuất biểu của hoạ sĩ, nghịch lý
thay, chẳng những không đối chọi mà còn bổ sung cho cái trữ tình của những Quê
Việt, Khúc ca quê, Thôn nữ và Bò, cái trữ tình ngăn ngắt xanh trong đó lời ru của
Mẹ quyện với giếng nước luỹ tre làng và trăng ca dao tưới sầu lên nỗi tủi phận
của những cô gái lỡ thì.
Dương Tường là nhà báo (hẳn rồi vì anh là phóng viên Thông Tấn
xã Việt Nam) là nhà dịch thuật, là nhà phê bình hội hoạ, Phạm Xuân Nguyên còn
khuyên chúng ta hãy lắng cùng Tường Văn Cao và xung động Icare, để thấy anh là
một nhà phê bình âm nhạc, hãy nhìn cùng anh Vua Lear n chiều để thấy anh là nhà
phê bình sân khấu. Và chắc chắn Dương Tường còn là một nhà thơ. Báo Lao Ðộng đã
phỏng vấn anh: Liệu có quá nhiều "nhà" trong một ông Dương Tường? Hay
dùng một hình ảnh trong câu thơ ông (được bạn bè sửa đi một chữ): "những
ngón tay mưa, Dương Tường trên mái", ông thích nhất ngón tay nào của mình?
Dương Tường đã trả lời: Thích nhất là ngón tay... thơ.
Thơ. Ðấy mới là điều chủ yếu. Ðấy mới là nghiệp chính của
anh. Ngay từ những năm 60 tôi đã thấy thơ anh khác lạ. Rõ ràng anh luôn tìm
tòi, phăng những con đuờng mới:
Rười rượi xanh mà ai xui em bùng khói tóc
Ðể tôi sai nhịp tôi tiếng tiêu buồn thổi vào đêm mộcVà:
Những ngón tay mưa
dương cầm trên mái
Những ngón tay mưa
kéo dài tai quái
một nỗi nhớ siêu hình
nhạc nhoè đường xanh đêm lập thể
Một bài thơ một câu của anh tôi đã nghe nhiều người đọc như một
tuyên ngôn của chính họ:
Ðể ghi trên mộ chí sau này
Tôi đứng về phe nước mắt
Vâng. Dương Tường là rất nhiều "nhà". Dù đã nhiều
"nhà" như thế, tôi vẫn muốn thêm vào ở anh một nhà hoạt động văn hoá
đối ngoại và một nhà văn xuôi nữa. Văn xuôi của anh tràn đầy chất thơ. Những
người đọc sách anh dịch bao giờ cũng rất thú vị khi đọc những trang in ngả của
anh viết lời giới thiệu ở đầu sách. Một tập tạp văn dầy 500 trang của Tường
đang chờ để ra mắt công chúng: Ai đầu tiên gọi chích choè là chích choè.
Tên sách là tên một bài tiểu luận của anh, trong đó anh nói lên quan niệm của
mình về thơ:
Một trong những đặc thù của cái đẹp nơi chữ thơ, tôi nghĩ, là
sự lên ngôi của con âm thay vì con nghĩa. Hãy một lần nữa nghe bà cô tổ Hồ Xuân
Hương của chúng ta biểu âm sự nứt ra của một động Hương Tích:
Bày đặt khen ai khéo khéo phòm
Cái động từ phòm (hình như chỉ được dùng hai lần trong thơ Hồ
Xuân Hương, ngoài ra không gặp ở đâu khác) cũng thuộc loại từ "bịa"
phi ngữ nghĩa mà biểu năng trực cảm của nó kỳ diệu đến nỗi ai cũng hiểu tác giả
định nói gì. Không có khả năng như tạo hoá "bịa" ra, chẳng hạn, một động
Hương Tích thì nhà thơ "bịa" ra chữ! Những chữ tinh khôi tự nhiên như
bản thân sự sống, vừa ra đời đã trở thành những thực thể.
Thi sĩ, tôi quan niệm, là kẻ đầu tiên kéo thế giới ra khỏi
vùng khuyết danh. Mà khuyết danh có nghĩa là chưa tồn tại. Thi sĩ cho sự vật một
cái tên mà trước đó nó chưa có-tức là đưa nó vào tồn tại. Ai đầu tiên gọi chích
choè, khi nó còn khuyết danh, là chích choè, người ấy đích thị là một nhà thơ.
Loài chim ấy ắt đã có từ rất lâu trước đó, người ta hẳn đã nhiều lần thử đặt
cho nó một cái tên nhưng không đậu và chỉ đến khi ai đó, trong một loé chớp thần
hứng, bật thốt ra hai âm tiết chích choè trúng pắp không gì thay thế nổi, thì
nó mới thực sự tồn tại, thêm cho trời đất một cái gì không chỉ đơn thuần là một
loài chim.
Văn xuôi của anh là như thế đấy. Một thứ văn xuôi khi đọc,
không cần xem tên tác giả cũng biết ngay là của Dương Tường!
Phạm Xuân Nguyên thốt lên: Tôi lạ lắm ông Dương Tường. Nguyên
mới quen Tường, lạ đã hẳn. Tôi chơi với Dương Tường nửa thế kỷ rồi mà cũng vẫn
cứ lạ về anh. Người bạn nhỏ thó của tôi lấy đâu ra sức lực và tích tụ từ bao giờ
những kiến thức cũng như khả năng làm việc như vậy? Lại càng lạ khi Mạc Lân nói
với tôi rằng chính Dương Tường là người dắt Lân vào con đường bán máu. Chỉ tới
cuối năm 2001, khi hai chúng tôi vào thành phố Hồ Chí Minh, rỗi rãi thời gian,
trò chuyện tôi mới vỡ nhẽ ra được một số điều về anh.
Vợ chồng tôi vào thành phố Hồ Chí Minh chơi với con gái và
con rể tôi sống ở trong ấy. Tôi điện ra mời Dương Tường vào. Vốn "ham
vui" anh mua vé máy bay vào ngay. Ðó là những ngày nghỉ tuyệt vời. Chúng
tôi để cả nửa ngày trời câu cá ở nhà Dương Thụ. Tường câu được một con cá quả bằng
cái chuôi liềm, mặt cứ tái đi vì xúc động, vì đã câu được một con cá to như thế,
vì nó giẫy dụa đầu cần, vì sợ nó vuột khỏi lưỡi câu rơi xuống ao mất. Ðó là con
cá đầu tiên anh câu được trong đời. Rồi chúng tôi đi Long Hải chơi trò phóng
máy bay trực thăng với Nguyễn Thanh Bình. Chúng tôi chuyện với Hồ Thu Hồng. Ăn
sáng với vợ chồng nhà báo trẻ Tường Vân. Chúng tôi đến nhà Hoàng Hưng dự một bữa
cơm do cháu Ly Hoàng Ly, con gái anh trổ tài nấu nướng...Những giây phút thư
giãn, hoàn toàn không lo lắng suy nghĩ. Chắc sẽ khó có được một lần thứ hai như
thế, một lần thứ hai cả hai chúng tôi cùng vào Sài gòn nghỉ ngơi.
Tường kể về tuổi trẻ của anh, về những ngày anh học lớp
sixième hệ secondaire trường Louis Pasteur ở Nam Ðịnh. Rồi bỏ học theo bố mẹ
lên Me, Vĩnh Yên vì gia đình vỡ nợ. Tham gia tổng khởi nghĩa ở Me. Rồi về Hà Nội
học trường tư thục Nguyễn Thượng Hiền do Ðặng Thái Mai mở. Tường cười:
-Kháng chiến mình ra học ở vùng tự do. Học nhẩy lớp đệ tứ.
Mình thi trung học phổ thông ba lần không đỗ. Như bây giờ là chưa tốt nghiệp hệ
lớp bẩy. Năm 1950, 18 tuổi mình đi bộ đội.
- Thế ông lấy đâu ra vốn ngoại ngữ như vậy?
-Ông quên mất trận đánh đồn Hói Ðào tôi đã kể cho ông à? Chiếm
được đồn, anh em tìm chiến lợi phẩm. Còn mình tìm sách. Vớ được quyển " À
l'Ouest rien de nouveau " (Phía Tây không có gì lạ) thế là đọc. Ông có biết
không, khi thấy "Phía Tây không có gì lạ" ở phòng thằng đồn trưởng
mình mới hiểu vì sao đánh cái đồn này dễ thế.
Tường cười, nói tiếp:
-Ðánh đồn nào mình cũng tìm sách. Trong ba lô bộ đội bao giờ
cũng có hai quyển từ điển nặng trịch, một tiếng Anh, một tiếng Pháp, dù hành
quân mang nặng đến đâu cũng không vất bỏ. Vừa đánh nhau vừa đọc vừa học. Thế là
mình nâng dần được trình độ. Về nhạc, hoạ, sân khấu cũng là do mình chơi với
Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Ðình Nghi, với bè bạn các ngành. Chơi và học họ.
Rồi suy nghĩ, đọc thêm sách...
Vậy là bí quyết của anh quá giản đơn: Không ngừng học. Học
trong sách vở. Học trong bè bạn anh em. Học cả đời. Tường đã nói Tường muốn làm
việc khó, làm cái gì hơn mình một tí, như người phải kiễng chân từng mi-li-mét
để nâng trình độ mình lên.
Sực nhớ đến Mạc Lân, tôi hỏi:
-Ông Lân ông ấy bảo tôi là chính ông...
Tường hiểu ngay điều tôi định nói:
- Chuyện bán máu ấy à? Tôi là thằng bán máu đầu tiên trong số
anh em mình. Không ai giới thiệu cả. Tình huống những năm 64, 65 ông biết là
khó khăn thế nào rồi. Tôi còn nhớ giỗ ông nội tôi mà cả nhà chỉ còn tiền mua
rau, không thể nào kiếm được mấy lạng thịt chui làm giỗ. Ðang bí thì gặp ông
Ngô Quốc Hạnh, bạn mình. Hạnh làm giám đốc Sở Công Thương thành phố Hà Nội. Hạnh
cho một cái phiếu mua vịt. Mừng quá đem về đưa Trinh. Thế là có giỗ. Ông bố
mình lúc bấy giờ còn sống. Cụ cứ cám ơn Hạnh mãi. Cả năm sau vẫn thấy cụ nói:
Anh Hạnh tốt thật đấy. Thì giỗ bố cụ, cụ không nhớ ơn sao được. Tình thế mỗi
ngày một căng. Khó khăn quá. Tôi có nghe người ta nói chuyện bán máu. Nghĩ hay
là cứ thử xem sao. Tôi vào bệnh viện Việt Ðức tìm hiểu. Ðúng vào cái hồi tôi xuống
ông, gặp ông Hiên cũng đưa cả gia đình xuống, rồi chúng tôi đi nghỉ Ðồ Sơn, sau
đợt ấy về là bắt đầu đấy. Tôi đội cái mũ sùm sụp để không ai nhận ra mình. Vào
bệnh viện quan sát. Thấy cũng không có gì ghê gớm, mình làm được. Thế là hôm
trước thăm dò, hôm sau vào đăng ký bán máu luôn. Hôm bán máu phải nhịn ăn, chỉ
uống cà phê sữa thôi. Máu của tôi thuộc nhóm máu O, nhóm máu xã hội chủ nghĩa
được chuộng lắm. Số cân của tôi chỉ được bán 150 cc thế mà đề nghị bán 200cc
cũng gật đầu ngay tắp lự. Ðược tiền và được nhiều phiếu lắm. Thịt, đường, sữa,
đậu. Ra cổng các ông bà phe xúm lại hỏi mua phiếu. Ông Lân bán phiếu chứ mình
không bán. Mình cầm về đưa cho bà Trinh mà chưa biết giải thích nguồn gốc mấy
cái phiếu ra sao. Sực nhớ đến Ngô Quốc Hạnh đã một lần cho phiếu mua vịt, mình
bảo: "Anh Ngô quốc Hạnh cho phiếu đây này." Lần sau cũng lại anh Ngô
Quốc Hạnh cho phiếu đây này. Ngô Quốc Hạnh biến thành tiên, thành bụt ở nhà
mình. Ông bố mình càng nhắc chuyện năm nọ không có anh Hạnh cho cái phiếu mua vịt
thì nguy, mấy bố con không làm nổi cái giỗ cho cụ. Ðưa tiền cho bà Trinh dễ hơn
đưa phiếu, cứ nói đại là tiền nhuận bút, mặc dù dạo ấy có được in gì đâu mà có
nhuận bút.Về sau những lúc khó khăn quá bà ấy cứ giục mình: "Anh đến anh Hạnh
xin ít phiếu đi." Có lần bí quá mà còn hai tuần lễ nữa mới đến kỳ bán máu,
tôi than thở với Lê Phát. Ông có nhớ Lê Phát không nhỉ. Lê Phát đài Tiếng Nói
Việt Nam cùng dịch Sê-khôp với tôi. Lê Phát bảo: "Thằng trưởng phòng huyết
học là bạn tôi. Ðể tôi viết thư cho nó."
Tường cười. Anh vừa cười vừa thuật lại câu chuyện "đáng
buồn cười" cách đây non nửa thế kỷ ấy. Tối hôm ấy anh cầm thư giới thiệu của
Lê Phát tới nhà ông trưởng phòng huyết học. Ðọc thư tiến cử của Phát, ông trưởng
phòng gật đầu xởi lởi:
-Ðược. Sáng mai anh đến. Tôi sẽ bảo chúng nó ưu tiên lấy nhiều
cho anh.
Ðó là lần Tường bán được nhiều nhất: 280cc! Ðại thắng trở về
đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam. Lê Phát đã đứng chờ ở cổng, hồi hộp:
-Ðược không?
Tường ăn mừng thắng lợi với Phát bằng một bữa bia hơi Cổ Tân.
Phát hai vại. Tường một vại. Uống xong, Phát nói một câu xanh rờn làm các bàn
bia khác cùng quay cả lại:
-Hôm nay tao uống máu thằng Tường!
Bán máu thành công, Tường nghĩ ngay đến Mạc Lân. Mạc Lân bán
được. Bán đều. Thừa thắng xông lên, Tường kéo Châu Diên đi. Nhưng đến Châu Diên
thì thất bại. Máu Châu Diên không đông. Mới chọc kim lấy máu để thử, rút mũi
kim ra máu đã chẩy đầy bắp tay, chẩy xuống nền nhà lênh láng đỏ lòm. Mọi người
nhìn vào đều sợ. Châu Diên hoảng, vớ vội nắm bông băng chạy vào nhà vệ sinh cho
khuất rồi băng ở trong ấy.
Thế là chúng tôi chuyện về Mạc Lân, về Châu Diên, về những
công việc phải làm sau khi ra Bắc. Tường bảo:
-Kỳ này về phải tập trung làm cho dứt điểm "Cái trống
thiếc". Dạo này tốc độ làm việc không được như trước. Chậm đi. Sức khoẻ yếu
rồi.
Bẩy mươi, sắp bẩy mốt rồi. Lại qua bao gian khổ. Làm gì không
yếu đi. Làm được thế đã là tốt lắm. Tôi muốn nói với Tường như vậy. Nhưng tôi bảo
anh:
- Ừ. Cố lên. Mình thấy ông đánh vật với nó cũng lâu rồi đấy.
Tôi biết để có thể ngồi dịch Grass, Tường đã mất biết bao thời
gian. Anh làm việc với nhà xuất bản, anh liên hệ với Grass, với đại sứ quán Ðức
tại Việt Nam. Anh xin tiền tài trợ để có thể trả bản quyền cho Grass theo đúng
luật xuất bản, một số tiền vài trăm Ðê Mác hoàn toàn mang tính tượng trưng. Và
anh dịch. Anh cặm cụi trước cái máy vi tính xách tay Dell mới tinh giá 2500 đô
mà Nguyễn Thanh Bình gửi từ thành phố Hồ Chí Minh theo đường bưu điện ra tặng
anh. Công việc trôi chẩy. Nhưng nhà anh quá nhiều khách, quá nhiều bạn. Nên làm
cứ bị ngắt quãng. Thế là Trọng Khôi, chủ tịch Hội Nghệ sĩ sân khấu cảm cái tình
anh đã đóng góp với hội về "cái vụ sân khấu Việt-Mỹ", kéo anh lên Tam
Ðảo dự trại sáng tác kịch bản sân khấu để anh... dịch Grass. Anh là người trại
viên nghiêm túc nhất, lúc nào cũng ngồi trước máy vi tính. Cả trại nhiều khi
kéo nhau đi dã ngoại, chỉ có một mình anh xuống nhà ăn với một suất cơm. Một
tháng trời, được thêm 200 trang. Bế mạc trại, anh về nhà. Lại kém hiệu quả...
Tường bay ra trước tôi. Khi về Hải Phòng, gọi điện lên cho
anh, tưởng anh đang ở Hà Nội thì đầu dây bên kia tiếng Trinh, vợ anh:
- Anh Tấn đấy à. Anh Tường em đi lên trại sáng tác Ðại Lải rồi.
Ði từ mồng 1 đầu tháng cơ. Giáp tết mới về.
Tôi biết vào cái tháng chạp rét đại hàn chi cực này chắc chắn
Hội Nhà văn không mở trại sáng tác. Anh nộp tiền ăn và tự giam mình cô đơn một
mình một bóng trong một căn buồng ở Ðại Lải, dốc sức làm việc. Dù giáp tết, người
ta tất bật, đâm sấp dập ngửa với bao công việc lo toan. Dù nhiệt độ xuống từ 8
đến 13 độ kéo dài cả tháng. Với lại cho dù có ở nhà vị tất anh đã giúp vợ con
được việc gì. Anh là người lơ lửng trên mây, ngu ngơ vụng về với mọi thứ của đời
thường, là người của một thế giới tinh thần, nói đúng hơn luôn đắm mình trong
nghệ thuật, "đi vắng ngay cả khi đang có ở nhà" như Châu Diên nói.
Tôi biết vợ anh đã phải sắc thuốc bắc cho anh, để anh tăng thêm sức khoẻ, để
anh im lặng đánh vật với từng con chữ. Dịch cả ngàn trang sách đâu phải dễ dàng
gì. Một công việc cực nhọc. Tường luôn làm những cái gì hơn mình một tí. Anh lại
đang kiễng chân từng mi-li-mét. Từ bôn tập hành quân, đeo thêm quyển từ điển đi
hết chiến dịch này tới chiến dịch khác thời chống Pháp cách đây hơn nửa thế kỷ.
Ðến thập niên 60 hoà bình nhưng còn căng thẳng hơn thời chiến tranh, đe doạ cả
an toàn cuộc sống. Và trong sáng tác, dịch, phê bình nghệ thuật. Ngay bán máu
cũng cố bán vượt chỉ tiêu một ít xê xê. Bây giờ là vượt lên sức khoẻ, tuổi tác.
Vượt lên. Phương châm sống của cả đời anh.
Cho nên chơi với anh đã nửa thế kỷ, lúc nào tôi cũng rất sung
sướng khi nói:
-Tôi là bạn của ông Dương Tường.
Như bà Lorrelle Browning đã nói cùng tôi.
Mùng 3 Tết Nhâm Ngọ
13 - 2 - 2002
[1] Thơ Hoàng Hưng
[2] Thơ Hoàng Hưng
Hết: Phần II , xem tiếp: Phần
III
Lời cuối truyện: Xin lỗi các bạn Ðình Kính, Chu Lai, Nguyễn
Quang Thân và cả Dạ Ngân nữa. Nếu các bạn không bằng lòng, hãy cứ coi đây là
chuyện...bịa.
Phần III
Thời gian gấp ruổi
Ngày nay ngày nay
Chuyện đẹp qua đi
Thời gian gấp ruổi...
Quang Dũng
Trong một lần tới thăm Nguyễn Khải tại thành phố Hồ Chí Minh,
đang vui câu chuyện, tôi hỏi anh có biết Mạc Lân không. Hỏi để mà hỏi. Hỏi vì
câu chuyện đang xoay quanh thế hệ những người cầm bút chúng tôi trước và sau
hoà bình 54. Tôi không nghĩ rằng Khải biết Lân, vì Lân chưa một ngày ở Văn nghệ
Quân đội. Và cái tên Mạc Lân chỉ xuất hiện duy nhất có một lần trong một tập
sách mỏng mà từ lâu người ta đã quên nó. Thật không ngờ, Nguyễn Khải trả lời:
- Biết chứ. Sao không biết. Mạc Lân. Lê Mạc Lân. Con cả Lê
Văn Trương. Chí lớn và tính nết ngang tàng lắm. Khi anh ấy ở quân khu tôi còn
đang ở tỉnh. Anh ấy phải hơn tuổi tôi. Không biết dạo này ra làm sao. Có khoẻ
không.
Tôi kể cho Khải nghe những thông tin mới nhất về Lân. Có một
chuyện vui:
-Lâu lâu không thấy tôi gọi điện lên, ông Lân ông ấy lại gọi
xuống tôi, ông ấy bảo: Sao ông không gọi điện cho tôi, ông sợ đau hào à. Tôi bảo
không phải sợ đau hào đâu mà chán lắm ông ơi. Tôi có cảm giác ai đó đang nghe
câu chuyện của chúng mình nên tôi không muốn gọi. Ông ấy gắt: Ai nghe. Ông cứ
thần hồn nát thần tính. Ð. mẹ thằng nào nghe trộm. Ðấy. Tôi chửi rồi đấy. Ông cứ
nói đi.
Chúng tôi cùng cười. Khải bảo:
-Tính nết vẫn y như thế.
Tôi thống kê những bệnh tật Lân mang trong người. Nhồi máu cơ
tim hơn 20 năm, từ năm 1982 đến nay, sỏi thận, tiểu đường, hai lần gẫy chân
nhưng lại phải mổ ba lần...Khải lắc đầu sợ hãi. Không chỉ Nguyễn Khải. Ai biết
bệnh của Lân đều sợ. Nhưng Lân là người kiên cường. Rất kiên cường chiến đấu với
bệnh tật cũng như kiên cường sống. Ðến nhà Lân, một căn hộ cấp 4 ở khu tập thể
ngoại thành, nhìn anh nặng nề ngồi dậy, nặng nề cà nhót cà nhắc ra bàn nước pha
nước, tôi không thể không nhớ đến những ngày chúng tôi mới quen nhau, những
ngày sau hoà bình 54, khi tôi 20 tuổi còn Mạc Lân 26 tuổi. Một Mạc Lân trẻ
trung, cao to, sôi nổi, yêu đời, huy hiệu Ðiện Biên sáng ngực áo. Một Mạc Lân kể
chuyện văn công lên Ðiện Biên phục vụ tận chiến hào, con Hồng Ngọc nó hát
bài Qua miền Tây Bắc như thế này này. Và cao hứng Lân hát. Lân bắt
chước cô văn công Hồng Ngọc nào đó hát. Cái giọng thuốc lào, ống bơ rỉ của Lân
rè rè cố bắt chước cô Hồng Ngọc làm chúng tôi không nín được cười. Hôm nay nhìn
ông già ngoài bẩy mươi tuổi bạn tôi nét mặt sáng ngời lên vì có bạn đến thăm, tôi
hiểu được thế nào là thời gian, thế nào là cuộc đời. Tôi đọc Mai-a-kôp-xki, những
vần thơ thời tuổi 20 chúng tôi thường hay đọc để nói về nhau:
Dáng anh đi cao lớn thiên tài
Từng bước một trong đầu em nổi sấm
Và Lân đọc tiếp với giọng hào hùng của một chàng trai ngày
trước:
Nhưng vẫn vô công không tài nào anh cướp được em đi
Ông vua An-be đã mất mọi thành trì
Cũng nhiều của hơn tôi nhiều lắm
Một cách đọc của Lân. Vẫn là Mai-a. Nhưng anh đã lắp đoạn này
vào đoạn khác. Có hề chi. Miễn là những vần thơ ấy làm chúng tôi trẻ lại, làm
chúng tôi sống lại quãng thời gian đẹp nhất của chúng tôi. Hơn nữa nếu bây giờ
mà có một ông vua An-be bất hạnh nào đó đã mất mọi thành trì thì đúng là ông ta
cũng vẫn giầu hơn Mạc Lân rất nhiều. Tôi nói cho Lân nghe những đêm ít ngủ của
tuổi già, tôi nằm tổng kết lại cuộc đời mà thấy rằng những ngày chúng tôi ở báo
Tiền Phong với nhau là những năm tháng đẹp nhất. Lân cũng đồng ý với tôi như vậy:
-Nhớ lắm ông ạ. Một cảm giác đau như nhớ lại những ngày thơ ấu.
Ðúng là một cảm giác đau. Ngày ấy tôi mới bước vào đời. Tôi mới
20 tuổi...
Sau tiếp quản Thủ Ðô, khoảng tháng 12 năm 1954, đơn vị thanh
niên xung phong chúng tôi có ba người được chuyển về báo Tiền Phong: Vũ Lê Mai,
Lê Thị Tuý và tôi. ít ngày sau từ bộ đội lại chuyển về ba người nữa: Mạc Lân, Tất
Vinh và Vũ Lê. Rồi tiếp theo là Nguyễn Trí Tình, Vũ Công Luận, Mai Cát, Văn Kim
Kim, Phan Mai... Tất cả đều còn rất trẻ. Ðội ngũ phóng viên Tiền Phong lúc đó
chưa ai tới 30. Chỉ có Mạc Lân là lớn tuối nhất: 26 tuổi. (Tôi không kể Vũ Lê,
vì chỉ nửa năm sau, khi hoàn tất việc tập kết quân đội 300 ngày, miền Bắc hoàn
toàn giải phóng, Vũ Lê chuyển về Hải Phòng, nhóm bộ đội chỉ còn Mạc Lân, Tất
Vinh.) Ðó là một lớp thanh niên tuyệt vời, có học thức, có khát vọng, có lý tưởng,
có nhiệt tình, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ và tràn đầy niềm vui sống, niềm
vui làm việc. Tiền Phong là một tờ báo có uy tín lúc đó và phóng viên Tiền
Phong luôn được bạn đồng nghiệp các báo kính nể. Ở Tiền Phong tôi đã được hưởng
niềm sung sướng của người lần đầu tiên được đọc tin của mình viết in trên báo,
sự xúc động đến lặng người khi giở báo ra thấy bài phóng sự của mình chạy dài
ba cột, chiếm cả góc trang báo. Chúng tôi không được dự một lớp đào tạo nghiệp
vụ nào.Chúng tôi học nghề chủ yếu qua những buổi sinh hoạt rút kinh nghiệm
trong nội bộ cơ quan, phân tích ưu khuyết điểm hàng tháng hàng quý. Riêng tôi,
tôi đọc thêm. Ðọc báo và đọc cả truyện. Không chỉ đọc. Tôi còn đóng một quyển sổ,
ghi chép, phân tích những sáng tác mình đang đọc.
Khi mới về báo Tiền Phong, thấy trong tủ sách cơ quan có một
tập truyện viết về Ðiện Biên Phủ, lập tức tôi chiếm giữ nó, cất trong ngăn kéo.
Ðó là tập Bảo vệ đường lên mặt trận của Hồ Phương, Mạc Lân, Ðại Ðồng,
tập sáng tác duy nhất cho đến lúc đó viết về Ðiện Biên, một tập sách được giải
thưởng trong cuộc thi sáng tác về Ðiện Biên Phủ, gần như cùng với quân đội ta
tiến vào tiếp quản Thủ đô, bởi vì lúc đó Trần Dần còn chưa viết dòng đầu tiên của
bộ tiểu thuyết Người người lớp lớp. Tôi ghi chép, tôi phân tích, tôi ghi
vào sổ tay những điều sẽ giúp ích cho tôi trên con đường làm báo và sáng tác
sau này. Dễ hiểu rằng khi Mạc Lân về cùng làm phóng viên, tôi thân thiết và quý
trọng anh ngay. Một tình bạn có thể gọi là vong niên được, dù cùng trong tuổi
20. Giờ đây khi đã trên dưới 70, chênh nhau 6 tuổi chẳng đáng kể gì, nhưng ngày
ấy một người 20 và một người 26 tuổi, khoảng chênh lệch quả là rất lớn. Hơn hẳn
một phần ba thời gian mình đã sống đâu phải chuyện đùa. Mà không phải chỉ là
năm tháng. Hơn tôi 6 tuổi, có nghĩa là Lân bắt gặp cách mạng đúng vào tuổi trưởng
thành. Khi tôi còn ở Nhi đồng cứu vong hội, còn đang đẽo súng gỗ, đánh trận giả,
đánh trống cà rùng và hát Nhanh bước nhanh nhi đồng thì anh đã tham
gia cướp chính quyền ở Thủ Ðô, đã đi Nam tiến, người anh đã nhuốm mùi lửa đạn.
Trong tập Chi Ðội 3 Giải phóng quân Nam tiến của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
do nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản năm 2000 có một đoạn viết về một trận
đánh ở Phan Rang như sau:
Kế hoạch tiến công nhà Công sứ, dinh luỹ cuối cùng của bọn Nhật
lúc bấy giờ nghe có vẻ quy mô:
Toàn bộ lực lượng vũ trang và phục vụ các nơi dùng trống,
chiêng, thùng, chậu...gây tiếng động lớn để uy hiếp tinh thần địch, đồng thời đẩy
"đại bác" vào chiếm lĩnh trận địa, ngắm thẳng vào tường chính diện
toà Công sứ. Dự kiến bắn khoảng 20 phát, tạo một lỗ hổng to rồi lăn hai phuy
xăng vào phóng hoả, tạo điều kiện cho quân ta xung phong.
Một vài cán bộ và chiến sĩ suy nghĩ và lo lắng kế hoạch khó
thực hiện nhưng không ai có chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu nào hay hơn, vũ khí
cũng chỉ có vậy.
Ngày bao vây toà Công sứ cuối cùng, Lê Văn Lân (tức Thuận
Lân) một chiến sĩ của trung đội Nguyễn Tiệp đang bắn kiềm địch thì tiểu đội trưởng
Lê Văn Cử (tức Thái) phái đi rỡ cọc rào có chằng dây thép gai, để chuẩn bị cho
đơn vị có đường xuất kích. Bọn Nhật từ trên cao phát hiện. Một tràng liên thanh
bắn làm cho Thuận Lân bị thương. Nhanh như cắt, Lê Chân, một chiến sĩ cùng tổ
đã xông ra vác bạn trên vai, chạy ẩn vào mép tường. Các đồng chí Phấn và Hạnh
hai nữ cứu thương băng bó cho Lân và đưa về hậu phương, sau đó về bệnh viện nơi
sơ tán ở gần Cầu Mống (nay thuộc phường Bảo An) gần Tháp Chàm.
Mấy phút sau Cử vào "lỗ" bắn của Thuận Lân, mới bắn
được một phát đã bị bọn Nhật bắn trúng mắt và khiêng về bệnh viện thì hy sinh.
(Sách đã dẫn, trang 121, 122). Cũng ở trang 122 có chú thích như sau: Thuận Lân
tức Lê Văn Lân hiện ở nhà A5, phòng 102, khu tập thể Liên Cơ Dịch Vọng Hà Nội.
Lê Văn Lân chính là Mạc Lân. Ðó là tên khai sinh của anh. Lớn lên, anh thay chữ
Văn đệm giữa bằng tên người anh yêu quý. Thuận là tên một cô bạn học mà anh yêu
vụng dấu thầm suốt thời gian anh cắp sách tới trường. Ngày ấy anh là Lê Thuận
Lân. Sau này vào bộ đội, một đồng đội thân thiết của anh tên Mạc hy sinh, anh
có tên Lê Mạc Lân. Trận Thuận Lân bị thương vừa kể là trận đánh tại Phan Rang,
tháng 11 năm 1945, thời cách mạng còn đang trứng nước. Ðơn vị Nam tiến của anh
đã sớm có mặt tại mặt trận Sài gòn, đánh địch ở cầu Bình Lợi, Xuân Lộc, Phan
Thiết, Phan Rang, Nha Trang, Buôn ma thuột...
Bị thương, Lân trở về Hà Nội, thành phố của thời thơ ấu, của
tuổi học trò, thành phố anh đã gia nhập đoàn Thanh niên Cứu quốc, tham gia tổng
khởi nghĩa, cướp chính quyền. Hà Nội khi Lân từ Phan Rang trở ra giống như một
thùng thuốc súng. Ngọn lửa chiến tranh có thể bùng phát bất cứ lúc nào và cuối
cùng đã bùng phát. Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng
ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta
một lần nữa. Không, chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ... Lân tham gia bộ đội Thủ đô với chức vụ tiểu đội
trưởng. Anh lại cùng đồng đội đào giao thông hào, dựng chướng ngại vật và cầm
súng chiến đấu giữ từng góc phố, từng mét vỉa hè Hà Nội. Ðánh nhau ở phố Huế, Ô
Cầu Dền, đê Thanh Lương. Chiến đấu ở Trại Vệ quốc đoàn trung ương (trước cửa rạp
Majestic). Ðánh vào toà Ðại sứ Pháp, lúc đó là nhà đại tá La-mi, trưởng phái
đoàn Liên Kiểm Pháp, viên sĩ quan Pháp có vinh dự được có mặt trong một bài thơ
Việt Nam, bài Hải Phòng 19-11-1946, kiệt tác của Trần Huyền Trân:
Miệng La-mi ngọt bên tiếng súng
Bao nhiêu bơ sữa reo cười
Ðầu năm 1947, quân ta rút khỏi Thủ Ðô, bắt đầu cuộc trường kỳ
kháng chiến. Lân đã là cán bộ đại đội. Anh được kết nạp Ðảng và đi học lớp bí
thư chi bộ. Rồi làm phái viên kiểm tra của bộ tư lệnh quân khu. Năm ấy anh mới
19 tuổi. Ðồng chí phái viên kiểm tra của quân khu này không chỉ quá trẻ, mà còn
có tác phong lính tráng xuề xoà, hay kể chuyện tiếu lâm, hứng lên còn kể cả
chuyện cô đầu Khâm Thiên, theo nhận xét của trên rõ ràng không thích hợp với
công tác kiểm tra. Ông Văn Phác bảo Lân:
-Thôi, cậu về làm báo.
Thì làm báo. Ðó cũng là nguyện vọng vủa anh. Về tờ Vệ quốc
quân khu 2. Gặp Yên Thao, Văn Thân, Nguyễn Phúc Nghiệp ở đó. Ít lâu sau khu 2
sáp nhập với khu Tả Ngạn thành Liên khu 3, Lân về báo Quân Bạch Ðằng của quân
khu 3. Liên miên những ngày đi chiến dịch: Quang Trung, đường 6, Hà Nam Ninh...
Và vào địch hậu. Rồi theo một đơn vị pháo binh lên Ðiện Biên phủ. Tập Bảo
vệ đường lên mặt trận là kết quả của bao ngày đêm cùng đơn vị pháo ăn bom
trên đèo Lũng Lô, mưa dầm cơm vắt, mịt mù khói lửa, cái sống cái chết chỉ trong
gang tấc...
Chiến dịch Ðiện Biên kết thúc thắng lợi. Một nửa đất nước
hoàn toàn giải phóng. Cha anh, nhà văn Lê Văn Trương di tản vào Sài gòn. Cái
gánh nặng lý lịch anh mang suốt thời gian kháng chiến giờ đây càng nặng nề hơn.
Cấp trên mời anh lên nói anh sẽ được xuất ngũ. Trần Dần biết tin ấy, nhắn gọi
Lân về phòng Văn nghệ Quân đội, nhưng Lân không về. Chính anh cũng muốn rời
quân ngũ dù phải phục viên như người bạn Tạ Phương Hiển "tuổi hăm ba treo ấn
từ quan" cũng được. May sao ông Trương Công Cẩn, chính uỷ sư đoàn là người
có trách nhiệm và thông cảm với anh em văn nghệ sĩ, viết thư cho ông Nguyễn Lam
khi đó là bí thư trung ương đoàn Thanh Niên Cứu quốc: "Ðây là những đồng
chí có công nhưng cấp bậc thấp vì chính sách đối với văn nghệ sĩ của chúng ta
chưa rõ ràng, nhờ đồng chí giúp đỡ tạo điều kiện cho các đồng chí ấy công tác
bên đoàn thể, dân sự..." Thế là Mạc Lân, Tất Vinh, Vũ Lê về báo Tiền
Phong, Dương Tường về Việt Nam Thông tấn xã. Những bộ quân phục cùng với những
huy hiệu Ðiện Biên của các anh làm sáng cả cơ quan báo, càng thêm sức hút đối với
những thông tín viên, cộng tác viên khi họ đến toà báo. Cũng xin nói thêm một
chút về những bộ quần áo đại quân này. Chỉ có Mạc Lân, cán bộ đại đội (anh ở
cái cấp bậc này suốt 8 năm trường kỳ kháng chiến, từ năm 1947 tới năm 1954) là
có áo bốn túi, hai túi trên ngực và hai túi dưới vạt. Còn Tất Vinh, Vũ Lê cán bộ
trung đội, Dương Tường cán bộ tiểu đội thì áo chỉ có hai túi ngực và vai áo can
vá thêm hai miếng để mang vác áo vẫn bền, không rách, loại áo Phùng Quán đã viết
thành thơ:
Nhưng áo tôi nàng không mặc được
áo lính vá vai xanh mầu quân phục
°
Ngày mới về Tiền Phong, Lân được làm trưởng ban Văn Nghệ
nhưng phải nói rằng cái chức ấy chẳng có sức hấp dẫn chúng tôi, kể cả chính
Lân. Ðiều hấp dẫn chúng tôi là lao vào cuộc sống, lao vào thực tế, vừa viết được
những bài đặc sắc cho báo vừa tích luỹ cho sáng tác văn chương sau này. Vũ Lê
Mai đi sâu vào công nghiệp, Nguyễn Trí Tình rực lửa anh hùng sẵn sàng đến tất cả
những mũi nhọn của công cuộc xây dựng. Văn Kim Kim với vốn Trung văn giầu có,
áp cặp kính cận xuống những tạp chí Trung Quốc, dịch, lấy tài liệu viết về những
hoả tiễn, những loại máy bay đời mới và mục Khoa học và Tuổi trẻ của anh bao giờ
cũng hấp dẫn bạn đọc. Tôi đi về nông thôn, hết nghiêng sông đổ nước vào đồng
(chống hạn) lại nghiêng đồng đổ nước ra sông (chống úng). Nhà báo già nhất cơ
quan khi đó, anh Vương Mộ Thanh, bố hoạ sĩ Ðỗ Phấn sau này (ngày ấy Ðỗ Phấn bé
tí hin, tôi hay bế Ðỗ Phấn đi chơi và dạy Phấn những điều ba lăng nhăng nhất,
như chân thì gọi là đầu, đầu thì lại là đít, và tên cháu là gì? là Ông Bách
Khoa, khiến anh chị Mộ Thanh phải van các chú, các chú đừng dạy cháu như thế nữa)
cũng như trẻ lại với chúng tôi. Mạc Lân, Tất Vinh cùng ở tổ văn nghệ. Dễ hiểu rằng
các anh phải cáng đáng những phần việc nặng nề nhất cho những số đặc biệt, nhất
là số báo Tết: Thơ và truyện ngắn. Thơ cũng không khó. Tất Vinh có thể đi đặt
được. Vỡ kế hoạch thì chính anh sáng tác. Nhưng không chỉ có vậy. Còn tuỳ bút,
còn điểm thơ. Và Mạc Lân còn phải đẻ ra truyện ngắn. Chúng tôi, cánh trẻ mới
vào nghề nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ của mình cho số báo Tết một cách rất
nghiêm túc và nộp bài cho biên tập. Và khi đường phố đã lác đác hoa đào, mậu dịch
đã xe về cửa hàng những mứt, những rượu, những lá dong, gạo nếp và lòng người
ai cũng náo nức cả lên, thì trong bữa cơm tập thể, đồng chí tổng biên tập nói lời
cuối cùng: Tất cả bài đã đầy đủ, chỉ còn thiếu của tổ văn nghệ. Tối nay cứ làm
ma-két và đầu giờ sáng mai, hai đồng chí ban văn nghệ phải có bài. Ðấy là thời
hạn chót.
Ðồng chí nói vẻ nghiêm khắc nhưng không có ý gì bực bội. Ai
cũng biết sáng mai tổ văn nghệ sẽ nộp đủ bài. Ai cũng biết "hai ông tướng
văn nghệ" là cứ phải nước đến đít mới viết được ra.
Ðêm ấy Lân, Vinh thức khuya, hẳn rồi. Tôi chong đèn ra sân
chơi bóng bàn. Ðã khuya, anh em đã mệt, đi nghỉ cả, tôi ghé lên gác nhìn hai
anh đang miệt mài cặm cụi. Cả hai cùng quay mặt vào tường im lặng viết, nhưng
khi tôi lên các anh biết ngay. Mạc Lân quay ra nhìn tôi cười. Anh gọi Tất Vinh:
-Vinh. Nghỉ đã. Ði uống cà phê.
Tất Vinh đứng lên, khoái chí ngâm nga mấy câu thơ cửa miệng tả
vẻ đẹp của người con gái bằng những vật dụng ăn uống phổ thông dễ hiểu nhất:
Môi em mọng đỏ cà chua. Mắt em ngọt kẹo vừng kẹo lạc. Em cười dòn phàn xôi, phá
sa.
Ðó là dấu hiệu các anh đang làm việc có kết quả. Ba chúng tôi
đi bộ ra phố Huế. Ra phố mới thấy rét. Gió đã hẳn. Còn sương. Ðường phố vắng.
Lá khô lăn dưới lòng đường, trên vỉa hè. Chúng tôi ôm lấy nhau đi. Ba chàng
phóng viên Tiền Phong chưa vợ cảm thấy cuộc đời sao đáng yêu đến thế. Chúng tôi
uống cà phê vỉa hè. Ông cà phê vỉa hè ngã tư Hàm Long phố Huế hình như bán hàng
suốt đêm. Hàng ông lúc nào cũng đông khách. Càng rét càng đông. Bởi vì các quán
cà phê vỉa hè khác người ta thường pha cà phê bít tất nghĩa là cho cà phê vào
túi vải rồi đem ninh lên. Còn ông, ông pha phin theo kiểu Pháp. Cốc đựng cà phê
đặt vừa trong một cái ống bơ sữa bò có nắp đậy, có quai giây thép quấn vải cầm cho
đỡ nóng. Khách hàng mỗi người một phin, một ống bơ, quây quanh cái bếp lò than
quả bàng. Chung quanh bếp và ngay trên những hòn than miệng bếp, chen sát nhau
là những ống bơ đen khói đựng nước lúc nào cũng sôi sùng sục để làm nóng cà phê
theo lối cách thuỷ. Ngồi dưới sương rơi buốt vai, buốt lưng nhưng da mặt ửng hồng,
rát lên vì lửa, huơ huơ hai bàn tay quanh bếp, xì xụp thứ cà phê nóng bỏng đậm
đặc bắt môi bắt lưỡi, vai chen vai dù không quen biết, dù rì rầm câu chuyện hay
yên lặng, khách hàng cũng hoàn toàn hiểu nhau. Nhấc lên đặt xuống cái ống bơ, lấy
kẹp gắp một hòn than đặt đúng chỗ cho ngọn lửa lên vừa phải, cho ống bơ của
mình không bị cập kênh, lấy một cái đóm giấy lách vào khe than hồng rồi mồi lên
điếu thuốc, im lặng nhả khói, mọi người cùng hưởng những giây phút thư dãn tuyệt
vời quanh bếp lửa. Ông chủ hiệu cũng hoàn toàn yên lặng. Ông chỉ nói khi phải
tính tiền với khách. Và giọng nói của ông. Ðúng là giọng nói của người quanh
năm ngồi bên bếp lửa. Nó có mùi khói. Nó ngàn ngạt khê khê, ấm áp vô cùng. Ba
chúng tôi đứng lên. Rời xa bếp, rét. Chúng tôi lại khoác vai nhau. Vẫn im lặng.
Chỉ có tiếng lá khô gió thổi lăn dưới lòng đường, lăn trên vỉa hè. Bỗng Lân reo
lên:
-Tao nghĩ ra được cái kết của truyện rồi. Cô gái sang đò về đến
đầu làng thì trời đã tối. Cô leo lên bờ đê và thấy sao đã mọc. Càng nhìn lâu
càng thấy nhiều sao. Những ngôi sao như những hạt ngô mẹ tẽ ra phơi nắng ngày
mùa.
°
Cái truyện ngắn số báo Tết ấy cũng như tất cả các bài trên
báo khác của Mạc Lân đều ký tên Hoàng Hoan. Hình như đó là cái tên đã được đặt
trước cho con anh dù nó chưa sinh, dù nó là trai hay gái. Về Tiền Phong ít lâu
Mạc Lân lấy vợ. Sinh cháu gái Hoàng Hoan. Mặc dù Lân đã chạy sang hàng ngũ có vợ
có con nhưng cánh chưa vợ chúng tôi vẫn cứ coi anh như một thành viên. Chúng
tôi xem vợ chồng anh tắm cho cháu. Chúng tôi quây quanh Hoàng Hoan reo hò động
viên Hoàng Hoan tênh tênh. Bật cười khi thấy Lân với cái cù dìa bột chạy theo
cháu ép cháu ăn và cằn nhằn:
-Tao nuôi mày thế này mà mày ngày sau lại cứ em yêu nhất anh.
Và khi cháu bốn năm tuổi, chúng tôi có xoa đầu vuốt tóc Hoàng
Hoan thì Hoàng Hoan hất tay chúng tôi ra, nói với giọng con nít gần như nhăn
nhó:
-Ðầu để nghĩ. Không phải để xoa.
Tất cả chúng tôi cười ầm. Hoàng Hoan cũng cười toe toét. Mạc
Lân sung sướng xốc con lên vai đi quanh phòng:
-Ðúng. Ðầu để nghĩ! Con gái bố giỏi lắm.
Ðầu để nghĩ. Mạc Lân muốn con bé con có cái đầu không phải để
xoa, mà có cái đầu để nghĩ. Và tất nhiên, cái đầu của anh cũng là để anh suy
nghĩ. Nói đúng ra kiểu dạy con như vậy là đùa chơi nhưng cũng chỉ có Lân dạy
con kiểu ấy. Ðó là phản ứng của anh với tình trạng có những cái đầu chỉ nghĩ
theo những điều mà những cái đầu khác đã nghĩ sẵn cho mình.
Chẳng phải vì là bạn với Trần Dần, Phùng Quán mà anh tán
thành những quan điểm của báo Nhân Văn. Không chỉ trong suy nghĩ anh còn phát
biểu thành lời. Tất nhiên anh không được tin tưởng nữa. Ðang là trưởng ban Văn
nghệ, anh sang làm trưởng ban bạn đọc, rồi xuống làm phóng viên. Lương từ bậc
11 hạ xuống còn bậc 7. Nhưng điều đó có hề gì. Anh vốn không thích ở nhà duyệt
bài, giữ gôn, mà muốn đi cơ sở. Bắt đầu cuộc chiến tranh leo thang Giôn xơn. Miền
Bắc mới được 10 năm im tiếng súng và đang tận lực chi viện cho miền Nam giờ đây
phải trực tiếp chiến đấu. Những nơi chiến sự ác liệt nhất đều có Mạc Lân. Cơ
quan cử anh đi vì anh là người xông xáo, không ngại hiểm nguy, nắm bắt vấn đề
nhanh, viết bài nhanh, hơn nữa trước đây anh từng là phóng viên mặt trận. Yên Vực,
Hàm Rồng, Nam Ngạn, Ðò Cấm, Cầu Hổ, Cầu Vằn... đều có anh. Những địa danh giờ
đây không gợi một ý niệm gì nhưng ngày ấy là lương tâm của toàn dân tộc. Ðó là
quyết tâm của một bên là khoa học kỹ thuật hiện đại tối tân nhất, sức mạnh quân
sự hùng hậu nhất của Mỹ và đồng minh với một bên là ý chí gang thép, của quân
và dân miền Bắc giữ vững mạch máu giao thông đưa người và súng đạn của cải vào
miền Nam chiến đấu. Ðời làm báo của Mạc Lân từ đó là những chuyến đi đột xuất tới
những vùng lửa đạn, vất vả, gian khổ, nhịn đói, đêm hôm, nguy hiểm. Lân đã tận
mắt chứng kiến nhiều chuyện. Những chiếc cầu bị đánh sập. Những chiếc máy bay bị
bắn đứt ngang đâm thẳng xuống gần trận địa. Những trận địa pháo bị trúng bom,
những cô gái đi thăm chồng là pháo thủ bỗng trở thành những người tiếp đạn trên
trận địa, ẩn hiện trong khói lửa, quần áo, da tóc khét mùi thuốc đạn. Trận chiến
đấu kết thúc, sau khi thay phiên trực chiến, sau khi đã xuống sông tắm gội và
ăn uống, nghỉ ngơi, hai vợ chồng người chiến sĩ nọ tràn đầy tình yêu bước vào
căn buồng của riêng họ: căn buồng hạnh phúc. Lân kể lại chuyện ấy cho tôi nghe
trong một lần anh xuống Hải Phòng (tôi đã từ báo Tiền Phong chuyển về báo Hải
Phòng hồi cuối năm 1959) viết về nhưng con tầu mở đường mòn trên biển. Anh sôi
nổi:
-Giá ông nhìn thấy hai vợ chồng người chiến sĩ nông dân chân
chất ở trận địa cầu Hàm Rồng. Buổi chiều còn tơi bời khói lửa, gần như không phải
con người bằng xương bằng thịt nữa mà là sắt thép, cái sống cái chết liền nhau
mà buổi tối thì trẻ trung tươi tắn thế. Cô cậu ngượng chưa muốn vào nhà hạnh
phúc ngay, còn đi la cà buồng nọ buồng kia nhưng đi đến đâu cũng bị xua đuổi.
Người ta không muốn cô cậu mất thì giờ vì họ. Thời gian quý lắm. Nhất là thời
gian giữa hai trận đánh.
Và gật gù:
-Tôi sẽ viết một cái truyện ngắn về cái lực Việt Nam. Về một
đôi vợ chồng chiến sĩ như tôi vừa kể cho ông. Chiến đấu suốt buổi chiều, đến tối,
khi cửa phòng hạnh phúc khép lại, chị vợ hỏi chồng: Mệt thế anh có chiều em được
không? Anh chồng cười: Ðược chứ, sao lại không? Nhưng anh chiều ít hay chiều
nhiều? Chiều nhiều.
Chẳng thể nào diễn đạt được hai tiếng chiều nhiều Lân nói.
Quai hàm bên dưới trẹo đi. Vừa âu yếm vừa nũng nịu mà chỉ Mạc Lân mới có.
Tôi không biết anh đã đặt bút viết cái truyện ngắn ấy chưa. ý
tưởng về truyện ngắn này nẩy sinh trong lần về trận địa Hàm Rồng nhưng nó bắt
nguồn từ những suy nghĩ sâu xa hơn. Ngày ấy người ta sợ viết về tình yêu trai
gái. Ngày ấy những con người chiến đấu được giản lược đi đến mức tối đa. Lân bảo:
Bọn Liên Xô sang đây nó bảo nhân vật của các anh không có bộ phận sinh dục à? Cứ
đọc sách của mấy ông viết thì đúng như thế thật. Nhưng tôi cam đoan với ông rằng
trong Nam đang chiến đấu gay go như thế nhưng người ta vẫn yêu nhau, vẫn ghen
tuông, vẫn ngoại tình, vẫn ngủ với nhau. Cuộc sống ông ạ. Không có gì dập tắt
được cuộc sống. Chỉ có chúng ta dập tắt nó trong sách thôi.
Những suy nghĩ kiểu như vậy ngày ấy cũng là lạc lõng, cần phải
uốn nắn. Lân biết rằng thật khó mà viết được một cái gì đó chân thực. Nhưng anh
vẫn đi. Vẫn đến với những nơi nguy hiểm nhất. Những tấm gương chiến đấu của
quân dân ta ở tuyến lửa động viên anh. Khi bom Mỹ đánh trúng trại hủi Quỳnh Lập,
anh đang ở khu 4. Lấy xe đạp đạp suốt đêm tới Trại hủi, lấy tài liệu viết bài
ngay, nghĩ tới anh em trong toà soạn đang ở Hà Nội, Lân tự thấy mình là
"ghê", nhưng ý nghĩ ấy biến mất ngay khi anh đến phòng mổ của các bác
sĩ: Vi trùng hủi Hansen lây bằng đường máu mà các bác sĩ mổ cho những người hủi
bị trúng bom không có găng tay!
Ðến những mũi nhọn trong chiến đấu, đó là lương tâm -và cũng
có thể là tự ái nghề nghiệp- của anh, là máu mê của anh nữa, chứ anh hoàn toàn
không tin là anh sẽ được lãnh đạo báo tin tưởng. Cho nên mỗi khi thấy lãnh đạo
tươi cười với anh là anh cảnh giác. Như một hôm, một uỷ viên biên tập thân mật
vỗ vai anh, anh hiểu ngay là sắp có nhiệm vụ đột xuất. Quả nhiên, người uỷ viên
biên tập nói với anh:
-Nó đánh Nam Ðịnh rồi.
Thế là ba lô xe đạp guồng suốt đêm về Nam Ðịnh viết Thành phố
dệt nổ súng.
°
Năm 1967 Mạc Lân rời khỏi báo Tiên Phong. Lê Bầu sau khi đi học
phiên dịch ở Trung Quốc, công tác ở ngành bưu điện đã xin chuyển được về Hội
Văn Nghệ Hà Nội. Bầu kéo Lân về đó. Lân về Hội Văn Nghệ Hà Nội vì hai lý do:
Anh không thể ở báo Tiền Phong được nữa mà Hội Văn Nghệ Hà Nội lại có báo, có
nhà xuất bản, nghĩa là có đất dụng võ như lời tán của Bầu.
Nhưng cái đất dụng võ ấy đâu có phải là của Mạc Lân mà cũng
chẳng phải của Lê Bầu. Có một ý kiến (hay chỉ thị) không thành văn nhưng mạnh
hơn văn bản mà tất cả các báo, các nhà xuất bản đều thực hiện rất triệt để và
nghiêm chỉnh là không in bài của Mạc Lân, Lê Bầu. Nếu hãn hữu có in cũng không
được ký tên hai người. Người ta thực hiện triệt để tới mức tập Người Hà Nội có
bài của Mạc Lân, Lê Bầu thế mà tên không được in đã hẳn, nhuận bút cũng không
có nốt. Túng thiếu. Mà phải có tiền. Phải sống.
Ðang loay hoay với kế mưu sinh thì Dương Tường đến. Nào ai ngờ
được chính anh chàng lơ ngơ này lại là người giải quyết cho Mạc Lân vấn đề cực
kỳ khó khăn ấy: Ði bán máu. Lân tròn xoe mắt, sửng sốt và bất ngờ. Bán máu? Bán
ở đâu? Bán như thế nào? Ai mua? Ông lại sáng tác ra chuyện gì nữa thế? Không phải
chuyện sáng tác, hư cấu. Người thực việc thực một trăm phần trăm. Chuyện của
chính tôi. Chính tôi đã đi bán rồi đây ông ạ. Có mà trời tin. Ðừng bịp nhau.
Người một tay xách nặng như ông mà đi bán máu. Trông thấy ông người ta cũng đủ
ngán rồi. Ông không tin thì thôi. Bốn hai cân như tôi mà bán được máu đấy. 200
xê xê đàng hoàng. Ông ăn chắc mỗi kỳ 250 xê xê. Thế thì đúng rồi. Nhưng bán ở
đâu? Thủ tục ra sao? Lân mừng như người chết đuối vớ được cọc. Thế là Tường giảng
giải. Và để kết luận, Tường bảo: "Tôi sẽ đưa ông đi."
Lân không nhờ Tường đưa đi. Anh tự đi. Tường động viên: Cũng
nhiều chuyện phức tạp, lôi thôi lắm, chứ không đơn giản đâu. Không biết gan của
ông có vấn đề gì không. Có vi trùng sốt rét không. Ở bộ đội thằng nào chẳng sốt
rét. Thôi cứ đi. Ðược hay không thì cũng là một lần tổng kiểm tra sức khoẻ. Từ
bé đến giờ chúng mình đã kiểm tra sức khoẻ bao giờ đâu.
Nghe lời Tường dặn, Lân mua nửa cân chè Thái đến gặp phó
phòng huyết học bệnh viện Việt Ðức như một cái lễ ra mắt. Anh được khám, được X
quang tim phổi, thử máu, thử nước tiểu không mất tiền. Không bệnh truyền nhiễm.
Không viêm gan. Không có vi trùng sốt rét. Lại còn được nghe giảng về huyết học.
Cho đến bây giờ anh mới biết thì ra hồng cầu ba tháng chết một lần, và cũng cứ
ba tháng tuỷ sống lại sản sinh ra một thế hệ hồng cầu mới. Hồng cầu chết nằm
trong lá lách. Ðó là nghĩa địa hồng cầu. Máu thì có bốn nhóm tất cả. A, B, O,
AB. Nhóm máu AB là nhóm máu ích kỷ, rất ít người có nên bệnh viện không mua,
khó bán. Nhưng khi cần người ta đến tận nhà mua và lại bán được đắt. Còn nhóm
máu O được gọi là nhóm máu xã hội chủ nghĩa, tiếp được cho các nhóm máu khác.
Nhóm máu của Lân thuộc nhóm B, chẳng ích kỷ cá nhân chủ nghĩa mà cũng chẳng xã
hội chủ nghĩa. Lấy máu theo trọng lượng cơ thể. Tường chắc mỗi lần bán chỉ được
150 cc. Lấy 200cc có thể do cảm tình gì đó. Lân 60 ki lô mới được lấy 200cc.
Về sau những lần cần tiền Lân đeo thêm chì vào người để đạt
trọng lượng 70 ki lô và bán được 250, 300cc, anh nghĩ chắc Dương Tường cũng giở
trò gian lận này. Lấy xong máu, cầm biên nhận đến tài vụ lĩnh tiền, nhận phiếu
bồi dưỡng. Tiền tính theo xê xê còn tem phiếu thì đồng loạt. Mỗi người được
lĩnh tem 2 cân đường, 4 cân đậu phụ, 2 kí thịt, 2 hộp sữa. Thế là mất đi một ít
máu nhưng túi nằng nặng tiền và tem phiếu. Cho nên những ngày đi bán máu rất
vui. Con người mình bỗng nhiên tăng thêm giá trị trước gia đình và trước bao cặp
mắt của cánh phe vé, bỗng nhiên mình được bao bọc quấn quít giữa những cái nhìn
trìu mến, tình cảm, hò hẹn của đám đàn ông đàn bà chuyên sống bằng buôn bán tem
phiếu lúc nào cũng có mặt ngoài cổng bệnh viện. Ðội ngũ phe vé cũng đông xấp xỉ
đội ngũ những người bán máu. Giá cả dễ thống nhất. Giá làng. Người trao tiền,
người trao phiếu là xong. Ðiều gay go nhất là tiêu chuẩn bồi dưỡng còn được một
bát phở tái bò, nhưng phải xếp hàng ăn ngay tại hành lang bệnh viện. Những lần
đầu đứng ngồi xì xụp bát phở ngoài hành lang ngượng lắm. Cắm mặt mà và, mà xụp
xoạp cho nhanh. Nhưng rồi quen. Nghĩ mình lương thiện. Quá lương thiện. Lương
thiện gấp trăm lần những người khác. Chẳng có gì mà xấu hổ. Thế là dần dần cứ
ăn bình tĩnh nhẩn nha. Chẳng nuốt vội nuốt vàng như trước. Ðể thấy chất bổ ngấm
vào người, vào máu. Ðể thấy mình đang hồi phục. Ðể thấy máu mình lại đang nẩy nở
sinh sôi. Bán máu êm ả là thế mà nhiều lúc vẫn giật mình. Ví như đang ngồi nhìn
cả vào người y tá chờ gọi tên mình thì người ấy bỗng bật ra những cái tên bất
ngờ nhất:
-Chính Yên!
-Phan Kế Bảo!
Hay đang bưng bát phở lên ăn, nghe tiếng gọi giật giọng:
-Phương Nam!
Toàn những người quen. Toàn những trí thức. Ngượng nghịu nhìn
nhau. Rồi cũng quen dần. Lương thiện thì rõ ràng là lương thiện rồi. Nhưng nó tố
cáo bước đường cùng. Người bán máu nuôi con đi học. Người lương hưu ít ỏi không
đủ sống. Quần áo chỉn chu. Tóc chải gọn gàng. Mặt mũi sáng sủa, đi lại rón rén
nhẹ nhàng chỉ trông cũng biết là người có học. Ðấy là một loại. Loại này đông
nhất. Loại thứ hai ít hơn: Những nam nữ thanh niên còn rất trẻ, quần áo bít dít
cười nói trò chuyện ồn ào. Ðó là cánh thanh niên đua đòi ăn chơi tung tẩy rủ
nhau đi bán máu lấy tiền mua nhẫn vàng mua đồng hồ quần bò áo phông. Còn dân
bán máu chuyên nghiệp lại khác. Giống cánh trí thức. ít nói. Có nói cũng rất khẽ.
Khuôn mặt đầy lo lắng ưu tư. Họ có nhiều sổ, bán ở nhiều nơi. Có khi lên cả Sơn
Tây, Thái Nguyên. Về cả Thái Bình. Họ chưa đến hạn được bán. Họ sợ máu họ
loãng. Họ sợ bệnh viện nhận ra sự gian dối của họ. Dân chuyên nghiệp bán máu
xong là đổ xô đi mua viên sắt, uống nước cua sống. Hy vọng như vậy sẽ có đủ huyết
sắc tố cho đợt bán sau. Dân chuyên nghiệp vén ống tay áo lên nhìn biết ngay. Chằng
chịt vết kim. Lân bán máu sau Tường. Nhưng Lân là người theo đuổi cái công việc
này lâu nhất. Khi kẻ viết bài này lang thang từ các miền rừng núi trở về, đã sẵn
có nghề trong tay, Lân đi bán máu đột xuất, chiêu đãi y một bữa bún chả, ăn
trong căn buồng hẹp nhà Lê Bầu phố Phùng Hưng. Một bữa ăn vĩnh viễn nằm trong
trí nhớ.
°
Năm 1971 Mạc Lân xin nghỉ hưu non. Tình thế bắt buộc, mặc dầu
anh không muốn. Thật không ngờ: Nghỉ hưu, anh lại có nhiều việc để làm. Cái
chuyện anh không được viết, hoặc được viết nhưng không được in hay được in
nhưng không được ký tên cũng không được nhận nhuận bút cả bàn dân thiên hạ đều
biết. Và nhiều người tìm đến anh. Ðó là những người đang đi vào con đường viết
lách, những cộng tác viên của một vài tờ báo, những người đang muốn có một cái
truyện ký đầu tiên, hay cũng đã có một hai cái tin đăng báo và giờ đây đang
giao du với những cán bộ biên tập các nhà xuất bản, những người đã có một vài
sáng tác được in và đang muốn được kết nạp vào hội văn nghệ địa phương, kể cả hội
nhà văn, rất cần bản thảo như một chứng chỉ. Hoặc muốn vây vo với một em nào
đó. Ðể chinh phục. Ðể có thể yêu, và không loại trừ cả chuyện hôn nhân. Cũng
nhiều khi đơn giản chỉ là một cách kiếm ăn, phe phẩy, nhận việc, không phải làm
mà vẫn có tiền tiêu, hơn nữa có tiếng tăm. Thời ấy mọi đơn đặt hàng đều là truyện
ký. Một thứ người thực việc thực được văn nghệ hoá, có tả cảnh, tả tình, có đối
thoại, một thứ văn chương tổ đội. Cái khoản ấy Lân rành. Chẳng cứ Lân rành. Bầu
cũng rành.(Và cả tôi nữa. Cũng rành.) Bầu và Lân làm thành một tổ viết văn
chui. Nghĩa là viết văn không cho người khác biết, trừ người đặt hàng mình. Việc
nhiều khi không có. Nhưng cũng có lúc làm không hết. Do người ta tự tìm đến. Mà
cũng do bè bạn khơi nguồn, tìm việc mang đến cho anh, anh chỉ việc viết mà
không biết người sẽ đứng tên sách anh viết, người sẽ phải trả tiền cho anh là
ai. Ðủ các đề tài. Chuyện chiến đấu trong Nam. Chuyện nhà máy, cải tiến kỹ thuật,
mỗi người làm việc bằng hai, chuyện chăn nuôi trong hợp tác xã nông nghiệp.
Chuyện phong trào hai tốt (dạy tốt, học tốt) ở các trường học. Ðề tài gì cũng
được. Nhưng các ông phải cung cấp tài liệu. Bọn này chỉ biết có viết thôi. Ðảm
bảo đúng thời hạn, đúng số trang số chữ, đảm bảo chất lượng. Hợp đồng chỉ thảo
miệng như vậy. Còn nữa. Nhuận bút chia đôi. Cũng là thống nhất miệng. Nhiều khi
gặp khách hàng rắn quá, Lân nhận theo tỷ lệ bốn mươi, sáu mươi. Người đứng tên
sách ăn sáu, còn Lân ăn bốn. Chung quanh cái việc viết văn chui của Lân thật
nhiều chuyện li kì. Có những người nhận nhuận bút rồi nhưng định quịt, không
thanh toán tiền cho kẻ viết. Ði lại nhiều lần. Ngọt nhạt. Mềm mỏng. Căng thẳng.
Người ta cũng không định quịt của mình. Chẳng qua là vì quá bốc với tác phẩm đầu
tay, lỡ liên hoan hết cả tiền nhuận bút. Cuối cùng đành phải tháo đồng hồ
Pôn-giốt đưa Lân. Làm ăn phải giữ cái mối chứ nhiều lúc nhục lắm ông ơi. Anh chồng
bảo cô vợ thế này: Anh Lân anh ấy túng quá, anh thuê anh ấy chép bản thảo, tạo
điều kiện cho anh ấy thêm tý thu nhập, em đến xem anh ấy chép xong chưa cầm về
cho anh, nhà xuất bản họ giục. Tiền nong cứ kệ anh. Anh sẽ thanh toán với anh ấy
sau. Chị vợ phục tấm lòng ăn ở của chồng sát đất. Chồng mình quan tâm đến bạn
như thế chứ còn gì nữa. Một tấm lòng vàng! Thật may cho cái số của mình... Chị
vợ đến gặp mình nói lại ý kiến của chồng. Mình khất. Nói rằng mấy hôm nay tôi bận
quá chưa chép được. Chị về nói lại với anh hộ. Chị vợ lại hỏi: Chữ anh ấy nhà
tôi khó xem lắm đấy. Tôi đọc còn khó, anh có đọc được không. Mình vội bảo: Tôi
đã công tác ở toà soạn chị ạ, chữ viết kiểu gì tôi cũng đọc được. Lần đầu tiên
vui vẻ. Lần thứ hai bà vợ đến mình vẫn chưa chép được, bà ta đã có vẻ bực nhưng
cố nén. Và lần thứ ba cũng vẫn bận quá chưa chép được cho anh thì bà vợ không
chịu được nữa. Dắt xe ra cửa còn nói đổng: "Ðã đói còn lười. Người ta
thông cảm giao việc cho làm mà không chịu làm." Lân cười. Kể đến đây Lân
cười. Rồi anh nghiêm mặt quát lên với tôi: "Những công việc ấy làm sao viết
trước, viết sẵn được. Ông cũng viết văn ông còn lạ gì. Cứ là phải nước đến đít
rồi mới nhẩy!" Và nhắc lại châm ngôn anh đã nói cùng tôi: "Làm ăn phải
giữ lấy cái mối. Ðành chịu. Họ muốn nói thế nào tuỳ họ." Bỗng cười phá
lên: "Nhưng anh chồng là người tuyệt vời. Cuối cùng thì bản thảo cũng xong.
Sách in trước Tết. Nhuận bút có trước Tết. Ông cũng biết Tết mà có nhuận bút
thì tuyệt như thế nào. Mình đến nhà anh ta. Hí hửng sẽ mang được tiền về cho vợ.
Nhưng chị vợ anh ta cũng có nhà. Hai thằng chỉ nhìn nhau mà không nói. Không có
cách nào đưa tiền được. Truyện trò giữa hai thằng tri kỉ gượng đến chín giờ tối
thì mình rút. Nhưng thật không ngờ. Mười giờ bà vợ đạp xe tới nhà mình:
-Anh Lân có mất cái gì không?
Mình ngơ ngác:
-Không. Không mất gì cả chị ạ.
Chị vợ rút ra một xếp tiền đưa cho mình:
-Anh đánh rơi tiền ở nhà tôi đây này. Khi anh về, nhà tôi thấy
ở gầm ghế anh ngồi chỗ tiền này, hỏi tôi tiền nào đây. Chồng không mất, vợ
không mất. Anh ấy bảo thế thì chỉ có tiền anh Lân đánh rơi thôi.
Mình hiểu ngay tất cả. Sáng kiến ứng xử thông minh của ông chồng,
sự thông cảm của ông ta đối với thói cần tiền của mình trong những ngày giáp Tết.
Mình giả vờ lục túi quần và reo lên: "Chết rồi. Ðúng rồi. Tiền vợ tôi nó vừa
lĩnh họ đưa cho tôi lúc chiều. May quá. Cám ơn anh chị."
-Nhưng sao toàn thấy bà vợ đến nhà ông mà ông chồng không đến?
-Ông ấy bị đau chân. Ði làm sao được.
Như mọi thứ hợp đồng khác, hợp đồng viết thuê của Lân có nhiều
chuyện phát sinh. Chẳng hạn chuyện Lân viết (ký tên người khác) bỗng dưng lại
ăn một cái giải thưởng nào đó. Như có một năm ba truyện ngắn Lân viết cho ba
người được giải thưởng (của Hà Nội và của Tổng công đoàn). Người ta có thể quên
hẳn Lân. Nhưng những người trúng giải thường là những người rộng rãi biết điều.
Lộc bất khả hưởng tận. Ba cái giải thưởng ấy Lân đều được chia 50 phần trăm. Trần
Dần, Phùng Quán đem tiền đến cho Lân. Hai người này nhận việc cho Lân. Người nhận
giải chẳng biết Lân là ai. Họ chỉ biết có ông Dần, ông Quán.
Có một điều Lân lấy làm lạ là cái người chỉ đứng tên cho văn
bản mà không hề viết lấy một dòng khi sách đã được in, gặp Lân là người đã viết
ra nó lại cứ trò chuyện với Lân theo cái kiểu như chính anh ta là người đã sáng
tác ra nó, chính anh ta là tác giả. Hoặc nói một cách rất bề trên: "Ðoạn ấy
viết được. Mình đi đến đâu người ta cũng khen. Dư luận tốt lắm." Anh lắc đầu:
Cũng nhiều lúc muốn tống một quả đấm vào mặt họ nhưng lại cố nén. Rồi cười: Làm
ăn phải giữ lấy cái mối.
Nghề viết thuê có nhiều lúc nhục nhưng cũng có lúc vinh. Ấy
là cái lần Lân đi viết lịch sử đảng bộ Thuận Hải, tên gọi chung cho hai tỉnh
Ninh Thuận, Bình Thuận thời còn đang sáp nhập làm một. Chưa bao giờ anh có một
công việc quy mô như vậy. Nó hứa hẹn với anh nhiều tháng có công ăn việc làm và
do đó thu nhập cũng khá hơn. Người dắt mối cho anh là Tạ Văn Bảo, trưởng ban
công nghiệp báo Tiền Phong vào cái hồi anh làm trưởng ban văn nghệ. Tạ Văn Bảo
đã vào biên uỷ báo rồi chuyển sang làm giám đốc nhà xuất bản Thanh Niên. Khi đó
nhà xuất bản Thanh Niên đang có một chương trình liên kết kinh tế gì đó với tỉnh
uỷ Thuận Hải. Biết tỉnh uỷ Thuận Hải muốn có một bộ lịch sử tỉnh đảng bộ, Bảo
đã đưa từ Hà Nội vào một cây bút có tín nhiệm để viết. Nhưng bản thảo đổ. Không
đạt. Mà không thể không có bản thảo, không thể không xuất bản tập lịch sử Ðảng
bộ. Bảo nghĩ đến Lân, một người chắc chắn sẽ có bản thảo, hơn thế, một bản thảo
tốt. Lân nói với Tạ Văn Bảo:
-Nhưng ông cũng biết rồi đấy. Tôi không phải đảng viên, viết
lịch sử Ðảng có được không? Với lại tôi chỉ viết giai đoạn từ khi thành lập Ðảng
tới Tổng khởi nghĩa thôi đấy.
Bảo nói không có vấn đề gì, thu xếp vào trong ấy càng sớm
càng tốt. Vợ chồng Lân vay giật được 200 đồng. Hằng, vợ Lân khâu vào mỗi cái quần
lót của Lân một cái túi con, để cho tiền vào đó, miệng túi cài ghim băng cẩn thận.
Mùa hè năm 1982 Lân vào Phan Thiết với 200 đồng, 200 điếu thuốc lá cuốn, một
quyển sổ tay, vài cái bút bi, anh gặp các đồng chí trong tỉnh uỷ. Lân thấy cần
trực tiếp nói rõ nhân thân của mình với tỉnh uỷ:
- Trước đây tôi là đảng viên, nhưng từ lâu tôi không sinh hoạt
Ðảng nữa. Các anh xem tôi có đủ tiêu chuẩn làm việc không. Và tôi cũng báo cáo
với các anh là tôi chỉ viết lịch sử Ðảng bộ từ năm 45 trở về trước thôi. Nói rõ
như vậy để các anh quyết định...
Ðồng chí đại diện tỉnh uỷ nói với Lân:
- Việc đó là của chúng tôi. Không phải việc của anh. Việc của
anh là viết. Còn lại là việc của tỉnh uỷ.
Chỉ đến khi công việc chắc chắn rồi Lân mới dám mở ghim băng
lấy tiền khâu trong quần lót ra tiêu.
Hẳn là bản thảo tốt nên khi hoàn thành, tỉnh uỷ hỏi Lân về
giá cả, Lân rụt rè nói con số mười lăm nghìn đồng, một con số mà chính anh cũng
hoảng lên nhưng anh còn nhận được số tiền cao hơn thế: hai mươi nghìn đồng! Tỉnh
uỷ còn nói sẽ có một tặng phẩm cho Lân. Lân nghĩ ngay đến vợ. Anh mạnh dạn đề
nghị cái tặng phẩm mà tỉnh uỷ ưu ái dành cho anh sẽ là một suất tầu khứ hồi Nam
Bắc để vợ anh có thể vào Sài gòn, tới Phan Thiết cùng với anh. Vấn đề quá đơn
giản. Ðề nghị của anh được chấp nhận ngay. Ít ngày sau Hằng vào Sài gòn, ra
Phan Thiết. Hai vợ chồng sống như những cặp vợ chồng nhàn cư đi du lịch. Ðó là
anh trả cái ơn, cái nghĩa đối với vợ mà nếu không có chuyến đi viết này anh sao
làm được.
Ôi! Một khi cái vận nó đã đến thì như vậy đấy. Cứ tự nó đến
thôi. Khi nó không đến thì muốn cũng chẳng được. Vừa hoàn công việc với tỉnh uỷ
đã lại có công việc mới: Ký hợp đồng viết lịch sử tỉnh đoàn. Chưa xong lịch sử
tỉnh đoàn đã ngấp nghé lịch sử huyện đoàn. Cứ như vậy mà thừa thắng xông lên.
Nhưng cuộc đời luôn dành cho anh nhiều vố. Khi anh đã hút hết
200 điếu thuốc lá cuộn, khi Hằng đã trở ra Hà Nội, khi anh đang ngồi viết lịch
sử tỉnh đoàn, anh bỗng thấy như có ai đánh rất mạnh vào ngực. Mặt mũi sây sẩm.
Choáng váng như muốn ngất. Ngực thắt lại, đau nhói. Nghẹt thở. Có một cái gì cứ
cắn trong lồng ngực... Cơn nhồi máu cơ tim đầu tiên của anh mà anh không biết.
Từ Phan Thiết, anh trở vào thành phố Hồ Chí Minh khám bệnh ở bệnh viện Gia Ðịnh.
Huyết áp 170 trên 100. Bác sĩ bảo đối với người già, huyết áp như vậy bình thường.
May sao anh gặp Vấn, một bác sĩ bạn anh từ hồi còn ở Hà Nội. Vấn khám, kết luận
anh nhồi máu cơ tim và đưa đến bệnh viện Ðiện Biên Phủ (Saint Paul cũ). Thở
ô-xi. Truyền máu. Tiếp nước. Các bà xơ rất tận tình phục vụ nâng giấc đêm hôm.
Quý ngài xa gia đình, mắc bệnh hiểm nghèo, chúng tôi xin được chăm sóc. Bẩy
ngày sau Hằng mới có mặt tại bệnh viện. Hai vợ chồng bay ra Hà Nội bằng chuyên
cơ của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt. Cũng là trúng số hên. Lân nằm bệnh viện với giấy
giới thiệu của tỉnh uỷ Thuận Hải gửi tới T78, nghĩa là Văn phòng Trung Ương Ðảng
phía Nam. Chuyên cơ của Thủ Tướng còn thừa hai chỗ. Hai chỗ ấy được dành cho vợ
chồng một người bệnh nặng thuộc T78!
°
Ðầu năm 2002 tôi gọi điện cho Lân. Chúng tôi duy trì cách
liên lạc này để vẫn biết tin về nhau, được nghe giọng nói của nhau, dù nó hơi
đau hào, bởi vì có bao giờ nhấc máy mà chúng tôi nói với nhau dưới năm phút
đâu. Mà lương hưu của hai đứa chúng tôi sau bao kỳ tăng -mỗi kỳ 25 phần trăm- đều
không quá 250 nghìn, nghĩa là vừa đủ cho hai cái đám cưới và một cái đám ma. Mà
ở tuổi chúng tôi, con bạn lấy vợ lấy chồng nhiều, còn bạn thì cũng đã có hiện
tượng lần lượt nằm xuống.
Tiếng của Lân qua ống nghe áp vào tai tôi đã khác trước nhiều.
Giọng nói của anh qua mỗi lần điện thoại một khác. Thều thào, mệt mỏi. Lần này
lại càng mệt mỏi. Ðứt quãng, nghe cả tiếng thở dốc. Nghe mà lo mà thương cho
anh. Vụ rét cuối năm Tân Tỵ đầu năm Nhâm Ngọ này khủng khiếp quá. Tám đến mười
lăm độ kéo dài cả tháng.
-Tôi lại mới bị viêm thực quản, viêm môn vị. Phiền quá. Bệnh
này khiến mình cứ phải ở nhà không đi đâu được. Chứ không thì cũng cố bỏ ra mười
nghìn đi xe ôm đến ông Bầu, đến chỗ ông Tường chơi.
Lại thêm bệnh mới. Nghe tiếng anh tôi lo. Anh mệt mỏi lắm rồi.
Anh là người kiên cường chiến đấu với tật bệnh. Năm 1982, lần đầu tiên bị nhồi
máu cơ tim, bác sĩ đã nói riêng với chúng tôi có cầm cự giỏi lắm cũng chỉ được
từ năm năm đến bẩy năm, mà anh đã chiến đấu với nó, đã cầm cự hai mươi mốt năm
rồi. Ðâu có phải chỉ nhồi máu cơ tim. Còn bao bệnh khác, bệnh nào cũng là trọng
bệnh.
-Tôi định vào bệnh viện nhưng bệnh viện hết giường rồi. Với lại
cũng không có người trông nom. Bà Hằng nhà tôi còn phải đi làm. Không đi lấy gì
mà sống.
Tôi lên Hà Nội thăm Lân. Qua nút cổ chai Cầu Giấy đang được
giải toả, nơi trước đây Lân bị tông xe và bị gẫy chân lần thứ hai. Rẽ vào nhà
Lân. Anh đang nằm trên chiếc giường một, chăn đệm đầy người. Một cháu gái xinh
xẻo tóc xoã đang ngồi trước bàn với những trang giấy để mở. Tôi biết cháu. Ðó
là một sinh viên khoa báo chí trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Cháu ở
gần nhà anh. Những lúc rỗi rãi cháu sang cơm nước, phục vụ anh và anh đọc cho
cháu chép tập sách anh đang viết, tập sách của đời anh. Thấy tôi cả hai bác
cháu reo lên. Cháu gái xếp bản thảo vào trong một cái cặp, đi pha nước. Lân hất
chăn đệm ra, ngồi dậy bảo cháu:
-Hôm nay có bác Tấn, chúng ta nghỉ làm việc. Cháu ra ngoài
kia mua cho hai bác thứ gì ăn trưa. Hai ổ bánh mì này, mấy quả táo này. Ông uống
gì nhỉ. Bia à. Còn tôi nước ngọt.
Cháu cầm tiền ra đi và một lát sau đã quay lại với những thứ
đó trong túi ni-lông. Cháu lấy cốc lấy đĩa bầy các thứ ra bàn nước và lễ phép
chào chúng tôi, ra về. Chỉ còn hai chúng tôi. Vừa ăn vừa nhìn nhau. Lần nào lên
Hà Nội gặp Lân tôi cũng cứ sờ sợ rằng đây là lần cuối cùng tôi nhìn thấy anh dù
tôi biết bệnh tật có xúm nhau lại vật được anh cũng còn lâu. Tôi bỗng nhớ đến một
câu của Pau-tốp-xki mà tôi đã đọc khi còn đang tuổi hai mươi: "Tôi viết
cho bạn bè tôi và vào tuổi này họ đang ít đần đi." Ðến bây giờ tôi mới ngấm
câu nói ấy. Lân xếp xếp chồng bản thảo đã được làm vi tính, cất vào hộc tủ:
-Cũng được một nửa rồi ông ạ. Mình định viết bốn cái truyện vừa
độc lập. Nhưng khi ghép lại với nhau nó thành một quyển tiểu thuyết...
Mắt anh ánh lên một nỗi khát khao. Giọng anh lại vang vọng sắc
thái ngày nào. Tôi cầu mong anh hoàn thành dự định. Nhưng phải gấp lên Lân ơi.
Mà không chỉ Lân. Cả mình, cả Bầu, cả Tường, cả Bão... Tất cả anh em mình. Thời
gian gấp lắm rồi.
Ngã Sáu
29- 1- 2002
Mùa rét năm Tân Tỵ
Phần IV
Lê Bầu-Người hiểu giá trị của thời gian
Càng già càng ngại đi xa. Lên Hà Nội thôi cũng ngại. Vì bè bạn
ở Hà Nội toàn nghèo. Nhà cửa chật chội. Rất ít tiện nghi. Tuổi già lại sinh lắm
thói quen xấu. Như cái gối không đúng độ cao quen thuộc là khó ngủ rồi. Như hay
dậy sớm. Như hay tiểu đêm. (Nói bóng bẩy theo kiểu Nguyễn Tuân là yếu cái chân
thận.) Như hơi bị lạnh là hắt hơi. Dù không gây nguy hiểm như cái hắt hơi
trong Cái chết của viên công chức của Tsê-khôp nhưng cũng là phiền.
Còn vợ bạn. Con bạn... Cho nên có việc lên Hà Nội tôi hay ở nhà Lê Bầu. Anh sống
độc thân. Lại trung tâm thành phố: Số 105 Phùng Hưng. Ðó là một di tích lịch sử
đã được xếp hạng. Ở mảng tường sát cửa ra vào có gắn một tấm biển đá khắc chữ
vàng: Nơi đây là trụ sở Báo Tin Tức cơ quan của Ðảng trong thời kỳ mặt trận
Bình Dân năm 1936-1939. Một căn nhà hai tầng mặt tiền, mỗi tầng chỉ có một
buồng, do Sở Văn hoá Hà nội quản lý. Buồng tầng trệt ngăn đôi. Buồng trên gác
không ngăn. Bên trên bốn cán bộ ở. Bốn chiếc giường cá nhân đặt bốn góc theo kiểu
nhà tập thể. Cả bốn người đã hưu, đã về quê, khoá cửa để đấy, mỗi tháng chỉ ra
một lần họp chi bộ và giải quyết gạo dầu thịt mắm theo cách nói của
Lê Bầu, nghĩa là mua các thứ định lượng trong phiếu theo giá cung cấp. (Từ khi
xoá bỏ tem phiếu, bốn ông không ra Thủ đô nữa, căn buồng ấy các ông cho thuê lại.)
Buồng trệt chỉ có hai người ở trong hai nửa đã ngăn đôi, tiêu chuẩn dành cho những
người sáng tác. Một là Lê Bầu. Một là ông Lúa tháng năm kén tằm vàng
óng Huyền Tâm. Lớp cót ngăn ngày càng cũ, càng xộc xệch, bên này thở mạnh
bên kia cũng nghe thấy. Căn buồng vốn hẹp ngăn ra lại quá hẹp. Nó như một cái ống,
mỗi bên chỉ có một cửa sổ và một nửa cửa ra vào. Ðể có thể đi lọt nửa cái cửa
ra vào ấy, người ta đã phải chữa lại, làm lại cái sống giữa hai cánh cửa cho nó
hơi thụt vào bên trong. Làm như vậy khi hai cánh cửa hai buồng (thực ra là hai
nửa buồng) cùng đóng thì tạo ra một góc tù chứ không thành một mặt phẳng. Mỗi
cánh cửa của một hộ độc thân nhờ đó rộng ra được một ít xăng ti
mét tính theo hệ đo lường Pháp hay mấy inh sơ tính theo hệ đo lường
Ăng lê.
Buồng hẹp như vậy nên khi còn đi làm (Lê Bầu là biên tập viên
nhà xuất bản Hà Nội), được cơ quan thưởng một cái quạt cần Trung Quốc, anh
không có cách nào sử dụng được nó. Quạt cao, cánh rộng, để trong nhà thì nó quạt
gió ra vỉa hè, chỉ những người đi trên vỉa hè qua cửa nhà anh mới mát, nên anh
làm ngược lại: Ðem nó ra vỉa hè, đặt nó ở chỗ bậc lên xuống giữa nhà ông Huyền
Tâm với nhà anh. Nó cứ đứng ở vỉa hè, lênh khênh, ngạo nghễ như của một gia
đình thừa mứa của cải mà quạt, mà lùa gió qua cái cánh cửa van vát chênh chếch
đã được cải tiến vào nhà. Nhà Lê Bầu chỉ có thể tiếp được một người khách là đã
hơi chần chật. Thế nhưng khách đến nhà anh đâu chỉ một người. Khi một, khi hai,
khi ba, khi bốn. Những bậc lão thành như Ngọc Giao, Thanh Châu, những lớp cùng
tuổi như Mạc Lân, Hứa Văn Ðịnh, như tôi. Lại những thế hệ sau như Hoà Vang hay
như những ai mà tôi không biết. Tôi nhớ một tối đi cùng Bùi Viên, đạo diễn truyền
hình đến nhà anh thì đã thấy nhạc sĩ Nguyễn Ðình Phúc ngồi đấy. Hai người ngồi
bàn về nhạc cho phim Số Ðỏ mà Hứa Văn Ðịnh sắp chuyển thể lên màn ảnh
nhỏ. Nguyễn Ðình Phúc nói phải đưa những nét nhạc gợi một thời như Trong
com lê thì đặc ông Hoàng. Mó đến túi thì túi không xu. Tôi lễ phép chào nhạc
sĩ bằng thầy. Nguyễn Ðình Phúc trố mắt không hiểu. Lê Bầu bảo:
-Nó cũng học Hàn Thuyên đấy.
Tôi nói rõ hơn:
-Thầy có về trường Hàn Thuyên kéo vi-ô-lông cho chúng em nghe
bài Phiên chợ Ba Tư. Và thầy dạy chúng em làm nhạc không son-phe. Thầy có
hát cho chúng em nghe một bài hát của một anh bộ đội sáng tác vo, không son-phe
mà thầy bảo là rất hay. Thầy còn nhớ không?
Thầy Phúc không nhớ. Dù thầy bảo là rất hay nhưng thầy không
nhớ. Tôi hát. Hát một mình. Ðược vài câu Lê Bầu đã nhớ ra, hát theo.
Trên cao một ánh nắng vàng soi xuống
Dưới một đoàn lính xiết tay bóp cò
Ðến cuối bài thì chính thầy Nguyễn Ðình Phúc bật lên hát theo
thành một tam ca:
Ngắm điểm đen chụm ba viên một
Anh bóp cò nín thở đồng chinh không rơi
Hoan hô! Hoan hô!
Anh hùng xạ kích nêu gương
Nay mai ra chốn chiến trường
Ðạn anh tìm tới quân thù
Quân thù tung xác lên...
Bị lây cái kích thích của hồi ức về một thời đã qua gian khổ
nhưng tràn ngập niềm vui, Bùi Viên yêu cầu rượu. Rượu thì lúc nào Lê Bầu cũng
có. Rượu quê. Anh không biết uống nhưng (hay chính vì vậy) trong nhà lúc nào
cũng có rượu. Dành cho những giờ phút thăng hoa như thế này. Chúng tôi uống và
đồng ca tiếp bài hát Nguyễn Ðình Phúc tiến cử làm nhạc nền cho phim Số Ðỏ:
Ði đăng xinh thì đi che tàn
Ði xuống xóm thì xách va li...
Bỗng một vị khách nữa ghé vào. Trời! Tôi vốn có một thói xấu
là giữa lúc mình đang vui với những người mình hiểu mình quen mà lại có một thành
phần lạ nào xuất hiện thì rất chi là ngán ngẩm. Nhưng Bầu reo:
-A! Vào đây! Vào đây!
Tôi đã quên tên người khách mới đến này. Chỉ nhớ anh ta ở mãi
đâu khu Cao Xà Lá, mới đi Hoà Bình về. Anh kể biết bao nhiêu chuyện về nông trường
chè trên ấy, về cái sự khoán, về nhiều chị em công nhân nông trường nay là chủ
vài đồi chè khoán, nhỡ thì quá lứa cứ muốn giữ anh lại trong vương quốc của họ
để biến anh thành ông hoàng vương quốc. Ông hoàng ấy suốt ngày cơm rượu và chỉ
có mỗi nhiệm vụ giúp họ sản xuất ra một đàn con. Nhưng anh không dám ở lại. Anh
sợ vợ. Với lại anh cũng không có lực. Bởi vì nếu ở lại thì không thể chỉ là ông
hoàng của một vương quốc. Còn nhiều vương quốc lắm. Câu chuyện bắt đầu chan
hoà, lại một ông khách nữa đến. Cảnh khách như thế này không phải hiếm nên nhiều
lúc tôi tự hỏi không biết Bầu viết vào lúc nào?
Bầu có một sức khoẻ phi thường để ngồi tiếp khách. Người ta đến
Bầu vì lòng quý mến, vì đấy là nơi có thể thổ lộ những ý nghĩ nghiêm túc nhất về
thời cuộc, về nghề nghiệp, hay ngược lại là một chỗ tạt vào uống chén trà, nghỉ
ngơi tí chút rồi lại lang thang đường phố Hà Nội. Có thể nhiều người đến Lê Bầu
vì đang nhức đầu nhức óc do một chuyện gì đấy, và cũng như tôi, coi Lê Bầu là một
thứ at-pi-rin, pa-ra-xê-ta-mon hay một loại thuốc gì tương tự. Quả thật,
nghe chuyện Bầu kể, nghe tiếng Bầu cười, tự nhiên những mỏi mệt phiền muộn, thậm
chí cả bực bội nữa cũng biến đi đâu hết, ít ra điều đó là có thật với tôi.
Chuyện Bầu kể phần lớn là chuyện vui, chuyện cười. Có những
thông tin làm ta bực mình, những thông tin đáng buồn nào đó thì ngay sau những
thông tin mà anh đang lấy hết vẻ nghiêm trọng ra mà nói, ta vẫn thấy như có nụ
cười đang ẩn đằng sau làn da căng thẳng, đôi môi đang mím, cặp mắt đang nhíu lại
kia. Bởi vì những điều gay go nhất đã đến với anh từ những năm nào kia rồi. Hay
chí ít anh cũng đã quen với những loại chuyện ấy rồi. Anh không còn ngạc nhiên
với bất cứ điều gì và cái chuyện anh đang kể ra đây chẳng có gì là lạ. Cuộc đời
tất yếu nó như vậy. Ví như anh kể về nhà thơ T.H., một nhà thơ cũng được nhiều
người biết đến:
-Ðể tôi kể cho ông nghe. Ông xem có thằng nào như thằng T.H.
không. Ðầu năm 1968 thời gian ông đang rất gay go, còn tôi ở Hội Văn nghệ Hà Nội
cũng đang điêu đứng vì bị nghi vấn có dính líu đến một vụ gián điệp, bị gọi hỏi
nhiều lần, không được viết, không được in. Chỉ làm thủ quỹ, hàng tuần xách bị
đi căng-tin mua bánh kẹo cho anh em. Trong cơ quan có hai ông nằm điều dưỡng ở
Quảng Bá là ông T.H. và ông Huỳnh Tâm. Ông Huỳnh Tâm là tổ trưởng sáng tác bị
dãn phế quản, không bao giờ ra khỏi cổng trạm điều dưỡng vì quá lo cho sức khoẻ.
Thế mà hôm ấy dù mắc thêm bệnh viêm kết mạc, đau mắt nặng vẫn lù lù từ Quảng Bá
về đền Ngọc Sơn, nói với tôi: "Bố cậu T.H. bị ô-tô kẹp chết ở Hải Phòng.
Ông là thủ quỹ. Ngày mai mang tiền thay mặt anh em xuống viếng." Sau đó
chánh văn phòng Hội Văn nghệ cũng chính thức giao nhiệm vụ cho tôi về Hải
Phòng. (Nhân vật này đã đưa một bài thơ của tôi sang công an, tôi sẽ nói với
ông sau.) Cơ quan từ chính quyền tới Ðảng, công đoàn đều rỗi việc. T.H. lại là
người rất gần có thể nói là xoắn xuýt với lãnh đạo. Thế mà không ai đi. Lại cử
tôi. Tôi hiểu ngay. Ðiệu hổ li sơn đây. Người ta cần tôi đi. Ðể khám
buồng tôi ở. Làm gì có chuyện bố thằng T.H. chết. Nếu chết thật thì đã chẳng đến
lượt tôi đi viếng. Sáu giờ chiều thằng T.H. lại dẫn xác đến đền Ngọc Sơn. Nó bảo
nó đến ngủ với tôi để sáng mai cùng đi một thể. Chà chà! Không cho mình xoay xở
cái gì mặc dù chẳng có gì cần đối phó xoay xở. Sáng hôm sau chúng tôi lên tầu về
Hải Phòng. Rồi đi bộ về nhà thằng T.H. Ðến cửa nhà nó thấy bố nó đang ngồi tiện
gỗ ở sân. Tôi bảo nó: "Bố mày không chết đâu T.H. ạ. Thôi tao đi
đây." Mặt nó tái đi. Ông đừng nghĩ nó tái mặt vì bố nó vẫn sống, nó ngượng
với mình. Không đâu. Nó tái mặt vì mình về Hà Nội ngay trong khi chưa khám xong
nhà mình thì thành ra nó chưa hoàn thành nhiệm vụ. Mình bảo: "Bình tĩnh.
Mai tao mới về Hà Nội. Tao còn ở chơi Hải Phòng đã. Cứ yên tâm." Thế rồi
tôi đến nhà ông.
Anh cười dòn tan. Cuộc gặp gỡ với Lê Bầu đầu năm 1968 ấy tôi
không nhớ được. Chỉ biết rằng đó là thời gian thật gay go của chúng tôi. Tôi
cũng không được làm báo nữa. Mà là cán bộ cải tiến quản lý hợp tác xã. Một bước
đi cũng bị theo dõi. Nghỉ ở nhà tôi một ngày đêm, sáng hôm sau Bầu về Hà Nội.
Bước vào căn buồng của anh trong đền Ngọc Sơn, Bầu biết ngay là nó đã bị khám.
-Ông biết không. Khi thằng T.H. chưa đến ngủ, tôi đã kịp đóng
một cái đinh nhỏ một phân ở bên trên bậu cửa phía trên cửa ra vào, treo một cái
rá vào đấy. Cái rá hơi chờm xuống một cánh cửa. Trên cái đinh ấy tôi đóng một
cái đinh năm phân to. Khi tôi về nhà thấy cái rá không treo ở chiếc đinh nhỏ nữa
mà treo ở cái đinh năm phân. Nghĩa là đã có người đẩy cửa vào nhà, làm rơi cái
rá và lại treo lên. Vì cái đinh nhỏ rất khó nhìn thấy nên ai chả treo cái rá
lên cái đinh to phía trên.
Anh cười, rất khoái về chi tiết có vẻ Sê-lốc Hôm ấy. Và anh
đã cao tay hơn người khác.
-Còn cái này nữa. Tất cả sách mình xếp đều quay gáy vào
trong. Vì gáy sách toàn dán hồ, sợ dán cắn. Với lại sợ mất cắp. Thế mà khi từ
nhà ông về, các gáy sách đều quay ra ngoài! Thì ai xếp sách lên giá mà chả quay
gáy ra ngoài!
Anh lại cười dòn tan. Và nhẩy sang một chuyện khác cũng mệt mỏi
không kém, nhưng vẫn cứ là với một giọng rất vui:
-Về sau mình không được làm thủ quỹ nữa mà được giao nhiệm vụ
đi Chèm sưu tầm văn học dân gian. Hàng ngày đi đi về về hai mươi ki-lô-mét. Thực
chất là một sự đầy ải. Nhưng ngày nào cũng đạp xe hai mươi ki-lô-mét, mình khoẻ
ra. Sức khoẻ mình bây giờ tốt có lẽ cũng một phần là nhờ những ngày tập luyện ấy.
Ngày nào cũng đi qua cầu Thăng Long đang xây dựng, mình mới xin cơ quan cái giấy
giới thiệu để tham quan công trường. Xin rồi, được rồi, đút túi, định sáng hôm
sau đi. Nhưng ngay buổi chiều hôm ấy cơ quan cho người đến thu giấy lại. Mình
nhờ ông cán bộ thu giấy nói với cơ quan là sáng mai và cả chiều mai mình sẽ lên
công trường cầu Thăng Long. Mình sẽ báo cáo thu hoạch với cơ quan sau. Sáng hôm
sau tôi đến công trường gặp Giáp cận. Ông có nhớ Giáp cận không nhỉ. Nó học lớp
tôi và làm trưởng phòng lao động tiền lương công ty cầu. Nó đưa đi. Buổi chiều
thì cán bộ phiên dịch Thanh Vân cùng học lớp phiên dịch với tôi đưa đi. Tham
quan xong mình cũng đến cơ quan báo cáo thu hoạch như đã hứa.
Lại cười. Sảng khoái cười. Cười cho cái sự mình cứ nhơn nhơn
ra mà sống, nhơn nhơn ra mà yêu mà ghét, mà xót xa, nhơn nhơn ra mà làm việc.
Ngay chuyện cái tên của anh thôi. Dạo ấy anh đã ký Lê Bầu trên các báo, kể cả
cái tin mấy chục dòng trên báo Nhân Dân viết về gương cứu nạn sập hầm máy bay Mỹ.
Nhưng bài của anh in trên những ấn phẩm của nhà xuất bản Hà Nội, nghĩa là ngay
cơ quan anh, cái tên Lê Bầu bao giờ cũng bị giám đốc xoá đi, và viết
vào đó một cái bút danh khác của anh, bút danh anh dùng trong thời gian khó
khăn nhất: Phan Hà. Giai đoạn thay tên đổi họ đã qua rồi.
Sao vẫn...? Anh nghĩ vậy và hỏi thẳng giám đốc. Giám đốc đầy thân ái và thông cảm:
"Bọn mình có muốn làm thế này làm gì đâu. Ðây là chỉ thị của Thành uỷ."
Anh im lặng. Và hỏi phó giám đốc vào một lúc khác. Vốn thẳng thắn hồn nhiên,
phó giám đốc bảo: "Làm chó gì có chuyện ấy." Bầu bảo phó giám đốc:
"Anh cho phép tôi đưa chuyện này ra cơ quan có được không? Anh cũng biết rằng
đây là chuyện rất hệ trọng đối với tôi. Nhưng nếu anh thấy không nên đưa thì
tôi sẵn sàng thôi, không có ý kiến gì." Vẫn hồn nhiên thẳng thắn như bản
chất của mình, ông phó giám đốc trả lời: "Ðưa thì đưa. Sợ chó gì."
-Thế là họp cơ quan tôi trình bầy lại sự việc và nói:
"Như vậy trong hai ông giám đốc và phó giám đốc cơ quan ta có một thằng
nói dối. Hớ. Hớ hớ.
Lại tiếng cười của Lê Bầu. Tiếng cười sảng khoái ngay khi
đang vận hạn. Càng sảng khoái khi vận hạn nguy hiểm đã qua.
°
Trong một lần đi dạo trên đường phố Hà Nội, Vũ Bão nói với
tôi về Lê Bầu:
-Khốn nạn. Ðã rách. Ðã phải vào ban chấm thi để kiếm cơm. Cuộc
thi đã phát động. Các nơi gửi truyện về. Ban giám khảo đã đọc, đã chấm xong. Chọn
được giải rồi. Nhưng kế hoạch xin tài trợ bị vỡ, không đạt như dự kiến ban đầu.
Tiền thưởng rút xuống một nửa. Tiền bồi dưỡng ban sơ khảo, ban chung khảo có
nguy cơ không có. Mình bảo: Ban giám khảo ai không có cũng được. Chứ đừng để Lê
Bầu không có. Cái đầu máy hơi nước này cổ lỗ từ hồi đầu thế kỷ nhưng phải kéo
11 toa. Không có cho nó là gay lắm.
Những trường hợp như Vũ Bão nói không phải là cá biệt. Tiền
thù lao thường xuyên bị đe doạ. Có. Nhưng ít. Và muộn. Cuộc thi truyện ngắn của
báo Người Hà Nội (mà Bão Vũ được giải nhất với truyện Trầu têm cánh phượng)
thù lao cao nhất: Mỗi thành viên ban giám khảo được một triệu rưỡi. Nhưng nửa
năm sau mới có. Cuộc thi của báo Người cao tuổi tưởng không có thù
lao. Sau được một triệu một người. Cũng là phải chờ đợi tháng này sang tháng
khác.
Bầu làm mọi việc để nuôi sống gia đình. Tôi đã thử một con
tính, thấy Vũ Bão cộng nhầm. Danh sách những người Bầu phải nuôi hoàn toàn hoặc
phải chi viện thường xuyên (mẹ, vợ, con dâu, con gái, cháu nội, cháu ngoại) lên
tới 12 người.
Anh ra sức kiếm tiền và chi tiêu thật tiết kiệm đến nỗi về cuối
đời có người bảo anh: Hãy tập tiêu tiền cho mình đi ông Bầu ạ. Anh viết báo.
Anh sáng tác. Anh vào ban sơ khảo, giám khảo các cuộc thi. Anh dịch sách, dịch
báo. Ðể có tiền nuôi mẹ, giúp vợ con, nuôi cháu. Anh nấu lấy. Nấu một bữa ăn
hai bữa. Thức ăn phần nhiều là một món nửa xào nửa canh. Anh dễ ăn. Anh ăn ngon
miệng. Món quà trời phú cho anh. Anh tiết kiệm cả ruy-băng máy chữ, xin mực in
về nhuộm lại khi nó nhạt mầu. Anh dùng giấy người ta đã dùng một mặt, bỏ đi. Có
ram pơ-luya mới nào, anh nâng niu cất đi để dành. Ðôi khi cũng bị nhiều vố: Những
ram giấy tốt anh cất đi ấy làm mồi cho mối. Anh chỉ hút thuốc lá rẻ tiền: Thăng
Long, Thủ Ðô, những thứ thuốc oanh liệt một thời nhưng giờ đây đứng cuối bảng
giá. Còn bao ba số Bão Vũ cho, đút túi để dành lại rơi đâu mất.
Anh tham gia các tổ cộng tác viên của các ngành kinh tế, đặc
biệt là ngành giao thông vận tải (đường sắt, đường bộ, hàng không) cùng với các
danh nhân khác: Vũ Bão, Ngô Văn Phú, Phạm Ngọc Cảnh... Ðể có thể đi mà không phải
mua vé, không phải mất tiền. Ðể có thể đến được nhiều nơi trên đất nước.
Nhận lời mời của xí nghiệp Ðầu máy xe lửa Vinh, anh đã vào đó
viết bài. Chỉ một mình anh. Anh không ngại xa. Anh sẵn sàng thu xếp mọi công việc
đi đến nơi mời. Ðang là mùa đông, mưa dầm gió bấc anh cũng chấp.
Tới nơi, anh viết và gửi đăng báo Ðường Sắt một bài
ký về những tác giả một đề tài khoa học đã được giải thưởng. Ông Sen giám đốc
xí nghiệp, ông Chơi trưởng phòng kỹ thuật, anh Hiến phụ trách thi đua rất quý
anh. Một thời gian sau, ông Sen lại cho anh Hiến thi đua ra Hà Nội mời Lê Bầu.
Kết quả của lần đi thứ hai này là hai bài báo của anh được in. Một đăng số Tết.
Một đăng số thường. Có phong bao. Có đồng nhuận bút. Việc tưởng cũng chỉ đến thế.
Bỗng một hôm Lê Bầu nhận được thư của ông giám đốc Sen. Không phải thư cảm ơn về
hai bài báo của Bầu. Mà là thư bầy tỏ muốn được giúp đỡ Bầu trong việc thu xếp
việc làm cho thằng cháu đích tôn 16 tuổi của anh. Không hiểu sao ông Sen lại biết
ngọn ngành tình cảnh nhà anh như vậy. Anh viết thư cám ơn về dự định giúp đỡ tốt
đẹp của ông giám đốc.
Ngay sau đó anh thi đua Hiến có mặt ở Phùng Hưng, nơi Lê Bầu ở.
-Anh Sen cho em ra gặp anh để nói với anh: Từ nay đến sau Tết,
bất kỳ lúc nào anh đưa cháu vào cũng có việc làm ngay. Anh Sen cũng nói: Tổng cục
chỉ thị giảm 15 phần trăm biên chế, nhưng anh Sen sẽ làm việc với Tổng cục về
trường hợp cháu. Giấy tờ anh Sen lo hết. Anh đừng ngại. Cứ đưa cháu vào.
Ðến lúc ấy anh mới biết ông giám đốc Sen có nhận được một bức
thư của ai đó (anh không thể nào biết ai là tác giả nhưng chắc chắn đó là một
người bạn tốt) nói đại ý: Anh Lê Bầu không muốn nhờ ai cái gì, nhưng gia đình rất
khó khăn. Hiện có một thằng cháu đích tôn chưa có việc làm...
Bầu về Bắc Giang. Nói chuyện với con dâu (con giai anh đã mất).
Hỏi thằng đích tôn năm ấy 16 tuổi. Nhấn mạnh về tương lai tiền đồ, công ăn việc
làm của cháu. Trách nhiệm của cháu với mẹ với các em. Phân tích khó khăn. Rồi
thuận lợi. Hỏi đích tôn mấy lần, đích tôn đều đồng ý.
Thế là hai ông cháu vào Vinh. Tầu đêm. Giường nằm đàng hoàng.
Dù tốn kém. Vì đây là chuyến đi lịch sử: Ông đưa cháu đi lập nghiệp, xây dựng
tương lai.
Tới Vinh là năm giờ sáng. Hai người vào nhà khách nguyên là
nhà chuyên gia Bỉ ở, rất sang trọng. Giám đốc Sen nói với hai ông cháu:
-Anh đừng lo lắng gì thủ tục giấy tờ. Tôi bao hết. Công việc
của cháu thì thế này: Mấy tháng đầu làm lao động phổ thông cái đã. Không phải một
lúc mà bố trí việc này việc kia ngay được. Ba tháng sau chuyển cháu làm bảo vệ.
Nhàn thôi. Nhưng cháu phải đi học bổ túc, kiếm lấy cái bằng phổ thông. Bác sẽ
cho cháu đi học lái tầu. Ðồng ý như vậy thì để ông cháu về. Cháu ở đây.
Hôm sau Hiến và trưởng phòng hành chính gặp Bầu, khuyên anh
nên gặp Long, trưởng phòng tổ chức. Lời khuyên có lý. Anh tìm Long. Không gặp
Long mà lại gặp giám đốc. Giám đốc bảo:
-Anh về phòng tôi. Ðể tôi bảo Long đến gặp anh.
Ba người ngồi. Bầu trình bầy vấn đề và đề nghị trưởng phòng tổ
chức giúp đỡ. Long bảo anh:
-Xí nghiệp em chưa nhận ai không biết một nghề gì. Anh đưa
cháu về học bất cứ nghề nào cũng được. Học xong em nhận ngay.
Ðang ngồi ngả người trên ghế, Sen chồm nhoai lên bàn:
-Long ạ. Việc này là mình xin anh Bầu chứ không phải anh Bầu
xin mình đâu.
Và ra lệnh cho trưởng phòng tổ chức: Sáng nay làm xong giấy tờ.
Chiều cho cháu học nội quy an toàn lao động. Sáng mai bố trí công việc.
Bầu đi theo Long nhận những tờ khai. Long bảo:
-Trường hợp của anh là trường hợp thứ ba. Hai trường hợp trước
là con hai ông thư ký công đoàn và giám đốc đã về hưu.
Sáng hôm sau xong giấy tờ, động viên dặn dò cháu đâu đấy, Bầu
về Hà Nôi bằng vé của xí nghiệp. Anh rất cảm động về lòng tốt tuyệt vời của những
người bạn thành Vinh. Và mừng vì đã gửi được cháu vào những nơi tin cậy. Nghĩ
và tin rằng nó sẽ được học tập, rèn luyện và trưởng thành.
Ðêm hôm sau đang ngủ, có tiếng gõ cửa. Anh ra mở cửa: Ông
cháu đích tôn! Ông cháu đích tôn đứng lù lù giữa cửa!
-Cháu về. Cháu không làm ở đấy nữa.
Và dù đang mùa rét cũng nêu một lý do hoàn toàn xác đáng:
-Cháu sợ gió Lào!
°
12 toa tầu chia thành nhiều cấp độ khác nhau: Nuôi hẳn, chi
viện thường xuyên, chi viện theo chu kỳ, chi viện đột xuất. Ðâu phải chỉ có vậy.
Còn bao việc khác. Thay cái cột nhà bị mọt. Lợp lại cái mái. Bắc ống nước. Lắp
công tơ điện. Rồi còn hiếu, còn hỷ, còn lúc ốm lúc đau. Khi mẹ anh bị tai biến
mạch máu não còn bệnh viện, thuốc men. Lại phải cơi cho cụ cái buồng riêng...
Bầu làm việc như một con ngựa. 15 năm liền anh giữ một chuyên
mục cho tuần báo Ðộc Lập, mãi tới khi báo đình bản. Ðó là khối lượng công việc
của riêng một phóng viên chuyên nghiệp. Các báo Văn Nghệ, Tiền Phong, Lao Ðộng,
Tuổi Trẻ, Tuổi Trẻ cười, Kiến Thức ngày nay, Hàng Không, Du Lịch, Ðường Sắt...
nghĩa là gần như tất cả các báo trong Nam ngoài Bắc đều đã đăng các bài của anh
viết hay dịch. Vũ Bão xếp anh nằm trong Ngũ Hổ: Năm nhà văn nhà thơ viết báo
khoẻ nhất Hà Nội: Lê Bầu, Nguyễn Hà, Băng Sơn, Tạ Hữu Yên, Phong Thu. (Thực ra
Vũ Bão đứng đầu Ngũ Hổ. Nhưng do khiêm tốn nên có ai nhắc, anh chỉ cười: Năm
người thôi. Mình vào đó thì thành ra Lục Súc chứ đâu còn là Ngũ Hổ nữa.)
Trong cái nghiệp dịch của Lê Bầu, cùng với những sáng tác văn
học có giá trị của Kim Dung, Giả Bình Ao..., anh đã dịch hai tác phẩm đã được dựng
thành phim nhiều tập và được công chúng Việt Nam rất yêu thích: Ô-sin và Tể Tướng
Lưu gù.
Ô-sin dịch theo đặt hàng của nhà xuất bản Hà Nội. Khi đó phim
Ô-sin đã được chiếu cả tháng trời trên màn ảnh nhỏ. Nhà xuất bản yêu cầu phải
có sách bán trước khi phim kết thúc. Và càng có sách sớm càng tốt. Anh dịch
theo bản tiếng Trung Quốc nghĩa là những tên Nhật đã được Trung Quốc hoá. Không
thể dịch những tên ấy theo âm Hán -Việt. Nếu vậy Ô-sin sẽ thành A
Tín như Huy-gô sẽ thành Vũ Quả, Xi-mô-nôp sẽ thành Tây môn nhược
phu, Phi-đen Cat-xtơ-rô sẽ thành Phi đắc nhĩ kha tư đặc lạc vậy. May.
Anh có nội công. Chị Hương Liên phát thanh viên đài truyền hình Việt Nam đã
phô-tô một bảng tên nhân vật giúp anh.
Theo quy định, cứ vài ngày nhà xuất bản lại cho người đến lấy
những trang mới dịch đi làm vi tính. Chỉ ít ngày sau khi anh dịch xong, Ô-sin
đã được bầy bán trong các hiệu sách. Hàng ngàn quyển hết veo. Vì phim Ô-sin vẫn
còn đang chiếu tiếp. Vì Vũ Bão, một người sợ biến thành Lục Súc nên nhất định
không chịu đứng trong Ngũ Hổ đã viết một bài rất ăn khách trên báo Tiền Phong
và Thế Giới Mới với cái tít giật gân: Ô-sin đã dọn về phố Phùng
Hưng để quảng cáo cho công việc của Bầu, quảng cáo cho tập sách và cũng là
để kiếm tiền sao cho xứng với một người... đứng ngoài Ngũ Hổ.
°
Mỗi khi đến 105 Phùng Hưng lấy những trang Ô-sin mới dịch,
anh cán bộ nhà xuất bản Hà Nội không thể vào nhà mà chỉ đứng dưới lòng đường gọi
để Lê Bầu mang bản dịch ra. Bởi vì trước cửa nhà Lê Bầu là quầy bán vải. Ðó là
thời gian chợ Ðồng Xuân bị cháy lần thứ hai. Lê Bầu ngồi dịch sách giữa những
cây vải chất đống bên cạnh, chất đống sau lưng. Cô hàng vải nhìn chủ nhà làm việc
không còn chỗ cựa quậy, đi mua bánh cuốn, bún hoặc bánh mì về cho bố ăn
sáng.
Hai lần cháy chợ Ðồng Xuân, hai lần nhà Lê Bầu thành kho vải,
thành sạp vải, hai lần Lê Bầu gặt hái.
Lần cháy chợ đầu tiên tôi đến nhà Lê Bầu, rất bực bội vì phải
chen lách từ mãi đầu Cửa Nam lại, khi dưới lòng đường, khi trên vỉa hè. Ðến nơi
thì không có chỗ để xe, không có chỗ len chân vào nhà. Tôi cằn nhằn:
-Ðến nhà ông khổ quá. Bao giờ cho hết cảnh này.
Bầu giẫy nẩy:
-Ấy chết ông ơi. Tôi mong cảnh này kéo dài vĩnh viễn. Chợ không
họp ở đây nữa là tôi đói đấy.
Anh giảng cho tôi cái gốc cây sữa trước cửa nhà anh giồng ở vỉa
hè, sát lòng đường cũng là tiền đấy. Hai mét chiều ngang mặt tiền của anh bỗng
nhiên có giá. Cháy chợ Ðồng Xuân, hàng vải dọn về Phùng Hưng. Mỗi tháng cụ cứ
ngồi viết, đọc sách hay đạp xe đi đâu đó cũng đút túi ba trăm ngàn đồng, nghĩa
là một chỉ vàng (vàng lên ba trăm rưởi, các con giả lên ba trăm rưởi,
không để cụ thiệt). Một chỉ vàng ngày ấy có giá trị lớn lắm, không
như một chỉ vàng bây giờ. Vàng còn đang là mặt hàng được săn lùng, ít có trong
tủ các gia đình.
Có tiền là Bầu mua vàng. Tiền cho thuê buồng làm kho. Tiền
bán vỉa hè trước mặt. Tiền thưởng ba lợi ích và tiền lao động ở cơ quan. Bầu gọi
việc mua vàng là chống lạm phát. Phải chống lạm phát vì còn phải dự trữ
phòng khi ốm khi đau đột xuất. Phải chống lạm phát vì anh chưa về nhà ở Bắc
Giang ngay được. Phải chống lạm phát vì lạm phát đang phi mã. Trong đợt chống lạm
phát dài ngày này, anh mua được bao nhiêu vàng không ai biết nhưng chắc chắn có
chiếc xe đạp nội hóa Viha, do đó chiếc xe đạp Thanh Niên số khung 00012A, biển
đăng ký BN 928 mua đầu năm 1959 được nghỉ hưu sau khi đã phục vụ anh một thời
gian non nửa thế kỷ.
Hơn một năm sau chợ Ðồng Xuân mới đã xây xong.
Chợ vải lòng đường Phùng Hưng giải tán.
Bạn bè tới tấp chia buồn với Lê Bầu.
Thì chợ Ðồng Xuân lại cháy. To hơn trước. Trụi hơn trước.
Nghe tin chợ Ðồng Xuân cháy ai cũng nghĩ tới Lê Bầu. Anh sẽ lại
có nguồn phụ thu nhưng là chính thu quan trọng. Người ta còn nói: Khéo chính Lê
Bầu đốt chợ. Không ai bảo ai, bạn bè trong Nam ngoài Bắc đều gọi anh
là "kẻ đốt chợ Ðồng Xuân" mặc dù cuộc điều tra cho biết
cháy chợ là do chập điện.
Lần cháy chợ sau, Bầu thắng lớn hơn nhiều.
Một cái vỉa hè nhưng chia làm hai dẫy. Một dẫy sát mép cống
ngồi quay mặt vào. Một dẫy ngồi sát tường quay mặt ra. Giữa là lối đi. Ðúng là
tấc đất tấc vàng. Bầu cười. Ôi! Nụ cười của anh mới hãnh diện làm
sao!
-Ông ạ. Khi chợ vải sắp chuyển về, bọn đầu gấu ngõ Hàng Hương
căng giây chiếm dẫy phía ngoài. Mấy cậu thanh niên nhà bên bảo tôi: Chú phải bảo
thằng Ð đi. Chứ không nó chiếm mất của chú. Tôi mới gặp nó. Cháu ơi. Chỗ gốc
cây sữa để lại cho chú. Chú có lời với cháu như vậy. Rồi sau cháu tính thế nào
thì tính. Nó rất lễ phép: Vâng. Chú yên tâm. Cháu biết chỗ ấy rồi. Chỗ ấy là của
chú. Bảo là nó nghe ngay. Hình như nó sợ nghề viết văn của mình hay sao ấy!
Lại cười. Hớ hớ.
Tháng đầu tiên trong đợt cháy chợ lần thứ hai Lê Bầu đút túi
hai triệu (dạo ấy to lắm, bây giờ cũng vẫn to). Giáp tường là một triệu ba. Giá
gốc cây là bẩy trăm nghìn. Thật may. Anh mới nghỉ hưu. Thu nhập đang kém.
Nhưng chỉ được một tháng đầu thôi. Tháng sau công an dẹp cái
dẫy phía gốc cây quay mặt vào.
-Thôi thì con cứ gửi ông một triệu. Những tháng sau con lấn dần
được ra con gửi ông thêm.
Lê Bầu bỗng nhiên có xe máy. 81 chót chét kim vàng giọt
lệ. Vua chiến trường ngày ấy. Xe máy của vợ chồng người bán vải nhưng đứng
tên Bầu. Hoá ra anh ta người Hà Ðông, "xin ông cái tên" để có biển
đăng ký 29 đèo hàng cho dễ.
-Con muốn nhờ ông đứng tên cho con cái đăng ký kinh doanh.
Hoá ra chị ta không có đăng ký ở chợ Ðồng Xuân. Cũng là ghé
vào chỗ nào trong chợ. Cháy chợ thì giạt ra Phùng Hưng.
-Ông đứng tên kinh doanh, khi chợ xây xong chúng con còn được
vào chợ.
Bầu lắc đầu:
-Ðứng tên xe máy thì được. Ðứng tên đăng ký kinh doanh
thì ông không đâu. Ngộ nhỡ anh chị kinh doanh có gì trục trặc hay
thua lỗ, vỡ nợ, trốn thuế, ông phải ra toà à. Ông không
đâu. Ông cứ nói thật.
Sự thành thật của ông có lý. Chị vợ cũng thành thật
với ông:
-Con thuê của ông là vải của con không phải đánh dấu. Con
thuê nhà xích lô bên kia, đánh dấu mà cũng mất bao nhiêu là vải.
Biết ông không ăn cắp vải nên anh chị buôn vải cứ
có hàng nào đẹp lại mang vào tận bàn viết của Bầu:
-Ông xem. Vải này ông có ưng không? Con xé biếu ông để ông đi
may.
Ông lắc đầu. Ông cứ ngồi dịch. Ông cứ
ngồi viết. Sáng nào cũng phải chờ đến tám giờ, con dọn vải ra sạp
xong ông mới làm việc được. Rồi đang làm việc lại ngừng
vì con nhập vải. Ông dịch, ông viết và những lúc
mệt quá ông lại ư ử mấy câu của Quản Trọng thời Ðông Chu liệt quốc:
Nhất niên chi kế
Mạc như thụ hoà
Thập niên chi kế
Mạc như thụ mộc
Bách niên chi kế
Mạc như thụ nhân [1]
Trong căng thẳng mưu sinh, Lê Bầu vẫn hoàn thành những việc phải làm. Chỉ kể những sáng tác gần đây của anh: Tập truyện Những năm tháng trôi qua, tiểu thuyết Ngã ba cô đơn, tập truyện được giải thưởng của Hội Văn Nghệ Hà Nội Hai người buồng bên kia, rồi Gương mặt buồn, Dòng sữa trắng... Và dịch: Nỗi hoài hương dằng dặc, Thị trấn Phù Dung, Ô-sin, Giả Bình Ao, Tể tướng Lưu gù... Riêng cái ông Tể tướng gù lưng Lưu Dung này làm hàng triệu người mê thích nhưng cũng làm anh ngất xỉu và phải nằm bệnh viện khi đang đọc lại những trang cuối cùng.
Lần đầu tiên trong đời, tôi dự một trại sáng tác tập trung.
Trại sáng tác quân đội Ðồ Sơn, mùa đông năm 1999. Hơi trái khoáy về thời tiết.
Nhưng chỉ về mùa đông trạm điều dưỡng quân khu Ba mới có buồng trống cho chúng
tôi ở không tính tiền.
Cùng dự trại với tôi có Lê Bầu.
Chúng tôi ăn cùng nhau. Những ngày nắng ấm hiếm hoi, chúng
tôi rủ nhau đi tắm biển. Biết bao nhiêu chuyện. Từ thời còn cùng nhau học Hàn
Thuyên. Chuyện thầy cũ bạn cũ. Chuyện bây giờ. Mới ngày nào còn cắp sách đến
trường, hôm nay đã là những ông lão cả rồi.
Khi đợt rét đầu mùa ập đến, Lê Bầu đi chợ Ðồ Sơn mua quần
áo Sida.
Cái áo đầu tiên mua về giá hai mươi ngàn đồng, anh định cho
tôi, nhưng bị đại tá Nam Hà mua lại ngay trong bữa cơm vì tôi đã có áo rét rồi.
Lần thứ hai anh mua cái quần cũng hai mươi ngàn đồng, "người mẫu"
Ðình Kính mặc thử và không rời ra nữa.
Lần thứ ba anh mua bộ com-lê, giá sáu nhăm ngàn. Phải nói bộ
này rất đẹp, mặc vào ai cũng khen:
-Cứ thế này đi họp Ðại hội Nhà văn được rồi.
Bầu cười:
-Nhưng còn xem có trúng đại biểu không đã chứ.
Lê Lựu bảo:
-Thế là com-lê có rồi. Chỉ còn chờ được bầu là đi Ðại hội Nhà
văn thôi.
Rôi Lê Lựu hỏi:
-Anh Bầu cao bao nhiêu nhỉ?
-Một mét sáu tư.
-Ðưa đây xem nào.
Vừa nói Lựu vừa cầm lấy bộ quần áo Bầu mới cởi ra.
Lê Lựu mặc vừa như hàng may đo. Sur mesure!
Và không ai có thể cởi được bộ com-lê Lê Lựu mới mặc vào người.
Lựu rút ra tám mươi nghìn đồng đưa cho Bầu. Ðây. Giả cả lãi nhé. 65 nghìn vốn
này. 3 nghìn xích lô này. 12 nghìn lãi này. Em biếu không anh cái quần cũ em vừa
mặc nữa đây này...
Nói vậy thôi chứ quần cũ của Lê Lựu ai mà dám mặc. Lê Bầu lại
phải đi mua quần áo chống rét (một thứ tập tiêu tiền cho chính mình). Lần này
có tôi đi tháp tùng. Ðến lúc ấy tôi mới biết đi mua quần áo hàng thùng là lâm
vào một tình thế rất gay. Ba cô bán hàng liền nhau. Treo ba dẫy quần áo liền
nhau. Cô nào cũng trẻ đẹp. Cô nào cũng chèo kéo mời chào. Vào hàng này là có lỗi
với hàng khác. Vào hàng này cứ lấm lét nhìn sang hàng khác như người ăn vụng bị
bắt quả tang. Cô bán hàng đưa áo cho Bầu xem, nói toạc móng heo:
-Anh nhìn vào cái áo này này. Không phải vừa xem áo vừa nhìn
sang bên ấy.
Chúng tôi mang áo về còn nghe một cô rủa sả sau lưng:
-Mua với bán. Ngữ ấy có lấy ba vợ nó cũng bỏ.
Tôi và Bầu phá lên cười.
Càng về cuối trại, càng rét. Có cái áo mới mua, Bầu yên tâm
ngồi viết.
Và những ngày chủ nhật, anh chị em về hết, cả trại chỉ còn
hai người. Một là trưởng trại. Một là Lê Bầu. Bởi vì như Vũ Bão nói:
-Ông Bầu thì cứ có ai nấu cơm cho ông ấy ăn là ông ấy ở. Rồi ở
đâu có nhà tắm là ông ấy không rời ra được nữa.
Ðúng là ở 105 Phùng Hưng phải tắm giếng ngoài sân. Ðúng là ở
105 Phùng Hưng phải nấu lấy ăn. Nhưng cũng không hoàn toàn như vậy. Anh ở lại
trại và làm việc. Ít trại viên ngồi lì (với cái máy chữ) được như anh.
Hơn ai hết, Lê Bầu hiểu giá trị của thời gian.
Ðồ Sơn 11-1999
[1] Có
nghĩa là: Kế hoạch một năm/ Không gì bằng trồng lúa/ Kế hoạch mười năm/ Không
gì bằng trồng cây/ Kế hoạch trăm năm/ Không gì bằng trồng người.
Phần V
Một mơ ước về kiếp sau
Cây xấu hổ
Chiều lặng ngồi trêu cây xấu hổ
Lá thẹn thò sau đám cỏ rối bời
Hãy ngoảnh lại đây
Có gì mà mắc cỡ
Chỉ mình ta bầu bạn với ta thôi.
Nguyễn Thị Hoài Thanh ngồi một mình ở Ðồng Xoài, chờ người ta
thu hoạch lạc xong thì vào mót. Cô đơn ở xứ người, để giết thời gian, để quên
đi nỗi lo kiếm sống, chị trêu chòng và trò chuyện với cây xấu hổ. Thế rồi thơ đến.
Khi ở tù ra hầu như tôi chỉ còn một nhúm bè bạn, trong đó có
Nguyên Bình, người không bao giờ bỏ tôi trong những lúc gian lao nguy hiểm đói
nghèo nhất. Anh vẫn đến chơi nhà, nói dăm ba câu chuyện hoặc nô đùa với các con
tôi. Tôi chẳng dám trách ai. Bởi cái ống ngắm hiển nhiên là đang nhắm vào tôi.
Chẳng ai lại muốn mình hiện hình trong vòng ngắm. Ðừng có đem sinh mạng mình, đời
sống gia đình vợ con mình ra đùa cợt.
Thế mà trong những ngày ấy tôi lại có thêm một người bạn mới:
Nguyễn Thị Hoài Thanh. Chị thường xuyên đến nhà. Nói chuyện với tôi. Bàn chuyện
làm ăn sinh sống với vợ tôi. Dạy hai đứa con gái tôi cách thêu may bô-đê để kiếm
sống.
Tôi và Nguyễn Thị Hoài Thanh trước đó chỉ biết nhau chứ chưa
hề chào nhau dù gặp nhau trong một cuộc họp, lại càng chưa một lần đối thoại.
Tôi ấm lòng khi thấy chị lên nhà, ân cần, thân mật, cởi mở như một người bạn
thân của cả gia đình và hoàn toàn chiếm được niềm tin, tình cảm của vợ chồng
tôi. Chị như một chỗ dựa tinh thần, một sự động viên vợ tôi trong những ngày
tháng gian lao ấy.
Lúc đó tôi mới biết rằng chị làm ở Quốc doanh đánh cá Hạ
Long, một xí nghiệp tôi cũng từng quen, đã xuống lấy tin viết bài, nơi sản sinh
ra anh hùng lao động Hồ Xuân Tuyên mà Dương Tường đã viết trong Thuyền Trưởng.
Chị mách chúng tôi một cách kiếm sống: Làm nước mắm.
Ngày ấy nước mắm rất khan hiếm, cắt theo phiếu, theo tiêu chuẩn
thang lương. Có nhà khoa học còn nghiên cứu làm nước mắm dắt, nấu từ con dắt, một
loại sinh vật biển họ trai hến nhưng chỉ nhỏ bằng cái cúc áo. Ðề tài nước mắm dắt
được đăng ký cấp quốc gia hay cấp thành phố tôi không nhớ. Nhà ai chẳng phải ăn
nước mắm. Nước mắm đang lên ngôi. Chúng tôi bị thuyết phục ngay. Nguyễn Thị
Hoài Thanh giảng cho chúng tôi nghe về con nước, về chợ chiều, cá ươn, cá ế, về
loại cá rễ cau, như con chạch nhưng đỏ, không ai ăn, mua về làm chượp, và điều
quan trọng là khi nấu mắm xong đừng lọc chắt ngay mà cứ để nguyên như vậy cho đến
khi nguội hẳn vì trong quá trình ấy đạm vẫn từ bã thôi ra nước. Rồi chị giới
thiệu cho tôi biết những chợ nào người ta hay bán cá rễ cau. Rồi tính toán tiền
cá, tiền muối, một cân cá được bao nhiêu nước mắm loại một, nước mắm loại
hai... Nhưng lấy gì mà ngâm chượp? Lại cũng chị Thanh. Tối hôm ấy vợ tôi vác xe
đi. Chuẩn bị cả giây co nghĩa là giây cao su, cả bao tải. Lại mất điện. Vợ tôi
đi trong bóng tối hun hút xuống nhà chị. Một khu tập thể không tên gọi, không số
nhà. Cũng may, ban ngày Nguyễn Thị Hoài Thanh đã đưa vợ tôi xuống nhà để vợ tôi
thuộc những ngóc ngách ngoắt ngoéo mà dù cho có tối tăm, mất điện, lại toàn những
mái nhà lô nhô như bát úp ở một khu đất trước đây là trận địa pháo cao xạ mà về
sau khi tôi xin được việc làm ở Quốc doanh đánh cá Hạ Long, mới biết nó có
tên là khu Bãi Cát, vợ tôi vẫn có thể tìm đến tận nơi.
Khi chiếc loa ngã sáu phát chương trình Quân đội nhân
dân, nghĩa là khoảng chín giờ, tôi nghe tiếng gọi của vợ tôi dưới cầu thang.
Tôi vội chạy xuống. Trong bóng tối tôi thấy vợ tôi đang giữ chiếc xe đạp ở chân
thang, và ở poo-ba-ga, một đống gì gồ cao đen sì.Tôi đặt tay lên đó. Chiến công
của vợ tôi. Sự giúp đỡ tận tình của Nguyễn Thị Hoài Thanh. Niềm hy vọng của
chúng tôi. Nó căng. Cứng. Và cong cong. To nữa. Cái bao tải to thế mà căng phồng.
- Chị Thanh đưa em qua cổng bảo vệ chứ không cũng không mang
được về nhà đâu.
Ðó là một bình gốm chuyên dùng, miệng nhỏ, có nắp vặn xoáy được
để đựng a-xít. Bình dầy nên tuy to nhưng chưa chắc đã đựng được nửa thùng nước.
Tài sản ban đầu của chúng tôi để tự kiếm sống là như vậy.
Chúng tôi dội nước đầy bình cho a-xít thôi ra trước khi ngâm chượp. Rồi đi mua
cá rễ cau cá ươn cá ế ở chợ. Chẳng mấy chốc mà đầy hũ. Không dám để hũ dưới
nhà. Sợ mất. Chúng tôi bê lên gác, đặt ngoài bệ cửa sổ. Sốt ruột mong nó phân
huỷ, để nó thành chượp, nấu lên thành nước mắm mang đi bán.
Trong khi chờ đợi có nước mắm bán cả nhà vẫn cứ phải ăn. Nguyễn
Thị Hoài Thanh hiểu được điều ấy. Chị đến dạy vợ tôi và hai đứa con gái còn
chưa đến tuổi dậy thì bô-đê.
-Cái này là làm cho mấy bà buôn ở chợ Sắt.
Nhìn những mẫu bô-đê của chị tôi mới nhớ ra rằng ở những gấu
quần xa-tanh, gấu áo phin nõn của những người sang trọng luôn có những hoa văn
đục thủng ra rồi viền lại như vậy.
Tôi không hiểu chị học bô-đê ở đâu mà đẹp thế. Hay chị học ở
trường mồ côi? Mà chị có mồ côi và học ở trường mồ côi như người ta vẫn nói thật
không. Rồi lại còn cái chuyện Nguyễn Cao Kỳ (tư lệnh không quân rồi phó thủ tướng
nguỵ) là anh ruột chị nữa. Nói chung là chung quanh chị có nhiều "huyền
thoại", những "hiện thực huyền ảo" giết người. Dường như biết rằng
có những dư luận rất bất lợi cho mình và mọi người nhìn mình bằng con mắt nghi
kị xa lánh nên chị không chủ động thân thiết gần gũi với một ai. Chỉ đến khi
tôi đi tù về chị mới đến nhà tôi. Người khác có thể sợ chứ chị thì không. Chị
nghĩ mọi cách giúp gia đình tôi kiếm sống. Chị nuôi ngan và bàn với tôi việc
nuôi ngan. Chị bảo chị đã nghiên cứu và tìm ra thủ phạm của việc làm ngan chết
hàng loạt là những con giun móc chui vào lỗ tai ngan vì vậy trong lúc trời mưa
tuyệt đối không được cho ngan sục nước. Chị vẽ ra một viễn ảnh sáng ngời: Tôi
mang trên vai một chiếc cuốc nhỏ, lùa đàn ngan ra bãi Máy Tơ...
Nhưng tất cả kế hoạch của chị cũng chỉ hoàn toàn là kế hoạch
của một nhà thơ. Hoặc kế hoạch mang tính khả thi đấy nhưng không thực thi được
vì người thực hiện lại là tôi.
Tuy nhiên về một mặt nào đấy những kế hoạch của chị cũng mang
lại tác dụng. Nó làm chúng tôi ấm lòng. Nó giúp chúng tôi có thêm nghị lực sống,
vượt qua được những ngày nào cũng dài đằng đẵng[°] ấy.
Chúng tôi vẫn có những người bạn để chia sẻ. Ðiều đó giúp chúng tôi có thêm nghị
lực.
Thế nào mà khi được đi làm trở lại, tôi lại về Quốc doanh
đánh cá Hạ Long, nghĩa là về cùng xí nghiệp với Nguyễn Thị Hoài Thanh. Ông
Hoàng Hữu Nhân nguyên bí thư thành uỷ Hải Phòng, khi đó là tổng cục trưởng tổng
cục Thuỷ sản đã cứu tôi, quyết vượt qua mọi trở ngại, những mưu toan ngấm ngầm
công khai của những người có thế lực khác tìm mọi cách không cho tôi trở lại với
cơ quan xí ngiệp nhà nước.
Tôi làm văn phòng. Còn chị Thanh làm ở phân xưởng, tổ ắc-quy,
ngành điện. Trong sổ tay tôi còn ghi lại một buổi sáng xuân, tôi đứng trên mũi
một con tầu đang xảm lại mặt boong. Trời xuân, không mưa bụi nhưng mát mịn da mặt.
Phía bên kia sông, những cây sú lá xanh thẫm. Chân trời những đám mây xuân tầng
tầng lớp lớp. Và gió. Gió không mạnh, chỉ đủ giục giã lên đường. Người thuyền
trưởng đứng sau tôi. Anh ôm tôi, nhấc bổng tôi lên. Rồi lại đặt tôi xuống.
Từ phía đầu cầu cảng chạy vào một chiếc xe rùa, một loại xe
chạy bằng ắc-quy, êm không một tiếng động. Trên xe, mấy cô công nhân tươi cười
rạng rỡ. Thuyền trưởng bỗng rời vòng tay ôm tôi, nhao ra lan can: "Cô
Thanh ơi, chúng tôi thay ắc-quy đấy nhé." Lúc bấy giờ tôi mới để ý là Nguyễn
Thị Hoài Thanh đang ngồi trên xe. Quần áo bảo hộ lao động rộng thùng, chiếc mũ
lưỡi chai, khuôn mặt chị ngời ngợi giữa những món tóc bị gió thổi bay dập dờn
trên mặt trên má trên miệng cô công nhân ngồi đằng sau chị. Chị nói như hét:
- Chưa thay được cho anh đâu.
Chiếc xe vẫn giữ nguyên tốc độ, vượt qua chỗ chúng tôi. Thuyền
trưởng kêu to:
- Sao lại chưa?
Chiếc xe đã ngoặt về phía cổng cảng. Vọng lại một câu trả lời
của chị nhưng nghe không rõ. Chiếc xe đã biến mất. Nó lướt qua không một tiếng
động. Như nó chưa hề đi qua đây. Một thuỷ thủ nói:
- Cô Thanh được đấy thuyền trưởng ạ.
Thuyền trưởng cười:
- Già rồi.
Anh thuyền viên kêu to với đám thuỷ thủ đang trầu cáp, chuẩn
bị cho một chuyến biển mới:
- Thuyền trưởng chê cô Thanh già các cậu ơi!
- Tớ già chứ không phải cô Thanh. Hiểu chưa?
Tất cả cười dòn.
Năm ấy Nguyễn Thị Hoài Thanh còn đang tuổi ba mươi. Thời con
gái chị vốn xinh đẹp. Nhất dáng nhì da. Chị được cả hai. Nhưng hồng nhan đa
truân. Hai lần kết hôn, hai lần li dị. Vẻ đẹp của tuổi ba mươi đang chín. Cái sắc
đẹp không chủ đã gây cho chị biết bao khó khăn, nhiều khi cả nguy hiểm nữa.
- Người ta cứ coi tôi là con mụ Hến anh ạ.
Chị nói vậy và cười hồn nhiên:
- Ngày ấy mình còn mầu mỡ.
Sau này khi đã lục tuần, ngồi ôn lại cuộc đời, chị nói với
tôi như vậy. Và cũng như cô Hến, cái đám Nghêu, Sò cũng toàn là các hàng chức sắc
nên rất nguy hiểm. Thời gian chị còn làm thợ điện ở công ty X, chỉ vì không chịu
bắt tay ông trưởng phòng của chị mà chị không được chấm công, không có lương,
dù ngày ngày vẫn đi làm với các đội, dù chị đã lấy đầy đủ xác nhận của các đội
sản xuất. (Bắt tay là chuyện bình thường, nhưng đây lại là một kiểu ra đụng vào
chạm, một kiểu lợi dụng của ông trưởng phòng mà chị biết quá rõ). Và sự việc
không dừng ở đấy. Chị ở tập thể, nghĩa là một nửa gian phía ngoài, còn nửa gian
phía trong là kho dụng cụ (toàn cuốc xẻng). Một trưa đi làm về, chị thấy buồng
chị bị khoá. Bé Ðan, con gái chị đang ngồi khóc ở cửa. Người ta giải thích cho
chị hiểu rằng không phải người ta khoá buồng chị mà người ta khoá kho dụng cụ,
bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa. Chị gặp người này gặp người khác. Chị đấu
tranh. Khi cứng rắn. Khi mềm dẻo. Lúc pha cả hài hước. Mãi khuya ông trưởng
phòng mới hạ lệnh mở khoá cho chị vào buồng.
Thế rồi khi ông chủ nhiệm công ty cũng muốn đến với Hến và bị
Hến cự tuyệt thẳng thừng mới thật gay go. Lại một chiều đi làm về, vừa bước vào
khu tập thể, bé Ðan đã mếu máo chạy ra:
-Mẹ ơi. Nhà mình toàn bàn ghế thôi, con không nấu được cơm
đâu.
Chị đứng lặng. Cái ô con con hai mẹ con vẫn chui ra chui vào
cửa vẫn mở nhưng chật cứng bàn ghế. Chị đã hiểu. Người ta quyết không cho chị ở
mấy mét vuông này. Chị thì thào với con gái:
-Mẹ con mình khiêng sang nhà bác chủ nhiệm nhé. Thật khẽ. Ðừng
để ai biết.
Lúc đó đã tối. Giờ ăn cơm của cả khu tập thể. Bụng đói, bé
Ðan cùng mẹ khiêng từng chiếc bàn chiếc ghế sang nhà ông chủ nhiệm. Nhà ông ta
rất rộng. Sân. Gian ngoài. Gian trong. Hai mẹ con đặt những đồ mộc ấy ở gian
ngoài. Năm chuyến. Sáu chuyến. Bẩy chuyến. Ðói. Im lặng. Thở. Như một trò tinh
nghịch. Nghe rõ tiếng trò chuyện từ gian trong. Ngửi cả mùi cơm trộn mì, mùi
canh dưa chua ngào ngạt bốc ra. Khiêng gần xong thì bị lộ. Ông chủ nhiệm quăng
bát cơm chạy ra. Gầm lên:
-Cô Thanh! Làm trò gì thế này?
-Tôi sẽ lập biên bản. Cô đúng là một người quá thể. Không còn
coi ai ra gì!
Ông hét không thành tiếng. Cả khu tập thể vốn dĩ đói nghèo sự
kiện, đói nghèo trò giải trí, bỏ dở bữa cơm đổ xô tới. Mọi người trong gia đình
ông kêu thét ầm ĩ. Như một dàn đồng ca.
Nguyễn Thị Hoài Thanh tươi cười lễ phép:
-Báo cáo chủ nhiệm, tôi đi làm về thì thấy số tài sản xã hội
chủ nghĩa này trong nhà tôi. Tôi không hiểu ai vất vào. Ðây là bàn ghế chứ ngộ
nhỡ thuốc phiện thì có nguy hiểm cho tôi không. Cho nên tôi phải trình với chủ
nhiệm. Hai mẹ con tôi dù chưa ăn, bụng đói cũng cố động viên nhau khiêng sang.
Chả lẽ lại vất ra ngoài sân. Tài sản xã hội chủ nghĩa không thể thế được. Phải
bảo vệ. Nên chỉ còn mỗi cách khiêng sang nhà thủ trưởng.
Hoài Thanh thắng. Thắng oanh liệt. Sau trận thắng chị hiểu rằng
không thể nào ở lại công ty được, phải tìm cách chuyển thôi. Trong lúc giao thời
thất nghiệp ấy, một người bạn rủ chị đi bán than cùng ông ta. Mừng như bắt được
của. Không phải "một gánh càn khôn quẩy xuống ngàn, hỏi rằng chi đó gửi
rằng than" mà là mua than của mậu dịch rồi xe đổ cho các nhà. Thứ
than cám đã nháo bùn để người ta chim chim lại cho và bếp lò. Than trộn
bùn ướt nặng như đá. "Ông Hạp ơi! Khiêng hộ tôi lên bàn cân với!"
"Ông Hạp ơi! Ðẩy hộ cái xe vào đây!" Tiền thì chia đôi mà chốc lại
ông Hạp ơi, ông Hạp ơi. Xe than đi đổ cũng lắm chuyện bi hài. Chuyến xe đầu
tiên thế nào lại quành đúng vào khu nhà tập thể của chị. Chị lo lắng: "Ông
Hạp ơi. Ðổ cho nhà ai thế này?" Hoá ra đổ cho nhà ông chủ nhiệm. Chính vợ
chồng ông chủ nhiệm cũng ngạc nhiên. Cô Thanh bây giờ đi làm cái này à? Vâng.
Báo cáo chủ nhiệm, việc gì tôi cũng làm để có tiền nuôi mình nuôi cháu. Hẳn ông
chủ nhiệm cười thầm trong lòng: Chiến thắng là thế đấy hử cô Thanh? Cứ chiến thắng
nữa đi. Chị không xấu hổ về tư thế chiến thắng của chị, cái tư thế nhếch nhác đầy
vẻ thất bại của chị. Chị biết thừa câu nói không thành lời của chủ nhiệm: Cô đã
thắng tôi. Nhưng cô đã thấy cái giá phải trả cho chiến thắng của cô là thế nào
chưa? Chiến bại đấy cô ạ! Chị chỉ tự hỏi: Ông chủ nhiệm hả lòng hả dạ hẳn rồi,
nhưng không biết ông có còn chút lòng trắc ẩn?
Thật ra tự đáy lòng, chị cảm thấy ngượng. Không chỉ trong lần
xe than đổ cho ông chủ nhiệm. Còn nhiều lần khác. Hôm đầu tiên đến bãi than phố
Ðà Nẵng với ông Hạp chị đã ngượng rồi. Hôm ấy chị đi đôi giầy da cũ của một người
bạn cho chị rõ ràng là quá rộng. Cánh thanh niên có mặt ở bãi thấy một phụ nữ
trẻ trung xinh đẹp đẩy xe vào bãi, reo hò:
- Chào em gái xinh đẹp.
- Anh đã bảo em cứ ở nhà rồi anh mang tiền về, sao em còn ra
đây làm gì? Nhớ anh quá hả?
- Ái chà! Lại đi giầy bốt-tin!
Lại một hôm đang đẩy đằng sau, thấy ông Hạp cầm càng ngoặt
vào nhà một cô bạn, chị vội đội lên đầu cái khăn mặt tuỳ thân đen nhẻm cho nó
phủ kín trán, kín hai gò má và kéo sụp nón xuống che hết mặt. Chị bạn quát:
- Xe đổ vào góc trong cùng ấy. Góc bên phải cơ mà. Không nhìn
thấy gì à? Bẩn hết bếp rồi. Mấy tạ đấy?
Nguyễn Thị Hoài Thanh không nói một lời đến nỗi chị bạn gắt
lên: "Câm đấy à?" Chị bạn không nhận ra chị vì chị đúng là "một
con mụ bán than đen thui thủi" từ nón đến giầy bốt-tin!
Vừa xe than, chị vừa đi tìm việc.Nhưng khi chị tìm được việc
làm bên Quốc doanh đánh cá Hạ Long, người ta lại không cấp giấy giới thiệu cho
chị mặc dù họ đã cho chị nghỉ việc để liên hệ chuyển công tác. Chị, chẳng quen
ai, không biết trông cậy vào ai, đi lên sở lao động tìm gặp bằng được ông phó
giám đốc. Ông phó giám đốc ủng hộ chị. Có áp lực của sở lao động, chị được cấp
giấy giới thiệu, được đi làm bên Quốc doanh đánh cá Hạ Long. Nhưng người ta lại
vin vào việc chị đã chuyển công tác để trục xuất chị khỏi khu tập thể. Một cuộc
họp lãnh đạo công ty với khu tập thể có mời cả công an hộ tịch dự. Lập biên bản.
Ra nghị quyết...
Hình như Nguyễn Thị Hoài Thanh sinh ra là để gặp những rắc rối,
chịu đựng những rắc rối và vượt qua những rắc rối khó khăn. Chịu đựng và vượt
qua một cách thản nhiên bình tĩnh, không kêu ca như cuộc đời vốn là như vậy.
Tốt nghiệp trường công nhân kỹ thuật Hải Phòng, chi ghi vào mục
nguyện vọng: Tình nguyện đi bất cứ nơi nào trừ Hà Nội, Hải Phòng. Bởi vì lúc đó
chị vừa li dị và mới sinh cháu gái đầu lòng. Bà mẹ trẻ tuổi hai mươi ấy không
muốn gặp lại người chồng cũ và chỉ mong được yên tĩnh ở một nơi nào đó. Cầu được,
ước thấy. Chị được về Cẩm Phả, coi một trạm điện đầu trục 2 thuộc mỏ Lộ Trí. Chị
và cháu gái mới sinh ở ngay trạm, liền với nhà đề-bô rộng thênh
thang, nhà đề-bô đã có người chết ở đó. Ngày ấy nơi đây là chim kêu
vượn hú. Ngày ấy hai mẹ con suốt đêm nghe gió thổi qua mái nhà đề-bô, nghe
mưa rơi, nhìn nước đổ như thác cuồn cuộn bên ngoài trạm...
Thế rồi từ Cẩm Phả chị lại về Hải Phòng khi sóng gió trong
lòng đã dịu. Rồi chị sang Kiến An. Chị về Vĩnh Bảo. Có biết việc gì không trải
qua. Hãy kể những việc chính: Công nhân xi măng, thợ điện Hải Phòng điện khí,
thợ điện công ty xây lắp, công nhân bóc lạc công ty xuất nhập khẩu, đứng máy
bào cuốn xí nghiệp gỗ Trương Công Ðịnh, công nhân công ty xếp rỡ, cấp dưỡng
công ty vật liệu kiến thiết, súc sạc ắc-quy Quốc doanh đánh cá Hạ Long... Ðó là
chưa kể còn đi giao bánh rán, bánh mì, kẹo lạc, làm và bán nước mắm... Ðồng
lương không đủ nuôi mình mà chị còn phải nuôi con. Cuộc sống tưởng chừng không
có thời gian để thở, đó là chưa kể những chấn thương tinh thần sau hai lần li dị,
ấy thế mà Nguyễn Thị Hoài Thanh vẫn làm thơ.
Cô gái ngay từ nhỏ đã có khí chất con giai này thực chất là
đa cảm. Năm 13 tuổi bài văn xuôi đầu tiên được in trên báo Thế Kỷ. Năm 16 tuổi
gửi thơ lên báo. Bài thơ không được in vì không chịu sửa theo ý biên tập. Bài
thơ đầu tiên của chị được in trên báo Văn Học, cơ quan của hội Nhà Văn là bài
Lán Mông Giăng (1961). Ðắm mình trong những vất vả khó khăn của công việc, của
một mình nuôi con nhỏ, của mối tình đầu tan vỡ, chị nghĩ tới một khung cảnh đầm
ấm có vợ có chồng và trong khi chị đang nằm ở lán Mông Giăng này, có một người
ngoài kia nghĩ về chị và nói với mọi người xin chớ ồn ào, để em tôi ngủ.
Em tôi nào ngủ được. Bởi cô đơn. Bởi hoang vắng. Bởi nhà
đề-bô tối om từng có người chết ở liền bên. Bởi những tia chớp rạch trời
thoắt hiện những khóm lau chìm trong bóng tối. Bởi bỗng một cánh tay đen sì từ nhà
đề-bô thò vào cửa sổ (một công nhân lò Lộ Trí lên gọi điện thoại báo tin
máy hỏng). Bởi bé Ðan viêm họng sốt cao. Không ngủ được thì cứ nằm mơ ước...
Nguyễn Thị Hoài Thanh làm thơ như một nhu cầu nội tâm. Chị
làm thơ để trang trải nỗi lòng. Có một điều ngạc nhiên: Cuộc đời chị biết bao
sóng gió mà thơ chị hồn nhiên trong trẻo thế. Chị có tài nhìn trong đổ vỡ để thấy
được một cái gì vẫn là ấm áp như trong bài Bão tan:
Cây trụi lá mầu chiều say sắc trắng
Hàng dậu xô làng xóm xích gần nhau
Ngày tháng đề dưới bài thơ này là năm 1967, nghĩa là
lúc Thị Hến đang lâm nạn đuổi nhà.
Có lẽ đó không phải là cái tài của chị, mà chính là tâm hồn
chị. Ðộ lượng, tha thứ, chịu đựng, vượt qua mọi gian lao và lúc nào cũng hướng
về cái đẹp. Ðọc lại những bài thơ của chị in rải rác trên các báo và tạp chí
Văn Học, Văn Nghệ, Văn nghệ Quân đội, Cửa Biển và một vài tuyển tập, tôi lại có
một "phát hiện" mới: Chị yêu Hải Phòng biết bao! Một Hải Phòng với những
thành kiến, những trù dập, những nhọc nhằn kiếm sống, một Hải Phòng với những
cuộc li hôn. Nhưng cũng là một Hải Phòng của thời thơ ấu, của những kỷ niệm
không quên với bạn bè, của khát vọng vươn tới cái đẹp. Hải Phòng có bốn chiếc cầu
ở bốn cửa thành phố thì hai chiếc đã nằm trong thơ Nguyễn Thị Hoài Thanh:
Bài Cầu Xi măng và bài Chợ Cầu Rào.
Bài Cầu Xi măng như một bức thư gửi người anh trai
đang sống ở Mỹ, ông Nguyễn Xuân Vinh. (Cũng không sợ lạc đề nếu nói ở đây rằng
ông Vinh là một nhà bác học lớn của Nasa mà báo Lao Ðộng đã viết một bài dài giới
thiệu, ông đã từng chủ trì nhiều hội nghị không gian toàn thế giới. Trong cuốn
tuỳ bút Theo ánh tinh cầu của ông có đoạn: "Cuốn sách tôi viết
nói về quỹ đạo thu hồi một cách an toàn những phi thuyền không gian. Nhà xuất bản
trước khi nhận in đã đưa bản thảo để lấy ý kiến của nhiều nhà khoa học. Tất cả
đều đồng ý đây là cuốn sách độc nhất, với trình độ khoa học cao nhất viết về đề
tài này." Không sợ lạc đề vì ông Vinh là nguyên nhân gây ra cái dư luận
Hoài Thanh là em ruột Nguyễn Cao Kỳ.)
Anh đã xa cầu xi măng
Ba mươi năm từ đó
Xa con sông quê nước lợ
Anh có mơ một lần
sóng vỗ giấc mơ anh
Cầu xi măng ơi cầu xi măng
Thuở bé em nhìn sang bên sông
Trời đất một vùng chim bay chim lượn
... Mẹ ơi cầu có tự bao giờ? em hỏi mẹ
Mẹ bảo tuổi cầu cùng với tuổi anh...
Còn đây là bài Chợ Cầu Rào chị khóc người em trai
Nguyễn Xuân Ðăng mai táng ở nghĩa trang Ninh Hải (từ thành phố Hải Phòng phải
đi qua Cầu Rào mới tới).
Em nằm bên kia sông
Chợ Cầu Rào chiều hôm nắng tái
Qua chợ dùng dằng
nửa muốn đi nửa toan ghé lại
Ðịnh mua quà cho em nhưng nào biết mua chi
Em nằm ở bên kia
Bên đây chợ lao xao kẻ mua người bán
Chỉ một thứ chẳng ai cần bán mua là nước mắt
Em mặc cả với đời mang nó đi theo
Em nằm bên kia sông
Chợ Cầu Rào chiều hôm nắng tái
Ðến thăm em chẳng cần vội vã
ở nơi đó bao giờ cũng có thể có em
Ðến thăm em rất cần vội vã
ở nơi đó bao giờ cũng không thể có em
Bài thơ chị làm trên đường sang nghĩa trang trong buổi sáng một
ngày sau khi mai táng mà ta gọi là đi quơ mộ.
Không phải chỉ những cây cầu dính dáng đến những người thân mới
làm Nguyễn Thị Hoài Thanh xúc động. Hải Phòng là thành phố của hoa phượng. Tháng
năm rợp trời hoa phượng đỏ (Hải Như). Hoa như mưa rơi rơi (Thanh
Tùng). Tôi nghĩ bài Hoa Phượng của Nguyễn Thị Hoài Thanh là một trong
những bài đặc sắc nhất về đề tài này:
Hoa rong chơi từ mùa thu năm ngoái
Hôm nay nghe phố gọi rủ nhau về
Gió đã mở nắng đã vàng đã chín
Hồn đã say chân đã bước đinh ninh
Trong ngất ngây như có ai cuối phố đợi mình
Ai hát nữa điều gì thao thức lạ
Hoa khờ dại cháy mình trong nắng hạ
Ðể thu về tan tác cả lòng ai
Hình như một kỷ niệm đang trở về cùng chị. Hoa phượng đã làm
chị nhớ lại.
Trong ngất ngây như có ai cuối phố đợi mình
Ai hát nữa điều gì thao thức lạ
Lại nghĩ đến hai câu thơ của Thi Hoàng:
Một đầu đường không có ai trông ngóng
Một buổi chiều không biết cất vào đâu
Ðể thấy những ngày Hoa Phượng ấy của Nguyễn Thị Hoài Thanh là
như thế nào. Rồi chị thương hoa khờ dại cháy mình. Và lại thương ai. Tôi cứ
nghĩ rằng chị tự thương mình. Chị thương chị. Hình như chị đã yêu, tình yêu chỉ
tồn tại có một mùa hoa phượng. Nó đã qua rồi. Cùng phượng. Tôi lặng người khi đọc
những vần thơ của chị viết về nỗi cô đơn:
Sau hồi kẻng tan ca
Tôi ngã vào vòng tay lạnh lẽo của mùa đông
Tan ca. Ra về. Chỉ là lạnh lẽo một mùa đông chờ đợi. Bởi vậy
khi có người hẹn đến chơi, niềm vui tràn lên đầu lưỡi, không có ai để chia sẻ,
mà không thể không trò chuyện. Thì Nói chuyện với mèo:
Mèo ơi! Mèo có biết
Có người sắp đến thăm ta
Thời gian đợi bạn không phải là thời gian vẫn đến và vẫn đi nữa:
Ngày phập phồng như thể có tâm hồn
Ðêm trằn trọc đợi mặt trời thở gấp
Bạn đến. Bạn tâm sự. Rồi bạn đi. Ngay cả con mèo chị nuôi vẫn
quanh quẩn bên chị cũng nhẩy sang nóc nhà hàng xóm với bạn nó. Thì chị tâm sự với
mình. Với cây. Với hoa. Ðiều ấy chị đã quen rồi. Chị thương yêu tất cả. Chị
thương cả con bò người bạn chị dắt đi trên đường phố. Chị chào người bạn chăn
bò vất vả để thêm vào đồng lương hưu ít ỏi rồi chị trò chuyện với bò. Chào bò bằng
một cái nhìn nhưng bò chẳng nhìn đáp lại:
Có lẽ chú tưởng tôi là gốc cây
Với tâm hồn gỗ
Hay ngỡ tôi là cột điện
Trái tim sỏi trộn xi măng
Chị thương móng chân bò dẫm trên đường nhựa, thương đôi tai
bò không được nghe tiếng hát cỏ xanh. Và không chào bò bằng mắt nữa, chị cất
thành lời:
Chú bò ơi!
Chú đi như tù binh
đi về đâu
tới lò sát sinh hay ra đồng ruộng
đi về đâu
tới ngã ba đường tôi với chú chia tay
đi về đâu
tôi biết rồi đấy nhé (...)
Ngưòi rủ rỉ tâm tình là thế. Nhưng bò vẫn đi. Vẫn không chịu
tham gia vào cuộc đối thoại với người.
Người đi. Mèo đi. Bò đi. Có chân là đi. Chẳng chịu nghe chị,
trò chuyện với chị. Thì chị trò chuyện bầu bạn với những gì không đi được. Từ
ngày chuyển về Quốc doanh đánh cá Hạ Long, làm việc súc sạc ắc-quy (một công việc
rất độc hại) chị có một người bạn mới: Sông Cấm, dòng sông có "những cánh buồm
nâu không địa chỉ ":
Sông Cấm ơi! Sông như người bạn mới quen
Thân thiết thế mà sao không hiểu được
Chiều tan ca tôi đi bên dòng nước
Sông với tôi với bóng là ba
Bóng tôi nghiêng với bao la
Sông mang về biển
Bóng tôi còn nguyên vẹn không sông?
(Xin mở một ngoặc đơn: Mong ước mình là mình, điều ấy là của
nhiều người. Nhưng mong ước cái bóng của mình còn nguyên vẹn khi dòng sông đã
mang ra biển thì có lẽ chỉ có Hoài Thanh ).
Hơn mười năm sau, vẫn cái nhìn ấy với sông, với cây và với phố.
Lần đầu tiên thân gái dặm trường, bước chân vào cao nguyên Ðắc Lắc, tối rồi,
chưa có chỗ nghỉ lại không một người quen, chị đã có ngay một người bạn mới: Một
phố nhỏ giữa cao nguyên hùng vĩ. Không những thế chị còn nhận diện được người bạn
này, nó giống ai, bao nhiêu tuổi:
Phố như con của mùa Ðông
Vừa mới sinh ra ban nẫy
Chị tới cao nguyên tìm đường đưa con gái và cháu ngoại vào
sinh sống. Cũng như chị ngày trước, con gái chị đã li dị. Chị đi nhờ xe vào
"trinh sát "rồi ra Hải Phòng trông cháu cho con gái vào gây dựng cơ sở.
Tôi chép lại toàn bộ bài Cháu Liên Chi để thay cho những lời dài dòng
của tôi về thời gian chị đã làm bà:
Bố mẹ chia tay từ đó
Về đây cháu ở với bà
Hai gian chông chênh đầy gió
Sớm chiều bà cháu vào ra
Ðêm gối tay bà cháu hỏi
Mẹ sao đi mãi đi đâu
Thương cháu lựa lời bà nói
Thương bà cháu vuốt tay đau
Cha cháu giờ này ở quán
Mắt ngầu be rượu chênh chao
Tình thương cạn kiệt đáy cốc
Môi khô triết lý khô theo
Mẹ cháu miền Nam xa lắc
Suất tầu dành cả đời bà
Nửa đêm nhọc nhằn tráng bánh
Sáng còn đi chợ đường xa
Bao giờ mẹ cháu gửi ra
Suất tầu cho hai bà cháu
Bấy giờ lại được ra ga
Tay xách làn tay dắt cháu
Bóng bà bóng cháu nương nhau
Miền Nam có thương thì đợi
Tuổi bà mới ngoại năm mươi
Năm ấy chị mới ngoài năm mươi. Năm nay chị đã ngoài sáu mươi
rồi. Không thể tay xách làn tay dắt cháu, bóng bà bóng cháu nương nhau được. Một
tai nạn ô tô đã làm chị tàn phế một tay. Tai nạn xẩy ra ngay Ngã Sáu, gần nhà
tôi. Chị nằm ngất trên đường mưa dầm ngày tết, mặt đường nhựa sền sệt một thứ
nước bùn hoa. Cánh tay dập nát, xương gẫy. Nhưng không thể bó bột vì bùn hoa
dính vào thịt gây nhiễm trùng dẫn đến hoại thư. Hàng ngày bác sĩ làm vệ sinh vết
thương bằng nước, bằng ô-xi già và lấy kéo cắt đi những mẩu thịt nhiễm trùng.
Chị cắn răng chịu đựng. Lại còn nhớ đến một truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan
khi nghĩ rằng mình bị tàn tật cả đời: Cái vốn để sinh nhai. Nhớ lại để
cười. Bởi vì từ nay chị cũng có cái vốn như người tàn tật ấy.
Chị bảo người nhà xin cho người tài xế đã gây ra tai nạn khỏi
bị truy tố " vì người ta không cố ý, người ta cũng khổ như mình ". Chị
gần như không nhận tiền nong quà cáp của bè bạn, của những người thân. " Bởi
vì anh ạ, nợ ân tình làm sao tôi trả được." Ban đêm chị tự phục vụ dù một
tay đã dập nát. (Hai đứa con gái, một mới sinh, một sắp ở cữ, chị bắt chúng phải
về nhà.) Chị bảo chúng mang cho chị mỗi ngày ba cặp lồng cơm và muối vừng để chị
ăn vào ba bữa sáng, trưa, chiều. Nằm gần như bất động, chị xúc từng thìa. Ăn
như một nhiệm vụ, như một người cần hồi phục, cần phải sống. Như một cái gì phải
vượt qua. Những cô con gái nhăn nhó hỏi mẹ:
- Con hỏi bác sĩ rồi. Mẹ không phải kiêng gì cả. Sao mẹ lại cứ
ăn vừng?
- Mẹ thích ăn vừng.
Chị nói vậy. Bởi chị biết các con chị đang rất khó khăn. Chị
thương chúng. Chúng là cuộc sống của chị. Ngày chúng còn thiếu nữ, nhìn chúng cắp
sách đi học hay nằm ngủ bên nhau, một nỗi sợ trào lên trong lòng chị khi chị
nghĩ đến một ngày chúng mồ côi mẹ:
Rồi mai đây khi mẹ vắng ít ngày
Các con ơi đêm mùa thu gió lạnh
Ngủ nhớ đắp tấm vỏ chăn cho ấm
Cửa sổ mở ra cho thoáng gió nghe con
Biết bao lo âu lòng mẹ ngày đêm
Từ khi các con còn là giọt sương trong lòng mẹ
Nếu như mẹ ra đi khi chưa kịp làm bà
Thì đêm đêm mẹ vẫn ru những đứa cháu ra đời trong giấc mộng
Tình thương lớn không thể đo bằng năm tháng (...)
(...) Ðừng khóc con ơi!
Mẹ ra đi như đêm tối
Bước lặng thầm như thể bóng đêm thôi
Mẹ lại về trong tiếng chim rơi
Trong làn khói cơm thơm lửa reo bếp nhỏ
Lời mẹ chuyện trò lao xao trong lời gió
Bóng mẹ ra vào trong bóng lá xanh tươi
Có những món nợ nần mẹ phải trả bằng đời
Một bài thơ về cầu xi măng
Chiếc cầu tuổi thơ đưa mẹ qua con sông nhỏ
Một cây mướp con trồng
ngọn trườn lên cửa sổ
Lá tay xinh quấn quít song tre.
Thật may. Chị nghĩ. Bánh xe chỉ lăn qua bắp tay. Nếu nó lăn
thêm một chút nữa sẽ đè dập ngực chị. Chị sẽ chết. Và nếu vậy các con chị thừa
hưởng những gì ở chị?
Không có gia tài để lại cho con
Chỉ có nước mắt rơi và ngày vui chưa trọn
Và thơ cười
đi suốt những đêm đau
Nguyễn Thị Hoài Thanh đã xuất viện. Chị vẫn sống. Vẫn vào Nam
đi mót. Vẫn ra Bắc nâng giấc phụng dưỡng mẹ già chín mươi tuổi bằng một tay duy
nhất còn lành lặn. Chị sống dai dẳng. Hài hước. Khoẻ mạnh. Và vẫn làm thơ. Ðời
Nguyễn Thị Hoài Thanh chưa lúc nào yên tĩnh. Tuy vậy chị vẫn có thời gian nghĩ
đến Kiếp sau:
Kiếp sau nếu được làm chim
Tình thương dang dở bay tìm nơi nơi
Giương cung
đừng nhé người ơi
Vết thương thuở trước luân hồi còn đau.
CHÚ THÍCH:
[°] Tên
một tiểu thuyết của Simonov
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét