Thứ Năm, 25 tháng 11, 2021

Khi nhà toán học bắc chiếc cầu thơ

Khi nhà toán học bắc chiếc cầu thơ...

Kính tặng Giáo sư Tiến sĩ HOÀNG NGỌC HIẾN
nhân bát tuần thượng thọ của người.
Sydney ngày 20-6-2010
TDH.

Rõ ràng là khoa học - Cái mà Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Quốc Hán đang hành nghề trên mục giảng đường đại học thì không tin bất cứ tôn giáo nào, nhưng thơ ca khám phá con người đưa tâm linh gặp tâm linh của anh lại đang làm cho con người say đắm. Tôn giáo với những tín điêu mông muội ru ngủ làm tê dại con người. Văn học và tôn giáo đều có khả năng làm cho chúng sinh đam mê, song hệ quả của đam mê hoàn toàn khác nhau. Thơ Lê Quốc Hán thấm mặn nước mắt trần gian trước nỗi đau nhân tình hòa tan chút yếm thế của Lão Trang, bừng phát bởi khát vọng của chúa Kitô, pha mùi giác ngộ của Phật Thích Ca. Thấm thía lẽ huyên vi của tạo hóa, dịu dàng mà dữ dằn, thâm trầm mà bạo biệt, lạ mà quen, tân kỳ mà cổ điển, thơ Lê Quốc Hán kiệm lời, dồn nén, bất ngờ, kỳ thú, có sức bật, lan tỏa, đi được đến tận cùng cái thắc mắc trước nỗi đau của Con Người.
Để nối hai bờ suy tưởng tâm linh và vũ trụ, nhà toán học Lê Quốc Hán (*) đã bắc một chiếc cầu thơ.
Thơ Lê Quốc Hán là tiếng nói nhân danh một kiếp người trước đấng toàn năng, là mối giao tiếp vô hình của tâm linh với các thế lực siêu nhiên. Nhà thơ gồng mình gánh nặng nỗi mình nỗi đời. Lê Quốc Hán ý thức rất rõ con người chỉ là một hạt bụi nhỏ bé được Chúa Trời thổi vào đó ngọn lửa linh hồn, trở thành vật thể đầy trí lực và linh cảm để suốt đời lang thang kiếm kiếm tìm tìm trong cõi thiên hà bao la, tâm linh giao hòa với muôn loài và tiên cảm những gì sắp xảy ra. Vua Xalômông phán: "Một cái nhỏ xíu nhất của thế giới đều chứa vô biên". Trước cái vô hạn của trời đất và cái mong manh hữu hạn của kiếp phù sinh, muốn tồn tại, con người cần phải nương vào một điểm tựa tinh thần nào đó? 
Vừa chợp mắt đã mơ
gặp mình nghìn năm trước...
Sẩy chân sa xuống vực
gặp mình nghìn năm sau.
(Giấc mơ)
Ta thử xem "hai cái vô cùng tận" của Paxcan là vũ trụ và tâm linh chứa trong Lê Quốc Hán có những gì?
Vũ trụ rộng lớn tùy theo sức tưởng tượng của ta khi ta mở rộng vô tận các phạm vi vũ trụ. Nó bát ngát trước cái yếu đuối của con người, nhưng lại nhỏ bé trong tầm tư duy của ta. Thực ra, vũ trụ là tâm ta, tâm ta là vũ trụ. Trong tịnh lữ, giữa tâm ta, vũ trụ tạo ra sự phán xét. Thịnh - suy, tròn - khuyết, mất - còn, hội tụ - phân ly, bại - thành, "hoa hồng và gai sắc - mọc chung trên một cành"... Hai mặt đối lập như một nghịch lý bất di bất dịch tạo ra cuộc giao tranh không bao giờ chấm dứt giữa Địa Ngục và Thiên Đàng. Trong cõi mông lung thiên địa đó, Lê Quốc Hán tha thiết cất lời khấn nguyện mong tìm cho mình một lời giải đáp về một chốn nương thân yên ổn giữa bến vô cùng.
Trong lúc ngửa mặt lên trời tìm kiến các vì sao, nhà toán học kiêm nhà thơ tài năng này đã nhìn xuống mặt đất quan tâm đến hết thảy mọi cái đang diễn ra dưới chân. 
Lê Quốc Hán thừa hưởng ở toán học sự ngay thẳng trong lý trí, còn chất thơ làm ngay thẳng các đức hạnh. Toán học đòi hỏi rất nhiều ở trí tưởng tượng bay bổng. Tôi hoàn toàn tán thành quan điểm của nhà nữ toán học người Nga Covalepscaia khi bà cho rằng không thể trở thành nhà toán học chân chính nếu trong tâm hồn anh ta không chứa sẵn một nhà thơ. Nhà thơ không phải là kẻ tùy hứng bịa đặt những điều vu vơ, phi lý. Nhà thơ phải là người phát hiện được cái mà mọi người bình thường không nhìn ra. Nhà toán học cũng vậy thôi. Toán học thổi hơi thở cảm xúc trong trắng, trực tiếp nhất về cho chân lý. Toán học thuần túy cũng là một thứ tôn giáo. Ý tưởng và sự thực là hai mặt của một tôn giáo thật sự. Phơbách khẳng định: "Tôn giáo lấy cái thiêng liêng làm chân lý, triết học lấy chân lý làm thiêng liêng". Nhà khoa học suốt đời đi tìm chân lý, quý trọng chân lý hơn bản thân mình. Khoa học dạy hoài nghi, chỉ cho ta biết mình còn mông muội, và nó đẩy lùi các giới hạn của sự kỳ diệu. Trong thế giới văn minh hiện đại, khoa học đang dồn đuổi các tôn giáo. Yêu khoa học chính là yêu sự thật. Tính trung thực là phẩm tiết cơ bản của nhà khoa học. Còn tín ngưỡng lại là một phẩm tiết khác, nó là cửa ngõ ra vào của mọi đức tính.
Thấm nhuần các giáo lý Thiên Chúa giáo, Lê Quốc Hán nhìn nhận con người và thế giới trong mối tổng hòa chằng chịt của nó, để vươn lên sống đẹp Đời tốt Đạo. Thơ anh đụng đến nhiều mảng đời thường, lý giải cuộc đời khá biện chứng nhưng lại đẫm sắc màu tôn giáo về kiếp người, về hạnh phúc, nỗi khổ đau, đặt vị trí con người trong vòng tay yêu thương, sống và để cho đồng loại cùng được sống. 
Nhắm mắt nhìn xuyên ba cõi
mở ra bụi thế mù lòa
(Ngộ)
Lê Quốc Hán bời bời nhiều nỗi lo. Cái ưu thời mẫn thế trước tiên là lo thời gian đang phi nước đại về cõi tận thế. Làm sao lại không lo lắng bồn chồn được khi “Buổi sáng ngày đi nước kiệu - Xế chiều vó ngựa tên bay - Tiêu phí nửa đời chợt hiểu - Nửa đời còn lại gang tay” (Ngày). Quỹ thời gian ngày một co lại, cỗ máy thời gian phóng với vận tốc chóng mặt, khiếp đảm “Thời gian như chuyến tốc hành - Mang theo lá đỏ và anh trở về - Tóc xanh vừa lỗi lời thề - Thoắt thành mây trắng cuối hè bay ngang” (Bài thơ thời gian). Nỗi sợ hãi bao trùm nghiệt ngã “Trẻ ngỡ mình nặng nhất - già thấy mình nhẹ tênh - Thời gian như rìu sắc - Đẽo bạc cả đầu xanh” (Ngẫm). Anh thương cõi đời “Nép dưới đất đời gọi mình là dế - Lên cành cao ta hóa chú ve sầu” (Dâng). Anh đau kiếp người ngắn ngủi “… chớp làn mi - kiếp này lỡ nhịp mong gì kiếp sau” (Cầu). Ngước mắt nhìn lên, thi sĩ thấy “Phù du sớm nở tối tàn -  vẫn dài hơn kiếp hồng nhan giữa đời” (Phù dung); cúi đầu xuống, nhà giáo “ngậm ngùi thay kiếp phù du - hương hoa đầu sớm sa mù cuối đêm” (Thu). Sống không cẩn trọng là tiêu đời ngay “ Bấm nhầm một đốt ngón tay - Trăm năm rút lại một ngày. Hư không”. (Vòng đời). Chúng ta đang sống đây nghĩa là ta đang chết, Lê Quốc Hán “Đêm nào cũng mơ thấy toàn đá - nhẹ nhàng đặt xuống ngực tôi -Trái tim một thời băng giá - bỗng nghe ran nỗi đau đời” (Đá). Lê Quốc Hán bảo “sống đẹp một đời khó nhất: cái chết”. Bởi thế, nhà thơ thật sự lo cái sống, hãi cái chết: 
Người còn xanh cỏ trên mồ
Ta còn bạc tóc đến giờ lâm chung
Thuyền chưa neo bến tương phùng
Trái tim nửa đập, nửa ngừng vì đau.
(Tình ma) 
Lê Quốc Hán nhận thức được rất sáng rõ chuyện địa ngục và thiên đàng, nó hiện diện ngay ở trong tâm con người chứ không phải ở ngoài vào. Càng sống, Lê Quốc Hán càng nghiệm ra “Cuộc đời nửa thực nửa hư - bàn tay nắm chặt mà như mở rồi” (Phù du). Phải sống thực chứ không ảo tưởng tìm kiếm ở chốn xa xăm “Những câu chuyện chẳng thể tìm trong sách - vẫn trẽn trơ có mặt trên đời” (Pattya). Trong “Cuộc đời sớm rủi chiều may - bây giờ cát sỏi - mai ngày kim cương” (Ngỡ 2). Lê Quốc Hán không khỏi thở dài hoang mang “Ban ngày sấp ngửa sống - Sấp ngửa một bàn tay - đêm về tìm lại bóng - giật mình ngỡ bóng ai” (Tự  thán). Lê Quốc Hán tỉnh táo nhìn nhận “Mong manh không hoàn thiện - là hạnh phúc con người” (Như). Sống được ở trên đời thật khó, những tập tục, thành kiến, quyền uy vây bủa con người “Những tị hiềm muôn kiếp - rụng đỏ bờ cô đơn” (Đoản khúc). Đến bên tượng con vật đầu người mình sư tử ở Ai Cập - biểu tượng kỳ bí nhất về Con Người, Lê Quốc Hán đăm đắm hỏi “Sáu ngàn năm phù du, tìm sao ra thật giả” (Viết bên tượng nhân sư). Đến thăm Công viên Thế giới ở Bắc Kinh, giữa một thế giới kỳ vĩ thu nhỏ, anh nhận chân ra “Lịch sử rút ngắn - dăm cuộc bể dâu - đọc đến trắng tóc - chưa xong trang đầu”. Đứng trước một đại kỳ quan khác, anh cũng chỉ thấy “Xa trông Vạn Lý Trường Thành - mong manh sợi chỉ thêu quanh vòm trời – Bao nhiêu thế kỷ vèo trôi - vẫn nguyên vẹn chuyện khóc cười thế gian” Chuyện khóc cười gì vậy ? Đó là bước lặp lại “máu người vẫn đổ vì tay con người”. Viếng Cố Cung, trước nguy nga tráng lệ xa hoa lầu son gác tía đầy quyền lực, nhà thơ cứ thắc thỏm tìm kiếm “hình như cái đẹp trong thường  ẩn mình lánh mặt”.
Cuộc đời này thật lắm yêu thương nhưng cũng quá nanh nọc xảo trá, phản trắc “Lưỡi phun nọc rắn đùa chơi - Bẻ hoa rồi dạy cuộc đời yêu hoa”. Anh phải thường trực âm thầm sống trong tâm trạng “Khi vui ứa lệ, khi cười đớn đau”. Đành thế, trái đất vẫn vận hành theo lối đi riêng của nó, và người đời vẫn tha thiết âm thầm hy vọng “Dù tốt đen tốt đỏ - vẫn mơ hồi nhập cung” (Quẻ). Dẫu vậy, nhà thơ đinh ninh khẳng định trong một điều ước nhỏ nhoi duy nhất “Đừng lo trên mộ hậu thế khắc gì - mong đời quá ngọ bạn đừng thưa đi” (Thơ hai câu) Buồn lo ngổn ngang trăm thứ, anh còn lo cái đẹp truyền thống đã định hình bao đời giờ bị phá vỡ bởi cuộc sống công nghiệp trong cơ chế thị trường xô bồ hỗn tạp: 

Vườn xưa bướm chẳng buồn bay

ngõ xưa ong chẳng còn say lối về
Nhẹ tênh tênh một lời thề
hoàng hôn sập xuống phút kề giao môi
Trầu cau ngã giữa lòng vôi
có còn rỉ máu như thời xa xưa?
(Cũ) 
Khi con người thông thương đường đến muôn nơi, lên được cả cung trăng, nhà thơ đau đáu "Sao đường ở giữa thế gian - Người không mở được lối sang với người" (Đường). Con người sống khép kín lòng mình như những ốc đảo chơ vơ giữa đại dương. Ai đánh mất nơi Thiên đường chính là tự chuốc lấy niềm đau nơi Địa ngục. Xưa hái hoa hồng, Lê Quốc Hán bị gai đâm phải tay chảy máu, nay hái hoa hồng anh biết tránh gai đâm, nhưng làm sao nhà thơ lại “Úp mặt xuống chùm gai tua tủa - khóc tim mình không còn chút nhói đau”? Giữa cuộc vật lộn mưu sinh trong cơn xoay lốc kiếm tiềm đã tạo ra bệnh vô cảm làm tê liệt hồn người mất rồi! Từ chính bản thân mình, Lê Quốc Hán quyết khám phá tâm địa con người theo cách” Đi giữa đất trời đường thẳng ngắn nhất - Đi vào lòng người theo đường dích dắc”. Để thanh lọc mình, Lê Quốc Hán thắc thỏm sám hối thành khẩn, tự giác xưng tội vì lầm lỗi của mình hay tội lỗi của người đời? 
Xin đừng mở vội ngày ơi
dám đâu  nhìn thẳng mặt trời mai sau
Trót đem vàng trộn vào thau
cậy màn đêm gói nỗi đau chôn mình.
(Sám hối)
Sống giữa cuộc đời, ta phải mang gánh nặng ân sâu nghĩa cả, nợ nần. Lê Quốc Hán thật trân trọng và tìm mọi cách trả món nợ đời không cách chi trả nổi này:
Cuộc đời vay trả, trả vay
thời gian đặt nặng vào tay chất chồng
Nợ từ thuở mới lọt lòng
sữa thơm của mẹ, máu hồng của cha.
Nợ từ một điệu dân ca
nợ quê hạt gạo phù sa  lở bồi.
Nợ em tần tảo một đời
nợ con một ánh mắt cười thơ ngây.
(Nợ)
Đức Phật dạy đời là bể khổ để khuyến thiện. Đức Chúa Lời lấy địa ngục răn đe cái ác. Trộn lẫn hai triết thuyết làm hạt nhân tư tưởng, Lê Quốc Hán lên tiếng cảnh tỉnh con người “Trót sa địa ngục đọa đày - vùi trong nước mắt chuỗi ngày hư vô”. 
Thầy Mạnh Tử bảo “Nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng Tuân Tử bác lại “Nhân chi sơ tính bản ác”. Thiện ác đối đầu trong mỗi con người. Thiện ác giao tranh quyết liệt để sinh tồn. 
Người ơi! Sao nỡ giận người
Trắng đen một sắc khóc cười một âm
Mẹ sinh ra vốn thiên thần
Quỷ Sa tăng trút bụi trần lên vai
Héo hon một mảnh hình hài
Nào ai kịp trả cho ai vẹn tròn
Mai sau thịt nát tình còn
Sá chi hạt bụi cứa mòn gót chân.
(Gửi bạn) 
Không có nghệ thuật nào cao đẹp hơn lòng tôn quý con người. Bằng cách “Muốn hiểu con người mở to đôi mắt - Muốn nhìn rõ mình nhắm mắt rõ nhất”, ngộ ra khá nhiều điều về thân phận con người, “Người ta tìm nửa của mình - Tôi đi tìm mãi dáng hình riêng tôi”, Lê Quốc Hán luôn vươn lên sống thanh sạch không để sa vào những tục lụy đời thường “Người đi dạm ngọc mua vàng - tôi về chuộc cảnh thế gian khóc cười… - Người đi tích bạc góp tiền - Tôi về gắng giữ nét riêng hồn mình” (Mua). Anh luôn chủ động trước mọi nghịch cảnh “Gặp phong trần gội phong trần - xanh xao hồn dại mơ phần thanh cao” (Nẻo về). Tuy vậy, giữa cái đen bạc của nhân tình thế thái, nhà thơ trân trọng hiểu đúng phẩm giá và tin ở năng lực của Con Người: 
Thiêng liêng nhất: linh hồn
vĩnh hằng nhất: tình yêu
phù du nhất: của cải
Nhỏ bé, bình thường, lớn lao, vĩ đại
Nếu không có Con Người vạn vật chẳng sinh sôi
Nếu không có con người trái đất hóa mồ côi.
(Con người) 
Đức hy sinh dâng hiến cho đời của Con Người thật cao cả: 
Chốn phù du ai yêu lá xác xơ
rơi xuống đất vẫn lết mình về cội
chờ gió lạnh từ phương Bắc tràn tới
tự thiêu mình gửi tro ấm dâng cây.
(Hiến tế) 
Và, được làm Người ở giữa thế gian, nhà thơ cũng chẳng mong gì hơn ngày mãn thế “Trang  sách ngày xế bóng - chiếc gậy lúc về già - tiếng chuông chùa khãn giọng - tiễn hồn mình đi xa”.
Lê Quốc Hán quả là người ham sống, cứ là cuống quýt, vồ vập “Trái đất ơi ngược vòng quay - Cho ta trở lại cái ngày đầu tiên”. Nhà thơ thường sống bằng hoài niệm. Anh không thể nguôi ngoai về mối tình đầu dang dở để lại vết thương lòng khá sâu và không bao giờ hóa giải nổi. Anh đã thành tâm tự thú: 
Giật mình trong cõi luân hồi
Biết đâu kiếp trước chính tôi phụ  nàng
(Luân hồi) 
Dằn vặt  với lòng mình, Lê Quốc Hán trở lại ngôi trường xưa sơ tán, góc vườn cỏ đã mọc xanh um che kín chỗ hai đứa ngồi tình tự “Hình như nước mắt ai đêm qua chảy - để bây giờ hóa kiếp giọt sương rơi” (Hóa kiếp). Nhà thơ sực tỉnh, thì ra tình yêu cũng chỉ là một trò đùa của tạo hóa “Sợi tình yêu thả vô hình - mong manh nối những trái tim dại khờ” (Nối). Dẫu ngọt ngào, tình yêu ấy vẫn chứa chan vị đắng, hể hồi tưởng là lòng lại tái tê. Đầy trắc trở gập ghềnh, yêu đương ngắn ngủi, than thở dài lâu: 
“Ý nghĩ em chi chít mọi nẻo đường - sao nẻo nào cũng đưa anh về ngã năm ngã bảy - Ôi ! Nếu tim em chỉ mở trời xanh không đáy - hỏi tình anh biết hạ cánh phương nào?”
(Đáy). 
“Xin chúa trời hãy rộng lòng tha thứ - Khi chúng con muốn vươn tới gương người - Dao tình yêu cắt hạt bụi làm hai - thổi vào đó một linh hồn bé bỏng”
(Hạt bụi)
Thơ tình Lê Quốc Hán có cái giọng khổ lụy “Lời yêu đậu giữa làn môi - Thuyền tình đã cuốn về khơi mịt mùng” (Một thoáng); có cái đắm đuối “Sóng xanh tung vó phi nghiêng ngửa - bỏ mặc thuyền tình chếnh choáng say”; có lời tự bạch bổi hổi tương tư “Xa em mới độ vài con nước - Lòng đã dào  lên sóng bạc đầu” (Sông La); có lời dặn đợi đầy yêu thương “Xin đừng ướt đỏ đôi mi - Kẻo mai ngập hết đường đi lối về” (Muộn); có hy vọng bếp bênh “Phút gặp nhau mầm đau khổ vội gieo - Giờ ly biệt lại hẹn mùa nẩy lộc” (Hạt bụi). Nợ tình đã mắc, khối tình trọn kiếp chưa trả được, cái dằm cứ nằm nghẹn giữa tim. 
Mắt nai ai vẽ nên quầng
trái tim khuyết nửa mà không hẹn tròn
Lời thề dạt phía đầu non
dáng hình sóng vỗ vẹt mòn bến sông
Xin người mở cửa hư không
cho tóc thay lá, cho giông thay mùa.
(Xin) 
Những vết thương do tình yêu gây ra dù không làm người ta tử thương nhưng chẳng bao giờ chữa lành được. Người khát tình yêu nhất là người bị tước mất người yêu.

Thôi em cứ việc đi tìm

Cho môi khỏi héo cho tim khỏi tàn
Biết đâu cuối bến trần gian
Người xưa vẫn đợi em sang một bờ.
(Dỗi)
Muốn giãi bày những ẩn ức tâm nguyện, Lê Quốc Hán thường nhờ ngoại cảnh để bày tỏ. Anh  mượn nhiều nhất ở thiên nhiên. Hệ thống hình tượng được nhà thơ dùng khá đậm là sương, gió, con thuyền, dòng sông, bến bờ, niết bàn, địa ngục, cõi tiên, cửa Phật...
Vì sao anh yêu sông đến vậy ? Nguyên do lòng yêu sông nước của Lê Quốc Hán là thế này đây “Cha tôi sinh bên dòng sông Ngàn Sâu, nơi có thác Vũ Môn ngẩng cao đầu hùng vĩ - Mẹ tôi sinh bên dòng sông Ngàn Phố trong xanh, chảy êm đềm như dáng đi của  mẹ…” và  “tôi sinh ra từ giấc mơ, nơi hai con sông hòa vào nhau trước khi về biển cả”. Có lẽ vì thế mà hình tượng dòng sông trở thành nguồn nước nuôi sống nghệ thuật thơ anh. Hễ gặp sông là như anh gặp lại chính mình. Đây là con sông Cả ở quê nhà “Giang Đình bến cũ lau thưa – Sông Lam sóng vỗ nát bờ cỏ hoang” (Nẻo về). Vào Huế gặp sông Hương, con sông chảy lững lờ trong hoài niệm “Ầm ầm tiếng sóng - tan trong thinh không - ào ào tiếng sóng - chìm trong mênh mông - nghìn năm sót lại - điệu hò trên sông” (Âm thanh). Sau này, khi bàn chân đã đi khắp thế gian, gặp những dòng sông ở xứ lạ quê người anh vẫn thấy cái chung “Các dòng sông không chỉ chảy theo một hướng. Có dòng sông từ Tây đổ xuống, có dòng sông từ Nam cực chảy lên. Nhưng tất cả các dòng sông là bạn hiền giúp con người viết  nên lẫy lừng bao trang sử” (Khúc hát về những dòng sông). Lê Quốc Hán đã nhìn xuyên suốt được cả những dòng sông tưởng tượng trong cổ tích “Cầu Ô vừa mới bắc qua - Vụt nghe lụt cuốn Ngân hà trôi trăng” (Tiễn thu). Nhà thơ còn ám ảnh với dòng sông thời gian. Cảm thức thời gian đã thành những ký hiệu học tạc vào tâm linh “Sông thời gian uể oải - sóng thời gian vật vờ - Linh hồn không bánh lái - trôi ngược dòng hư vô” (Ngã). Lê 
Quốc Hán không vẽ cảnh thuần túy mà chỉ nhờ cảnh để giãi bày linh nguyện,  tạo chiều sâu tâm trạng “Tràng Tiền nhịp thấp nhịp cao - Nhịp ra thả nhớ nhịp vào thả thương - Chiều tà nghe thỉnh hồi chuông - Linh hồn rụng xuống dòng Hương ướt chìm”. Thăm cố đô Huế, nhà thơ dệt được bức tâm cảnh rất có hồn “Hạt cát tuổi thơ - lớn thành núi Ngự -  Hương giang mộng  mơ - neo hồn viễn xứ - Chuông chùa Thiên Mụ - đổ thành tòa sen - Vầng trăng thôn Vỹ - cháy thành mắt đen” (Ảo). Lê Quốc Hán nhìn Đà Lạt mới mẻ khác hẳn cách nhìn của các nhà  thơ  khác “Prenn thác trắng xòe tay trắng - vuốt mái tóc dài Lang Bian”… “Mình ai lẻ bóng tim dồn dập – thoáng thấy hình ai dưới đáy đồi” (Đà Lạt); những là “Mắt đen rơi ướt lời chào - rượu dâu tằm rót lệch vào tứ thơ”; những là “Tóc rơi nhuộm trắng đêm rằm - Sông xưa nghẹn đổi mấy lần phù sa” (Sông xưa); những là “Một chiếc lá rụng xuống - Cây buồn quên nở hoa - một ngôi sao rụng xuống - lệ rơi vơi Ngân Hà” (Rụng)… Ở đây những tiểu xao nghệ thuật thơ của Lê Quốc Hán là tín hiệu giúp chúng ta bước vào thề giới chưa được biết. 
Bốn mùa xuân hạ thu đông luân chuyển, Lê Quốc Hán cảm thu sâu hơn cả “Lá vàng rơi lúng liếng - Cùng mùa thu sẻ chia” (Tiễn). Với anh, mùa thu chỉ đơn giản thế này “Cánh cò sà xuống tóc xanh - Mây in đáy mắt là thành mùa thu” (Thu). Thu không chỉ thơ mộng mà còn “Nửa đau lá rụng lạc vườn - Nửa sầu trước bão cánh chuồn bơ vơ” (Cảm thu). Cõi lòng thi nhân được xoa dịu “Neo mùa thu ở bên thềm - đón sương rơi xuống cho mềm nỗi đau” (Tiễn thu); “Câu thơ nào viết vội - run dưới chiều heo may - câu thơ nào cứu rỗi - nương bóng thu hao gầy” (Sám hối thu). Thu với những mất mát, cách xa “Mùa thu mùa của chi ly - nên con sông chảy chẳng khi nào ngừng” (Tiễn thu). Lê Quốc Hán ký họa một nét thu khác rất Lêvintan “Lá vàng rải nắng sau mưa - Nắng vàng dát áo bào xưa. Ráng trời - Lâu đài đổ bóng. Sông trôi - Nghìn thu thu lại trong đôi mắt gầy” (Nét thu). Anh bàng hoàng thảng thốt “Giật mình một tiếng chìa vôi hót - trong đám cúc vàng lốm đốm thu” (Vô đề). 
Trong cuộc “hành trình không biên giới", đâu chỉ "mòn tay giở Phúc Âm" là tìm ra được lời đáp cho cuộc sống. Cõi phù sinh chỉ là ảo giác, lênh đênh bèo dạt mây trôi, khiến thơ Hán nặng trĩu buồn. Anh không buồn vì sinh kế khó khăn hay những chuyện thế sự lặt vặt như nhiều người làm thơ khác, thơ Lê Quốc Hán cháy bỏng khát vọng về nguồn với tầm triết lý mang tín ngưỡng tôn giáo và khoa học sâu sắc. Nỗi sợ hãi trước cái chết quẫn bách tạo nên lời khấn nguyện linh thiêng. Vonter đã chỉ ra "Khám phá chân lý và thực hành tốt điều đó là hai mục tiêu quan trọng của triết học". Xưa, triết gia chỉ mổ xẻ chứ không điều trị, bởi thế nó chỉ an ủi con người bằng các xác tín vô ích của nó. Nay, nhà triết học phải tìm cách cải tạo thế giới, phát giác bề chưa thấy, ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa như Chế Lan Viên thường bảo. Triết luận chính là một cách hoài nghi để tiếp cận với chân lý. 
Cuốc đời này là gì? Thực chất nó chỉ là: 
Như giọt mưa mùa hạ
chưa chạm đất đã khô
Như que diêm trao lửa
thoắt biến vào hư vô.
(Như)
Đứng trước cái bao la của vũ trụ, cái hạn hẹp của thời gian, cái mong manh của kiếp người, Lê Quốc Hán ưa triết lý. Kể ra, triết luận chẳng có gì khó, cái khó là làm sao đừng để những duy lý cũ chen ngang giữa ta và sự thật. Tiếp cận với triết học, con người sẽ trở nên vô thần, nhưng nếu thấm nhuần vào triết học nó sẽ dẫn ta đến với tôn giáo. Các tư tưởng không phải là vật trang sức, nó cần được phơi ra trước ánh sáng. Con người phải am tường hiểu rõ điểm mạnh, yếu của bản thân. Bởi vậy, không có một quan điểm nào hoàn hảo tới mức nó hoàn toàn đúng hay hoàn toàn sai. Bức tường định kiến cũ kỹ phân cách giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật, giữa thế giới tinh thần và thế giới vật chất, giữa hữu hình và siêu hình đã đổ sụp trước sự kiểm chứng khắt khe của thực tiễn cuộc sống. 
Ở những văn nhân có nhân cách, tâm hồn nghệ sĩ thường bắt gặp triết gia. Là con chiên "chẳng đắm mê Thiên Đường", là Phật tử "Niết Bàn không màng tới", triết luận của Lê Quốc Hán không khô khan, đầy thổn thức, chứa chan vị đời trong một giọng nói giản dị và mềm mại:
Ngu ngơ chạm phải ao làng.
Sen chưa kịp hái đã tàn trên tay.
(Bài thơ thời gian).
Ở tuổi trí thiên mệnh, với thơ, nhà toán học đã dùng trí tuệ của mình bắc cầu nối hai bờ xa thẳm tâm linh và vũ trụ. Lê Quốc Hán đã phản tỉnh được những vấn đề cốt lỗi của nhân loại, cái mà loài người vẫn loay hoay chưa ý thức ra được: nhận đường! Cuộc đời thì rất thật, nhưng thực ra nó chỉ là một ảo ảnh:
Cỏ xanh đang đợi trước mồ
Thương tôi tôi vẫn mơ hồ kiếp tôi.
Hình hài cát bụi phiêu lãng suốt hai tập thơ, làm bầm dập cả cõi lòng "Nụ cười và nước mắt - chia đều cho em anh". Thơ Lê Quốc Hán là cái nhiệt kế nhạy cảm trước mưa nắng đời người. Những vần thơ "vụng cải rơi kim" của anh mở lòng ra với mênh mang tình người, biết yêu ghét đúng mực từ cái "tôi" đơn lẻ", nhỏ nhoi của riêng mình.
Tóc xưa xanh một màu mây
Nay thành mưa trắng rơi đầy áo nhau
(Muộn)
Và thế là, Lê Quốc Hán đến với thần Lưu Linh như một dẫn chất đưa con người hưởng một thú vui trần thế hơn tìm lãng quên như bao gã Chí Phèo khác. 
Chén này xin gắng gượng thêm
cho đau khổ lặn cho phiền muộn tan
Mai sau tới cõi Niết Bàn
biết đâu còn được say tràn cung mây…
Thương nhau như bát nước đầy
Có say giờ cũng chỉ say với mình
Than ôi! Cái giống hữu tình
Thịt xuông dẫu nát, tâm linh mãi còn.
Rượu hồng tưới ngọn cỏ non
mai sau trĩu quả bồ hòn. Ngậm chung.
(Mời rượu thanh minh) 
Tỉnh và mơ, thực và ảo, trước “Rượu trần vừa ngọt vừa cay - ước gì tít một lần say. Ước gì” (Khoảng riêng tôi), Lê Quốc Hán rất thật tình với mình và cởi mở cùng bạn đọc. "Trót sinh ra để yêu thương - xòe tay nhặt hết hạt buồn gần xa". Tâm hồn anh lắng đọng, nhỏ nhẹ và buồn thấm cất lên lời độc thoại. Giữa cái lãng đãng cốt cách Đường thi, cái sương khói nhạt nhòa của dân ca xứ Nghệ ở các bài thơ, ta bắt gặp sự tỉnh táo đọng lại ở nhiều câu chữ.
Phải thừa nhận rằng tính linh Lê Quốc Hán luôn hướng tới cái đích cái đích cao cả tuyệt mỹ là Đấng Siêu Nhiên, nhưng lại bị chi phối bởi hai tôn giáo: Thiên Chúa giáo từ phía bà mẹ và Phật giáo từ phía người cha. Thi tập Lời khấn nguyện nghiêng về phần nửa thứ nhất khi anh đi tìm bến bờ? thi tập Bến vô cùng phản ánh phần nào nửa thứ hai khi anh tìm về cội nguồn này chăng? Còn tập Mạc khải, và là sự dung hòa hai ý tưởng trên để làm hành trang khởi sự đi xa? Rõ ràng là khoa học - Cái mà Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Quốc Hán đang hành nghề trên mục giảng đường đại học thì không tin bất cứ tôn giáo nào, nhưng thơ ca khám phá con người đưa tâm linh gặp tâm linh của anh lại đang làm cho con người say đắm. Tôn giáo với những tín điêu mông muội ru ngủ làm tê dại con người. Văn học và tôn giáo đều có khả năng làm cho chúng sinh đam mê, song hệ quả của đam mê hoàn toàn khác nhau. Thơ Lê Quốc Hán thấm mặn nước mắt trần gian trước nỗi đau nhân tình hòa tan chút yếm thế của Lão Trang, bừng phát bởi khát vọng của chúa Kitô, pha mùi giác ngộ của Phật Thích Ca. Thấm thía lẽ huyên vi của tạo hóa, dịu dàng mà dữ dằn, thâm trầm mà bạo biệt, lạ mà quen, tân kỳ mà cổ điển, thơ Lê Quốc Hán kiệm lời, dồn nén, bất ngờ, kỳ thú, có sức bật, lan tỏa, đi được đến tận cùng cái thắc mắc trước nỗi đau của Con Người.
Nhà thơ Hoàng Hưng suốt đời đi "tìm mặt" trong tuyệt vọng, Lê Quốc Hán cũng đi tìm mặt mình. Khó lắm. Anh chỉ mong "Mai sau từ giã cõi người - biết đâu tìm được chính tôi bây giờ"?
Xuất thân trong một gia đình trí thức, cha chú của Lê Quốc Hán đều am hiểu văn hóa phương Tây, đặc biệt sành văn học Pháp. Mẹ anh là một con chiên sùng đạo. Người lớn lên bằng sữa mẹ, ca dao, thơ Nguyễn Bính, kinh Sấm truyền, kinh Phúc âm, và những tủi nhục bất công chồng chất.
Vốn là một thần đồng toán học, Lê Quốc Hán đã phải chịu nhiều long đong lận đận suốt cả thời niên thiếu bởi "chủ nghĩa lý lịch" khắc nghiệt. Năm học lớp 7 (1965), anh đoạt giải học sinh giỏi toán toàn miền Bắc. Lớp 8 thi vào chuyên toán Đại học Tổng hợp đạt điểm 20,5/20, nhưng địa phương hẹp hòi không cho cắt hộ khẩu chuyển đi. Lớp 9 anh đoạt giải Nhất cuộc thi toán do báo Toán học và Tuổi trẻ tổ chức (Từ đó, Lê Quốc Hán đã gắn bó chặt chẽ với tờ báo này cho đến ngày nay). Lớp 10, anh đi thi học sinh giỏi cả hai môn văn và toán ở tỉnh, nhưng bị can thiệp của địa phương nên bài không được chấm. Giống như mười năm "đóng cửa tạ sách" của Phan Huy Chú, Lê Quốc Hán đành phải cam chịu cày ruộng ròng rã suốt mười năm trời (!?). Hán chỉ may mắn khi gặp được Giáo sư Lê Văn Thiêm lúc đó (1976) là viện trưởng Viện Toán học Việt Nam phát hiện ra, thưởng vì có kỳ tích trong việc nghiên cứu và giảng dạy toán sơ cấp, đã đề nghị đặc cách cho anh vào thẳng Đại học Sư phạm Vinh không qua kỳ thi chung. Lê Quốc Hán học Đại học và Thạc sĩ đều giỏi, đứng thủ khoa. Nhưng rồi mãi đến tuổi 42, trường mới mở khóa nghiên cứu sinh đầu tiên, anh được cử đi học, bảo vệ thành công học vị Phó Tiến sĩ. Các lĩnh vực khác không nói làm gì, về toán học hiện đại, tuổi ấy là quá muộn để sống với nó. Chính trong những năm tháng sống mất thăng bằng đó, Lê Quốc Hán đã đến với thơ, dưới sự dìu dắt của nhiều người. Người ảnh hưởng trực tiếp mạnh nhất là nhà thơ nhà giáo Hà Quảng.
"Với tôi, thơ là con thuyền độc mộc chở tâm linh vượt mọi ghềnh thác để đến bến vĩnh hằng";  với "thập tải phong trần" (mười năm gió bụi - chữ dùng của Nguyễn Du) làm chất liệu sống cho thơ, Lê Quốc Hán hành hương về nguồn. Chẳng tìm được gì cả trên con đường thẳm gập ghềnh, buồn nản và vô vọng đó, nhưng Hán đã hái được nhiều hoa thơm, xoa dịu được phần nào trái tim tan nát của mình, mặc dù anh không có ý định trở thành thi nhân. 

Xin người hãy sống thêm một ngày lương thiện
Để đón chờ một đêm tối trong lành
Để thời gian sợi chỉ đỏ mỏng manh
Thêu nốt chuỗi tháng năm vào vô tận.
Cuộc đời thì ngắn mà nghệ thuật lại dài.Trong thơ, Lê Quốc Hán đã và đang có ý thức kiến tạo cho mình một thi nghiệp. Lê Quốc Hán đã dằn vặt vì thơ và thường xuyên bị thơ hành “Câu thơ vô ảnh vô hình - Tháng năm vắt kiệt con tim dại khờ - Rời bờ thực cập bến mơ - Nửa tin quá khứ nửa ngờ mai sau” (Đợi). Cuộc đời cũng có duyên với anh, luôn cổ lệ nhà thơ yêu quý của mình “Vầng trăng khi tỏ khi mờ - Hỏi người thi sĩ có còn làm thơ - Nửa đời đi thực về mơ - Lênh đênh thuyền lá cập bờ bến chưa?” (Một thoáng). Lê Quốc Hán cũng quằn quại đau đớn lắm khi lâm bồn đẻ thơ “Bài thơ rỏ máu từng câu - Ước chi người đọc cho sầu  muộn tan” (Gửi). Anh lo sợ nhất là  “những câu thơ sinh hạ chẳng linh hồn” (Tháng mười). Và, thật là sung sướng khi nhà thơ cho ra đời được những đứa con tinh thần sáng giá “Chập chờn đợi phút thăng hoa - câu thơ nối được hồn ta hồn người” (Đợi). Lê Quốc Hán nhắn gửi ước nguyện “Mai sau thi sĩ về trời - Câu thơ ở lại với người mai sau” (Mai sau), bởi mục đích cao cả của người thơ là thái độ nhập thế và tìm đường. Nhà thơ muốn xác lập cho mình một thi pháp “mỗi người trong bọn họ đã tạo cho mình một thế giới, riêng, một vũ trụ riêng, một tâm linh riêng” (Vũ trụ và tâm linh). Lê Quốc Hán tích cực làm thơ, xem thơ là cứu cánh sống. Anh tuyên ngôn “Đã toan lấy bút làm chèo - Con thuyền nhân ái khi neo cuối trời” (Dã tràng). Nhà thơ quan niệm “Câu thơ hay phải phản ánh chân thực những khía cạnh sâu kín nhất của linh hồn con người. Lòng nhân ái là nền tảng vĩnh viễn của thi ca”. Ngổn ngang giữa tâm thế thường trực”Mong manh và hư ảo - sáng, gánh nặng mặt trời - chiều, nhuộm hoàng hôn tím” (Sương), tâm linh tình nguyện hướng tới cõi vô cùng, Lê Quốc Hán đã ít nhiều tiên cảm được sự trường cửu của thi ca. 
Trăm năm thơ sẽ theo người
vùi trong hoa cỏ khóc cười phù du
Người trôi về bến thiên thu
thơ tan vào cõi tuyệt mù thế gian.
(Tự khúc)
Trong lúc trau dồi nghệ thuật đề hướng về cái Đẹp, nhà thơ nhớ đừng tước mất năng khiếu toán học trong tâm thức mình, vẫn sao cho “trong thơ có toán, trong toán có thơ” (Chữ của Đặng Hấn), bởi thơ ca vẫn rất cần sự lạnh lùng của logic diễn dịch. Với thơ, nghệ thuật không được phép già nua và nông cạn.   
Với điểm tựa là tâm linh, cùng cách giãi bày biệt lập, thơ Lê Quốc Hán là sự dung hòa giữa thơ và hiện thực, ẩn chứa chiều sâu cuộc đời trong một giọng thơ dung dị, đằm thắm, giàu suy tư, hướng thiện. Lê Quốc Hán làm thơ đều tay, rất ít bài trung bình, phần lớn khá trở lên. Thế mà người chỉ nguyện cầu: 
Cát vàng sóng cuốn về khơi
Chỉ mong sót lại thơ tôi một dòng
(Dã tràng)
Song hành đều đặn với thơ và chiếm được cảm tình của đông đảo bạn đọc cả nước, vài ba năm trở lại đây, người ta thấy Lê Quốc Hán còn xuất hiện trê các báo với tư cách người bình thơ. Anh thẩm khá sắc và tinh tế những bài thơ hay của các nhà thơ bất luận lớn bé. Viết được một câu thơ hay, một bài thơ hay đấy là tài năng, nhưng nhìn ra được thơ người khác hay, rồi đem cái sở học cùng tấm lòng tri âm của mình thẩm định quảng bá cho mọi người cùng thưởng lãm thì đấy là đức hạnh. Điều này, xét cho cùng cũng là một thứ tài năng, bởi cái tài lớn nhất của một bậc trí là thừa nhận người khác có tài. Anh vốn có tài thơ, nay thêm có đức hạnh. Tài và đức - đôi cánh này sẽ giúp thi nhân bay cao, bay xa vào bầu trời thơ của mình.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định về thơ ca, trong khiêm nhường đầy tự tin, Lê Quốc Hán vẫn thấy nghiệp thơ của mình mới chỉ là sự mạc khải (mở màn). Anh nhỏ nhẹ bảo “Trót sinh ra giữa thế gian đầy bí mật, nguyện trăm năm làm một cuộc du hành” (Nguyện).
Đọc Lê Quốc Hán, tôi cứ mường tượng tới một Hàn Mặc Tử mới đang tái thế với một tầm vóc văn hóa cao hơn. Hãy thử chờ xem!
Chú thích:
(*) Phó Giáo sư, Tiến sĩ LÊ QUỐC HÁN còn có bút danh khác: Ngọc Hà, sinh ngày 16-4-1949 tại làng Dinh Cầu, xã Kỳ Châu, Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Quê cha mẹ: xã Sơn Tân, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Năm 1968, tốt nghiệp phổ thông. Từ 1968-76: làm ruộng và dạy học ở quê nhà. Năm 1976-80: học khoa Toán Đại học Sư phạm Vinh. Năm 1980-81: học thạc sĩ ngành Toán, Đại học Sư phạm Vinh. Năm 1982-91: giảng dạy tại khoa toán Đại học sư phạm Vinh. Năm 1991-95: làm nghiên cứu sinh, tháng 1-1996 bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ toán học hiện đại với đề tài Sự liên hợp các p-nhóm con Sylow của nhóm compact địa phương.
Từ 1996 đến nay vẫn tiếp tục giảng dạy tại khoa toán trường Đại học Sư phạm Vinh. Lê Quốc Hán vẫn tiếp tục nghiên cứu toán học, đã có một loạt công trình in trên tạp chí Jounal of computer scien and cybernetic; được Nhà nước phong học hàm Phó Giáo sư toán học (ngày 15-10-2003)
Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Nghệ An (1996)
Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (2002).
Đã in: Lời khấn nguyện, Hội Nhà văn 1996, Kỳ Vọng (chung với 5 nhà thơ gốc toán: Thạch Quỳ, Lê Quốc Hán, Vương Trọng, Đặng Hấn, Phi Tuyết Ba), Văn nghệ TP Hồ Chí Minh 1998; Bến vô cùng, Nxb Văn học 1999; Mạc khải, Hội Nhà văn , 2004; Bất biến, Hội Nhà văn 2009.
Giải thưởng thơ:
Tạp chí Sông Lam 1999-2000
Báo Tiền Phong 1999-2000
Tạp chí Tài Hoa Trẻ 2000-2002
Giải nhất giải thưởng VHNT Hồ Xuân Hương 1997-2002 cho tập Bến vô cùng. 
10/7/2010
Thái Doãn Hiểu
Theo https://www.vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...