Thứ Hai, 28 tháng 3, 2022

Một góc trời thôn dã 3

Một góc trời thôn dã 3

CHƯƠNG MƯỜI MỘT
Hôm nay chủ nhật, sáng sớm hai bạn đồng nghiệp chung nhà của Cẩm Hương trọ về quê thăm gia đình. Họ bảo rằng, chiều tối, theo chuyến xe cuối họ mới trở lại, hoặc là sáng sớm ngày mai trước giờ vào lớp. Lúc sáng đi chợ về bà Tư Hiền ghé qua lấy tiền nhà của họ gởi, và cho nàng mấy trái bắp Buôn-Mê-Thuột còn nóng hổi. Bắp nầy có hột màu tím ngã nâu, ăn dẻo, bùi và ngọt. Ở miền đồng bằng chưa nhiều người trồng nên ít có thứ bắp hột tím như vậy. Bà Tư vui vẻ bảo:
– Chút nữa về, bác bảo Thiện Tố rước cháu qua ăn trưa. Không biết ai bán mà hôm qua Thiện Tố mua về mấy con tôm càng xanh vỏ ngon quá. Bác có mua giá và bún, trưa nay sẽ làm món bún tôm nướng. Cháu qua ăn nghen.
Nàng cười buồn, từ chối khéo bằng cách viện lẽ hôm nay phải ở nhà giặt và ủi áo quần, soạn bài vở chuẩn bị cho tuần tới… Nàng không bận lắm, nhưng không muốn gặp mặt Thiện Tố. Nỗi hờn ghen còn vương vấn trong lòng cô gái trẻ mới yêu và được yêu. Bà Tư Hiền ra về, cũng không vui. Cẩm Hương đưa bà ra tới đường, rồi trở vào nhà đóng cửa rào lại còn đang săm soi mấy bụi hoa hồng, mấy khóm cúc vàng nghệ, bông nở ngày tím, hoa huệ trắng thanh khiết theo làn gió thoảng đưa hương dìu dịu…
– Chị Cẩm Hương! Chị Cẩm Hương…
Nàng quay đầu nhin ra hướng người gọi. Một nam, một nữ cười tươi đứng ngoài cổng. Cô gái có vẻ ẻo lả đứng khép nép bên người con trai. Người con trai mặc áo thun cổ lật tay cụt màu trắng, trên miệng túi có thêu nhánh cúc bằng chỉ xanh. Quần sọt (short) màu cà-phê sữa bằng loại hàng xi-mi-li dầy và ngang tới nửa dùi, bày cặp giò khoẻ mạnh vạm vỡ. Trông cậu tươi như cây xoài, cây mận thấm hơi sương mát lạnh vào trời hừng đông. Còn cô thiếu nữ mặc quần lụa đen, áo bà ba bằng lụa màu hồng. Đầu đội chiếc nón lá Gò Găng. Nón nầy sản xuất ở Qui Nhơn, mặt trong ghép bằng những cọng tre nhỏ mức như cọng nhang có thêu chỉ ngũ sắc chằng chịt. Cô xinh xắn, tươi trẻ, gọn gàng trong y phục nửa Âu, nửa Á. Cẩm Hương thoáng ngạc nhiên, rồi vui mừng hiện rõ trên nét mặt, nhưng hơi e dè nhìn người thanh niên như dò hỏi:
– Ơ Thành, sao em đến đây?
– Em xuống thăm chị. Đây là Nguyệt Cúc bạn gái của em. Nguyệt Cúc, còn đây là chị Cẩm Hương một kiện tướng của gia đình, mà nhiều lần anh đã nhắc đến.
Nguyệt Cúc miệng cười tươi như hoa, lễ phép chào:
– Dạ chào chị, hôm nay em mới được gặp chị. Anh Thành cứ hay nhắc đến chị luôn.
Cẩm Hương cũng cười vui:
– Vậy sao? Thành nói xấu hay nói tốt về chị của cậu ta đây?
Đúng như trong thư Thành viết gởi cho nàng mấy tháng qua. Ba của Nguyệt Cúc dạy học ở trường Pétrus Ký, còn má cô ta dạy ở Huỳnh Khương Ninh. Cô là đứa con gái thứ hai của gia đình có 2 anh em. Anh cô đang học trường Đại học Dược khoa ở Pháp.
Nguyệt Cúc là một cô gái trẻ đẹp có thân mình cân đối, cô thường đánh quần vợt là thứ giải trí làm cường thân kiện thể. Nước da cô trắng hồng, miệng nhỏ mũm mĩm dễ thương. Mái tóc đen huyền của cô cắt ngắn. Cô nhí nhảnh, có nếp sống tự lập và cách nhìn đời tự nhiên, vô tư, nên trông cô yêu đời và như luôn mang niềm vui đến cho những người chung quanh. Cô không rụt rè, nhút nhát hoặc quá khiêm cung, thận trọng như Cẩm Hương, hoặc như những người con gái Á Đông cha mẹ còn vướng mắc ít nhiều nền gia giáo phong kiến. Bởi ngay từ nhỏ cô đã hấp thụ nền văn minh Tây phương của cha mẹ, và học trường đầm từ thuở bé. Sau khi lấy xong bằng trung học Pháp, cô chuyển qua học chương trình Anh ngữ ở Hội Truyền Giáo Tin Lành. Vì cô muốn con đường tiến thân của mình sau nay là du học ở Mỹ chớ không ở Pháp như ý định của cha mẹ. Nguyệt Cúc liếc qua người yêu:
– Dĩ nhiên là anh Thành luôn khen chị. Anh khen nhiều lắm, đôi lúc em thấy ghen tương nữa đó.
Cẩm Hương bật cười thành tiếng về lời chân thật và hết sức tự nhiên của cô gái. Cẩm Hương mời cả hai vào nhà. Ba người hàn huyên nói cười rộn rã … rất là tâm đầu ý hiệp.
Thấy Cẩm Hương cứ nhìn chiếc nón Gò Găng chăm chú, Nguyệt Cúc cười thẹn:
– Chắc chị ngạc nhiên tại sao em đội chiếc nón dành cho mấy bà sồn sồn nầy? Ở Sài Gòn em quen mặc áo đầm, xách bóp đầm che dù reng. Nhưng khi đi chơi với anh Thành, em mặc quốc phục, nên em mượn chiếc nón của bà vú em. Tuy nó nặng, thô ở mặt ngoài, diêm dúa ở mặt trong nhưng che mát đầu lắm.
Cẩm Hương dịu dàng:
– Dù sao đi nữa, khuôn mặt của Nguyệt Cúc vẫn trẻ măng, vẫn trong sáng.
Thành vui vẻ nhìn chị:
– Chị nói vậy, Nguyệt Cúc sẽ mừng hết lớn và em cảm thấy mát lòng không uổng chuyến đi nầy.
Cẩm Hương nhớ lại mẹ mình càm ràm: “Thằng Thành về nhà đòi lấy con nhỏ làm ở hãng Denis Frère nên má giận hờn không thèm nói đên tên nó nữa…”. Bà còn rủa xả: “Nó là thằng bất hiếu. Sanh nó để má sanh trứng gà, trứng vịt luộc ăn còn sướng miệng hơn…”. Má nàng không biết cô nầy thuộc gia đình gia giáo. Nhờ vào sự quen biết của ba má cô mà Thành được làm việc tại Sài Gòn. Có lẽ tại Thành không nói rõ với mẹ, nên bà cứ tưởng con mình bị mấy con me Tây trá hình dụ dỗ. Chớ bà đâu có ngờ thật ra con dâu tương lai rất tương xứng với con trai bà. Theo Cẩm Hương nhận xét, có lẽ sau nầy cô ta còn trội hơn Thành là khác, Cẩm Hương bảo Thành:
– Em có đưa Nguyệt Cúc về thăm ba má chưa?
Thay vì Thành trả lời chị, nhưng Nguyệt Cúc cười lớn nhanh miệng:
– Anh Thành có rủ em đi thăm ba má ảnh mấy lần, nhưng em ngại không dám đi.
Cẩm Hương cười chúm chím:
– Tại sao em ngại?
Nguyệt Cúc phụng phịu:
– Tại em làm việc chi ảnh cũng rầy. Ảnh bảo phải làm như vầy, phải làm thế kia, nếu không làm như vậy thì sai rồi… Và sau cùng lúc nào ảnh cũng nói: “Má anh khó tánh lắm, còn ba anh thì dữ nữa. Em mà là anh thì em sẽ bị đòn nứt mông rồi”.
Cẩm Hương mắc tức cười, đánh vào vai Thành:
– Cái thằng nầy, sao em hù cổ chi vậy? Nguyệt Cúc đã bị nó gạt rồi. Đừng có nghe nó nói bậy. Nếu bà già gặp em sẽ thương mến em liền. Hãy sắp xếp, hôm nào em theo Thành cùng chị về thăm ông bà già nghen. Đừng ngại, có chị mà, Thành không dám ăn hiếp em đâu.
Nguyệt Cúc liếc Thành như hỏi ý, cậu ta cười nheo mắt với người yêu. Nàng trả lời Cẩm Hương bằng cái gật đầu và khẽ “dạ”.
Hôm đó Cẩm Hương dắt đãi em và bạn gái em mình chầu cơm trưa ở quán ăn nơi cầu đúc bắc qua đường đi vào chợ dù biết rằng đàn bà con gái con nhà đàng hoàng ít ai ăn chợ, ăn quán như vậy. Tuy nhiên Nguyệt Cúc có cách sống tự do, và Cẩm Hương cũng là người cởi mở. Họ không nghĩ nhiều đến những chuyện ràng buộc bởi tiểu tiết thường tình đó. Vả lại, nàng cũng không phải đi một mình mà còn có em trai và Nguyệt Cúc nữa mà.
Thật ra, Nguyệt Cúc có cái tên trong khai sanh là Marguerite Lý Hoàng. Lý Hoàng là tên của cha cô. Khi vào dân Tây, ông thêm vào tên Henri vào tên mình. Anh của cô tên là Marcel Lý Hoàng.
Từ khi yêu Thành, Marguerite liền lấy tên Nguyệt Cúc cho vừa lòng chàng. Hoa marguerite là loại hoa cúc xòe cánh hình tròn như mặt trăng rằm. Nguyệt Cúc là tên dịch từ tên hoa marguerite. Cô ta bảo với người yêu “Nếu được qua Huê Kỳ du học, em sẽ đổi tên là Daisy. Đó là tên mà người Mỹ dịch từ tên hoa marguerite vậy”.
Quán Phú Hưng chứa khoảng 8 cái bàn vuông, mỗi bàn có 4 cái ghế đẩu, chia mỗi bên 2 cái. Trên bàn ở góc trong có chai nước tương nhỏ, keo ớt ngâm giấm, hũ tiêu cà, hũ muối và ống sành đựng chừng mười đôi đũa. Bên trong là quầy tính tiền và nào là thùng đựng thuốc gói, thuốc lá, hộp quẹt diêm để bán cho khách hàng khi họ cần. Quán trưa nay ít người, ông chủ quán đang ngồi nhổ râu, suy gẫm chuyện đời. Thấy khách vào, ông xăng xái đi ra, lanh lợi, niềm nở chào mời:
– Chào cô giáo! Chào thầy, chào cô.
Họ chào lại. Cẩm Hương hỏi:
– Dạ chào chú, em Hưng dạo nầy học hành thế nào, có thường về không chú?
Ông chủ quán vui vẻ trả lời:
– Dạ, Hưng học cũng được hạng trung bình. Chiều thứ sáu nào nó cũng về và sáng sớm thứ hai thì trở xuống dưới. Tội nghiệp, từ nhỏ đến lớn nó không có xa nhà. Bây giờ đi học xa nên nó nhớ nhà và nhớ em út lắm. Hôm nay, cô giáo và quý thầy cô muốn dùng món chi?
Cẩm Hương quay lại bảo với em mình:
– Ở đây nổi tiếng nem ngon. Người ta thường nói đến Cai Lậy mà chưa ăn nem thì coi như chưa đến Cai Lậy. Vậy hai em thử món ngon vùng nầy nghen. Sao Nguyệt Cúc, có thích ăn nem không?
Cô gái nhoẻn miệng cười như hoa hàm tiếu:
– Anh Thành ăn món gì thì em ăn món đó.
Cẩm Hương có vẻ hài lòng về cô em dâu tương lai nầy. Thành cười ha hả, cười chảy nước mắt. Nguyệt Cúc háy và lòn tay xuống bàn nhéo Thành có ý bảo chàng im. Thành vừa cười vừa nói:
– Nguyệt Cúc, em biết ngoan ngoãn từ hồi nào vậy? Đi chơi với anh có lúc nào em chiều ý anh đâu? Nhứt là về ăn uống, bao giờ em cũng kén chọn kỹ và khó khăn lắm. Sao hôm nay bỗng dưng em ngoan hiền quá vậy?
Nguyệt Cúc liếc xéo Thành, tự nhiên nói:
– Tại đi với anh, chỉ có hai đứa mình nên em phải bắt anh chiều cho vui! Còn bây giờ có chị Cẩm Hương. Em nể chị nên không dám sách nhiễu đó chớ bộ!
Cẩm Hương cười, gọi một dĩa nem chua và một dĩa nem nướng. Nàng hỏi hai em:
– Hai dĩa nem nầy ăn khai vị. Hai đứa muốn ăn gì thì gọi thêm? Bún nem chua, hay bún nem nướng? Ngoài ra tiệm nầy còn có hủ tíu bột-mút nấu với sườn heo non có tôm và mực, bún nước lèo, bánh xèo, cơm tấm với bì, sườn nướng, tôm, chả… Món nào cũng ngon lắm.
Người chạy bàn vừa bưng lên những thức ăn đặt xuống. Không ai bảo ai, cả ba chị em mở mắt thao láo nhìn dĩa nem đã lột hết lớp lá chuối gói. Từng miếng nem mỏng trong vắt, lớn bằng ngón chân cái đều đặn nằm trong những chiếc lá vông non gói nem heo héo, xanh mướt. Màu nem hường tái của màu thịt nạc tươi đã trở chua, có vân trắng của bì heo lẫn lộn. Trên mỗi chiếc nem có một miếng tỏi chua trắng ngà kèm theo miếng ớt sừng trâu đỏ ngâm giấm. Dĩa kia, ghim trong những cây tre non nhọn đầu, mỗi cây chừng năm viên nem vò tròn lớn hơn viên đạn bắn cu-li của trẻ con đã nướng vàng óng. Mùi thơm theo hơi khói nghi ngút bốc lên. Đó là món nem nướng. Cả hai dĩa nem nằm cạnh chén nước mắm chua ngọt đỏ màu tương ớt, điểm dưa kiệu xắt mỏng, cùng củ cải đỏ, củ cái trắng, dưa gừng xắt chỉ. Một dĩa rau sống vun chùn, lẫn lộn nhiều loại như là húng cây, húng nhủi, rau răm, dấp cá, lá quế, ngò om, ngò gai, ngò rí tươi xanh, cùng những lá cải xà-lách lớn bản, màu xanh non nhẫn nằm hơn hớn.
Cả ba, ăn uống no nê, nói chuyện tự nhiên vui vẻ cởi mở. Trong khi đó ở bàn bên trong của quán có cặp vợ chông trẻ cùng ba đứa con nhỏ đang ngồi ăn hủ tíu. Nhưng đôi mắt người của người đàn bà luôn hướng về bàn của Cẩm Hương và chốc chốc lại ngước nhìn nàng như theo dõi.
Thành nhanh chân lại quầy hàng trả tiền, Cẩm Hương miệng còn đang ăn ngồm ngoàm không kịp cản em, đưa tay khoát khoát ra dấu để nàng trả. Nguyệt Cúc cười khúc khích:
– Để anh Thành trả tiền. Ảnh vừa mới lãnh lương hôm qua đó chị. Ảnh không bao chị em mình thì ảnh cũng tiêu vào các chuyện khác hoặc là đãi bạn bè hết.
Cẩm Hương cười:

– Trong hai người em trai của chị, Thành là đứa hào phóng nhứt. Em phải kềm chế nó mới được. Hứa với chị, lần sau chúng ta về thăm ông bà già chị nghen. Má ba chị có thành kiến trong việc đàn bà con gái đi làm sở của ngoại quốc, nhứt là sở của Tây. Nghe Thành nói em làm cho hãng Denis Frères, má ba chị cứ tưởng em như phần đông những cô gái phóng túng đi làm hãng ngoại quốc khác. Nhưng chị chắc chắn rằng, khi ổng bả gặp được em họ sẽ có cách nhìn khác và họ sẽ thương mến em…
Thành nhìn người yêu cười có vẻ tinh ranh. Chàng chẫm rãi nói:
– Ba má có thành kiến cũng không sai. Hãng ngoại quốc có người vầy, người khác. Những người làm việc giấy tờ, những người coi về dọn dẹp. Có cô nhí nhảnh, hết cặp bồ thì đú đỡn với nhân viên người Pháp, người Chà và xuất thân từ tỉnh Pondicherry bên Ấn Độ. Còn Nguyệt Cúc giữ chức phụ tá quản lý của hãng, có văn phòng riêng biệt. Bạn gái thân của cổ là con ông phụ tá Giám đốc, nên ban Giám đốc coi cổ như con cháu trong nhà.
Cẩm Hương bảo:
– Nguyệt Cúc có cốt cách tao nhã, có phong độ trí thức, có dáng dấp cao sang. Trông người thì biết nguồn gốc, tánh tình của Nguyệt Cúc rồi.
Nguyệt Cúc xúc động nhìn Cẩm Hương biết ơn. Thành vừa bỏ tiền thối vào túi quần, trở về chỗ mình ngồi xuống ghế, lấy cây tăm, che miệng xỉa răng. Chàng cười hỏi.
– Hai kẻ hạ thần không chán sống kia, thì thầm nói lén trẫm gì đó? Bộ không sợ đao phủ quân sao?
Nguyệt Cúc cười hí hí, rồi giả nghiêm mặt nói:
– Tâu bệ hạ, thần thiếp nói bệ hạ là ông vua xạo!
Cẩm Hương chêm vào;
– Như bổn Quận Chúa đây, được sự thương mến của Thượng hoàng và Thái hậu, khuyên ngài nên chừa cái tánh xạo khó thương dễ ghét đó đi. Nếu không thì sẽ bị giáng chức, và làm kiếp lưu đày ngoài biên ải đó bệ hạ…
Cả ba cười như vỡ chợ! Cẩm Hương sực nhớ giựt mình, len lén liếc chung quanh xem có ai nhìn không? Vì nàng quên đi ở đây là Cai Lậy Quốc! Đàn bà con gái ngồi ăn hàng ăn quán đã một việc khó coi rồi, lại còn nói rôn rổn, cười inh ỏi nữa. Lạng quạng có người xấu miệng tiếng ra tiếng vào, đồn đãi sai sự thật cũng phiền lắm! Nhưng rồi, nàng tự trấn an. Thây kệ, tới đâu thì tới!
Lúc tiễn hai cô cậu lên xe trở về Sài Gòn, Cẩm Hương đưa cho em mình một giỏ xách hơi nặng. Nàng gởi về tặng cho ba má Nguyệt Cúc ba chục nem chua, một chục xoài cát đen đầu mùa.
Nguyệt Cúc siết chặt tay Cẩm Hương:
– Đáng lẽ em tìm gặp chị sớm hơn. Chị biết không? Anh Thành cứ khoe với em chị đẹp, hiền hậu, dễ cảm thông. Ảnh còn khoe chị Ánh Nguyệt, bạn thân của chị đang gây xao xuyến trong tim anh Tuấn. Em ước mong cả 3 sẽ có ngày gặp nhau.
Cẩm Hương ngạc nhiên:
– Tuấn và Ánh Nguyệt chưa đi tới đâu. Tuấn nhút nhát chưa dám tỏ tình với Ánh Nguyệt.
Nguyệt Cúc bảo:
– Nhưng ảnh cứ nhắc chị Ánh Nguyệt với tụi em luôn. Hổm rày ảnh còn coi sách báo để có thể viết bức thư tỏ tình cho chị Ánh Nguyệt thiệt mùi nữa đó. 
Lớp Cẩm Hương dạy đầu năm được 20 học trò nữ, và 30 nam. Nam nữ học trò nàng có đứa đã 15, 16 tuổi rồi. Lâu lâu mấy đứa học trò gái vừa tới tuổi dậy thì được cha, hay mẹ đến xin phép nghỉ học để sửa soạn việc hỏi cưới. Có đứa vắng mặt lâu ngày, sau đó hỏi ra mới biết nó đã có chồng hay có vợ rồi. Đa số phụ huynh học sinh ở đây cốt cho con đi học để biết đọc, biết viết rồi về làm ruộng rẫy hoặc buôn bán hơn là quyết tâm cho con ăn học đến nới đến chốn….
Học trò của Cẩm Hương gần cuối năm chỉ còn 2/3. Ngày hôm qua thứ hai, đi học được 30 trò, hôm nay còn có 18 trò. Nàng lấy làm lạ hỏi, nhưng không đứa nào biết tại sao? Đến giờ ra chơi vào, chú Bảy cai trường xuống chuyển lời bà Đương dạy nữ công cũng là coi về đời sống nhân viên mời nàng lên văn phòng.
Cẩm Hương viết đề bài “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng” cho học sinh làm luận văn, rồi đi lên văn phòng.
Bà Đương có vóc người mập mạp khoảng ngoài 40 tuổi, tóc hoa râm. Chồng bà là thầy Tán dạy lớp ba cũng ở trường nầy. Bà có 8 đứa con lăn măn. Đứa con trai lớn của bà đang học năm thứ hai trường Le Myre de Vilers dưới Mỹ Tho. Trong trường bà nổi tiếng khó khăn. Học trò thấy bóng dáng bà ở xa, là chúng quẹo nẻo khác để né. Vì gặp bà nếu nam sinh thì bả sẽ bảo: “Tóc em dài cần đi hớt. Sao quần áo lem luốc, dơ bẩn vậy? Móng tay em quá dài cần phải đi cắt…” Nếu gặp nữ sinh thì bả luôn chì chiết: “Con gái phải đằm thắm, nết na, làm gì mà la hét om sòm? Tóc em nên kẹp vén vang lên, đừng để xù xụ như tóc con ma đội mồ. Em giỡn hớt cách chi mà tóc tai bù xù, quần áo xốc xếch như mụ điên?…”.
Cẩm Hương vừa bước vô văn phòng chào bà. Bà vui vẻ chào lại mời nàng ngồi ghế đối diện với bà. Bà hỏi Cẩm Hương vài ba câu chuyện xã giao bâng quơ rồi kéo học tủ lấy bức thơ đưa cho Cẩm Hương, nghiêm khắc bảo:
– Cai Lậy tuy là chợ quận nhưng nhỏ lắm. Người lạ mặt mới đến đầu chợ thì 15 phút sau, là cuối chợ biết hết … Đây, thư của phụ huynh học sinh gởi cho trường. Cô hãy đem về xem rồi mai cho chúng tôi biết ý kiến.
Cẩm Hương chưng hửng, nhưng cầm lấy thơ chào bà, rồi bước ra đi về lớp. Lớp học vẫn yên lặng, chỉ nghe tiếng rào rào của ngòi viết trên giấy. Vì học trò đang làm bài, nàng ngồi vào bàn, lấy thư ra xem. Trong thư có những câu rào trước đón sau, và tỏ ý là mình đại diện cho một số phụ huynh học sinh trong quận lên tiếng:
“Cai Lậy, ngày… tháng… năm
Kính thưa ông Đốc học,
Gần đây một số nữ giáo chức trẻ, theo thói Tây Đầm có những hành vi không tốt như uống rượu, ăn hàng ăn quán, cười nói giỡn hớt lả lơi với đàn ông… Những sự kiện nầy chúng tôi nghĩ rằng sẽ gây ảnh hưởng không tốt cho các con em vô tư, hiền lành của chúng ta trong quận lỵ… “
Cẩm Hương tức muốn rêm cả ngực. Rõ ràng là đặt điều, thêm thắt câu chuyện để nói xấu nàng. Không dằn được, nàng xách lá thơ trở lên văn phòng. Nếu để đến ngày mai, thì đêm nay nàng sẽ thức trắng năm canh!
Lần trở lại nầy có cả ông Đốc học Tý đi họp mới về. Ông Tý ngồi giữa, bà Đương và Cẩm Hương ngồi đối diện nhau. Nàng trình bày hết mọi việc về cậu em trai và bạn đến thăm nàng hôm chủ nhật. Không dằn được, nàng tức tối:
– Thưa ông Đốc học, tôi thiết nghĩ, những lúc dạy, tôi không làm gì phạm nội qui của trường, còn ngoài giờ dạy và ở bên ngoài đó là đời tư cá nhân của tôi. Sao ở đây lại có những người ăn không ngồi rồi thò vò vào chuyện người khác vô duyên như vậy? Còn thêm bớt để đặt điều nữa. Thật là xấu miệng độc mồm không sợ mắc khẩu nghiệp!
Ồng Đốc Tý cười hiền lành, khuyên:
– Thôi bỏ đi cô, chuyện cũng không có gì nghiêm trọng. Hôm nào họp phụ huynh học sinh tôi sẽ nói khéo với họ. Nhưng cô cũng phải để ý, người dân ở đây rất nghiêm khắc về vấn đề nam nữ… Chuyện vừa xảy đến cho cô đó, có nhằm gì đâu, nhưng nó cũng làm cho cô bực mình lắm. Cho nên tốt nhứt tránh là hơn, “Nhập giang tùv khúc, nhập gia tùy tục “ mà cô.
Cẩm Hương cảm ơn ông rồi trở về lớp. Cả buổi đó, nàng chẳng còn tâm trí nào mà dạy học. Và nàng cảm thấy ghét cay ghét đắng tất cả những ai ở quanh nàng! 
Sau khi về thăm ba má, Cẩm Hương trở xuống nhà trọ. Xe đến Ngã Ba Trung Lương thường thì dừng lại không lâu, chừng 30 đến 40 phút thôi, để cho hành khách lên xuống cùng đưa hàng hóa lên xe. Người ta gọi là Ngã Ba Trung Lương, có lẽ là ở đây có 3 ngã. Đó là ngã đi vô Mỹ Tho, ngã đi Sài Gòn, và ngã về Mỹ Thuận. Nơi nầy có nhiều hàng quán bán thức ăn cho hành khách lỡ đường trễ bữa. Nhiều sạp bán các loại chuối ép phơi khô, các loại kẹo chuối, bánh tráng ngọt trộn sữa, bánh phồng khoai nước cốt dừa. Có nhiều người bán dạo theo xe rao hàng lanh lảnh, người mua gọi ơi ới… hợp thành âm thanh đặc biệt, trong một cảnh sinh động náo nhiệt. Thường trong những chuyến đi hoặc về nầy, Cẩm Hương hay mua kẹo chuối. Loại chuối ép phơi khô xắt ra ngào với đường thẻ, hoặc đường tán cho keo lại, rồi trộn với đậu phộng và dừa rám xắt mỏng. Họ trải bằng mặt để nguội cắt ra từng cục vuông vừa miếng ăn, gói lại bằng giấy kiếng trong suốt, vào từng bịch nhỏ bán cho hành khách. Ba má nàng rất thích ăn kẹo chuối, uống với nước trà. Nàng cũng thích kẹo nầy, mỗi lần nhai kẹo thì lẫn lộn mùi chuối hòa với đường. Kẹo chuối vừa ngọt, vừa dẻo, đậu phộng vừa dòn vừa béo như dừa. Uống với nước trà Xiểu Chủng nóng, thật là tuyệt.
Một thiếu nữ vừa bước lên xe, có lẽ cô ta hơn nàng đôi ba tuổi. Dáng vóc coi khỏe mạnh, nước da trắng, tóc dài được kẹp gọn, miệng cười má lúm đồng tiền rất xinh. Cô ta mặc áo dài the bông nhung ép màu lá mạ, quần xá xị đen, cổ quấn khăn the trong suốt màu hồng thắm. Cô ta không son phấn, chỉ tỉa gọn cặp chân mày. Về nữ trang cô đeo bông vàng, giây chuyền mặt ông Phật cũng bằng vàng, và chiếc vòng tay mã não màu nâu đỏ. Cô không đẹp, nhưng mặn mòi, coi thiệt dễ mến, nhứt là khi cô cười ngỏn ngoẻn phơi chiếc răng khểnh bên mép trái, và đôi lúm đồng tiền xoáy sâu dưới gò má gần mép miệng.
Thấy cô nhìn dáo dác tìm chỗ ngồi, Cẩm Hương xích vào gần cửa sổ xe. Cô gái ngồi xuống tỏ lời cảm on bằng giọng trong ấm. Cẩm Hương lí nhí trong miệng “Không có chi”, rồi nhắm mắt lại giả bộ ngủ. Cô gái không ngồi yên, nhích qua, nhích lại, chồm tới, thụt lui. Xe bắt đầu lăn bánh. Cô ta biết Cẩm Hương còn thức nên gợi chuyện:
– Cô đi về đâu vậy?
– Dạ, tôi về Cai Lậy.
Cô ta cười cởi mở:
– Vậy là mình đi chung đường và xuống cùng bến. Tôi cũng về Cai Lậy. Hình như cô không phải người ở đó? Vì tôi ở Cai Lậy từ nhỏ mà chưa bao giờ gặp cô? Cô ở nơi khác, đến làm việc ở Cai Lậy hả?
Có người đồng hành nói chuyện cũng đỡ buồn, nên Cẩm Hương vui vẻ trả lời:
– Dạ, tôi cũng chỉ mới về làm việc ở đó thôi, và cũng ít hay đi đâu.
Cô ta cởi mở kể chuyện Cai Lậy, kể chuyện làm ăn...Và cô ta thành thật:
– Tôi ở gần máy chà lúa. Cô biết máy chà đó chớ? Nhà tôi mái ngói vách gạch, có hàng rào đá lớn trước nhà.
Cẩm Hương gật đầu, nhớ là mình có lần đi cúng miễu với bà Tư Hiền, trên đường về ghé qua đó và được Thiện Tố đãi nước mía. Cô gái tự nhiên mở giỏ, lấy chiếc bánh ú ra ăn. Ăn xong, cô ta lấy khăn tay chùi miệng, rồi mở bóp đầm lấy ra tấm kiếng tròn để trong lòng bàn tay săm soi cái mặt. Xong, cô mò lấy bịch nhỏ kẹo dừa mở ra mời Cẩm Hương, Cẩm Hương nhã nhặn từ chối. Cô gái lấy một cục, giở giấy gói, để vào miệng nhai ngon lành. Cục kẹo vừa hết thì cô lôi ra bao xí muội lấy một trái ngậm rồi, bảo Cẩm Hương:
– Cô biết không? Dượng rể tôi là ông bang Phước Kiếng có cái chành lúa gần máy chà gạo của ông Hai Cung. Dì tôi muốn làm mai tôi cho anh tài phú người Tàu lai coi trẻ trung và cũng lành trai lắm. Tuy tôi cũng biết lấy chồng Chệt khỏi phải làm dâu, được ăn thịt hà rầm. Nhưng lấy chồng Tàu tối ngày cứ nghe nó làm chuyện làm ăn buôn bán xí xô xí xào hoài thì chán eo chán óc! Tôi thích lấy chồng Việt hơn để còn được nghe nói những câu mặn mòi tình tứ, mà dễ cảm thông với nhau hơn. Mặc dù tôi ưa ăn hầm dĩ hơn mắm, nhưng lấy chồng Chệt thì không được đâu.

Cẩm Hương cảm thấy mình mến cô bạn đồng hành trên chuyến xe nay. Cô cởi mở, hồn nhiên. Gần cái miệng, bên mép trái bờ môi cô có nốt ruồi tròn. Thứ gái nay ăn hàng xàm xạp tối ngày, ăn hàng không để cái miệng kéo da non, ăn hoài không ngán, ăn suốt tháng tròn năm… Cô ta tiếp:
– Cô đi qua nhà máy chừng một đổi thì nhà ông nội tôi, tôi sống với ông bà từ lúc nhỏ. Còn ba má và các em tôi ở gần trong Vườn Đào. Hôm nào mời cô vô nhà tôi chơi. Tôi tên là Ngọc Huệ. Còn cô tên gì? Cô làm gì ở quận nhỏ bé nầy vậy?
Ngọc Huệ nói đến đó thì xe đến bến. Mọi người nhanh chân xuống xe, cô ta cũng vậy. Cẩm Hương không gấp gáp gì, đợi mọi người xuống xe hết rồi nàng mới thủng thỉnh đi xuống. Trước khi được xe kéo đi, Ngọc Huệ còn nói lớn: “Nhớ hôm nào vô nhà tôi chơi nghen, đến máy chà cô hỏi nhà ông Cả Bảy thì ai cũng biết…”, Cẩm Hương đưa tay chào cô ta. Nàng quãy túi nãi trên vai, vừa đi vừa lẩm bẩm: “Người dân ở miền quê chân thành và hiếu khách”.
Chiều nay, trên đường dạy học về, Cẩm Hương lơn tơn đi với ba đứa học trò. Thu Lan và Ngọc Hà tranh nhau kể cho nàng nghe về mùa nước nổi bắt tôm trứng. Còn Vĩnh Hà là người gốc Huế thuộc dòng dõi vua chúa có cái tước hiệu quý tộc Nguyễn Phúc, thuộc thế hệ Công tằng Tôn nữ. Em điềm đạm, ít nói là trưởng nữ của ông bà Nguyễn Phúc Ưng Bằng về làm ở quận nầy trước nàng mấy tháng. Em lắng tai, chăm chú nghe hai bạn và mỉm cười nhiều hơn nói.
Mỗi tuần, cứ vào ngày thứ sáu, trước 45 phút tan trường, học trò lớp Cẩm Hương dạy phải ra sân cho huấn luyện viên môn thể dục hướng dẫn. Nên hôm nay các em về hơi trễ.
Khi Cẩm Hương cùng lũ học trò ra về thì mặt trời đã ngã khỏi rặng cây bên kia sông. Ánh sáng túa nhiều màu: xanh, đỏ, tím, vàng… phản chiếu nhau làm cả một vùng trời màu sắc thắm tươi rực rỡ. Gió chiều mát rượi lùa các cành lá cây ăn trái trồng hai bên đường va chạm nhau rào rào. Trên không trung, lác đác đám cò, vạc lẫn chim én chập chờn đôi cánh. Và trên nóc nhà nhà đã quyện tỏa làn khói nấu cơm chiều. Dưới dòng rạch, cặp ngỗng trắng đuổi rược nhau kêu cò két, cò két…
– Cô ơi! Cô ơi… Mừng quá hôm nay được gặp lại cô!
Cẩm Hương quay lại. Thì ra Ngọc Huệ, cô thiếu nữ nàng gặp và quen trên chuyến xe đò mấy tuần trước. Và còn có bà chị thân mến của Thiện Tố đi chung với cô nữa.
Cẩm Hương cũng vui vẻ:
– Chào chị Ngọc Huệ. Chị vẫn khỏe chớ? Chị đi chợ hả?
Tay xách mấy gói thuốc Bắc lủng lẳng đưa lên, Huệ nói:
– Không, tôi đi hốt thuốc cho ông nội tôi. Hổm rày ông bị ể mình. Còn đây là chị Kiều Lan con ông chủ nhà máy Phú Hưng ở bên kia sông đối diện nhà tôi. Chị Kiều Lan, còn đây là chị bạn tôi mới quen trên chuyến xe đò hôm tháng trước. À chị tên gì cà? Đến nay tôi vẫn chưa biết tên?
Ba đứa học trò cúi đầu chào khách rồi rù rì với nhau, sau đó đến gần Cẩm Hương “Thưa cô em vê, chào cô em về...chào cô em về”.
Ngọc Huệ cười để lộ hàm răng trắng đều. Nàng lanh miệng:
– Thì ra cô là cô giáo? Cô giáo tên gì đây?
Cẩm Hương nhỏ nhẹ:
– Thưa chị, tôi tên Cẩm Hương. Chị gọi tôi là Cẩm Hương được rồi.
Kiều Lan mở to đôi mắt xếch ngược, ngời sáng nhìn nàng. Chị ta làm mặt lạ làm mặt lạ cho Ngọc Huệ biết như chưa bao giờ gặp Cẩm Hương. Chị hỏi:
– Phải cô ở nhà trọ bên nhà dì Tư Hiền không?
Cẩm Hương nghĩ không biết mụ ta sắp dở trò gì đây? Nàng bảo:
– Dạ thưa phải.
Kiều Lan cười khẩy, hất mặt lên nhả nọc:
– Huệ à, em coi cô giáo đây đẹp khuynh quốc khuynh thành không? Đã vậy cổ theo cách Tây đầm giao thiệp với bạn trai rất là… hào sảng. Thuở Cai Lậy Quốc chưa có cô giáo nầy thì em là hoa khôi. Bây giờ em phải chịu làm á hậu rồi. Em có tức cho tới á khẩu không?
Ngọc Huệ vẫn hồn nhiên:
– Cô giáo tuy không đẹp theo kiểu hoa hậu, nhưng lại đẹp thùy mị đoan trang. Vậy cũng đủ làm cho mấy bà già trầu trong vùng mình hăng hái cầm trầu cau đi cưới cho con cháu họ rồi.
Kiều Lan nói:
– Hèn nào dì Tư Hiền, vợ bé của ba chị muốn đi hỏi cổ cho thằng em trai khác mẹ của chị đó đa.
Bỗng Kiều Lan hất hàm quay qua hỏi:
– Nè cô giáo, thằng em tui có cho cô biết lòi hứa hôn của ông Cả Bảy với ông nội tui chưa?
Cẩm Hương làm sao quên được Kiều Liên xon xỏn chửi, và còn hăm he Thiện Tố nữa. Người đời thường nói: “Khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Đừng dở dở ương ương chúng ghét” Bà chị nầy và cô em đó, xem bộ tánh tình không khác nhau chi mấy! Cô Kiều Lan nếu mặt không cau có, đôi mắt cô nếu không có cái nhìn nung nấu dữ tợn, nếu cặp môi quạu quọ của cô nở nụ cười thoải mái thì nhan sắc cô cũng trên trung bình. Cũng như cô em Kiều Liên tánh tình giống chị. Cô chị Kiều Lan nầy đã dữ tợn lồ lộ mà còn có vẻ ác ngầm nữa.
Cẩm Hương ấp úng trong miệng chưa biết nói gì, chỉ gật đầu. Kiều Lan đanh đá, bồi tiếp:
– Thằng em một cha khác mẹ với tôi vô phước có bà má đi giựt chồng người ta. Còn nó bây giờ lại học thói bỏ mồi bắt bóng, phụ khó tham giàu, làm trò lường gạt phản bội. Thật là mẹ nào con nấy, cả một phường không ra gì, cá mè cùng lứa mà!
Cẩm Hương vô cùng khó chịu trước thái độ trịch thượng, bất lịch sự của Kiều Lan. Nàng nghiêm giọng:
– Xin lỗi chị, chúng ta chỉ quen thôi, tôi chưa biết gì về chị và chị cũng không biết gì về tôi. Cho nên tôi nghĩ rằng chúng ta không nên nói đến người vắng mặt!
Nếu là một người khác, nghe Cẩm Hương nói câu đó sẽ mắc cỡ đỏ mặt tía tai. Nhưng Kiều Lan không chút nao núng, mặt không đổi sắc, còn tỏ vẻ thân thiện giả nhân giả nghĩa, làm bộ từ bi mèo khóc chuột chết. Chị ta tha thiết:
– Cô mới đến đây, tôi thấy cô không biết nên nói dùm, kẻo bị những người xấu gạt gẫm. Chớ thật ra chẳng có lợi lộc gì cho tôi cả. Vả lại họ cũng là người sống chung với chúng tôi mấy chục năm nay rồi. Tôi chỉ không muốn gia đình mình sau nầy mang tai tiếng xấu thôi. Mong cô hiểu, chứ tôi cũng không ác ý hay oán thù chi họ…
Cẩm Hương hết nhịn nỗi, nói thẳng:
– Cảm ơn chị, nhưng tôi chẳng dính líu gì với những người chị vừa nói cả. Nên chuyện của họ tôi thật sự không muốn nghe và cũng không muôn biết. Xin chị cảm phiền đừng nhắc đến nữa.
Kiều Lan chẳng có chút liêm sĩ, còn cười gằn và giọng nói càng đắng chát hơn. Cô ta nhấn mạnh từng chữ, từng câu một. Cẩm Hương ngẫm nghĩ “Thế gian nầy không có loạn chắc mụ không vui”. Kiều Lan hằn học:
– Cô không muốn nghe chuyện của người khiếm diện? Vậy thì tôi nói về người hiện có mặt ở đây! Tôi muốn nói đến Ngọc Huệ, chắc cô không phản đối chớ?
Cẩm Hương chưng hửng, giờ mụ muốn giở trò gì mà kéo Ngọc Huệ vào nữa đây? Nãy giờ Ngọc Huệ để Kiều Lan nói chuyện với cô giáo. Vì nàng vừa gặp người quen là vợ ông lái xoài đi ngang qua. Hàng năm vợ chồng ông lái, đều đến mua sát hết cả vườn xoài nhà cô để đếm bán lại cho bạn hàng ở Sài Gòn. Hai người vui vẻ hỏi thăm về chuyện vườn xoài và giá cả, cho nên Ngọc Huệ không để ý Kiều Lan và Cẩm Hương đang nói gì với nhau. Giờ bị Kiều Lan gọi giựt ngược, nàng chào bà lái xoài, bảo:
– Hôm nào thím cứ đến gặp ông nội tôi, ổng sẽ bớt cho, chỗ quen biết mấy năm nay mà, đừng có ngại…
Bà lái xoài chào chị rồi thoăn thoắt đi. Ngọc Huệ đi trở lại, tươi cười hỏi:
– Chuyện gì vậy chị Kiều Lan?
Kiều Lan không trả lời, kéo tay chị Ngọc Huệ lại trước mặt Cẩm Hương nói như hét:
– Cô Cẩm Hương, cô có biết Ngọc Huệ đây là ai không?
Cẩm Hương chưa kịp mở miệng thì người đàn bà độc địa nay giáng xuống một câu, làm nàng á khẩu luôn:
– Ngọc Huệ là hôn thê của thằng con ngoại hôn cùa ba tôi đó cô à!
Ngoài trời còn sáng trưng mà trong lòng của Cẩm Hương đã sụp tối! Ngọc Huệ không biết Kiều Lan đã châm ngòi chiến tranh với Cẩm Hương, cô ta cười, ánh mắt rạng rỡ và ướt rượt, Cẩm Hương choáng váng! Chỉ có nhắc đến người mình đang yêu nên Ngọc Huệ mới có cử chỉ như vậy! Chị ta đỏ mặt, bảo:
– Chị Kiều Lan nói bậỵ không hà. Em chưa phải là hôn thê của anh Thiện Tố. Chị nói vậy coi chừng mất duyên con gái của em đó. Thôi, mình về đi. Trời cũng sắp tối rồi. Chào cô giáo nghen, hôm khác gặp lại, có dịp nào mời cô đến nhà tôi chơi.
Kiều Lan vùng vằng chưa chịu bỏ đi. Ngọc Huệ dịu dàng bảo Cẩm Hương:
– Tui đâu có quan tâm đến sự sắp đặt của ông bà hai bên. Ba má tui nhờ thầy bói khoa Tam Nguơn Đồ Hình coi tuổi của tui và tuổi ảnh khắc nhau. Ba má tui cưng, không muốn tui khổ nên có ý không bằng lòng. Nhưng ông nội tui thì cương quyết gả. Còn đối với tui, tiến tới hay rút lui cũng không quan tâm lắm. Ảnh cũng bảnh trai, có học hành, vui vẻ, đàng hoàng. Nhưng tui chưa có cảm tình với ảnh nhiều, cho nên sao cũng được. Tính vô cũng cá vồ cá tra. Tính ra cũng cá tra cá vồ.
Cẩm Hương ngầm thở dài. Rõ ràng đây là lời nói nước đôi, nửa xôi nửa chè, nửa cá he nửa cá chẻm. Ngọc Huệ hối:
– Thôi tụi mình về, chị Kiều Lan.
Nãy giờ tuy làm thinh, nhưng lòng ganh ghét của Kiều Lan vẫn còn sôi sục. Nàng chưa chịu buông tha Cẩm Hương:
– Ủa, Huệ quên đi thử áo mới đê hôm ra mắt họ nhà trai sao?
Ngọc Huệ chưng hửng:
– Nhà trai nào?
– Thì bên chàng trai oai phuông lẫm lẫm đó!
Ngọc Huệ nhéo Kiều Lan:
– Giỡn hoài! Cái thứ ăn hàng hà rầm như em ai mà thèm đi coi mắt chị ơi?
Kiều Lan liếc xéo qua Cẩm Hương:
– Huệ giỡn thì có, hôm chị gặp má Huệ trong chợ, bà đã cho chị biết hết rồi.
Cẩm Hương nghe đối đáp: “Vậy hả? Với em thì sao cũng được…”.
Họ đã đi rồi! Cẩm Hương như cái xác không hồn, lửng thửng về nhà trọ. Mọi sự vật chung quanh nàng không còn ý nghĩa gì nữa cả. Bao nhiêu mộng đẹp đã vỗ cánh bay đi. Cõi lòng nàng tan nát. Từ nhỏ đến bây giờ nàng mới yêu được một người, và được hai bên cha mẹ hài lòng, và ngấm ngầm khuyến khích. Nàng không đòi hỏi cao xa, mơ mộng viễn vông. Nàng đặt hết niềm hy vọng vào người ấy, mong rằng sau nầy hai người sẽ có một mái gia đình ấm êm và hạnh phúc. Nàng luôn tự nói với lòng sẽ phụng dưỡng kính yêu mẹ chàng như mẹ mình và hiếu thảo với bà để cho bà được hạnh phúc ở tuổi xế chiều. Nàng thừa biết rằng từ thuở thiếu thời bà luôn gặp cảnh bất hạnh, trái ngang.
Cẩm Hương thở dài ngao ngán! Một ước muốn bình thường như vậy mà thật sự sao quá khó khăn! Nàng không biết làm gì để khuây khỏa đây? Nàng dã dượi lười biếng không muốn ăn, không muốn ngủ, không muốn làm bất cứ việc gì… và chán nản vô cùng.
Gió chuyển mùa, các lá cây trước nhà trở màu xanh già, rồi vàng và rụng bay tua tủa nhứt là lá so đũa, và lá me nhà hàng xóm. Mặt nước kinh sau hè phẳng lặng, chỉ gợn vài làn sóng lăn tăn khi nhánh cây khô nhỏ rơi xuống hay chiếc lá lìa cành lảo đảo rớt trên mặt nước đậm phù sa của con kinh đào nầy.
“Hò ơ…chèo ghe bán cả lòng tong
Em xa người nghĩa khóc ròng như mưa
Hò ơ… tay em hái trái bí đao mà mắt em trào lệ thảm
Xa vắng anh rồi thiên ảm địa hôn…”
Giọng hát của bà hàng xóm nghe buồn não nuột và hợp với hoàn cảnh của Cẩm Hương làm nàng rướm nước mắt.
Suốt mấy cái cuối tuần rồi, cứ mỗi chiều thứ sáu tan trường là nàng đi qua lộ đón xe đò đi Sài Gòn rồi từ Sài Gòn đi xe về Lái Thiêu. Đến sáng sớm thứ hai nàng xuống xe đò trước cửa trường, đi thẳng vào lớp dạy ngay. Nàng cố tình tránh né không muốn gặp bà Tư Hiền và nhứt là Thiện Tố. Bà Tư Hiền là một người chất phác thật thà. Con bà đã có hứa hôn, bà sắp có dâu, mà tại sao còn hùa với con để cố tình gạt gẫm nàng? Lòng người thật khó hiểu! Thật không ai có thể biết trước được họ muốn gì?
Sáng sớm Cẩm Hương ngồi sau hè nhà, trầm ngâm nhìn làn khói tỏa bay từ những thư từ đang đốt trong chậu sành. Biết tâm sự của con, bà Ký Tân khuyên lơn:
– Con đừng tự gạt mình nữa! Bộ đốt hết thư từ rồi, là quên hết được sao? Nhớ thương vẫn là nhớ thương, không dễ dàng quên được đâu. Má chỉ mong con đừng vì ai mà đau khổ mãi, đừng khựng lại ở những gì đã qua.
Cẩm Hương hết sức ngạc nhiên, nàng không ngờ mẹ mình có những ý tưởng thâm trầm và cao đẹp như vậy. Nàng mỉm cười, ánh mắt kính yêu và tự tin nói với mẹ:
– Cảm ơn má, má cứ để mặc con đau buồn, rôi chuyện đâu cũng sẽ vào đấy.
Bà Ký Tân trìu mến nhìn đứa con gái độc nhứt của mình. Bà xuống bếp bớt lửa, đậy nấp um nồi đậu đen cho mau mềm để nấu chè với táo khô. Và trước khi múc ra chén, ra tô, bà còn cho thêm vào dừa rám, khổ tai xắt mỏng để cả nhà bà giải lao.
Chiều thứ sáu hôm nay, khi hết giờ dạy học là Cẩm Hương xách túi nải ra lộ đón xe đi đến chỗ của Thục An ở Bến Tranh. Con nhỏ đó còn nhắc mấy đứa bạn ngày xưa về họp mặt như đã hẹn trước, để đập bồn đập bát một bữa cho vui, vì lâu quá bọn nàng chưa gặp lại nhau sau gần cả năm rồi.
Bến Tranh là một quận trù phú, nằm sát Quốc Lộ Bốn và liên tỉnh lộ 29 là những đường giao thông quan trọng nối tỉnh Định Tường với các tỉnh lân cận. Quận Bến Tranh không nhiều vườn tược sản xuất cây ăn trái sầm uất như quận Cái Bè, hay như các huyện khác trong tỉnh. Tuy nhiên, Bến Tranh có nhiều ruộng cung cấp gạo quý như nàng hương, gié vàng, nanh chồn. Có nghề nuôi tằm, dệt vải, cùng các tiểu công nghệ khác như đương đệm, làm túi xách đệm, làm đệm trải, làm nóp đệm để ngủ thay mùng, đương thúng rổ tre Những sản phẩm ở đây nổi tiếng đương khéo, đương dầy dặc, lâu bền. Nên rất được chiếu cố.
Cẩm Hương đến nhà Thục An sớm nhưng vẫn sau cô bạn Thụy Châu. Con nhỏ Thục An, đang ở với mẹ trong ngôi nhà thờ ông bà của cha mẹ nó từ nhiều năm nay, sau khi cha nó là chú Hương Hào Trạch theo vợ bé ở Cầu Dầu gần chợ Vòng Nhỏ (Mỹ Tho). Nhà của Thục An như là cái biệt thự, rộng rãi, có nhiều phòng và cách xa những nhà lân cận bởi hàng rào bằng đa cao quá đâu, nên cho dù bọn họ có đông người, gây ồn ào cũng không làm phiền đến hàng xóm.
Cái sân nhà của Thục An được lót gạch tàu, giữa có bày hòn non bộ, hai chậu cau kiểng, hai chậu mai chiếu thủy, bốn chậu lan đất, mấy chậu bông lài, mai tứ quí… Bông huệ, cây kiểng tầm thường được chăm sóc chu đáo nên trổ bông ê hề, trổ lá rậm rạp. Ba của Thục An tuy mê vợ bé nhưng cũng thường về thăm viếng vợ lớn, các con và chu cấp tiền bạc nuôi con rất đầy đủ.

Nguyên do chú Hương Hào Trạch sống một kiểng hai quê là cũng do ý muốn của thím! Số là thím đẻ cho chú một trưởng nam, ba đứa con gái, mà Thục An là cô gái út. Khi Thục An được tám tuổi, thím lại có thai. Thai nhi bị chết trong bụng mẹ khi được sáu bảy tháng gì đó. Thím phải đẻ non. Lần đẻ đó tưởng thím qua đời, và thím bịnh kéo dài cả năm. Từ đó thím không thích gần gũi chồng, và khuyên chú nên kiếm vợ bé.
Chú Hương Hào Trạch buồn bã, than với dòng họ, bạn bè. Kỳ đưa thím đi viếng chùa Vĩnh Tràng ở miệt Chợ Cũ Mỹ Tho đi vô, để tạ ơn Đức Quan Âm Bồ Tát. Nơi đây, vợ chồng chú gặp cô gái tên là Sáu Cầm đến làm công quả cho chùa. Cô Sáu cầm lỡ thời, tánh tình hiền lành, vui vẻ… Thế là Chú Hương Hào Trạch và cô Sáu Cầm dính với nhau. Thím cũng chấp nhận. Cô Sáu Cầm biết điều lắm. Dù ở riêng nhưng thỉnh thoáng cô cũng tới lui thăm lom vợ lớn của chồng, quà cáp trong những ngày giỗ và Tết nhứt.
Hôm nay, thím Hương Hào Trạch đi Giáp Nước (ở vàm Hòa Khánh thuộc quận Cái Bè, đi đường tàu một đổi qua sông Cửu Long là địa phận của tỉnh Vĩnh Long) thăm hai bà chị. Nhà chỉ còn có chị bếp già. Trước khi đi, thím dặn con gái:
– Mấy thuở chị em bạn bè bây gặp gỡ nhau. Con phải tiếp đãi cho tử tế. Má có nấu nồi ca-ri vịt để ăn với bún. Nồi thịt bắp đùi, trứng và cá lóc, má đã kho xong trên bếp đó. Dưa cải chua đã xắt vừa miếng ăn ướp sẵn đựng trong thố, để ở tủ lưới ngăn trên, ngăn dưới còn có hột vịt muối, tôm khô trong keo, và gói lạp xưởng. Chị bếp cũng đã nấu nồi canh chua cá bông lau. Má có mua sẵn mấy trái dưa leo, cà chua, củ hành tây và trái su đựng trong rổ. Nếu cần thì con cứ lấy ra xào nấu cho bạn bè ăn. Trái cây sắp trong dĩa bàn cũng đã rửa sạch rồi…
Thụy Châu trong phòng tắm bước ra, trông sạch sẽ và mát rượi mặc dù nó ốm tong như cây tăm xỉa răng. Tội nghiệp con nhỏ, khi hay tin hôn phu của nó cưới vợ đầm, nó bịnh luôn cả tháng không ngồi dậy nổi. Cẩm Hương nhớ lúc nghe tin đau khổ của bạn, nàng không khỏi rủa lén: “Đồ cái thằng gặp đó bỏ đăng, thấy trăng quên đèn thế nào cũng gặp quả báo! Sẽ bị con đầm đó cho nó cặm sừng to như sừng bò hống vậy!”. Thấy Cẩm Hương, Thụy Châu mừng quýnh lên:
– Thành hoàng Thổ địa ơi, bấy lâu nay mầy trốn đâu mất biệt vậy con quỉ? Tao chẳng biết tin tức gì của mầy cả. May là tao gặp con Ánh Nguyệt trong chợ Ông Tạ (Sài Gòn) nói, tao mới biết mầy vẫn còn hiện hữu trên cõi phàm phu tục tử nầy…
Thục An cười ha hả:
– Thấy chưa Cẩm Hương, con Thụy Châu dạo nầy tiến bộ ngó thấy.
Thụy Châu cười:
– Tại nhờ anh mầy bỏ tao, nên tao mới khôn ra. Nếu lấy anh mầy chắc tao đã thành mụ già lú lẫn không chừng.
Nghe hai đứa vui vẻ nói cười, Cẩm Hương thầm phục nhỏ Thụy Châu và cũng thầm khen con Ánh Nguyệt. Đang khi Thụy Châu và anh Thịnh yêu nhau da diết thiết tha, và cũng đã đính hôn rồi, vậy mà nó dám tiên đoán là cuộc hôn nhân họ sẽ không thành!
– Ê, tao bận tay, đứa nào ra mở cửa xem ai đến nữa vậy bây?
Tiếng nhỏ Thục An eo éo dưới bếp vọng lên. Cẩm Hương và Thụy Châu cùng đi ra mở cửa. Người mới đến còn ở ngoài sân mà nghe cái giọng rổn rảng cùa nó thì biết ngay là ai rồi, Thục An làm bộ không nghe thấy, nhìn ra cửa sổ xem độ rày cô nàng xảnh xẹ nầy ra sao?
– Thục An đâu? Cô tiểu chủ của cái nhà lớn quá xá nầy đâu rồi? Sao không ra tiếp khách quý là người đẹp đất Định Tường ai thấy cũng thương đã đến rồi nè…
Đó là Ánh Nguyệt, cái con mắc toi, mà Ái Mỹ đã đặt cho biệt danh là Gia Cát Lượng. Đây là thứ gái có cái miệng tía lịa, tía lia, lanh lợi, lẹt chẹt đôi lúc làm bực mình kẻ khác đó. Nhưng tâm của nó lại hiền, tánh tình chân thật, dễ dãi, không độc ngầm, lúc nào cũng tận lòng giúp đỡ bạn bè. Mặc dù cũng có đứa lợi dụng tánh tình dễ dãi của nó, nhưng khi biết được, nó chăng một chút giận dữ, oán hờn hay thù ghét… Chưa ai thấy nó buồn được nửa ngày, chưa bao giờ nghe nó nói không ưa ai, và cũng chưa hề giữ lâu chuyện rắc rối được 3 ngày trong bụng… Có lẽ nhờ thế mà con nhỏ tròn trịa, tươi mát, trẻ mãi không già, càng ngày lại càng đẹp phơi phới hơn các bạn trong nhóm.
– Chu mẹt ơi! Sao dạo nầy mầy đẹp chi mà đẹp lạnh đẹp lùng như vậy hả Ánh Nguyệt? Tao bắt đầu ganh tị rồi đây! Ái Mỹ viết thư cho tao nói cùng đi với mầy đến đây hôm nay mà. Nó đâu rồi?
Được Thụy Châu khen tới tấp làm nhỏ Ánh Nguyệt cười ha hả có vẻ khoái chí tử lắm. Thay vì trả lời người khen mình, con nhỏ lại quay qua hỏi Cẩm Hương:
– Ê, làm gì chị thộn mặt nhìn trân, nhìn tráo mặt em vậy hả chị Cẩm Hương? Bộ trên mặt em có vẽ chữ cho chị đọc sao? À con Ái Mỹ chết bằm đó cuối tuần nầy được hôn phu nó về thăm. Nên không biết ả ta có đến không nữa? Thôi tụi mình hãy tha thứ cho nó, đừng chấp nhứt chi con yêu lồi đó vì nó đang yêu và được yêu mà.
Cẩm Hương nguýt bạn, trề môi nói:
– Xì, dạo nầy sao binh cho nhỏ Ái Mỹ quá vậy? Mầy nói đúng quá, trên mặt mầy đang hiện rõ chữ “cà chớn” để tao đọc đó!
Thục An, còn cầm cái khăn lông nhỏ lau tay, vừa đi ra vừa nói lớn:
– Mấy con kia sao không vào nhà mà đứng ở đó xí xô xí xào vậy? Con Ánh Nguyệt truyền nghề bói toán cho mầy hồi nào mà bây giờ mầy vượt qua, đọc được cả chữ vô hình trên mặt sư phụ vậy Cẩm Hương?
Cả bọn vừa đi vào nhà vừa cười rộ vui vẻ. Mãi đến gần 7 giờ tối con Nguyệt Mi mới lò mò tới. Nó phụng phịu càm ràm với các bạn:
– Mấy chị xem, con thần thừ Ái Mỹ hẹn 2 giờ chiều tới nhà tui để hai đứa cùng đi đến đây. Đợi mãi gần 4 giờ, tui sốt ruột sợ trễ xe, nhưng nó cũng chẳng đến. Tui định bỏ đi, nhưng ngặt nỗi là nó chưa bao giờ thất hẹn nên phải rán chờ thêm chút nữa. Đến 4 giờ hơn, thằng em trai nó chạy cót két xe đạp đến cho biết nó không đi được! Thật là đồ quỉ sứ báo hại mà. Tui lật đật bao xe thổ mộ đến đây liền.
Bạn bè làm bộ xuýt xoa ra vẻ cô là đứa thật đáng tội nghiệp lắm!
Nguyệt Mi là cháu gọi cô Sáu cầm bằng dì, học trường Collège de Mỹ Tho, chớ không phải bạn học của 5 cô áo tím. Tuy nhiên Nguyệt Mi rất mến Thục An và Ái Mỹ, Ánh Nguyệt nhưng không thân thiện lắm với 2 cô kia.
Ánh Nguyệt thường bảo lũ bạn bè:
– Con Nguyệt Mi hiền lành, nhút nhát, nay nhập bọn với mấy đứa chằn ăn trăn quấn như tụi mình. Nó sẽ cảm thấy lạc loài, rồi rút lui gấp, rút lui như gặp phải tà, ma, quỉ quái vậy.
Lần đó, Ái Mỹ cãi lại:
– Đừng có quả đoán mầy. Chị Cẩm Hương cũng hiền lành, chững chạc, ăn nói mực thước. Vậy mà sau khi nhập vào bọn mình, chỉ lại làm đầu thầy.
Thục An nhận xét:
– Cẩm Hương ngọt như đường cát, mát như đường phèn và lành như sương sa, sương sáo, sương sâm. Cô ả lại dễ cảm thông cho cái tật cà chớn của bọn mình. Ả thích nói bông đùa cho vui câu chuyện, chớ không hề nói tục, nói trây. Nhưng nghe bọn mình nói trây, ả chỉ cười ngất, rồi bỏ qua, không khó chịu hoặc chê bọn mình vô duyên mất nết…
Ái Mỹ cười rúc rích:
– Bọn mình có nết đâu mà mất?
Cẩm Hương trề môi liếc Ái Mỹ, rồi phản đối:
– Thôi Ái Mỹ ơi, đừng có nịnh bợ tao và hạ mình như vậy không nên. Tao chỉ cố gắng ở bầu thì tròn, ở hộp thì vuông cho cả bọn được thoải mái. Tụi bây đừng có tưng bốc tao quá. Tao mà bay cao sẽ té xuống nát thịt tan xương ngay.
Ánh Nguyệt cười hềnh hệch:
– Chị mà té xuống thì có em ra hứng, đỡ chị về Cai Lậy rồi giải giao cho anh Thiện Tố để ảnh an ủi và vỗ về chị.
Thụy Châu thiệt tình, lên tiếng.
– Thôi đi tắm đi rồi ra ăn tối. Hôm nay mầy vất vả nên khỏi làm công tác dọn cơm. Và sau bữa ăn khỏi rửa chén. Để bọn tao làm hết cho Nguyệt Mi.
Ánh Nguyệt tiếp lời Thụy Châu liếc liếc xuống bếp, nói lớn:
– Phải à, Nguyệt Mi đi tắm cho mát mẻ rồi ra ăn cà-ri dê và cơm nị của con Thục An nấu. Tụi bây có biết sao chúng ta sẽ được thưởng thức món ăn, và cơm lạ nấu theo kiểu Ấn Độ nay không?
Mấy đứa kia nhao nhao lên. Riêng Cẩm Hương thấy miệng Ánh Nguyệt cười chúm chím, cặp mắt có vẻ tinh nghịch, nghĩ thầm: “Không biết đến phiên ai sẽ là nạn nhân của con nầy đây?”. Ánh Nguyệt trợn mắt hỏi các bạn:
– Thật sự tụi bây không biết gì sao? Chu choa ơi, quả là chậm tiến! Có gì là lạ đâu, con Thục An sắp sửa lấy chồng, nên đi học nấu ăn đãi bọn mình trước, để rút kinh nghiệm khi về làm dâu cho gia tộc nhà chú Bảy Chà có tiệm bán hàng vải gần nhà hàng Chamer giàu nức trứng ở Sài gòn đó tụi bây ơi!
Cả bọn cười bò lăn! Con Thục An đang chụm lửa, chịu không nỗi xách cái nùi lau bếp rược chọi Ánh Nguyệt, cười chảy nước mắt và rủa xả om sòm…
Hôm nay có mặt 5 nàng ở đây, như đã hẹn với nhau từ năm ngoái, lúc họp mặt ở nhà Ánh Nguyệt. Theo lẽ thì phải 6 người kể từ dạo Nguyệt Mi nhập bọn thì là “Lục Nữ La Sát” chớ không còn là “Ngũ Nữ La Sát” nữa. Mai kia cả bọn có gia đình hết rồi thì muốn có hai, ba mống họp mặt chưa chắc đã được. Những buổi họp mặt hàng năm các cô kể lể cho nhau nghe, những chuyện vui, buồn… Rồi họ ăn uống, đi thăm di tích lịch sử, xem phim… Từ trước đến giờ cả bọn chỉ mới đi dự đám cưới của Thụy Châu tháng Giêng năm rồi thôi.
Tình trạng Thụy Châu đáng thương lắm! Sau ngày bị thằng anh ôn dịch của nhỏ Thục An bỏ, nó xất bất xang bang kéo dài gần hai năm trời nhỏ ta không bước ra khỏi nhà.
Nhưng sau cơn mưa, trời lại sáng chớ bộ! Có một hôm, em trai nó đi dọ giá lúa ngang qua ghé lại giây lát thăm chị mình. Thụy Châu lại lọt vào đôi mắt bù lạch ăn của bác thông ngôn quan Chánh Tham Biện, quen với em nó cũng có mặt hôm đó. Thế là thằng em làm Ô Thước bắc cầu. Vậy là năm rồi “Lục Nữ La Sát” gồm có: Thục An, Ái Mỹ, Cẩm Hương, Ánh Nguyệt, Thụy Châu, Nguyệt Mi. Cả bọn 5 cô kéo nhau về dự đám cưới của nhỏ Thụy Châu. Chủ rể lớn hơn cô dâu những 13 cái xuân già, vợ chết, nhưng không có con riêng. Anh chàng công chức bảnh trai đứng bên nàng Thụy Châu mảnh khảnh, nên trông đôi uyên ương nầy không chênh lệch về tuổi tác cho lắm. Phu quân nó cưng vợ, giỏi nịnh đầm nên nó không bận rộn hoặc bị ràng buộc như những người phụ nữ có chồng khác.
Nguyệt Mi chợt hỏi:
– Chị Cẩm Hương, sao chị có vẻ buồn quá vậy?
Cẩm Hương chưa trả lời, Thục An chợt thấy Thụy Châu vừa nhai ngồm ngoàm trái ổi chua chấm muối ớt, vừa hít hà vì cay, lên tiếng hỏi:
– Ủa, bộ mầỵ có bầu hả Thụy Châu? Tự nãy giờ tao thấy mầy chiếu cố nhiều về những trái chua đó nghen.
Thụy Châu cười hí hí:
– Vợ chồng tao đang mong đây! Chưa có mầy ơi. À mà nhỏ Nguyệt Mi nhận xét coi bộ đúng. Chuyện gì mà mầy có vẻ tâm sầu bạch phát quá vậy Cẩm Hương?
Ánh Nguyệt lại lên giọng thầy đời:
– Ở đây có Gia Cát Lượng, có trạng sư, có phụ thẩm, và tui cũng đã từng làm quan tòa xử tụi bây rồi. Cả bọn toàn là thứ tai to mặt bự có tầm vóc! Kể đi chị Cẩm Hương. Tụi em nghiên cứu tình hình, tìm cho chị một giải pháp ổn thỏa. Đừng có xạo, làm bộ ngây thơ vô số tội nói với bọn nay là chị không có gì hết đó nghen.
Mấy con khỉ đột có tài chí chóe nay đang dồn dập hỏi Cẩm Hương, cho dù không nói cũng không được với bọn chúng. Nàng chưa kịp mở miệng thì Thục An bỏ mỏ tới:
– Nè Cẩm Hương, mặc dù mầy được nhỏ Ánh Nguyệt truyền nghề bói toán, nhưng mầy có giỏi đến đâu cũng thua cái nhận xét thần thông quảng đại và đầy kinh nghiệm của sư phụ, có đúng không? Cho nên mầy hãy thành thật khai báo đi, đừng để nó lật tẩy thì ể mặt lắm đó…
Cẩm Hương đang buồn, nhưng cũng cố tạo cho mình miệng cười tươi. Tuy nhiên thật sự cái miệng nàng cười méo xẹo như miệng cô đào Năm Phỉ ca bản “Văn Thiên Tường”, cô nầy vừa ca vừa khóc nhểu nhão. Nàng dùng kế hoãn binh:
– Tụi bây chỉ giỏi tài đoán mò thôi! Bổn cô nương còn “khuya” mới buồn! Nhưng mà tụi bây nói cũng phải, trước sau gì tao cũng kể cho bọn bây biết nơi ăn chốn ở của kẻ hèn nầy. Nhưng không phải ngay bây giờ đâu. Khi nào thiên thời, địa lợi, nhân hòa thích hợp thì tao mới kể được. Thôi, khoan nói chuyện tao đã, tao thật sự rất mừng từ ngày con Thụy Châu giã từ đời độc thân bởi có bóng tùng để nương tựa. Con Ái Mỹ thì cũng có anh chàng bảnh trai đặt cọc rồi.
Thụy Châu chớp chớp bờ mi, làm vẻ hiu hiu thơ mộng như mấy người đẹp trong tranh của họa sĩ Tô Văn Vân ngoài Hà nội:
– Chồng tao tuy lớn tuổi hơn tao, tuy làm thầy thông ngôn cho quan Chánh Tham Biện, nhưng vẫn có tài băng bó vết thương lòng của tao còn giỏi hơn mấy ông thầy lang Tây hành nghề.
Thục An cũng lim dim đôi mắt, gật gù:
– Ừ hén, tao thấy mầy lóng rày lấy lại niềm vui sống. Tuy còn ốm nhom nhưng da dẻ mầy bắt đầu hồng hào. Tao nghe con Ái Mỹ nói chồng mầy bắt mầy uống thuốc bổ dầu gan cá thu mỗi ngày.
Thụy Châu cười:
– Phải rồi, lúc đầu uống dầu gan cá thu tanh quá là tanh, nhung uống riết rồi quen đi. Nhờ thế mà da dẻ tao bây giờ mới hồng hào như bọn bây thấy đó.
Nguyệt Mi cười:
– Chị Thụy Châu ơi, em nghĩ ảnh cưới chị vì cái ốm thơ ốm mộng của chị đó. Thôi thì để như vậy, tội gì uống thuốc bổ làm chi. Thuốc có nhiều thứ vừa hôi vừa tanh lại vừa đắng…
Ánh Nguyệt lườm:
– Hắn muốn Thụy Châu uống thuốc bổ là muốn nhỏ mập mạp, muốn vợ mình có da có thịt tươi mát đó đa. Chắc hắn không muốn đêm đêm ôm ấp bộ xương cách trí, hay ăn nằm với con khô cá hố…
Cả bọn cười rộ lên. Cẩm Hương mắng:

– Chuyện gì mà lọt vào cái miệng của con Ánh Nguyệt thì cũng trở nên dữ dằn gớm ghiếc cả. Thụy Châu như Nguyệt Mi nói, có vóc dáng mảnh khảnh như liễu rủ mai gầy, đó là ốm đẹp chớ có khô đét da bọc xương đâu.
Bỗng con Thục An rống họng nháy theo giọng kép Tư Út đóng vai Điệp trong vở cải lương “Hoa Rơi Cửa Phật”, phỏng theo sự tích cuộc tình Lan và Điệp: “Em Lan ôi tội tình chi mà em phải chịu đọa… ư đày”.
Nhỏ Ánh Nguyệt ngó chung quanh, không thấy ai khác ngoài mấy đứa bạn thân của mình, nên nó cũng lấy giọng hát tiếp: “Em Lan ôi, tội tình chi mà em phải tuột…ư quần!”.
Cả bọn ôm bụng cười ầm lên, nhưng đứa nào cũng mắc cỡ đỏ mặt tía tai, xúm lại đấm trên vai Ánh Nguyệt thùm thùm. Thụy Châu mắng:
– Bộ mầy điên rồi sao? Ca hát bậy bạ nghe mà phát nổi da gà.
Thục An rủa:
– Mầy là con mắc dịch mắc toi! Không để cho cái miệng sạch sẽ, chỉ hát những câu tục tĩu dơ bẩn không hà. Tao nghĩ nhà mầy ở kế bến xe đò nên ngày nào cũng nghe bọn đánh xe, bạn hàng, hành khách trật búa…ca hát nhảm nhí, ăn nói trây trúa, riết rôi mầy quen miệng.
Cẩm Hương điềm đạm:
– Tuy vậy, trước mặt người lớn nó tỏ vẻ hiền lành, trước nam phái nó tỏ vẻ đoan trang thùy mị. Chỉ khi nhập bọn với tụi mình thì nó trổ quỉ, trổ yêu.
Ánh Nguyệt ỏn ẻn hát thêm: “Em Lan ôi, tội tình chi mà em phải cạo… ư đầu“. Cả bọn lại phá lên cười hăng hắc. Nguyệt Mi, ngưng cười, nói:
– Rất may trong bọn không có người nào tên Lan cả.
Thụỵ Châu điệu đà:
– Nếu tao tên Lan, tao cũng nấu chè cúng ông bà ông vải của tao, xin đổi tên khác.
Thục An vo vảnh:
– Mèn ơi, tao định lấy biệt hiệu là Thu Lan. Nhưng thôi tao sẽ nghĩ sửa lại tên khác để mấy con yêu lồi tụi bây không có cớ chọc quê.
Nguyệt Mi làm giọng chị cả:
– Con Thục An thì chúng ta không phải lo nhiều, bởi anh Louis Trần Đình Linh đang chết mê chết mệt nó đó bây ơi. À mà nay, anh ta là dân Tây, trong tương lai chắc mầy sẽ đeo đít tàu theo hắn về Pháp? Bọn tao không ganh tị mà chúc phúc cho mầy đó Thục An. Nhưng hãy nhớ có ăn ra-gu và món bít-tết thì vài tháng cũng nên ăn canh chua cá kho tộ. Đừng có quên những món quốc hồn quốc túy nghen mậy.
Nguyệt Mi vừa dứt lời thì Ánh Nguyệt đổi đề tài, chỏ mỏ xực liền:
– Nguyệt Mi ơi, sao lúc nầy mầy nói chuyện giống bà già đi âm phủ quá vậy? Mấy đứa có đôi có cặp nhắc đến làm gì? Điều đáng nói là việc của chị Cẩm Hương, và tội nghiệp cho tao với mầy đang còn độc thân vô thời hạn đây nè. Tao đang tìm một đứa để hẹn hò, để làm đẹp phố phường mà mãi đến bây giờ chẳng đào đâu ra một mống. Thật là chán ốm, chán lỏm cái bụng!
Thục An vào trong bưng ra một rổ trái cây vun chùn, nào xoài sống, cốc, điều, mận, bòn bon, chôm chôm, mãng cầu, xa-bô-chê, ổi… Cuối bàn thì có sẵn cốm chuồi sầu riêng, kẹo đậu phọng, thau cốm dẹp trộn dừa và bình nước trà nóng. Dưới bếp còn sôi ùng ục nồi chè thưng. Lần nào họp mặt cũng vậy. Từ đêm đầu thứ sáu, cho đến suốt đêm thứ bảy rạng chúa nhựt, tối ngày cả bọn cứ ăn hết mặn, tới ngọt, bùi, chua, chát không ngớt. Cả bọn chí chóe sáng cả đêm không ngủ. Đứa nào mòn mỏi lắm chợp mắt một chút thì lại góp chuyện ồn ào, nên đố ai mà ngủ cho vô.
Con Ánh Nguyệt có lần đã nói: “Đêm nào cũng ngủ, ngủ từ khi lọt lòng mẹ cho đến bây giờ. Ngủ riết rồi sẽ bị mục mắt, và ngày nào đó tụi bây sẽ hối hận khi khám phá ra rằng đời người ngắn ngủi, sao không đi đó đi đây. Nếu mình ngày ngày cứ hùng hục làm việc để có tiền nuôi thân, thì mình lợi dụng đêm mà hưởng thụ những gì chính mình đã tạo ra… Cứ đêm nào cũng ngủ như vậy hoài thì há không phải là một mất mát lớn của kiếp người sao?”. Cả bọn cười vỗ tay tán thưởng … Có đứa cho là con nhỏ có lối suy nghĩ sâu sắc lịch lãm chuyện đời. Có đứa nói nó là bà cụ non. Có đứa nói, đồ điên, không ngủ có sức đâu mà làm việc. Có đứa còn nói nó bị nhiễm bởi ảnh hưởng nghề nghiệp của thằng anh nó làm xếp nhà máy điện, gần điện riết rồi bị “mát dây”.
Thục An cười lớn:
– Ánh Nguyệt à, thôi thì mầy đi cưới anh chàng Tuấn, làm em dâu của Cẩm Hương đi. Tụi bây có vẻ xứng đào xứng kép. Bởi mầy thì như con chim chèo bẻo tối ngày không để cái miệng kéo da non. Còn chàng Tuấn thì ít nói, lầm lì như cóc hầm hơi, nhưng ưu điểm của hắn là chân thành và làm việc có tiền nhiều để mầy tha hồ mua sắm…
Ánh Nguyệt háy Thục An. Cẩm Hương hứng chí cười lớn:
– Cảm ơn Thục An nghen. Bỗng dưng mầy nhắc chuyện nầy. Tao cũng thấy thằng Tuấn cưới con Ánh Nguyệt thật đẹp đôi và thật xứng. Mầy nghĩ sao con chim chèo bẻo? Có muốn làm em dâu tao không?
Thụy Châu nhăn mặt:
– Tụi bây không biết tâm lý con gái chút nào! Ai lại đi hỏi đối tượng một cách trắng trợn như thế bao giờ? Người ta là con gái, mắc đái cũng tìm lùm cây, còn tự ái và mắc cỡ nữa chớ. Nhưng tao thấy con Thục An nói đúng, và con Cẩm Hương ăn chắc rồi. Tụi bây biết không? Con bạn Ánh Nguyệt của chúng ta tánh tình như con trai. Trong bọn chỉ có Nguyệt Mi bằng tuổi hoặc nhỏ hơn vài đứa, còn lại thì bằng hoặc trên dưới nhau có 2, 3 tuổi thôi. Nhưng con Ánh Nguyệt luôn luôn gọi nhỏ Cẩm Hương bằng chị nghe ngọt sót. Đó là chuyện thứ nhứt, chuyện thứ hai là còn lâu nàng mới ngán nói đến chuyện lấy chồng. Nhưng lần nầy thì khác! Tụi bây mỗi đứa có 2 con mắt hãy nhìn xem nàng đã hồng hồng đôi má, và từ từ mặt đỏ như trái dưa hấu xẻ đôi rồi kia…
Bị các bạn cười chọc ghẹo ầm ỹ. Ánh Nguyệt phóng tới đấm lịch bịch vào lưng Thụy Châu, chống chế yếu xìu:
– Đừng có xạo nghen. Bộ có mình tao gọi Cẩm Hương bằng chị hả? Tụi bây cũng gọi như vậy. Tao gọi Cẩm Hương bằng chị ngay từ còn trung học, vì tao nể cái tính nhu mì, đằm thắm, chững chạc của chỉ. Tụi bây đừng có hùa với nhau dựng chuyện để tấn công tao. Và tụi bây cũng đừng hòng, bổn cô nương đã có người tình rồi.
Nguyệt Mi la lớn:
– Nhỏ Ánh Nguyệt có người tình không chân dung, hoặc người tình trong tiểu thuyết đó mấy chị ơi!
Ánh Nguyệt thật sự nghe lòng mình vui vui và thẹn. Nàng nhớ mỗi lần đến nhà chơi, Cẩm Hương lỡ bận tay chuyện gì đó, thì nàng được Tuấn tiếp đãi nồng hậu…
Cẩm Hương hứng chí:
– Thôi được rồi, hãy để yên cho Ánh Nguyệt dệt mộng cua được thằng em tuấn tú đẹp trai của tao. Bây giờ có đứa nào muốn nghe chuyện tình chưa thành thì sắp tan của bổn cô nương không? Hãy cho biết, để bổn cô nương chuẩn bị tinh thần mà kể cho nghe…
Cũng là con Thụy Châu có chồng rồi, nên nhiều kinh nghiệm nói lớn với Cẩm Hương cố tình cho cả bọn nghe rõ ràng:
– Cẩm Hương ơi, hãy bỏ cái thói ỡm ờ khó ưa dễ ghét đó đi. Mầy phải kể hết ngọn ngành gốc rễ, mọi chi tiết, dù lớn, dù nhỏ li ti cũng vậy cho bọn nầy nghe, để bọn nầy mổ xẻ, và xức thuốc bó băng vết thương lòng cho mầy nếu thấy cần.
Ánh Nguyệt theo Thục An xuống bếp bưng chén bát và nồi chè thưng lên, múc ra từng chén cho năm đứa. Mấy cô nương kia thì đi tiểu rồi ra ăn chè và lóng tai nghe Cẩm Hương kể về chuyện tình thơ mộng của mình. Họ chắc chắn rằng, mối tình đầu của Cẩm Hương sẽ lâm ly bi đát không thua gì những chuyện tiểu thuyết tình cảm ướt át của các tác giả nổi tiếng đương thời. Nồi chè thưng có nước cốt dừa, lá dứa, đậu xanh, khổ tai, bột khoai, bạch quả, hột sen, táo đỏ, dừa rám xắt mỏng…
Trong lòng Ánh Nguyệt niềm vui vẫn chưa tan biến. Cô ta có cảm tưởng, cuộc đời sắp tới sẽ còn ngọt béo hơn nồi chè nầy nếu mộng lớn của mình thành sự thật. Ánh Nguyệt chợt nhớ cách đây 2 tháng, sau lễ Phục Sinh, nàng quá giang xe hơi của người anh họ đi Cai Lậy thăm Cẩm Hương. Tại nhà bà Tư Hiền, bất ngờ nàng gặp Tuấn. Nhân ngày nghỉ phép chàng từ Sài Gòn xuống thăm chị. Thấy Thiện Tố xúc đất đắp gốc chuối, Tuấn cũng phụ giúp cào cỏ đổ xuống mương độn ủ phân để vô gốc cây. Trong khi Cẩm Hương phụ bà Tư làm món cơm tấm bì, Ánh Nguyệt pha nước chanh, gọt đu đủ chín để đãi hai chàng “lực điền tạm thời” kia.
Tuấn khen:
– Cô Ánh Nguyệt làm gì mà má ửng hồng vậy? Có phải từ trong bếp chui ra đây không?
Ánh Nguyệt mỉm cười, thẳng thắn:
– Hôm nay bác Tư không cho em vào bếp, vì bác có bày cỗ bàn, yến tiệc gì đâu. Còn em không biết sao mấy tuần nay mặt mày cứ ửng đỏ như mặt trời mọc. Lũ bạn gái chế nhạo em rằng: “Má đỏ hồng hồng muốn chồng thành dịch…”. Em có mài củ nghệ xức lên mặt, nhưng sắc hồng quái ác nay không chịu phai mờ bớt đi. Thiệt tình, em không biết làm sao đây?
Tuấn cười tươi:
– Sao cô vụng nghĩ như vậy. Mặt sáng sủa và có sắc hường rực rỡ như vầy là có hồng quang phát hiện. Cô sẽ gặp vận may, tấn tài, tấn lộc, tấn bình an, lại còn gặp được duyên lành như ý. Cô hãy tin tôi, tặng mấy củ nghệ cho người ta kho cá chạch, nấu món cà-ri gà khoai lang, nước cốt dừa đi.
Cả hai cùng cười. Thuận tay, Tuấn hái nhánh bông giấy tím đưa cho Ánh Nguyệt:
– Tặng cô nhánh bông nầy để lấy hên.
Đêm đó, khi về dưới mái nhà tổ đường ở Mỹ Tho, Ánh Nguyệt chiêm bao thấy mình lạc vào con đường với dãy nhà ngói. Trước mỗi nhà là cái cổng có cây bông giấy tím uốn theo vòm cửa bán nguyệt. Mỗi vòm cửa đều hiện lên khuôn mặt của Tuấn. Nhưng ánh nắng tràn tới làm nàng chói mắt. Tỉnh dậy, nàng thấy khung cửa sổ gài sơ, bị gió thổi đẩy mở toát ra để ánh bình minh lọt vào. Nàng mới khám phá ra rằng, tâm hồn trống trải lạnh lạt của mình bỗng dưng động tình xuân với em của Cẩm Hương rồi!
Nhưng Ánh Nguyệt đúng là Ánh Nguyệt! Cô không hổ danh đứa có cái nhìn nhạy bén và tinh khôn nhứt trong bọn. Nàng tỉnh bơ, tuyên bố với các bạn một cách ngon lành:
– Tụi bây nghĩ cũng không quá đáng! Bổn cô nương cảm thấy như có niềm vui âm ỉ trong tim nhưng không hay biết. Để rồi hôm nay, sau khi nghe bọn bây gán ghép tao làm em dâu chị Cẩm Hương, thì tao cảm thấy lòng mình như có làn gió mát thoảng qua, làm lửa tình nhen nhúm bỗng phừng lên hừng hực. Nhưng lửa tình vẫn thua nồi chè thưng của nhỏ Thục An nấu thơm chi mà thơm lạ thơm lùng, làm cho cơn ham ăn của tao lấn áp, nên tao quên đi mọi sự việc vừa le lói sáng thì vụt tắt ngấm trong lòng. Và dù chuyện tình của chị Cẩm Hương sắp kể ra đây có mặn như nước biển, hay đắng nghét như khổ qua, hoặc chua lè như khế tàu, hay chát ngầm như chuối non… đi nữa, thì cũng không bằng sự quyến rũ của nồi chè nầy… Ăn đi, ăn đi tụi bây. Ăn xong bọn mình còn nghe chị Cẩm Hương kể…
Cẩm Hương thầm biết Ánh Nguyệt cảm lăn, cảm lốc em nàng rồi, nên kề tai nói nhỏ với bạn: “Tao biết tẩy của mầy rồi, đừng làm bộ lặn mất để tao đỡ đòn đó nghen”. Nhỏ Ánh Nguyệt làm bộ cúi mặt húp chè rột rột, cười hí hí đánh trống lãng:
– Ông Tà ông Địa ơi, nhỏ Thụy Châu mặc bộ đồ màu đỏ đẹp hết chỗ chê!
Thụy Châu nghe ba chớp ba nhoáng, tưởng Ánh Nguyệt khen mình nên miệng cười tươi như hoa, xoay mình qua, lắc mình lại, vuốt áo quần rồi điệu đà:
– Của ông xã tao đi Singapore công tác, mua về cho tao đó.
Nguyệt Mi cười ngất: “Hèn gì”, rồi bỏ lửng câu nói. Thụy Châu nhìn đứa nầy hết đứa kia, muốn biết ý nhỏ Nguyệt Mi muốn nói gì? Thục An mắng:
– Mầy chậm hiểu quá đi. Nó nói mặc cả quần lẫn áo một màu đỏ, nên mầy giống như cái bao lì xì lớn vậy đó!
Cả bọn lại cười ầm lên. Thụy Châu thôi cười, háy bạn:
– Vô duyên! Thôi đừng có nói giỡn nữa… Bộ tụi bây không muốn nghe chuyện của nhỏ Cẩm Hương sao? Kể đi Cẩm Hương, bà chị thân mến của tụi em…
Mấy đứa bạn, chăm chú ngồi nghe bạn kể chuyện tình. Thụy Châu có chồng rồi, nên trông cô ta có vẻ sành đời hoạt bát lắm. Thục An vẫn ốm, mặn mà nhờ nước da ngăm, có duyên ngầm trong cái cười nửa miệng, chắc chắn đã làm cho anh kép sáp đính hôn điên đảo tâm hồn. Và Thục An có vẻ say sưa khi có dịp nhắc tới đối phương yêu quý của mình.
Nguyệt Mi đẹp, nước da trắng nõn trắng nà, mắt to, mũi cao. Tóc cô ta luôn cắt như bum bê, nhưng không phải mành tương mà trước sau dài bằng nhau, vén hai bên mép tai như mấy cô xẩm ở Chợ Lớn. Cô ta ít nói, điềm đạm, ý tứ, dễ thương. Nhưng lại là đứa đáng tội nghiệp lắm. Cô ta vẫn còn yêu một người đàn ông đã có vợ. Dù biết rằng mối tình đó sẽ gặp nhiều đau khổ trái ngang. Nhờ bạn bè khuyên can, nên nhỏ ngậm ngùi cắt đứt, nhưng làm sao khuyên, cấm được sự thổn thức, sự u uất của con tim!
Tuy anh Thịnh của Thục An bỏ Thụy Châu, nhưng tình bạn hai đứa không vì đó mà sút giảm. Thục An đã khuyên Thụy Châu:
– Anh Thịnh tao chơi đểu với mầy làm tao hổ thẹn với mầy và bạn bè. Giờ đây mầy cũng đã có chồng. Ngày trước, mầy yêu anh tao bằng cả tâm hồn và trái tim. Chắc mầy còn nhớ câu khuyên lơn của Thôi Oanh Oanh bảo Trương Quân Thụy: “Nên đem lòng thuở trước / Thương lấy kẻ về sau “.
Thụy Châu ngậm ngùi:
– Té ra cuộc đời giữa tao và anh Thịnh của mầy cũng hơi giống mối tình giữa Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy trong vở “Tây Sương Ký”
Nhưng chỉ chừng vài tháng sau ngày cưới, cảm được cái tánh khí cao thượng của chồng, Thụy Châu an lòng sống hạnh phúc bên cạnh chồng. Nhưng khi biết được người xưa không hạnh phúc bên cạnh vợ, nàng cảm thấy bùi ngùi.
Cái lầm lỡ của Thịnh phải trả giá quá mắc. Nhưng với Ái Mỹ, Ánh Nguyệt, thì lại khác. Họ coi tên Thịnh là kẻ ham đó bỏ đăng, tham mới nới cũ, thấy trăng quên đèn… bị bất hạnh là đáng kiếp! Và khi gặp chồng của Thụy Châu mặt mày có khí phách, vóc vạc vạm vỡ, ăn nói bặt thiệp vui vẻ, cả hai nhỏ khoái chí tử. Ái Mỹ trề môi dài cả thước:

– Chồng nhỏ Thụy Châu không đi Tây, nhưng bảnh trai, hào sảng, phong nhã có thua gì Tây đâu. Mấy dõng tướng của Tàu như: La Thông, Địch Thanh, Tiết Đinh San thua ảnh cả trăm cây số về sắc vóc…
Ánh Nguyệt cười hí hí, chót chét:
– Ê, tao thấy hình con vợ đầm của tên Thịnh rồi. Ngộ nghiệt gì đó! Con mẹ ấy có sóng mũi như cái mỏ con két, giống như bà phù thủy trong phim “Bạch Tuyết / Bảy Chú Lùn ” vậy. Môi mụ ta mỏng lét như mép con hến, con sò. Tụi bay nhớ lại đi, hình dung đi, giống y hệt như cái miệng con khỉ vậy.
Rồi cả hai dệt cả trăm thứ ác mộng cho Thịnh, rồi vui cười hỉ hả còn hơn dự trăm bữa tiệc ê hê bánh trái và tràn ngập thức ăn ngon. Và phấn khởi trong lòng như đã trả thù dùm cho Thụy Châu. Rồi cả hai kết luận:
– Cho đáng đời kẻ đứng núi nầy trông núi nọ, đương nuôi con chó mà cứ ngó con mèo, đương mặc lụa lèo mà khèo vải ú… Đồ cái thứ chết toi, diều moi quạ mổ, không lỗ mà chui!
Quê ngoại Ánh Nguyệt ở cùng tỉnh Bình Dương với Cẩm Hương. Nhưng gia đình ngoại cô nàng ở chợ, cô là con của chủ vựa gạo, nếp. Nên bạn bè hay ghẹo “Sau nầy, anh chàng nào lấy mầy khỏi sợ đói, mà còn sướng nữa, bởi chuột sa hũ nếp”. Ánh Nguyệt không đẹp lắm, nhưng rất có duyên, nhứt là cái miệng cười và đôi mắt to đen lay láy. Cô trắng trẻo, mảnh khảnh, vui vẻ, lanh lợi, bộc trực, thẳng thắn, xí xọn nên hay dễ mất lòng người khác. Nhớ lúc mới vào trung học, Cẩm Hương và cô chung lớp, ngồi cách nhau một cái bàn, mà hai người chẳng ai nói chuyện với ai. Bởi Cẩm Hương đằm nết, thấy Ánh Nguyệt cứ bô bô cái miệng mắc ghét, nên nàng không thèm chơi. Cho đến ngày kia, không biết đầu câu chuyện ra sao, nhưng khi Cẩm Hương vừa trờ tới ngang qua chỗ bọn họ, thì nàng nghe Ánh Nguyệt cười giỡn, và lớn tiếng khoe khoang với bạn bè:
– Tụi bây biết không? Tao vừa đến thì bao nhiêu đứa bu lại liền.
Trong đám bạn đó, có đứa lên tiếng:
– Tao biết, bởi mầy là cái hầm cầu tiêu mà…
Cả bọn vỗ tay, cười như vỡ chợ! Ánh Nguyệt rượt đánh con bạn vừa mới phát ngôn bừa bãi đó. Đứa chạy trước, đứa chạy theo phía sau, cả hai nhắm mắt hả họng cười ngất ngất, cười ha hả, hét la ơi ới như hai mụ điên… Ánh Nguyệt chạy vô ý nhào vào mình Cẩm Hương làm cả hai té chúi nhủi… Thế là sau đó, hai cô quen và thân nhau. 
Gió thổi mạnh làm quàn quặt cây cành vú sữa ngoài mé hiên, sấm nổ ầm ầm như trời long đất lở, như muốn xé nát không gian, cùng những tia chớp vội, sáng lòe rồi tắt ngấm, báo hiệu cơn giông lớn sẽ đổ xuống vùng nầy. Ngọn đèn búp măng hiệu Aida treo từ trên trần nhà bị gió luôn qua cửa lắc lay. Thục An lên tiếng:
– Tụi bây, chỗ nào ngồi yên chỗ đó, đừng có chạy loạn lại đâm sầm với nhau, để tao đi kiếm thêm đèn cầy.
Ánh Nguyệt lên tiếng:
– Không cho rời chỗ, thì làm sao tụi tao nói chuyện được chớ? Ê, tụi bây có biết là chuyện tình của chị Cẩm Hương trái ngang, đen đúa cho nên ông trời gầm gừ giận dữ, phải không tụi bây?
Chưa ai trả lời Ánh Nguyệt thì Thục An cầm cây đèn cầy le lói đi ra:
– Tao đề nghị, tụi mình đêm nay nằm dưới gạch nói chuyện rồi ngủ luôn. Tuy trời mưa nhưng vẫn nóng quá, tụi bây thấy sao?
Cả bọn bằng lòng. Thế là mỗi đứa nào gối, nào mền, nào khăn lông dài, đứa ôm, đứa đắp, đứa ngồi, đứa nằm lê lết nơi phòng khách rộng lót gạch tráng men được lau sạch sẽ bóng ngời. Ngoài trời mưa đêu đều, mưa rào rạt, càng ngày càng lớn, mưa như cầm chĩnh mà đổ. sấm gầm trời và sét nháng lửa không ngừng… Đã nằm dưới nền gạch, nhưng Thụy Châu không quên nê theo rổ trái cây. Nguyệt Mi cũng mò tìm chén muối ớt. Ánh Nguyệt, Thục An cũng vói lây chén chè đang ăn dở của mình.
Tiếng mưa rơi, tiếng gió thổi ngoài hiên. Mưa tạt vào vách ào ạt, hòa với tiêng nước theo máng xối chảy vô lu sành rổn rổn. Gió mạnh thổi, làm những cây mãng cầu xiêm, mận, nhãn… quanh nhà cọ quẹt vào nhau vào cửa sổ và vào mái ngói rột rẹt. sấm chóp lơi và nhẹ nhưng mưa vẫn đổ ào ào. Cẩm Hương vẫn đều giọng kể lể… Các bạn lẳng lặng nghe, thỉnh thoảng có tiếng thở dài nhẹ, tiếng tằng hắng gằn xuống. Nhưng không đứa nào chen vào ngắt ngang để hỏi, để nhắc, hay để chọc quê… Cẩm Hương kết luận:
– Chuyện của tao là như vậy đó. Nó vừa vô duyên lại vừa lảng nhách. Vậy mà tao cảm thấy đau nhức lắm. Theo tụi bây thì tao phải làm sao? Tao muốn rút lui có trật tự cho rồi. Có lẽ khi trở lại trường, tao sẽ làm đơn xin thuyên chuyển đi nơi khác. Chuyện tình nầy có đến với tao cũng được, đến rồi đi biệt cũng không sao. Tao không muốn mình bị thất vọng và đầu độc cuộc đời dài của mình.
Các bạn lao nhao. Ánh Nguyệt nổi nóng:
– Lỗi đâu phải của chị, chị hãy làm sáng tỏ vụ nầy. Biết đâu mụ Kiều Tâu, hay ả Kiều Tặc… gì đó ganh ghét chị mà giở trò đặt chuyện để phá đám chơi.
Thục An chu mỏ:
– Trong bọn mình, mầy là đứa ít nói, chính chắn, lại khôn ngoan. Nhưng mỗi khi đụng trận rồi thì mầy là đứa chịu chơi nhứt, như con trâu điên có tiến chớ không có lùi như loài tép, loài tôm. Sao bây giờ chưa chi mầy đã muốn bỏ cuộc rồi? Phải phấn chấn lên chớ. Phải về tìm hiểu đời tư của hai con chị thần nanh đỏ mỏ của Thiện Tố mà trả đũa lại tụi nó cho tới sát ván. Đồ cà chớn, vô duyên âm đức sứt bàn nạo, không gạo nấu, không trấu un. Đồ mất dạy, ích kỷ, suy bụng ta ra bụng người… Thật là đồ cái thứ chết tiệt mà, vô duyên vô cớ đi kiếm chuyện với người ta…
Nguyệt Mi, nhăn mặt:
– Trời ui, chị về ở cái vùng cổ quái rồi tánh tình chị cũng nhiễm thói cổ quái luôn rồi! Nếu là em, thì em sẽ hỏi thẳng anh chàng Thiện Tố coi chuyện thế nào? Có đúng như lời hai mụ phù thủy Kiều Tâu, Kiều Tặc đó nói không? Nếu họ có dã tâm phá cuộc tình của chị thì chị hãy làm cho họ “cầu sanh bất đắc, cầu tử bất năng”.
Ánh Nguyệt cười hí hí:
– Ừ, phải làm cho hai mụ ó đâm, tà tâm, mất nết đánh chết cũng không chừa đó, khạc không ra mà nuốt cũng không vào. Phải làm cho họ vĩnh bất an ninh mới được.
Nguyệt Mi nhìn Ánh Nguyệt:
– Thị nầy chỉ giỏi cái miệng ồn ào, cái mồm huyên náo. Có ai thấy y thị dám giết chết con gián, con nhện chưa? Để rồi coi, mai sau có làm vợ anh Tuấn, rủi anh Tuấn xây phòng nhì, y thị sẽ nạt nộ hăm he chồng nghe ớn óc, nổi da gà. Rồi y thị đùng đùng xách dao phay đi bắt ghen. Tới nơi thấy chàng Tuấn ôm con mèo là y thị buông con dao ngã xuống chết giấc cho mà coi.
Cả bọn cười bò lăn bò lộn. Ánh Nguyệt trề môi liếc dài:
– Xì, chừng đó sẽ hay. Mầy đừng có khi dễ tao, rồi đoán mò chuyện khó có thật nghen mậy.
Thụy Châu xen vào:
– Tụi nó nói đúng đó Cẩm Hương. Tại sao mầy phải tránh né mẹ con Thiện Tố? Mầy có gạt gẫm họ đâu? Cảm thấy có lỗi phải là họ chớ không phải là mầy. Mầy muốn bỏ cuộc cũng được. Nhưng không phải âm thầm ra đi, mà trước khi đi phải hỏi cho ra lẽ. Mầy nghĩ xem, Thiện Tố của mầy năm nay bao nhiêu tuổi? Nếu hắn yêu thương ả Ngọc Huệ, cháu nội ông Cả Bảy thì hắn đã cưới rồi, đâu có gì cản trở mà mãi tới nay vẫn chưa tính tới? Tao chưa gặp mặt hắn, nhưng nghe mầy kể, tao biết hắn ta không phải là người dễ thay lòng đổi dạ. Nếu mầy thật sự yêu hắn thì phải vững lòng tin và phải tranh đấu cho tới cùng. Đừng nghe lời nhảm nhí của những kẻ chung quanh mà bỏ cuộc…
Thục An xen vào, càm ràm:
– Đời sao có cái ngữ vô duyên đó! Dùng hạ sách để chia rẽ người ta.
Ánh Nguyệt cười:
– Tao nghĩ rằng đầu óc chứa đầy những thứ dơ dáy xấu xa, đó là sự khôn ngoan của họ. Và nếu trên cõi đời ô trọc nay có địa ngục, thì chắc đó là thánh địa của thứ người nầy!
Cẩm Hương cười buồn:
– Thôi đừng có triết lý bá láp tầm phào nữa. Quan niệm của tao không sôi nổi như tụi bây. Với tao thì việc gì đến sẽ đến, không tranh giành, cũng không xin xỏ. Tao tin rằng, mỗi con người trên thế gian nầy đều có số phần cả, Ơn Trên đã an bài, nếu của tao thì chạy trời không khỏi nắng, trước sau gì cũng của tao. Còn nếu không phải của tao thì cho dù tao có nhốt trong thùng, tới thời cơ thì nó cũng bay cao, cũng chạy mất… Cảm ơn bọn bây có nhã ý khuyên, bảo… Nhưng thôi tao bỏ cuộc! Trong yêu thương mà có lắm chuyện phiền toái quá thì còn dây dưa làm chi? Mệt lắm tụi bây ơi!
Ánh Nguyệt học lóm ở đâu câu hát mà ngâm nga rồi ra giọng thầy đời:
– “Ái tình canh chua cá kho, em đừng lo để anh kho dùm cho…” Tụi em nói như vậy, nhưng mọi việc tùy chị quyết định. Em nhắc cho, chị nên phải cẩn thận, đừng dùng những ngón đòn phép độc hại, quá đáng từ hành động cũng như lời nói, để sau nầy khỏi áy náy, hối tiếc. Em nghĩ và mong rằng anh Thiện Tố và chị sẽ gặp hoàn cảnh “tiền hung hậu kiết“. Bây giờ anh chị bị trặc trẹo nhiều thứ, nhưng thế nào cả hai cũng đi đến hôn nhân cho coi.
Các bạn nhìn nhỏ cười khúc khích. Nó nhột, nói như hét:
– Làm gì tụi bây cười? Thiệt đó, tao không nói xạo đâu. Hãy thử một lần nữa tin con Ánh Nguyệt nầy đi.
Cẩm Hương bỗng cười buồn:
– Chị tin Ánh Nguyệt. Trong đám khỉ đột tụi bây đây đứa nào tao cũng tin hết. Nhứt là con Ánh Nguyệt lại sắp là em dâu tao nữa, nếu không tin nó thì tin ai, bây nghĩ có đúng không? Mới nghe con Anh Nguyệt nói thì chí lý lắm, nhưng nghĩ lại thì chẳng có chỗ nào đáng tin cả. Hoặc dựa vào đâu mà tin chớ? Bởi nó tưởng nó là tiên tri không bằng!
Cả bọn cười ầm ỉ chọc quê nhỏ Ánh Nguyệt. Nàng ta nổi nóng quơ gối ném lung tung, thế là cả bọn cùng ném. Thánh thần ơi, nào mền, gối nhỏ, gối lớn, rơi rớt khắp phòng.
Mưa đã tạnh, nhưng gió vẫn còn và luồn lách qua cửa lá sách vào nhà lung lay những màn cửa sồ cửa buồng bằng voan màu xanh da trời lả lướt phất phơ.
Lật bật mà 3 giờ sáng rồi. Bạn bè đã yên bình trong giấc ngủ, thở pho pho đều đều. Cẩm Hương trăn trở không ngủ được. Nỗi buồn cứ đeo đẳng bên lòng nàng. Nàng rón rén đi vào phòng, mở cửa sổ nhìn ra ngoài trời. Cơn gió nhẹ, làm rơi lộp độp những giọt mưa còn đọng lại trên lá, trên cây… Nền trời đen, cao thăm thẳm, in những vì sao lu mờ rải rác đó đây. Hướng tây trăng lưỡi liềm chỉ còn là vệt mỏng lét và lờ mờ trong sương đục… Nàng chép miệng thở dài, khép cửa lại. Làn gió sáng đưa hơi sương lành lạnh vào phòng.
CHƯƠNG MƯỜI HAI
Sáng chủ nhật, Thục An đãi bạn bè món cháo đậu đỏ trước khi ai về nhà nấy. Nhỏ ta không dùng gạo nhum để nấu cháo đậu mà dùng gạo huyết rồng. Tuy cứng, nhưng khi qua tay nhỏ ta thì mềm mụp. Không biết nhỏ có để vào chút thuốc tiêu mặn (bicarbonate de soude) hay không? Nước dừa để chan lên cháo, nhỏ dùng nước cốt chớ không thèm dùng nước nhứt, thì đừng nói chi nước giảo.
Các món để ăn với cháo đậu đỏ có: Cá bống trứng kho tiêu, tép trứng chấy mặn, bắp chuối luộc bóp giấm được trộn với đậu phộng và rau răm, dưa mắm, củ cải phơi khô ngâm nước tương.
Cẩm Hương nhận thấy mâm cháo đậu đỏ của nhỏ Thục An sang hơn mâm cháo đậu ở nhà bà Tư Hiền. Nhỏ Ánh Nguyệt vừa ăn, vừa xuýt xoa:
– Mèn ơi, con Thục An nấu cháo huyết rồng ngon độc nhứt vô nhị. Ai mà chê thì cụt lưỡi đó. Con Ánh Nguyệt nầy phải cho cháo nhập cảng vào bụng ít nhứt cũng hai tô. Con Thục An cà riềng cà tỏi nhưng giỏi nấu ăn. Nó lựa dưa mắm dòn khưu khứu. Nó kho cá bống như vầy, chắc tui phải tôn nó làm đại sư phụ.
Nguyệt Mi háy dài:
– Bộ mầy muốn nó khen vần công cái tài thêu thùa, làm bánh trái của mầy hay sao?
Thụy Châu vừa múc chén cháo thứ hai cho mình, vừa nói:
– Tao không được khéo léo về nữ công như bọn bây. Tao nấu nướng theo kiểu chém to kho mặn. Vậy mà phu quân tao ăn ngon lành. Tình nghĩa vợ chồng càng ngày càng đầm ấm hạnh phúc thêm.
Thục An khoe:
– Thằng hôn phu Chà Và lai của tao không theo đạo Hồi nên không có cử thịt heo. Nó cũng không theo đạo Bà-La-Môn nên không cử thịt bò. Nó vô… đạo nên thịt con gì nó cũng ăn, kể cả thịt chuột, thịt chó cũng chẳng chừa nữa tụi bây ơi!
Ánh Nguyệt pha trò:
– “Trời mưa xực chó trắng/ Trời nắng xực chó vàng/ Mưa nắng rộn ràng/ Trắng vàng xực ráo” có phải không Thục An?
Cả bọn cười rổn rổn thiếu điều lủng nóc nhà. Ăn uống xong, Nguyệt Mi và Ánh Nguyệt kiếu từ ra về. Vì nể lời khẩn khoản của cô khổ chủ Thục An, cho nên Cẩm Hương ở lại sáng thứ hai trở về chuyến xe sớm nhứt. Để đến nơi, xuống xe trước cửa trường là nàng đi thẳng vào lớp dạy luôn. Thục An khi đưa Cẩm Hương ra lộ, trong lúc đứng chờ xe, nàng nói:

– Cẩm Hương à, chuyện gì cũng vậy, mầy đừng coi nặng quá, phải nói ra, đừng ôm ấp trong lòng mà khổ. Trốn tránh Thiện Tố không phải là một cách ổn thỏa. Hãy gặp anh ta để cùng nhau giải quyết vấn đề. Mầy đừng có việc gì cũng ôm hết vào mình, người tổn thương nặng nhứt sẽ là mầy đó. Phải chấp nhận chuyện gì xảy đến cho mình.
Cẩm Hương nuốt uất nghẹn, run giọng:
– Tao đã tập hết khả năng rồi! Bởi làm người thì phải đương đầu đó mà!
Rồi Cẩm Hương ngã đầu vào vai bạn để lệ tuôn rơi. Thục An chép miệng:
– Tao biết mầy đã dùng hết khả năng để tự lừa dối mình. Cái điều quan trọng là mầy phải hiểu rằng tại sao mầy đem tất cả những chuyện của mầy cho vào dĩ vãng. Tao mong rằng tụi mầy mau đem nó ra mổ xẻ để chữa lành vết trầy nhẹ đó đi. Hãy để quá khứ trở thành hồi tưởng thì mọi việc sẽ tốt đẹp. Cố gắng lên nghen. Mỹ ý và thiện ý của đời người là tha thứ...Tao chờ tin vui của mầy. Nhớ viết thư cho tao.
Cẩm Hương dùng xe thổ mộ đi từ Bến Tranh đến Ngã Ba Trung Lương. Ở Trung Lương nàng đón xe Mỹ Tho đi Mỹ Thuận, sẽ qua Cai Lậy và ghé ngay trước cửa trường dễ dàng hơn.
Nàng vừa xuống xe ngựa, còn đứng lớ ngớ bỗng nghe có ai gọi tên. Thì ra vợ chồng Thiện Cảm. Lúc nào chàng công tử miệt vườn nầy mà không ăn mặc chải chuốt? Cậu mặc bộ đồ lớn bằng hàng xi-mi-li màu vỏ lúa chín, cổ cao, ủi thẳng nếp. Tóc cậu chải láng mướt, giầy đánh xi-ra bóng ngời. Cậu xức dầu thơm tỏa ra ngào ngạt. Cô vợ Hồng Ánh ăn mặc tươm tất nhưng không lòe loẹt như hai mụ chị chồng. Tóc cô không chải ổ ong, ổ én, mà chải rẽ bảy ba và bới bí bo sau ót. Tuỵ nhiên cô có vẻ đẹp thùy mị đoan trang.
Thây Cẩm Hương, họ đon đả mời nàng vào quán ăn sáng, uống cà-phê. Cẩm Hương chưa kịp mở miệng thì Thiện Cảm chỉ chiếc xe hơi bảo:
– Vợ chồng tôi đi Tân Hiệp ăn đám hỏi người em bà con bên vợ, chiều mới trở về. Tiếc quá, cô giáo về Cai Lậy. Hai đàng đi ngược chiều. Nếu không thì chúng tôi sẽ mời cô quá giang về Cai Lậy để khỏi chờ đợi xe mắc công.
Vừa dứt lời, Thiện Cảm rút điếu thuốc thom trong hộp mạ vàng ra hút. Cậu chỉ quyển “Bùn Lầy Nước Đọng” của Hoàng Đạo đang đặt trên bàn, buồn bã nhìn Cẩm Hương:
– Tôi mới vừa xem xong quyển nầy, cảm thấy lòng mình bào xào quá. Nhóm Tự Lực Văn Đoàn cổ võ nếp sống mới của dân quê, biến thôn quê thành một khung cảnh mới, biến dân quê thành kẻ có ý thức về cuộc sống tân tiến, ăn ở hạp vệ sinh. Nhóm Tự Lực Văn Đoàn chẳng những dùng văn chương đánh thức dân mình biết tìm lẽ sống có lý tưởng mà còn chủ trương canh tân xã hội. Tại sao một kẻ đã từng học trung học như tôi bấy lâu nay lại không cần biết, không thèm làm bổn phận người dân tân tiến!
Cẩm Hương không nói không rằng, bợ ngợ nhìn Hồng Ánh. Cô vợ rót nước vào tách Cẩm Hương, bảo:
– Anh Thiện Cảm từ lâu được ba má chồng tôi nuông chiều, nên ăn sung mặc sướng và chơi bời quen thói rồi. Bây giờ ảnh đâu có thiện chí, đâu có can đảm cầm cuốc xẻng dọn đất cho dân quê? Đâu thể đốn tre, chẻ lạt làm nhà làm vách cho dân quê? Ai nếu không ra công thì xuất của. Nhưng tiền bạc ba má chồng tôi cũng cho ảnh có chừng mực thôi. Cái chí của ảnh tôi cũng thông cảm, nhưng tôi thấy ảnh không thực hiện nổi đâu. Chỉ có anh Thiện Tố thì may ra làm được.
Cẩm Hương an ủi:
– Hễ có chí thì làm gì cũng được hết. Cậu không thể xốc vác nổi chuyện nặng nhọc, thì cậu có thể mở lớp Bình Dân Học Vụ dạy cho dân quê mù chữ biết đọc, biết viết. Cậu dạy họ ăn ở đúng phép vệ sinh. Vậy là cậu thực hiện được cái chí cải cách nếp sống dân quê của cậu rồi.
Hồng Ánh cười:
– Ảnh dễ xúc động và dễ khích động lắm chị ơi. Giờ đây cuốn sách của Hoàng Đạo làm ảnh nổi hứng. Rồi sau đó vài ngày ảnh sẽ quên, sẽ tiếp tục làm con ông điền chủ như cũ.
Nghe vợ nói, Thiện Cảm nổi nóng đấm tay xuống bàn cái rầm, trợn mắt:
– Em có câm họng không? Anh đâu phải là thứ người em tưởng. Anh cũng có thiện chí riêng, nhưng vì lỡ sanh ra trong gia đình quá thực tế, quá coi thường lý tưởng, cho nên anh phải làm công tử bột như vầy.
Hồng Ánh bị chồng làm giựt mình. Nhưng nàng dịu giọng:
– Bởi hồi nhỏ, anh không được rèn luyện tánh siêng năng, cần cù. Bây giờ anh muốn đổi tánh, đổi nếp sống coi bộ cũng khó lắm. Anh thích viết văn, đọc sách, sao anh không rèn luyện ý tưởng, câu văn để viết những cuốn tiểu thuyết có ý hướng giáo dục thanh niên, để đóng góp vào cuộc canh tân xứ sở.
Cẩm Hương tán thành:
– Hồng Ánh nói đúng lắm. Mỗi người có một khả năng riêng. Cậu thử làm theo đề nghị của vợ cậu đi. Ngòi bút vẫn mạnh hơn gươm giáo, mạnh hơn lưỡi cuốc lưỡi cày.
Khi vợ chồng Thiện Cảm từ giã, lên xe để đi Tân Hiệp, Cẩm Hương cũng đón được xe để về Cai Lậy. Nàng thẩn thờ suy nghĩ. Thiện Cảm không phải là kẻ ác đức, xấu xa. Cậu cũng có lối suy nghĩ riêng về cuộc đời đáng sống. Nó ví như một đốm lửa nhỏ. Nếu khéo nhen nhúm, khéo giữ lửa đừng tắt, khéo quạt cho lửa cháy phừng thành lửa thiêng thì cậu là một người hữu dụng, hữu ích cho nhân quần xã hội. Nhưng nếu cuộc sống trưởng giả, các cuộc ăn chơi tái diễn, cứ để cho lửa tắt hoài thì cậu sẽ không làm gì ra trò cả!
Từ Thiện Cảm, Cẩm Hương liên tưởng tới Hồng Ánh. Có phải cô say mê cái mã đẹp trai của cậu ta không? Mà sao chịu làm vợ một kẻ ăn bám vào cha mẹ, không chịu coi sóc gia việc, gia viên, điền sản? Quanh năm cậu cắm cho vợ không biết bao nhiêu là cặp sừng, rồi nào là hốt me, đá gà, ăn nhậu hà rầm. Vậy mà cô săn sóc chồng, gây cảnh lứa đôi êm ấm cho chồng. Cậu ưa mèo chuột, nhưng không cặp với cô nào lâu lăc, dài hạn. Cậu yêu vợ theo cái cách của cậu. Giữa vợ chồng cậu, phải có những điểm gì ý hợp tâm đầu để gắn bó với nhau
Cẩm Hương giựt mình lấy làm lạ, sao mình lại ở đây? Đây là đâu? Nàng còn đang bàng hoàng tự hỏi mình thì bỗng người đàn ông lạ đẩy cửa phòng bước vào:
– Cô đã tỉnh rồi? Tạ ơn Trời Phật.
Cẩm Hương hoảng hồn, định ngồi dậy, nhưng toàn thân ê ẩm, như có mấy trăm tấn đá đè lên người nặng chình chịch làm nàng ngột ngạt, khó thở… Nàng yếu ớt:
– Tai sao tôi ở đây? Đây là đâu?
Người đàn ông ôn tồn trả lời:
– Cô đang ở nhà thương Tân An. Chúng ta đi cùng chuyến xe bị tai nạn. Tôi chỉ bị xây xát nhẹ thôi, còn cô thì bất tỉnh, không thấy ai bên cô nên tôi ở lại chăm sóc cô, khi xe cứu thương chở chúng ta vào đây.
Cẩm Hương châu mày nghĩ ngợi, cố nhớ lại lúc Thục An đưa mình lên xe… Nàng vội hỏi:
– Thưa, mấy giờ rồi? Tôi đã bị hôn mê bao lâu vậy ông?
Người đàn ông trả lời:
– Bây giờ gần 6 giờ chiêu. Cô ngủ vì thuốc.
Cẩm Hương lo sợ, hỏi dồn:
– Tại sao phải ngủ vì thuốc? Tôi bị thương ở đâu? Trời ơi, bộ vết thương nặng lắm phải không?
Người đàn ông có lẽ lớn hơn Thiện Tố đôi ba tuổi. Dáng người ông cao ráo, khỏe mạnh, tóc cắt ngắn. Ông có khuôn mặt điềm đạm, đôi mắt hơi thoáng buồn, nước da đen sạm vì nắng gió. Ông ta chớp hàng mi dài:

– Cô tên Cẩm Hương, dạy học như trong giấy tờ tùy thân của cô? Cô cứ gọi tên tôi là Khanh. Tôi là điền chủ, có ruộng vườn ở làng An Khánh thuộc tỉnh Bến Tre. Chuyến nầy tôi đi Sóc Trăng thăm ba má tôi.
Bác sĩ cho biết cô bị nứt xương chân, chờ sáng mai xem phim chụp mới biết kết quả rõ ràng hơn. Họ sợ cô đau nhức, lăn lộn động đến chỗ bị thương nên cho cô thuốc an thần. Cô cần gì tôi giúp cho, đừng có cựa quậy mạnh không nên…
Sáng hôm sau, Khanh đi tìm nhà Thục An báo tin và đánh điện tín về Ty Tiểu Học Mỹ Tho, về Thành em trai của Cẩm Hương ở Sài Gòn để anh ta báo tin cho cha mẹ nàng biết… Khi Khanh tìm được đến nhà Thục An thì ông quản gia cho biết cô đi thăm cha, bất ngờ lâm bịnh. Khanh ở lại chăm sóc Cẩm Hương, một người mới quen trong trường họp bất đắc dĩ nầy. Mãi đên hôm sau nữa ba má và em trai nàng xuống thì Khanh mới giao lại cho họ đi về Sóc Trăng thăm cha mẹ.
Ba má và em trai của Cẩm Hương rối rít cảm ơn Khanh. Và họ cũng cảm thấy áy náy, mang ơn sâu nặng với kẻ đồng hành giàu lòng giúp đỡ nầy. Đưa Khanh ra bến xe đò, Thành nói:
– Cảm ơn anh Khanh rất nhiều. Gia đình chúng tôi đã mắc nợ anh rồi, rất mong có dịp đền đáp lại. Lúc nào anh lên Sài Gòn, hãy đến nhà tôi nhé. Địa chỉ đây, chúng ta sẽ đi nhậu một bữa cho đã, nhớ nghen anh Khanh…
Khanh cười hiền:
– Cậu đừng để tâm đến chuyện đó nữa, nếu là người khác thì tôi vẫn làm như vậy thôi. Tôi về thăm ba má và gia đình chị, em tôi, nên không có gấp gáp gì, chừng nào đến cũng được mà. Cậu về thưa lại với hai bác và chị Cẩm Hương của cậu rằng, sự tương trợ là bổn phận của mọi người.
Thành nghĩ thầm, anh chàng nầy đã làm chàng có nhiêu tình cảm. Sự chân thật và bình dị của anh ta cũng đủ làm chàng học hỏi thêm. Người ta nói dân miền Nam chân thật hiền lành là đây, Thành đã thấy rõ, nó đã hiển hiện trong tâm hồn và dung mạo của anh Bùi Công Khanh nay. Hôm đi ăn chiều với anh ta, Thành gạn hỏi mấy lần mới biết. Chàng là nghiệp chủ ở Bến Tre, có ruộng cho người ta mướn canh tác, có lò thắng dầu dừa, vào thùng đem bán sỉ ở Sài Gòn để chế xà bông, và bán lẻ ở Mỹ Tho, Gò Công, Vĩnh Long… Cha mẹ và các em anh dời về gần gia đình bà chị ở Sóc Trăng đã 8, 9 năm rồi.
Khanh tìm tới Thành tại nhà trọ cùng một xóm bên Khánh Hội. Hai người đi thăm viếng một vài nơi trong thành phố mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông cả ngày. Sáng ăn cháo lòng ở Chợ Đũi. Trưa ăn mì vịt ở Chợ Lớn, mỗi người uống 2 chai la-ve. Họ không uống nhiều vì Thành phải đưa Khanh lên thăm Cẩm Hương còn đang dưỡng bịnh ở nhà cha mẹ trên Lái Thiêu, trước khi Khanh trở về Bến Tre. Đó cũng chính là ý của cha mẹ chàng muốn đãi Khanh một bữa cơm để tạ ơn.
Ông bà Ký Tân tiếp đón Khanh như một thượng khách. Mặc dù anh chàng nay lù khù, điềm đạm, ít nói, nhưng ông bà có cảm tình chan chứa với người ơn đã cứu giúp con gái mình.
Cẩm Hương hôm nay hồng hào nhờ sự chăm sóc của mẹ. Nàng mặc chiếc áo bà ba màu hồng, cổ bà lai, tay rộng, quần lãnh đen mang dép da màu nâu. Mái tóc đen huyền được cắt ngắn hơn kẹp gọn trong cây kẹp đồi mồi có giát mấy hột sa-phia tím. Nàng cặp dưới nách hai cây tó, để khi di chuyển không động đến cái chân bên trái dưới bị gãy ở ống quyển.
Bà Ký Tân biết qua Thành, khoảng 7 ngày trước, Khanh từ ở Sóc Trăng về, tiện đường sẽ đi luôn Sài Gòn và sẽ ghé qua thăm chàng nên bà đã chuân bị cả tuần nay mâm cơm đãi khách hết sức tươm tất. Có xúp măng cua, có tôm ram mặn, có sườn non xào chuạ ngọt, có đậu Hòa Lan non xào thịt bò, có món bò nướng ống tre và còn có món gỏi bưởi… Bánh bông lan và trái cây là 2 món tráng miệng sau khi dùng cơm. Món gỏi bưởi thì Thành đã ăn nhiều lần do mẹ chàng làm, vậy mà lúc nào chàng cũng ăn hết dĩa hết tô. Còn đối với Khanh thì chưa ăn bao giờ. Chàng cố nhớ lại, nhà mình chưa ăn món nầy và cũng chưa có dịp ăn qua ở đâu. Dù chàng đã đi theo ông dượng rể vài nơi ở miền Bắc (trước năm 54), cũng như miền Trung sau nầy.
Nhớ hồi ra Trung chơi một tháng. Hai tuần lễ đầu chàng đã sụt cân vì những món ăn chưa quen. Và có lần nghỉ lễ đôi ngày, lúc còn học ở trường Chasseloup Laubat ở Sài Gòn. Khanh không về thăm gia đình, trong ngày lễ cùng 2 ngày cuối tuần đó. Chàng được người bạn gốc miền ngoài có nhã ý mời đến chơi. Chàng được chị hắn làm bánh bèo đãi khách. Nhìn dĩa bánh bèo Khanh ngờ ngợ, nhưng thấy bạn ăn ngon lành, anh không nói gì cũng chan nước mắm lên bánh bèo và ăn theo…
Khanh là đàn ông, chàng ít khi để ý về chuyện nấu nướng, ăn uống. Nhưng chàng còn nhớ má chàng, chị hay mấy cô em gái, mỗi lần làm bánh bèo đều làm 2 thứ: Bánh bèo ngọt, trong bột có pha đường cát mỡ gà hay đường tán, màu bánh sẽ giống như màu của đường pha bột. Nhưn bánh bằng đậu xanh và mỗi khi ăn chan nước cốt dừa. Còn bánh bèo mặn thì bột được dằn chút muối, nhưn bánh bằng tôm, thịt trộn với đậu xanh nấu bỏ vỏ. Nếu thích thì trên mặt dĩa bánh bèo mặn còn trải thêm lớp bì nữa. Lúc ăn thì chan bánh bèo với nước cốt dừa và nước mắm chua ngọt. Sau đó Khanh mới biết thức ăn được biến chế theo khẩu vị và ý thích của từng vùng
Bà Ký Tân nấu ăn đậm đà, vừa miệng. Khi làm món gỏi, bà Ký Tân lựa hai trái bưởi vừa ráo, có nhiều nước, không đắng, cũng không chua áy, hoặc ngọt và khô như bưởi Biên Hòa. Bà gở từng tép bưởi, bỏ hột, nhẹ tay bóp nhẹ cho bưởi bời rời không còn dính với nhau. Bà trộn bưởi với tôm luộc lột vỏ xắt mỏng, thịt ba chỉ luộc cũng xắt mỏng, dừa rám nạo. Bà trút mọi thứ vào hết trong thau nhôm, lấy đũa trộn đều với gia vị muối đường… Khi đơm lên dĩa bà rắc thêm rau răm và đậu phộng cà nhuyễn trên mặt. Đó là món gỏi bưởi Khanh mới ăn lần đầu mà cảm thấy thích quá, dù nó tầm thường, dễ làm nhưng ăn bắt miệng vô cùng. Chàng nghĩ, món nầy mà làm mồi nhậu thì khỏi phải chê vào đâu được.
Khanh ở chơi nhà bà Ký Tân sáng hôm sau về sớm để trước khi Thành đi làm đưa chàng ra bến xe đò.
Ngày đầu trở về nhà, Khanh ngủ như chết, ngủ bù những ngày đi thăm cha mẹ, gia đình anh, chị, em… Trở lại nếp sống hàng ngày của mình, chàng làm việc bận rộn không ngừng nghỉ. Bây giờ, Khanh đã mang trong tâm hồn mình hình ảnh Cẩm Hương. Một người con gái gặp trên chuyến xe đò bất ngờ bị tai nạn và họ được quen nhau. Chàng nghĩ không lẽ chỉ gặp và nói chuyện mấy ngày ngắn ngủi mà mình đã rơi vào lưới tình rồi sao? Chắc không phải chớ? Mình chỉ xem Cẩm Hương như Cẩm Châu, cô em gái út có chồng năm rồi, giờ đã sanh được bé gái 8 tháng.
Chàng nhớ mấy ngày về thăm ba má và các chị, em, vợ chồng Cẩm Châu ẵm con đến nhà cha mẹ thăm anh. Con bé đó đã có chồng con rồi mà vẫn còn rắn mắc như ngày xưa. Nó cứ bảo để nó làm mai cho các bạn cùng nghề gỏ đầu trẻ, nào là cô Hoa, cô Lài, cô Thoa… Khanh muốn bịt miệng em gái lại, nói:
– Tụi bây sắp có chị dâu rồi, đừng mắc công làm bà mai để kiếm chác đầu heo.
Trên bàn ăn hôm đó có đủ mặt chị, anh rể và các em của Khanh. Họ đều quay lại nhìn chàng rồi nhao nháo mỗi người hỏi một câu trặc trẹo như đánh giặc chòm, thiệt là rối ren làm chàng bí lối, nên nói bừa:
– Cổ tên Cẩm Hương, đang dạy học. Thôi bật mí cho tụi bây bao nhiêu đó đủ rồi. Đừng có hỏi lộn xộn nữa nghen.
Ba má chàng nhìn nhau cười vui, hỏi:
– Ba má cổ ở đâu? Họ làm nghề gì? Cổ có anh chị em nhiều không?
Chàng cười trả lời mẹ:
– Có cưới thì con cưới cổ chớ bộ cưới gia đình cổ sao má hỏi dữ vậy?
Má chàng cười hiền:
– Bậy nà, “Mua heo chọn nái, cưới gái chọn dòng” chớ. Con là người đàn ông có đầy đủ phẩm hạnh để cưới các cô thuộc con nhà giáo dục, biết lễ nghĩa. Nếu con cưới nhằm người vợ không ra gì thì con sẽ khổ lắm…
Chu mẻ mẹt ơi, giữa đường thiên lý, gặp ý trung nhân đó chăng? Giờ đây đầu óc chàng đã bị hình ảnh Cẩm Hương choán rộng. Chàng say sưa với nhiều dự định, với bao mộng đẹp từ đâu kéo về nườm nượp. Chàng hát bài Santa Lucia lời Việt, đây cũng là bản cô Ái Lan hát trong dĩa Béka. “Lòng nầy ấp gối mơ ai? Ngọt bùi sẻ sớt chia nhau. Cùng ngắm say bóng trăng thanh. Nhắn em về với anh.” 
Khanh và Thành đi từ sáng sớm, thì khoảng 3 giờ chiều Thiện Tố lên thăm. Sau bữa cơm trưa, ông bà Ký Tân kiếm chuyện ra ngoài, họ cố tình để con gái mình và Thiện Tố ở nhà tự nhiên nói chuyện. Thấy mặt Thiện Tố, Cẩm Hương tức tối lắm rồi. Những cảm nghĩ bị lừa dối, khinh thường sục sôi trong lòng nàng. Nhưng có mặt cha mẹ ở đó, nên nàng đành câm miệng.
Suốt mấy tuần, Cẩm Hương không sang nhà, Thiện Tố tưởng nàng bận rộn chấm thi lục cá nguyệt cho học trò nên không tìm thăm, sợ làm mất thì giờ của nàng. Cho đến cách nay mấy hôm, Kiều Lan đi đâu đó về ghé qua thăm mẹ con chàng. Thật sự nàng Kiều không tốt lành gì mà đi thăm bà vợ bé của cha và đứa em tạp chủng nầy. Bởi hôm trước cô ta đã nói với Cẩm Hương rằng Ngọc Huệ là hôn thê của Thiện Tố, đê phá đám hai người chơi. Giờ đây Kiều Lan chắc mẻm mình đã thành công rồi, nên khoái chí lắm. Cô ta làm bộ ghé thăm, để dò la tin tức cùng phản ứng của mẹ con Thiện Tố, và luôn dịp để chọc tức cho bõ ghét.
Thật là ác đức thay cho người đàn bà ăn không ngồi rồi không có việc gì để làm nầy! Vừa gặp mặt Thiện Tố thì Kiều Lan ong óng cái miệng:
– Tao tưởng mầy đi tìm người đẹp rồi chớ. Không dè mầy còn ở nhà? Bọn bây như bóng với hình. Bộ hờn giận gì rồi sao mà mầy ngồi cú rũ đó?
Kiều Lan chuẩn bị để chọc quê thêm, trong khi Thiện Tố không biết gì hết, ôn tồn hỏi:
– Chị đi đâu về vậy? Không có ảnh đi sao? Cẩm Hương dạo nầy rất bận rộn chấm thi cho học trò, nên em không có gặp cổ.
Kiều Lan trề môi nguýt háy! Té ra thằng trời đánh nầy chưa biết gì hết. Cô ta làm bộ ngạc nhiên, chuẩn bị mồi lửa và đổ thêm dầu:
– Thật mầy không biết gì sao? Tuần trước đây, bà nội của mấy đứa nhỏ bịnh nằm ở bịnh viện Tân An, tao với anh rể mầy đi thăm. Tao thấy cô giáo Cẩm Hương chân đi tó và có người đàn ông theo dìu đỡ cổ nữa. Hai người coi bộ khắng khít lắm. Tao còn nghe nói ông ta là người yêu của cô, hay là hôn phu chi đó. Tao thấy cô giáo nầy không vừa đâu vì tao và Kiều Liên hôm trước gặp cổ ăn uống ở quán nước bên chợ với hai ba cô gái khác nữa. Đàn bà con gái gì mà giữa chỗ đông người nói cười ha hả, chẳng ra thể thống gì hết.
Kiều Lan lại khay trầu của bà Tư Hiền, chọn cái xác cau khô để vừa chà răng cho sạch bóng vừa ngâm nga: “Bà ơi tôi vốn ở xa/ Đâu có dè bà bắt cá hai tay/ Bởi tui chẳng biết chẳng hay/ Bà nỡ làm kẻ đổi thay mận đào”
Thiện Tố bán tính bán nghi. Vì chàng cũng thừa biết cái tánh của bà chị mình, nên nói suông:
– Vậy sao? Em không biết chuyện đó!
Kiều Lan moi óc tiếp tục đặt điều nhứt định phá cho tan cuộc chung thân của hai đứa nầy:
– Ôi cái ngữ không ra gì đó, bắt cá hai tay chưa đã, còn bắt cá hai chưn nữa. Một lượt quen hai ba người đàn ông thì có ra gì đâu? Tao nghe Kiều Liên nói có gặp cổ mấy lần, mà lần nào cổ cũng ngồi lê đôi mách ở hàng ở quán… Thật là cái thứ lười biếng chỉ có biết ăn cơm hàng cháo chợ…
Thiện Tố đầu óc tê mê, cặp mắt muốn nổ đom đóm. Nhưng chàng cố dằn xuống, nói với Kiều Lan:
– Thôi chị về đi. Má em không có ở nhà. Hôm khác hẳn đến chơi. Bây giờ em phải qua bên chợ lấy thuốc không thì một hồi nữa tiệm người ta sẽ đóng cửa…
Kiều Lan định nói nữa, nhưng nghe Thiện Tố đuổi khéo tức lắm, liền đứng lên ngần ngừ định nói gì thêm. Nhưng thấy Thiện Tố vào dắt xe đạp đi ra hàng ba, nên cô ta ngoe nguẩy bỏ ra về, mà miệng còn rủa sả lầm bầm.
Thiện Tố đi qua chợ, nhưng không phải lấy thuốc, mà chàng đến nhà cũ của mình để hỏi thăm coi có phải Cẩm Hương nằm nhà thương ở Tân An như chị Kiều Lan chàng vừa nói không?
Thiện Tố dắt xe đạp ra cửa đi về, lòng buồn rười rượi. Quả thật là như vậy! Bao nhiêu câu hỏi đặt ra trong đầu óc chàng. Tại sao Cẩm Hương nằm nhà thương mà chàng không hay biết? Nàng bịnh gì? Hai người đã hứa hẹn tìm hiểu lẫn nhau, tại sao có chuyện mà nàng không cho chàng hay? Tại sao lại có người đàn ông nuôi bịnh? Chẳng lẽ một trong hai đứa em trai nàng? Vô lý, hai người đó làm việc ở xa, có nuôi thì phải là má nàng mới đúng chớ? Tại sao lại có người đàn ông dìu đỡ?
Bà Tư Hiền thấy con mặt mày ủ rủ. Lúc ra bờ mương cho cá ăn, chàng hết nhìn trời lại nhìn nước, rồi nhìn ruộng lúa bao la… Dáng điệu uể oải, gương mặt bơ phờ, chàng không nói năng gì cả. Bà Tư biết con mình đang có chuyện buồn nên đốt đèn, thắp nhang bàn thờ Phật, bàn thờ ông bà.
Bên ngoài trời, bóng đen buông phủ màn đêm. Ở gần ruộng, gần bưng, cóc nhái, côn trùng kêu râm ran từng chập buồn não nuột. Nồi cơm đã chín, bà Tư khơi ngọn lửa, hâm lại ơ canh khoai mỡ, và om cá bống cát kho, chuẩn bị dọn cơm. Lúc ăn cơm, bà hỏi con mới biết tự sự. Bà băn khoăn:
– Ai nói với con chuyện nầy?
Chàng buồn rầu:
– Chị Kiều Lan ghé qua hồi chiều chớ ai. Con không biết tại sao Cẩm Hương đi đâu mà không cho con hay gì hết? Lúc trước cổ đâu có như vậy. Có xảy ra chuyện gì thì cổ phải nói chớ. Sao lại lặng lẽ đi một mình?
Bà Tư Hiền ngắt ngang lời con:

– Sự việc biết có phải đúng như mụ chị mây nói không? Hai con chị đó “bán trời không mời thiên lôi”. Đừng có nghe lời bọn nó. Bọn nó nói mà con tin được sao? Nếu con muốn biết rõ mọi chuyện, thì hãy thu dọn công việc, đi thăm cổ một chuyên coi thể nào? Chớ con buồn bực như vậy ở nhà cũng không làm được việc gì…
Sáng hôm sau, hai anh làm vườn đến móc mương bồi thêm mấy liếp đất bên trái vì chàng nhờ họ từ tháng trước, nên không hẹn lại được.
Khi chàng đón xe đi Sài Gòn thì mặt trời đã lên cao. Đến Sài Gòn vào giờ ăn trưa, chàng ghé qua quán cơm bình dân gần bến xe, kêu một dĩa cơm sườn và ly nước trà. Nhưng khi nuốt cơm, Thiện Tố cảm thấy như nuốt sỏi sạn. Chàng bỏ mứa nửa dĩa com, uống cạn ly trà rồi đến bến xe Miền Đông, leo lên xe đò đưa về Lái Thiêu, Búng, Thủ Dầu Một.
Quả nhiên, Cẩm Hương còn dưỡng sức ở nhà. Nàng đang nằm trên võng đọc báo. Thiện Tố bước vào, cung kính chào hỏi ông bà Ký Tân. Họ chào hỏi lại chàng qua loa rồi rút êm để cho hai người nói chuyện. Thiện Tố, xót xa chưa kịp hỏi han Cẩm Hương thì nàng chẳng những không chào hỏi như thường lệ, mà còn gằn giọng khai chiến:
– Anh đến đây chi vậy? Tôi đã nói với anh rồi, bây giờ tôi lập lại: Xin anh để cho tôi yên. Giờ nầy còn sớm anh hãy ra xe về đi. Chúng ta còn gặp lại làm chi?
Vượt đường xa lên thăm, Thiện Tố không được niềm nở thì chớ mà còn bị người yêu nói mắc như tạt nước lạnh vào mặt! Chàng giận tím gan:
– Được! Tôi sẽ về ngay bây giờ! Em muốn chia tay phải không?Chia tay thì chia tay, tùy em. Nhưng tôi muốn biết nguyên nhân? Tôi đã làm lỗi gì với em?
Chợt thấy hai cây tó cạnh Cẩm Hương, Thiện Tố nghe lòng chùng xuống, nhưng thẳng giọng:
– Em làm gì mà chân cẳng bị nông nổi như vậy? Tại sao em lại nằm nhà thương ở Tân An mà không phải ở Mỹ Tho hay ở Thủ Dầu Một? Còn nữa, người đàn ông nào nuôi em, khi em nằm nhà thương?
Em đã có hôn phu rồi mà còn lừa dối tôi, rẻ rúng tình yêu của tôi… Em có phải là con người không? Thật uổng công cho tôi đã yêu thương và coi trọng em… Khỏi đuổi, tôi về đây. Từ rày tôi không dám làm phiền em nữa đâu.
Thiện Tố với lấy chiếc va-li nhỏ đựng đồ cá nhân để nằm trên đi-văn, dợm bước ra. Cẩm Hương đang ngồi trên ghế dựa, thuận tay, lấy vội cây tó bên cạnh phóng trước mặt Thiện Tố, run giọng:
– Được! Hôm nay chúng ta phải nói rõ để không còn dây dưa về sau. Anh muốn biết những câu mình hỏi thì dừng lại. Tôi sẽ trả lời thỏa đáng từng câu một, để anh không oán trách oan cho người khác. Anh nghe đây: Xe tôi đi bị lật. Nếu chân cẳng tôi bị gãy hay bị què thì mặc xác tôi chẳng liên can gì đến anh cả. Anh đừng làm bộ xót xa “mèo khóc chuột chết”. Tôi bị ngất xỉu, xe cứu thương chở đến nhà thương nào thì tôi nằm nhà thương đó. Người đàn ông nuôi tôi không phải người tôi yêu và cũng không phải hôn phu tôi. Ông ta cùng chung chuyến xe, cũng bị thương được chở đưa đến phòng cứu thương. Ông tốt bụng giúp đỡ tôi trong khi người nhà chưa hay biết tôi bị tai nạn. Nhưng tôi cho anh biết, tôi không bảo đảm là sau nay tôi có yêu ông ta hay không! Bây giờ tôi trả lời xong rồi, anh vừa ý chưa? Anh có thể đi đi…
Thiện Tố phang lại liền:
– Không, tôi chưa bằng lòng những câu trả lời của em! Tôi gạt gẫm em hồi nào? Gạt gẫm em chuyện gì? Em phải nói cho ra lẽ chớ đừng có vu khống tôi như vậy. Em đã có người yêu khác rồi trút hết tội lỗi cho tôi để nói chia tay.
Như bị đổ dầu vào lửa:
– Cô Ngọc Huệ, cháu ngoại ông Cả Bảy, ở gần nhà máy chà lúa không phải là hôn thê của anh sao? Tôi đã gặp cổ rồi, tôi có nói oan cho anh không? Vậy ai gạt gẫm ai?
Nói đến đây Cẩm Hương uất nghẹn lời, tức tưởi:
– Thú thật, là tôi đã từng yêu thương anh! Yêu anh tôi thật mệt đến điêu đứng! Yêu thương mà đau khổ như thế nay thì nên dứt khoát đi cho rồi, dậy dưa làm chi nữa cho phiền toái cả hai bên. Anh về đi, chúng ta chấm dứt kể từ đây.
Thiện Tố bàng hoàng, tức tối:
– Ai nói với em cô ấy là hôn thê của tôi? Chuyện không phải như vậy.
Cẩm Hương cũng không vừa, quơ cây tó còn lại chọi chàng. Nàng khóc rấm rức:
– Anh đi, đi… Anh là người trong cuộc, thì cần gì hỏi nữa? “Không có lửa làm sao có khói”, về hỏi bà chị Kiều Lan của anh thì sẽ biết. Tôi đã mệt vì chuyện của mấy người lắm rồi. Anh làm ơn đi khỏi chỗ nầy đi, đừng có làm phiền tôi nữa!
Mặt mày Thiện Tố đanh lại, thiểu não. Chàng cúi gằm mặt, lặng lẽ xách va-li bước ra khỏi nhà. Cẩm Hương càng tức tối hơn. Nàng không biết làm gì cho hả cơn giân. Chụp cái ly, quơ cái bình nước, mấy chai dầu nóng, dầu Nhị Thiên Đường, dầu cù là vô tội vạ đế gần đó chọi lung tung… Cái bể toang, cái sứt cọng, cái gảy que… miểng văng tung tóe, và nằm lăn lốc lổn ngổn trên mặt đất.
Nàng khổ sở, đớn đau chỏi tay, cà nhắc cái chân không đau qua chiếc giường ngủ gần đó rồi ngã vật xuống, vùi đầu úp mặt lên hai chiếc gối chồng lên mùng. Nàng khóc như mưa, như gió, khóc tức tưởi chẳng ngừng…
Bên ngoài trời còn nắng chang chang. Thỉnh thoảng con gió nhẹ thoáng qua làm cây lá khua động rào rào. Đôi chim chìa vôi lông đen điểm trắng nhảy sang cành nầy, nhảy qua cành kia, kêu gọi nhau chí chóe. Chúng ẩn hiện trong những cành cây mận rậm rạp lá xanh rì. Cạnh bên, hàng cây so đũa trổ đầy bông trắng, bầy chim trao trảo tíu tít réo gọi nhau tìm mật.
Trời cao vòi vọi, có những làn mây trắng mỏng gọn nhẹ lác đác in nền lam ngọc, tạo thành những bức tranh sơn thủy, những hình thù cổ quái, những con vật hiền lành, hung dữ… tùy theo sự giàu óc tưởng tượng của từng cá nhân một. Nhưng chỉ trong đôi ba phút thôi, mây sẽ trôi theo gió mờ dần, mờ dần… rồi biến tan trong thinh không bát ngát. 
Cẩm Hương tỉnh giấc thì trời đã chạng vạng. Nhà nhà trong xóm đèn đã thắp sáng. Ngoài khung cửa sổ phía sau hè, trăng mười bốn đã ló dạng ở hướng đông. Gió mát rượi, Cẩm Hương vươn vai, những khớp xương kêu răng rắc, nhịp tuần hoàn chảy đều trong cơ thể. Nàng cảm thấy thoải mái dễ chịu vô cùng sau giấc ngủ. Nhưng nàng chợt thở dài, nỗi buồn hiu hắt lan khắp tâm tư, như đè nặng cả châu thân. Kìa cặp nạng hồi chiều nàng đã dùng nó chọi Thiện Tố, cùng những đồ vật lăn lóc trên mặt đất… giờ đã dọn sạch sẽ và cặp nạng dựng kế bên giường. Má, hoặc ba nàng đã thu dọn rồi chăng?
Đêm đã vào sâu. Có tiếng chó sủa ở xóm xa, tiếng đỗ quyên kêu khắc khoải trong bụi rậm sau nhà. Bên kia bờ rào thưa của ranh đất, vẳng tiếng chị hàng xóm hát ru con: “Giận anh em giận làm chi/ Thoa son, giồi phấn rồi đi chụp hình/ Giận anh em giận sao đành? Ngồi xe anh chở chạy quanh phố phường”. Ồ, ca dao đó chăng? Ca dao gì mà kỳ cục? Ai mà đặt vô duyên quá vậy? Nhưng câu đầu và câu thứ ba lại hợp với hoàn cảnh hiện tại của mình.
Cẩm Hương uể oải lấy cặp nạng, cẩn thận đứng lên, cố không gây ra tiếng động, đi lần xuống nhà dưới. Nàng nghe tiếng của hai người đang nhỏ to nói chuyện, nhưng nàng không chú ý cho lắm, bởi nàng nghĩ là ba má mình đang nói với nhau về chuyện cây trái, mùa màng, chuyện hôn nhơn gả cưới trong xóm mà ông bà được mời, chuyện đình chùa trong thôn, chuyện nhà. Cũng có thể là chuyện hôn ước của Tuấn, hoặc Thành. Cẩm Hương mỉm cười một mình, chỉ ngần ấy bao nhiêu chuyện thôi, mà ba má mình nói hoài, nói bao nhiêu lâu rồi vẫn không chán.
Trong ánh đèn Huê kỳ chân cao, mà gia đình nàng thường gọi là đèn tây, có hai người ngồi trên hai chiếc ghế ngang nhau, cách cái bàn ăn cơm đặt ở giữa. Trên bàn có dĩa trái cây, có dĩa bánh ngọt, bình trà, và hai tách nước họ đang uống dở. Quay mặt hướng về phía nàng là bà Ký Tân, còn người quay lưng và có giọng nói đó không phải của ba nàng mà chính là Thiện Tố! Phải rồi, lưng và giọng nói của cái con người dối gian gạt gẫm đó, làm sao mà nàng không nhận ra ngay được? Nàng hậm hực đến cực độ, và tức muốn lói hông, rêm ngực! Nàng lầm bầm rủa sả: “Thật là cứng đầu. Đã bị đuổi đi mà còn trở lại. Chắc hắn muốn nghe mình xài xể nữa?”.
Thiện Tố dịu giọng:
– Thưa bác, cháu biết Cẩm Hương hiểu lầm cháu quá sâu đậm vì cổ tưởng cháu đã lừa dối và gạt gẫm cổ. Trong lúc cổ giận dữ, cháu có giải thích cách gì cổ cũng không nghe lọt tai, nên cháu định về, để cổ dịu lại thì sẽ tìm cách phân tỏ cho cổ biết. May mà gặp bác thông cảm. Cảm ơn bác cho cháu trở lại đây.
Bà Ký Tân bảo:
– Từ lúc bác rước nó từ nhà thương về đến giờ, bác thấy nó ít nói, và lúc nào cũng buồn dàu dàu. Bác có hỏi, nhưng nó cố tình giấu giếm, nói là tại vết thương làm nó khó chịu. Nhưng bác không dè là nó đau buồn vì cháu. Vậy cháu có việc gì không thể nói ra để nó hiểu lầm mà khổ sầu như vậy? Nói thiệt với cháu, bác chỉ có đứa con nầy là gái. Nó học rất giỏi, lại ngoan hiền, nghe lời cha mẹ, thương em. Hầu như từ nhỏ đến giờ, nó chưa bao giờ làm mất lòng ai, cho dù kẻ ăn người ở trong nhà cũng vậy… Khi có việc gì không vừa ý, hoặc không vui thì nó càng yên lặng rút lui, âm thầm ôm tâm sự lấy một mình… Nó lại được hai bác thương yêu chiều chuộng, còn được hai em kính nhường và nể phục. Có lẽ như vậy nên nó cứng đầu lắm, chuyện gì nó đã quyết định rồi thì khó lòng mà lay chuyển được.
Thiện Tố trầm giọng:
– Thưa bác, cháu không giấu gì bác. Má cháu là vợ thứ hai của ba cháu. Đại gia đình ba cháu gồm bà vợ lớn và 3 người con dòng lớn ở nhà hương hỏa của ông bà nội cháu để lại. Còn mẹ con cháu ở riêng. Thưa bác, dù mẹ con cháu đối xử tốt đến đâu đi nữa thì má lớn, và anh chị em con riêng của ba cháu cũng thấy gai mắt, khinh khi và thù ghét… Những chuyện gay go tranh chấp của dòng lớn, dòng nhỏ đã có từ ngàn xưa đến giờ. Sự việc đó trên thế gian nầy không mới mẻ gì. Ai cũng biết nhưng không ai phân xử, cũng không ai ngăn chặn nên những phức tạp, tranh chấp của hai dòng con trong gia đình trở thành chuyện xảy ra thường xuyên, nên không ai còn thắc mắc hay để ý đến. Cháu nghĩ rằng đó là chuyện của người lớn, cháu không có quyền can thiệp vào. Cháu thật khó xử, và cảm thấy hết sức là khó chịu với ba cháu. Thưa bác, cháu có hai bà chị một cha khác mẹ luôn được má lớn chống lưng, xúi giục làm những chuyện không nên làm. Hai chị cháu không phân phải trái bởi họ không bỏ thói tị hiềm, và thói cạnh tranh bất chánh với cháu. Má cháu nói ngày xưa, ông nội cháu và ông Cả Bảy trong lúc nhậu nhẹt hứng chí ráp hai cháu nội (là cháu và cô cháu nội của ông Cả Bảy) sau nầy lớn sẽ làm vợ chồng. Má cháu kịch liệt chống lại ý kiến nay. Vì bà đau khổ cả đời rồi, không muốn sau nầy con bà có cuộc hôn nhân không do tình yêu mà bị sự gò bó, ép buộc của cha mẹ hai bên.
Bà Ký Tân rót thêm nước uống. Giọng nói của chàng như muốn nghẹn:
– Bên má lớn và hai chị con dòng lớn, gần đây biết cháu và Cẩm Hương thương nhau. Họ ức lòng ganh ghét nên muốn phá cho keo rã hồ tan thì họ mới chịu. Bởi trong mắt họ, cháu và má cháu phải luôn luôn thua kém họ, phải đứng phía sau họ… Họ là những người ăn trên ngồi trước, còn mẹ con cháu phải ngồi dưới và làm gì cũng phải nhìn sắc mặt của họ… Thưa bác, cháu nói vậy chắc bác hiểu ý cháu rồi?
Bà Ký Tân gật đầu. Thiện Tố tiếp:
– Thiện Cảm đàn ông con trai có gia đình rồi nên đương sự đỡ bị ảnh hưởng của mẹ. Còn hai bà chị Kiều Lan, Kiều Liên của cháu thì vặt mắc, khó chịu và độc địa lắm. Họ tìm đủ mọi cách để phá cho cháu và Cẩm Hương tách rời ra, như vậy họ mới khỏi ôm mặc cảm với Cẩm Hương! Nếu cháu và Cẩm Hương đi đến hôn nhân họ sẽ bị chạm tự ái và mang mặc cảm thua kém… Nên họ mới đặt ra chuyện cháu ngoại ông Cả Bảy là hôn thê cháu. Thật sự không phải vậy, cháu chưa bao giờ nói chuyện hay tỏ ý gì với Ngọc Huệ. Nếu cháu có tình ý gì, thì đã cưới cô ấy lâu rồi. Vì ba và má lớn cháu cùng mấy bà chị luôn đốc xúi cháu đi cưới cô ta. Xin bác nói với Cẩm Hương đừng ngờ vực cháu. Thật lòng cháu chỉ yêu mình cổ mà thôi.
Bà Ký Tân, chép miệng thở dài:
– Chuyện của bọn trẻ các cháu hay làm phiền đến người lớn. Chuyện nầy giữa cháu và nó, cháu hãy để nó nguội xuống rồi sẽ tìm cách giải bày. Con nầy mặc dù cứng đầu, chắc dạ, nhưng không phải là đứa không biết chuyện.
Có tiếng cây tó rớt lăn lóc trên mặt đất. Thiện Tố quay lại, đến lượm lên đưa cho nàng. Chàng đưa tay định dìu nàng:
– Em ngồi xuống đây, nói chuyện với bác và anh. Chỉ là sự hiểu lầm thôi, anh có làm gì đâu mà em giận và đuổi anh như đuổi tà vậy?
Cẩm Hương đẩy mạnh chàng ra, không cho đụng đến. Do đó nàng mất thăng bằng suýt té chúi nhủi. Bà Ký Tân lo lắng, chắc lưỡi lớn tiếng mắng con gái:
– May mà Thiện Tố đỡ kịp, nếu không thì con sẽ té gãy thêm mấy khúc xương nữa! Con đừng có bướng như vậy.
Cẩm Hương không trả lời mẹ, hất mặt như khiêu khích Thiện Tố:
– Anh chưa về sao? Anh đã nói anh không nhìn mặt tôi nữa mà! Anh dùng lời đường mật làm má tôi xiêu lòng tin anh. Còn tôi hả? Còn khuya tôi mới tin cái con người đã gạt gẫm tôi.
Bà Ký Tân thở dài, lắc đầu:
– Nó đi gần tới bến xe rồi, má bảo trở lại đó. Bữa nay sao con ngang ngược quá vậy? Con phải nghe nó giải bày chớ. Người mình hết lòng yêu thì không nghe, lại đi nghe người ngoài nói bá láp.
Cẩm Hương ngồi xuống ghế, vừa tức vừa tủi thân, nghẹn ngào:
– Phải lắm, vì tin lời kẻ gian dối nên con mới bị gạt. Người cho con hay tự sự là chị của ảnh đó, chớ không phải kẻ bá vơ như má nghĩ đâu. Chị ấy nói trước mặt hôn thê ảnh là Ngọc Huệ, cô ta có chối cãi chi đâu? Nếu gặp trường hợp khi không mà bị gán ghép như vậy, thì cô ta đã chối bay chối biến hoặc nổi giận đùng đùng, chớ cổ đâu có đôi má ửng hồng mắc cỡ.
Bà Ký Tân nhìn Thiện Tố, không biết nói sao cho phải. Chàng đau khổ, nói như khóc:
– Nãy giờ em đã nghe anh nói chuyện với bác rồi? Đó là sự thật, anh không có dối gạt em. Hãy tin anh đi Cẩm Hương. Anh không hề dối gạt em…
Cẩm Hương trợn mắt:
– Tại sao tôi phải tin anh? Sáng mai anh đi về đi. Tôi ghét anh, tôi thù anh…
Thiện Tố khổ sở:
– Anh phải làm thế nào để em tin là anh không gạt gẫm và lừa dối em?
Cẩm Hương nạt vội:
– Anh khỏi làm gì hết! Đừng nói lôi thôi nữa. Tôi và anh chấm dứt!
Bà Hương dắt con gái về phòng vỗ về, khuyên bảo. Cẩm Hương uống hai viên thuốc an thần trước khi lên giường nằm. Má nàng ra khỏi phòng. Nàng khóc rấm rức…
Bà Ký Tân mến tánh tình thành thật và tin lời Thiện Tố. Thấy Thiện Tố đứng tần ngần gần cửa, ngó mông ra ngoài sân tràn ngập bóng tối, dáng thiểu não trông thật tội nghiệp. Bà khuyên:
– Thôi cháu đừng buồn. Sáng mai hãy trở về nhà, nói với má cháu rằng bác sẽ tìm cách lung lạc nó. Con nầy cứng miệng nhưng mềm lòng. Bác biết nó thương cháu lắm mới nói với cháu như vậy, nhưng để rồi khi cơn giận nguôi ngoai, nó sẽ nhận định đâu là sự thật, đâu là quỉ kế của kẻ ác tâm.
CHƯƠNG MƯỜI BA
Tiếng chuông xe đạp leng keng quen thuộc của chú phát thơ dừng lại trước cửa. Trên vai chú mang một cái bị vải nặng, chứa đầy vài món bưu kiện và những lá thư lớn nhỏ đủ cỡ. Chú tươi cười khi thấy Cẩm Hương:
– Hôm nay trông cô hồng hào rồi, chừng nào cắt bột băng chân đây?
Cẩm Hương tươi cười nhận mấy cái thư ông vừa trao cho:
– Cảm ơn chú, hai tuần nữa họ sẽ cắt băng bột chú à. Họ sẽ cho chụp hình lại chỗ xương đã gãy. Nếu nó lành thì thôi, không thì bó bột nữa. Thật là xui xẻo quá!
Ông phát thư cười hiền:
– Không sao đâu cô, “chó liền da, gà liền xương” mà. Cô còn trẻ, xương cô sẽ mau lành lắm.
Ông phát thư chào Cẩm Hương, nhảy lên xe đạp đi. Nàng lo le xem lại mấy lá thư. Lá nầy của Tuấn, chắc nó nghe Thành nói nàng bị tai nạn nên gởi thư về thăm, chớ mấy đời mà thằng nầy viết thư. Thư kia là của Nguyệt Cúc bạn gái của Thành em trai nàng. Ơ kìa, còn thư của Bùi Công Khanh nữa. Nàng giở thư của Tuấn ra coi trước”
“…Công nương Cẩm Hương ơi, chị đã khỏe lại chưa? Sao mà xui xẻo quá vậy? Nhưng nay thì tai nạn cùng đã qua rồi. “Tiền hung hậu kiết”. Nghe Thành nói chị một lúc có hai ông kép hả? Trời ơi sao mà bà chị tui đào hoa quá vậy hè? Nhưng coi chừng sóng gió sẽ nổi lên đó nghen Trần đại tiểu thơ.
Sao đây? Hai chàng thanh niên tốt mã lẫn tốt bụng mọi thứ đều tốt, bà chị thân mến của tôi sẽ chọn ai? Một bác nông phu và một anh kén vợ? Chà, khó khăn trong việc chọn lựa dữ đa! Nhưng chị đừng lo, em sẽ ủng hộ chị hết mình.
Thành nói với em, năm tới sẽ cưới cô Nguyệt Cúc trước khi cô ta du học. Việc cưới hỏi nầy là ý kiến của ba má cổ đề nghị trước, vì họ không muốn con gái mình đòi đi nhưng không có lý do để cản, nên nhờ tên Thành nhà mình. Thằng nhỏ coi vậy mà hên… Chị gặp cô ta rồi mà, phải không?
Còn thằng em tuấn tú đẹp trai hào hoa phong nhã nầy của chị đến nay cũng chưa có một bóng hồng để nhớ, để thương, để mơ, để mộng. Chẳng có ai để em tiễn đưa trong đêm mưa nơi ga vắng. Để đón để đợi trong chuyến tàu cuối ngày, để hờn để giận và để hoàng hậu lòng em mua quà gởi cho em…
Nói giỡn với chị cho vui chớ em chị có cuộc sống tình cảm rất phẳng lặng hiền hòa. Chị cố giữ gìn sức khỏe. Lần sau về phép em sẽ xuống thăm chị. Chuyển lời em kính thăm ba má.
À mấy tuần trước em có gặp Ánh Nguyệt. Cô ấy đi Thủ Dầu Một, ghé qua Lái Thiêu nên tình cờ cả hai gặp nhau. Em có mời cổ đi ăn. Cổ chẳng những xinh đẹp mà còn vui tánh, dễ thương hơn chị nhiều (cười)!
Gặp lại chị sau nhé. Cho em gởi lời thăm vầng trăng sáng của xứ Định Tường, nếu chị có gặp vầng trăng kia. Trăng ở đô thị không làm sao thơ mộng bằng trăng thôn dã phải không chị?
Tuấn Đẹp Trai, của chị”
Cẩm Hương cười một mình, thầm cầu mong, nếu là duyên nợ để cho hai đứa nầy sớm gần nhau.
Nàng rọc vội phong bì lá thư của Nguyệt Cúc, chăm chú đọc:
“…Chị Cẩm Hương thân mến,
Hôm nay nghe anh Thành nói chị gặp tai nạn và cũng được trở về nhà rồi. Em viết thư thăm chị và chúc mau hết bịnh.
Chị cho em kính thăm hai bác, và có dịp em sẽ đến nhà thăm hai bác.
Chị hãy giữ gìn sức khỏe. Em biết chữ Việt rất ít, nên viết không suông câu. Mong chị hiểu cho. Gặp chị sẽ nói chuyện nhiều hơn.
Kính
Nguyệt Cúc
TB: Em là Út Thành Thông Minh của chị đây. Xin cho em viết ké vào lá thư nầy.
Khỏe chưa hoa khôi trường Áo Tím? Chị có được thư anh Khanh chớ? Cái ông đó coi bộ khoái chị lắm rồi! Ông ta bất cứ câu chuyện gì một hồi thì cũng có cái tên Cẩm Hương lọt vào đó, đa tình đa tứ thiệt! Em thấy ông ta thành thật và tốt nết lắm. Thử tìm hiểu nhau đi, nếu ông ta tỏ tình với chị. Gặp cơ hội tốt là phải chụp ngay, đừng để vuột mất. Nay chị cũng đã lớn tuổi rồi. Em mong người hữu tình gặp được kẻ hữu duyên…Hẹn gặp chị! Hi, Hi…
Út Thành”
Hai thằng em trai của Cẩm Hương đứa nào cũng có cái tên riêng do bà chị của chúng thương yêu đặt cho. Anh chàng Tuấn lúc nhỏ sổ sữa nên mập lù, và trắng hồng. Lúc nào nựng em, nàng cũng thường gọi em là “Tuấn Đẹp Trai” của chị. Từ đó ba má và mấy thợ thầy trong nhà đều gọi như vậy cho đến lớn. Út Thành, từ nhỏ cho đến bây giờ vẫn ốm roi roi và cao lêu nghêu, nhưng lanh lợi, nhớ dai và sáng dạ. Nó hay bắt chước, ai dạy cái gì là biết ngay cái đó. Cẩm Hương gọi em là “Út Thành Thông Minh”, từ đó cũng thành danh luôn…
Lá thư thứ ba nầy, Cẩm Hương cố tình xem sau cùng. Không biết nội dung thư đã nói gì, nhưng cầm lá thư mỏng trên tay nàng có cảm tưởng như bị một sức thu hút lôi cuốn nàng vào một cảm giác lạ lẫm. Nàng cảm thấy vui vui và hồi hộp.
“Bến Tre, ngày… tháng… năm…
Cẩm Hương thân mến,
Anh trở về Trúc Giang, cả tuần rồi. Công việc giấy tờ bán buôn chồng chất làm anh bận rộn muốn hụt hơi. Chiều nay, nghỉ xả hơi một chút, anh viết thư thăm hai bác, Cẩm Hương và Thành.
Nhờ Cẩm Hương chuyển lời anh thăm hai bác. Anh xin cảm ơn hai bác và nhớ hoài bữa ăn mà bác gái đã đãi. Bác nấu ăn ngon như vậy, chắc chắn Cẩm Hương cũng nấu ngon lắm? Có dịp xin cho anh thưởng thức những món ăn Cẩm Hương nấu nghen.
Cẩm Hương khỏe nhiều chưa? Chừng nào trở lại trường? Cả tuần nay anh vẫn còn say! Cẩm Hương biết anh say gì không? Say nắng gió Lái Thiêu nên tâm hồn cứ bần thần và nhứt là nhớ bóng dáng và miệng cười của Cẩm Hương… Đừng giận và cho là anh trắng trợn và vô duyên quá! Thật tình đó, anh không biết quanh co, rào trước đón sau hay viết những câu bóng bẩy như văn sĩ thời đại viết tiểu thuyết tình cảm đâu. Cho nên má anh và mấy đứa em thường chế nhạo là tâm hồn anh khô cằn sỏi đá. Bởi vậy, đến từng tuổi nầy vẫn chưa lấy được vợ!
Hãy giữ gìn sức khỏe. Có dịp nào đi Bến Tre, nhớ báo tin cho anh biết, để anh được tiếp đón cô giáo Cẩm Hương.
Thân mến
Bùi Công Khanh
TB: Lúc nào rỗi rảnh nhớ viết thư cho anh.”
Cẩm Hương mỉm cười, nhưng chỉ trong phút chốc thôi! Thư còn cầm trên tay, mà nàng đã thở dài ngao ngán. Chuyện của Thiện Tố làm nàng phiền muộn và đau khổ nhức nhối quá rồi. Vết thương còn rướm máu sờ sờ đó, nàng cảm thấy ái ngại không muốn quen với ai nữa, bởi “trợt vỏ dưa, thấy vỏ dừa cũng sợ”. Cẩm Hương vò lá thư thảy vào thùng rác. Nhưng không biết nghĩ sao, nàng lượm lại, vuốt bức thư cho thẳng thắn để vào phong bì, ngắm nghía con dấu bưu điện đóng lên tem và địa chỉ từ xứ dừa gởi về.
Hôm nay trời nắng đẹp. Mây trắng mỏng như ren thêu đùn lại bên góc trời Nam. Nắng chan hòa lên khắp sân hè. Mấy cây hồng nhung, huỳnh hồng, quế hoa trong chậu lác đác trổ vài bông. Đám dừa nước xa xa gió rung loang loáng trong bóng nắng. Tiếng chim rẻ quạt lảnh lót trong tàng cây xoài An Ca tơ, cây cam sành. Giọng hò nam, từ con kinh sau đám ô rô dài rậm rạp vọng đến:
“Hò ơ… Má ơi con má luông tuồng
Có ngày thiên hạ lột truồng nhơ danh… “
Giọng hò nữ lanh lảnh phản công lại:
“Hò ơ… Dầu xăng, dầu lửa tao đốt cửa, đốt nhà
Đứa nào độc miệng, ông bà sẽ ra tro… “
Cẩm Hương đang buồn cũng mắc cười. Tên nào chọc gái mà dại dột vô duyên vô dùng như vầy? Còn cô gái nào mà sao đanh đá! Vậy là cuộc hò chấm dứt nhanh chóng. Thiện Tố giỏi hò đối đáp. Nếu chàng có mặt ở đây, chàng sẽ chọn những câu hò trào lộng thiệt tế nhị. Người hò đối đáp chẳng những không giận mà còn cười thú vị nữa là khác.
Chu choa ơi! Đến non nước nầy rồi mà Cẩm Hương vẫn nhớ quay, nhớ quắt Thiện Tố như vậy? Nước mắt nàng rưng rưng đẫm má, nhưng nàng không lau. 
Đưa con đi nhà thương Thủ Dầu Một cắt băng bột, trên đường về, bà Ký Tân bảo Cẩm Hương ghé vào chợ. Hai mẹ con xẹt qua xe bán nước mía ở đầu nhà lồng. Rồi bà gọi một ly nước mía lớn vắt thêm trái tắc. Ly nước mía đầy sóng sánh, màu nước mía vàng, nước đá đập vụn rịn hơi lạnh tươm ra từng giọt đọng trên thành ly. Trên mặt nổi bọt vun chùn. Mùi vỏ trái tắc nồng nàn hòa lẫn mùi nước mía ngọt dịu làm khó ai dằn được sự thèm khát.
Trưa nắng chang chang. Hàng cây bã đậu hai bên đường như bị trời trồng, đứng trơ trơ, lá cây im lìm không lay động. Sau khi khám lại hai chân của Cẩm Hương, bác sĩ cho biết:
– Vết nứt xương ống quyển của cô đã lành, nhưng cô phải cẩn thận, giữ gìn đừng để nơi đó va chạm mạnh. Và bột bó mới mở, nên chân đi còn hơi sượng, chưa được tự nhiên, nhưng cô chịu khó đi tới đi lui thường, thì trong thời gian ngắn chân cô sẽ trở lại như xưa.
Cẩm Hương muốn về nhà vì trời nắng, thời tiết nóng quá. Bà Ký Tân thì muốn đưa con vào chợ mua mấy xấp tơ lụa may áo dài tặng con, vì từ lúc nàng ra trường đi dạy học cho đến nay, hai mẹ con chưa có dịp đi chợ chung, và chưa có dịp chọn hàng may áo quần cho con như lúc cô còn đi học. Thấy con uống một hơi gần hết ly nước mía, bà mỉm cười nói:
– Trời nóng nực như vầy, không uống gì ngon bằng uống nước mía. Con uống thêm nữa không?
Cẩm Hương lấy khăn tay lau miệng, vội xua tay:
– Đủ rồi má. Nước mía ở đây ngon thiệt. Má định vào chợ mua gì?
Bà Ký Tân không trả lời, đứng lên trả tiền nước mía, rồi hai mẹ con đưa nhau vào các sạp bán vải vóc bên trong nhà lồng chợ, bà lựa cho con xấp gấm màu thiên thanh có in nổi rải rác cành lá trúc màu lá dứa. Xấp lụa màu hoàng yến in lờ mờ trên mình hàng hoa ti-gôn tím, dây hoa có màu xanh lá cây. Bà biết con gái mình thích quần áo đẹp lắm. Bởi tháng nào, sau lãnh lương nàng cũng may áo dài mới. Cho nên hôm nay bà mua sắm cho Cẩm Hương hai cái áo dài để diện trong dịp Tết tới. Hai mẹ con về đến nhà thì ông Ký Tân chỉ mấy bức thư từ xa gởi đến, ông hỏi con:
– Bùi Công Khanh, anh chàng Khanh quen với con hôm tai nạn xe hơi đó phải không?
Bà Tân nhìn con tươi cười. Nàng trả lời:
– Dạ đúng là anh Khanh đến nhà mình với Thành. Thư trước ảnh nhờ con chuyển lời thăm ba má, và cảm ơn bữa cơm ngon do má nấu. Ảnh còn nói chắc con nấu ăn ngon như má! Chèn ơi, con nghe muốn nóng lạnh quá đi, nhè con nhỏ lười biếng nầy mà ảnh nói nấu ăn ngon?
Ông Tân nhìn con, cười hiền:
– Theo lẽ, sau khi ra trường con phải học nấu ăn chớ? Để rồi nay mai con về làm vợ người ta mà không biết nấu ăn thì con sẽ thấy mắc cỡ với chị em của dòng họ nhà chồng…
Nàng dẫy nẫy:
– Má truyền nghề nói dai, nói dài, nói dẻo cho ba hồi nào vậy? Con nói rồi, con sẽ không lấy chồng, nếu lấy chồng sẽ lựa mấy người là con một, hoặc là con mồ côi…
Bà Tân nạt đùa, và mắng yêu con:
– Nói tầm xàm nà. Nếu muốn chồng là con một thì ưng Thiện Tố đi, chớ ưng mấy đứa mồ côi khi con sanh đẻ, hay có việc gì sẽ không ai lo săn sóc cho con.
Cẩm Hương nghe nhắc đến tên Thiện Tố thì sa sầm nét mặt:
– Đừng có nhắc đến tên lường gạt đó nữa, con không ưa hắn!
Bà Tân ái ngại nhìn con gái. Bà biết nàng là người thận trọng, kỹ lưỡng, tỉ mỉ, tế nhị trong mọi vấn đề, nhứt là vấn đề tình cảm rất chính chắn. Bà thầm lo không biết Thiện Tố sẽ làm thế nào để giải tỏa nỗi hiểu lầm nầy đây? Bà thương Thiện Tố vì tánh tình hiền lành, và lòng hiếu thảo của chàng. Bà rất mong muốn con bà và chàng nên vợ chồng, ăn đời ở kiếp với nhau, như vậy bà sẽ yên tâm hơn. Nhưng bà thở dài nghĩ rằng với bọn trẻ bây giờ mình không làm gì hơn được! Thôi thì mặc cho duyên số an bài!
Những lá thư từ Kiến Hòa tới tấp gởi về, gần như mỗi 2, 3 ngày Khanh viết cho nàng một lá. Anh than buồn và tỏ nỗi nhớ thương sâu đậm của mình đối với nàng, Cẩm Hương e dè trong việc tình cảm lứa đôi nầy. Nàng cảm thấy anh chàng Khanh cũng không tệ. Mặc dù mới quen, nhưng anh ta tốt bụng, chân thành, nên nhiều lần làm nàng cảm động. Khanh gởi về cho nàng những cánh hoa nhớ nhung màu tím, lá xanh ép trong những tờ giấy mỏng màu hồng, ngoài bìa giấy cắt giún như bìa những tấm hình chụp ở tiệm, trông đẹp và trang nhã.
Trước khi xuống trường, nàng nhận được thùng quà, trong đó có bánh kẹo do Khanh mua trong dịp đi Gò Công. Những tấm ảnh chụp lăng Trương Công Định, cảnh mặt trời lên ở biển Tân Thành, gói chuối cau phơi khô còn tươm mật. Cẩm Hương hơi ngại, nhưng nàng nghĩ, Khanh gởi tặng quà, chớ nàng có nhờ mua hay xin đâu… Vả lại nàng cảm thấy tự ái mình được vỗ về, bởi Thiện Tố dối gạt nàng, các chị hắn bất lịch sự với nàng. Họ có vẻ xem thường nàng quá! Lòng tự ái đã cho phép, khuyến khích nàng tiếp nhận thư từ quà biếu của Khanh, và nàng cũng thư từ thường xuyên với Khanh để cho anh chàng lừa dối Thiện Tố đó đừng tưởng bở rằng mình là cái rún của vũ trụ. Cẩm Hương đã viết thư gởi lại cho Khanh vì cuối tháng nàng sẽ trở lại trường nên dặn anh gởi thư cho nàng về địa chỉ đó tiện hơn.
“Thư gởi Cẩm Hương,
Bà chị chồng tương lai thân mến của con chim chèo bẻo Ánh Nguyệi,
Bộ hết chuyện chơi rồi sao, mà chị đưa chân cho xe nó đụng đến nứt cái ống quyển của chị vậy? Bữa nay đỡ chưa chị? Ráng giữ gìn đừng để có tật chân thấp chân cao, làm tụi em phải gọi chị là “mụ Hương cà nhót”, hay là “vợ anh Tôn Tẩn ” thì khó nghe lắm đa.
Chị có hay Thụy Châu mang bầu rồi không? Con mẻ õng a õng ẹo nhỏng nhẻo với chồng và muốn khoe cho cả làng cả nước biết rằng con mẻ có bầu, thấy mà phát ghét. Chỉ tội nghiệp chồng bà ta già khú ống đế mới có con. Mèn ơi! Chắc thằng chả sẽ chống gậy dắt con đi học mẫu giáo quá! “Hết cơn bí cứt, tới hồi chảy ngay / Sau khi hụt trái dưa, trời còn chừa trái mướp”. Qua nỗi đau khổ, bây giờ Thụy Châu thật sự đã tìm được hạnh phúc, em cũng hết sức mừng và chúc lành cho nó.
Còn Thục An đang lặn ngụp trong “vũng” hạnh phúc! Sài Gòn, Tân An có xa chi mấy? Cuối tuần nào “thảng” cũng đến gặp “cỏn”. Khi thì “cỏn” lên Sài Gòn gặp “thẳng”! Xem bộ cặp nầy bắt tụi mình sẽ đi đám cưới trước mấy cặp kia đó chị à. Thế mà mỗi lần gặp hai đứa, em hỏi thì cả hai chối bai bãi. Cái con đó dạo nầy chắc ăn cơm nị, cà-ri dê mỡ dầu nhiều quá nên nó nhớt nhợt và lặn giỏi chẳng thua ếch, nhái…
Em gặp Ái Mỹ, nó nói đang nuôi ông già nằm ở nhà thương Chợ Rẩy. Năm nay ổng đã “thất thập cổ lai hy ” rồi, nên trở gió trái trời thì ngã bịnh.
À, còn chị thì sao hả Cẩm Hương? Anh chàng nông dân và chị đang dậm lúa tại chỗ hay sao mà bặt vô âm tín vậy? Bọn mình đứa nào cũng “hăm mí” rồi, hai chữ “lỡ thời” đang kề cận, chớ còn nhỏ nhít gì nữa. Có tính thì tính mau đi nghen.
À, em có gặp anh chàng Tuấn. Hai đứa có đi ăn cơm chung và anh ta còn đưa em thăm một vài thắng cảnh ở ngay tỉnh lỵ Tân An, còn Lăng Nguyễn Huỳnh Đức người làng Khánh Hậu, quận Thủ Thừa là một danh tướng dưới thời Nguyễn sơ.
Bọn em đi xuồng trên sông Vàm Cỏ Đông, hồi tưởng ngay đến trận đốt tàu thực dân Pháp bên vàm Nhựt Tảo của anh hùng Nguyễn Trung Trực.
Đến Cần Giuộc, ai cũng nhớ ông Cai Tổng Là, người anh hùng chỉ huy đánh đồn thực dân… Thời gian có thể làm mất đi dấu vết của những người mặc áo vải thô, đi chân đất, ôm tầm vông vạt nhọn đánh Pháp, đánh bọn xâm lăng…Nhưng lịch sử vẫn còn ghi nhớ mãi tinh thần yêu nước đến muôn đời sau.
Thật sự bây giờ em Tuấn của chị đã trưởng thành, và là người lớn rồi. Anh ta già dặn, phong sương, trông oai phong chi lọa!
Lạy Thượng Đế tối cao! Chàng Tuấn của em sao mà đằm thắm, dịu dàng, thiết tha, âu yếm! Đã làm cho em tưởng chàng Lữ Bố đầu thai. Khi thì em tưởng chàng là Kim Trọng trong “Kim Vân Kiều” mới chui ra. Nhưng hai nhơn vật đó xưa quá là xưa, mặc bạch giáp, bạch bào đội mũ kim khôi, coi giống kép hát Mười Bửu, Năm Châu, Bảy Nhiêu trên sân khấu. Bây giờ em nghĩ ảnh là hiện thân anh chàng Dũng trong quyển “Đôi Bạn” của Nhất Linh. Và em lại nghĩ ảnh là kép Clark Gable trong phim “Cuốn Theo Chiều Gió”. Chị đừng chê em ưa nghĩ sa đà mà tội nghiệp em nghen.
Kỳ lạ, đối với anh em nhu nhược trong nhà, đối với lũ bạn cọp, beo, gấu sói em ngang tàng ngỗ ngược. Vậy mà trước mặt anh Tuấn, em thấy mình nhỏ bé, yếu đuối, cần sự yêu thương che chở. Kỳ quá hén, kỳ thấy mồ hà! Chị có thấy kỳ không?
À, nhỏ Nguyệt Mi đi ăn đám hỏi người em cô cậu với nhỏ ờ An Hữu, tình cờ gặp anh chàng Cù Hữu Minh làm Lục Sự ở Tòa Bố Vĩnh Long. Cả hai đá lông nheo với nhau. Vậy là cả hai tìm gặp nhau. Con bồ tọt lừa đó coi bộ nhút nhát không dám khoe với ai cuộc tình mới chớm nở của mình. Anh chàng Minh đang ly thân, gấp rút tiến hành ly dị vợ cho mau.
Nhỏ
Ái Mỹ thì lóng rày đẹp ra. Năm tới ả sẽ lấy chồng. Đàng trai nôn nóng nôn nao vì muốn có cháu nội đích tôn cho mau. Ba má nó sắp mở tiệm may cho ả ở đường Calmette (Tân Định), rồi mới cho ả lấy chồng. Ái Mỹ bảo em: “Bạn bè lần lượt ôm tráp, ôm rương, ôm rổ may về nhà chồng. Tao cũng nôn lắm. Ngặt hai bà chị tao đã lỡ thời, lại không có nghề ngỗng gì. Mở tiệm may cho tao là kiếm sanh nhai cho họ.Má tao bảo thầy bói nói nhờ vào cái hên của tao và tiệm may nầy hai bả sẽ kiếm được tấm chồng”.
Chừng nào chị đi dạy lại? Sướng chưa! Ở nhà chơi gần 3 tháng mà vẫn được trả lương. Chị coi vậy mà khôn, phải ngày xưa em vào ngành sư phạm như chị thì đỡ quá.
Thôi em dừng bút, hãy giữ gìn sức khỏe nghen.
Em dâu tương lai của chị!
Ánh Nguyệt”
Nguyệt Mi và Thục An gởi thư cho Cẩm Hương biết sẽ xuống Cai Lậy thăm nàng. Nàng lật đật viết thư cản lại, hẹn Tết cả bọn sẽ gặp nhau tại nhà Ái Mỹ. Sở dĩ nàng không cho chúng đến thăm cũng nhiều lý do, mà nguyên nhân chánh là Cẩm Hương vẫn chưa thoát khỏi nỗi buồn dằng dặc tâm hồn về chuyện giữa nàng và Thiện Tố. Lúc dưỡng bịnh, ở nhà nàng luôn để cho má ba thấy chuyện tình cảm giữa nàng và Thiện Tố đã bay xa rồi, không còn vướng bận trong tâm hồn nàng một mảy may nào nữa cả. Đó là giả dối, bởi trong tâm hồn Cẩm Hương không giây phút nào mà hình ảnh Thiện Tố không lởn vởn lúc xa, lúc gần, khi buồn, cũng như khi vui. Nàng cảm thấy mình thật khó hiểu! Nàng lặn ngụp trong khắc khoải, héo hắt, và mỏi mòn chờ mong. Nhưng khi nghe ai nhắc đến tên chàng thì nàng cảm thấy khó chịu như cái gai bày trước mắt.
Còn Thiện Tố, dù có chuyện tâm tình đang lủng củng, nhưng vẫn chăm lo quản lý nhà máy chà gạo cho cha, và chăm sóc vườn tược trên thửa đất nhà. Chàng mướn người đào thêm mương, lên thêm liếp, vét ao đìa, phát cỏ… Gần mé nước, chàng cho liệt cây bắt cầu nhủi chắc chắn dưới lườn rạch. Chàng còn cho mở dòng nước, bằng cách đào lỗ đặt ống bộng qua bên dưới bờ đi để nguồn nước từ sông luồn lách chảy vào bào nước dưới sàn lảng để có nước trong múc đổ vào các lu, các khạp… hoặc gánh tưới cây. Chàng cho đắp bờ cao ở giáp ranh đất ruộng người ta để trồng đu đủ. Chàng đặt mua từ vùng Bắc Mỹ Thuận giống ổi xá lỵ về trồng thay cho ổi tám tháng mùa nước ngập qua bị héo tàn. Chàng trồng mấy bụi tre Mạnh Tông gần chòm mả, để có măng ăn vào mùa mưa tới. Nghe lời dặn của mẹ, chàng cũng đã trồng mấy vồng đinh hương ở cạnh mương sát những bờ chuối xiêm ở sau nhà. Khi nhánh lá đinh hương rậm rạp, bà để dùng hoặc cắt bán cho tiệm thuốc Bắc ngoài chợ Cai Lậy. Càng buồn về chuyện tình cảm của mình, chàng càng lấy công việc làm cho khuây khỏa.
Bà Tư Hiền đợi mùa cá trắng, đón ghe lưới mua cá linh, cá cơm mờm, cá tạp… ủ làm nước mắm dùng trong nhà. Nếu dùng không hết, sẽ để bớt lại cho lối xóm nài mua.
Và Thiện Tố thấy rõ là song song với tình yêu đôi lứa, tình đất mẹ quê cha vẫn là mối tình thiêng liêng đối với mình. Chàng phải săn sóc nếp nhà, dải vườn đất không để cho cỏ hoang, bụi rậm lấn át, lấp che. Mấy nọc trầu vàng của mẹ chàng vẫn là nguồn lợi tức nho nhỏ. Những trái bầu dài, những trái mướp hương ăn không hết, bà bán cho mấy người bạn hàng chiều chiều đi rảo trong xóm tìm mua. Bông chuối nước, bông điệp, bông trang, bông huệ vẫn được bà Tư Hiền cắt bán lai rai vào ngày rằm, ngày vía Phật.
Bà Tư Hiền làm lắt xắt tối ngày không nới tay. Đôi lúc Thiện Tố càm ràm mẹ sao không nghỉ ngơi. Bà cười hiền:
– Má làm việc quen rồi, nếu không có công việc gì làm má sẽ buồn lắm đó con.
Đến mùng một, ngày rằm thì bà đi chùa. Mấy hôm bị cảm mạo phong sương, bà phải nằm dưỡng sức nên sanh ra yếu ớt, bực bội. Vừa chỏi hỏi là bà làm việc từ hừng sáng cho đến đỏ đèn.
Thiện Tố có trồng hai khóm dạ lý ngoài bờ rào. Chàng cũng muốn dựng làm cái giàn cho mấy dây thiên lý bò lên che mát một khoảng sân trước nhà. Bà Tư Hiền can:
– Má con mình là dân ăn chắc mặc dầy, không se sua như điền chủ, nghiệp chủ. Má muốn con đóng cho má cái giàn gie ra ngoài mé rạch, kế cây cầu nhủi để má thả dây bầu, dây mướp che mát cho chiếc xuống và ghe tam bản và có trái mà ăn. Bông thiên lý thì thơm, lặt bông xào với thịt với tép ăn cũng ngon lắm. Nhưng mùi thơm của nó làm má ngầy ngật, sật sừ. Vả lại, bọn rắn lục ưa mùi bông nên cứ lai vãng ở giàn thiên lý luôn.
Vậy là Thiện Tố làm cái giàn lớn, một bên trồng mướp kế bên trồng bầu, dọc theo bờ rạch sát cầu nhủi để che mát cho chiếc xuồng và chiếc ghe như ý mẹ muốn. 
Sáng thứ sáu, bà Ký Tân đưa Cẩm Hương xuống Cai Lậy, ở lại chơi với con mấy bữa, để thứ hai nàng đi dạy, bà mới trở về Lái Thiêu. Bởi sau lần bị tai nạn xe hơi, nàng đã nghỉ ở nhà dưỡng bịnh mấy tháng trời.
Xe vừa ngừng lại, hành khách nhốn nháo, kẻ rời chỗ, người đã đứng lên chờ xuống xe. Khi xe gần đến bển, bà Tân dặn con chờ cho hành khách xuống hết rồi thì đến mẹ con bà, vì sợ chen lấn, lỡ có ai đụng phải chân đau của nàng thì phiền lắm.
– Dạ chào bác, thưa bác đi đường xa có mệt không?
Bà Tân tươi cười chào lại Thiện Tố:
– Cảm ơn cháu, chị Tư khỏe chớ?
Chàng tươi cười nói chuyện với má nàng, không đếm xỉa gì tới nàng. Cẩm Hương ứa gan, nhưng không nói gì, không thèm nửa mắt nhìn chàng. Nàng xuống xe, chầm chậm đi vào lề lộ, đứng nơi ít người để chờ mấy chú lơ xuống va-li đồ của nàng đang chồng chất trên mui xe chung với hành lý của thiên hạ.
Thiện Tố vẫn phớt tỉnh Ăng-Lê, không ngó ngàng gì đến Cẩm Hương. Chàng tươi cười trả lời bà Ký Tân:
– Dạ thưa bác, má cháu vẫn khỏe. Hôm nay má cháu bảo cháu ra đón bác, và mời bác qua bên nhà dùng cơm với má cháu.
Bà Tân không trả lời Thiện Tố, mà nhìn Cẩm Hương như hỏi ý? Cẩm Hương khó chịu lắm, vì biết má nàng đã báo tin cho hắn ngày hai mẹ con cô xuống đây. Nàng không nói tiếng nào, ngoắc chiếc xe kéo lại. Cẩm Hương nói với mẹ:
– Má muốn đi ăn cơm thì đi đi, con về nhà trọ.
Cẩm Hương đi trước, bà Ký Tân và Thiện Tố lẽo đẽo theo sau xe. Bấy giờ Thiện Tố lùi lại qua đi bên cạnh Cẩm Hương, ân cần hỏi han:
– Chân em đã lành rồi phải không? Em vẫn còn xanh quá. Hôm nay má có nấu nhiều món ăn mà em thích. Nhớ ăn nhiều một chút cho lại sức nghen.
Cẩm Hương tức cành hông, mím môi chẳng nói chẳng rằng. Bà Tân tới cửa đứng chờ, Thiện Tố bước nhanh vào mở khóa cửa nhà. Chàng nói với bà Tân cố ý cho nàng nghe:
– Thưa bác, biết Cẩm Hương trở lại hôm nay, bữa trước má cháu bảo lấy hết mùng mền về bển giặt. Cẩm Hương không dùng đến mấy thứ đó cả mấy tháng rồi nên có nhiều bụi bám lắm. Chút nữa đây, bác và Cẩm Hương qua bên chơi. Khi cùng trở lại bên nầy cháu sẽ mang qua luôn.
“Thương nhau nước đục cũng trong, ghét nhau nước chảy giữa dòng cũng dơ”, Cẩm Hương chẳng những không mang ơn mà còn cảm thấy khó chịu cái trò lập công đó. Nàng mắng xối xả:
– Ai có nhờ đâu mà anh làm tài khôn như vậy? Đem trả đồ lại cho tôi! Tôi đã nói với anh nhiều lần. Chúng ta đã chia tay rồi. Sao anh cố tình quên vậy?
Cẩm Hương nói rồi bỏ ra sau rửa mặt. Thiện Tố lòng đang vui, chợt khựng lại. Bà Ký Tân nói nhỏ đủ chàng nghe:
– Thôi cháu đừng buồn, về bên nhà lấy đồ đem qua dùm bác đi. Vì cái chân nó còn ê ẩm và vì ngồi xe cả buổi đường xa, nên nó không được thoải mái trong lòng. Cháu rán chịu khó nhịn nó đi, rồi đâu sẽ vào đó cả… Cháu nói với chị Tư, để cho em nó nghỉ một chút, rồi bác sẽ qua thăm.
Thiện Tố về lấy mùng mền chiếu gối mà lòng không vui. Chàng không ngờ Cẩm Hương giận mình lâu dữ vậy. Chàng đã phân bày mọi sự rồi mà nàng cũng chẳng chịu tin? Con người có lòng cố chấp như vậy làm sao ăn đời ở kiếp chung dưới một mái nhà với nhau đây? Hay là chị Kiều Liên nói đúng, nàng đã có người khác rồi? Cái người đàn ông cùng hoạn nạn với nàng đã chăm sóc nàng suốt những ngày nàng ở nhà thương? Thiện Tố thở dài, cảm thấy lòng buồn rười rượi.
Khi chàng trở qua mang theo mền mùng đã giặt sạch, còn mùi của xà bông thoang thoảng, mùi khen khét của nắng, thì bà Tân đang tắm. Cẩm Hương ngồi trên ghế dựa, đôi mắt buồn nhìn dòng kinh nước lửng lờ trôi. Gió nhẹ làm lay động tóc mây lòa xòa trên trán, trông nàng hắt hiu thẩn thờ. Thiện Tố cố không gây tiếng động, rón rén ngồi lên chiếc cẩm đôn hình con voi làm bằng sứ tráng men xanh bóng ngời, ở phía sau lưng nàng. Chàng móc vội chiếc khăn tay trong túi quần đưa cho Cẩm Hương. Nàng không thèm ngó tới, lấy tay quẹt vội dòng nước mắt, lẳng lặng đứng lên, bỏ vào phòng đóng sầm cửa lại.
Thiện Tố buông tiếng thở dài! Nỗi hờn giận nầy không biết bao giờ mới được giải tỏa? Cơn gió thổi qua, lay động những nhành cây bên hông nhà va chạm vào nhau xào xạc… Một vài chiếc lá lìa cành lảo đảo rơi. Con chim rẻ quạt bay vút lên rồi khuất sau rặng cây cuối vườn, và vọng lại tiếng kêu buồn.
Bữa ăn ở nhà bà Tư Hiền đãi hôm nay có tất cả năm người. Ngoài mẹ con Cẩm Hương là khách ra, còn có ông Hai Cung và mẹ con chàng. Từ ngày xuống Cai Lậy dạy học, rồi quen với Thiện Tố và qua lại nhà chàng thường xuyên, nhưng Cẩm Hương chưa bao giờ gặp cha chàng. Ông Hai Cung có dáng người cao ráo, nước da ngăm ngăm, khuôn mặt dài, mũi cao, mắt to và sáng. Ông có vẻ nghiêm khắc, ít nói. Cái uy nghiêm của ông làm cho người đối diện mới thoạt nhìn, hoặc mới gặp ông lần đầu phải nể sợ. Nhưng khi nói chuyện, ông là một người cởi mở, có nụ cười rạng rỡ, rất thân thiện. Ông nói:
– Tôi thường nghe bà thứ của tôi và Thiện Tố nhắc về cô giáo luôn. Rồi sau đó cháu cho biết đã thương cô. Những điều Thiện Tố nói về cô, làm cho tôi vừa ngạc nhiên, vừa mừng, và cũng vừa lo. Mừng là nó đã tìm được người phối ngẫu hiền ngoan và con nhà có đức hạnh để làm bạn trăm năm. Ngạc nhiên và lo vì cô học giỏi như vậy, thì cô có bằng lòng nó không? Nó chưa có sự nghiệp khả quan, chỉ vừa gầy dựng đôi chút căn cơ khiêm tốn mà thôi.
Ông Hai Cung dừng lại, và miếng cơm, chẫm rãi:
– Nhưng bù vào đó, nó có những thứ mà nhiều thanh niên thời nay ít có. Đó là chân thật, tấm lòng hiền lương và hiếu hạnh. Tôi có 4 đứa con, 3 đứa con của vợ lớn, nhưng Thiện Tố là người tôi tín nhiệm nhứt. Bất cứ một việc gì giao cho nó làm, tôi rất an lòng. Từ lúc thơ bé, khi làm một việc gì sai, nó thành thật nhận lỗi, chưa bao giờ đổ trút cho người khác để chạy tội, hay chối quanh… Không phải tôi cố tình để khen con mình. Thật sự mà nói, ở những đức tánh nầy tôi cũng không bằng nó.
Ông quay qua nhìn thẳng vào mặt Cẩm Hương. Nàng cúi mặt, ông tiếp:
– Đó là điều tôi muốn cô hiểu rõ về nó hơn, để giải oan sự hiểu lầm giữa cô và Thiện Tố, về chuyện Ngọc Huệ cháu ngoại của bác Cả Bảy. Lời hứa hôn, chỉ ở trong tiệc rượu giữa ông già tôi lúc sanh thời và bác Cả Bảy thôi, chớ không có gì ràng buộc cả. Vả lại, Thiện Tố có thương yêu Ngọc Huệ bao giờ đâu? Nếu nó thương hay bằng lòng thì chúng tôi đi cưới cổ cho nó lâu rồi. Năm nó 21 tuổi, chúng tôi thật sự đã muốn cưới vợ cho nó… Xin cô đừng có để tâm lời con Kiều Lan, hay Kiều Liên. Chúng nó đều biết chuyện như vậy mà, nhưng chúng muốn phá Thiện Tố và cô thôi. Đừng để mắc mưu bọn chúng nó. Việc tôi muốn nhắc nhở cô là hãy bình tâm xét lại lòng mình, coi có thương yêu Thiện Tố không? Đó mới là điều quan trọng.
Lời giải oan cho con của ông Hai Cung đã làm cho vợ con ông rất đổi vui mừng. Cả má của Cẩm Hương cũng vậy. Bà tin tưởng Thiện Tố và thương mến anh ta. Sau bữa cơm ai nấy vui vẻ nói chuyện cây trái, mùa màng, làm ăn… Họ nghĩ rằng sau cơn mưa trời lại sáng, cái gút mắc trong lòng Cẩm Hương được cởi ra rồi. Vì trong gia đình ông Hai Cung là người có quyền uy được vợ con kính yêu và nghe lời. Còn ngoài xã hội thì được nhiều người nể trọng.
Nhưng lòng Cẩm Hương vẫn không gì thay đổi. Nàng vẫn ngấm ngầm nghĩ rằng vì thương yêu con, nên cha anh ta mới ra mặt giảng hòa! Bào chữa cho con trai là quyền của ông, còn tin hay không là quyền của nàng. Nể mặt ông là người lớn, nàng không dám trả treo, chớ còn lâu à! Chuyện nầy không ai có thể làm nàng xiêu lòng.
Trời đã xế trưa. Chị Sáu Tàu Hủ hát ru con trong giọng nhừa nhựa ngáy ngủ của chị:
“Ầu ơ…
Ai đừng dỗ ngọt dỗ bùi.
Hận người ở bạc chẳng nguôi tấc lòng…
Ầu ơ…
Chè chẳng gặp xôi lỡ đôi, lỡ lứa.
Lìa kẻ bạc tình lên xe lửa tui dông… “ 
Vầng kim ô ngã về hướng tây in hình hai thiếu nữ bóng ngã dài trên dòng nước trong xanh đùn nhiều bọt trắng. Đó là do động cơ của chiếc bắc nổ phành phành. Chiếc bắc lừ đừ lướt chậm chạp như bà bầu sắp đến ngày sanh, vượt dòng nước đục màu phù sa để đến bên kia bờ thành phố Cần Thơ.
– Em nghĩ, chiếc bắc nầy chắc có từ ngày tạo thiên lập địa nên nó cũ ơi là cũ, chạy hết muốn nổi rồi.
Nghe tiếng than phiền của Ánh Nguyệt, Cẩm Hương cười:
– Càm ràm cái gì! Còn đỡ hơn bắc Chợ Gạo trên tuyến đường từ Mỹ Tho đi Gò Công. Những phu bắc, phải dùng sức của đôi tay mà kéo cho qua sông đó nghen.
Con nhỏ ngạc nhiên chưng hửng, hỏi:
– Trời đất! Bộ thiệt hả chị? Thật, không biết chừng nào nước non nầy mới tiến bộ bằng các nước Âu Mỹ?
Ánh Nguyệt như hỏi với chính mình. Cẩm Hương lên tiếng:
– Không lâu đâu, đời con, đời cháu mình sẽ có được điều đó.
Trả lời bạn, nhưng lòng nàng nặng chĩu bởi hình ảnh tên gạt gẫm Thiện Tố luôn ẩn hiện trong tâm trí. Cẩm Hương thấy mình thật mâu thuẫn!
Từ hai tháng trước, nàng rủ Ánh Nguyệt cùng nàng qua thăm Cần Thơ một chuyến cho biết, nhân dịp Khanh rảnh rỗi, hứa sẽ đưa hai nàng đi thăm các thắng cảnh ở nội thành Tây Đô. Chàng biết nhiều thành phố nầy, nhờ ngày xưa đi học mấy năm trời ở Cao Tiểu Cần Thơ (Collège de Cần Thơ). Bởi Cẩm Hương ngại trai đơn gái chiếc đi chơi như vậy, và nhứt là con gái ở phòng ngủ, dù phòng ai nấy ở. Nhưng nếu có người quen biết được thì sẽ mắc cỡ chết, và sẽ mang nhiều tai tiếng lắm… Dĩ nhiên là tiếng xấu rồi, nên nàng rủ thêm Ánh Nguyệt phụ đỡ đạn! Và biết đâu, khi Khanh gặp Ánh Nguyệt, trời xui đất khiến họ phải lòng nhau thì Cẩm Hương sẽ cảm thấy vui vẻ và dễ chịu hơn. Vì mỗi khi nàng liên lạc thư từ, nhận quà cáp của Khanh, hay Khanh bất ngờ ghé qua thăm, nàng mừng lắm. Nhưng sau đó tâm hồn nàng lại bị rơi vào trống vắng, cô đơn, và cảm thấy mình như kẻ phạm tội, như mình phản bội con người gạt gẫm đáng ghét kia. Phải, tại sao mình tự gây phiền não như vậy?
Tà áo lụa màu xôi lá cẩm ôm sát thân người mảnh khảnh của Ánh Nguyệt tung bay theo gió, quần sa-teng trắng, mái tóc quăn tự nhiên được kẹp sau lưng, nằm gọn trong vành nón lá bài thơ quai nhung đen, cột thành cánh bướm hai bên sát vào nón. Dưới ánh nắng trong lành, da dẻ Ánh Nguyệt thêm hồng, hào tươi tắn. Nếu Cẩm Hương là một họa sĩ, thì Ánh Nguyệt sẽ có một bức chân dung cô thiếu nữ với dáng dấp trang nhã mềm mại giữa sông rộng, trời cao.
Màu nắng chiều lóe trên mặt nước phản chiếu muôn sắc. Sóng vỗ chập chùng đưa chuyến phà chở nặng xe cộ, người và hàng hóa vượt qua sông để đến bến bờ, nơi hai thiếu nữ sẽ viếng thăm.
Những ngày đi thăm Tây Đô trở về, thật vui vẻ. Tâm hồn Cẩm Hương thoải mái vô cùng. Khanh và Ánh Nguyệt rất tương đắc, từ cách nói chuyện cởi mở, các món ăn họp khẩu vị, những cảnh vật chung quanh, hai người cùng khen lấy khen để. Trong khi Cẩm Hương không thấy đẹp, hoặc hữu tình chút nào mà còn trơ trẻn nữa. Phải chăng “Người buồn thì cảnh cũng buồn? Người buồn thì cảnh có vui bao giờ?”. Lúc trở lại Cai Lậy, Ánh Nguyệt ở lại chơi với nàng hai ngày sau mới về Mỹ Tho.
Ánh Nguyệt trầm trồ:
– Đi chơi vui quá chị ơi. Sau nầy ai làm vợ anh Khanh sẽ hạnh phúc lắm.
Cẩm Hương nhìn bạn cười, hỏi:
– Nguyệt cũng thấy vậy à? Như vậy thì để chị làm mai cho hai người nghen.
Ánh Nguyệt trợn mắt ngạc nhiên:
– Bậy nà! Bộ ảnh không phải là kép sơ-cua của chị sao? Em thấy anh Khanh là người đàn ông tốt, có nhân phẩm, có tư cách… Nhưng em xem ảnh như một người anh thôi, chớ không thấy tim mình xuyến xao, nhức nhối khi nghĩ ngợi tới ảnh như lần đi chơi với em trai chị.
Cẩm Hương cười:
– Nếu lòng em thật sự như vậy thì chị sẽ làm mai em cho Tuấn. Chị nghĩ, em đã lọt vào vũng sình của con tim mo chai nó rồi. Nhưng cái thằng cua đinh cắn cụt đó hay mắc cỡ nên ngại chưa dám thố lộ thôi. Tình yêu ngắn ngủi, trong lòng chị, Thiện Tố như chết rồi. Còn với Khanh, chị cũng giống như em. Sự tốt bụng và tư cách chững chạc của anh ta, trong lòng chị kính trọng cảm mến, nhưng chị coi ảnh như một người thân trong gia đình hơn, chớ không thấy tình cảm như chị đã có với Thiện Tố trước kia.
Gió thổi vùn vụt hốt bụi bốc lên mịt mù và những lá khô bên đường tung bay long lóc. Trời đang sáng trưng bỗng dưng tối sầm lại. Sấm nổ ầm ầm, chớp nhoáng liên hồi. Mưa rơi lộp độp trên mái nhà… Rồi mưa ạt ào như nước đổ. Mấy lu, hũ, ngoài mái hiên đã chứa đầy nước mưa. Dưới kinh, nước đục ngầu vì đất cát theo nước mưa từ trên bờ chảy xuống. Cá trê trắng lẩn trốn trong hang cũng mò ra kiếm mồi, oặn đuôi, nhảy vọt trên mặt nước. Sở dĩ Cẩm Hương biết được, là nàng nhớ có lần cũng vào ngày mưa như hôm nay, Thiện Tố lấy chuối chín móc vào lưỡi câu, câu được rất nhiều cá trê trắng…
Bên ngoài, càng lúc mưa càng nặng hột. Nhìn qua cửa sổ hé mở gió vẫn thổi mạnh làm cây cối quằn quại, nghiêng ngã. Hình như có tiếng ai gõ cửa? Tiếng gõ cửa như hối thúc, dồn dập.
Bà Tư Hiền co ro trong chiếc áo tơi bằng lá chầm, và chiếc nón lá trên đầu, nhưng vẫn lem nhem ướt. Cẩm Hương ngạc nhiên quá đỗi, tíu tít:
– Dạ chào bác, xin mời bác vào nhà. Trời mưa lớn quá! Để cháu rót trà bác uống cho ấm bụng.
Bà Tư giũ cho nước mưa rơi bớt, bước vào nhà. Nàng khép cửa lại lấy khăn đưa cho bà lau khô. Nàng bước lại bàn, lấy tách rót nước trà trong chiếc bình bằng sứ trắng được vẽ cảnh Đông khuê tập diễm (phòng phía Đông có các cô gái đẹp tụ họp) màu đỏ, đen, xanh chen lẫn lộn rực rỡ. Bình nước được giữ ấm lâu trong vỏ bình làm bằng trái dừa điếc. Sáu cái tách thì được vẽ bông mẫu đơn chen cặp uyên ương. Nàng nhẹ giọng:
– Mời bác uống trà cho ấm. Mưa lớn quá! Thưa, bác ghé qua có chuyện chi không bác?
Bà Tư Hiền mếu máo:
– Bác qua đây xin cháu đừng giận Thiện Tố nữa. Nó thật sự không có dối gạt cháu đâu. Những điều ba nó nói đều đúng cả. Mọi việc chỉ tại mấy con chị của nó phá đám thôi.
Cẩm Hương cảm thấy vô cùng khó chịu. Bây giờ hắn ta lại cầu cạnh đến mẹ mình! Bà Tư lau nước mắt:
– Bác biết cháu không muốn gặp mặt nó nữa. Nó cũng đã dặn, không cho bác đến gặp cháu. Nhưng vì lòng thương con, bác không thể làm thinh được. Có lẽ nó dùng công việc làm để quên, nên 2 tuần trước nó đã trở lên ruộng coi thợ thầy làm cho đến hết mùa lúa… Bác vừa ở nhà thương Mỹ Tho chưa về đến nhà, vội ghé qua đây, Thiện Tố nằm ở dưới 3, 4 ngày rồi mà bịnh vẫn chưa đỡ chút nào. Bác khổ lắm! Không biết tính làm sao, chỉ biết ghé đại vô đây…
Bà Tư Hiền nghẹn lời ứa nước mắt! Cẩm Hương chạnh lòng lắm, nhưng vội quay đi giấu dòng lệ nóng! Nhìn theo thân vóc héo hắt, gầy gò của bà Tư Hiền lúp xúp đi dưới cơn mưa còn lác đác rơi, Cẩm Hương thở dài, tội nghiệp cho bà. Nhưng nàng không hứa hẹn gì, và cũng không nói lời nào, hoặc làm một cử chỉ nào đó để trấn an, hay để bà hy vọng nàng tha thứ cho con bà.
Phải, má nàng nói đúng, nàng là một người cứng đầu và chắc dạ! Từ nhỏ đến lớn, tự ái và tâm tình nàng chưa bao giờ bị tổn thương trầm trọng như thế nầy! Nàng không biết sao tự nhiên mình khóc? Nàng đang đứng giữa làn ranh lựa chọn Thiện Tố và Khanh. Hai người đàn ông nầy đã lẫn lộn khi ẩn, khi hiện trong tâm tưởng nàng.
Cẩm Hương nhìn đồng hồ vẫn chưa đến 7 giờ sáng. Nàng uống hớp nước, sau khi ăn vội chưa tới nửa gói xôi còn ấm vừa mới mua của bà hàng gánh đi ngang qua cửa. Chải lại mái tóc, nàng thay chiếc áo dài đơn giản, rồi ra bến xe đò đáp xe đò đi Mỹ Tho. Nàng hành động một cách máy móc.
“Đến nhà thương rồi cô”, Cẩm Hương quay về thực tế. Nàng chép miệng thở dài xuống xe, mở bóp lấy tiền trả cho người kéo xe. Nàng qua dãy hành lang dài của khu bảo sanh, đi lên lầu nơi bịnh nhân nội khoa. Cửa phòng chỉ khép hờ, Thiện Tố đang ngủ. Chàng đắp mền quá ngực, thân mình gầy yếu nhiều, mặt mày mệt mỏi, xanh xao, đôi mắt quầng thâm nhắm nghiền, hơi thở nhẹ đều đều. Đối diện với giường sắt chàng nằm là cái đi-văn bằng cây, bề ngang chừng một thước có lẽ là để cho người nuôi bịnh. Cẩm Hương đứng đó một hồi, rồi đi ra đứng ngoài hành lang trước phòng. Nàng nhìn đồng hồ đeo tay, mới hơn 10 giờ sáng. Bà Tư Hiền tay cầm bình thủy nước nóng, mừng rỡ ứa nước mắt. Bà cầm tay Cẩm Hương:
– Thật cảm ơn cháu xuống thăm nó. Cháu vào trỏng chưa?
Cẩm Hương chào bà, rồi nói:
– Thưa bác, cháu vào rồi. Nhưng ảnh đang ngủ.
Như sợ Cẩm Hường về, bà dặn:
– Cháu đứng đây chờ, bác đem bình thủy nước nóng vô rồi ra ngay.
Bà Tư vừa quay lưng, thì từ trong phòng vọng ra tiếng ho của Thiện Tố. Bà quay lại nói:
– Chắc nó thức rồi. Thôi hãy vào với bác đi cháu.
Cẩm Hương bước theo sau bà Tư. Cánh cửa mở rộng. Ánh sáng tuôn vào phòng. Thấy Cẩm Hương, Thiện Tố ngạc nhiên, vẻ vui mừng hiện rõ trên nét mặt bịnh hoạn. Chàng quay mặt vào trong để giấu đi nỗi xúc động của mình, Cẩm Hương cũng cảm thấy lòng bồi hồi. Nàng mềm lời, ngọt giọng:
– Anh thấy khỏe được chút nào chưa? Bịnh gì vậy? Chắc anh lao tâm, lao lực lo việc đồng áng chớ gì?
Thiện Tố muốn ngồi dậy. Bà Tư lấy gối để sát tường, vừa đỡ con vừa bảo:
– Con hãy ngồi dựa vào gối cho đỡ mỏi lưng.
Muốn cho hai người tự do nói chuyện, bà Tư quay lại nói với Cẩm Hương:
– Ngồi ghế đi cháu. Bác xuống dưới lấy mấy cái khăn phơi ở sân sau bịnh viện.
Vì còn xúc động, hay yếu ớt vì bịnh, Thiện Tố run giọng:
– Cảm ơn em, anh đã đỡ được đôi chút, có lẽ mấy hôm trước mắc mưa nên anh vướng bịnh chớ không có gì đặc biệt. Chân em đã lành hẳn rồi hả?
Cẩm Hương đến thăm, nhưng chưa phải là nàng đã hết giận Thiện Tố. Nỗi ấm ức vẫn còn đặc cứng trong lòng, đôi lúc cựa quậy làm cho vết thương lòng thêm nhức nhối. Nên Thiện Tố hỏi đến đâu nàng trả lời đến đó. Nếu ai nghe thấy hai người đối đáp, họ sẽ tưởng Thiện Tố đi thăm bịnh còn nàng thì giống bịnh nhân hơn là người đi thăm. Thiện Tố thở dài, nhẹ giọng:
– Bộ em còn giận anh sao? Đến chừng nào em mới hết giận anh đây? Được em đến thăm, anh tưởng như mình hồi sinh trở lại và cảm thấy khỏe khoắn nhiều lắm. Cảm ơn em còn nhớ đến thăm anh. Nhưng vậy là đủ lắm rồi, anh rất vui và mãn nguyện.
Nhân viên nhà thương đem thức ăn vào cho bịnh nhân, Cẩm Hương đứng lên chào bà Tư và Thiện Tố kiếu từ. Bà Tư muốn giữ nàng ở lại nhưng không có lý do nên làm thinh. Thiện Tố lưu luyến đôi mắt buồn hiu nhìn nàng ra về.
Bỗng Kiều Liên và Ngọc Huệ bước vào.
Cẩm Hương thấy hôm nay Ngọc Huệ ăn diện hơn những lần gặp trước. Nàng mặc chiếc áo dài tím than bằng nhiễu, quần lãnh đen. Tóc bới thả trên ót. Đeo bông tai, vòng tay, dây chuyền toàn bằng vàng bóng ngời. Cô ăn mặc trang điểm không gì quý giá, nhưng sắc diện cô sáng láng, da dẻ hồng hào, dáng đi uyển chuyển, nên cô không lu mờ trước một Kiều Liên ăn mặc lòe loẹt, đeo nữ trang rườm rà. Dù nắng nóng như lửa đốt mà chị ta mặc áo nhung đỏ chót, quần sa-teng đen. Đeo sưu bộ cẩm thạch xanh lè. Hai màu đỏ xanh chõi nhau chan chát, làm nực mắt người chung quanh.
Hai cô Kiều vốn có mặc cảm với Cẩm Hương. Cho nên mỗi lần đến nhà bà Tư Hiền, hai cô ăn mặc chói chang màu sắc cho nổi. Vàng đeo, ngọc giắt bừa bộn. Đôi lúc Kiều Lan sửa giọng bằng cách ngoai mồm bẻ miệng, cặp môi uốn éo. Còn Kiều Liên thì đôi mắt trừng qua liếc lại cho có vẻ sắc sảo mặn mà, và nhấn giọng ỏn ẻn, điệu đà.
Nhớ có lần, Thiện Cảm nói giỡn với hai nàng Kiều:
– Hai bà chị có giọng nói của nàng quý phi nhỏng nhẻo với quân vương. Cô đào Năm Phỉ đóng vai Điêu Thuyền, cô đào Thanh Tùng đóng vai Dương Quý Phi nhỏng nhẻo cỡ đó là cùng.
Bị chạm nọc, Kiều Liên ong óng cái miệng:
– Đồ hổn hào, đồ xấc xược, dám nhạo báng hai chị của mầy. Tao mà được như cô Năm Phỉ tao sẽ mướn mầy làm gạt-đờ-co. Mỗi tháng tao thí mầy 10$ thôi.
Kiều Lan xon xỏn:
– Đồ cái thằng vô duyên. Mầy làm thinh không ai nói mầy câm! Tao mà là cô Thanh Tùng, tao sẽ mướn bọn du côn Bồn Kèn bên Khánh Hội lấy thẹo mặt mầy, cho mầy tởn tới già
Ông Hai Cung binh con trai út:
– Thiện Cảm nói phải đó. Đàn bà con gái mà điệu đà, õng ẹo quá sẽ lỗi số. May mà nhà mình tích phước nên hai cô Kiều không sa vào cảnh làm vợ bé lấy khinh chồng người. Hai chị em bây từ nay nên tu tâm dưỡng tánh, sửa đổi cách ăn nói, đi đứng lại đi để khỏi bị ác quả, ác nghiệp báo ứng.
Từ khi Thiện Cảm tu chỉnh, lo tập tành viết văn, không cà nhổng chơi bời thì được cha mẹ cưng chiều lắm, làm Kiều Lan và Kiều Liên hết dám lên mặt với cậu em mình nữa.
Cẩm Hương chào Kiều Liên và Ngọc Huệ. Nàng liếc mắt sang Thiện Tố, ngầm nói với chàng rằng: “Còn minh oan gì nữa?”. Rồi nàng lẹ bước ra khỏi phòng.
Thiệt tình hai người đến thăm bịnh không đúng giờ chút nào hết! Bà Tư bực bội vô cùng, còn Thiện Tố hết sức ngỡ ngàng. Kiều Liên nói vói theo:
– Sao về sớm vậy cô giáo? Tui cứ tưởng mấy hôm rày cô săn sóc cho em tui ở dưới nầy chớ.
Cẩm Hương không đếm xỉa, không trả lời, cũng không quay lại. Nàng cắm đầu đi nhanh ra gần tới cổng rào nhà thương, thì nghe tiếng gọi ơi ới tên mình phía sau lưng. Quay lại, nàng thấy Ngọc Huệ vừa đi vừa chạy theo:
– Cô đi mau quá, thoáng đó đã mất tiêu, làm tôi chạy theo muốn hụt hơi. Mệt quá! Nầy cô Cẩm Hương, chúng mình có thể đến quán bên kia đường ngồi uống ly nước, hay lại ngồi trên băng đá kia nói chuyện một chút được không?
Cẩm Hương không biết cô ta muốn gì đây? Nhưng nàng gật đầu lặng lẽ đi theo. Hai người đến băng đá cạnh gốc me già, xa khoảng đường đông người ra vào. Ngọc Huệ thân thiện vui vẻ lên tiếng trước:
– Lâu rồi không gặp cô. Cô có khoẻ không cô giáo? Tình cờ hôm nay tôi đi chợ tỉnh mua sắm với thím và má tôi, gặp chị Kiều Liên trên xe, chị cho biết đi thăm anh Thiện Tố bịnh. Má và thím tôi đến chợ trước, tôi theo chị ấy ghé qua thăm bịnh. Bây giờ tôi cũng ra chợ để gặp lại hai bà. Cô Cẩm Hương à, vào ngày mùng mười tháng tới, còn độ một tháng nữa thì đám hỏi tôi, mời cô đến dự chơi cho biết đám tiệc ở vùng quê nầy nghen.
Cẩm Hương chưng hửng, cảm thấy chới với, hơi thở hụt hẩng. Nhưng nàng dằn cơn bàng hoàng bối rối xuống, không để một mảy may về sự bất thường của mình lộ trên nét mặt. Còn Ngọc Huệ thì cười vui vô tư, mắt gợn sóng tình. Cô ta gần như không để ý những gì ở chung quanh, Cẩm Hương lấy giọng tự nhiên bảo:
– Xin chúc mừng chị. Sao gấp quá vậy, trước đó tôi không nghe chị nói?
Ngọc Huệ miệng cười đẹp. Mặt mày cô ta phơi phới.. Đôi mắt long lanh, rèm mi chớp chớp. Khuôn mặt rạng rỡ như vậy, chứng tỏ cô đang ngụp lặn trong niềm hạnh phúc tràn trề:
– Chưa chắc chắn nên tôi không tuyên bố cho ai biết đó chớ. Gia đình hai bên quen biết cũng lâu lắm rồi. Nhưng ảnh bận làm ăn, nên cho đến bây giờ chúng tôi mới được cha mẹ hai bên cho làm đám hỏi, và gần Tết mới đám cưới.
Cẩm Hương thấy tâm hồn mình trũng xuống, nặng như đang bị dằn cái cối đá. Lạ thiệt! Đã nói không muốn gặp người ta, đã nói tiếng chia tay, đã nhứt quyết đoạn giao… Nhưng giờ đây nghe họ sắp thành hôn sao mình lại đau khổ như vầy?
Hai người yên lặng, bởi tiếng còi tò te, tò te, tò te… của xe cứu thương sổ cờ chạy vào. Cẩm Hương nói:
– Mong anh Thiện Tố mau lành bịnh để ngày đó anh chị và hai họ thêm vui.
Đến phiên Ngọc Huệ ngạc nhiên quá đổi, mở to mắt hỏi:
– Cô nói cái gì? Anh Thiện Tố và tui? Cô nghĩ sang đàng rồi chăng?
Cẩm Hương cảm thấy khó chịu ra mặt. Đã sắp thành hôn rồi mà còn muốn giấu? Mấy người nầy thật là lạ lùng! Cẩm Hương cao giọng:
– Không phải tháng tới chị và anh Thiện Tố đám hỏi sao?
Ngọc Huệ chợt hiểu, ôm bụng cười ngặt ngoẽo:
– Cô hiểu lầm rồi cô Cẩm Hương ơi. Người sắp hỏi cưới tôi là anh Thông ở bên tỉnh Vĩnh Long. Ông bà nội ảnh ở xóm tôi, còn gia đình ba má ảnh dọn về buôn bán ở bển mười năm nay rồi. Anh Thiện Tố cũng biết anh Thông nữa, vì chúng tôi ngày xưa là bạn cùng lớp mà. Nhưng tôi và anh Thông nghỉ học sớm, còn anh Thiện Tố xuống Mỹ Tho học đến Tú tài lận.
Cẩm Hương như cây khô vừa được tưới nước, vừa gặp cơn mưa rào… Nàng thấy mình thật vô duyên, nhưng không dằn được cơn vui tràn ngập, nên hí hởn tươi rói mặt, hỏi:
– Sao chiều hôm đó, tôi nghe chị Kiều Liên nói chị là hôn thê của anh Thiện Tố?
Ngọc Huệ nín cười, vỗ vai Cẩm Hương tự nhiên nói:
– Cái chị ba lơn hết thuốc chữa đó nói giỡn mà cô cũng tin sao? Thật sự thì người lớn bên gia đình tôi và bên gia đình anh Thiện Tố, ai cũng muốn tác hợp tôi cho ảnh. Nhưng anh Thiện Tố không thương tôi, tôi cũng không thương ảnh thì người lớn dù có thiện chí kết sui gia cũng đành chịu thôi. Cô cũng biết thời buổi bây giờ phong hóa đỡ gắt gao lắm rồi, ít có gia đình nào ép duyên con cái như thời ông bà, cha mẹ chúng ta. Đám hỏi tôi, cô nhớ đến chơi nghen. À mà cô đi về, hay đi chợ vậy? Nếu xuống chợ thì chúng ta cùng đi.
Cẩm Hương cảm thấy tâm hồn mình như trút đi gánh nặng ngàn cân, nên thoải mái nhẹ nhàng vô cùng. Nàng vui vẻ, thân thiện đứng lên, cười nói:
– Cảm ơn chị, nếu không có chuyện gì bất ngờ thì ngày đám hỏi chị tôi sẽ đến chúc mừng. À, chị cứ đi chợ, tôi còn chút việc phải trở vào nói với anh Thiện Tố… 
Mấy tuần sau đó, Cẩm Hương được ông bà Hai Cung mời qua nhà từ đường ăn giỗ người cô ruột của ông. Bà nầy không có chồng. Lúc qua đời để lại cho ông của cải và cả chục mẫu vườn đất của tổ phụ chia cho. Vẫn là cái đám giỗ nhỏ, nhưng ông lại tổ chức tươm tất cho các con biết, vì muốn ăn mừng mình được ban Hương Chức Hội Tề cho thay thế chức vụ ông Thôn Nguyễn Văn Sự vừa mới qua đời. Ông Thôn có phận sự lo việc công nho (về sau gọi là ngân quỹ) cho làng, nắm trong tay sổ sách xuất nhập tiền bạc của ban Hương Chức Hội Tề.
Bà Hai Cung mặt mày vui vẻ, nhưng trề môi liếc chồng:
– Ngày xưa phải ông nghe tui, lo chạy chọt với thầy Cai Tổng Lý Chánh Nam thì đã được chức Hương Hào rồi. Năm qua tháng lại ông cũng lên chức Hương Chánh, Hương Giáo, chớ đâu có giữ hoài cái tên Hai Cung trơn lu, chẳng có chức phận gì trong làng, trong xã.
Thiện Tố, Thiện Cảm, cùng chú Sáu sáng sớm hôm đó dở chà dưới mé sông, bắt được tôm cá rất nhiều. Hai cô Kiều và Hồng Ánh trổ tài nấu nướng. Họ kho thịt bắp đùi heo, cá lóc và hột vịt bằng nước dừa xiêm. Cá thác lác được nạo lấy thịt để dồn khổ qua. Tôm càng xanh vỏ nướng xé tơi trộn gỏi với củ cải trắng xắt thật mỏng và thịt ba chỉ. Cá trê vàng cặp gắp nướng dầm nước mắm gừng. Bà Tư Hiền hái đậu rồng ở vườn nhà xào lòng gà. Bà còn làm món hon vịt xiêm với măng Mạnh Tông mới có lứa đầu ở vườn nhà ăn với bún. Ngần ấy món cộng thêm rau sống, dưa chua như dưa kiệu, dưa tỏi, dưa gừng. Bánh phồng tôm, cùng các loại bánh tráng miệng như là bánh ích, bánh da lợn, bánh bông lan...dọn chật cả bàn.
Gia đình ông Hai Cung gồm nào bà lớn, bà nhỏ, con gái, con trai, rể, dâu, cháu… Ngồi đầy 3 bàn tròn lớn đặt gần nhau. Hôm nay, chỉ có Cẩm Hương là người chưa phải chánh thức là thân thuộc trong nhà ông.
Từ ngày hết giận hờn Thiện Tố thì tâm hồn Cẩm Hương cởi mở vui vẻ hơn, nên trước đám giỗ nầy một ngày, nàng cũng làm để hôm nay đem đến ít loại bánh nướng mà Ánh Nguyệt đã dạy làm dạo trước.
Hồng Ánh dở 3 ngăn quả bánh Cẩm Hương mang đến, hết lời trầm trồ:
– Mèn ơi, chị Cẩm Hương nướng bánh phục linh, bánh gai, bánh con đuông… vừa lửa nên không có một vết cháy xém nào. Ôi, còn bánh men lớn như trái chanh cắt đôi nữa, bắt bông đường hoa hồng màu vàng, màu đỏ lá xanh, thiệt thấy mà mê…
Kiều Lan thấy Cẩm Hương đi ra sàn lảng rửa tay, trề môi nói lén:
– Biết đâu cổ bỏ tiền ra mua mấy thứ bánh nầy đem lại để lấy le.
Kiều Liên phụ họa:
– Tui nghe nói ở chợ Cái Bè có thím Năm Hược làm bánh men bắt bông đường nổi tiếng cuộc đất Định Tường nay. Tôi nghĩ chắc cô giáo nhờ người đến đặt thím làm đó đa.
Hồng Ánh vô tư, cãi:
– Đâu mà có! Chính em và anh Thiện Cảm ghé qua nhà dì Tư hôm qua, thấy cổ đang ngồi bắt bông đường lên bánh mà.
Thiện Tố nhăn mặt:
– Hai chị nói bướng nói càn, nếu cô giáo Hương nghe được, cổ sẽ nghĩ sao đây?
Thật, “Tới chết cái nết không chừa”. Ý là ông Hai Cung đã dặn trước:
– Từ nay tụi bây không được xoi bói, mỉa mai Cẩm Hương nữa. Vì ba đã quyết định cưới cô ấy cho Thiện Tố rồi. Nay mai, Cẩm Hương là phần tử của gia đình mình. Cho nên chị em bây phải cẩn thận lời nói mà để đức cho các con bây. Tụi bây còn có sui có gia nữa. Lời nói không mất tiền mua / Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Đừng có những hành động hàm hồ, cử chỉ khó coi, lời lẽ nặng nề như dùi đục chấm tro mà xóm giềng sẽ chê cười…
Thiện Tố cũng thừa nước đục thả câu. Chàng nhìn hai bà chị ó đâm của mình: “Hai chị làm bánh nướng, bánh luộc, bánh chiên đều xuất sắc. Sao không tìm thầy học làm bánh Tây như bánh sâm-banh, bánh phờ-lăng… Cứ ganh tỵ với cô giáo thì thêm ác nghiệp, chớ có ích gì…”.
CHƯƠNG MƯỜI BỐN
Ngày nhóm họ đám cưới của Cẩm Hương, họ hàng gần xa đều về đủ mặt. Vì với bên nội cũng như bên ngoại của nàng, đây là đứa cháu đầu tiên của hai bên gả chồng. Cho nên dù có bận bịu công ăn việc làm họ đều gác lại để đến tham dự. Còn bọn “Lục Nữ La Sát” của nàng chỉ thiếu Thụy Châu. Đứa hay tin nàng thành hôn đầu tiên là con Ánh Nguyệt. Nó liền tống một lá tối hậu thơ đến Cẩm Hương.
“…Cẩm Hương thân mến,
Em không ngờ trong bọn chúng mình, chị lên xe hoa chỉ sau Thụy Châu, trước tụi nầy. Hôm hay tin chị “huề” lại với anh chàng nông dân đó, con Ái Mỹ nói với em là trải bao nhiêu chuyện không vui, anh chị sẽ không xa nữa. Em không tin như vậy. Bởi người ta nói “Quít thì vừa thơm vừa ngọt. Chanh vừa đắng vừa chua”. Tại sao chị khờ quá bỏ đi thơm ngọt mà nhận chua đắng vậy? Em muốn nói Bùi Công Khanh là trái quít đường đó, thế mà chị nỡ bỏ cho đành. Lại đi ưng cái anh chàng nông dân lúc nào quần ống thấp ống cao và dính nước phèn vàng khè như Thiện Tố!
Nồi đồng nồi đất ơi, già kén chẹn hom, ghét của nào trời trao của đó!
Thau nhôm thùng thiếc ơi, éo le duyên xe lộn mối tốt cối xấu chày.
Cẩm Hương à, nếu chị có muốn xin tha thì phải hứa với em một việc, là để em làm dâu phụ và em trai Tuấn của chị làm rể phụ. Như vậy cái tội khờ của chị em sẽ giữ im hơi lặng tiếng, không công bố ra cho văn võ bá quan làng nước biết. Nghe đề nghị nầy, chị sẽ khoái chí, nên dại gì không nhận phải không? Chị thấy đó, em dâu tương lai của chị xử sự rất điệu mà. Ngày đám cưới của chị, em nghĩ là ngày bọn “Lục Nữ La Sát ” sẽ có đủ mặt.
Nhớ chuẩn bị giường chỗ, nhứt là cho con Thụy Châu đã gần ngày sanh. Tội nghiệp, nó ôm cái bụng chang bang, đi è ạch, nặng nề, vậy mà cũng đòi đến dự đám cưới nữa.
Thục An sẽ đi với kép nó. Con đó dạo nầy đi đâu cũng có đôi, có cặp. Cặp tình của đôi trẻ nay không biết sẽ ra sao? Em lo lắng… Còn hai con ma bùn Nguyệt Mi, và Ái Mỹ chưa liên lạc được…
Hôm qua em có vào trường dòng tu nữ bên hông nhà thờ, đặt cho chị cặp gối thêu tay nổi, có đôi chim én bay trên trời xanh và nhành mai vàng rực rỡ. Chị còn cần gì thì cứ cho bọn nầy biết, mỗi đứa sẽ tặng một hay hai món, giống như tụi mình sắm cho Thụy Châu lúc theo chồng vậy…
Chắc chị bận rộn lắm? Nhớ cần gì thì nói. Thôi em xin dừng bút nghen. Hẹn gặp vào ngày đám cưới chị.
Em dâu tương lai của chị,
Giai nhân tuyệt sắc Ánh Nguyệt”
Cẩm Hương đọc xong thư của Ánh Nguyệt bật cười, bởi cái con nầy khoe khoang không ai chịu nổi. Nàng lo le lá thư của Khanh trong tay, lòng buồn buồn… Có đoạn chàng viết:
“…Cảm ơn Cẩm Hương đã cho anh khoảng thời gian dù ngắn ngủi, nhưng thật vui vẻ. Em đừng cảm thấy áy náy, tại anh yêu đơn phương thôi. Có lẽ chúng ta có duyên nhưng không nợ ấy mà!
Thật đáng tiếc, ngày cưới em anh không đến dự được.
Gởi tặng hai em món quà nhỏ bé để làm kỷ niệm (cây viết máy hiệu Parker màu đỏ như sơn son, ngòi bằng vàng).
Anh xin chúc tân nương cùng tân lang trọn đời hạnh phúc, sắc cầm hão hợp, loan phụng hòa minh.
Và cho anh gởi lời chào Thành nhé.
Thân mến,
Bùi Công Khanh “
Tình yêu không phải là trái banh để đá qua đá lại, hoặc nhường cho người nầy người kia. Khanh có đủ điều kiện, anh sẽ là một người chồng tốt. Nhưng tình cảm con người thật khó hiểu, lý lẽ của con tim thật lạ kỳ… Tất cả những gì Khanh có, vẫn chưa đủ để cho con tim nàng rung động. Không ai có thể trả lời câu hỏi nghe đơn giản mà bề trong lại hết sức trặc trẹo khó khăn đó. Nhưng đám kết hôn nào mà không có kẻ buồn? Dù không nói ra nhưng mọi người đều ngấm ngầm biết rằng ít nhứt cũng có hai người. Một bên ở phía chú rể và một bên là ở phía cô dâu.
Đường xe từ Cai Lậy lên Lái Thiêu xa thăm thẳm. Đại diện họ nhà trai đi rước dâu chỉ có 10 người. Gồm có ba má Thiện Tố, chú thím họ của chàng, hai cô em họ, hai cậu em họ và chú Sáu quản gia. Má lớn của chàng cũng muốn đi nhưng cái chân bị trặc nên bà không thể di chuyển nhiều được, đành phải ở nhà, chờ họ nhà gái đến để tiếp đón.
Họ nhà trai mướn chiếc xe đò 30 chục chỗ ngồi để đi rước dâu. Đó là món quà của ba và má lớn Thiện Tố xuất tiền ra mướn. Dạo trước, má lớn của chàng ngầm xúi con gái mình phá đám cho hả lòng ganh ghét, nhưng không phá được thì thôi, bà cũng chẳng mất mát chi! Nay Thiện Tố cưới được cô giáo, anh em cô ta có chức phận địa vị trong xã hội như vậy, bà cũng có chút thơm lây và bà cũng có thể hãnh diện với bà con xa gần, với bạn bè chòm xóm đã từ mấy đời sinh sống ở vùng nầy.
Má lớn chàng còn bắt phải tổ chức tiệc cưới và rước dâu về nhà hương hỏa. Phải mời tất cả họ hàng và những người trong làng mà vợ chồng bà quen biết… Bà muốn làm rình rang như vậy để thiên hạ khen bà rộng rãi, bà từ bi hỉ xả đã thương yêu, lo lắng cho thằng con dòng nhỏ, nên Thiện Tố mới có được ngày hôm nay… Bà cũng ngầm khoe với bên vợ của Thiện Tố thấy rằng gia đình bà cũng giàu có, cũng ruộng đất bề bề, cũng có tôi tớ đầy nhà, cũng nhà cao cửa rộng không thua kém ai…
Đám cưới con trai mình, bà Tư Hiền không có ý kiến và quyền hành chi cả. Nhưng bà không buồn, cũng không cảm thấy khó chịu. Với bản chất thật thà, tánh tình hiền lành chịu đựng, bà chỉ mong sao Thiện Tố hạnh phúc. Chồng bà, bà lớn vui vẻ thì bà vui chung với họ rồi. Bà không hề thắc mắc hay để ý đến những chuyện khác.
Ông Hai Cung bảo xe ngừng lại cách nhà gái một đổi. Ngay cổng chánh dựng cửa tam quan có treo đèn, dán giấy màu, tô điểm bằng lá, hoa, trái… và lại còn kết tuội treo bông khắp các khung cửa. Làng trên xóm dưới khi ngó thấy cổng là biết nhà có đám cưới. Cổng nầy cũng để long trọng tiếp đón nhà trai, đưa con gái mình về nhà chồng…
Trên xe chú Sáu quản gia là người làm kỳ cựu của gia đình ông Hai Cung đi theo. Nhưng chú không vào dự lễ. Bổn phận của chú Sáu là soạn lấy 2 cái quả được vẽ cảnh trên thiên đình có tiên ông, tiên bà… cùng 6 cái mâm đồng sáng ngời được đánh bóng từ cả tuần trước. Chú sắp vào mâm, vào quả nào rượu, trà, bánh, trái. Những quà làm lễ cưới, nữ trang, cùng các lễ vật khác phù hợp theo gia cảnh giàu nghèo của mỗi gia đình, do nhà gái đòi hỏi.
Riêng ông bà Ký Tân, không đòi hỏi gì ở nhà trai khi gả con gái mình cho con trai họ. Ông bà để tùy nhà trai đi gì, cho gì thì Cẩm Hương hưởng cái đó. Còn những thứ cần sắm sửa cho cặp vợ chồng mới cưới như mùng, mềm, chiếu, gối … dù là bên nhà trai phải lo, nhưng trước ngày đám cưới, bà đã sắm đủ hết cho con rể rồi. Quan niệm của ông bà Ký Tân là gả con chớ không phải bán con. Họ chỉ mong sau nầy con gái và rể mình được hạnh phúc, hòa thuận, sanh con đẻ cái cho ông bà ẵm bồng là đủ lắm. Phải chăng đó cũng là ảnh hưởng tốt từ các con có ăn học, theo trào lưu tiến hóa của lớp người trẻ tuổi, cởi mở, văn minh mà hai ông bà dần dà bỏ bớt màu mè, riêu cua, xa lánh dần tập tục cổ hủ lỗi thời? Ông bà không biết sự đổi thay trong thế hệ buổi giao thời, nhưng ông bà rất vui vẻ bớt đi những lễ mễ trong việc cưới hỏi buộc ràng cho cả đôi bên… Có thằng rể là ông bà có thêm đứa con trai.
Trong mọi đám cưới, những lễ vật nhà trai qua rước dâu dù giàu hay nghèo luôn luôn không thể miễn hoặc bỏ được. Đó là những mâm, những quả như là rượu, trà, bánh, trái. Nghèo thì đi mỗi thứ một mâm, một quả (rượu thường, trà thường, bánh thường, trái thường, nhưng tất cả cộng lại phải là số chẵn, 4 mâm hay 4 quả…). Có tiền thì đi mỗi thứ 2 mâm, 4 mâm, hoặc 6 mâm… tùy theo sự đồng ý của hai họ. Có tiền thì mua rượu nổi tiếng, bánh hộp của Tây, trà Tàu hảo hạng, cam Tàu, nho, bôm nhập cảng từ ngoại quốc… Đó là về phần lễ vật. Còn người đi đưa, hoặc rước dâu đều phải đi chẵn, hoặc có đôi có cặp, chớ không được đi lẻ. Kiêng cữ những người chết vợ hoặc chết chồng, hoặc vợ chồng đã từng thôi nhau cũng không được đi rước hoặc đưa dâu. Họ chỉ được đến dự tiệc thôi. Đám cưới Cẩm Hương nhà trai đi qua 8 mâm quà lễ:
* Hai mâm trái thanh long tốt tươi được lựa kỹ, không bị sâu, không trầy trụa và có màu sắc thật đẹp tươi tượng trưng cho Phước-Lộc-Thọ…
* Hai mâm rượu tượng trưng cho tình nồng nàn bền chặt…
* Hai mâm trà, tượng trưng cho keo sơn, nghĩa nặng gắn bó…
* Hai quả bánh tượng trưng cho tình yêu thương ngọt ngào, trên thuận, dưới hòa cả nhà đề huề, đầy con đầy cháu…
Tất cả những giải thích trên dù khác lời, khác ý đi nữa, nhưng chung qui gia chủ của hai họ đều muốn cho con cái mình sống chung thuận hòa, làm ăn phát tài, gặp nhiều may mắn, sanh con đẻ cái dễ nuôi, ăn đời ở kiếp với nhau…
Có những đám còn gánh hai thúng xôi, gánh cả con heo quay để làm sính lễ… Hai bên cha mẹ đám cưới Thiện Tố đã bàn bạc trước với nhau, châm chước phần nầy vì đường sá xa xôi bất tiện. Và cũng không có lại quả (nhà trai đi món gì qua làm lễ, thì khi đưa cô dâu, nhà gái phải sớt ra một ít đem trở lại cho nhà trai) như những đám rước dâu khác.
Sau khi đại diện họ nhà trai trình lễ vật và đại diện họ nhà gái bằng lòng nhận thì cô dâu Cẩm Hương được dắt ra. Cặp vợ chồng thầy Ba Hiếu, được ông bà Ký Tân yêu cầu trước, hôm nay nhờ đứng hai bên chỉ dẫn cho cô dâu, chú rể lạy bàn thờ ông bà, lạy cha mẹ, xá họ hàng, từ giã chị em ruột thịt và bạn bè… để cô dâu xuất giá theo chồng.
Bốn cô phù dâu-Thục An, Ánh Nguyệt, Ái Mỹ, Nguyệt Mi đều mặc áo dài màu đọt chuối thêu hoa cúc hồng trên bâu áo, và tua tủa xuống tà áo. Thụy Châu mới sanh tuần trước, còn yếu như con cua mới lột vỏ chỉ gởi quà tặng thôi.
Nguyệt Mi đá lông nheo với anh chàng thanh niên bên nhà trai, mà lại nói với ba mụ chằng ăn trăn quấn “Lục Nữ La sát” rằng:
– Làng trên xóm dưới ơi, chàng rể bảnh trai, cao ráo dáng bộ giống thư sinh quá chừng. Vậy mà nghe tụi bây nói hôn phu của chị Cẩm Hương nông dân, lao động chân tay. Nên tui cứ tưởng ảnh ô dề, cục mịch lắm chớ.
Thục An trề môi:
– Cái bà Cẩm Hương lựa chồng giống như nhà dàn cảnh phim lựa kép chánh vậy. Tao thấy anh Thiện Tố giống tên kép đóng vai Tarzan!
Ánh Nguyệt cười, rồi nói hành nói tỏi:
– Tao không biết anh Thiện Tố có phước hay vô phước một khi đi cưới phải con vợ, vừa đẹp lại vừa ghen gay gắt như bà Cẩm Hương. Một khi mà bả nổi máu Hoạn Thư lên rồi thì có ông Trời mới khuyên giải bả được.
Ái Mỹ nguýt Ánh Nguyệt một cái bén ngót, trề môi:
– Ê, bả là chị chồng tương lai của mầy đó nghen con quỉ. Trước mặt bả, mầy ngọt sớt, sau lưng thì chê xả láng. Có chồng bảnh trai, ăn học đàng hoàng thì phải ghen để khỏi bị con lành con lủng tò vè rinh mất chồng. Mầy hãy liệu hồn đi, thằng Tuấn của mầy có cặp mắt “liếc ngang con Điêu Thuyên bủn rủn, liếc dọc ả Lộng Ngọc bàng hoàng”.
Nguyệt Mi hỏi nhỏ:
– Lộng Ngọc là ai vậy?
Ái Mỹ bảo:
– Là con của vua Tần thời Xuân Thu Chiến Quốc. Cô ta đẹp nghiêng nước, nghiêng thành, có tài thổi tiêu. Khi cô thổi khúc “Phượng Vũ” thì chim phượng chim loan trên trời bay xuống quanh cổ để nghe.
Ánh Nguyệt chẩu mỏ:
– Khi mà anh Tuấn cưới tao rồi, mỗi khi tụi tao đi ra ngoài, tao bắt ảnh đeo kiếng mát có gọng thật bự và mặt kiếng màu thiệt đen, để mấy con rập rợn trắc nết khỏi thấy cái liếc mắt… hiểm nghèo của ảnh.
Cả bọn cười ha hả. Ái Mỹ nói:
– Người ta sẽ nói mầy dắt ông mù đi chơi.
Thục An chêm:
– Coi bộ nó còn Hoạn Thư hơn bà chị chồng tương lai của nó nhiều đó tụi bây.
Bỗng bà Ký Tân đi ngang, dừng lại nói với 4 cô gái:
– Cảm ơn các cháu nhận lời đến làm phù dâu. Có các cháu đám cưới càng thêm vui.
Làm lễ để rước dâu xong, họ nhà trai được nhà gái đãi một bữa ăn thịnh soạn, gồm những món quý giá. Những bà nội trợ trong họ hàng nấu nướng từ suốt đêm hôm rồi. Những món ăn càng đặc biệt, càng khéo, càng ngon thì nhà gái càng được nở mặt, nở mày, cô dâu cũng được thơm lây tài khéo léo. Và các cô gái trong lãnh thổ Lái Thiêu được nhiều cha mẹ, họ hàng của trai tráng ở làng tổng thuộc tỉnh Thủ Dầu Một khác gấm ghé hỏi cho con cháu mình… Đó cũng là một trong những cách chọn dâu, dần dà biến thành như tập quán chung của người dân trong cuộc đất nầy. Thói quen đó đáng được khuyến khích, để các cô gái trong thôn làng khéo léo thêm về nữ công, gia chánh…
Ngày cưới, cô dâu mặc áo quần mới, trang điểm đẹp như nàng công chúa trong những chuyện cổ tích xưa. Cẩm Hương bên trong mặc áo dài cổ cao, tay phùng bằng gấm Thượng Hải màu hồng, quần lụa trắng. Bên ngoài choàng áo rộng, dài màu đỏ thắm. Ở lai, ở tay, ở cổ áo có viền chỉ kim tuyến màu phỉ thúy, màu hoàng yến, màu huyết hoa… óng ánh. Mình áo thêu rải rác những cánh hoa tươi thắm. Đầu cô đội nón cụ quai tơ. Má giồi phấn, môi thoa son hồng và trang sức theo nửa cổ nửa tân của cô dâu Cẩm Hương làm chú rể Thiện Tố chìm lỉm. Chàng cũng mặc áo rộng màu xanh lục có dệt hoa nổi bằng chỉ bạc qua 3 chữ Phước Lộc Thọ nằm trong những vòng tròn lớn. Đầu chàng đội khăn đóng, chân mang giầy hàm ếch, chàng ăn mặc thật trang trọng. Nhưng khi cặp mắt hay diễu của con a đầu Ánh Nguyệt quét ngang thì mặt mày chàng ta thộn ra chẳng khác ông Lý Toét đi Sài Gòn chút nào cả… Bà Ký Tân lau vội nước mắt vui mừng cảm động khi con lạy. Ông Ký Tân cũng rướm nước mắt. Cẩm Hương kềm lòng không được, ôm mẹ khóc òa như đứa trẻ. Bà Tân mắng yêu:
– Ai lại khóc trước mặt bao nhiêu người, thật xấu quá đi nè.
Miệng nói nhưng nước mắt bà Tân chảy còn nhiều hơn nước mắt của con, làm cho hai họ cảm động đỏ mi mắt.
Ông bác họ của Cẩm Hương muốn không khí vui lên, bèn cất tiếng:
– Cháu Cẩm Hương khóc không phải buồn vì xa cha mẹ, mà cháu khóc vì sao không làm lễ cho mau để sớm về nhà chồng đó các bậc trưởng thượng cùng bà con à.
Ông vừa dứt lời thì ai cũng cười rộ lên. Những lời chúc phúc, chúc lành rộn rã như bắp rang ở căn lều dành đãi ăn. 
Bên nhà trai, đám cưới cũng được tổ chức thật là rình rang xôm tụ, tưng bừng. Qua cầu đúc Cai Lậy, cặp sát theo đường sông ra miệt Long Tiên, Ba Dừa, Thới Sơn… khoảng 500 thước đường lộ đất. Hai cái nhà đãi lớn tạm thời được dựng che trước ngôi nhà ông Hai Cung. Bên trong đặt khoảng hai mươi mấy chiếc bàn tròn và mỗi bàn 10 ghế đẩu vây quanh. Những bàn ghế nầy mượn ở đình và bên nhà làng, do những người tá điền của ông khiêng vác từ tuần trước ngày đám cưới. Mấy người khác đi chặt tàu lá cây đủng đỉnh, tàu lá dừa, hái bông hoa… để cho những người khéo tay trang hoàng ở cổng, ở các khung cửa sổ trưng bày hình cảnh Phước, Lộc, Thọ, và những chữ như: “Tân Hôn, Loan Phụng Hòa Minh…”. Những bức tranh lớn, nền làm bằng lá chuối non, và dùng hoa, trái, lá, rễ… làm bức tranh nổi “Ngư, Tiều, Canh, Mục”, bức tranh kia là “Long, Lân, Qui, Phụng”. Họ còn dùng những hoa quả kết thành cặp cá hóa long rực rỡ dưới ánh đèn măn-sông. Những chậu bá niên, vạn thọ đặt thành hai hàng dài từ cổng trước vào tới thềm nhà cửa lớn.
Thiện Tố vốn có hoa tay, cắt những nhánh cúc rồi tỉa lá kết lại thành dây cúc hóa phụng, lá cúc khi ráp vào nhau thành con phụng đang bay giữa các chòm mây. Mọi người đều trầm trồ. Chồng của Kiều Liên nói:
– Cậu có biết uốn trúc hóa long, uốn cúc hóa phượng không? Bức tranh ghép nhánh nầy sau đám cưới là dẹp bỏ, đâu còn dùng được nữa.
Thiện Cảm thành thật:
– Uốn cây phải tốn nhiều thời gian. Em chỉ nghe có uốn trúc hóa long thôi, còn uốn cúc hóa phụng thì em chỉ thấy trong hình vẽ, có lẽ do người Tàu tưởng tượng ra. Dù sao, vẽ cúc hóa phụng để thêu trên miệng túi áo sơ-mi cũng đẹp lắm.
Bà Hai Cung chưa biết rõ chuyện uốn, bẻ cây kiểng ra sao, nhưng bà háy thằng rể:
– Mầy đừng khó tính nghe chồng con Ba. Thắng Út của má là văn nhơn tao nhã. Nó mà rớ vô cái gì xấu xí thì cái đó cũng trở thành thanh bai tao nhã hết trọi. Nghệ sĩ đó đa! Khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh, các bực học giả trí thức đều biết tới nó.
Rồi bà ngẫm nghĩ nói tiếp:
– Đó cũng là nhờ thằng Thiện Tố và con giáo trưởng chị nó đã giúp nó nên người. Mèn ơi, việc đá gà, đá cá lia thia là chuyện cờ bạc vậy mà thằng Út của tao lấy độc trị độc viết về những bài đá gà đá cá xuất sắc, ai ai đọc bài đó rồi… cũng phải nghĩ nó phong lưu, ngộ thiệt đó chớ.
Bà nhấn mạnh thêm:
– Tao làm đám cưới thằng Thiện Tố rình rang, là để thưởng công cho vợ chồng nó đó đa.
 
Ở hậu viện thì che tạm cái thảo bạc cao và rộng và dài ra tận sàn lảng, để nấu ăn và rửa chén. Nhà trai nhóm họ đã ba ngày rồi. Từ sáng đến chiều tiệc đãi họ hàng cùng bạn bè, khách khứa… liên tục. Cho nên trong bếp, lửa hồng cháy phừng phừng suốt ngày đêm. Họ làm bò, làm heo, làm gà, vịt, cá, tôm… Các loại gia súc, cá tôm… được nuôi hoặc mua toàn là những thứ tốt, thứ ngon. Ngoài họ hàng và tá điền lớn nhỏ, nam nữ về phụ giúp trong ngoài tổng cộng gần 20 người. Ông bà Hai Cung còn rước thêm hai thợ nấu ăn trứ danh ở làng khác đến soạn tiệc đãi khách khứa suốt ngày nhóm họ và tới hôm rước dâu về. Ông Hai Cung, chủ điền nổi tiếng giàu có mấy đời, và còn là chủ nhà máy chà lúa. Thử hỏi thuở đó đếm trên đầu ngón tay coi trong tỉnh Định Tường có được bao nhiêu cái nhà máy chà như vậy? Nên đám cưới con trai ông phải tổ chức linh đình chớ.
Đội lân địa của làng nhảy múa theo tiếng trống chiêng liên hồi để chào đón mừng hai họ và cô dâu chú rể. Người lớn, con nít đứng hai bên đường xem đông nghẹt. Họ trầm trồ khen ngợi cô dâu chú rể, các phù dâu phù rể, cùng nam thanh, nữ tú v.v…
Họ nhà trai rước dâu về rất sớm, chưa tới 1 giờ. Sau lễ gia tiên, lạy ra mắt cha mẹ, họ hàng bên nhà trai, cô dâu chú rể thay đổi xiêm y để bắt đầu đãi khách đặc biệt.
Khách của ông bà Hai Cung để dành đãi sau khi rước dâu về là những người có chức sắc bên hội đồng làng, dinh quan chánh chủ quận. Mấy thầy cô dạy chung với Cẩm Hương… cùng bạn bè của Thiện Tố ở xa đến, có vợ chồng Cương và mấy người mà Cẩm Hương gặp mặt hôm đi đám cưới Cương cũng đến tham dự đủ mặt.
Đứng trong rèm nhìn Thiện Tố vá Cẩm Hương làm lễ gia tiên, Hồng Ánh kề tai Ngọc Huệ nói nhỏ:
– Chị Ngọc Huệ coi, chị Cẩm Hương đúng là nữ hoàng trong tiệc cưới hôm nay. Chỉ vừa đẹp lại vừa sang.
Ngọc Huệ cười:
– Đúng vậy. Gái tân học mà, không đẹp thì cũng sang.
Riêng Kiều Liên và Kiều Lan thì ganh tị thấy rõ. Kiều Lan bảo em:
– Con Cẩm Hương mặc áo gấm Thượng Hải không bằng tao mặc áo gấm thêu Tô Châu.
Kiều Liên chê bai:
– Áo gấm phải dệt phụng, dệt bướm bằng kim tuyến mới đẹp. Đàng nầy gấm của nó dệt chữ thọ trông lu câm và quê quá.
Thiện Cảm đi ngang nghe hai bà chị thèo lẻo và đa sự của mình, xía miệng vào:
– Gấm thêu ở Tô Châu cũng từ Thượng Hải chở qua đó đa.
Kiều Lan táp liền:
– Sao mầy biết? Ai nói với mầy như vậy? Mầy muốn làm tài khôn dạy đời tao phải không? Đồ cái thằng vô duyên không tiền mà thưởng.
Kiều Liên xỉ ngón tay vào trán em trai:
– Mầy giỏi quá hén. Nhưng sao mầy thi rớt bằng Thành Chung hoài vậy? Thấy cái bản mặt làm ra vẻ ta đây thông thái, trí thức của mầy mà tao ứa gan rồi.
Thiện Cảm cười hề hề:
– Thôi em đi cho khuất mắt hai chị, để hai chị mặc sức nói hành nói tỏi người ta.
Kiều Lan bằng giọng chua hơn giấm, mắng nhiếc em:
– Đồ cái thứ ăn cơm nhà đi nịnh thiên hạ! Mầy chỉ có “chí rận”, chớ trí thức nỗi gì.
Kiều Liên xỉa xói thêm:
– Mầy làm ơn, có rảnh thì vác cái mặt mo đi chỗ khác chơi cho mau, để tao được thở cho mát phèo, mát phổi coi!
Vừa lúc đó, Hồng Ánh và Ngọc Huệ đi ngang qua. Cả hai liếc nhau chúm chím cười. Khi trở vào bếp phụ các bà, các cô nấu nướng. Ngọc Huệ bảo nhỏ với Hồng Anh:
– Em thấy, dạo nầy anh Thiện Cảm hay chọc quê hai chị Kiều. Hễ hai chị ấy càng nổi tam bành lục tặc ảnh càng cười khoái chí tử.
Hồng Ánh cười hờn:
– Hai chị Kiều ganh ghét anh Thiện Tố chưa đã, bây giờ quây qua ganh ghét chồng tui. Còn hai ông anh rể cảm thấy mình thua kém hai thằng em vợ nên cũng tỏ vẻ lạnh lạt với cả hai. Họ tìm cách chê sách do chồng tui viết ra nào là văn chương không bác học, nào là lời lẽ cục mịch, nào là nhơn vật quê mùa, nào là cốt truyện lạt nhách làm họ buồn ngủ. Họ bươi móc hàng ngàn cái lỗi trong tác phẩm của ảnh. Họ chà đạp dẫm nát văn chương ảnh một cách tàn nhẫn, không chút xót thương
Ngọc Huệ cười hí hí:
– Chị Sáu Thu ở gần nhà làng, lỡ trót khen xối xả cuốn “Đồng Ruộng Chờ Anh” của anh Thiện Cảm. Cho nên mỗi khi đến tiệm chạp phô của chú Chệt Mành, hai bà Kiều phải dùng đường khác để khỏi phải đi ngang qua nhà chị Sáu Thu.
Hôm nay là ngày đại lễ của con bà Tư Hiền, cũng là ngày lễ lớn trong cuộc đời người mẹ hẩm hiu như bà. Mặt bà Tư lúc nào cũng tươi rói. Bà vui vẻ chào hỏi khách khứa đến dự. Giờ đây bà được mãn nguyện rồi. Trong những ngày trọng đại cưới vợ cho con, bà Tư luôn diện áo dài… Bà Tư mặc áo xuyến màu nâu sậm in lác đác bông hoa nổi trên mình hàng. Nền xuyến trong vắt ửng chiếc áo túi lót bằng ba-tít trắng bên trong. Bà mặc quần lãnh xiêm, đeo bông mù u vàng, dây chuyền vàng mặt Phật Bà Quan Âm. Tay đeo hai chiếc xuyến trơn. Tóc bà điểm bạc lâm tâm, chải vén vang về phía sau và xức dầu dừa láng bóng.
Bà vợ lớn ông Hai Cung trong buổi lễ tiệc chánh mặc chiếc áo dài nhung màu xanh dương, quần mỹ a Tân Châu, tóc bới hai vòng ba lái không cao, không thấp ôm sát phía sau ót. Bà đeo bông cẩm thạch mặt tròn như bánh men xanh màu lá cây. Sợi dây chuyền vàng của bà bự bản, nặng chịch, với mặt cẩm thạch lớn hình bầu dục bọc vàng chạm trỗ khéo léo. Hai cườm tay bà đeo hai chiếc neo vấn bằng vàng y, mỗi chiếc cũng nặng hơn cả lượng. Sự kiểu cách và điệu đà làm bà tăng thêm phần sang trọng, thật đúng với cương vị của một bà vợ lớn có tài sản và giàu nhứt nhì trong vùng. Cho dù ghét mẹ con Thiện Tố chín xe mười giàn đi nữa, bà Hai Cung hôm nay cũng giả giọng làm vui, miệng dòn khắm khứu chào hỏi khách khứa… để lấy tiếng thơm và hãnh diện ké với xóm làng vì thằng con của chồng đã có ăn học, giờ lại có vợ dạy lớp nhứt ở trường quận nầy nữa.
Hai nàng Kiều Lan, Kiều Liên và vợ chồng Thiện Cảm cũng ăn diện không thua kém ai. Vợ Thiện Cảm mặc áo dài lụa lèo màu hồng nhạt, tiệp với nước da trắng trẻo của nàng. Mặc dù cô hơi mập, nhưng nét mặt thanh tú, mắt tròn to như hai hột nhãn, miệng có duyên, nụ cười rạng rỡ và má lúm đồng tiền. Trông cô xinh xắn và dễ thương, rất xứng đôi với anh chồng có bóng sắc như Thiện Cảm. Lân giúp vui khi rước dâu hôm nay cũng là ý kiến của Thiện Cảm, vì chàng ở trong đội lân và còn là cầu thủ số một trong đội đá banh của làng, mà ông Hai Cung làm hội trưởng từ bấy lâu nay.
Kiều Lan và Kiều Liên muốn nổi bật hơn cả cô dâu, nên trước đám cưới cả tháng, hai cô hẹn nhau xuống chợ tỉnh đặt may mỗi người một chiếc áo dài “mốt” bằng gấm đỏ, bâu áo cao chống cổ, tay phùng cao. Hai cô đều mặc và trang sức giống nhau. Họ đeo bông tòn teng, dây cổ, dây tay bằng hột xoàn chiếu lấp lánh… Trông họ đẹp và lạ mắt thật. Nhưng quần áo và trang sức nầy nếu trên một thân mình có dáng dấp thanh cảnh thì tuyệt. Khổ nổi hai nàng Kiều đã nhiều lần sanh đẻ, ăn uống không giữ gìn dù cái bụng không lớn lắm, nhưng thân thể lệch lạc, tướng đi hai hàng, ngó vào là biết hai mụ xề ngay. Trước đó cả tháng, hai nàng nhịn ăn để giữ eo thon, mông gọn. Nhưng khổ nổi cái bụng dưới, tức là cái nây bụng phồng ra như có độn trái dưa hấu cắt đôi. Hai nàng còn nhờ thím xẩm Lầy Phá (Lệ Hoa) vợ bé ông ông Bang Quảng Đông dùng chỉ xe trên da mặt để lấy lông măng, cùng tỉa cặp chân mày cong như viền trăng non, như cái móng chuồng vậy. Hai nàng biết tướng đi của mình không đẹp, nên uốn éo mình xà, mông đưa qua bên trái, rồi xàng qua bên mặt làm mấy bà mấy cô dọn đám dưới bếp có dịp nói hành nói tỏi rồi cười khúc khích.
Ngọc Huệ đã phụ với Kiều Liên, Kiều Lan, Hồng Ánh tiếp khách, đãi ăn từ chiều ngày trước. Và hôm nay, sáng sớm cô qua giúp chuẩn bị để rước dâu về thì đãi ăn họ nhà gái và khách khứa. Cô tươi mát trong chiếc áo dài nhung màu tím, cổ cao, quần lụa trắng. Tóc cô vấn bính, quấn nhiều vòng và kẹp bằng chiếc nơ bươm bướm bằng nhung đen phía sau ót. Cô đeo sưu bộ ngọc trai màu ngà voi, gồm có bông tai, chuỗi, cà rá và vòng tay… Ngọc Huệ tô son hồng đào, giồi phấn sương sương, dậm phấn hồng phơn phớt. Trông cô đẹp hẳn lên.
Nhưng ai có thể ngờ, sau cặp môi trái tim cười đẹp như hoa nở đó, lại là cái miệng ăn hàng hết chỗ chê! Cô ăn xàm xạp tối ngày:
Thịt phay nhai ngấu nghiến,
thịt gà thiến ăn tràn miệng vẫn thèm,
chả nem ních sạch bách,
tôm kho gạch cũng chẳng chừa,
dừa cô cũng ưa,
dưa cô cũng thích,
mít cô không chê…
Ai biết được đôi mắt viền đen kia, sáng ngời lóng lánh khi nghe kể chuyện tiếu lâm, chuyện ngồi lê đôi mách… Đây là mẫu thiếu nữ hạnh kiểm thưa thớt, tánh tình bông lông nhưng tâm địa hiền lành, giàu lòng từ thiện, kẻ dữ, người hiền đều mến chuộng.
Ba má bà Tư Hiền đã qua đời. Giờ đây bà chỉ còn có 4 chị em (bà, cậu em trai và 2 cô em gái). Họ từ trên kinh xuống dự đám cưới đứa cháu con của bà chị của mình, mà họ kính yêu cũng giống như người mẹ. Vì bà chị nầy lo mọi chuyện lớn nhỏ, đùm bọc cho gia đình và một mực thương yêu các em. Trước ngày đám cưới Thiện Tố, cậu mợ của chàng chở xuống cho con heo nuôi cấn phần riêng cho cháu từ 8 tháng trước. Dì dượng rể cho bầy vịt xiêm bốp-xộp 10 con (loại vịt lớn con, nhiều thịt và mềm). Dượng dì út cho 6 con gà trống thiến, và 4 con gà mái dầu mập ú. Bà Tư Hiền bảo với các em chở hết quà biếu qua bên nhà hương hỏa vì đám cưới sẽ đãi tiệc ở bên đó. Ngoài các thứ đem cho chị để nấu đãi tiệc cưới cháu, các em còn đem cho riêng bà Tư Hiền để dành ăn lâu ngày như là mắm cá lóc, khô cá sặc, khô cá chạch… Lại còn cá rô mề lớn gân bằng bàn tay xòe, cá trê vàng mập ú rộng trong khạp, để bà cặp gắp nướng, dầm với nước mắm gừng hay nước mắm xoài… Bởi họ biết chị mình rất ưa thích những loại khô cá nầy…
Dù bây giờ các em bà Tư mỗi đứa đều có gia đình riêng, ăn nên làm ra, nhưng bà vẫn thương yêu và luôn bù đắp khi họ gặp chuyện tai ương hoạn nạn. Ngày rước dâu về, tiệc tùng đãi khách khứa xong, khi trời vừa nhá nhem tối thì mấy em cuả bà Tư Hiền cũng trở lại nhà hết. Họ ra đi trong đêm tối cho kịp con nước để qua mấy kinh đào không bị mắc cạn. Bà lấy gần hết bánh, trái, chia phần gởi về cho các cháu. Bà đem ra cả thúng áo quần cũ, giầy, dép, nón, khăn… cho các em đem về. Thường thì đồ cá nhân còn tốt nhưng không dùng đến nữa, bà giặt sạch sẽ để dành trong thúng, trong bao, khi nào có người ở đó xuống, hoặc ai lên thì bà gởi về để cho các em, các cháu mặc đi làm cỏ lúa, đi ruộng cũng đỡ khoản tiền mua sắm.
Khi đưa các em xuống bến sông, bà Tư Hiền nhét cho mỗi người một ít tiền để họ về mua heo con, gà, vịt… nuôi mà gầy vốn lại. Dù biết các em bây giờ có tiền dành dụm bộn bàng nhưng họ phải làm lụng cực nhọc lắm mới được như vậy.
Em trai bà đẩy xuồng rời bến. Đứng trên bờ nhìn theo bóng dáng các em, mờ dần lòng bà bồi hồi xúc động… Màn đêm buông xuống, tiếng võng đưa kẽo kẹt và tiếng ru con giọng lanh lảnh ngọt bùi của nhà hàng xóm vọng đến:
“Ầu ơ… tháng bảy tối trời mưa rơi tầm tã.
Vững chắc thâm tình em ngã chị nưng… Ầu ơ…”
Thiện Tố sáng sớm ba hôm sau ngày cưới theo vợ về Lái Thiêu làm lễ phản bái thăm cha mẹ vợ. Cẩm Hương và Thiện Tố muốn chờ ngày lễ nghỉ đón Tết. Có vậỵ hai vợ chồng mới có thể ở lại chơi đôi ba bữa. Còn lần nầy nếu qua bên vợ thì ngày nay đi, mai phải trở về, đường xa mệt nhọc. Vả lại vừa mới đám cưới, bao nhiêu công việc còn bề bộn, phải làm cho xong, như là dọn dẹp mọi thứ trở lại chỗ cũ. Bàn ghế mượn của ai thì khiêng trả cho người đó… Mặc dù những việc tầm thường như vậy và dù có mấy chú tá điền ở lại giúp đỡ, nhưng phải có người lớn trong gia đình đứng chỉ huy và cảm ơn người cho mượn… Những chuyện nầy tuy nhỏ nhặt, nhưng phải cần có Thiện Tố hay Thiện Cảm hoặc cha chàng mới được. Thiện Tố nghĩ rằng, mấy hôm rày ông già mình mệt đừ rồi, để ổng làm nữa, rủi ổng ngã bịnh thì khổ lắm. Nhưng bà má lớn, và bà Tư Hiền bắt con cùng dâu phải đi Lái Thiêu. Vì họ bảo đó là lễ phản bái, cô dâu, chú rể phải về cho trọn lễ và phải xách hai con vịt, rượu, trà lỉnh kỉnh nữa.
Cẩm Hương thầm cảm ơn Thượng Đế đã cho nàng sanh vào một gia đình có cha mẹ và hai em đều là những người tốt, dầu họ không giàu sang phú quý hay quyền cao chức trọng chi đó. Nhưng nàng được đi học suông sẻ, ra trường đi làm ngay, rồi gặp Thiện Tố, để cả hai trở thành vợ chồng. Mặc dù trước ngày thành hôn, họ cũng gặp nhiều phiền muộn, trắc trở. Nhưng vận sự xảy ra không thái quá, không tàn nhẫn, không đoạn trường như biết bao thảm cảnh mà nhiều người đã gặp, bao người đã trải qua.
Bây giờ Cẩm Hương có chồng, ở chung nhà với mẹ chồng. Từ đầu làng tới cuối thôn là dòng họ bên chồng. Dòng họ bên nàng, và bọn “Lục Nữ La Sát”, không nói ra miệng, nhưng ai cũng đều lắc đầu áy náy, lo lắng cho nàng bị hai cô Kiều ăn hiếp và bị bà Hai Cung xéo xắt… Các cô dâu khác, thường chỉ có một bà mẹ chồng thôi mà còn gặp nhiều sự việc phiền phức, đàng nầy Cẩm Hương có tới hai bà mẹ chồng. Cho nên trước mặt hai họ, má nàng khôn khéo gởi gấm con mình cho hai bà sui. Bà nói:
– Con gái tôi sanh ra, nuôi lớn ăn học đàng hoàng, nay có phước phần mới gả vào làm dâu nhà hai chị. Mong hai chị coi cháu như con gái của hai chị. Ông bà ta thường nói “Thương con thì thương dâu…”
Bà Tư Hiền cười:
– Chị không phải lo. Tôi thương dâu hơn thương con trai nữa. Vì con dâu sẽ sanh con nối dòng nối dõi cho họ nhà tôi.
Má lớn của Thiện Tố vo tròn cục thuốc xỉa, lau nhẹ cổ trầu tươm ra mép miệng. Bà điệu đà:
– Thời buổi bây giờ đã đổi khác rồi chớ không phải như thời bọn mình. Chị không phải lo, “Ma bắt coi mặt người ta / Đánh chó phải kiêng chủ nhà “ mà. Vợ của cậu Tố nhà nầy ai mà dám ăn hiếp? Cho dù muốn hiếp đáp cũng chưa chắc ai có cao tay ấn làm được.
Nghe bà Hai Cung nói, Cẩm Hương cười thầm! Còn hai cô Kiều thì trợn trắng tức tối, nhưng đành đứng đó câm miệng lắng nghe.
Khi khách ra về hết rồi, bà Hai Cung sai Hồng Ánh nấu bánh canh cá giò heo để mẹ con bà giải lao. Kiều Liên có vẻ tức tối vu vơ. Còn Kiều Lan thì trầm ngâm nghĩ ngợi. Bà Hai Cung cũng có vẻ suy tư. Bà têm trầu để vào miệng nhai rau ráu. Không ai biết bà đang nghĩ gì, chỉ nghe bà hỏi con gái lớn:
– Má nghe đồn dân Lái Thiêu giàu có lắm, phải không con?
Kiều Lan trề môi:
– Đâu phải mọi người đều giàu đâu má. Vợ chồng ông Ký Tân nghe nói cũng đủ ăn đủ mặc là cùng.
Kiều Liên xí xọn:
– Má chớ thấy mụ Ký Tân ăn nói kiểu cách, ăn mặc bảnh bao rồi tưởng mụ giàu. Trên thế gian nầy có nhiều kẻ bề ngoài lên xe xuống ngựa, nhưng họ thường ở trong nhà húp cháo lỏng.
Kiều Lan bàn:
– Nếu họ giàu, họ gả con gái cho con trai ông Phủ, con trai ông Huyện, còn tệ lắm cũng là con trai ông Cai Tổng, con trai ông Bang Biện, chớ ai mà gả con cho vợ bé ông điền chủ bực trung bao giờ?
Ngồi viết văn bên cửa sổ, Thiện Cảm đã nghe hết. Chàng cằn nhằn:
– Rùm beng quá đi thôi! Rầu quá trời quá đất mà! Tối ngày hễ xúm lại là nói móc người nầy, nói xấu người kia. Ngày nào mấy người không như vậy sẽ ăn không ngon, ngủ không yên. Hãy bớt nói một chút để đức cho con cháu, có được không?
Được dịp, hai chị em cô Kiều châu mỏ sủa thằng em vang rân. Kiều Lan rống lên:
– Thằng khôn nhà dại chợ kia. Lóng rày mầy binh thằng Thiện Tố chầm chập. Bộ nó cho mầy uống máu chó mực, hay máu mèo mun mà mầy hùa theo nó để cắn xé hai con chị của mầy?
Kiều Liên rít the thé:
– Đồ chúa ngục! Bắt chước người ta viết văn. Viết bá láp tầm xàm rồi đâm ra ngu, ra khờ, ruột bỏ ra, da bỏ vào.
Hồng Ánh bưng bình trà và khay bánh thuẩn, bánh bò nướng… từ bếp lên, can gián:
– Chuyện gì vậy? Chồng em đang lúc viết văn, không muốn ai làm om sòm, làm rộn lúc ảnh tâm hứng tìm ý, chớ ảnh đâu có dám hỗn, dám chống lại hai chị.
Bà Hai Cung bực mình, mắng át:
– Tụi bây câm cái miệng lại hết đi! Dầu sao con Cẩm Hương bây giờ cũng là phần tử trong gia đình nầy rồi! Vừa vừa, phải phải thôi nghen, đừng có ăn nói chì chiết, cay đắng quá mà mang khẩu nghiệp đó.
Rồi bà Hai Cung lẩm bẩm một mình “Rõ là thằng Thiện Tố đẻ bọc điều mới cưới được con vợ giỏi, ngoan như vậy. Nó mà cưới con Ngọc Huệ thì tàn đời! Con đó ăn hàng tới sập nhà nát cửa”.
Tuy nhiên, bà Hai Cung cũng thấy mình được an ủi. Thằng con Thiện Cảm của bà viết văn viết báo được nhiều độc giả ưa chuộng. Sách của chàng bán chạy. Mỗi tháng chàng kiếm cũng được 40, 50 đồng, bằng thầy giáo dạy lớp nhứt. Hồng Ánh giúp chồng sao chép bản thảo, sưu tầm, sắp xếp bài vở của chàng đăng báo cùng bài vở tán thưởng các tác phẩm của chàng. Hồng Ánh trang hoàng phòng văn của chồng rất mỹ thuật. Ngoài tranh ảnh và các món ngoạn hảo nàng còn sắm các chậu kiểng đặt 4 góc phòng, ở bên bệ cửa sổ. Sách nào của Thiện Cảm lưu trong tủ sách, nàng cũng đi bọc bìa da, mạ chữ vàng, xếp từng hàng trong tủ kiếng. Tối tối, nàng viết nhựt ký trong quyển tập giấy mỏng màu hường, bìa cứng phết giấy màu tím hoa cà, viền ở gáy sách màu tím sậm.
Thấy con và dâu đầm ấm, thấy văn nghiệp của Thiện Cảm được người thân thích, kẻ quen biết tán thưởng bà thầm cảm ơn vợ chồng Thiện Tố. Nhưng hai nàng Kiều lại trổ mòi ganh ghét thằng em ruột Thiện Cảm hư trước nên sau. Cái “nên” nầy tạo danh vọng cho Thiện Cảm quá lớn lao ngoài sức tưởng tượng của họ. Còn chồng họ thì làm ăn cầm chừng, hễ ló ra là ve gái, uống rượu, bài bạc.
Kiều Lan chì chiết:
– Xì, văn chương gì thằng đó. Câu văn nó suông đuột như thân thể gái già, không ngực không mông gì ráo trọi.
Kiều Liên càm ràm:
– Ngày tối ngồi viết văn như vậy, nếu không ho lao thì có ngày nó cũng nổi cơn điên, phải vào nhà thương Biên Hòa.
Còn bà Hai Cung đi đến đâu cũng khoe:
– Bà con coi đó, thằng con trai tui có văn tài mà vợ chồng tui đâu có dè, cứ ép nó học, làm nó điêu đứng. Tuy nó không có bằng cấp treo ở phòng khách cho oai, nhưng mấy cuốn sách của nó không cần treo trong nhà, mà cũng có mấy quyển sách từ Nam chí Bắc bày bán la liệt, ai ai cũng trầm trồ.
Cuốn sách đầu tiên và cuốn sách thứ nhì của Thiện Cảm được tái bản 4 lần rồi, lần nào vợ chồng Thiện Tố cũng giúp đỡ tiền nong và công sức. Thiện Cảm hốt bạc, nên bồi hoàn mọi phí tổn cho người anh khác mẹ của mình rất sòng phẳng.
CHƯƠNG MƯỜI LĂM
Mặt nước sông tràn linh láng. Gió bấc thổi về, mấy ngày nay lành lạnh báo hiệu tiết lập đông. Mùa đông ở xứ nầy lạnh lắm vào giữa khuya cho đến sáng. Nếu ngủ trong nhà thì người ta chỉ cần đắp mền, đó là ngủ trong mùng. Còn mấy người ngủ trong nóp hoặc trong đệm thì đủ ấm rồi, không cần phải đắp chăn mền chi cả. Vào giữa mùa tiết lập đông gần đến mùa xuân là đầu mùa trái cây nhứt là cam, quít, bưởi, vú sữa, sa-bô-chê… Các loại hoa chung quanh nhà cũng bắt đầu đơm nụ, trổ hoa… Rau cải cũng bắt đầu trổ tược sum suê, trổ lá non ê hề nhiều hơn những mùa khác trong năm.
Đầu tháng chạp thì từ đầu làng đến cuối thôn, dân quê làm việc nhiều hơn, ồn ào, rộn rịp hơn, nhứt là việc rẫy nương, việc chăm bón hoa trái, việc súc tích nuôi dưỡng tôm cá, heo bò, gà, vịt… đã chuẩn bị từ mấy tháng trước để nay chở đi cung cấp cho tỉnh thành. Họ bán ở chợ gần, chợ xa cho mọi nhà mua sắm trong việc lễ cúng, ăn mừng, sum vầy trong những ngày đầu năm, những ngày nghỉ Tết gia đình đoàn tụ.
Hai hàng so đũa tơ được Thiện Tố trồng hai bên nhà trổ bông trắng xóa. Sáng sớm nào cũng có từng bầy chim trao trảo, từ đâu bay đến đáp trên cây, rồi chuyền từ cành nầy qua cành kia kêu chí chóe, rồi dùng mỏ rút rỉa mật trên gần cuống bông.
Mặt trời đã lên cao, mà Cẩm Hương vẫn còn nằm nướng chưa muốn dậy. Trong nhà vắng tanh, chỉ có tiếng tích tắc, tích tắc đều đều… của chiếc đồng hồ treo trên vách gần cửa sổ nhà trước. Tiếng gà đòi ăn sáng sớm nàng cũng không nghe, có lẽ bọn chúng tản mác ra những liếp sau vườn tìm côn trùng. Bọn vịt lạch bạch nhào xuống ao tìm tép cá cất tiếng kêu “cạp cạp”. Cẩm Hương ngồi dậy và đi mở cửa sổ. Ánh sáng chói chang của buổi bình minh ùa vào phòng cùng làn gió buổi sáng mát rượi. Nàng biết chồng mình đã qua nhà máy chà từ sáng sớm. Bà má chồng nàng chắc đi chợ mua thức ăn cũng sắp về.
Cẩm Hương đi lần xuống nhà dưới, giở chiếc lồng bàn nàng thấy hai cái bánh ích, một cái có hình thù như con cóc nằm bẹp xuống. Nàng biết đó là bánh ngọt nhưn đậu, còn cái bánh kia hình kim tự tháp là bánh bột trắng nhưn dừa xào ngọt. Cả hai nằm tròn trong chiếc dĩa vẽ lá hoa màu chàm. Cạnh bên trong dĩa có mấy trái bắp đường nấu chín còn âm ấm. Cẩm Hương cảm động về sự săn sóc của mẹ chồng và tình thương yêu chiều chuộng của chồng nàng.
Đám cưới của nàng và Thiện Tố đã hơn tám tháng rồi. Ngày nào cũng như ngày nấy, sáng dậy nàng đã có sẵn thức ăn sáng, khi cháo, khi bánh, lúc cơm rang do má chồng nàng thức từ sớm làm cho con trai và dâu ăn lót dạ trước khi kẻ đi dạy học, người đi làm. Chiều đi dạy về thì có mâm cơm chờ sẵn. Áo quần thì ngày nào bà cũng gom góp giặt sạch sẽ, phơi, xếp cho bà, cho vợ chồng nàng. Tới chén dĩa sau bữa ăn bà cũng giành rửa. Có hôm Thiện Tố phải nói:
– Má phải để cho Cẩm Hương làm phụ những việc trong nhà. Cái gì má cũng giành làm. Mai mốt má đi đâu, ở nhà vợ con sẽ bắt con làm hết mọi việc của má thì khổ cho con má lắm đó.
Cẩm Hương liếc chồng rồi lén nhéo chàng một cái. Thiện Tố la oai oái. Bà Tư cười với con dâu:
– Việc nhà có gì nặng nhọc đâu? Má rất vui vẻ được lo cho hai đứa. Vợ con phải đi dạy học vất vả cả ngày, về nhà nó cần được nghỉ ngơi. Giặt đồ thì chỉ thêm cái áo hoặc cái quần. Còn rửa chén thêm cái chén đôi đũa thì cũng vậy có nặng nhọc chi đâu? Cả ngày má ở nhà chẳng có việc gì nhiều để làm. Nếu các con không cho má làm, má sẽ bị bịnh đó.
Cẩm Hương nhìn mẹ chồng thương mến:
– Ảnh nói đúng, má phải để cho con phụ coi sóc việc nhà với má. Má tập con lười biếng không tốt đâu. Con cũng giống như má là không làm gì sẽ bị bịnh nữa đó!
Bà Tư cười ngất. Cuộc đời bà được như vậy cũng là nhờ Ơn Trên ban cho, bà cảm thầy mãn nguyện và hạnh phúc lắm rồi. Khi lễ bái, đi cúng chùa, cúng miễu, bà thường cầu nguyện cho con dâu sanh mấy đứa cháu để bà cưng yêu săn sóc. Bà nói:
– Trong nhà nầy có gì đâu mà làm? Đừng có giành làm việc nhà với má, Cẩm Hương nếu có giỏi thì sanh mấy đứa cháu là đủ cho má mãn nguyện lắm rồi.
Nước sông lớn chảy cuồn cuộn, dâng lên tràn bờ. Ngoài đường người đi bộ phải mò mẫm từ bước một để qua những khúc đường ngắn bị nước ngập. Hôm nay Cẩm Hương thức trễ vì là ngày chủ nhựt. Nàng cầm chiếc bàn chải thấm nước rồi chấm vào hủ muối bọt nhỏ trong góc kệ, vói lấy chiếc khăn nhỏ gần đó, đi ra sàn lảng đánh răng, rửa mặt. Từ hồi có chồng về đây, nàng đổi dùng muối bọt đánh răng như mẹ chồng và chồng. Bởi họ bảo răng đánh bằng muối thì răng sẽ sạch và chắc. Thường thì Thiện Tố ít khi về nhà ăn cơm trưa. Hôm nay vợ ở nhà nên trưa chàng về. Và những ngày cuối tuần thì bà Tư Hiền nấu nhiều món ăn mà con và dâu ưa thích.
Hôm đó trời nắng đẹp, Kiều Lan rủ Kiều Liên đến nhà cô bạn Ngọc Huệ ưa ăn quà vặt chơi. Ai dè Hồng Ánh cũng có mặt, cô đến thâu tiền hụi và mua mẻ thuốc tễ do ba của Ngọc Huệ nhận làm. Ngọc Huệ và Hồng Ánh thân thiết nhau vì cả hai có tánh vui vẻ bải buôi với mọi người. Và dù khác tánh với hai cô Kiều, nhưng thỉnh thoảng Ngọc Huệ vẫn gặp gỡ họ vì cả 3 có chung tật ăn quà vặt. Ngọc Huệ đãi cả ba món ốc len xào dừa rắc rau răm, và món cá cơm trộn bột chiên giòn ăn cặp với lá cách non, đọt điều, lá lụa gói cùng rau sống, giá, dưa leo xắt mỏng chấm nước mắm tỏi ớt. Bốn người vừa ăn vừa nói chuyện vui vẻ. Bỗng hai cô Kiều xoay qua nói xấu bà Tư Hiền và Cẩm Hương. Kiều Lan chì chiết:
– Cái con Cẩm Hương làm biếng nhớt thây, biến má chồng nó thành mụ đầy tớ không công.
Kiều Liên chót chét:
– Thằng Thiện Tố thỉnh cô ả ở Lái Thiêu về thờ phụng, còn bắt mẹ mình phục dịch cô ả nữa. Thiệt là cái thứ bất hiếu, vô nghì không ra gì mà!
Kiều Lan cười gằn:
– Tao phải mua thùng bằng gỗ thông, để thằng Thiện Tố lấy ván đóng một cái trang thờ vợ.
Kiều Lan phụ họa:
– Còn tui sẽ mua một mớ đèn cầy, và mấy ốp nhang để má con dì Tư Hiền ngày đêm đốt đèn thắp nhang cúc cung lạy cô ả đó.
Ngọc Huệ lắc đầu, cô cười hì hì:
– Cô giáo còn sống chớ có chết đâu mà hai chị bắt mẹ con bác Tư Hiền thờ phụng theo kiểu đó? Thờ sống, tế sống ai đó, mình chỉ cần mua hoa quả, bánh trái cho ai đó ăn là được rồi.
Hồng Ánh cười chúm chím, giả bộ ngây thơ:
– Mua ốc len xào dừa được không? Làm món cá cơm chiên giòn cũng được chớ? Theo em biết dì Tư cưng dâu, thấy dâu dạy học lao tâm tổn trí, nên dỉ lo thức ăn, miếng uống tươm tất cho dâu vậy thôi. Em thấy chị Cẩm Hương đi đâu về cũng mua trà ngon, bánh quý, lụa đẹp, lãnh tốt… cho bà mẹ chồng không ngớt.
Hai bà chị chồng trề môi, liếc xéo con em dâu rồi lầm bầm không ai nghe. Trong khi đó, Ngọc Huệ cười cười nói nước đôi:
– Anh Thiện Tố có vợ vừa đẹp vừa học giỏi, lại biết điều, ảnh phải cưng vợ chớ. Cô giáo Cẩm Hương nầy chắc kiếp trước có tu, nên được mẹ chồng, chồng yêu thương chiều chuộng. Tôi thật sự ước ao được như cô vậy. Nghe nói chồng sắp cưới của tôi đường đường là một đâng anh hào, khạc ra lửa, mữa ra khói, ói ra mây. Ôi, không biết ảnh có cưng con vợ ăn hàng xàm xạp nầy không? Còn bà mẹ chồng tương lai của tui buồn vui bất thường, lươn không ra lươn, lịch không ra lịch, nửa vịt nửa gà, nửa cà nửa mướp. Tui biết chiều bả cách nào cho bả khỏi phật ý đây?
Cả bốn nàng cùng cười ha hả. Kẻ cuốn, người nhai, ăn uống ngon lành. Kiều Lan nguýt dài:
– Thôi đi con quỉ cái! Đừng có làm bộ, ai mà không biết cái thằng Thông mê man tàng tịch mầy. Sau nầy mầy mặc sức cai trị chồng.
Kiều Liên ngắm nghía Ngọc Huệ một hồi:
– Con nầy không có tướng ăn hiếp chồng. Nó chỉ có tướng nhõng nhẽo với chồng, õng à õng ẹo với chồng.
Hồng Ánh cười ngất, hỏi:
– Chị nghĩ sao hả chị Huệ? Chị Hai chị Ba em có nói oan không chị?
Ngọc Huệ trả đũa:
– Hình như hai chị Kiều nói về ai đó chớ tui đâu có như vậy. Hồi yêu anh Thông đến bây giờ, tui chưa nghĩ tới việc cai trị, việc hiếp đáp, luôn việc nhõng nhõng nhõng nhẽo, õng ẹo với chồng. Nhờ hai chị nói ra, tui quyết phải làm đúng những gì hai chị đề án tử cho tui. Tui phải tôn hai chị làm thầy mới được. 
Cẩm Hương mấy hôm rày nóng lạnh bất thường, không muốn ăn uống chi cả, nhưng nàng vẫn đi dạy như thường. Chồng đi làm về mỏi mệt nên cũng không để ý sức khỏe vợ ra sao. Nhưng bà Tư thấy con dâu thất thường, mặt mày buồn bã, ăn uống ít hơn và không ngon miệng như mọi ngày. Bà sợ dâu bịnh nên hỏi:
– Trong người con không khỏe hả? Hãy đi với má qua bên ông thầy Chín Tự coi mạch hốt thuốc đi con. Bịnh ít phải chữa cho nó hết, đừng để dần dà bịnh nhiều không nên.
Trấn an mẹ chồng, Cẩm Hương nói:
– Con uống thuốc chận cảm rồi, ít bữa sẽ hết. Má đừng lo, vài ngày nữa nếu bịnh chưa hết thì con sẽ đi coi thầy thuốc.
Bà Tư nói xuôi:
– Ờ, vậy cũng được, thôi để má đi nấu cho con chén cháo. Vừa mới uống thuốc mà con để bụng đói sẽ không tốt đâu.
Bà Tư nói rồi lật đật đi xuống bếp, bắt con cá lóc rộng trong hũ đường ra, đập đầu đánh vảy, chặt vi, chặt kỳ… cạo rửa sạch sẽ cắt khúc nấu tô cháo cá thương hàn cho con dâu giải cảm. Tô cháo cá rỉa thịt bỏ xương, bà Tư còn để vào tô cháo tròng hột gà so thì cách giải cảm mới công hiệu. Chén cháo còn nghi ngút khói tỏa nồng nàn mùi hành, mùi ngò rí xắt nhuyễn, mùi tiêu hột cà. Cẩm Hương đang nằm trùm mền trong phòng, bà Tư bắt dâu phải ngồi dậy ăn liền cháo lúc còn nóng cho xuất mồ hôi thì bịnh cảm mới mau hết. Mặt Cẩm Hương tái ngắt. Nàng không muốn ăn, nhưng thấy mẹ chồng cực nhọc nên ngồi dậy, lấy muỗng quậy đều tô cháo múc một muỗng húp. Cháo vừa đến cổ họng thì nàng ụa ra và ói linh láng, ói cả mật vàng đến mật xanh. Bà Tư hoảng hồn, một mặt nhờ người gọi Thiện Tố về để đưa vợ đi thầy thuốc Chín Tự, một mặt lo quét, hốt, chùi lau sạch. Bà còn kỹ lưỡng hốt tro bếp đổ lên chỗ con dâu ói cho bán mùi tanh tưởi đi.
…Bà Tư Hiền dựng cây chổi đang quét lá khô tắp vào sân nhà, bên cái cối xay bột, lật đật đi nhanh ra cửa, vì thấy bóng dáng con trai và con dâu bà về tới. Bởi bà nóng ruột không biết Cẩm Hương đau bịnh gì mà ói thốc ói tháo như vậy? Bà Tư ngạc nhiên! Vợ đau bịnh mà cái thằng tửng nầy có cử chỉ chẫm rãi, nhàn hạ như đang đi dạo, miệng còn tủm tỉm cười nữa? Còn con vợ nó thì gương mặt mệt mỏi nhưng không giấu được sự bẽn lẽn, và niềm vui đi cạnh chồng như không có chuyện gì xảy ra. Bà hơi bực mình, nhưng vồn vã hỏi con dâu:
– Sao con? Bịnh gì, có nặng lắm không? Con thấy trong mình thế nào?
Thiện Tố nhìn mẹ cười tươi:
– Vợ con có bịnh hoạn gì đâu má!
Bà Tư Hiền nổi nóng, mắng con:
– Thằng điên, cứ hay nói chơi tầm xàm bá láp. Không bịnh sao mà nó ói mữa linh láng vậy? Sao Cẩm Hương, con thấy trong người có mệt mỏi lắm không? Mặt mày con mét chằng mét ưởng hà… như vậy mà không bịnh sao được?
Thiện Tố nhìn mẹ thương cảm, làm bộ mặt buồn buồn, thở dài nói:
– Má chỉ biết rầy con trai mình và lo binh cho dâu! Thôi rồi, từ rày chắc má còn binh Cẩm Hương nhức nhối dài dài…
Bà Tư chưng hửng không biết thằng con muốn giở trò gì? Trong khi đó dâu bà chẳng nói chẳng rằng đi tuốt vào nhà. Thiện Tố vung tay làm cử chỉ thỏa mãn, cười dòn dã, thân mật ôm vai mẹ nói:
– Mùa hè năm tới má sẽ có cháu bồng rồi. Cẩm Hương đã có thai. Vợ con đã có bầu rồi má à…
Niềm ước mong, nỗi đợi chờ bấy lâu nay đã thật sự đến. Bà không sao kềm được dòng lệ vui mừng chảy dài trên đôi gò má nhăn nheo. Thiện Tố cũng sung sướng, rớm nước mắt. Sau màn cửa sổ trong nhà nhìn ra, Cẩm Hương cũng không ngăn được dòng lệ cảm động.
Bữa cơm chiều hôm đó, bà Tư Hiền nấu cải bẹ xanh với nấm rơm. Nấm mối phơi khô kho tiêu với nước tương rắc tiêu cho dâu ăn khỏi tanh miệng. Quả nhiên, Cẩm Hương ăn được 2 chén cơm nhỏ. Ăn xong, nàng ra cây ổi, hái mớ trái chua vào chấm muối ớt ăn lìm lịm, ăn một cách hí hởn thống khoái.
Riêng hai mẹ con Thiện Tố thì ăn cơm với canh chua và tép cháy mặn, khổ qua xắt mỏng xào xúc hột vịt. Vốn con dâu đang tanh cơm tanh cá, vốn tế nhị, bà không dám dọn mâm nhan nhản ở bàn ăn trước mặt nàng. Bà đặt mâm cơm ở chiếc vạt tre dưới nhà bếp sát tấm vách ngăn phòng ăn và nhà bếp, cốt tránh cho dâu bợn dạ.
Khi tới bàn ăn rót nước uống, Cẩm Hương thỏ thẻ với mẹ chồng:
– Má kỹ quá. Bận sau con sẽ đem bình trà vào phòng ngủ, má cứ dọn ăn ở bàn trong phòng ăn.
Bà Tư sực nhớ:
– À, má có nấu nước trà tươi có để gừng như nước chè xanh của người Huế. Con nên uống nhiều cho ấm bụng.
Cẩm Hương cảm động, nghĩ thầm: “Mẹ mình thương yêu chăm sóc cỡ nầy là cùng!” Nàng rưng rưng nước mắt, khi trở về phòng ngủ.
Vạt nắng chói chang trải lên vạn vật hòa với tiếng chim trao trảo, chim sẻ kêu gọi đàn tíu tít, véo von, tiếng gió thổi rung cành lá cây bưởi thanh trà tạo ra âm nhạc rạt rào êm tai như thì thầm nhắn nhủ rằng Thượng Đế đã đem cho nguồn hạnh phúc ươm mầm vào ngôi nhà bé nhỏ nơi góc trời thôn dã nầy.
Sáng hôm sau, vợ chồng Thiện Cảm đi đâu về ghé thăm. Thiện Tố và Cẩm Hương mừng rỡ mời vợ chồng cậu út của ông Hai Cung ngồi ghế trường kỷ. Bà Tư Hiền châm bình trà, xẻ mấy trái vú sữa mỡ gà, trái đu đủ xiêm ruột ửng tím bày ra dĩa ân cần mời khách.
Thiện Cảm gật gù khen:
– Toa trang hoàng nhà cửa trông trang nhã bởi những màu sắc tươi dịu đi với nhau, không làm cho người ta chói mắt. Thật là một chốn thư trang thi vị.
Thiện Tố nghĩ hắn đã bị ý tưởng trong tiểu thuyết hành rồi. Chàng cười bảo:
– Không phải mình moa đâu, mà phần lớn là do bà xã góp ý.
Thiện Cảm như nhớ ra, vội nói:
– Toa ơi, nhà xuất bản Việt Xuân đề nghị xuất bản quyển tiểu thuyết “Trái Tim Sôi Nổi “ của moa vừa đăng xong trên nhựt báo Ban Mai.
Thiện Tố hớn hở:
– Mừng cho toa. Tâm của toa lành, tánh toa hiền nên văn chương của toa dễ thương. Độc giả hoan nghinh lắm đó.
Hồng Ánh có vẻ hài lòng, bảo bà Tư Hiền:
– Từ khi chồng của con viết văn, ảnh bớt đi ta bà thế giới. Ảnh viết ẩu trên giấy nháp, rồi quăng vào hộc tủ. Con phải sắp xếp từng trang rồi chép lại cẩn thận trước khi gởi giao cho báo đăng.
Cẩm Hương thầm khen Thiện Cảm. Văn chương làm cho cậu ta tái sanh qua cuộc sống lành mạnh, có ý nghĩa. Cậu càng thương yêu vợ hơn vì Hồng Ánh dễ cảm ứng với văn chương của chồng. Cô ta cùng chồng bàn bạc sắp xếp từng tình tiết, từng diễn biến trong mỗi cuốn tiểu thuyết. Cô càng ngày càng đẹp thêm ra: mắt sáng ướt, da mặt tươi hồng, môi thắm, vóc mình đầy đặn hơn. Còn Thiện Tố tìm gặp ở vợ mình cùng một tâm hồn đẹp, một sự tận tụy hiếm có đối với mình. Chàng nghĩ rằng “Đồng vợ, đồng chồng, tát Biển Đông cũng cạn”. Rồi đây chàng sẽ thành công.
Thiện Cảm đề tặng vợ chồng Thiện Tố tập thơ “Một Góc Trời Quê”, tác phẩm đầu tay của mình, Cẩm Hương sắp vào chiếc giỏ mây hai nải chuối lá chín cây, mấy cái bánh ích, xâu khô cá sặc chừng nủa ký, hai phong bánh in làm quà tặng ông bà Hai Cung nhờ Ánh Hồng đem về dùm.
Khi đưa vợ chồng Thiện Cảm ra ngõ, Cẩm Hương báo tin mình cấn thai cho Hồng Ánh rõ. Cô ta nắm tay nàng:
– Em mừng cho chị. Tháng rồi em cũng bị mất kinh. Để mai em đi nhờ thầy Chín Tự chẩn mạch coi em có động tịnh gì chưa? Ông bà già và anh Thiện Cảm muốn em có thêm vài đứa nữa. 
Tin Cẩm Hương có thai loan nhanh trong hai gia đình, gia đình Thiện Tố và gia đình bên cha mẹ vợ của chàng. Nghe con gái có bầu, ông bà Tân gác lại mọi việc nhà xuống thăm con. Bà mang cho bà sui cho rể, cho con gái mình, lỉnh kỉnh các thứ, nhứt là dâu Lái Thiêu sai trái ngon ngọt nổi tiếng khắp đó đây. Bà còn vô dâu đầy đặn một cần xé lỡ để chia tặng cho gia đình má lớn của con rể bà. Xuống thăm con đôi ngày, bà Ký Tân nhận thấy bà sui gia thương yêu săn sóc cho Cẩm Hương chu đáo thì trong bụng mừng thầm. Chớ trước khi xuống thăm con, bà đã bàn với chồng:
– Ông à, khi con gần ngày sanh tôi sẽ rước về. Khi nó sanh xong nuôi cho nó cứng cáp ra ngoài tháng tôi sẽ đưa trở xuống. Ông nghĩ có được không?
Mọi việc lớn nhỏ trong gia đình, ông Tân quen để cho vợ sắp xếp. Vì bất cứ việc gì giao cho bà ông rất an tâm. Bà luôn suy tính cẩn thận, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi làm, nên ít khi sơ suất. Ông bảo:
– Thì làm theo ý bà đi. Như thế thì tốt lắm. Bởi dâu nào cũng vậy, dù mẹ chồng dễ tới đâu nó cũng đâu dám nhờ, dám mượn hoài. Chỉ có mẹ ruột nó mới dám cằn nhằn và nhờ giúp đỡ cho nó mà thôi…
Bà Ký Tân nghĩ là ông chồng mình nhận xét đúng quá. Rồi bà cười một mình và thầm nghĩ: “Trên đời nầy có người mẹ nào không thương con gái hơn con dâu? Nhưng đó là việc thường tình, đâu có gì đáng chê trách, phải không? Hãy bình tâm mà nghĩ xem, con gái mình sanh ra bằng cườm tay, nuôi lớn nên vóc, cho nên ngoài máu mủ ruột rà, mình nẩy sanh lòng thương yêu chiều chuộng. Mọi thứ, từ thói quen đến tánh tình đều na ná giống thói ăn nết ở của cha mẹ, hoặc của anh chị em trong nhà. Làm sao mình không gắn bó thiết tha với con được? Còn con dâu, đứa con gái lạ đem về nhà làm người thân. Trước hết cô dâu đã chia bớt phần thương yêu của con trai mình với gia đình rồi, chưa nói đến mọi thứ khác biệt khác… Đầu hôm sớm mai bảo mẹ chồng thương dâu, làm sao mà thương cho vô đây? Dù cho người mẹ chồng dễ dãi đến đâu cũng không thể có ngay tình thương đối với nàng dâu như đối với con gái ruột của mình được. Cho nên mẹ chồng và con dâu mỗi người phải tế nhị, mỗi người phải nhường nhịn, dung hòa… Dần dà, sau năm tháng chia ngọt sớt bùi, chung lưng đấu cật với nghịch cảnh tai ương, mối thiện cảm nhen nhúm trong lòng đôi bên. Rồi dâu sanh con đẻ cái, rồi chiếm được lòng yêu thương của cha mẹ chồng, của dòng họ bên chồng cũng không khó khăn gì”
Nhưng riêng bà Tân luôn nhủ với lòng: “Mình có 2 thằng con trai, trong tương lai sẽ có hai nàng dâu. Con gái thì phải để cho ăn cơm nguội ngủ nhà ngoài, vì hễ có chồng rồi thì nó sẽ nối tông đường cho họ nhà chồng. Nữ sanh ngoại tộc mà, chỉ có dâu mới là người sanh con đẻ cái nối dòng nối dõi cho họ nhà mình thì mình phải thương yêu chiều chuộng dâu nhiều mới phải chớ. Mình có vị tha thương mến dâu như con gái của mình thì nó mới thương lại mình như thương má ruột của nó. Và phải hiểu rằng, có người đàn bà nào không thương lo cho bên mình nặng hơn bên chồng bao giờ đâu? Đó là chuyện thường tình, mình phải hiểu và bỏ qua mọi thứ hiểu lầm và mọi gay cấn. Mình không nên ganh tị, hiềm khích với dâu và bươi móc những chuyện nhỏ làm hóa ra to. Như vậy sẽ làm mất đi hòa khí mẹ chồng nàng dâu..”
Từ ngàn xưa cho đến nay, chuyện mẹ chồng nàng dâu hục hặc hoài hoài, nó xưa như trái đất không bao giờ dứt trong đa số đại gia đình. Bà Tân cũng đã tính, hai thằng con mình đi làm xa, bà cho vợ theo chồng, nên dù bà gặp phải con dâu ngỗ nghịch cũng không sao. Lâu lâu chúng mới về thăm ông bà một lần vài ba hôm, thì sẽ tránh được nhiều sự việc phiền phức.
Bà Tân sợ con gái mình trong lúc sanh đẻ yếu đuối mà không được chăm sóc kỹ thì về sau dễ bị bịnh bậy lắm… Vợ chồng bà Ký Tân xuống thăm con hai ngày thì về. Thấy con mệt nhọc lúc bị thai hành lòng mẹ quặn đau. Bà nhớ lại câu nói của mẹ mình ngày xưa:
– Về làm dâu người ta con phải nhường nhịn từ cha mẹ chồng cho đến anh chị em chồng và dòng họ bên chồng…Làm dâu khổ lắm ai ơi/ Vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám than… Lúc sống với cha mẹ, làm gì sai bị rầy la thì con cùn quằn. Khi làm dâu người ta, đến lúc mang nặng đẻ đau, con mới thấu hiểu và thương cho nỗi lòng của mẹ.
Chuyến đi thăm con trở về, bà Tân hết sức vui mừng, vì biết con mình được mẹ chồng thương yêu, chăm sóc hết sức kỹ lưỡng, chu đáo. Bà thầm cảm ơn Bề Trên đã ứng nghiệm lời cầu xin của bà trước ngày con gái thành hôn. Bà bỏ ý định rước con gái về nuôi khi nó sanh đẻ. Tuy nhiên, bà hứa với Cẩm Hương khi nàng sanh xong, bà sẽ rước một cô tớ gái cho nàng sai vặt, để khỏi làm bận bà Tư Hiền. 
Ông Hai Cung hay tin con dâu Cẩm Hương có thai thì vui mừng lắm, nhưng ông không để lộ ra mặt, ngại vợ lớn và và hai cô Kiều châm chích như mấy chục năm nay, kể từ khi ông có thêm bà vợ lẻ Tư Hiền. Bởi ông nghĩ rằng lỗi đó một phần cũng do ông tạo ra, nên ông nhường nhịn một chút cũng không mất mát gì “Gia đạo thuận hòa vạn sự hưng” mà. Riết rồi trở thành thói quen. Nhưng lấy công tâm mà nói, 3 đứa con bà vợ lớn cùng ông là Kiều Lan, Kiều Liên, Thiện Cảm, cả 3 đứa nầy, gom lại không sao bằng một Thiện Tố con ông với bà vợ nhỏ về mọi mặt. Từ hiếu hạnh, chữ nghĩa, khôn ngoan đến việc cư xử với người thân trong nhà cũng như ngoài xã hội… Và ông cũng nghiệm thấy rằng, khi ông già yếu bịnh hoạn, ốm đau nằm một chỗ, thì chỉ có má con Thiện Tố lo cho ông mà thôi. Còn vợ lớn chỉ vo vành, lánh nặng tìm nhẹ, hai đứa con gái của ông chẳng ra tích sự gì cả, lúc nào lúc nào chúng cũng muốn moi tiền của ông và chỉ biết đua đòi, xảnh xẹ…Thiện Cảm lóng nầy coi bộ có nhiều sự thay đổi tốt đẹp, nhưng biết có bền chí không? Còn bà má lớn của Thiện Tố luôn tranh giành với má con chàng mấy chục năm rồi, chắc cũng đã mỏi mệt, hay bà đổi tánh chết? Mà khi hay tin Cẩm Hương mang bầu bà không còn châm chích, nói móc, nói ngoéo, dèm pha...như trước nữa.
Vợ của Thiện Cảm đến thăm, đem cho Cẩm Hương 1 ký sườn non và mớ ổi chua. Nàng chân thật, nói cười cởi mở, vui vẻ:
– Chị Thiện Tố đừng có để ý những lời chị Kiều Lan và Kiều Liên. Chị cứ coi lời họ nói như nước đổ đầu vịt thì dễ chịu lắm. Nhớ hồi em và anh Thiện Cảm mới quen, hai mụ ấy cũng đỏng đảnh lắm. Hai mụ nói gia đình họ giàu, nên ba má em xúi em “chài” anh Thiện Cảm. Vì tự ái, ba má em đập cho em một trận, cấm hai đứa tụi em không được qua lại nữa. Ổng bả nói: “Ba má thà gả con cho chó cho dê chớ không gả con cho cái thằng Thiện Cảm”. Rồi ba má gởi em lên nhà dì dượng buôn bán ở Chợ Lớn, không cho em về Cai Lậy nữa để cắt đứt liên lạc của chúng em. Em lên đó đâu chừng 6, 7 ngày thì anh Thiện Cảm lò mò tìm đến. Em dứt khoát không tiếp chuyện, và nói với ảnh phải xin lỗi ba má em về lời nói vô duyên của hai bà chị mình, và ba má ảnh phải nhờ người mai mối xin cưới em đầy đủ tam lễ, lục lễ thì em mới chịu.
Nói đến đây, Hồng Ánh cười bẽn lẽn, mắt mơ màng, tiếp:
– Ảnh về làm áp lực với gia đình. Ba má em rước em về để cho họ làm đám hỏi và sau đó chúng em được làm đám cưới. Hai bà chị chồng tức sùi bọt mép, nhưng không làm gì được. Bởi anh Thiện Cảm nói với hai bả: “Con gái ăn cơm nguội ngủ nhà ngoài. Đã có chồng rồi, thì không quyền gì trong gia đình nữa. Phải biết thân mà đừng có lắm lời. Nếu về chơi mà vui vẻ thì về, còn về mà gây nhiều chuyện quá thì nhà ai nấy ở”. Ảnh còn dặn em, hai bả nói gì thì nói, đừng thèm nghe, đừng thèm trả lời để ảnh xử sự. Nhưng bây giờ thì hết rồi, hai chị ấy không còn khó chịu với em nữa. Hôm biết chuyện hai bả quậy anh chị, Thiện Cảm cười nói “Lâu ngày không có đối tượng để hai bả xổ bình dầu… Lại còn được thêm bà già giựt dây nữa! Phen nầy thật tội nghiệp cho anh Thiện Tố..”
Bà Hai Cung sai con Hiền Từ xách qua con cá lóc mập tròn nặng cả ký cho Cẩm Hương, và mớ trái cốc bà để dành chín trên cây mới hái, như vậy cốc sẽ dòn, và ngọt. Bà Tư Hiền vui vẻ, mừng rỡ, cảm động biết ơn vợ lớn của chồng thương con dâu của bà. Với tấm lòng thật thà, chân chất và an phận, bà Tư Hiền cư xử rất rộng rãi thủy chung. Khi ai cho bà cái gì bằng một lóng tay, thì bà đáp lại bằng cái rổ. Và bà cũng mau quên hết những lỗi lầm của người trước kia đã cố tình gây hại bà.
Bà Tư Hiền mỉm cười nghĩ ngợi: “Thật là hiếm có, vì trong suốt từ ngày làm vợ bé ông Hai Cung, chẳng khác gì làm dâu bà vợ lớn ông cho đến bây giờ, chưa lần nào mẹ con bà được vợ lớn ông đối xử tử tế như vậy”. Bà Tư Hiền vui mừng ra mặt, nghĩ rằng má lớn của Thiện Tố bây giờ đã hiểu mà thương mến mẹ con bà. Vậy là bà đã thỏa mãn lắm rồi. Bà không phải là mong bà lớn thương tình để sau nầy chia thêm cho mẹ con bà mấy mẫu ruộng, hay mấy chục công vườn…
Cẩm Hương sống hạnh phúc bên chồng và mẹ chồng trong căn nhà nhỏ đầy thương yêu đùm bọc để chờ đứa con đầu lòng ra đời, cùng với sự mong chờ của họ hàng hai bên.
Cẩm Hương hạ sanh được công chúa đầu lòng tên là Trần Đặng Tố Tâm. Ánh Nguyệt cùng các cô trong nhóm “Lục Nữ La Sát” đến thăm, đem rượu hiệu con Mèo, bánh bích-quy hiệu Lu, trái vải hộp, nho khô, nho tươi cho sản phụ tẩm bổ. Và còn rượu chổi, dầu măng (menthe), áo quần, nón vớ bằng len dành cho hài nhi. Ánh Nguyệt nói:
– Khi anh Thiện Tố ra nhà làng để khai sanh cho cháu, anh nên để ý coi ông Chánh lục bộ viết tên trong khai sanh có đúng không. Có chuyện cười ra nước mắt. số là như vầy: Có anh chàng dân Tây, khi làm khai sanh cho con trai tên là Pascal, ông Chánh lục bộ viết là Bánh Canh!
Mọi người cười ồ lên. Nguyệt Mi tiếp lời:
– Có anh chàng lai Ăng-Lê, đặt tên cho con gái là Đỗ Thị Helen, ông Chánh lục bộ viết là Đỗ Thị Heo Lang.
Ái Mỹ liếc ngược, mắng:
– Cái tên của người ta nghe đẹp, và ngọt ngào như vậy mà lọt vô miệng mấy con lành con lủng nầy đều… trở thành tiếu lâm ráo trọi!
Thụy Châu cười liếc Thục An:
– Thục An, họ của thằng chồng Chà Và mầy là gì nhỉ? À, tao nhớ ra rồi Kapoor. Phải Kapoor, đố khỏi mấy con nầy gọi nó là Rác Cả Bó (Jack Kapoor) đó.
Hai cô Kiều của Tố Tâm cũng phải tỏ ra nặng tình máu mủ ruột rà. Kiều Lan mua bộ nón vớ áo choàng bằng len mềm màu hồng được đựng trong hộp nhập cảng từ Thượng Hải đến tặng cháu. Kiều Liên mua cho cái áo đầm màu vàng có thêu những nụ hồng rải rác trên nền hàng mỏng như ba-tít kèm theo nón và giầy để mừng cháu. Họ còn mua thịt nạc và gan heo cho em dâu tẩm bổ khi Cẩm Hương vừa mới sanh còn non ngày non tháng.
Bà Tư Hiền vui vẻ nấu nước pha trà đãi hai cô con gái của chồng. Cẩm Hương ngồi dậy, vén lại mái tóc cho gọn rồi bước ra phòng khách giả lả chào hỏi hai bà chị chồng mà nàng không chút thiện cảm. Tiếp chuyện với hai chị, nàng hết sức dè dặt và luôn ở tư thế ứng phó, vì không ai có thể đoán trước tánh lạ đời của hai bà chị nầy. Hai nàng Kiều hôm nay giả giọng làm vui, và cố tình ngây thơ vô số tội, ra vẻ như không có những lần bày chuyện để phá đám cặp vợ chồng nàng xấc bấc xang bang trước khi cả hai thành hôn.
Thật sự, đến thăm em dâu, nhưng trong lòng hai cô thật sự ứa gan, cặp mắt cứ đảo ngược liếc xuôi khắp nơi, tìm kiếm những sơ hở chung quanh, trong, ngoài nhà… để sau nầy có dịp họ sẽ đem ra soi bói nhạo báng… Bởi trong nhà nầy, người, vật, bất cứ thứ gì, nhứt là bà dì ghẻ và đứa em dâu là cái gai nhọn trong mắt họ. Nhưng hai nàng Kiều cũng bắt đầu nghĩ ngợi, nên không dám hó hé hay động tịnh gì cả, vì họ còn canh cánh lo lắng trước những lời nhắc nhở và cảnh cáo khéo của mẹ mình:
– Tụi bây hãy bỏ cái tánh ganh tỵ, bươi móc đi. Bởi hai đứa bây chỉ giỏi tài chót chét, có gian mà không có ngoan. Cái khôn ngoan của hai chị em bây nhập lại còn thua xa vợ thằng Thiện Tố… Đừng giở thói xí xọn nữa mà có ngày phải mang xấu.
Cho nên hai nàng phải đến thăm mẹ con Cẩm Hương mà trong lòng không hứng thú chút nào. 
Sóng gió gì rồi cũng theo thời gian trôi qua. Ai ở không đâu mà lo chuyện tào lao, bao đồng cho mệt! Năm đó, bé Tố Tâm được 8 tháng thì được vợ chồng Thiện Tố ẵm con về nhà cha mẹ để dự lễ cưới của đứa em út Thành với Nguyệt Cúc. Và sau 3 tuần đám cưới, vợ chồng họ sẽ bay sang Pháp du học. Ba má Cẩm Hương có buồn vì phải xa con nhưng ông bà rất hài lòng và hãnh diện.
Tiện dịp trong chuyến nầy, vợ chồng Thiện Tố đành một ngày ẵm con đi dạo phố Sài Gòn cho đã. Bởi từ ngày thành hôn đến giờ họ chưa có dịp đi viếng Hòn Ngọc Viễn Đông chung với nhau. Vả lại nàng cũng tò mò xem Sài Gòn mấy năm gần đây thay đổi như thế nào? Và tiện dịp ghé qua các thương xá Charner xài tiền, mua sắm cho mẹ chồng, cho chồng, cho nàng, cho con gái những món đồ nhập cảng, như là áo quần may sẵn, vải vóc, tơ lụa, xách tay, xà bông, dầu thơm…
Sài Gòn bây giờ thật không hổ danh là Hòn Ngọc Viễn Đông! Các nhà lầu, cao ốc mọc lên như nấm, dọc theo đường Đại lộ Norodom (về sau đổi tên là Đại Lộ Thống Nhứt), và dọc theo Đại Lộ Galiéni (về sau đổi tên là Trần Hưng Đạo). Những nhà lầu mới tu sửa, xây cất cao chót vót nhìn mỏi cả mắt. Các nhà băng tư nhân rải rác ở đâu cũng có, như Chợ Lớn, Bà Chiểu, Gia Định… Quanh các khu Chợ Lớn, nhứt là chợ Bến Thành việc buôn bán thật là sầm uất. Trên các đường phố, ngựa xe như nước, áo quần như nêm làm cảnh đô thị ồn ào náo nhiệt.
Ẵm con đi vòng vo tam quốc, vào đến khu nhà hàng Charner, tay vợ chồng Thiện Tố đã mỏi nhừ, mặc dù con bé ốm ròm, nhẹ hều.. Còn đứng ngoài cửa, vợ chồng Thiện Tố lấy khăn lau mồ hôi trán, và lấy nón trên đầu con xuống cho mát. Con bé thấy ông đi qua bà đi lại, đông người, lạ mắt, tay quơ, chân đạp miệng o e cười tích toác trông hết sức dễ thương. Từ khi có đứa con gái nầy đến giờ Cẩm Hương thật là bận rộn. Ít khi nàng về thăm cha mẹ ở Lái Thiêu. Thư từ cho bọn “Lục Nữ La Sát” cũng thưa thớt đi.
Hai vợ chồng lần bước theo đường Bonard (về sau đổi là Lê Lợi), tới nhà thương Chú Hỏa (về sau được gọi là bệnh viện Đô Thành) thì gặp vợ chồng Thụy Châu. Anh chồng ngoài 40 tuổi, ăn mặc chải chuốc, tóc dợn sóng trước trán, ria mép tỉa mỏng. Anh ta mặc com-lê màu xanh đậm, thắt cà-vạt màu thiên thanh, có sọc xéo vàng pha bạc, đi giày Tây đen đánh bóng như nền gỗ của tranh sơn mài. Trông anh ta bảnh bao, sáng sủa, tươi mát, thảnh thơi, mắt ngời hạnh phúc. Thụy Châu mặc áo dài gấm Thượng Hải màu gạch cua có in hoa đỏ, hoa tím, lá xanh. Vợ chồng thong dong nắm tay đứa con trai nhỏ, mặc bộ đồ lính thủy ngắn tay, cổ áo viền xanh.
Hai bên gặp nhau thật bất ngờ. Họ mừng rỡ chào hỏi. Sau đó, chồng Thụy Châu rủ vợ chồng Thiện Tố đi Chợ Cũ ăn cơm Chà Và với món cà ri vịt cay xé. Thiện Tố tỏ ra tương đắc với chồng Thụy Châu. Cả hai bàn tán về cuộc Đệ Nhị Thế Chiến Âu Châu, cuộc xâm lăng của Đế Quốc Nhật Bổn trên đất nước Triều Tiên, trên đất nước Trung Hoa… Còn hai nàng gặp nhau như chim chích chòe kể lể chuyện nầy, chuyện kia, rồi khoe nhau những món quà vừa mua cho chồng, cho con…
Trên chuyến xe trở về Cai Lậy, Cẩm Hương nói cho chồng nghe về những bạn bè của mình, vừa được Thụy Châu kể lúc gặp nhau hôm qua ở Sài Gòn. Nàng nói:
– Thật là lạ! Anh xem chúng em có duyên quá đi, không hẹn mà gặp thật là vui. Thụy Châu cho em biết vợ chồng của Thục An đang có tiệm buôn bán của ông già chồng cho ở đường Thủy Binh (về sau đổi là đường Đồng Khánh) trong Chợ Lớn, con nhỏ có bầu được mấy tháng rồi. Lần sau về thăm nhà mình ghé thăm vợ chồng nó nghen anh. Không biết bây giờ trong những buổi họp mặt có ai còn nghe được giọng hợp ca bay cao ngút trời xanh của bọn nó không? Còn Nguyệt Mi thì sắp sanh. Ái Mỹ theo chồng ra miền Trung, hai đứa con gái song sanh của nó nay đã biết lật rồi.
Thiện Tố bảo vợ:
– Sao em và các bạn không giữ những ngày họp mặt hàng năm? Như vậy các bạn thân trong nhóm gặp lại nhau hàn huyên tâm sự…
Cẩm Hương cười:
– Em là người đầu tiên đề nghị với bọn chúng bỏ họp đó chớ. Bây giờ đứa nào cũng có gia đình riêng, và cả bọn tứ tán mỗi đứa một nơi, mỗi đứa có một hoàn cảnh khác biệt. Còn bao nhiêu là công việc phải làm nữa. Họp mặt hàng năm như thuở đứa nào cũng còn độc thân thì cũng được. Nhưng bây giờ đến gặp nhau, mà bỏ chồng con ở nhà thì làm sao yên tâm? Đến gặp nhau mà mỗi đứa còn mang theo nỗi lo riêng thì còn vui vẻ gì nữa mà gặp mặt? Chi bằng lâu lâu viết thư thăm hỏi nhau thì được rồi. Như vậy mới thực tế. Bọn em giao cho con nhỏ Ánh Nguyệt làm sợi dây liên lạc, vì dù sao còn độc thân nó có nhiều thì giờ và siêng năng hơn mấy đứa có chồng có con. Em nghỉ, rồi đây sau khi lấy chồng, chắc nó không nhận công việc liên lạc đó nữa. Anh nghĩ có đúng không?
Thiện Tố nheo mắt, cười:
– Em nghĩ thì có bao giờ sai đâu? Nhưng anh thấy tiếc. Nếu đi họp mặt đem chồng và con theo, cho bọn đàn ông các anh có dịp gặp mặt, làm quen.
Cẩm Hương cười buồn:
– Xì, anh nói thì giỏi. Hãy nghĩ thử coi, hàng năm anh có chịu giao công ăn việc làm lại cho người khác đi chơi với bạn quá một tuần không? Chồng của mấy con bạn em chí thú làm ăn. Họ còn chạy chọt cho có chức nầy chức nọ, nếu không trong công sở thì cũng trong làng trong tổng. Chồng con Thụy Châu cũng muốn ứng cử Hội đồng địa hạt rồi đó. Con Ái Mỹ thì òn ỉ với chồng nó ra riêng, nó muốn ở biệt thự tân thời, chớ không muốn ở trong nhà cổ với ba má chồng nó.
Giọng nàng trở nên ngậm ngùi:
– Chị em ruột lớn lên còn chia ngã rẽ, mỗi người một cuộc đời riêng, huống hồ chi là bạn bè! Con Ái Mỹ lại sanh đôi, bận bịu săn sóc con nhỏ cũng đủ khờ khạo, hốc hác rồi.
Cẩm Hương lơ đãng nhìn ra cửa sổ xe. Trời cao vòi vọi, nền trời xanh biếc trải những vầng mây trắng mỏng lác đác. Cánh đồng nầy nối tiếp cánh đồng kia vàng màu lúa chín. Nàng lẩm bẩm: “Có bữa tiệc nào không tàn! Có buổi họp nào không kết thúc”.
Lật bật mà rời nhà cả tuần rồi, chắc mẹ chồng nàng nhớ nhung trông ngóng con, dâu và nhứt là cháu nội. Xe chạy vùn vụt thu ngắn đường về. Tay Cẩm Hương tê cứng, nhưng không dám động đậy sợ làm con thức. Nàng cũng không dám cục cựa vì Thiện Tố ngã đầu trên vai vợ ngủ thở pho pho.
Nghe vợ chồng Thiện Tố đi thăm ông bà nhạc ở xa, và dự đám cưới cậu em út của vợ trở về chiều hôm qua, vợ chồng Thiện Cảm đến nhà chơi khoe với Thiện Tố:
– Toa ơi, moa vừa lập cái ấp mới cho tá điền. Nhà nhà trong ấp đều thoáng khí, mặc dù lá vách bùn trộn với trấu hay rơm, mái lợp lá xé hay lá chằm nhưng cũng che mưa che nắng được mấy mùa. Ở giữa ấp moa cất cái trạm để mỗi tuần có y tá vào phát thuốc cho dân, còn những thứ thuốc thông thường nhức đầu, đau bụng, đứt giò, đứt tay chảy máu thì lúc nào cũng chứa trong thùng để ở nhà ông trưởng ấp. Có lớp Bình dân học vụ nữa. Hôm nào vợ chồng toa có rảnh mời ghé qua, coi có góp thêm ý kiến gì nữa không?
Thiện Cảm đưa cho Cẩm Hương ấn bản quyển tiểu thuyết chàng mới ra. Cẩm Hương ngắm nghía cái bìa màu lam có tranh vẽ cảnh thôn quê dưới vầng thái dương chói rạng, bảo:
– Cái tựa sách “Ánh Sáng Đồng Quê” của tác phẩm, chắc là muốn nói lên ánh sáng văn minh tân tiến rọi đến cảnh đồng ruộng quê mùa chớ gì?
Hồng Ánh hớt chồng, trả lời:
– Chị nói đúng đó. Cái ấp mới của chồng em chắt chiu xây dựng phần lớn là nhờ anh Thiện Tố đỡ đầu từ vật chất đến tinh thần. Hôm nay tụi nầy đến đây ngoài việc tặng sách còn để báo tin ấp đã tạm xong và cảm ơn anh chị.
Cẩm Hương vui vẻ hỏi:
– Thím có thai được mấy tháng rồi?
Hồng Ánh cười:
– Hơn 5 tháng thôi. Khi em sanh xong, nhờ anh chị làm cha mẹ đỡ đầu cho đứa nhỏ.
Cẩm Hương cười tươi, sốt sắng:
– Rất sẵn lòng.
Cẩm Hương nhìn chăm chú Thiện Cảm rồi nhìn chồng. Hai anh em nhà họ có vài nét giống nhau. Thiện Tố cao ráo, văn thái, tao nhã, khỏe mạnh, hùng tráng bao nhiêu thì Thiện Cảm có vẻ mảnh khảnh, văn thái tinh hoa, tao nhã bấy nhiêu. Từ khi thành công trên con đường văn nghiệp, Thiện Cảm chững chạc hơn, không còn đía dóc, ba hoa nữa. Chàng trầm mặc hơn, ăn nói chậm rãi, dè dặt hon. Nàng tự hào là vợ chồng nàng biết khơi dậy một thiên thần trong một con người hư hỏng.
Nàng nhìn qua Hồng Ánh. Cô ta biết ăn diện chải chuốt để làm đẹp lòng chồng. Nhưng cô vẫn hồn nhiên giản dị, không kiểu cách điệu đà, không đánh lưỡi sửa giọng khi nói chuyện. Cô hồn nhiên, hịch hạc, cười nói véo von, pha trò duyên dáng, và có chừng mực.
Khi khách ra về, Cẩm Hương làm mặt lạnh với chồng, liếc xéo chàng rồi nghiêng bình tích rót trà ra uống. Thiện Tố áy náy nhìn vợ cười cầu tài, rồi ôm choàng lấy vai nàng. Nàng lách ra khỏi vòng tay chồng, mắt xoáy vào mặt chàng. Thiện Tố nhìn vợ ngập ngừng:
– Anh giúp Thiện Cảm, làm em phật lòng sao?
Cẩm Hương ngúng nguẩy:
– Hỏng biết!
Thiện Tố nắm tay vợ tha thiết, khổ sở:
– Xin lỗi em!
Thấy dáng điệu chồng thiểu não. Cẩm Hương bật cười thành tiếng:
– Sao anh lại xin lỗi? Anh đã làm những gì mà em định khuyên anh làm. Anh có biết không? Bấy lâu nay, thấy Thiện Cảm thay đổi tánh tình làm việc thiện nguyện. Còn anh thì êm ru bà rù làm em mắc cỡ thầm. Bây giờ em mới cảm thấy thoải mái khi gặp Hồng Ánh. Anh làm em hãnh diện với chính mình không chọn lầm người chồng và còn là người bạn đồng tâm. Nhưng mà em vẫn phiền anh.
Thiện Tố nhìn vợ cười tươi nhưng chưng hửng:
– “Nhưng em vẫn phiền anh”! Sao khó nghe quá vậy? Ủa, còn chuyện gì nữa đây, hả nội tướng?
Cẩm Hương háy chồng:
– Sao anh giấu em, không cho em biết sớm?
Thiện Tố cười trừ:
– Anh bậy thiệt, theo lẽ phải nói cho em biết trước khi anh giúp Thiện Cảm mới phải, nhưng anh thấy chuyện cũng không có gì bự sự, rồi quên bẵng đi. Nay Hồng Ánh nhắc mới chợt nhớ.
Chàng ôm siết chặt lấy vợ như ôm lấy giấc mơ đẹp, chỉ sợ nó bay mất. Vợ chàng không thuộc nhi nữ thường tình như chàng tưởng. Nàng vẫn có trái tim, có lý tưởng do một thiện nghiệp hướng dẫn. Người em khác mẹ của chàng cũng vậy. Từ người thân trong gia đình cho đến chòm xóm, làng thôn không còn lạ gì về việc hắn ăn chơi hư hỏng. Nhưng thật sự không ai có thể ngờ! Văn chương đã tạo cho Thiện Cảm thành một mẫu người mới, y như một nhân vật mà nhóm Tự Lực Văn Đoàn thường ca ngợi trong các tác phẩm của họ.
Tố Tiên thanh cảnh trong chiếc áo dài trắng. Tóc vén gọn nằm trong băng-đô màu hồng thắm thả về phía sau ót, để lộ vầng trán cao thông minh, rịn lấm tấm những giọt mồ hôi bởi trời chiều còn gắt nắng. Tay nàng ôm chiếc cặp da màu nâu, nặng chịch và căng phồng ra hai bên đầy sách vở. Nàng rón rén đến phía sau lưng hù mẹ, rồi hỏi một dây:
– Má suy nghĩ gì lung dữ vậy? Con đứng cạnh má cả buổi trời, má cũng không hay biết gì ráo. Bà nội đâu? Ba và chị Tố Tâm chưa về hả má?
Bà Cẩm Hương chỏi chân. Cái ghế xích đu bà đang ngã lưng, theo đà đưa nhẹ về phía trước, và trở về phía sau. Âm thanh của các con ốc khô dầu kêu cọt kẹt theo nhịp đưa đẩy. Đôi mắt mơ màng nhìn ra cửa sổ, bà bảo:
– Con mới về đó à? Bà nội hái trầu sau nhà. Ba con và chị Tâm con chưa về. Con có đói thì ăn chút gì cho đỡ dạ đi, có bắp nấu trong kệ tủ đó. Rán chờ chút nữa ba và Tố Tâm về ăn cơm luôn nghe con.
Cô thiếu nữ vừa đi vào buồng thay áo, cất cặp, vừa nói vọng ra:
– Con chưa thấy đói. Để con thay đồ rồi ra phụ nội hái trầu. Sướng quá má à, lớp con vừa thi xong hôm nay. Nên thứ bảy chủ nhựt tuần nầy được xả hơi, cô thầy giáo không cho bài vở đem về nhà làm.
Cẩm Hương trìu mến nhìn con gái đi ra. Con bé tươi mát trong bồ đồ lụa màu vàng nhạt có in rải rác bông trâm ổi đỏ, lá xanh. Mặt mày hớn hở tươi tắn của cô thiếu nữ chưa gợn lo buồn, nhìn đời màu hồng thắm và đặt nhiều ước vọng trong việc học vấn ở tương lai. Cô cởi mở, vui vẻ, yêu đời, bộc trực, sống trong gia đình bậc trung, dù không giàu, không có địa vị trong xã hội nhưng gia đình cô có nền móng đạo đức, có nếp sống vững chắc nhờ vào sự chân tình, thương người, cần mẫn, siêng năng của bà nội và cha mẹ… Hai chị em cô được dạy dỗ ân cần, nên cả hai cô còn trẻ mà nết na, dịu dàng, lễ phép, biết người trên kẻ dưới, không tự đại, tự cao hay lố lăng, suồng sã. Nên mọi người trong gia đình cô được xóm giềng và làng thôn thương mến, nể trọng.
Cẩm Hương mỉm cười một mình. Mới đến trình diện để nhận việc ngày nào, mà nay thấm thoát đã hơn 20 năm rồi! Thời gian qua quá nhanh. Tố Tâm và Tố Tiên của vợ chồng nàng giờ đã là hai nữ sinh Trung học. Hai đứa con gái lớn của chị Kiều Lan và Kiều Liên cũng gã chồng tháng chạp năm rồi. Đứa thứ 5, con út của vợ chồng Thiện Cảm cũng vừa đậu vào lớp đệ thất.
Mặt trời đã xuống sâu sau mí vườn bên kia dải ruộng lúa chín vàng. Ráng đỏ tan dần. Nền trời xanh ngát, còn vương mắc những vệt nắng vàng trải trên cỏ cây. Cơn gió mát rượi là đà thổi qua. Dưới đìa con cá quẫy đuôi ăn móng làm gạn một vùng nước lớn. Thấy má chồng và con gái khệ nệ mỗi người bưng một thúng trầu vàng vào nhà, nàng chưa kịp hỏi thì Tố Tiên cười vui, cầm lá trầu lên khoe với mẹ:
– Má coi, trầu nội trồng ngon mắt quá đi thôi! Lá nào lá nấy lớn cả bàn tay xòe, non nhẩn, mỏng tanh. Chắc là bán được giá lắm hả má? Con ghét cái bà Tám bạn hàng lắm, biết trầu của người ta ngon như vậy mà chê ỉ chê eo để mua giá rẻ.
Con bé quay sang bà Tư Hiền:
– Nội à, lần nầy bả mua rẻ bà đừng có bán nghen. Trồng trầu cũng cực lắm chớ có sướng chi đâu? Bà cực khổ vô phân, đắp gốc, tưới nước… Vào mùa nắng nóng, có khi mỗi ngày phải tưới 2, 3 lần. Tội nghiệp nội, hái trầu bị gai của nọc vông đâm, và ngồi liễn trầu còm cõi cái lưng nữa. Nếu để cho con bán, con sẽ bán mắc cho bả.
Bà Tư Hiền nhìn cháu cưng cười:
– Người ta buôn bán phải có lời chớ cháu. Họ cũng cực khổ lắm. Thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng và có khi bán ế còn bị lỗ lã. Cây nhà lá vườn, mình bán rẻ một chút coi như giúp cho người ta cũng tốt. Người ta vui vẻ, mình cũng được vui. Mai mốt có hàng, mình gọi là họ đến ngay. Tội nghiệp người ta còn phải nuôi gia đình nữa. Thôi để thúng trầu xuống đó cho bà, ăn cơm rồi mới liễn, vô phụ mẹ cháu dọn cơm đi. Tố Tâm và ba cháu về tới bây giờ đó.
Hôm nay chiều thứ sáu, trong nhà từ bà Tư Hiền, con dâu bà và Tố Tiên không thấy Tố Tâm về sau nửa giờ tan học, thì họ biết cô nàng đi ra nhà máy chà lúa, chạng vạng cùng về với Thiện Tố. Thiệt đúng như rằng, cha con họ về khi chòm xóm lên đèn. Cha đi trước xách trong túi nào trà Thái Nguyên, đường, đậu, bột khoai, táo tàu… mà trên đường về cha con ghé tạt qua chợ mua đủ bộ vận nấu nồi chè thưng. Con gái Tố Tâm đi sau, khệ nệ ôm cặp, còn xách giỏ có mấy trái xoài cát đen đầu mùa, và một chục quít đường của bà nội lớn gởi cho.
Bảy tám năm nay, bà Hai Cung đối xử tốt với gia đình mẹ con Thiện Tố. Có lẽ lớn tuổi rồi bà Hai Cung thấu hiểu và thương cho phận đàn bà vợ nhỏ của chồng chăng? Hay bà nghĩ là nhà ai nấy ở, cơm ai nấy ăn nếu bà không tốt với gia đình Thiện Tố, thì họ sẽ xa lánh bà. Rồi khi nhà bà tối lửa tắt đèn ai lo giúp cho? Nghĩ như vậy không phải là không có lý. Bởi tất cả giấy tờ sang nhượng ruộng đất truất hữu cho Chánh Phủ, làm ăn của máy chà cũng đều do Cẩm Hương và Thiện Tố lo hết.
Còn vệc làm ăn của hai nàng Kiều, cho đến việc học hành của con họ cũng do Cẩm Hương bày biểu, chỉ dẫn. Ngộ thiệt, mấy đứa con họ có chuyện gì cũng nhỏ to và lại nghe lời cậu mợ Thiện Tố hơn nghe lời cha mẹ chúng. Cho nên dù không ưa cô em dâu, hai bà chị chồng Kiều Lan và Kiều Liên cũng đành nhắm mắt làm ngơ, không còn chót chét như xưa.
Cả nhà cười nói, vui vẻ, trong bữa cơm chiều thanh đạm, với những món ăn: canh cải trời nấu với cá thác lác vò viên; rau càng cua bóp giấm chấm với cá lòng tong mương chiên dòn dầm nước mắm xoài; đậu móng chim xào với thịt ba rọi; dĩa tép cháy hôm qua còn lại.
Ăn cơm xong, Cẩm Hương lo dọn dẹp trong bếp. Thiện Tố ra lu múc nước rửa mặt, tiện thể đóng cửa chuồng gà và chuồng vịt. Chàng lấy 2 ly trong những ly nước mà vợ vừa mới rót, đem lại cho mẹ đang ngồi liễn trầu một ly, còn ly kia vừa uống vừa đi đến ngồi trên ghế dựa xem tờ nhựt báo. Tố Tâm bưng nồi, chảo nấu ăn ra sàn lảng cùng phụ rửa với em. Và trên bếp lửa hồng reo lách tách, nồi chè thưng đang sôi ùng ục.
Màn đêm buông chầm chậm lên vùng thôn quê sàn dã, thì trăng mười bốn ở phương đông từ từ nhú dạng.
Mặt trăng ửng đỏ một vùng tròn lớn sau rặng tre làng, bên kia cánh đồng lúa chín. Trên không trung, những con chim về muộn xoãi cánh bay nhanh, còn vương lại vệt đen mờ và tiếng kêu oang oác. Dưới đìa mương quanh nhà, tiếng nước khua động của cá quẫy đuôi ăn móng, tiếng tôm búng tróc tróc dưới những cánh tai bèo giún, tiếng dế kêu te te ngoài liếp huệ, bên bụi chuối, bụi mía trước sau hè. Khóm bông lài tỏa hương ngan ngát hòa với hương hoa hồng, cúc, cam, bưởi, cau… Thỉnh thoảng chen lẫn mùi khen khét của khói đóng un nhà trong xóm theo làn gió thoảng qua.
Trên bộ ván gỗ tạp gần cửa ra vào nhà bếp, dưới ánh đèn dầu, bà Tư Hiền cùng con dâu và hai cháu nội đang ngồi liễn trầu. Những ốp trầu vàng được họ chất vào thúng, vào rổ ngay ngắn, họ vừa liễn vừa to nhỏ với nhau rồi cùng cười khúc khích.
Tố Tâm hỏi em:
– Tố Tiên, hôm nay có nghe thông báo của trường không?
Mở to đôi mắt đen láy, Tố Tiên ngạc nhiên nhìn chị:
– Em không nghe, thông báo gì vậy chị?
Bà Tư Hiền và Cẩm Hương liễn trầu mà tai vẫn lắng nghe hai cô hỏi chuyện nhau. Bỗng Tố Tâm xoay qua mẹ và bà:
– Nội và má có biết không? Trường con thông báo, chiều thứ bảy tuần tới, có đoàn Văn nghệ lưu động của Nha Tâm Lý Chiến từ Sài Gòn về hát một đêm ở chợ Cai Lậy để cho dân trong quận được giải trí.
Bà Tư Hiền lấy cọng lá sả đã phơi nắng héo héo quấn một vòng qua trầu vừa liễn, quay vài vòng cho dây không tuột ra, rồi nhét đầu dây dưới vòng cột. Bà nhẹ để ốp trầu vào thúng, Cẩm Hương đếm từng ốp từ thúng nầy để vào thúng kia, coi đã liễn được bao nhiêu ốp rồi. Tố Tiên, càm ràm:
– Chắc là họ quên thông báo cho lớp em rồi. Cô thư ký trường dạo nầy hay quên. Cái bụng của cô hôm nay bự chè è. Thấy cô mệt nhọc, thật là tội nghiệp. À, chị có biết không? Hôm Tết đoàn văn nghệ về hát ở chợ An Hữu. Ôi dân chúng đi coi đông cả ngàn người lận. Người ta nói họ hát hay lắm. Bà nội, má ba ngày đó cũng đi coi nghen.
Bà Tư Hiền để ốp trầu cuối cùng vào thúng, cười nói:
– Thiệt, ngồi mỏi lưng, mỏi cổ. Nếu không có mẹ con bây bà sẽ liễn tới năm canh gà gáy. Ờ, ngày đó hả? Ba má cháu và hai cháu đi xem đi. Chỗ công cộng đông người, con nít chạy giỡn rùm reo, đứng ngoài trời lạnh lẽo, khuya lơ khuya lắc mới về. Thôi nội không đi đâu.
Cẩm Hương gom dọn những rổ, nia đựng trầu lại. Nàng nói với mẹ chồng và con:
– Má à, hôm đó cả nhà mình đi nghe nhạc và xem diễn kịch nghen má. Con nghe mấy cô giáo dạy ở Cái Bè, hôm rồi đi họp chung ở dưới tỉnh nói là đoàn văn nghệ nầy thật hay. Lâu lắm họ mới tới quận mình vì đoàn còn đi biểu diễn các nơi khác nữa…
Bà Tư thương mến nhìn Cẩm Hương châm bẩm, đây là đứa con dâu mà bà quý yêu như con trai của bà. Thiện Tố ngừng đọc báo, góp lời với vợ:
– Má nên đi xem đêm văn nghệ đó đi má. Con cũng nghe nói ca sĩ, kịch sĩ trong đoàn, người nào cũng hát ngọt, đóng hài kịch vui lắm. Mấy thuở họ đến đây một lần. Hôm đó cả gia đình mình đi xem. Má cứ làm hoài từ sáng tới chiều, phải để tâm trí giải lao một chút chớ.
Bà Tư Hiền rướm nước mắt cảm động thấy rằng con, dâu và các cháu đều kính thương và luôn nghĩ đến bà.
Thiện Tố đứng lên, nhẹ nhàng không gây tiếng động bước ra ngoài hiên nhà. Trăng đã lên cao! Trăng càng lên cao, ánh trăng sáng dìu dịu trải trên vạn vật. Chàng cảm thấy thoải mái, làm động tác thể dục vươn vai, nhắm mắt, nhẹ hít hơi dài vào buồng phổi hương đồng cỏ nội thoang thoảng trong làn gió đêm. Niềm hạnh phúc dâng ngập trong tâm hồn chàng.
Cẩm Hương đứng sau lưng Thiện Tố nãy giờ mà chàng vẫn chưa hay. Đôi mắt ngời sáng dưới ánh trăng, nàng mỉm cười lí lắc nhìn chồng:
– Ông bạn già ơi, chúng ta đã qua cái thời son trẻ rồi. Đừng có ở đó mà thả hồn theo mây gió nữa nghen. Hãy để ý hai cô tiểu thơ của anh đã đến tuổi biết buồn và biết mộng mơ rồi kìa.
Thiện Tố cười, mắt chứa chan niềm yêu thương, nhìn vợ:
– Em à, anh nghĩ, chúng ta cần gì phải chạy theo thiên hạ tranh giành, tìm kiếm những chuyện xa xôi, viễn vông… Ở đây, một góc trời thôn dã nho nhỏ nầy, cũng đã cho gia đình chúng ta nguồn hạnh phúc vô tận rồi. Phải không em?
Cẩm Hương cùng có cảm nghĩ với chồng. Nàng khẽ gật đầu đồng ý và nắm tay chàng siết chặt, mà mắt rưng dòng lệ hạnh phúc. Rôi nàng thì thầm bên tai chồng nhẹ như hơi gió thoảng:
– Sóng sau dồn sóng trước. Đất nước chúng ta đang trong thời an bình, và trên đường canh tân. Một thời biển lặng sông trong đó, anh à! Cho dù không có Thánh nhân ra đời thì lê dân cũng ấm no hạnh phúc. Đường tiến thân của học sinh ở lứa tuổi hai cô con gái mình hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Chúng ta phải tiếp tay với nhà trường, dạy dỗ, vun bồi để mai sau chúng trở thành người tốt, người hữu dụng…
7/4/2020
Dư Thị Diễm Buồn
Theo https://vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...