Thứ Hai, 28 tháng 3, 2022

Một góc trời thôn dã 2

Một góc trời thôn dã 2

CHƯƠNG SÁU
Thằng Hiển em con Hiên xuống làm công cho ông Cả Cần gần cả năm rồi. Khi nó mới đến chiều tối hôm trước, thì sáng sớm hôm sau, được chú Ba cắt đặt và cho người dẫn nó đi làm ở ruộng mãi tận trên kinh xa, gần giáp ranh với Cao Lãnh, phải bơi cả ngày đường mới đến nhà ông Cả Cần. Nên nó không biết ai ở trong nhà chủ nó. Và nó cũng không hay biết gì về chuyện của chị nó với cậu Hai Cung.
Một hôm chú Ba có dịp đưa cậu Hai đi thăm ruộng. Nó vét bờ và nhổ cỏ lúa về, tay xách xâu cá, lửng thửng đi ngang. Thấy chú Ba và ông khách lạ, nó lễ phép chào hai người rồi đi vào trong. Cậu Hai hỏi:
– Nó là ai vậy? Có phải là tên lực điền do tía tui mới mướn hả chú Ba?
Chú Ba, nhìn cậu chủ như dò xét, rồi e ngại trả lời:
– Thưa cậu, nó là thằng Hiển, em của cô Hiền… Nó ở đây cũng lâu rồi. Tại chưa có dịp xuống dưới nhà nên cậu chưa thấy mặt đó thôi.
Cậu Hai Cung mở to mắt định nói gì, nhưng lại thôi. Ăn cơm trưa xong, thằng Hiển định ra đồng để nhổ cho xong đám mạ và bó từng bó. Thấy nó, chú Ba hỏi:
– Ra đồng hả Hiển? Nước kinh, nước ruộng năm nay thể nào, nghe nói có nhiều phèn lắm hả? Nhớ, khi nước rông, mở hết mấy cái cản cho nước sông tràn vào thông thương trong ruộng rồi chận lại. Sau đó, gần đến nước kém thì xả cảng ra để nước phèn chảy hết, và khi nước rông lại mở cảng cho vào. Cứ làm như vậy thì phèn sẽ không gây hại nhiều đến lúa.
Nó cười hiền, chỉ chiếc quần ống thấp, ông cao đang mặc, bảo:
– Chú thấy đó, phèn đặc quá nên làm ống quần tui vàng quách và dòn nên rách te tua. Dạ, tui sẽ làm theo chú biểu. À, chừng nào chú dìa vậy chú Ba?
Trong khi thằng Hiển nói chuyện với chú Ba, thì cậu Hai Cung ngồi ở ghế dựa bên án thư, giống như cậu đang ngồi xem sổ sách chi đó. Nhưng thật ra cậu cố tình ngồi để nghe chú Ba và thằng Hiển đối đáp với nhau. Chú Ba trả lời nó:
– Đợi trời ngã bóng thì về cho kịp con nước. Làm ở đây bao lâu rồi hả Hiển? Cưới vợ chưa? Có về thăm nhà thường không?
Thằng Hiển cười hen hệch:
– Vợ con gì chú ơi! Tui đi làm mướn làm thuê không đủ nuôi thân thì tiền đâu mà cưới vợ? Rồi còn nuôi nó nữa. Chắc chuyện đó hỏng bao giờ có đâu…
Chú Ba cũng cười, hỏi tiếp:
– À, cô Hiền dạo nầy ra sao? cổ có chồng rồi hả?
Thằng Hiển giọng nói trở buồn:
– Tội nghiệp chị tui khờ dại! Lúc đi làm ở dưới nhà bà Cả, gặp phải kẻ xấu mê hoặc, bị nó gạt gẫm rồi bỏ đi mất. Chị mang bầu, sanh ra thằng con trai. Nửa tháng trước về cúng giỗ ông nội tui, nó được tuổi mấy rồi. Thằng nhỏ trắng trẻo, mặt mũi lanh lợi, thật là dễ thương quá.
Cậu Hai Cung đánh rơi giấy tờ đang cầm trên tay. Còn chú Ba hốt hoảng, không kềm được, thảng thốt kêu lên:
– Trời ơi! Thật vậy sao? Rồi từ lúc trở về nhà đến giờ cổ sống ra sao? Đã nghèo mà còn mắc cái eo nữa? Ôi, thiệt tội nghiệp cho cổ quá đi!
Thằng Hiển thở dài:
– Thì sống hẩm hiu với gia đình bữa cháo bữa rau chú à. Lúc biết chỉ có chữa hoang, họ hàng xúi phá thai, nhưng chỉ không chịu, nói là để sanh rồi đem cho bà phước. Nhưng sau khi sanh, thấy mặt thằng con, chỉ không nỡ đem cho người ta! Mẫu tử tình thâm mà chú, mẹ nào mà đi bỏ con cho đành? Chỉ nói với ba má tui xin thương xót cho mẹ con chỉ, để chỉ đi buôn gánh bán bưng nuôi nó. Cha nó bất nhân, nhưng chỉ không bỏ con chỉ được…
Chú Ba chép miệng thở dài, láp váp: “Khổ mạng thiệt mà! Khổ mạng lắm đa!”.
Cậu Hai Cung không giữ được bình tỉnh, giọng run run gọi chú Ba vào.
Thằng Hiển đứng dậy với lấy cái nón lá đội lên đầu, và cây cuốc dựng bên vách đi ra đồng. Vừa đi, nó vừa gò giọng hát theo điệu Sơn Đông Hướng Mã đã học lóm ba xồn bốn xực: “Thỏ con thỏ, quay xà quay, chạy đến chòm cây. Chòm cây còn đây, đừng la bự cha già hay được, chắc anh ở tù, không ngày trở về…” Đây là bài hát cải lương mà nó nghe anh Bảy Đìa hát hôm bữa nhậu thịt chuột nướng ở nhà của ông Mười Cồ. Nó bỗng nín hát, quay lại khi nghe tiếng chú Ba gọi lớn. Thằng Hiển hỏi:
– Gì vậy chú Ba?
Chú Ba vừa thở, vừa móc túi và nói với nó:
– Lúc cô Hiền còn ở cho nhà bà Cả, tao thương cô như con gái tao vậy. Nay nghe cổ gặp hoàn cảnh ươn yếu, khó khăn, tao gởi tặng cổ chút tiền, khi nào mầy vê nhớ đưa tiền cho cô, và nói tao gởi lời thăm. Thôi đi làm đi, tao về nghen.
Chú dúi tiền vào tay nó, quay lưng đi. Thằng Hiển đếm mấy tờ giấy bạc cộng lại giựt mình! Tới 30$ lận, sao nhiều dữ vậy cà? Nó đi làm đầu tắt, mặt tối mà một tháng chỉ có 10$ thôi. Nó để tiền vào miếng vải nhựa gói kỹ cất vào tận túi áo.
Chú Ba vừa đẩy mạnh mái chèo vừa hát theo điệu Nam Ai cho quên quãng đường về còn xa. Cậu Hai Cung ngồi trong mui ghe, trước bình trà đã cạn và gói thuốc lá Basto chỉ có cái bao không. Cậu vò bao thuốc ném xuống dòng nước chảy ngược chiều theo hướng lướt tới của chiếc ghe. Vầng ô khuất sau dãy cây trâm bầu phía ruộng xa ở phương tây. Ánh tà dương vàng rực rỡ chói sáng trước khi trời chạng vạng đỏ đèn, và trước khi bóng đêm dầy đặc buông xuống.
Chú Ba chèo khỏi con kinh đào, qua dòng sông lớn. Hai bên bờ sông có những ngôi nhà khang trang, thỉnh thoảng mới có căn nhà ngói. Nhưng những căn nhà lá có vách bổ kho, sân trước có bàn thờ Ông Thiên, có trồng hoa tươi, có cây xanh, lá thẳm, có hoa trái sum sê quằn nhánh. Chứng tỏ đây là một làng trù phú, dân làng có nếp sống an cư, no ấm.
Trên nền trời ửng những vệt mây dài ngũ săc từ phương trời tây, lác đác vương làn mây trắng mỏng. Xa xa lẫn lộn trong vùng cây xanh tươi bên bờ sông có những cây ô môi lớn tàn nở hoa màu tim tím đỏ. Trên mặt nước sông lửng lờ, những cánh hoa ô môi rơi rụng bồng bềnh theo làn sóng nhấp nhô.
Cậu Hai Cung thở dài thườn thượt, lòng buôn vô hạn. Chuyện con nhỏ ở bị cậu chủ hãm hiếp rồi cho tiền cho bạc đền bù cho cha mẹ nó là xong. Những chuyện đó xảy ra hà rầm như ăn cơm bữa ở cái xã hội phong kiến chưa xóa hết nầy. Chuyện con Hiền với cậu, cứ âm ỷ trong tâm hồn cậu. Cho đến nay cậu không làm sao quên được đôi mắt thê thảm của nó! Cậu cố tình quên để gia đình êm ấm giữ danh tiếng và thể diện cho cha mẹ cậu và cho cậu. Những tưởng thời gian đã xóa nhòa tất cả. Nhưng hôm nay, tin con Hiên sanh con đã làm cho cậu bấn loạn, xáo trộn tinh thần, và ăn năn càng đè nặng tâm hồn cậu hơn.
Chiếc ghe vẫn lướt nhanh thu ngắn quãng đường về. Màn đêm buông xuống. Nhà nhà đã lên đèn. Tiếng chim về muộn gọi đàn kêu oang oác trong không gian tối mịt mờ. Trên sông dài cách nhau vài cây số có cây đèn bão treo trên cột cao, báo hiệu có hàng đáy giăng ngang sông, để xuồng ghe tránh, không bị vướng vào. Và gần dọc theo bờ sông le lói ánh đèn ve chai của những chiếc xuồng câu tôm.
Ghe chèo ngang qua lảng trống, tiếng hát của thiếu phụ vang vang trong gió: “Ầu a…Than rằng gối gấm không êm. Gối lụa không mềm bằng gối tay em…Ầu ơ…Đốt than em nướng con cá duồng. Mua hai xị rượu bơi xuồng kiếm anh…Ầu ơ… Nhớ anh em nấu chảo bồi. Kho ơ cá bống, hâm nồi canh khoai… ầu ơ…”
Nhà ông Cả Cần giữa đêm tăm tối mà đèn đuốc sáng trưng. Người trong nhà lăng xăng, kẻ chạy lên, người chạy xuống, kẻ nấu nước người kiếm gừng, hái chanh, đập sả… để xông, hơ, vác hơi, cạo gió cho cậu Hai đi thăm ruộng về bị ngất xỉu vì cảm nắng.
Cậu Hai đang nằm liệt trên giường. Chỉ bịnh mới có mấy ngày thôi mà thần sắc cậu sút giảm ngó thấy. Hai gò má cậu hóp lại, cặp mắt thâm quầng, vô thần, mặt mày tái nhợt, môi khô đến tróc da. Chú Ba quay đi nơi khác len lén thở dài. Chú hiểu rành rọt tại sao cái bịnh bất ngờ đến với ông chủ nhỏ của mình, trong khi cha mẹ vợ con cậu không ai hề hay biết nguyên nhân của nó!
Hôm nay là ngày thứ năm cậu Hai Cung bị bịnh. Bà Cả Cần bảo con dâu cùng chị vú đi chợ mua thịt tươi và gan heo về nấu cháo đổi bữa để cậu ăn cho mau khỏi bịnh. Chú Ba đỡ cậu ngồi trên ghế dựa. Bà Cả vừa thổi cháo cho nguội đút cho con ăn, vừa nói.
– Con cố gắng ăn cháo cho mau hết bịnh. Không ăn mà uống thuốc cũng không nhằm nhò gì đâu. Má không biết tại sao con bỗng dưng lăn đùng ngã bịnh? Không bị mưa, cũng không bị nắng. Để má bảo vợ con cùng bà vú ngày mai đi cầu cô Năm. Cổ sẽ chỉ bảo cho mau hết bịnh. Hôm đó, má cùng chị sui và vợ con đi viếng am cô Năm. Cô nhập xác đồng sẽ cho biết tại nhà nay có người làm việc xấu, nên vợ con không nuôi được con trai. Má nghĩ chắc không phải vậy đâu, vì mình đã bù đắp cho nó rồi…
Cậu Hai khó khăn lắm mới nuốt được mấy muỗng cháo. Nhưng cậu cảm thấy miệng mình đắng chằng đắng nghét và cậu chóng mặt, rồi ói ồng ộc. Chú Ba lấy ống nhổ hứng không kịp. Mùi ói chua lè chua lét bốc lên nồng nặc. Bà Cả bảo:
– Chú Ba đỡ cậu Hai lên giường, rồi mau quét hốt và chùi lau chỗ dơ. Chú nhớ lấy tro bếp phủ lên vũng ói cho bớt mùi hôi nghen.
Chú Ba “dạ” rồi mau lẹ quét dọn làm theo ý bà chủ. Cậu Hai mệt nhọc thở dốc, mặt mày nhợt nhạt không còn chút máu. Nhìn sắc diện của con, bà xót xa, lấy khăn lau nước mắt. Cậu Hai Cung nắm tay mẹ thều thào:
– Xin lỗi má, con đã gây ra tội lỗi đáng chết, nên giờ bị Trời phạt chắc là không sống bao lâu nữa đâu. Nếu con có mệnh hệ nào thì xin ba má đừng có quá đau buồn cho thằng con bất hiếu nầy.
Bà Cả Cần khóc lớn:
– Con là đứa con hiếu hạnh, hiền lành, tốt bụng của gia đình. Đừng có nghĩ bậy. Vài hôm nữa con sẽ hết bịnh.
Cậu Hai, nhìn mẹ cặp mắt lờ đờ, van lơn:
– Con xin má giúp con cứu người ta! Con lạy má, má hãy thương con…
Cậu Hai nói đến đó lại ngã ra xỉu nữa. Bà Cả ôm chầm lấy con la khóc cầu cứu. Sau một hồi được cao gió, hơ nóng, đổ thuốc… cậu Hai tỉnh lại, ai hỏi gì cũng không nói, mắt nhắm nghiền mà lệ sầu ràn rụa. Bà Cả vừa lo con bị trúng tà, vừa sợ con chết. Chú Ba chịu không nổi, học lại hết câu chuyện giữa chú với thằng Hiển mấy hôm trước trên ruộng cho bà chủ nghe. Bà Cả Cần sững sờ khi nghe con Hiền sanh được thằng trai với con mình. Bà lật đật kéo chồng vào nhà trong, bàn bạc cách gở rối cho gia đình.
Mấy hôm sau, bịnh của cậu Hai Cung thuyên giảm dần. Ở trong nhà từ trên xuống dưới trừ vợ chồng ông Cả Cần, cậu Hai Cung và chú Ba, ai nấy đều tuyệt đối tin tưởng là nhờ bà đồng nhập xác cô Năm sẽ giúp việc trừ ma đuổi quỉ nên cậu Hai mới bớt bịnh. Và cũng sau khi cậu Hai đỡ bịnh, ăn uống biết ngon, mắt mày tươi tắn lại, thì chú Ba đưa bà Cả Cần đi thăm ruộng.
Ba má con Hiền đang giã gạo chày đôi trước sân. Con Hạnh em kế thằng Hiển nấu cơm, kho cá dưới bếp, trong khi con Hiền đi bán xuồng hàng chưa về.
Chú Ba vào trước, nói với ba má cô Hiền:
– Chào anh chị. Hôm nay bà chủ đi thăm ruộng, tiện đường nên ghé qua thăm anh chị đây.
Ba má con Hiền chưng hửng và ngạc nhiên quá đỗi. Vì mỗi khi gia đình ông Cả có đám tiệc thì ba con Hiền xuống làm mấy ngày, Tết nhứt đến dù nhà thiếu trước hụt sau họ cũng phải mua cá lóc bự, gà thiến, nếp hương, hay gạo nanh chồn đem biếu. Ông bà chủ giàu có, thuộc hàng người thượng đẳng, thân phận cao sang thì có lẽ nào mà ghé thăm tá điền nghèo mạt rệp? Mọi khi nếu có việc gì cần sai bảo, thì bà chủ ở trại ruộng gọi tá điền tề tựu lại, chớ có đâu đến tận nhà để viếng thăm? Hai vợ chồng họ vừa sợ vừa lo, không biết chuyện gì sẽ xảy đến? Ba con Hiền vội lấy cái quần dài và cái áo mặc vào để ra chào bà chủ. Má con Hiền cũng lính quýnh lấy cái áo bà ba mặc vào. Cả hai vợ chồng khúm núm cùng ra cửa đón bà Cả Cần.
– Dạ, kính chào bà Cả.
Bà Cả Cần tươi cười chào lại họ. Bà hỏi bâng quơ vài câu về ruộng nương lúa thóc rồi bà nhẹ giọng nói:
– Chú thím ngoài ruộng nương còn có làm gì thêm không?
Ba con Hiền lễ phép trả lời:

– Dạ thưa không bà chủ, ở đây dân sống về 2 mùa lúa ruộng, những tháng còn lại thì tụi tui trồng khoai để ăn chớ không có bán. Gặp mùa nước lớn quá thì chỉ 2 mùa lúa thôi, không có vụ khoai, vụ bắp gì nữa.
Bà Cả Cần dòm khắp nhà. Tuy là nhà lợp lá xé, vách tre, nền đất nện, nhưng đâu đó quét tước sạch sẽ. Bàn thờ, bàn ghế, tủ áo, cái đi-văn… đóng bằng gỗ rẻ tiền như là thao lao, mít nhưng được lau chùi bóng láng. Chiếc bàn dài đặt giữa nhà, hai ghế trường kỷ đặt hai bên có vẻ tươm tất hơn. Ba con Hiền cho biết, bàn ghế đó do người bác ruột qua đời để lại cho. Bàn thờ có bát cắm nhang bằng sành tráng men xanh vẽ bát tiên ngồi chơi cờ bằng mực chàm đậm. Dĩa quả tử vẽ tám thứ trái cây ở thành dĩa: Lệ chi (trái vải), long nhãn, phật thủ, đào tiên, mộc lý, mộc qua, lựu, trái xá lị. Bàn thờ không có lư hương, chân đèn, đèn lưu ly gì cả. Chỉ có bài vị cha mẹ, và ông bác sơn son thếp vàng. Trên chiếc bàn dài là bình trà bằng sành lớn, cỡ 4 bàn tay vòng có vẽ hình con đại cẩm kê (gà trống cồ, mồng đỏ, lông màu lửa, cổ và ức giát lông màu xanh). Trên khay có 6 cái tách sành lại vẽ gà tre, có lẽ không cùng một bộ với bình tích, nhưng nhìn chung thì tất cả như cùng chung một thứ men, cùng một kiểu vẽ. Trên 4 cột nhà ở giữa chỉ treo liễn kiếng Lái Thiêu. Còn trên vách thì treo liễn giấy bồi màu vàng nghệ, màu cánh sen, màu đọt chuối gợn sóng ngân nhũ. Trên nền ngân nhũ là bài thơ chữ nho viết bằng lối chữ thảo. Má con Hiền bảo là do ông bác để lại vào ngày lễ Tết trang hoàng nhà cửa. Trên mỗi tâm tranh là bài cổ thi chúc xuân, mà vợ chồng bà không biết đọc chữ Nho nên không biết nghĩa thú trong thơ ra sao.
Bà Cả Cần khen:
– Nhà cửa chú thím tuy không có vật chi quý giá để bày biện rườm rà, nhưng mọi nơi đều đâu ra đó, ngăn nắp. Đồ đạc đều lau chùi sạch bóng, coi thấy thương quá!
Ba con Hiền đỡ lời:
– Đó là do con Hiền săn sóc nhà cửa. Trước kia nó ở mướn nhà bà nên nó tập quen thói ăn ở ngăn nắp gọn gàng rồi.
Bà Cả Cần cười hí hởn ra vẻ toại ý lắm. Má con Hiền mời bà Cả ăn trầu gọi là để mở đầu câu chuyện.
Ba con Hiền quay qua vợ:
– Bà đi nấu nước đi, và bắt con gà làm thịt nấu cơm đãi bà Cả.
Má con Hiền gật đầu định đi xuống bếp. Bà Cả ngăn:
– Thôi, khỏi đi thím. Tôi vừa mới ăn cơm trưa xong. Thím cứ ngồi đó nói chuyện. Hôm nay tôi đi thăm ruộng thế cho cậu Hai. Cậu bị bịnh lần nầy không đi được. Nghe nói cháu Hiền đã có con nên, tiện dịp tôi ghé qua thăm luôn.
Bà Cả nhìn vào nhà trong như tìm kiếm, rồi nói tiếp:
– Chuyện xảy ra giữa thằng con trai tôi và con Hiền chúng tôi cũng buồn lắm. Nhưng chuyện đã dĩ lỡ rồi. Mong chú thím bỏ qua cho.
Ba con Hiền đau xót lắm từ lúc con ông bị hiếp đáp để rồi có chửa hoang đẻ lạnh, để bị họ hàng khinh khi, xóm làng cười chê. Ở thôn quê, dân chúng nghèo tiền nghèo bạc chớ không nghèo tình nghĩa và nhân phẩm. Nhung từ bấy lâu nay, vợ chồng chú ngậm đắng nuốt cay chịu trận, vì gia đình chú nghèo, đất đang ở, ruộng đang làm là của ông bà Cả, nếu chú chống cự họ thì họ lấy lại rồi gia đình chú ăn ở đâu? Nên phải làm thinh. Má con Hiền bật khóc. Ông chồng bà nói:
– Thưa bà Cả, chuyện đó cũng đã qua hơn cả mấy năm rồi. Tại số phần bạc phước của con gái tôi. Làm cha làm mẹ chúng tôi phải gánh chịu chớ biết làm sao bây giờ?
Bà Cả ôn hòa nói tiếp:
– Thiệt ra chúng tôi không biết con Hiền có thai. Cho đến nửa tháng trước, cậu Hai đi thăm ruộng nghe thằng Hiển nói với chú Ba vụ nầy nên chúng tôi mới biết. Chúng tôi có trách nhiệm với mẹ con của cháu Hiền. Mẹ con nó ở đây hay ở đâu vậy chú thím? Sao nảy giờ tôi không thấy tụi nó?
Má con Hiền lau vội nước mắt, trả lời:
– Thưa bà, con Hiền sáng sớm đã bơi xuồng hàng đi bán trong kinh, chiều tối mới về. Còn con nó đang ngủ trong chiếc võng ở nhà bếp.
Bà Cả đứng lên, nhìn ba má con Hiền nói:
– Chú thím cho tôi thăm thằng nhỏ một chút được không?
Má con Hiền nhìn chồng. Ông gật đầu. Họ đi trước, bà Cả và chú Ba theo sau. Chiếc võng đương bằng dây chuối xiêm phơi khô, dưới lưng thằng bé là manh đệm rách ẩm ướt vì ngấm nước đái của nó. Thằng bé chợt thức giấc, mắt mở to, cười hả miệng, quơ tay quơ chưn mừng rỡ đòi bồng. Má con Hiền ẵm cháu ngoại lên, lại lu lấy gáo múc nước rửa mặt cho nó. Bà Cả Cần xúc động, mắt đỏ hoe. Trước khi ra về, bà hỏi ba má con Hiền:
– Chú thím có muốn mua 4 công đất đang ở, và 8 công ruộng đang làm không? Vợ chồng tôi ở xa, việc đi lại khó khăn nên ông nhà tôi muốn bán chút ít đất ruộng đó. Nhung trước khi bán phải hỏi vợ chồng chú, chừng nào chú không mua, thì chúng tôi mới sang cho người khác.
Má con Hiền nhìn chồng muốn khóc! Không có miếng đất để ở, không có thẻo ruộng để canh tác thì sẽ làm sao để sống đây? Vợ chồng bà, từ ngày con Hiền về đi buôn bán nhưng cũng đủ no ấm thôi, làm sao có tiền mà mua? Ba con Hiền nhìn xuống đất, chẳng trả lời bà Cả Cần. Bà Cả Cần bảo chú Ba xuống ghe bưng quà tặng lên. Bà nói:
– Nghe con Hiền có con, tôi có mua cho đứa nhỏ mấy xấp vải, và chút ít tiền. Con Hiền về, thím nói đây là chút tâm ý của tôi gởi để nó trả công may áo quần và thỉnh thoảng mua bánh trái cho thắng nhỏ. Nếu nó có cần gì thì cho tôi biết hoặc đến gặp tôi.
Miệng bà nói vậy, nhưng bà biết rằng, trong lúc khốn khó, bụng mang dạ chửa nó còn không đến xin xỏ bà, thì giờ đây đời nào nó há miệng nhờ cậy hay là quà bẹt quẹt ai. Bà thấy lòng mình nao nao vừa thương vừa trọng gia đình ba má con Hiền. Họ nghèo khổ vẫn chịu đựng, không vì chuyện con bà làm ra mà xin xỏ họặc làm xách, làm eo, bắt chéo, bắt chẹt gia đình bà để đòi tiền, hoặc đòi thứ nầy thứ kia … Thật đúng là “lành cho sạch, rách cho thơm”. Bà nhắc lại với ba má con Hiền:
– Chú thím có muốn vườn đất đang ở, đang làm thì xuống thương lượng với cậu Hai. Tôi thấy không khó đâu. Chú thím cứ cho mấy thằng con trai lớn xuống làm vài năm thì trả dứt nợ…
Bà Cả ra về đến nhà thì biết con dâu dắt hai đứa cháu nội về thăm ông ngoại bất ngờ lâm trọng bịnh. Chiều tối đó, sau khi cơm nước xong, bà kể lại cho chồng con nghe:
– Con Hiền khéo nuôi con, nên thằng nhỏ tròn trịa, bụ bẫm, tay chân mập tròn trịa. Mặt mày nó sáng sủa, tuấn tú, nước da trắng hồng, cặp mắt tròn to và đen như hai hột nhãn. Thấy ai cũng không biết lạ miệng cười toe toét có lúm hai đồng tiền, trông thật dễ thương. Ba má con Hiền bảo là thằng nhỏ nghe hiểu hết mọi thứ, chỉ hơi chậm nói thôi. Mặt nó thiệt giống thằng Cung hồi thuở nhỏ.
Ông Cả Cần lơ đãng nghe, cậu Hai Cung thì lắng tai nghe và theo dõi lời của mẹ không chớp mắt. Bà Cả bưng tách trà uống rồi nói tiếp:
– Gặp nó chỉ có một lát thôi, mà trên đường về lòng tôi cứ bào xào dao động mỗi khi nhớ đến nó. Không biết có phải đây là máu mủ thâm tình hay không? Ông nghĩ sao, hả ông?
Cậu Hai Cung ngồi nghe mà lòng buồn vô hạn. Ông Cả Cần thở dài:
– Bà nghĩ sao và muốn gì thì cứ bàn với thằng Cung. Nó đã lớn rồi, hãy để nó xử sự, còn mình làm cha làm mẹ chỉ nên góp ý chớ đừng có quyết định. Vợ chồng mình đã già rồi. Mặc dù không nói ra, nhưng bấy lâu nay gia sản coi như đã giao hết cho nó coi sóc. Gia đình lại ít con ít cái. Muốn cho nó xin con nuôi hay cưới vợ bé thì tùy bà với nó quyết định đi. Việc tốn kém tôi không đếm xỉa tới. Tôi thấy gia đình nay kể từ nay sẽ gặp sóng gió. Vì bà còn lạ gì cái tánh nhỏ mọn, ích kỷ của con dâu bà. Vậy thì bà với nó cứ liệu mà làm.
Cậu Hai Cung nãy giờ buồn hiu và lo vừa sợ, nhưng khi nghe cha mở lời thì cậu vui mừng khấp khởi. Bởi ông là người có quyền uy tối hậu trong gia đình. Khi ông đã quyết định rồi thì không ai dám cãi. Cả má cậu cũng phải nghe theo. Cậu biết trong vấn đề nan giải nầy, cha cậu muốn né, để cho mẹ con cậu quyết định. Ông không muốn mắc vào vì còn bên ba má vợ cậu nữa. Cái khó ăn, khó nói nhứt là vợ của cậu thôi, chắc chắn mợ sẽ làm rùm beng lên. Nhưng cậu không ngại, cứ đánh liều tới đâu thì tới! Cậu không muốn con Hiền và con của cậu sống bơ vơ nghèo khổ. 
Kiều Lan và Kiều Liên lớn như thổi. Hai đứa cháu nội càng lớn càng xinh. Bà nhìn con dâu vui vẻ nói:
– Hôm qua đi cúng miễu, bà hội đồng Hào, bà Cả Tám ở làng bên khen hai đứa nhỏ dễ thương quá, và hai bà còn hỏi con có mang chưa? Hai bà nói má có thêm vài đứa cháu nội trai nữa là thêm vui nhà, vui cửa.
Mợ Hai Cung thoáng buồn vì đã hai lần xẩy thai đều là con trai. Bỗng mợ chợt nhớ tới lời cô Năm nhập xác đồng khuyên nên xin một đứa con trai nuôi thì mợ sẽ sanh và nuôi được con trai. Mợ hơi lưỡng lự, nhưng hôm về thăm nhà, má mợ cũng nhắc. Bà còn nói xin con nuôi thì có nhằm chi đâu, nó cũng không đổi họ thay tên theo như con ruột mợ. Sau nầy có đứa để mợ sai biếu và tin cẩn nó được… Má mợ nói cũng có lý. Nay, nghe má chồng nhắc đến, mợ không ngần ngại tỏ bày:

– Thưa má, dạo nay anh Cung bịnh rề rề. Má con nhớ lời cô Năm nhập xác đồng không? Hay mình xin đứa con nuôi đi má. Nếu như lời cô Năm nói thì gia đạo mình sẽ gặp điều kiết tường. Còn không thì mình cũng có mất mát gì đâu. Thêm một miệng ăn cũng không tốn kém bao nhiêu…
Bà Cả Cần không ngờ câu chuyện bà định nói lại thuận buồm xuôi gió như vậy. Bà gật gù, nhưng lấy giọng nghiêm nói với con dâu:
– Bây thật sự muốn xin con nuôi sao? Phiền phức lắm đó, phiền không phải vì nó ăn nó mặc, hoặc sau nầy phải chia của cho nó. Dù mình có cho nó chút ít cũng nhằm nhò gì đâu về đất đai của nhà nay và còn bên ngoại của hai đứa nhỏ nữa. Phiền là ở chỗ nếu mình coi nó như tôi tớ thì mình sẽ bị thiên hạ chê cười.
Bà Cả Cần đã mở cờ trong bụng, tuy nhiên cũng nói với con dâu:
– Con muốn vậy thì để má bàn lại với cha con và thằng Cung coi họ có chịu không đã.
Mợ Hai Cung sợ mẹ chồng đổi ý, vội nói:
– Việc nầy thì má cứ bàn với ba. Còn phần anh Cung để con lo.
Bà Cả Cần đem câu chuyện giữa bà và con dâu vừa nói kể lại hết cho con trai nghe. Cậu Hai Cung mừng quýnh, nhưng nói với mẹ:
– Má à, con muốn con Hiền về đây làm vợ bé và nhận thằng con, chớ đâu phải chỉ nhận là thằng con nuôi thôi.
Bà Cả Cần nổi sùng:
– “Được voi đòi tiên”. Bộ mầy muốn phá vỡ tan tành cái gia đình nầy hả? Con thật quá nông cạn. Thời gian còn dài, không phải làm ồ ạt lộ liểu một lần được đâu.
Cậu Hai Cung có vẻ không bằng lòng ý định của mẹ. Cậu muốn nhận thằng con, và cho con Hiền có một danh phận. Đó không phải là để đền bù việc quấy cậu đã gây ra, mà thật sự cậu đã thương yêu nó! Hình ảnh của con Hiền lúc nào cũng vương vấn trong tâm hồn cậu, cả những lúc ân ái với vợ, cậu cũng nghĩ tới nó! Bởi mang nỗi dồn ép trong lòng không nói ra được lâu ngày nên cậu mới sanh bịnh. Nay dù sự an bài của me không như ý, nhưng cậu cứ để cho bà quyết định. Bởi mẹ cậu nổi tiếng là Gia Cát Lượng, có tài và khôn khéo sắp xếp mọi sự việc trong nhà nầy. Gia sản của gia đình có ngày nay một phần lớn cũng nhờ công lao của bà.
Bà Cả Cần lại khăn gói lên nhà ba má con Hiền xin thằng con của Hiền về làm con nuôi cho cậu mợ Hai Cung và làm cháu nội nuôi của ông bà…
Ba má con Hiền thở dài không nói gì. Lòng con Hiền buồn vời vợi, và cũng không trả lời bà Cả Cần đề nghị. Nó lặng lẽ xách thùng xuống rạch kế bên sàn lảng, múc nước đổ đầy mấy lu chứa nước uống trước nhà. Bởi hôm nay là ngày cuối con nước rông, nước sông cái chảy vào vừa trong, vừa sạch lại không có phèn. Nếu không múc chứa đầy lu thì phải chờ cả tháng sau con nước tới mới dùng được như vậy thì cả nhà sẽ không đủ nước để uống. Múc đổ đầy hết các lu, các khạp, nó cầm cục phèn chua trắng trong như cục nước đá chà vào thành lu, rồi quậy ào ào cho chất phèn chua trộn đều nước trong lu. Chừng 10 phút sau, nước đứng yên, phù sa lợn cợn trong nước lắng xuống đáy lu, bên trên là nước trong vắt, uống ngọt lịm. Ở thôn quê không có nước phông-tên nên nhà nào cũng lóng nước bằng cách tiện lợi và rẻ tiền nầy.
Má con Hiền ẵm thằng cháu ngoại đứng gần đó. Thấy mẹ, thằng bé đòi bồng tay chân bỏ qua, miệng bập bẹ “ma má má…”. Nó lại cười tích toác, đôi má lúm đồng tiền coi rất dễ thương. Bà Cả lại đưa tay bồng thằng bé nựng nịu. Con Hiền cảm thấy khó chịu và bực bội lắm. Nó chống đối chuyện cho thằng con nó làm con nuôi người ta rất quyết liệt. Nó nghĩ mình không phải là đồ vật ai muốn xách bỏ đâu thì bỏ, đem đi đâu thì đem, biểu cái gì thì phải làm cái đó. Bà Cả hiểu rõ sự oán hận và lòng tự ái của nó. Bà nhỏ nhẹ phân bày:
– Cháu đi theo làm chị vú của nó, săn sóc nó, nuôi nó… Chỉ có mẹ mới chu đáo lo cho con mình. Bác sẽ trả tiền công cho cháu hàng tháng. Như vậy mẹ con cháu được gần gũi nhau. Ở đây, hai mẹ con sống cơ cực quá. Rồi khi lớn lên làm sao cháu có đủ tiền cho nó học hành? Chẳng lẽ cháu để con mình sống ở nơi hẻo lánh và lại tiếp tục làm ruộng rẫy suốt đời khổ cực hay sao?
Ba má con Hiền không có ý kiến trong vụ nay. Ông đi ra vườn làm việc lặt vặt, bà rút lui xuống bếp kho cá nấu cơm, để cho con nói chuyện với bà Cả và cũng để tự nó quyết định. Con Hiền vừa khóc vừa trả lời:
– Thưa bà, ở nơi hẻo lánh, làm ruộng rẫy có gì không tốt đâu? Hai mẹ con cháu đã quen sống cảnh nghèo nầy rồi. Bao nhiêu người sống ở đây, gia đình họ vẫn sống êm đềm yên vui bên ruộng rẫy đó mà. Cháu không muốn sung sướng mà bị ràng buộc và lo lắng trong lòng.
Bà Cả nói hết lời nhưng không lay chuyển được con Hiền. Bao nhiêu đòn phép, bao nhiêu chiêu thức bà đã đem ra dùng nhưng nó vẫn “trơ như đá, vững như đồng, nhứt trụ kình thiên”. Nó hận cậu Hai Cung đến tận xương tủy rồi. Bà Cả Cần phiền muộn vô cùng nhưng chưa nản lòng, vì bà biết Hiền là đứa con hiếu thảo, nên nói:
– Nếu cháu bằng lòng thì bác sẽ sang nhượng không lấy tiền một mẫu hai công vừa đất vườn vừa ruộng luôn cho ba má cháu đang làm tá thổ tá điền.
CHƯƠNG BẢY
Ông bà Cả Cần và cậu Hai Cung đặt tên cho đứa bé trai là Thiện Tố. Trong nhà nầy chỉ có ông bà Cả Cần, cậu Hai, và chú Ba biết rõ căn nguyên của nó. Còn mợ Hai và những người làm chỉ nghe bà Cả cho biết là khi con Hiền nghỉ việc ở nhà bà, về ba má nó gả chồng rồi sanh con, chồng nó đi làm ăn xa sanh tật có vợ bé, bỏ mẹ con nó ở quê nhà.
Thằng Thiện Tố được ông bà Cả và cậu Hai thương yêu như vàng như ngọc nhưng họ không dám ra mặt lộ liễu cho người ngoài thấy, nhứt là đối với vợ cậu. Còn hai cô Kiều thì luôn chạy theo chị vú Hiền để được nựng và chơi với em. Mợ Hai thấy thằng nhỏ đẹp và khôn ngoan, được mọi người trong gia đình thương mến thì sanh lòng ganh tị. Một hôm Kiều Lan và Kiều Liên chơi với em, Kiều Liên giựt đồ chơi của Thiện Tố rồi lỡ trợt chân té nhào. Cô bé khóc sướt mướt nói với mẹ là em bé xô cô. Mợ Hai nóng ruột con, sớn sát vả cái chát vào mặt thằng nhỏ, năm ngón tay hiện rõ trên làn da sữa của nó. Con Hiền làm công việc gần đó, chạy lại ẵm hốt con lên vỗ về nó mà nước mắt chảy rưng rưng. Ông bà Cả đi vắng, cậu Hai đi thăm ruộng chiều mới về.
Trong bữa cơm tối, không thấy thằng bé chạy tới chạy lui, cười giỡn như mọi ngày. Câu Hai hỏi:
– Bộ Thiện Tố ngủ sớm rồi sao, mà không lên đây chơi với ba và ông bà nội?
Mợ Hai sa sầm nét mặt, ngó xuống mâm cơm làm thinh. Kiều Lan mở to mắt nhanh nhẹn nói:
– Sáng nầy, má đánh em Tố đau lắm. Em Tố khóc, chị vú cũng khóc nữa đó ba.
Cậu Hai Cung nhìn vợ. Mợ Hai quên có ông bà già chồng đang ngồi đó, dằn chén cơm xuống bàn nghe cái cộp, thẳng giọng:
– Thằng đó còn nhỏ mà hổn láo giựt đồ còn xô Kiều Liên nữa. Dạy con dạy thuở còn thơ nên tôi đánh để cho nó biết. Kẻo sau nầy lớn lên, nó sẽ không coi ai ra gì.
Cậu Hai trợn mắt:
– Thằng nhỏ năm nay bao nhiêu tuổi mà bà đánh cho nó chừa thói hư tật xấu? Bà đừng có để cho những người ăn kẻ ở trong nhà nói bà hà hiếp bạc đãi con nuôi thì khó nghe lắm.
Cậu Hai gọi chú Ba bảo vú Hiền ẵm Thiện Tố lên. Chú Ba đi một lát trở lại thưa là thằng bé ngủ rồi. Thật ra thì thằng nhỏ còn thức nhưng nửa bên mặt sưng húp nên con Hiền khuyên chú Ba đừng ẵm nó lên nhà trên, kẻo không sẽ có chuyện nữa, chi bằng nói nó ngủ cho yên.
Sáng hôm sau, bà Cả đi nhà cầu ngang qua buồng con Hiền, bà ghé vào thăm. Năm ngón tay con dâu của bà in trên mặt thằng nhỏ vẫn chưa lặn hết. Sau đó bà gọi rầy riêng mợ Hai Cung. Mợ chẳng những không hối hận mà còn căm giận thằng nhỏ và mẹ nó hơn. Mợ nghĩ rằng cô Hiền tỉ tê gieo tiếng dữ cho mợ, để cả nhà ghét mợ.
Rồi từ đó trong nhà luôn xảy ra những chuyện tuy nhỏ nhặt, nhưng vẫn cháy âm ỷ sanh ra hiềm khích. Cô Hiền một mặt tránh né cậu Hai, một mặt giữ mình là kẻ ở cẩn thận từ lời ăn tiếng nói với người trên và những người làm chung trong nhà ông Cả. Cô an phận, không than oán, không đòi hỏi, chịu đựng làm mọi công việc trong nhà cho người ta, để được gần con, và để giúp cho ba má cô sớm tậu được đất vườn cư ngụ và canh tác, cô chỉ mong cha mẹ và các em không túng thiếu, đói rách mà thôi.
Có một hôm thừa lúc nhà vắng người, cậu Hai lẻn vào buồng cô Hiền, ôn tồn hỏi:

– Tại sao Hiền cứ lánh mặt tôi hoài vậy? Hiền có biết tôi rất đau khổ không được gần gũi Hiền lắm không? Tôi thật là có lỗi để cho mẹ con Hiền luôn bị vợ tôi hiếp đáp. Tôi biết như vậy là bất công với mẹ con em. Nhưng em rán chịu đựng đi. Chờ thời gian thuận lợi tôi sẽ chính thức cưới em làm vợ bé.
Cô Hiền hoảng hồn vừa khóc vừa sụp lạy cậu Hai:
– Tôi lạy cậu, xin cậu hãy tha cho tôi để tôi nuôi nó đến khi nó biết tự chăm sóc, tự làm lấy mọi thứ cho nó thì tôi đi. Tôi không muốn ở nhà cậu và tôi cũng không muốn làm vợ hai vợ ba của cậu. Xin cậu tha cho tôi! Xin cậu hãy tha cho tôi. Nếu cậu còn có lòng nhân thì làm ơn đừng gặp tôi nữa!
Cậu Hai Cung chép miệng thở dài, không nói gì, chỉ để lại gói tiền nhỏ, bảo cô Hiền cần gì thì có tiền đó mà xài. Rồi cậu lặng lẽ đi ra.
Những chuyện xào xáo vặt vạnh trong nhà bà Cả Cần luôn xảy ra. Cô Hiền cắn răng chịu đựng. Cho đến khi thằng Thiện Tố gần 3 tuổi thì mợ mang thai và sanh ra được thằng con trai kháu khỉnh, đặt tên là Thiện Cảm. Ông bà Cả Cần và cậu mợ Hai hết sức vui mừng và thỏa mãn trong lòng.
Khi con trai mợ Hai được thôi nôi thì cô Hiền xin thôi việc. Từ ngày Thiện Tố thôi bú, cậu Hai thường ẵm nó lên phòng làm việc ngủ với cậu Hai. Thằng nhỏ càng lớn càng khôi ngô và lanh lợi. Cậu Hai yêu thương nó vô cùng. Nó cũng thương cậu luôn quấn quít bên cậu. Và nó luôn miệng gọi ông bà Cả bằng nội và mợ Hai bằng má. Mợ Hai dạy nó gọi cô Hiền bằng vú.
Ông bà Cả không cho cô Hiền nghỉ việc, nhưng cô nhứt định xin thôi. Còn cậu Hai tìm đủ cách để giữ cô lại, nhưng cô cương quyết ra đi. Ngày đó, cô đã sửa soạn áo quần vô túi xách, để nửa đêm lén ra đi, khi đứa con còn yên giấc. Nhìn con đang ngủ, gương mặt ngây thơ, cô vội bụm miệng mình để không bật thành tiếng nấc, rồi xách gói chạy ra ngoài sau khi khép hờ cửa lại.
Cô Hiền về nhà định sẽ ở chơi với các em và cha mẹ mười bữa, nửa tháng thì đi lên Sài Gòn ở mướn cho gia đình người Tàu ngoài Chợ Lớn, do chị Ba Cam giới thiệu. Lúc trước chị Ba làm ở nhà ông bà Cả Cần, sau đó chị nghỉ và được người cùng xóm giới thiệu, chị lên Sài Gòn làm cho vợ chồng ông Tàu nay cũng hơn một năm rồi.
Cô Hiền về ở nhà mà tâm hồn cứ quấn quít bên con ở dưới nhà ông bà Cả Cần. Cô héo hắt nhớ con và phải sống xa con. Nhưng biết làm sao bây giờ? Chẳng lẽ suốt cả đời nầy cô phải ở chịu sự dằn dật của mợ Hai và phải dòm chừng né tránh cậu Hai? Thằng con ở lại, dầu gì gần cha nó cũng đỡ hơn sống hẩm hiu nghèo khổ với cô. Cha nó có tiền có bạc, ăn sung mặc sướng, lớn lên nó sẽ được đi học để làm thầy thông thầy ký với người ta. Ở với cô lớn lên giỏi lắm thì nó chỉ học hết trường làng rồi cày sâu cuốc bẩm. Cao lắm chừng 17, 18 tuổi thì nó lấy vợ đẻ con. Khi nó ngoài 30 tuổi thì con cái nheo nhóc bữa đói bữa no. Cô tin rằng ai đó nếu ăn ở có đức, thì cực lúc nhỏ, nhưng sẽ sung sướng lúc tuổi trưởng thành.
– Con Hiền ngó chừng đuổi gà bươi mấy bụi thuốc lá của ba bây. Má đi xuống mé sông cào mớ hên về nấu bánh canh ăn.
Bị mẹ làm cắt dòng suy nghĩ, cô Hiền nói:
– Má cứ ở nhà để con đi bắt hến cho.
Má cô Hiền gật đầu. Bà đưa cái thúng giê để cho con đựng, và chiếc rổ thưa cứng chắc để cào và dạo hến dưới nước cho sạch trước khi đem về nhà.. Cô Hiền lấy dây chuối buộc chặt hai bên bắp vế cao hơn đầu gối một chút để đĩa không chun vào trong được. Cô xăng hai ống quần lên cao tới dây cột, để rổ vào thúng cắp lên nách, lửng thửng đi lần xuống mé sông hướng về bờ kinh cạn. Cô Hiền nhậm lẹ nên chẳng mấy chốc bưng về hơn nửa thúng hến mập tròn. Nước trong thúng rỏ ra chảy thành dòng. Để thúng hến xuống, cô đi thẳng ra gốc cây chanh hái hai trái chanh đèo, đem cắt làm hai vắt vào thùng nước có sẵn trên sàn lảng, cô dầm thêm mấy trái ớt hiểm rồi đổ hết hến vào ngâm. Chất chua và cay lưỡi sẽ làm cho hến hả miệng để nhả bợn, nhớt và đất cát ra. Cô đi thay bộ đồ khô, phụ mẹ làm bánh canh.
Gạo được ngâm cách đêm, xay ra thành bột bằng cối đá. Xay xong, cô đổ hết bột vào cái bao nhỏ may bằng vải dầy và chắt mà người dân quê thường gọi là cái bồng bột. Cột miệng bao lại, để nằm trên cối, dằn tấm thớt cối đá lên trên bao chứa bột. Nước trong bột tươm ra, và rỉ rả chảy hết nên chỉ còn lại là chất bột. Má cô lấy cục bột đủ làm bánh canh cho cả nhà ăn hôm nay, còn bao nhiêu bà cắt mỏng phơi khô để dùng cho lần khác. Bà lấy cục bột làm bánh cánh pha thêm chút nước có chút muối, và đưa cho cô Hiền bảo mạnh tay nhồi cho bột nhão đều, và lấy nồi lớn bắt nước nấu cho sôi lên. Bà trải lá chuối trên tấm thớt bằng cây tròn, và lớn, lấy từng cục bột nhão vừa nhồi lên cán mỏng trên lá chuối. Bà dùng dao ăn trầu nhọn mũi cắt theo chiều dài lá chuối, còn chiều ngang của sợi bột bằng hoặc lớn hơn chiếc đũa. Rồi nhẹ tay bà thả giề lá chuối có bột đó vào nồi nước đang sôi ùng ục. Khi bột chín thì tự nó tách rời lá chuối. Cô Hiền nhanh tay dùng đũa vớt lá chuối bỏ đi, vớt bánh canh để vào cái nồi nước hến, và cứ thế không bao lâu mà nồi nước hến đầy những sợi bánh canh trắng nõn nà.
Nước hến dùng để nấu bánh canh nầy do cô Hiền lấy nước luộc hến chắt bỏ cặn. Hến được cô lẹ tay gở lấy ruột mập, và trắng hếu đựng trong cái tô sành. Má cô Hiền nạo dừa khô vắt lấy nước cốt đổ chung với nước hến, nấu với bánh canh. Ruột hến đem khử mỡ hành, để vào nồi bánh nấu cho sôi bừng lên. Nồi bánh canh được nêm chút đường, nước mắm, rồi hành, ngò xắt nhuyễn rắc vào. Khi múc ra tô, ra chén thì rắc tiêu cà trên mặt.
Tô bánh canh sền sệt, còn âm ấm. Mùi bột nấu với nước cốt dừa, hến, cùng mùi ngò rí, hành lá, tiêu cà quyện lấy nhau và tỏa nồng nàn. Lấy muỗng múc để vào miệng. Ôi, bánh canh ăn đến đâu nghe béo miệng và ấm lòng đến đó. Ăn một tô rồi muốn ăn thêm tô nữa! Bởi vì hến dưới sông, dưới rạch bắt lên trong ngày nấu liền, nấu bằng nước vùng hến sinh sống, nên ngọt thịt và nhứt là không tanh. Món bánh canh hến nước cốt dừa vừa bình dân, vừa thanh đạm, lại rẻ tiền…
Ngoài Huế có món cơm hến, nổi tiếng là ngon. Nhưng ở xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh như Cai Lậy, Cái Bè, Sa Đéc, Cao Lãnh … mới có món bánh canh hến. Còn nhiều nơi khác có món cháo hến, cũng nấu như bánh canh hến. Ngoài ra còn hến nấu canh rau tập tàng, kho sả ớt, trộn gỏi bắp chuối là các món phổ thông nhứt ở hai vùng Tiền Giang và Hậu Giang.
Sau nầy, khi có gia đình, Thiện Tố mỗi lần ăn đến món hến là nhớ đến mẹ hiền. Vợ chàng khi thì nấu cháo hến, khi thì bánh canh hến, khi thì canh hến tập tàng. Nàng còn nấu hẹ cắt khúc với hến, thay cho gan heo và tàu hủ. Chàng làm mấy câu thơ có hơi hướm ca dao:
“Đi quẩn đi quanh nhớ bánh canh hến
Từ ấu thơ cho đến trưởng thành
Món ăn mộc mạc quê anh
Ân tình thắm đượm, ai đành quên sao?”
Ngoài Miền Nam nước Việt ra, ít nơi nào có được hương vị thức ăn nấu bằng hến nầy.
Mới sáng sớm, có ai cặp xuồng ở dưới bến. Cô Hiền đang nấu nồi cơm nếp trộn dừa, nồi nếp cũng vừa cạn nước. Cô lấy đũa sơ đều, đậy nắp nồi lại rồi dụi bớt lửa. Cô bước ra gần ảng nước mưa nhìn xuống bến. Thì ra đó là chú Ba, người làm của nhà ông Cả Cần bươn bả đi vào. Chú mệt nhọc, bơi cả đêm bơi xuồng không ngừng nghỉ. Thấy cô Hiền, chú lập bập nói:
– Cô Hiền ơi, thằng con cô bịnh nặng lắm. Cậu Hai đã chở nó đi nằm nhà thương ngoài tỉnh Mỹ Tho rồi. Bà Cả bảo tôi rước cô, có lẽ nó nhớ cô nên không ăn uống gì rồi sanh bịnh chăng? Cô mau mau sửa soạn rồi tôi đưa cô ra lộ đá đi Mỹ Tho cho kịp hôm nay.
Má cô Hiền bới cơm nếp và dọn tép rang cho chú Ba ăn đỡ dạ. Bà hối thúc con thu xếp quần áo cho lẹ để chú Ba đưa cô ra ngã ba Bà Bèo, lội bộ ra quốc lộ Bốn rồi đón xe đò đi xuống Mỹ Tho. Chú Ba cũng căn dặn:
-Xuống bến xe, cô kêu xe kéo đến nhà thương Mỹ Tho. Vào nhà thương nhớ hỏi tên đứa nhỏ là Trần Thiện Tố. Cậu Hai đang trông chừng cháu ở đó.
Tuy từ nhà cô Hiền đi Mỹ Tho có xa hơn từ nhà bà Cả Cần ở Cai Lậy đi Mỹ Tho, nhưng đi xe lẹ hơn và đến nơi chắc kịp hôm nay để gặp mặt con cho mau. Chớ đợi bơi xuồng nửa đêm mới về đến nhà bà Cả, rồi mai mới đi Mỹ Tho thì đêm nay làm sao cô ngủ nghê cho được?
Cô Hiền nhìn con ốm nhom, mệt nhọc thoi thóp thở, mà nước mắt đầm đìa! Chỉ có mười ngày thôi con cô ốm quá nhiều! Hai tay gầy guộc, mặt mày xanh xao, cặp mắt thâm quầng, mà tay vẫn ôm chặt chiếc áo cũ cúa mẹ lúc đi còn bỏ sót lại. Qua phút xúc động, cậu Hai nói:
– Con nhớ em mà sanh bịnh. Lúc ngủ dậy, con chạy tìm kiếm khắp nhà không thấy em. Nó khóc la, dẫy dụa, anh dỗ dành cách chi con cũng không nín. Nó khóc mòn mỏi rồi ngủ, ngủ thức dậy rồi lại khóc. Ba bốn ngày liền, con không ăn uống gì cả và lúc nào cũng đòi em. Ba má lo cho nó, nhưng không làm sao dỗ nó nín được. Lúc nào con cũng đeo theo anh. Sau khi em đi năm ngày thì con mình nóng sốt. Anh ẵm con đi thầy Chín Tể chẩn mạch hốt thuốc, nhưng bịnh nó vẫn không hết. Anh lo sợ, không biết phải làm sao. Cuối cùng ba má quyết định đi rước em về.
Cô Hiền lơ đãng trước lời nói tha thiết của cậu Hai. Cô nhìn con mà tan nát cõi lòng. Dự định gì ở ngày mai của cô cũng đều tan biến hết. Thấy con trong cảnh nầy, cô quyết định, từ đây về sau cô sẽ không xa nó nữa. Cô có thể làm tất cả, chịu đựng tất cả. Vì con, cô không so đo, kỳ kèo vào bất cứ một việc gì, hoặc là sự mỉa mai cay đắng nhứt. Cô sẽ không sợ, không màng đến chuyện gì nữa. Cuộc đời còn lại của cô sau nầy ra sao thì cũng vì con cô mà thôi! Cô quỵ xuống, ngã đầu lên giường, ôm bàn tay nhỏ ốm gầy của con và khóc nức nở.
Ngoài đường phố đã lên đèn. Những bóng điện tròn mắc trên cột trụ xi-măng cao trơ vơ, lạnh lùng tỏa ánh sáng vàng ủa thê lương. Cậu Hai đỡ cô Hiền ra đứng ngoài hành lang dài của tầng lầu một, nhìn thấu qua hàng rào bên kia con đường trải đá.
Người đi dạo phố thong thả, ăn mặc đẹp, thời trang. Lác đác bên lề đường có những xe bán đồ ăn vặt. Dưới cột đèn họ bán hột vịt lộn vùi trong thúng trấu, bán mía ghim, bán bánh, kẹo, bán chuối nếp nướng chan nước cốt dừa, bán thuốc hút… Cô Hiền nhìn hoạt cảnh nhộn nhịp nhưng lòng cô buồn vô cùng. Cậu Hai Cung đứng sát và nắm bàn tay cô xiết nhẹ. Theo phản ứng tự nhiên, cô Hiền giựt tay lại, bước tránh ra xa cậu. Cậu Hai Cung vẫn đứng cạnh cô, không nói gì, chép miệng thở dài.
Bà phạm-nhe già trực đi gõ cửa hết các phòng cho biết giờ nuôi bịnh đã hết. Mọi thân nhân của bịnh phải ra về, sáng mai hãy trở lại sau 8 giờ. Hiền nhăn mặt hỏi trỏng:
– Sao kỳ vậy? Con nít bịnh mà không cho người ở lại nuôi, nửa đêm nó khóc thì ai dỗ đây?
Cậu Hai trả lời:
– Phòng trực có nhiều phạm-nhe và trợ tá, họ sẽ lo rất chu đáo. Thôi, chúng ta sửa soạn rồi đi ra ngoài, nếu ở lại quá giờ thì sẽ bị bà đầm y tá đến đuổi đó.
Cô Hiền cùn quằn, nhăn mặt:
– Cậu đi đâu thì đi, tôi sẽ đến xin họ ở lại để chờ con tôi thức giấc.
Cậu Hai vào xách giỏ áo quần của cô bước ra, nói:
– Đừng có bướng, họ không cho ai ở lại đây đâu. Mấy hôm rày, đêm nào anh cũng ra ngủ ở ngoài.
Cô Hiền trợn mắt nhìn cậu Hai, vào ẵm con trên tay, hun hít rồi đặt con xuống giường. Thằng nhỏ trở mình, quay vào trong ngủ tiếp. Cậu Hai đưa cô Hiền về phòng ngủ. Cô Hiền chợt thấy trong phòng chỉ có cái giường nhỏ để cho một người, được trải vải trắng. Cô Hiền nhìn cậu Hai, bối rối:
– Chỉ có một cái giường, thôi cậu ngủ ở trên, để tôi ngủ dưới đất.
Cậu Hai Cung cười mỉm:
– Hai người ngủ chung.
Cô Hiền quắc mắt:
– Không được!
Vừa nói, cô vừa lôi gối, tấm vải trải giường đem trải trên nền gạch. Câu Hai bảo để cậu ngủ dưới sàn, còn cô ngủ trên giường. Sau một hồi dằng co, cô Hiền ngủ trên giường.
Chỉ chừng năm phút thôi, thì nghe tiếng thở pho pho say ngủ đều đặn của cô Hiền. Cậu Hai Cung trăn trở, lăn qua, lộn lại, bức rức trong lòng không ngủ được. Sau lần hãm hiếp cô Hiền, cậu những tưởng thời gian sẽ xóa nhòa hình ảnh cô trong tâm khảm của cậu, của một người đàn ông trẻ đầy sức sống, trong giây phút yếu lòng. Nhưng không đâu, cậu Hai Cung thật sự đã yêu thương cô Hiền bằng thứ tình cảm chân thành và say đắm, chớ không phải do sự thúc dục, xúi biểu hoặc bắt buộc, sắp bày như lúc cha mẹ cậu bắt phải đi cưới vợ. Chuyện vợ chồng mà do hai bên cha mẹ đã bằng lòng trước, sau đó mới rúng ép con thành hôn với cô gái xa lạ kia, mà từ trước cậu không hề quen biết hoặc một lần gặp mặt.
Trong giấc ngủ say, cô Hiền có một khuôn mặt thật hồn nhiên, vô tư. Thân mình cô phơi bày cân đối nở nang trọn vẹn của người thiếu phụ một con. “Gái một con trông mòn con mắt”. Tà tâm nổi dậy, cậu Hai bèn đứng lên, nhẹ ngồi xuống giường, nhìn cô Hiên, rồi rón rén lấy tay rờ lên má, nhẹ hôn lên môi, lên mặt cô. Cô Hiền chợt thức, thuận tay vả cái bốp vào mặt cậu. Cô bật ngồi dậy, thẳng giọng:
– Cậu mà làm ẩu, tôi sẽ nhảy xuống lầu tự vận liền. Đã một lần cậu hại đời tôi chưa đủ hay sao? Cậu có phải là con người không?

Cậu Hai Cung như chợt tỉnh giấc, xin lỗi cô Hiền và hứa sẽ không bao giờ làm chuyện như vậy nữa. Cậu còn bảo hãy cho cậu thời gian để cậu về xin với cha mẹ và vợ, nhận cô Hiền làm vợ bé.
Lòng thương yêu con của cậu Hai Cung suốt nửa tháng thằng nhỏ nằm nhà thương đã cảm động được cô Hiền. Với bản tánh hiền lương sẵn có, cô không còn sừng sộ hay dùng những lời lẽ khó nghe mỗi lúc cậu Hai nói chuyện với cô như trước nữa. Cô khổ tâm lắm! Vì cô biết rằng, làm vợ bé người ta là phải chấp nhận cuộc sống đau khổ nhứt, của đời một người đàn bà!
Duyên trời đã định? Không ai có thể trả lời được câu hỏi nầy. Cô Hiền danh chánh ngôn thuận làm vợ bé của cậu Hai Cung, do sự đồng ý của ông bà Cả Cần! Do áp lực quyền uy của ông bà già chồng, nên mợ Hai mới miễn cưỡng bằng lòng.
Làm vợ bé người ta, cô Hiền phải gánh chịu bao nhiêu nỗi đắng cay! Cô bị bao nhiêu rẻ khinh của những người làm chung với cô, xuất phát từ lòng ganh tị của con người! Trước mặt cậu Hai, ông bà Cả thì họ tỏ ra niềm nở với cô, nhưng họ luôn toa rập với nhau nói xấu, vu oan cô để lấy lòng mợ Hai. Thêm vào đó là sự đày đọa, hà hiếp, thóa mạ vì lòng ghen tuông, ganh ghét của người vợ lớn. Thân phận cô Hiền chỉ khác với con nhỏ ở trong nhà là có con với ông chủ và được gọi là mợ Hai nhỏ vậy thôi!
Danh xưng Mợ hai nhỏ! Cô Hiền phải đổi một giá quá đắt với người đời và bà vợ lớn. Những vụ dèm pha, cười chê nhạo báng bên ngoài không nói làm gì. Mọi sự việc trong gia đình nặng nhọc, vất vả, khó khăn, thì cô Hiền phải đương đầu đứng mũi chịu sào gánh vác hết. Còn lợi lộc, vui vẻ, sung sướng thì cô là phận làm bé phải nhường nhịn, phải chịu lép hơn vợ lớn của người ta. Cả ân ái với chồng, cô cũng không có trọn quyền. Cô gần gũi với chồng khi nào hết công việc làm không ngớt tay hằng ngày, hoặc khi mợ lớn vắng nhà. Còn những chuyện bất công vô lý khác thì dẫy đầy. Chẳng hạn như là con trai cô Hiền nhỏ hơn Kiều Lan và Kiều Tiên thì gọi hai cô ấy bằng chị phải rồi, đằng nầy Thiện Cảm sanh sau Thiện Tố hơn 2 năm mà bà vợ lớn của cậu Hai Cung bắt nó phải gọi Thiện Cảm bằng anh, bởi bà nói Thiện Tố là con giòng nhỏ!
Cô Hiền chịu khổ chịu cực nương náu trong nhà ông bà Cả Cần là nhờ được cậu Hai thương yêu. Cậu Hai là người chồng tốt. Mặc dù bị vợ lớn gò bó đủ mọi thứ, bắt chẹt đủ mọi điều, nhưng cậu thoát ra ngoài vòng kiềm tỏa của vợ lớn, nên cậu giữ được quyền hạn của một người đàn ông, của một người chồng. Cho nên dù cho tru tréo, hiếp đáp cô Hiền sau lưng chồng, nhưng trước mặt cậu Hai, mợ vẫn chị chị, em em, giả giọng làm vui vì phải nể mặt chồng và ông bà già chồng còn sống sờ sờ ở đó.
Tình yêu có sức mạnh vô biên! Cô Hiền cam lòng ngậm đắng nuốt cay sống ẩn nhẫn lây lất qua ngày trước sự cay nghiệt hà khắc vô lý của bà vợ lớn. Cái hy vọng duy nhứt của cô là lòng tin tường tuyệt đối vào sự công bằng của Thượng Đế. Cô nghĩ có lẽ kiếp trước mình đã nợ nần chi với gia đình nầy, nên kiếp nầy cô phải trả. Ý nghĩ về sự trả vay theo thuyết nhà Phật nhen nhúm trong lòng một thiếu phụ trẻ, có tâm hồn đơn sơ, mộc mạc đó đã giúp đỡ cho chính cô tìm gặp niềm an ủi và niềm vui mà sống. Cô luôn nguyện cầu ơn Trên phù hộ cho mẹ con cô sớm ngày mãn hạn đọa đày để an hưởng cuộc sống dễ chịu giống trong những chuyện cổ tích như là Lâm Sanh Xuân Nương, Quan Âm Thị Kính, Thạch Sanh Lý Thông, Ăn Khế Trả Vàng.. mà cô thường nghe người ta kể. Đến ngày đó mẹ con cô được ra ở riêng để sống hẩm hút, sớm tối có nhau.
Cảnh nhà của ông bà Cả Cần vốn bất hòa, mọi việc xáo trộn đều do mợ Hai Cung gây ra. Nên càng lớn lên, hai cô Kiều mất dần vẻ tươi sáng, hòa hưỡn. Cả hai giống tánh mẹ, hay câu mâu, hay nói chãnh, hay cãi cọ, hay giận lẩy… Cho nên trên khuôn mặt dù có nét đẹp, dù có thân hình cân đối, nhưng vẻ cau có của họ khó gây cảm tình với mọi người thân thích hay chòm xóm, láng giềng.
Chồng của hai nàng Kiều bảnh trai, nhưng thích chuyện chim chuột mèo mỡ, nên họ ghen tương dữ dội. Tai ác thay, cậu Trần Công Nghĩa chồng của Kiều Lan, có tướng tá cao lớn, mặt mũi khôi ngô đáng lẽ phải là người anh hào, oai dõng mới phải. Đàng nầy cặp mắt của cậu rất lẳng, cái nheo mắt rất đểu giả, nụ cười thiệt là dê gái. Hễ gặp gái thì cậu như lân gặp pháo, như mèo thấy mỡ, đẹp như phụng lộn tiên sa cậu không buông tha, xấu như dạ xoa cậu cũng ve vãn. Cậu có nụ cười vừa đểu cáng vừa dâm dật, còn giọng cười hô hố đưa cả hàm răng mọc mất trật tự ra. Con người mà có nụ cười như vậy, giọng cười như vậy thì lòng dạ thẳng ngay, chặt chịa sao được. Cho nên Kiều Lan phải kiểm soát tiền bạc, đồ vật trong nhà, và sai kẻ ăn người ở âm thầm theo dõi nhứt cử, nhứt động của chồng. Cô sợ chồng đem tấm thân 7 thước trượng phu nộp mạng cho mấy con dâm phụ. Cô lo lắng chồng rút rỉa tiền bạc, ăn cắp đồ vật quý trong nhà đem cho mấy con chuyên dụ dỗ bòn vét của mấy thằng cha nhẹ dạ dại gái như chồng nàng.
Còn chồng nàng Kiều Liên, là cậu ấm Nguyễn Hiếu Tử thì trắng trẻo cũng thuộc nòi tình, hễ thấy con gái xinh thì quanh quẩn, thấy đàn bà đẹp thì thả dê, thấy mấy cô gái nhỏ thì cũng rờ má bẹo càm. Ôi, già không bỏ, nhỏ không tha! Cho nên hai nàng Kiều, ngoài cái miệng hàng ngày ăn hàng xàm xạp, còn có tật ưa nói móc, nói ngoéo xóc óc chồng. Chị em tuy khác nhau về vóc dáng, nhưng có cùng một tánh với nhau.
Thằng em, Thiện Cảm là quý tử con cầu con khẩn của ba má hai cô Kiều! Tuy là cùng cha cùng mẹ nhưng tánh cậu lại khác với hai chị. Cậu không ăn hiếp kẻ dưới của mình. Cậu không ganh tỵ, không cay cú, khó chịu… Chỉ tội có cái là cậu hơi nhát gan và dại gái. Cậu tự biết mình khó làm kẻ giữ vững nghiệp nhà. Cho nên ai làm gì cậu không cần để ý. Cậu lo ăn diện, chơi bời. Được Trời thương, cho cậu cái tài chải chuốc áo quần tóc tai và ăn chơi hào sảng. Ông Hai Cung phải gầm hét, chửi bới, bà Hai Cung phải rít the thé nhiếc mắng cậu, nếu không cậu phá hết cơ nghiệp vì thú đá gà, bài bạc và dưng tiền cho gái.
Thiện Cảm đẹp trai hơn cha mình, cậu trắng trẻo và cũng sáng nước hơn Thiện Tố. Những người có chút ít về tướng số thì thấy cái quới tướng của Thiện Tố ở chiếc cằm vuông báo hiệu hậu vận của chàng sẽ rực rỡ. Còn cái miệng chàng khi ngậm môi có vẻ bùi ngùi làm cho người ta thương mến mà thôi. Nhưng khi cặp môi ấy cười rộng miệng thì tươi ơi là tươi, chiếu sáng khuôn mặt và sóng mắt. Nụ cười đó báo hiệu cái tuổi trung niên của chàng sẽ gặp nhiều thành công tốt đẹp 
CHƯƠNG TÁM
Năm nào cũng vậy, từ khi hai mẹ con dọn ra ở riêng đến giờ, bà Tư Hiền nhứt định cúng Tết vào ngày mùng bốn Tết. Mấy bực điền chủ có vườn đất bộn bàng, mấy tay thương gia nghiệp chủ có tiền muôn bạc vạn mới ăn Tết cho tới mùng mười, rồi sửa soạn ăn Tết rằm Nguơn Tiêu.
Thiện Tố thơ thẩn dạo khắp thẻo đất thuộc khuôn viên của mẹ mình. Cây vú sữa đã hái hết trái. Mấy cây dừa Tam Quan, cây cau hòn trổ bẹ sởn sơ, không đợi tới mùa mưa. Cây vông đồng bên sàn lảng hoa vẫn tưng bừng nở đỏ. Mấy nọc trầu vẫn xôn xao trổ tược non, lên lá mới.
Trong vạt đất trồng rau, cải trắng, cải bẹ xanh, củ cải đã nhổ hết chỉ chừa mấy bụi cải bẹ xanh trổ bông vàng trở thành cải ngồng để dành lấy hột giống cho mùa tới. Còn các loại rau thơm, rau húng, rau dấp cá, rau răm, quế, ngò gai… vẫn tươi hơn hớn vì được tưới nước mỗi ngày.
Trên bãi bùn dựa mé bờ mấy khóm môn nước, rau mác xanh sôi nẩy bẹ sum sê. Ven ao gần đó cây điên điển trổ hoa vàng in bóng nước cùng với vùng trời xanh gọn mây trắng. Dưới lườn ao, rau muống ruộng non nhẩn, nhánh mọc rườm rà bò trên mặt nước.
Con chim khách từ đâu bay xẹt qua, lượn quanh nhà hót ríu rít rồi lủi trong cành lá mận tơ xạnh rì. Thiện Tố mỉm cười vu vơ rồi vào nhà rót trà uống từng ngụm. Chợt thấy mẹ như đang nghĩ ngợi xa xôi, chàng bảo:
– Má có vẻ mệt mỏi rồi đó. Má có cần uống thuốc ích khí bổ thần thì cho con biết.
Bà Tư nhìn con cười, đánh trống lảng:
– Đầu năm chim khách bay quanh nhà, chắc chắn năm nay gia đình mình có chuyện vui đó con.
Thiện Tố cười cười nhìn mẹ chọc quê:
– Chuyện gì vui vậy má? À mà con biết rồi, con trai má về nhà ở luôn thì má vui rồi, còn chuyện gì vui hơn nữa có phải không?
Cả tháng nay, cô giáo Cẩm Hương thấy con trai bà chủ nhà nằm ngủ ở chiếc đi-văn ngoài nhà trước, nàng đâm ngại. Nàng định cuối tuần nầy nói với bà Tư cho nàng ở thêm một tháng nữa, nàng sẽ tìm nhà khác mà dọn đi. Ở chợ quận nầy, nàng đã dò hỏi, rất ít nhà cho mướn riêng, người ta chỉ cho ở chung thôi. Hoặc mấy nhà nấu cơm tháng họ cho ăn ở luôn. Những nhà nấu com tháng thì ồn ào, ở đôi ba tháng thì được, ở lâu thì không thoải mái về mặt tinh thần cho lắm. Cẩm Hương định cố gắng dạy học ở Cai Lậy 2 năm đủ nhiệm kỳ thì xin chuyển về gần nhà. Nàng cảm thấy buồn, vì nhà ba má mình không còn ấm cúng như xưa, bởi chỉ có hai ông bà già hủ hỉ bên nhau. Ở nhà bà Tư, nàng tưởng đã yên, bây giờ lại phải sắp dọn đi. Dọn nhà là chuyện Cẩm Hương ghét nhứt. Nhưng phải chịu, tới đâu hay tới đó, chớ biết làm sao hơn!
Hôm nay đi dạy về, Cẩm Hương bước vào nhà thấy có vài thay đổi. Tấm vách phòng khách được đôn dời ra phía trước, nên bộ ghế dời gần vách sát bên cạnh cửa sổ. Cái đi-văn đem vô căn phòng vừa đóng còn thơm mùi cây, ván mới. Con bà chủ nhà dùng cưa tay đang cưa cậy rào rạo, rồi anh ta dừng lại, đóng đinh cộp cộp. Nãy giờ Cẩm Hương tò mò nhìn vào vì cửa phòng chưa ráp. Con trai bà chủ nhà chăm chú vào công việc, nghe bước chân nàng thì dừng lại, lịch sự chào hỏi:
– Chào cô giáo, cô mới đi dạy về đó hả? Cô bước vào xem coi có thích phòng nay không? Cô muốn kê bàn viết nơi nào? Chỗ máng áo nên đóng ở đâu? Chiếc giường ngủ để chỗ nầy có được không? À, còn cái tủ nữa chớ?
Cẩm Hương ngạc nhiên, nhưng mừng thầm trong bụng. Như vậy là họ không muốn cô dọn đi. Cô hỏi:
– Cảm ơn anh, tôi ở phòng cũ được rồi, để cho anh, hay bác Tư ở phòng mới nay đi. Bác Tư đâu rồi anh?
Thiện Tố cười vui:
– Má tôi vừa mới ra chợ. Đâu có được cô, phòng cô đang ở là phòng của má tôi, bà quý cô lắm mới nhường cho cô ở đỡ đó chớ. Phòng bà đang ngủ, là phòng của tôi, nhưng bà chê dơ, đồ đạc để bừa bãi… Nên bà muốn trở về phòng mình. Má tôi bảo đóng phòng nầy cho cô đó cô giáo.
Thế là Cẩm Hương ở lại nhà bà Tư Hiền khỏi phải tìm mướn nơi khác. Nàng được con trai bà chủ nhà khiêng những đồ nặng, bà Tư cùng cô khuân những thứ nhẹ như ghế, va-li, áo quần, sách vở…Chỉ trong vài giờ thôi, đồ nhẹ đồ nặng gì cũng được dọn hết qua phòng mới. Nhưng cô sắp xếp lại cho vừa ý phải mất cả ngày chủ nhật mới xong.
Phòng của Cẩm Hương có cửa sổ, nằm trên giường có có thể nhìn mưa rơi bên ngoài, nhìn đợt nắng sáng trải trên cây xoài cây mận ngoài song, nhìn trăng lên. Và nhứt là nàng có thể ngắm con kinh đào, cùng sinh hoạt của những nhà cất nửa trên đất liền nửa gie ra kinh. Ở ven bờ kinh có các cô gái giặt đồ, múc nước rửa chén, hoặc những đứa trẻ chầm nghịch dưới nước trong những ngày oi bức. Cô có thể lắng nghe tiếng chim kêu ngoài cửa sổ vào những sáng tinh sương. Cô còn có thể nghe giọng ru con buồn não nuột của thiếu phụ trẻ nhà hàng xóm.
Cẩm Hương thầm cảm ơn anh chàng Thiện Tố, người thanh niên trẻ mà cô bắt đầu hay nghĩ đến anh ta. Thường ngày, anh ta đi làm trước khi Cẩm Hương đi dạy học, và lúc nào cũng về trễ hơn cô. Anh ta là một thanh niên kiên nhẫn và chịu đựng, tánh tình đôn hậu, cởi mở, rộng rãi. Có lẽ nhờ thế mà anh ta sống rất thực tế và yêu đời. Bởi vốn là con bà nhỏ, từ lúc thiếu thời anh luôn bị sự bạc đãi, chèn ép của má lớn cùng sự xéo xắt, hà hiếp của hai bà chị là Kiều Lan, Kiều Liên.
Về Kiều Lan và Kiều Liên, Cẩm Hương đã gặp họ vài lần. Đôi bên chỉ chào hỏi chớ không ai chuyện vãn với nhau. Một lẽ là hai cô Kiều không đẹp bằng Cẩm Hương, không có bằng Thành Chung, không tốt nghiệp trường Sư Phạm như Cẩm Hương. Họ có vẻ không ưa nàng vì mặc cảm thua kém trở thành ganh ghét và cái tự đắc là tía má họ giàu. Hai cô Kiều không xấu xí, nhưng không kiều diễm. Cô em cao lớn, dáng đi hơi cứng, vai hơi ngang, mắt hơi lộ, răng hơi hô, da hơi ngâm, tóc dợn sóng trước trán. Cô chị hơi nhỏ vóc, hồng hào, khuôn mặt tròn, mắt một mí, mũi hơi thô, miệng hơi móm. Nhưng cả hai thích ăn diện, quần hàng áo lụa lòe loẹt, son phấn diêm dúa, nữ trang bừa bộn. Họ lại thích làm điệu, đánh lưỡi, sửa giọng khi nói chuyện.
Hôm đó, bất ngờ hai cô Kiều đến chơi. Trong khi bà Tư làm bánh chuối, nước cốt dừa đãi họ thì cả hai bàn đến chuyện tuồng cải lương và tiểu thuyết. Kiều Lan rất ghét tiểu thuyết có kết cuộc chia lìa: kẻ chết, người đi tu. Hễ vai chánh lỡ uống thuốc độc, hay treo cô tự tử thì cô ta bị ám ảnh suốt mấy ngày. Còn Kiều Liên chỉ muốn những nhân vật chánh hễ nhảy xuống sông tự vận thì có người cứu vớt. Rủi đương sự lỡ măc bịnh lao, bịnh cùi, bịnh phong tình cũng gặp thần y, thánh dược chữa lành bịnh, hoặc được Đức Mẹ Đồng Trinh ban cho nước thánh, hay gặp Đức Quan Thế Âm Bồ Tát rưới cam lộ làm bịnh dữ hóa thành sanh lực.
Kiều Lan bảo với bà Tư Hiền
– Tui coi tiểu thuyết chỉ muốn mấy nhân vật xấu xí, già nua dù có hảo tâm đi nữa chết thay cho mấy nhơn vật trẻ trung, đẹp đẽ. Gái xinh đẹp, trai anh hùng, oai phong, tuấn tú mà chết, trái tim tôi bị bóp thắt lại.
Kiều Liên mặc hầm hừ:
– Tui muốn mấy nhơn vật thợ may trong truyện “Tình Duyên Kim Chỉ” chết hết, dù tụi nó có đẹp, có trẻ đi nữa. Mấy người biết không? Thằng chồng khốn kiếp của tui cứ xum xoa theo con Sáu thợ may ở Ngã Tư Cái Bè. Tui biết ráo trọi.
Mọi người cười rộ lên. Bà Tư lắc đầu, thở dài. Rõ ràng là tâm địa bọn nầy không hiền. Nói chuyện ba đồng bảy đổi một hồi, Kiều Lan chìa tờ giấy bạc in hình con công (20$) rồi bảo Thiện Tố:
– Cậu Năm có đi Mỹ Tho mua dùm tui một hộp bơ Bretel, một chai Maggi. Tui vốn kén ăn. Cá chiên mà không phết bơ Bretel thì tôi nuốt không trôi. Dầm cá chiên với nước mắm chanh ớt thì không có cô hai Kiều Lan nầy rồi đa. Phải dùng Maggi thì tui mới nhúng đũa vào dĩa cá. Còn tàu iểu hiệu Con Chuột, xì dầu thì tui cũng từ luôn.
Kiều Liên chìa tờ giấy bạc 10$ điệu đà nói:

– Cậu mua dùm tui mấy cục xà bông Cô Ba và mấy hộp phấn chà răng hiệu Kool, hoặc hiệu Gibb. Mấy hôm rày tôi tắm bằng xà bông sả thấy mình mẩy ngứa ngáy. Còn phấn chà răng của mấy ông Ba Tàu bào chế không làm răng trắng bóng được. Còn bao nhiêu cậu mua bánh loại nhập cảng dùm, có thiếu tui sẽ trả thêm.
Vừa nói, cô Kiều nào cũng vừa liếc xéo Cẩm Hương, rồi nhìn nàng một cách soi mói, như muốn gây hấn làm nàng hoảng quá, phải rút lui lẩn vào buồng mình cho êm chuyện, với hai con người vô lý và thích khai chiến nây. Đôi lúc nàng nghĩ, nếu hai cô Kiều ngày nào không đâm thọc người nầy, nói xấu người kia, xỉa xói người nọ chăc hai cô sẽ ăn không vô, ngủ không ngon.
Có lần Thiện Cảm đến nhà Thiện Tố chơi trước khi chờ xe đi đám cưới người bạn ở Vĩnh Long tình cờ gặp Ánh Nguyệt đi Vĩnh Bình thăm bà con, trên đường về ghé qua thăm Cẩm Hương. Mới gặp Ánh Nguyệt lần đầu mà anh ta trổ mòi ve vãn rồi. Thiện Cảm có đẹp trai thiệt, nhưng không oai phong và cường tráng như Thiện Tố. Đây là thứ công tử bột, tốt mả rã đám.
Hôm nay cậu ta chải đầu láng bóng, mặc bộ com-lê bằng tít-so (tussor) màu ngà sậm thắt cà vạt đỏ, đi giày da màu nâu. Cườm tay mặt cậu đeo chiếc lắc vàng, ngón tay áp út bên mặt đeo hai chiếc nhẫn vàng. Cậu lại còn đeo đồng hồ trái quít, dây bằng vàng ló ra túi quần và gài ở bên hông chẳng khác Hắc, Bạch công tử. Ánh Nguyệt thấy hắn cứ rề rề nói chuyện hoài, và lúc nói chuyện với ai trong nhà cũng vậy, hễ chừng một chút là cặp mắt hắn đảo về phía nàng. Ánh Nguyệt thấy ghét quá, trề môi bảo Cẩm Hương:
– Tên nầy hôm nay quên đi đám cưới chắc?
Cẩm Hương cười:
– Mới gặp mà hắn như đã bị mầy hớp hồn rồi, còn biết đường nào nữa đâu mà đi!
Hôm đó, Cẩm Hương cũng có tiếp chuyện với Thiện Cảm, cậu ta khoe việc nuôi gà đá độ của mình. Cậu ta khoe đã đem gà đi đá ở Bến Tre, Vũng Tàu, Cần Thơ, Long Xuyên, Nha Trang… Lời nói cậu ta rổn rảng cố tình cho Ánh Nguyệt nghe, và mặt mày hiu hiu tự đắc bảo:
– Thằng em Thiện Tố của tôi trước đó lo cắm đầu cắm cổ học để lấy bằng cấp, nên chẳng đi đâu hết. Nó chỉ biêt có Sài Gòn thôi, đó là nhờ mấy dịp đi mua phụ tùng cho máy chà lúa. Giờ đây nó về Cai Lậy làm ruộng, trở lại cái cốt quê mùa. Người đời lấy thúng đựng gạo chớ ai lấy thúng đựng chữ bao giờ?
Ánh Nguyệt ngứa miệng:
– Vậy à? Nè anh Thiện Cảm, nếu tôi biết không lầm thì anh Thiện Tố lớn tuổi hơn anh, sao anh gọi anh Thiện Tố là em? Người Tàu không có cái kiểu lộn ngược vai vế như vậy đâu. Các con một cha ai lớn làm chị làm anh, còn ai nhỏ tuổi làm em dù là con dòng lớn cũng vậy.
Thiện Cảm cười hì hì, cãi:
– Tàu khác, mình khác chớ cô Nguyệt.
Ánh Nguyệt nghiêm mặt bảo:
– Nhưng cái tốt của dân tộc nào thì mình nên bắt chước. Còn cái hủ tục của dân tộc xứ mình thì nên tránh chớ.
Thiện Cảm nói rán:
– Nhưng thằng Thiện Tố và tui xưng hô như vậy lâu nay đã quen rồi. Giờ đổi cách xưng hô cả hai tránh sao khỏi nhột miệng. Vả lại tui không muốn má tui rầy tui nếu tui gọi nó bằng anh và xưng em.
Ánh Nguyệt cứng miệng, nhưng dịu giọng:
– Bà cụ cổ lỗ sỉ, thì anh phải cắt nghĩa cho bả hiểu. Hay thôi, nếu anh nhột miệng thì anh cùng anh Thiện Tố xưng nhau toa toa, moa moa cho tiện hơn.
Gần bốn tháng trong năm, Thiện Tố phải vào ruộng coi thợ thầy suốt mùa lúa chín. Sau mùa lúa anh mới trở về nhà mẹ, giúp mẹ chăm sóc những sinh hoạt hàng ngày của mẹ và đảm nhận chức quản lý nhà máy chà của cha. Thiện Tố cực khổ lắm mới đậu tú tài một. Năm sau anh học nửa chừng thì về gánh vác công việc làm ăn của cha chàng. Nhiều khi buồn cho phận mẹ con mình, không biết tỏ cùng ai, bà Tư Hiền tâm sự với Cẩm Hương:
– Cô giáo biết không? Thật tội nghiệp cho thằng Thiện Tố, nó là đứa con hiếu thảo, chớ như là một thanh niên trai trẻ khác thì không chịu bị lép vế như vậy đâu. Lúc nó đậu vào trường học lớn ở Mỹ Tho mà người ta gọi là cô-lây, cô-lết cô-lẹt gì đó ở Mỹ Tho (College Mỹ Tho) bác mừng rơi nước mắt. Biết thằng nhỏ thông minh học giỏi, theo lẽ má lớn nó mừng mới phải. Dè đâu bả mè nheo eo óc với ổng, bảo không cho nó đi học. Tội nghiệp thằng nhỏ khóc lóc và năn nỉ ổng cả tuần lễ ổng mới cho đi. Xuống Mỹ Tho thì hai con chị nó cũng đi theo học ở đó. Ổng mướn cái nhà, nghe đâu bên Giếng Nước ở Mỹ Tho cho mấy chị em ở đi học. Ai đời nó là con trai mà đi học về phải nấu cơm, phải rửa chén, quét nhà, xách nước… Coi như mọi thứ thằng em làm hết. Đã sung sướng mà không lo chăm chỉ học hành, hai con Kiều tối ngày đánh quần đánh áo, bạn bè rồi bạn bốn phương, rồi bồ bịch.
Bà Tư hớp ngụm nước, rồi nói tiếp:
– Bằng Thành Chung, hai y thị thi rớt 4 keo, sau đó lấy chồng cũng là cái thứ ăn chơi. Bà lớn và bên má chồng con Kiều Lan cho tụi nó tiền mở cửa tiệm bán vải ngoài chợ, bán đâu chưa được một năm sạch vốn lẫn lời. Bây giờ nó ở nhà nuôi hai đứa con và chồng nó làm tài phú cho ông dượng rể thẳng làm chủ. Sau đó thẳng được người cô ruột không có con, chết để lại gia tài cái lò gạch trên kinh Bà Bèo. Còn con Kiều Liên thì xin làm cô giáo dạy đâu trong ấp ở xã Long Tiên, đây đi vô khoảng hơn 3 cây số. Sau đó gả cho con trai út của bà chủ lò đường, bây giờ cũng kè kè 2 đứa rưởi con rồi.
Bà Tư nói đến đây chép miệng thở dài:
– Ông nhà tôi vô phước lắm cô ơi. Thằng Thiện Cảm thì sa vào tứ đổ tường. Ổng bả giao cho cái gì thì nó làm hư hết. Nó là đứa con cầu con khẩn của ổng bả đó. Lúc hai con chị nghỉ học, thì nó xuống ở với Thiện Tố đi học. Năm nào gần tới ngày thi bả cũng đi xin bùa, xin phép bắt Thiện Tố trước ngày thi phải đốt lấy tro pha nước cho nó uống để nó đi thi đậu.
Cẩm Hương không nhịn được, bật cười thành tiếng:
– Nhưng anh Thiện Cảm có thi đậu không bác?
Bà Tư Hiền trề môi:
– Đậu! Đậu cái khỉ khô chớ đậu gì cô ơi! Cái thằng đó làm biếng nhớt thây nhớt da thì đậu gì? Có tiên giáng phàm biến thành nó, thi dùm thì may ra nó mới đậu. Cô nghĩ coi có tức không? Thiện Cảm thi rớt, bả lại đỗ thừa và chửi Thiện Tố. Bả nói tại Thiện Tố không ưa con bả nên không chỉ dạy dùm. Thiệt đúng là “kẻ ăn mắm người khát nước”, vô duyên hết chỗ nói! Nay thì nó cũng đã cưới vợ rồi. Vợ nó là con ông ấp trưởng, tá điền của ổng bả. Lúc đầu má nó đâu có chịu, chê ỷ chê eo người ta là hạ cấp, nhà nghèo, là tá điền… không xứng với con bả. Thằng Thiện Cảm đòi bỏ nhà đi luôn bả mới chịu xuống nước. May cho nó, gặp con vợ biết điều lắm và có tài cầm chân được thằng chồng, nhờ vậy mà bây giờ nó mới chí thú làm ăn. Nhưng nó vẫn còn cái tật mèo chuột lung tung. Trong ba đứa con của bà lớn, có vợ chồng thằng nầy biết người lớn kẻ nhỏ, thương mến mẹ con tôi. Còn hai nàng Kiều chỏng chảnh đó lúc nào cũng chỉ lợi dụng con trai tôi, lâu lâu bắt thằng nhỏ làm thứ nầy, thứ kia cho chúng nó nữa. Tôi thấy ghét không cho con tôi làm, nhưng Thiện Tố nói: “Thôi má à, ảnh chỉ không biết mới nhờ con giúp… Làm một chút có mất mát chi đâu. Để con làm dùm họ mà..” Thiện Tố của tôi rất tốt bụng, nó không nhớ lúc xưa đi học bị hai ả đày ải mà thù, mà ghét.
Thằng nầy lúc nào cũng hòa nhã, tận lòng tận sức săn sóc nhà cửa, chăm lo công ăn việc làm cho ổng bả và hay giúp hai con chị ó đâm, gà mổ, té thùng đinh đó nữa!
Cẩm Hương mỉm cười ngượng ngập vì nghe bà bất ngờ phát ra lời nói chanh chua. Có lẽ nỗi uất ức trong lòng bị đè nén lâu ngày, nên hôm nay trong lúc tức giận bà không kềm được mới bộc phát ra chăng?
Cẩm Hương dịu dàng:
– Dầu sao họ cũng là chị em ruột thịt với nhau mà bác. Con bác tốt bụng thì Trời Phật sẽ thương tưởng và phù hộ cho ảnh.
Bác Tư tươi nét mặt ngay:
– Chèn ơi, cô nói đúng quá cô giáo. Tội nghiệp Thiện Tố của tôi, lúc còn ở chung, trong nhà món gì ngon, đồ gì quý, thứ gì tốt thì chị em con Kiều giành giựt hoặc cất giấu hết. Còn những thứ gì xấu xí, không ngon, thừa mứa thì mới đến mẹ con tôi. Có lẽ Ơn Trên biết được âm thầm giúp đỡ, nên nó đậu bằng Thành Chung xong, 2 năm sau nó đậu tú tài 1. Tôi mừng hết sức. Ba nó rất hãnh diện với bạn bè. Còn má lớn nó tuy lòng có phần ganh tị, nhưng đi đến đâu cũng đem ra khoe cái bằng tú tài của con trai tui.
Bỗng bác Tư trở giọng buồn:
– Chắc là mỗi con người đều có cái số cả cô giáo à. Thằng nhỏ đang học ngon trớn được hơn nửa năm, để mấy tháng nữa thi Tú Tài toàn phần ban toán, bỗng dưng ba nó lâm trọng bịnh tưởng đâu qua đời. Ổng gọi nó về giao hết chuyện làm ăn. Và má lớn nó cũng hết lời năn nỉ nó quản lý tài sản của ba nó. Thằng khù khờ vậy mà biết tính toán! Nó đặt điều kiện với ba và má lớn của nó, nếu muốn nó về gánh vác việc nhà thì phải để cho mẹ con tôi ra riêng. Nó không cần ổng bả phải sang nhượng giống gì về tài sản của ổng bả cho nó cả, mà hãy coi nó như một người làm công phải trả lương hẳn hòi. Trả công người quản lý cũ bao nhiêu thì trả cho nó bấy nhiêu. Lạy tạ Thượng Đế, từ đó mẹ con tôi mới được ra ở riêng. Tôi mới được thoát kiếp nạn làm tôi đòi cho vợ lớn và đám con của ổng đó chớ. Lúc trước nhiều lần mẹ con tôi xin ra riêng, bả đâu có cho.
Cẩm Hương tròn mắt:
– Tại sao vậy? Hai cô con gái lấy chồng còn cho ra riêng. Con bác cũng đã lớn rồi, tại sao họ không cho hai mẹ con bác ra riêng?
Bà Tư trả lời gọn hơ:
– Có gì lạ đâu cô giáo? Nếu mẹ con tôi đi rồi thì ai làm mọi khỏi trả lương mà còn tin cậy nữa cho bả! Từ hồi nào đến giờ trong mắt bả, mẹ con tôi có khác gì kẻ tôi đòi đâu. Ổng thì thương, sợ chúng tôi ra ngoài vất vả. Ổng thương mà hại mẹ con tôi. Thật đáng đời hết sức, mấy đứa con bả là lũ ăn hại, không ra gì hết.
Cẩm Hương an ủi:
– Cháu nghe nói có một nhóm giáo sư trường Pétrus Ký hiệp với nhóm giáo sư trường Chasseloup Loubat mờ lớp hàm thụ cho Tú Tài Phần Hai, ban Toán cũng như ban Triết. Người thông minh, tiến thủ như con bác thì lo gì không có ngày thi đậu phần học dở dang.
Bà Tư thở dài:
– Học bằng cách nào cũng phải có tiền. Má con tôi làm gì ra tiền đây?
Cẩm Hương nhấn giọng:
– Người hiền lương sẽ được trời giúp bác à.
Nói tới đây Cẩm Hương nhớ đến nhơn vật Phạm Công trong truyện Phạm Công Cúc Hoa, Trần Minh trong truyện Trần Minh Khố Chuối. Họ đều nghèo mà hiếu học. Ban ngày họ làm rẫy, làm ruộng… Xong công việc là họ chăm chỉ học hành để có ngày đậu trạng ngươn. Còn các nho sĩ bên Tàu không có tiền mua dầu để đốt đèn học ban đêm. Họ bắt đom đóm nhốt trong chai, hay chờ trăng lên rọi trên tuyết để có ánh sáng đọc sách. Cho nên có thành ngữ ánh tuyết (ánh sáng của tuyết), và tụ huỳnh (tụ họp bầy đom đóm) để chỉ việc học hành khó khăn của học trò nghèo.
Nhưng ở trường hợp Thiện Tố thì không đến nổi nào, bà Tư Hiền có thể mua dầu lửa, hoặc nạo dừa thắng dầu đốt đèn cho con mình đọc sách đêm đêm. Và hàng tháng anh ta còn được lãnh lương làm quản lý máy chà của cha mình nữa. Tiếp tục học hay không là do anh ta thôi. Bởi: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi. Chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông”.
Hôm nay Thiện Tố đi làm về sớm, nhưng mặt trời cũng sắp lặn rồi. Anh ta xách cái giỏ nằng nặng, vừa bước vào nhà thì hỏi mẹ:
– Nhà ăn cơm chưa má? Chào cô giáo.
Cẩm Hương chào lại. Bà Tư trả lời và hỏi con:
– Chưa, con xách cái giỏ gì đó?
Anh ta đưa giỏ cho mẹ:
– Lúc nãy trên đường về, con mua được 2 con cá lóc. Nướng trui cá đi má. Và trong giỏ có mấy trái vú sữa trắng của bà Tám hàng xáo cho nữa.
Bá Tư tươi cười, nhìn con thương mến, xách cái giỏ xuống nhà bếp. Thiện Tố chợt hỏi Cẩm Hương:
– Cuối tháng còn những 2 tuần nữa, cô có về thăm nhà không cô Cẩm Hương?
Cẩm Hương nhìn Thiện Tố dò xét, hỏi lại:
– Dạ không, chắc là giữa tháng tới về luôn, vì lúc đó hai em tôi có hẹn cùng về thăm nhà, lâu lắm rồi chị em tôi chưa gặp nhau. Mà sao anh hỏi vậy?
Thiện Tố mắt sáng rỡ, nhìn Cẩm Hương cười nhẹ, nói:
– Cuối tuần đó, tôi có người bạn rất thân học chung từ năm Đệ nhất niên đến năm chót ban trung học Thành Chung. Tôi bỏ học ngang xương, còn anh ta lấy phần hai xong ra Hà Nội học trường Y Khoa. Ra trường anh được bổ về làm ở nhà thương Chú Hỏa. Mấy tháng trước ảnh đi công tác, tiện dịp có ghé thăm tôi. Và ảnh cho biết đã đính hôn với con gái của chủ tiệm buôn tơ lụa. Hôm qua được thiệp mời đám cưới của ảnh. Nếu cô không chê người bạn quê mùa nầy, tôi xin mạo muội mời cô cùng đi dự tiệc cưới đó, và sẵn dịp sẽ đưa cô đi thăm một vài thắng cảnh Mỹ Tho. Cô nghĩ thế nào?
Cặp mắt anh ta thành khẩn nhìn Cẩm Hương, như sợ nàng từ chối, rồi nhanh miệng anh bảo tiếp:
– Cô không phải trả lời tôi hôm nay. Mai mốt cũng được.
Cẩm Hương nhẹ giọng:
– Cảm ơn anh, để tôi suy nghĩ lại rồi sẽ trả lời anh sau.

Cẩm Hương về đây dạy học mới có dịp chuyện trò với người thanh niên xa lạ là Thiện Tố, con trai bà chủ nhà trọ nầy. Suốt 4 năm trung học, rồi mấy năm sư phạm nàng không có bạn trai tri kỷ. Chỉ có mấy anh chàng lóc nhóc ba hoa chích chòe học chung. Họ hay trêu ghẹo, chọc quê, quấy phá làm nàng ghét nhiều hơn ưa. Má nàng thấy con lớn cũng có mấy chỗ gắm ghé, nhưng không chỗ nào con mình vừa ý. Bà thường phàn nàn tại con gái mình có hai thằng em trai, cứ chơi với em nên tánh tình nó giống như con trai… Nàng nghĩ: “Chắc là không phải vậy đâu, chỉ tại con gái của mẹ xấu xí, ít nói, không thích giao thiệp và chưa có ai đế ý đến cô ta đấy thôi..”
Ưu điểm của Thiên Tố là hiếu thảo với mẹ cha, thương mến anh chị, biết điều với họ hàng, tử tế với xóm chòm những người chung quanh và nhứt là không có tánh ích kỷ, nhỏ mọn, không hay coi thường kẻ giúp việc cho mình. Cho nên chàng đã gây sự thiện cảm cho Cẩm Hương. Lúc chàng đang ăn cơm, hay đang làm việc gì của mình còn dang dở, khi nghe ba hay má lớn gọi là lật đật thu xếp đến ngay. Mặc dù chàng cũng thừa biết vợ lớn của ba chàng không thật lòng thương mến mẹ con chàng, nhưng chàng không so đo, đôi lúc còn khuyên mẹ mình: “Má đừng để ý mà giận hờn má lớn làm chi. Má con mình không sống chung với bả nữa, bả cũng có tuổi, nay đau mai yếu… Cái khổ tâm lớn nhứt của con người là bị lương tâm dầy vò vì việc làm sai trái của mình trước kia mà bây giờ không sao xóa nhòa hoặc đền bù hết được!”.
Thiện Tố chẳng có gì quý ngoài những sách học năm xưa và mấy chiếc kệ đầy ắp tạp chí, tiểu thuyết truyện dài, truyện ngắn của các tác giả xưa, tác giả hiện đại, và sách giáo khoa, kinh Phật, báo chí… Mỗi ngày đi làm về, anh ghé qua tiệm bán sách vở báo chí để lấy báo đã đặt mua dài hạn. Trên bàn ăn, anh thường kể với mẹ những chuyện xảy ra trong ngày mà anh nghe thấy, hoặc kể lại những tin tức đọc trên báo chí. Lúc đầu, mới ăn cơm tháng nhà bà Tư, ăn xong có khi Cẩm Hương phụ bà Tư rửa chén, rồi rút vào phòng làm công việc của mình, nghỉ ngơi, đọc sách… Dần dà sau đó nàng ngồi lại góp chuyện với Thiện Tố, hoặc tranh luận vài vấn đề thời sự theo sự hiểu biết và cảm nhận của mình.
Trong bình phẩm, tranh luận nàng nhận xét Thiện Tố là người rất thông hiểu và lịch lãm chuyện đời hơn những chàng thanh niên ở lứa tuổi anh ta. Thỉnh thoảng đi làm về anh ta đem cho nàng mấy trái cốc chín cây, chùm mận da người, khi thì vài trái ổi chua, mấy cành huệ trắng hoặc mấy nhánh bông cẩm nhung, bông trang, hay bông điệp ta… anh đã cắt về từ bên vườn của ba anh để Cẩm Hương cặm vào bình bông đặt tại cửa sổ, trong phòng mình.
Có những tối cuối tuần, ba người hay ngồi sau nhà ăn chè khoai lang, nấu với bột khoai bằng đường thốt nốt nồng nàn mùi gừng nổi vân trong nước chè. Có khi họ ăn chuối chưng, kẹo đậu phọng, cốm chuồi… uống nước trà. Và lúc nào bà Tư cũng đi ngủ sớm. Cẩm Hương và Thiện Tố thường hay nói chuyện cho tới khuya lơ mới đi ngủ.
Có đêm anh cảm khái trước vầng trăng rằm treo ngạo nghễ tỏa ánh sáng êm dịu xuống trần gian, những căn nhà sàn bên kia bờ in bóng trong gương nước lung linh. Gió dìu dịu mát rượi thổi quanh nhà. Trên cây mận ở sân trước, bỗng tiếng chim kêu oang oác rồi cả bầy bay bổng lên không gian, chí cha chí chóe rượt bắt, bay lượn giỡn trăng, bóng mờ mờ ảo ảo chập chờn. Bên kia sông hướng qua cồn là những vườn cây ăn trái và hướng ra Long Tiên, Long Khánh là một dải ruộng lúa bát ngát, đang trổ đòng đòng. Lả lơi ngã theo chiều gió, những bóng cây rậm rạp dọc theo bờ mẫu ngoằn ngoèo gồm đám cây gáo, cây gừa, cây trâm bầu. Nền trời đêm chi chit những vì sao, e thẹn chớp chớp trước vẻ đẹp kiêu sa lộng lẫy của vầng trăng.
Thiện Tố vào lấy đờn ghi-ta ra khảy chậm chậm và hát một mình. Anh có giọng thanh tao óng ả như ca sĩ Tino Rossi. Thời buổi giao thời nầy, các học sinh trung học, các sinh viên thường ưa hát các bản nhạc do Tino Rossi hát trong dĩa nhạc. Giàn nhạc trong các gánh cải lương trước khi mở màn cũng đánh bài lừng danh C’est à Capri (Đây Là Đảo Capri) do Tino Rossi hát. Cả những người lao động cũng hát hoặc huýt sáo theo điệu nhạc các ca khúc Tino Rossi hát.
Giọng hát của Thiện Tố đã ấm mà làn hơi lại dài, lên cao xuống thấp dễ như uống nước, như húp canh khoai mỡ, khoai từ. Mấy nhỏ Thục An, Thụy Châu, Ái Mỹ, Ánh Nguyệt khi lên năm thứ hai (Đệ nhị niên) chương trình Thành Chung thì bắt đầu viết nhựt ký, viết lưu bút ngày xanh, tập hát nhạc Pháp lời Pháp. Con nào cũng thích ém giọng hát cổ họng cho giọng thiệt trong. Còn nhỏ Ánh Nguyệt thì kéo dài giọng để giọng gợn lên một vài lượn sóng lăn tăn. Bạn bè chọc ghẹo đổ hô là nhỏ tập làm ca sĩ.
Hai bà chị của Thiện Tố, nghe nói cũng tập hát vài bài hát nhạc Pháp lời Pháp cho có vẻ văn minh tân thời. Ngặt một nỗi giọng của họ chua như khế tàu, chát như chuối non, như sung non. Cẩm Hương chưa nghe họ hát, chưa thấy họ diễn tả nét mặt theo giọng hát ra sao, nhưng nàng thừa biết cục điệu của họ bự đến cỡ nào khi họ hát nghêu ngao.
Còn Thiện Cảm có cái giọng ấm áp như giọng của ca sĩ Jean Sablon nên hát bài “Tabou” rất ngọt. Bài nầy có phổ lời Việt, và đã được nữ nghệ sĩ Kim Thoa hát trong dĩa Béka. Ngoài ra, Thiện Cảm bắt chước nam danh ca Bảy Cao hát 20 câu Vọng cổ trong cặp dĩa hảng Pathé “Viếng Mồ Bạn” cũng mùi mẫn thâm xương lắm
Thiện Tố bảo với bạn bè:
– Có lẽ “ông anh” tôi có chút máu nghệ sĩ nào đó trong huyết quản chăng? Ảnh học dở, nhưng ăn mặc lịch lãm, hát có hồn, lại còn viết văn có bút pháp tươi đẹp. Ảnh phải là nhà văn, nếu chê nghề hát xướng.
Vợ của Thiện Cảm có lần nói với bà Tư Hiền:
– Dì Tư à, chị Kiều Lan có cái miệng hay nói hành nói tỏi người ta nên mang cái hổn danh là Kiều Tâu. Còn chị Kiều Liên có một thuở con ông bang Tiêu (tức là bang Triều Châu) đi hỏi làm vợ, chòm xóm ghét tật xí xọn của chị nên đặt cho cái hổn danh là Kiều Tặc, nói lái cả hai cái hổn danh của hai chỉ nghe kỳ cục tục tĩu, bẩn thỉu ác ôn lắm. Dì Tư có biết người ta nói như vậy không? Hôm đám cưới tụi con, anh Thiện Cảm mê hát xướng, nên có phần văn nghệ. Con nhớ lúc đó người lớn mệt mỏi đi ngủ hết, chỉ còn bọn nhỏ thanh niên trai tráng chúng con cũng hơn 30 người. Nồi đất nồi đồng ơi! Hai bả hát nhạc Tây, lời Tây nghe khổ cái lỗ tai muốn chết vậy đó dì Tư.
Tố khổ hai bà chị chồng với bà dì ghẻ của chồng xong, cô ta cười ngặt ngoẻo có vẻ khoái chí lắm. Giờ đây nghe Thiện Tố hát, Cẩm Hương cảm thấy giọng chàng mỏng, dẻo và thanh tao như giọng Tino Rossi, nhưng sao mà buồn quá. Nàng hỏi:
– Bộ anh có tâm sự hay thất tình sao?
Những ngón tay thon dài của chàng vẫn lanh lẹ bấm phím và khảy đàn, chàng ngẫng đầu nhìn nàng dịu giọng hỏi:
– Bộ Cẩm Hương thấy tôi có ẩn tình?
Cẩm Hương cười nhẹ, đôi mắt mơ màng nhìn trời xa:
– Không biết, nhưng nghe giọng hát anh thê thiết quá, tôi thuận miệng hỏi vậy thôi mà.
Thiện Tố cười thành tiếng:
– Vậy sao? Người ta nói phái nữ có những ý tưởng phong phú và nhạy bén, thiệt chẳng ngoa chút nào cả. Tôi cũng đang muốn có người làm mình thất tình lắm đây!
Cẩm Hương thấy mình vô duyên và Thiện Tố đáng ghét! Nàng làm thinh bỏ vào phòng đóng sầm cửa lại, cảm thấy lòng nao nao hờn giận nhưng không biết hờn gì, và giận ai? 
Thỉnh thoảng Thiện Tố đi Sài Gòn lấy đồ phụ tùng cho nhà máy chà. Có khi chàng đi giao dịch chịu mối lái việc lúa thóc cho cha ở các tỉnh lân cận. Lúc trở về, chàng thường mua cho nàng những vật kỷ niệm, bánh, trái, hoặc những đặc sản ở vùng đó. Lúc đầu Cẩm Hương coi những tặng vật anh ta cho rất bình thường, cứ nhìn qua nhìn lại rồi thảy vào thùng chứa đồ, ít khi nàng dùng tới hoặc lấy ra xem lại. Đôi khi, chàng còn mua tặng cuốn sách của văn sĩ Pháp mới được phiên dịch… Và gần đây mỗi khi bà Tư nấu cơm chiều hình như cố tình nấu trễ để con trai bà cùng về ăn chung luôn. Cuối tuần rồi Cẩm Hương theo bà đi cúng vía lăng Tứ Kiệt nơi thờ phượng 4 vị Thần của Cai Lậy mà người dân ở đây sùng bái, đồn đãi là rất linh thiêng, cầu gì có nấy. Trên đường về, bà hỏi Cẩm Hương:
– Hồi nãy cô có vào bên trong cúng không cô giáo?
Nàng cười nhẹ:
– Bên trong đông quá, chen chân không lọt, nên cháu không có vô. Nhưng cháu cũng thầm cầu xin cho ba má và các em được khỏe mạnh.
Bà cũng tâm sự:
– Dạo nầy trở gió trái trời thì ông nhà tôi hay đau yếu. Tôi nguyện cầu cho việc làm ăn của ổng phát đạt và khỏe mạnh để nhìn thấy thằng con ổng nên gia thất và ổng có dịp bồng cháu nội… Tôi cũng cầu xin cho thằng Thiện Tố tìm gặp được cô gái biết điều, hiền lương để mà nương tựa sống đời với nhau. Thằng con tôi tốt mà gặp người vợ không ra gì thì tội nghiệp cho nó lắm…
Lúc từ lăng Tứ Kiệt về, bà Tư dắt Cẩm Hường đi con đường khác cặp theo mé sông, qua ngang nhà máy chà lúa của chồng, mà thằng con bà đang làm việc trong đó.
Gần tới nhà máy, họ đã nghe tiếng máy chạy đều đều, xập xình rầm rập. Và họ thấy ngay ống tròn bằng nhôm nhả từng đợt khói ra ngoài. Nhà máy chà lúa Phú Long được cất trên một khoảng đất rộng bề ngang, sâu chiều dài. Mái lợp tôn, nền tráng xi-măng. Đường xi-măng chạy từ cửa lớn đến cầu đá cột đúc bắc nối liền từ bờ sông ra tận ngoài bãi sình non dài chấm mực nước sông bình thường. Sở dĩ họ bắc cầu dài như vậy là phòng khi nước kém tàu ghe chở lúa không cặp sát bờ được. Những người phu khuân vác cho máy chà dùng cây cầu nầy để khuân gạo đã chà xong xuống ghe, và vác lúa từ ghe, từ xuồng lên nhà máy chà. Họ đang lăng xăng đi lại trên cầu không ngừng. Dưới bến nhà máy chà có mấy chục chiếc vừa xuồng ba lá, vừa ghe tam bản và những ghe chài lớn chở nhiều lúa đem chà thành gạo để đi bỏ mối cho các vựa chợ, và các người bán lẻ…
Bên phải và bên trái trước sân máy chà là hai hàng dọc bán bánh trái, thức ăn, nước uống. Có xe ép nước mía bán tại chỗ. Có sạp mái thấp treo lủng lẳng nào bánh tét, bánh ú, bánh dừa. Xe bán nước đá bào, gánh sương sa hột lựu, gánh bánh canh tôm, gánh bánh mì xíu mại, kế gánh bán tàu hủ bánh lọt… Những hàng quán trước máy chà, bán thức ăn cho những người làm việc ở đây, cho những người ở xa lỡ bữa đói bụng, khát nước vì phải chờ đợi lâu mới tới phiên lúa mình đưa vào máy chà.
Vừa đến cửa lớn, bà Tư và Cẩm Hương gặp hai chị em Kiều Lan và Kiều Liên, Cẩm Hương lịch sự khẽ chào họ. Kiều Lan niềm nỡ:
– Ủa cô giáo! Cô từ đâu lại đây?
Kiều Liên nhếch môi, cười cười:
– Mấy thuở rồng đến nhà tôm!
Cẩm Hương khó chịu! Lạ lùng thiệt, mình không quen thân, cũng không chọc ghẹo hay làm gì mích lòng họ. Tại sao hễ thấy mình thì hai ả luôn nói bóng nói gió, và lúc nào miệng lưỡi họ cũng đầy nọc độc và gai nhọn. Nhưng nàng vẫn giữ lịch sự nhẹ giọng:
– Tôi theo bác Tư đi lăng Tứ Kiệt rồi ghé qua
Hôm nay Kiều Lan mặc áo gấm đỏ, tai đeo bông cẩm thạch tiền điếu nhận nhụy vàng, cổ đeo dây chuyền vàng khè. Còn Kiều Liên mặc áo nhung xanh lông két, đeo bông tòn teng cẩn hột hồng ngọc, đeo vòng tay chạm bát bửu. Hai cô đều ăn mặc nửa cổ, nửa kim.
Kiều Lan liếc xéo Cẩm Hương, mai mỉa:
– Từ khi cô giáo về đây dạy học ở trọ nhà dì Tư, thì thằng em tôi đổi tánh ít nhiều. Hễ có dư chút ít thời giờ là nó bươn bả về thăm nhà liền. Cô thử khuyên nó dùm chị em tui nghen cô. Nó phải lo làm ăn, bớt đi dìa nhà để ba tụi tui dạy việc cho nó chớ.
Kiều Liên xóc óc, bồi thêm:
– Tui coi bộ trai tráng ở đây đều bơ ngơ báo ngáo như con ốc mượn hồn từ khi cô về đây. Cô đẹp quá, lại có học nữa, nên trai tráng không điêu đứng sao được!
Nói xong, hai mụ cười hăng hắc và bỏ đi về phía chợ. Thật vô duyên hết chỗ nói! Bà Tư và Cẩm Hương ngơ ngẩn ngó theo. Chợt bà chép miệng, lên tiếng:
– Hai con Kiều ăn nói khó nghe nên chị Hai Muôn và chị Sáu Cư gọi tụi nó là con Nhền Nhện Cái, và con Hổ Cáp Cái. Thấy cô tươi tốt, đàng hoàng, học giỏi hơn nên chúng nó ganh tỵ ăn nói thiệt là chết gian âm đức. Thôi, bỏ qua đi cô giáo. Chấp nhứt tụi nó làm chi cho thêm phiền lòng mệt dạ.

Bà Tư rẽ vào nhà máy trước. Hôm nay đi lễ đền nên bà ăn mặc tươm tất. Đầu bà đội chiếc khăn sạt màu măng cụt có những chấm tròn màu lam điểm trên nền hàng. Quần bà bằng lãnh mặt đệm đen, mới giặt mấy nước nên chưa dịu mình. Áo bà ba lụa Hà Đông của bà màu trắng ngà, mang dép da quai nâu, mắt mang kiếng lão. Dáng bà roi roi, không mập phì, cũng không ốm teo. Sắc diện nầy nói lên thời son trẻ bà cũng làm điêu đứng không ít những chàng trai trẻ đương thời.
Cẩm Hương mặc áo bà ba cổ bà lai bằng xoa Pháp màu thiên thanh, quần sa-teng có rô-đê ở lai, chân mang dép da quai chéo màu nâu sậm. Tóc nàng kẹp gọn về phía sau khuất trong vành chiếc nón lá bài thơ. Vài người làm công lễ phép chào bà Tư và có vẻ tò mò chào Cẩm Hương. Nàng chào lại, rồi rảo mắt nhìn quanh.
Những dãy máy móc để chà lúa chạy theo dây chuyền cái nầy nối tiếp cái kia. Gần nửa nhà máy từ ngoài cửa bước vô trong, họ dùng bao bố tời, bao vải dầy (thường để đựng bột mì), thúng giạ, thúng giê đựng đầy lúa, được chất chồng lên nhau từng khúm, từng khúm lớn nhỏ tùy theo lúa đem chà nhiều hay ít.
Người chủ những bao lúa chất đống đó, đang ngồi chờ đợi gọi đến số của mình. Khi được gọi đến số, thì mấy phu khuân vác trong máy chà, lanh lẹ vác lúa đi lên cây cầu ván bắc từ nền nhà lên cao hơn cối. Đến miệng cối, họ lanh lẹ mở bao, đổ ào lúa vào. Lúa theo máy chạy trong những máng bằng nhôm. Ai muốn có gạo lức thì mở hộc cho gạo lức chạy ra. Ai muốn lấy hết gạo trắng thì đóng kín chỗ hộc gạo lức chờ gạo lức qua máy chà trắng gạo thì lấy bao, hoặc lấy thúng mà hứng. Có những ống thiếc dẫn cho tấm tuôn ra, có ống cho cám nhuyễn, có ống cho cám to… Còn trấu thì theo ống ra phía ngoài vách, bên hông của nhà máy chà.
– Cô làm gì mà nhìn chăm chú dữ vậy cô giáo?
Cẩm Hương quay lại chào Thiện Tố. Nàng đâm ngượng vì bao nhiêu cặp mắt của những người ngôi chờ chà lúa và nhân công, đổ dồn về nhìn nàng và anh ta đang đứng kế bên. Cẩm Hương chưa kịp trả lời thì Thiện Tố cười cười, nhìn nàng hỏi tiếp:
– Ngọn gió nào đưa cô đến đây vậy? Bộ cô định ăn cắp nghề để cho tôi mất việc phải không? Cô phục sức như vầy giống thôn nữ hơn giống cô giáo.
Cẩm Hương cười mỉm:
– Hôm nay tôi theo bác đi cúng đền về. Bác ghé đây, tôi phải ghé theo.
Chàng nhìn Cẩm Hương, cặp mắt sáng ngời, nụ cười hóm hỉnh, dịu giọng:
– Sao cô hà tiện lời nói quá vậy? Trong lòng nghĩ sao không biết, nhưng cô cứ nói đại là đến thăm tôi, như vậy có phải tốt hơn không?
Cẩm Hương cụt ngủn:
– Không tốt!
Thiện Tố dai như đĩa:
-Tại sao không tốt?
Nàng vừa đi chầm chậm trở ra, vừa nói:
– Tại tôi không biết nói láo như anh!
Thiện Tố cười thành tiếng:
– Bộ cô giận tôi hả? Xin lỗi nghen, tôi nói giỡn mà. Mời cô vô phòng cho đỡ ồn ào vì tiếng máy chạy như ngoài nầy. Má tôi đang ngồi trong đó.
Cẩm Hương không nói gì, nhưng nàng chợt e thẹn như có một làn hơi ấm len lén vào hồn. Bỗng dưới bến có giọng hò trong trẻo lanh lảnh của một cô thiếu nữ vang lên:
“…Hò ơ…Bởi em đây còn ngại
Xin anh thề lại kẻo em lo
Nếu anh lòng dạ quanh co
Hò ơ…Hùm nhai sấu táp chết cho xong đời “
Mọi người chắc lưỡi hít hà khen giọng hò đã ngọt, hơi dài mà lời hò lại hay ho. Một ông xồn xồn vác bỏ bao lúa xuống gần đó, kéo khăn vừa lau mồ hôi trán, vừa bảo Thiện Tố:
– Cậu Năm, cậu có ăn học, văn hay chữ tốt, cậu hò đáp lại, sửa lưng con Chín Hàng Xáo đi cậu. Tự bấy lâu nay, nó tự cao, tự đại, chẳng coi người khác hò ra gì ráo.
Thiện Tố nở nụ cười tươi hơn nắng vàng, nheo mắt với Cẩm Hương rồi cất giọng sang sảng:
“… Hò ơ… Xin cô em chớ ngại
Qua xin thề lại cho em mừng
Nếu qua đây mê Tấn phụ Tần
Xuống sông cọp bắt, lên rừng sấu nhai
Hò ơ…Nếu qua thề ẩu, nói sai
Qua vô tiệm nước ních hai tô mì”.
Mọi người cười rộ lên và vỗ tay hoan hô Thiện Tố trước cái mỉm cười nhẹ của Cẩm Hương.
Bà Tư và Cẩm Hương ở chơi một hồi thì ra về, sau khi mỗi người uống một ly nước mía có pha trái tắc thơm ngọt thanh thao, mát lòng mát dạ.
Đợi Cẩm Hương tan trường, hai người đi chuyến xe cuối ngày. Xe ghé bến Mỹ Tho thì thành phố đã lên đèn. Nhà bạn của Thiện Tố nằm trên đường ra bến bắc Rạch Miểu về Bến Tre. Không xa bến xe ngựa, chỉ qua 2 đoạn đường ngắn thì tới, nên họ đi bộ.
Thiện Tố biết Cẩm Hương đã bị kiến cắn bụng, vì sợ trễ chuyến xe chót nên khi Cẩm Hương về đến nhà thay đồ, thì hai người ra xe đi ngay, chưa ăn uống gì cả.
Bà Ninh, mẹ của Cương mừng rỡ gặp lại Thiện Tố. Bà niềm nỡ nói:
– Mời hai cháu vào nhà. Thằng Cương trông cháu từ sáng đến giờ, nó vừa qua bên nhà đưa vợ đi mua lồng đèn, cặp hồng lạp, có lẽ tối lắm mới về. Hai cháu đem đồ vào phòng trong đi, rửa mặt cho khỏe, rồi ra ăn cơm.
Cẩm Hương e thẹn chào bà Ninh. Thiện Tố cũng vui vẻ, tươi cười nói với bà:
– Thưa bác đây là cô Cẩm Hương bạn của cháu. Xin bác khỏi dọn cơm bác à. Cháu sẽ đưa cô ấy đi dạo phố đêm Mỹ Tho cho biết và sẽ ăn tối ngoài tiệm luôn. Ăn xong cháu đưa cổ trở về đây. Cháu đến nhà thằng Tâm ngủ, sáng cùng nó qua sớm.
Bà má của Cương ngăn:
– Không được, cháu phải về đây ngủ, nhà còn thiếu gì chỗ. Để cổ ngủ trong phòng, cháu qua ngủ với thằng Cương. Cháu biết không? Từ sáng sớm là thằng con của bác đã mong cháu rồi. Cháu mà đi chỗ khác là không được với nó đâu. Hai cháu cứ tự nhiên đi chơi xong thì về đây nghen, đừng có ngại chi hết.
Thành phố về đêm nơi nào cũng đẹp. Nhưng Mỹ Tho có nhiều điểm khác biệt hơn những nơi khác. Cẩm Hương đêm nay mặc chiếc áo dài màu hoàng yến, mái tóc mây dài, đen huyền xõa xuống nửa lưng. Dáng cô mảnh khảnh, khuôn mặt điềm đạm, nước da trắng mịn. Trong đôi mắt tròn to và đen đó, có nét nhìn bỡ ngỡ ngại ngùng. Tánh tình cô lại ôn hòa, nhỏ nhẹ, lắng nghe người ta nói hơn cô nói. Tiếp chuyện với cô lần đầu ai cũng đều cảm nhận cô rất dễ thương và có duyên ngầm. Tà áo dài màu hoàng yến của cô bay bay trong gió. Cô nhẹ nhàng tha thướt bước từng bước châm chậm đi bên Thiện Tố. Họ sắp qua đường sau trường trung học Le Myre de Villers. Bỗng Thiện Tố nắm kéo tay cô dừng lại. Cô giựt mình, bị mất thăng bằng thiếu điều muốn chúi nhủi vào người anh ta. Cẩm Hương còn đang ngơ ngác thì nghe tiếng gọi lớn:
– Thiện Tố! Có phải toa đó không? Moa đây! Thiện Cảm đây nè!
Cả hai chợt thấy từ xe mì hủ tíu của ông già Tàu, Thiện Cảm bước ra. Cậu vẫn ăn mặc chải chuốt. Tóc chải láng bóng, cùng mùi dầu thơm Pompéa nực nồng. Bộ com-lê của cậu bằng ga-bạt-đinh màu cà-phê sữa. Mèn ơi, trời đêm nực nội, đi đâu mà cậu diện áo quần dầy cui vậy cà? Ủa, hôm nay cậu còn xưng hô mỏa mỏa, toa toa với Thiện Tố nữa. Bộ cậu ta đổi dùng tiếng Tây với “người em” khác mẹ của cậu ta hay sao? Riêng Cẩm Hương nhớ lời bắt bẻ xí xọn của con Ánh Nguyệt về cách xưng hô tréo hèo của Thiện Cảm mấy tuần trước. Nàng cười chúm chím một mình. Có phải Thiện Cảm phục thiện hay muốn lấy lòng Ánh Nguyệt?
Thiện Tố vui vẻ:
– Anh Thiện Cảm đi dạo phố một mình hay sao?
– Moa vừa tiễn thằng bạn về Bến Tranh. Hết xe hơi rồi, nên nó đi xe thổ mộ về nhà. À nè Tố, bây giờ là thời đại mới rồi, mình cứ xưng hô với nhau, toa toa, moa moa cho vui! Moa trẻ tuổi hơn toa mà bị toa gọi moa bằng anh, moa cảm thấy mình già háp.
Thiện Tố vỗ vai Thiện Cảm:
– Tùy toa, miễn sao toa vui thì thôi.
Thiện Cảm chợt nhớ, dặn dò:
– Nhưng trước mặt người lớn trong nhà nhứt là má, tụi mình nhớ giữ xưng hô như trước nghen.
Đứng bên Thiện Tố nãy giờ, Cẩm Hương làm thinh, để anh em họ nói chuyện. Mắt nàng lơ đãng nhìn những ngọn đèn đường vàng úa. Khi đôi bên chia tay, Thiện Tố ngậm ngùi bảo Cẩm Hương:
– Thiện Cảm không phải là người xấu. Nhưng bên ba má lớn và dòng họ bên nội tôi cưng hắn quá quắc nên trước kia hắn hư thân, lười học, biếng việc, cứ lo đá banh, đá gà, theo gái…. Đối với tôi hắn không xéo xắt, cũng không thân mật. Riêng tôi, tôi thương hắn như đứa em nhỏ. Hắn không từ chối sự săn sóc chiều chuộng của tôi. Có việc nan giải hắn cầu cứu tôi, hỏi ý kiến tôi và làm theo tôi. Nhưng tôi biết, không bao giờ hắn coi tôi như ruột thịt!
Thiện Tố đưa Cẩm Hương đến tiệm ăn Hồng Ký, cái tên nửa Tàu nửa Việt ghép từ tên hai thằng con trai của ông bà chủ, chồng Tàu vợ Việt. Nên ở đây có bán mì, hoành thánh, hủ tíu, những món ăn Tàu khác, và có cả những món ăn Việt Nam như bún tôm nướng, cơm dĩa, cơm phần với canh chua, cá kho tộ… Quán tọa lạc trên nửa phần đất, và nửa phần cất sàn gie ngoài bờ sông. Thiện Tố lựa chỗ ngồi bên ngoài để ngắm cảnh về đêm trên một khúc nhánh phụ lưu của sông Cửu Long ở tầm mắt của họ, từ vàm Bảo Định chạy dài đến bến Tắm Ngựa.
Ngày nào cũng ăn cơm, hôm nay hai người gọi mì hoành thánh ăn cho lạ miệng. Dòng sông Bảo Định nước lửng lờ chảy ra vàm qua xóm hướng về bến Tắm Ngựa, nhà cửa san sát, cái cao cái thấp, chỗ lồi, chỗ lõm tùy theo quanh co của bờ, và cái nhà nào cũng xây cất gie chồm ra sông.
Đèn đuốc rọi sáng trung trên các cây cầu ván. Ghe nầy kế tiếp ghe kia, chen chúc kẻ khiêng người vác, kẻ bán người mua… Quang cảnh xóm Vựa hoạt động ồn ào, náo nhiệt không mỏi mệt, không ngừng nghỉ. Trái ngược lại, bên kia sông là cồn Rồng. Đó là một dãy âm u mờ ảo vói bóng những cây ăn trái trên đât cồn và cây bần dầy đặc ở bãi bùn. Trước năm 1954, Cồn Rồng dành riêng biệt cho người cùi, có trại cùi và nhà thương chữa trị bịnh cho họ. Nhưng đến thời Đệ Nhứt Cộng Hòa (thời chánh phủ Ngô Đình Diệm) những người bị bịnh cùi được đưa về Cái Sắn.
Dọc theo bờ lác đác những chiếc xuồng câu tôm le lói ngọn đèn bão. Không ai sắp bày mà ở giữa dòng sông đến bên nầy, phía vườn hoa thì những ghe hai chèo đưa khách dạo phố đêm. Lềnh đặc những xuồng, ghe nhỏ xuôi ngược bán bánh, trái, thức ăn mặn, thức ăn ngọt, các loại nước uống cho khách du ngoạn trên sông ngắm thành phố Mỹ Tho về đêm, ngắm trăng sao, ngắm dòng nước Cửu Long xuôi chảy…
Khi vừa bước ra khỏi tiệm ăn, cả hai lại gặp hai cô Kiều. Cẩm Hương quá đổi ngạc nhiên, nàng sực nhớ đến lời của Ánh Nguyệt: “Hễ nhắc đến vàng bạc, tiền của thì kiếm đỏ con mắt cũng không gặp. Còn nhắc tới cứt chó, hoặc người mình không thèm ngó thì gặp hoài hoài…”
Thiệt tình thì Cẩm Hương cũng muốn làm thân với “Kiều Tâu” lẫn “Kiều Tặc” nầy, ngặt nỗi họ không để cho nàng có dịp cảm tình. Cái mặt khinh khỉnh, giọng nói trịch thượng của họ đã vét nạo hết mỹ cảm, thiện cảm của nàng khi nàng gặp mặt họ.
Đêm nay cô chị mặc áo dài rằn ri bông tím, bông vàng, bông đỏ chen lá xanh. Cô em mặc áo dài bằng hàng Thượng Hải màu hột gà thêu bông lam, bông hồng chen lá xanh, lá lục, bằng chỉ tơ. Hai chị em đeo nữ trang bừa bộn, nào ngọc trai, ngọc thạch, hột xoàn chớp nhoáng dưới ánh đèn. Họ giống như các hình nộm chưng nữ trang ở các tiệm kim hoàn lớn.
Thiện Tố ân cần hỏi:
– Ủa, hai chị giờ nay còn chưa về Cai Lậy sao?
Kiều Lan liếc Cẩm Hương soi bói như có ý bảo: “Đã bắt gặp bọn bây đưa đi du hí du thực rồi”. Nàng ta nói:
– Chị em tui đêm nay ngủ nhà cô Tư của tụi mình bên Chợ Cũ. Để mai đi dự lễ cưới cô bạn Liễu Oanh, con ông Bang Biện Tạ Kỳ Nam, ngày xưa ở Chợ Gạo. Ờ, còn ban đêm ban hôm sao hai người làm gì còn ở đây mà chưa chịu về?
Thiện Tố bảo:

– Tụi nay cũng đi dự lễ cưới cô Liễu Oanh, nhưng ở bên họ nhà trai.
Kiều Liên làm ra vẻ tiếc rẻ chắc lưỡi:
– Cô Liễu Oanh đẹp như phụng múa loan xòe. Hồi xưa ba định đi hỏi cô ta cho cậu. Cậu mà cưới cô ta thì như chuột sa hủ nếp. Ngoài ruộng đất bề bề làm của hồi môn, ông bà Bang Biện còn tặng cái tiệm bán tơ lụa kế bên rạp hát thầy Năm Tú nữa. Chưa gặp mặt người ta mà cậu cứ nạng ra, cứ bảo: “Thực lộc chi thê như cá trên ăn cứt”. Để rồi bây giờ bạn của cậu phổng tay trên rồi. Cái thằng Cương lù đù vậy mà khôn!
Kiều Lan chêm thêm:
– Uổng thiệt đó chớ! “Trân châu bửu ngọc cậu không màng, sỏi cát giữa đàng cậu hốt ráo”. Ông già giận cậu chuyện nầy lắm đó.
Hai chị em nói không kịp thở. Mắt liếc xéo xem phản ứng của Cẩm Hương, Cẩm Hương thấy hai cô là biết thế nào nàng cũng bị họ móc ngoéo xỏ xiên, thế mà nàng cũng không khỏi bực mình. Kiều Lan lại trề môi:
– Cái thằng Cương có cái mụt ruồi đen bên mép trái, lớn cỡ hột đậu phộng. Đó là tướng kẻ ham ăn nói theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Rồi đây nó sẽ táp nuốt hết của hồi môn con vợ nó. Mà không chừng nó ních luôn của cải tía má vợ nó cho coi.
Kiều Liên cười:
– Tui thấy mụt ruồi lớn hơn trái trứng cá, trên còn có mọc mấy sợi lông, chẳng biết đó là tướng gì?
Hai chị em nói đến đó, không thấy ai cao hứng phụ họa vào câu chuyện của họ nên liếc xéo Thiện Tố rồi bỏ đi. Thiện Tố thở dài, bảo với Cẩm Hương:
– Rầu quá, mụt ruồi của thầng Cương chỉ bằng hột tiêu thôi, mọc ở bên mép là mục ruồi duyên. Khi nó cười có lúm đồng tiền thi mụt ruồi ấy làm cho cái miệng nó thêm phần ý nhị. Nhưng hôm nay hai bà chị của tôi phóng đại cho mụt ruồi lớn thêm ra, chị Kiều Liên còn cắm thêm mấy cọng râu nữa. Hai bà ấy cứ tưởng tượng chuyện dị tướng, dị hình, dị dạng rồi gán cho thiên hạ.
Cẩm Hương mỉm cười:
– Ai mà còn lạ hai bà chị của anh nữa? Với mấy bả thì chuyện gì cũng có thể xảy ra hết. Tôi không chọc ghẹo và cũng không có dây mơ rễ má gì với hai bả, mà khi thấy tôi, như có oán thù từ kiếp trước, hai bả luôn sừng lên, châm chích, nói những lời lẽ thiệt hết sức khó nghe. Bình thường tôi không thích cãi cọ với người khác, và cũng vì anh nên tôi coi như không nghe thấy gì hai bả nói hết.
Cẩm Hương dừng lại nhìn Thiện Tố, rồi quay mặt nơi khác cười, nói tiếp:
– Tôi nghe chị Kiều Liên chê da anh đen như da người Sê Tiêng ở Trảng Sụp, hay ở Lộc Ninh. Còn chị Kiều Lan chê da anh đen khi thấm mồ hôi giống như da cá trê.
Cả hai cùng cười xòa. Thiện Tố hỏi:
– Còn cô, xin cô nói thiệt tôi đen tới mức nào?
Cẩm Hương cười:
– Da anh mặn mòi, đen mà hồng hào mới đáng là da của trượng phu hảo hớn.
Thiện Tố bảo:
– Dù sao tui cũng cảm ơn cô! Nhưng tui không biết cô an ủi tui hay nịnh tui đó?
Cẩm Hương bảo:
– Tùy anh, anh nghĩ sao cũng được. Tôi không thích đàn ông da trắng méc, vì trông họ yếu ớt quá.
Đã hơn 8 giờ đêm. Thiện Tố và Cẩm Hương đi ngược lên dốc cầu Quây, qua các dãy hàng quán bán đồ nhậu, nước giải khát. Các sạp bán bánh da lợn, bánh gan, bánh bò nướng, bánh tiêu, bánh sương sa dẽo gói bằng giấy kiếng trong, mứt me, mứt mãng cầu… Những người bán hàng, đa số là các cô gái trẻ ngồi tràn qua lề lộ. Họ ghé mua mỗi thứ bánh một ít. Thiện Tố đề nghị:
– Cô có mỏi chân không? Hay là chúng ta vào công viên ngồi nghỉ một chút.
Cẩm Hương từ chối khéo.
– Cảm ơn anh, chân tôi chưa mỏi. Chúng ta hãy về đi. Ngủ đậu ở nhà người ta mà đi chơi về trễ để người ta đợi cửa thì kỳ lắm.
Nàng nghĩ công viên giờ đây đã thưa người, đèn mờ ảo, có chỗ còn tối thui. Người tản bộ, hoặc người đàng hoàng ít ai vào đó lúc nầy. Công viên khuya khoắc chỉ thích hợp cho những cặp tình nhân. Họ đang đi mà tay choàng vai, tay ôm eo, xà nẹo với nhau, chân họ như bị mắc phong lếch thếch đi hết muốn nổi vậy. Xa xa lác đác có những cặp ôm chầm lấy nhau, ngồi trên băng đá khuất dưới tàn cây, hoặc nơi bóng đèn điện bị đứt …
Cả hai về đến trước cửa đã hơn 9 giờ. Thế mà nhà Cương đèn đuốc còn sáng trưng, Cẩm Hương và Thiện Tố bước vào. Mọi người đổ dồn mắt nhìn họ, những cặp mắt đều hướng qua phía Cẩm Hương. Thiện Tố biết hết những đứa bạn ngồi ở đây. Còn Cẩm Hương không biết ai, duy có Thiện Cảm ngồi trong góc vẫy tay chào. Những người tuổi trẻ sự hòa hợp rất dễ dàng. Cương chạy đến đấm vào lưng Thiện Tố thùm thùm:
– Đám cưới tao mà mầy không xuống thì tao sẽ nghỉ mầy ra luôn.
Anh ta nhìn Cẩm Hương ngờ ngợ, chợt tươi cười vỗ tay nói với mọi người có mặt:
– Hôm nay ngoài những người bạn cũ của chúng mình đã biết, còn có người mới. Vậy tất cả tự giới thiệu, người mới cũng tự giới thiệu, hoặc nhờ bạn mình giới thiệu dùm. Tôi xin tự giới thiệu tôi là Huỳnh Cương, người đứng kế bên đây là nàng Tạ Liễu Oanh, ngày mai sẽ là phu nhơn của tôi. Tới mầy nghe Tâm. Nhưng thôi, để tao giới thiệu luôn những đứa độc thân tại chỗ. Đây là Tâm còn có biệt danh là Tâm Khểnh, vì hắn có cái răng khểnh khi cười làm cho các cô sợ chạy xa thật xa. Quý vị biết tại sao không? Vì hắn cười có duyên hết chỗ chê, nên các em chạy xa để lấy trớn chạy trở lại cho nhanh đó đa!
Cả bọn cười ha hả như bể nhà sập cửa, Tâm lấy cái gối trên sô-pha chọi Cương:
– Chị Cương phải quản thúc nó nghen. Cái thằng nầy mồm miệng tía lia như thế thì đi đến đâu sẽ có bồ đến đó.
Liễu Oanh tươi vui, nhìn Cẩm Hương bằng ánh mắt cảm tình khẽ gật đầu chào, Cẩm Hương chớp mắt chào lại. Liễu Oanh nhìn sang các bạn của hôn phu mình, cởi mở:
– Dạ đúng vậy, em sẽ nghe lời anh, giữ ảnh thật kỹ.
Liễu Oanh có dáng cao, gầy, khuôn mặt dài, nước da trắng, tóc uốn những lọn thả dài xuống vai. Cặp mắt sáng, miệng khi cười rất xinh. Cô và hôn phu cô rất xứng đôi với nhau. Cả hai đều có sóng mũi thanh, cặp mắt bồ câu sáng ướt, nụ cười bày đôi lúm đồng tiền. Ông bà ta thường nói, những cặp vợ chồng thường có những điểm rât giống nhau, thì tâm đầu ý hợp ăn ở với nhau hết kiếp người.
Thiện Cảm đi với một thiếu nữ mặc áo nhung tím, tóc chải mồng cao lượn uốn éo. Mỗi lần cô há miệng cười hay nói thì lộ chiếc răng bịt vàng trông tuy quê nhưng rất có duyên. Còn cậu ta đã thay bộ đồ vía bằng ga-bạt-đinh để mặc áo bành tô cổ cao băng vải xi-mi-li trắng, tra nút đồng, quần tây nỉ màu xám sọc đen, giầy tây da đen đánh bóng. Mùi dầu
Pompéa thơm ngát làm cậu ra vẻ sang trọng, tân tiến, đố ai biết cậu là công tử miệt vườn, học hành ba sồn bốn sựt.
Cương nói lớn:
– Xin mời quý vị tự giới thiệu cho mọi người biết nhau.
Thiện Cảm hăng hái:
– Tui là trưởng nam của ông Hai Cung. Ba tui là nghiệp chủ có phần hùn trong lò gạch ở chợ Trường An bên tỉnh Vĩnh Long, và chủ nhà máy chà lúa ở Cai Lậy. Nhưng thiệt ra ổng là chủ điền, sống sung túc với cả trăm mẫu ruộng ở Cai Lậy và các vùng lân cận. Còn tui vừa đậu Thành Chung, nghỉ xả hơi vài năm, trước khi mở trại cưa và và coi sóc hảng làm nước mắm của ông ngoại tui.

Cẩm Hương cảm thấy nhột nhạt khi nghe Thiện Cảm tự kể về mình! Rồi tiếng xì xào của hai người đâu đó: “Xì, cái thằng dịch tể nầy mà đậu bằng Thành Chung à? Nói dóc không mắc cỡ miệng, nó “đậu cành mềm lộn cổ xuống ao” thì đúng hơn. Khi thi bằng Thành Chung rớt, về nhà bị bà già chanh chua của nó nhiếc mắng tả tơi bèo nhèo như cái nùi giẻ lau bếp. Cái thằng đó đậu bằng “Thùng Chanh” thì có, nên hèn nào má và hai bà chị của nó xài lời chua như chanh, như giấm, như khế…”.
Có lẽ nghe lọt vào tai những lời eo sèo chì chiết đó, nên Cương nói át:
– Bây giờ đến phiên bạn khác giới thiệu đi.
Thiện Cảm chỉ cô thiếu nữ áo nhung tím:
– Còn cô đây là bạn gái của tui, con ông chủ tiệm may âu phuc ở bờ sông ngang Vựa. Cổ tên là Mỹ Hoa.
Bạn gái của Thiện Cảm e lệ:
– Mỹ Hoa xin chào các anh các chị.
Cương hỏi:
– Rôi tới phiên ai tự giới thiệu nữa đây?
Từng người một nói: “Tôi tên Hải. Tôi tên Đông. Tôi tên Thứ… Tôi tên Bằng nhà ở chợ cũ đường vào chùa Vĩnh Tràng, cần giới thiệu thêm gì nữa không tụi bây?”
Người tên Thứ khoát tay:
– Thôi khỏi, đủ rồi để mầy giới thiệu tiểu sử của mầy, chưa nghe xong tụi tao ngủ hết. Ê, tới phiên mầy đó Thiện Tố…
Thiện Tố cười:
– Tụi bây biết tao rồi còn giới thiệu gì nữa?
Các bạn nhao nhao lên, Cẩm Hương sượng ngắt, tay chống lên thành sô-pha nhìn đi chỗ khác làm như không nghe. Anh chàng tên Đông coi bộ liến khỉ nhứt trong bọn, nói:
– Đừng có làm bộ, tụi tao muốn biết ai đứng gần mầy đó cái thằng mắc toi. Còn mầy hả? Ai mà không biết cái mặt mốc của mầy, vì mỗi lần mầy đến đều đi với một cô khác, mầy không giới thiệu, bọn tao làm sao biết được lần nầy mầy đi với ai tên gì, hả cái thằng kia!
Tới phiên Thiện Tố đỏ mặt, rượt đánh Đông:
– Mầy là thằng quỉ quái, lại chơi tao hả?
Hôn thê của Cương vào trong. Một lát sau cô và bà Ninh bưng cà-phê, trà, bánh ngọt ra. Bà Ninh nói:
– Mời các cháu tự nhiên nghen. Sáng mai ai cũng bận, nên bác không đãi la-ve… Để khi vào tiệc cưới ở nhà hàng các cháu tha hồ mà uống.
Bà quay qua con trai, và âu yếm nhìn Liễu Oanh:
– Cương đưa Liễu Oanh về, kẻo quá khuya. Con cũng nên về ngủ sớm, mai phải mệt nhọc suốt ngày đó.
Liễu Oanh nhỏ nhẹ:
– Con đi xe kéo về, ảnh khỏi đưa. Xin chào các anh, chào các chị.
Cẩm Hương cúi đầu chào lại. Bỗng giọng rổn rảng của Bằng:
– Khoan đã chị Cương, để cho tụi nó giới thiệu xong rồi chị mới về. Nãy giờ cả buổi chẳng đứa nào biết tên cô bạn của Thiện Tố cả. Còn chần chờ gì nữa, giới thiệu đi Tố!
Thiện Tố tằng hắng, miệng cười chúm chím nhìn Cẩm Hương, rồi làm bộ lấy giọng nghiêm trang:
– Kinh thưa quý vị, cô Cẩm Hương đây là con của ba má cổ, và là cô giáo của tôi. Còn tụi bây muốn biết thêm nhiều chi tiết khác, hoặc thắc mắc gì thì xin cứ đặt câu hỏi, cổ sẽ trả lời một cách thỏa đáng. Có phải không cô giáo Cẩm Hương?
Cẩm Hương biết Thiện Tố muốn chọc ghẹo mình. Nàng không nói gì, liếc xéo Thiện Tố rồi làm bộ theo bà Ninh đưa Liễu Oanh ra cửa, mà vẫn còn nghe cả bọn hò hét, cười giỡn ồn ào như cái chợ bên trong.
Mới 6 giờ sáng, má của Cương đánh thức mọi người dậy sửa soạn, ăn uống xong để còn đi rước dâu. Mấy chàng đực rựa đêm rồi thức khuya, nên họ còn nằm lê, nằm lết, kẻ trên sô-pha, người nằm trên ghế dựa, kẻ khác nằm dưới gạch. Nhưng ai cũng bị gọi thức, để còn ăn uống, chuẩn bị 10 giờ đi rước dâu như bà Ninh nói.
Thiện Tố thì đã cho Cương biết trước là anh không dự phần trong những người đi rước dâu. Vì anh có ý định từ lâu, trong dịp dự đám cưới Cương, anh sẽ đưa Cẩm Hương đi viếng làng Đạo Ngạn thăm những nơi trồng dâu, nuôi tằm dệt lụa. Nếu còn thời gian thì đi thăm chùa Vĩnh Tràng chiều về mới dự tiệc ở nhà hàng.
Nghe tiếng xe máy dầu hiệu Norton dừng lại trước sân nhà. Cương ra mở cửa thấy em trai của Liễu Oanh. Cậu ta khệ nệ giỏ xách nào áo, quần, hoa cài, lược giắt… của cô dâu phụ đưa cho Cương, bảo:
– Anh Cương à, cặp dâu rể phụ Lan Hương và Thế Hùng không dự lễ đưa dâu và đãi khách được, vì chị Lan Hương bất ngờ bị đau ruột dư, đang nằm ở nhà thương chờ mổ. Anh Hùng chiều mới đến nhà hàng dự tiệc cưới. Chị Oanh bảo em đem quần áo dâu phụ nhờ anh nói với anh chị Thiện Tố làm dùm dâu và rể phụ hôm nay. Chị Liễu Oanh gởi lời xin lỗi và cảm ơn trước, vì quá gấp không còn thời gian để tìm người khác thay thế được, nên mói làm phiền đến ảnh chỉ…
Thiện Tố nhìn Cẩm Hương như hỏi ý. Bà Ninh khẩn khoản:
– Đã gần đến giờ đi rước dâu rồi, nhờ hai cháu giúp dùm một tay với hai đứa nó. Dáng vóc của cháu đây chắc là mặc vừa áo quần phù dâu nầy. Chừng nào cô cậu đám cưới, tụi nó sẽ trả ơn làm phù dâu, phù rể lại cho hai cháu.
Có lẽ má của Cương tưởng hai người đã đính hôn với nhau rồi, nên bà vô tình nói như vậy. Thiện Tố có vẻ thích thú, còn Cẩm Hương đỏ mặt, lủi vào phòng.
Thế là Thiện Tố và Cẩm Hương bỏ dở chương trình du ngoạn. Nhưng họ không tiếc, vì chuyện giúp Cương và Oanh quan trọng hơn. Còn đi viếng cảnh thì lúc nào đi không được. Cho nên cả hai vui vẻ nhận làm dâu phụ rể phụ bất đắc dĩ trong đám cưới nay.
Cô dâu phụ Cẩm Hương mặc thử áo quần vừa vặn, chỉ hơi rộng và ngắn một chút nhưng cũng không hề gì. Thiện Tố lấy xe Radior của Cương đưa cô đi chải tóc và trang điểm ở tiệm đang làm đẹp cho cô dâu và mấy cô dâu phụ khác.
Nhà trai đến, sau khi trình lễ vật thì cô dâu Liễu Oanh lộng lẫy được mẹ dắt ra trình hai họ. Chèn ơi, cô dâu mặc áo dài hồng thắm, bên ngoài choàng chiếc áo bằng voan. Tóc cô cài những đóa hoa hồng giống hàng và màu áo dài làm thành bông. Cô mặc quần sa-teng trắng, mang hài nhung kết rồng phụng bằng cườm tấm ngũ sắc. Thật đúng là cô dâu, vàng vòng đeo đầy cổ, đầy cổ tay và ngón tay. Còn rất nhiều món nữ trang mà cô dâu chú rể chỉ giở ra xem rồi đậy lại đưa cho má của Cương hoặc mẹ cô dâu giữ dùm. Cả phòng của cô chồng chất nào mền, bóp cầm tay, hàng vải, tơ lụa… Đó là quà tặng của hai họ, và của bạn bè…
Bàn thờ ở giữa nhà. Cô dâu chú rể ra sân bái ông Tơ, bà Nguyệt, vào nhà trong bái Tổ Tiên, ông bà, cha mẹ… Nam tả, nữ hữu, 4 chàng rể phụ và 4 cô dâu phụ đứng thành hai hàng, hai bên đối diện với nhau. Rể phụ mặc Âu phục màu xanh đen, cài chiếc nơ hồng bên phải bâu áo. Mặt mày họ tươi rói vì cảm thấy mình cũng quan trọng trong ngày hôm nay nhờ dựa hơi cô dâu chú rể. Các cô dâu phụ mặc quần trắng, giày trắng, áo dài màu hồng có cài hoa hồng. Tóc 4 cô đều bới cao, cài hoa cũng màu hồng rắc kim tuyến lóng lánh. Cổ các dâu phụ đều đeo chuỗi, bông tai, nhẩn bằng ngọc trai nhân tạo nhưng vẫn ngời ánh bạc dưới ánh đèn điện. Cô nào cũng được trang điểm phơn phớt trông lịch sự và trang nhã.
Dâu phụ và rể phụ thường được chọn trong đám bạn bè thân quen của cô dâu và chú rể. Từng cặp, từng cặp rất tương xứng với nhau. Duy có cặp Thiện Tố hơi cao hơn 3 cặp kia. Nhưng “mỗi người mỗi vẻ, mười phân vẹn mười”. Đẹp mắt lắm!
Kiều Lan và Kiều Liên cùng họ nhà gái tiếp nhà trai và sau đó theo họ nhà gái đưa dâu. Ông Tà, ông Địa ơi! Hai nàng Kiều hôm nay cố tình diện cho đẹp hơn cô dâu và các phụ dâu chắc? Cả hai mặc áo màu sáng chói, cô chị mặc áo màu xanh lông két thiệt tươi, cô em màu đỏ tía. Vạt áo, tay áo, bâu áo viền reng màu pha chỉ kim tuyến óng ánh. Hai chị em đeo hột xoàn từ lỗ tai, cổ, cườm tay, ngón tay chớp lia chớp lịa dưới ánh nắng sáng chói lọi. Tóc còn trâm giắt hoa cài. Hai nàng hình như muốn cho cả làng nước biết họ giàu, họ có của cải. Nhưng chưng diện cách chi, hai nàng cũng không làm sao qua nỗi nét mặt đoan trang, dáng dấp thanh tú, cử chỉ cao sang của Cẩm Hương.
Lúc sáng, lễ cưới bên nhà gái xong đã quá 12 giờ trưa. Nhà gái đãi ăn. Dâu phụ rể phụ ngồi xen kẻ với nhau và cùng bàn với cô dâu. Họ ăn uống nói cười vui vẻ. Thiện Tố lo lắng khi thấy sắc mặt của Cẩm Hương có vẻ mệt, chàng hỏi nhỏ: “Cô thấy thế nào? Tôi đưa cô về trước nghen. Lễ cũng đã xong rồi… Còn ở nhà hàng nữa, nếu cô không khỏe thì chúng mình từ chối không làm dâu rể phụ chiều nay..” Sợ kinh động đến người khác, Cẩm Hương lắc đầu cười nhẹ: “Cảm ơn anh, tôi không sao”.
Từ khi rời bến xe Cai Lậy xuống Mỹ Tho dự đám cưới bạn của Thiện Tố, Cẩm Hương nhận thấy hình như anh đã quên đi phân biệt nam, nữ. Mặc dù anh ta vẫn xưng hô với nàng bằng tôi và gọi bằng cô như thường lệ. Anh ta có vẻ thân thiện và tự nhiên hơn lúc họ ở chung nhà.
Chàng là con bà chủ và nàng là con gái ở trọ để đi dạy học. Nhưng riêng Cẩm Hương, đối với đàn ông con trai, lúc nào nàng cũng thủ thế, giữ kẽ. Vì bà Ký Tân luôn căn dặn với Cẩm Hương hàng ngày như kinh nhật tụng, từ lúc cô còn 9, 10 tuổi: “Con là con gái, không được ngồi gần con trai”. Cô hỏi tại sao thì bà nói: “Ngồi gần con trai sẽ có bầu, khi có bầu thì bụng sẽ bự ra và sanh em bé”. Cho đến một hôm đi học về trong lúc ngồi ăn cơm với cha mẹ, cô tự nhiên nói với mẹ mình: “Má à, con sắp có bầu”.
Má cô đánh rơi chén cơm đang ăn. Còn ba cô thì nhìn cô mắt trợn trắng muốn đứng tròng! Bà lôi cô đứng dậy:
– Mầy nói sao? Có bầu với ai? Trời ơi! trời ơi!… Mới có 11 tuổi mà mang bầu hay sao? Có lẽ con mang thai quỉ, thai yêu hay sao?–
Mặt mày bà trắng bệt, cắt không có chút máu. Cẩm Hương kinh ngạc về sự mất bình tĩnh của bà. Nhưng cô tự nhiên trả lời mẹ:
– Không phải má đã nói với con, là con gái ngồi gần con trai sẽ có bầu sao? Sáng nay cô giáo bắt con lên ngồi bàn nhứt. Cả lớp đứa nào cũng phải đổi chỗ ngồi của mình, để làm bài thi. Con ngồi giữa, thằng Bé và thằng Tám ngồi hai bên….
Bà già vỡ lẽ, ôm con gái mình hôn lấy hôn để… Cô chẳng biết ất giáp chi cả. Đến sau nầy lớn lên mới hiểu tâm ý của mẹ mình!
Năm Cẩm Hương 16 tuổi, bà thường dạy:
– Làm con gái phải trang nghiêm, ăn nói phải lễ độ, vui vẻ. Phải giữ gìn bản thân, luôn để cho con trai đứng xa mình. Nếu để cho tụi nó gần gũi quá thì sẽ tự hại mình… Con gái luôn chịu thiệt thòi, khôn 3 năm, dại một giờ. Đừng có yếu lòng nhẹ dạ cho tụi nó cái cao quý nhứt của người con gái để rồi tan nát cả cuộc đời… Con thấy nhà bà B, ông A bên thôn kia, làng nọ đó… Con họ có bồ, rồi tự mình không kềm chế được để mang bầu nhục nhã, xấu hổ gia phong… Thậm chí đám hỏi rồi mà ăn nằm với nhau, nếu gặp cái thằng vô nhân đạo sau khi ăn nằm đã đời với nhau nó bỏ luôn không cưới… Con phải nhớ lời má, làm con gái phải đợi sau ngày cưới mới được gần gũi với chồng. Và trong đời người đàn bà duy nhứt chỉ một người đàn ông là chồng mình thôi…
Cẩm Hương từ nhỏ, đã nghe người ta hát ru em:
“Gái lấy trai là gái dại.
Trai lấy rồi trai lại bán rao.
Gái đâu có thứ hỗn hào.
Trai chưa làm rể, gái vào làm dâu…”
Cho nên khi chưa bước ra đời mưu sinh, Cẩm Hương đã nguyện với lòng phải giữ gìn hạnh kiểm và tấm băng trinh cho thật khít khao thì gia phong mới không bị nhuốt nhơ dơ bẩn.
Cẩm Hương giựt mình, nãy giờ cả bọn đang ngồi ở phòng khách nhà bác Ninh sau khi rước dâu về.
Vì nàng nghĩ viễn vông mà không để ý các bạn của Thiện Tố đang chọc ghẹo anh và có cả nàng trong đó. Cẩm Hương quay lại nhìn Thiện Tố. Anh ta nheo mắt nói:
– Mầy cứ hỏi cổ đi.
Cẩm Hương mở to mắt như ngầm hỏi Thiện Tố là chuyện gì? Anh cười tươi:
– Mấy đứa nó nói là tôi lù khù nhưng có ông Cù độ mạng. Tôi không biết ông Cù sẽ độ cho mình gì đây? Bọn chúng khen cô đẹp và hỏi cô còn người em gái nào nữa không?
Cẩm Hương cười cười nhưng không nói. Tâm ở dưới nhà đi lên vỗ hai tay bốp bốp vào nhau, nói lớn:
– Nghe đây, nghe đây. Mọi người xong chưa? Bác Ninh nói chúng ta chuẩn bị đi ra nhà hàng, chỉ còn độ 1 giờ đồng hồ nữa thôi, thì quan khách sẽ đến.
Anh Hải chợt nói:
– Thằng cu Thứ còn trong phòng tắm.
Cả bọn cười ha hả. Cẩm Hương cũng không nhịn được. Thiện Tố vừa cười vừa nói lớn cố ý cho Thứ nghe:

– Cái thằng cu Thứ nầy, bộ đàn bà sao mà tắm lâu dữ vậy mậy?
Và anh quay lại hỏi:
– Thằng Cương đâu, nãy giờ sao không thấy hắn?
Đông nãy giờ lặng thinh như đang nghĩ suy, bỗng lên tiếng:
– Cu cậu từ rày có cái rờ-mọt rồi, bọn bây đừng hòng thấy mặt mo của hắn nữa.
Cẩm Hương chợt nói:
– Không phải đâu. Lúc về, họ nhà gái muốn cô dâu và chú rể đi tiệm Cảnh Trung ở dốc Cầu Quây chụp hình, vì họ bảo chụp ở ngoài không được rõ bằng trong tiệm.
Tiệc cưới linh đình và trang trọng đãi ở nhà hàng Phụng Nghi Các ngoài bờ sông. Khi quan khách vào tiệc thì những cặp phù dâu, phù rể cũng vào bàn ăn. Gia đình cô dâu là một thương gia lớn có mặt mũi ở thành phố nầy. Họ nhà gái toàn là những nghiệp chủ thương gia nhiều nơi về dự. Bên họ nhà trai ít khách mời hơn và đa số là điền chủ, các quan chức trong tỉnh.
Hai nàng Kiều hồi sáng đã ứa gan khi thấy Cẩm Hương trong đoàn dâu phụ. Kiều Lan bây giờ lại thấy Cẩm Hương thay đổi xiêm y dự dạ tiệc. Nàng đến gần, nhìn chiếc áo gấm hường thêu ngân tuyến của Cẩm Hương, cất giọng thẻo thọt:
– Cô giáo đẹp quá sá! Lúc sáng, tôi thấy cô làm dâu phụ muốn nhận cô dâu chìm lĩm ở vẻ thạo đời. Con nhỏ Liễu Oanh giận cô lắm đó. Mấy hôm trước cô nhu mì có một. Hôm nay cô đoan trang thùy mị gấp mười. Sao lạ vậy cô giáo?
Kiều Liên đang nói chuyện với mấy người khác bên kia, vội bươn bả tới mỉa mai:
– Chèn đét ơi! Lúc cô làm dâu phụ mà tôi tưởng cô là dâu chánh chớ. Cũng vậy, Thiện Tố làm rể phụ có vẻ… chú rể hơn chú rể chánh. Thằng đó đi gần cô giáo trông nó lờ đờ lửng đửng như con gà mở cửa mả!
Kiều Lan đắc ý có đồng minh tương trợ, cười khoái chí nói theo em:
– Như ốc mượn hồn, như gà mắc nước…
Kiều Liên tiếp tục gây hấn:
– Như gà nuốt dây thun, như chồn gặp chó săn, như chuột thấy mèo!
Nhịn hết nổi, Thiện Tố gắt nhẹ:
– Hai chị nói đủ chưa? Đám tiệc của người ta, rán mà giữ lịch sự cho chính mình!
Một bà sồn sồn, mặt mày rắn rỏi, bướng bỉnh nãy giờ nghe thấy hết những lời chỏi tai của hai cô, liền nói nhỏ với Cẩm Hương nhưng cố tình cho hai cô Kiều nghe:
– Nhịn họ đi cô ơi, chấp nhứt làm gì mấy kẻ không biết điều ăn nói thô lỗ đó. Họ ăn mặc không giống ai, lại đeo toàn là hột xoàn giả mà không biết mắc cỡ!
Hai bà chị của Thiện Tố biết gặp cái thứ không hiền hay gánh bàn độc mướn nay rồi, nên ngoe nguẩy õng ẹo bỏ đi. Trước khi đi Kiều Liên còn nói nhỏ bên tai chị:
– Con quỉ cái nầy là thứ hồ ly tinh, đã hớp hồn thằng dại gái Thiện Tố rồi!
Kiều Lan cười khẩy:
– Lửa gần rơm không này thì nọ, không cháy bùng cũng tròm trèm. Mầy có biết không? Nghe nói thứ sáu tuần rồi quan thanh tra nguời Pháp đến viếng trường. Con đó nói chuyện với ổng bằng tiếng Tây dòn rụm như bẻ củi khô vậy. Cái thứ con gái gì mà bẹo hình bẹo dạng trước mặt Tây tà, thiệt là cái đồ không biết sượng, không biết thẹn kể cũng lì lợm thật đó.
Cẩm Hương khó chịu và ức lòng vô cùng! Thiệt tình, từ nhỏ đến bây giờ nàng chưa thấy ai mất lịch sự và trâng tráo vô duyên như hai nàng Kiều nay! Nhưng nghĩ đi nghĩ lại nàng thấy hai bà chị của Thiện Tố đáng tội nghiệp hơn đáng giận. Bởi có lẽ sanh lòng ganh tỵ quá trớn, nên không còn giữ được phong độ nữa, “No mất ngon, giận mất khôn” đó mà. 
Sau tiệc cưới, vợ chồng Cương theo em trai mình đi Sàigòn, để 8 giờ sáng mai ra Đà Lạt hưởng tuần trăng mật. Đám bạn của Cương, lâu lắm rồi không gặp mặt đông đủ như vậy, nên đêm qua nhóm họ ở lại ngủ đêm, đập bồn đập bát tán gẫu vui cười hả hê.
Đêm nay, sau tiệc cưới ở nhà hàng ai cũng đã về nhà nấy hết rồi. Họ cũng ở gần đây thôi. Kẻ Chợ Cũ, người Vòng Nhỏ, đứa xóm đình Điều Hòa… và vài nơi khác đâu đó trong thành phố. Chỉ có Thiện Tố và Cẩm Hương vì nhà xa nên ở lại làm khách thêm đêm nữa, để ngày mai đi dạo chợ rồi mới trở lại Cai Lậy.
Tiệc cưới tan, gần 11 giờ đêm. Cẩm Hương cảm thấy mệt vì không khí ồn ào, nóng bức. Xế chiều chủ nhựt hôm sau, nàng và Thiện Tố về đến Cai Lậy, và sáng thứ hai đó nàng đi dạy học như thường.
Buổi xế trưa tan học, trời trong mây tạnh, Cẩm Hương đi chầm chậm dưới bầu trời phơn phớt gió. Bỗng dưng một trận mưa thình lình đổ ào xuống. Nàng không tránh chỗ nào cho kịp, vả lại cũng gần đến, nên đành đội mưa về nhà trọ. Nàng thay quần áo khô, bằng bộ đồ hàng hơi dầy để giữ ấm. Nàng vắt quần áo ướt phơi ngoài hiên nhà kế dựa củi. Đêm đó, Cẩm Hương lên cơn sốt. Thiện Tố đi mua cho nàng 2 gói Cảm Mạo Phát Tán ở tiệm thuốc Tàu, nhưng cơn sốt không chịu rút lui.
Sáng hôm sau, bà má lớn sai con Hiền Từ gọi Thiện Tố vào giờ ăn trưa phải đến nhà từ đường để bà dạy việc. Vừa bước vào trung đường, chàng gặp ngay bà ngồi ăn trầu trên bộ ván cẩm lai, có hai cô Kiều ngồi hầu hai bên. Thiện Tố nghĩ bụng chắc chắn là có chuyện chẳng lành sẽ xảy tới.
Quả nhiên, bà Hai Cung hằn học ong óng hỏi:
– Nghe nói cô giáo ở trọ nhà má con mầy vốn quê ở Lái Thiêu thuộc tỉnh Thủ Dầu Một phải không?
Thiện Tố lễ phép:
– Dạ thưa má lớn, con không rõ lắm, nhưng chắc là như vậy.
Kiều Lan biết Thiện Tố muốn chối quanh:
– Đừng có xạo nghen mậy! Mầy không biết thì ai biết? Bọn mầy thân đến nỗi dắt nhau đi du hí du thực rồi ngủ lại đêm ở Mỹ Tho nữa kia.
Bà Hai Cung chát giọng:
– Thiện Tố à, mầy có vẻ mê mết con nhỏ ấy rồi phải không?. Má mầy coi bộ cũng bị nó ton hót sao đó nên khen ngợi nó om sòm. Nó thấy gia viên điền sản của ba mầy lớn lao như vầy nên muốn nhào vô làm dâu. Mầy mà cưới con vợ tân thời, nó ỷ nó học giỏi sẽ xỏ mũi mầy, coi thường mầy, và sẽ coi bên chồng không ra gì.
Kiều Liên nguýt xéo, trắng trợn:
– Mầy nên nhớ, mầy là con dòng nhỏ, mầy không phải là trưởng tử của gia đình nay. Hãy cho cô ta biết để mà đừng tưởng bở, là sẽ được chia gia tài nầy nghen.
Thiện Tố trong lòng buồn bực lắm, nhưng tỏ vẻ mềm mỏng:
– Xin má lớn và hai chị nhẹ lời. Giữa cô giáo và con không có gì cả. Một kẻ mô phạm, xuất thân từ gia đình có giáo dục, gia đình giàu có như cổ, thì làm sao cổ có mưu toan thủ lợi hay có thói lăng loàn được? Riêng con, con biết thân phận mình, đâu dám mơ tưởng đến gia tài của ông cha.
Bà Hai Cung chận lời:
– Thứ con gái có tông tích mơ hồ từ chốn nào lạ hoắc lạ huơ tới đây, vậy mà má mầy cũng thỉnh về nhà dưng cơm dưng nước. Dân chúng, chòm xóm ở đây bàn ngang tán dọc về con đó nghe mà điếc con ráy, nổ lỗ tai phát ớn, phải đi rửa không kịp.
Thiện Tố vẫn dịu giọng:
– Thưa má lớn, phụ huynh học sinh ở đây đều khen ngợi và thương mến cổ, chớ có ai chê bai cổ đâu?
Bà Hai Cung hét lên:

– Đàn bà con gái mà dám châm tiếng Tây lốp bốp với quan Thanh Tra Tây có ai mà khen đâu? Mầy liệu hồn mà giữ mình. Nó mà chài bẫy được mầy rồi, dám xúi giục mầỵ chém cha, vét sạch tiền bạc vàng vòng trong tủ sắt lắm đa!
Rồi bà xỉ vả luôn má Thiện Tố, dù không có mặt bà Tư Hiền ở đây. Thiện Tố định phân bày, nhưng lại thôi. Anh ta nghĩ những chuyện xảy ra tương tự như vậy đâu phải đây là lần đầu tiên, mà đã có từ mấy chục năm trước, khi anh hãy còn bé thơ.
Thiện Tố đứng làm thinh chịu trận để cho bà Hai Cung xả cơn giận vì ganh ghét và cộng thêm của hai cô con gái yêu quý của bà. Chiến tranh nào rồi cũng kết thúc, bà má lớn chửi mắng đã rồi cũng mỏi miệng! Chàng xẻn lẻn kiếu từ để trở lại nhà máy chà lúa làm việc.
Chiều về, nhà cửa lặng ngắt. Bà Tư Hiền đang nấu cháo và kho cá dưới bếp. Còn Cẩm Hương thì nằm trùm mền trên giường vì cơn sốt kéo đến. Chàng hỏi mẹ:
– Cô giáo có bớt không má?
Bà Tư Hiền nói:
– Uống thuốc tán không hết, nên cổ nhờ mời thầy Bảy phạm-nhe (infirmier, tức là y tá). Thầy đến coi rồi chích cho cổ mũi thuốc thơm nực nồng mùi dầu long não. cổ bớt ho, nhưng còn sổ mũi. Hồi nãy cổ ăn được vài muỗng cháo thịt do chị Hai Ngâu nấu đem qua.
CHƯƠNG CHÍN
Thầy Bảy phạm-nhe nghi Cẩm Hương bị chứng bán thương hàn, nên khuyên Thiện Tố chở nàng đi nhà thương Mỹ Tho. Quả thiệt y như rằng. Nàng vướng chứng bịnh đó, phải nằm ở nhà thương điều trị ít nhứt là mười ngày, hoặc nửa tháng. Thiện Tố đánh dây thép báo tin cho ba má nàng.
Ông bà Ký Tân xuống thăm con gái. Thấy con ốm yếu xanh xao, đau lòng mẹ. Nước mắt bà rưng rưng. Trước mặt ông bà Ký Tân, Thiện Tố khép nép lễ phép thưa:
– Cháu thành thật xin lỗi hai bác, có lẽ tại cháu mời Cẩm Hương đi dự đám cưới người bạn, nên mới ra nông nỗi nầy. Xin hai bác tha lỗi cho cháu.
Bà Ký Tân không nói gì. Ồng Ký Tân chép miệng, thở dài:
– Cậu cứ ngồi xuống ghế đi. Lỗi nầy không phải ở cậu, có lẽ tại nó dầm mưa thì đúng hơn. Chúng tôi phải cảm ơn cậu đã chăm sóc nó mấy hôm nay. Ngày mai tôi sẽ về. Nhà tôi ở lại nuôi nó. Mọi việc đã qua rồi, có ai muốn vậy đâu? Nên không ai trách cậu, và cậu cũng đừng tự trách nữa. Cậu nên về nhà để lo việc của mình đi, hổm rày cậu cũng đã vất vả nhiều với nó!
Thiện Tố an lòng vì không bị ba má của Cẩm Hương mắng bởi nóng ruột con. Chàng vui vẻ, thưa:
– Cảm ơn hai bác thương mà không phiền trách cháu. Công việc của cháu có người khác thế rồi. Mong hai bác cho cháu ở lại chăm sóc cho Cẩm Hương thêm đôi bữa nữa, rồi cháu sẽ về.
Thiện Tố thành khẩn nhìn hai ông bà, chờ câu trả lời. Ông Ký Tân nhìn vợ như hỏi ý kiến? Bà Ký Tân vừa kéo mền đắp cho con vừa nói:
– Cũng được, có cậu ở đây tôi sẽ đỡ lo hơn. Bởi hôm nay là lần đầu tiên tôi đến thành phố nầy. Nhưng mà còn phải hỏi lại Cẩm Hương nữa, coi nó có bằng lòng cho cậu ở lại không đã.
Vợ chồng ông Ký Tân bỏ ra ngoài đi ăn cơm trưa. Chỉ còn lại Thiện Tố ở trong phòng bịnh. Chàng khép cửa sổ lại, sợ gió độc len vào phòng, rồi bật đèn lên cho sáng. Xong, chàng sửa lại mấy nhánh hoa huệ, hoa hoàng điệp trong chiếc lọ đặt trên bàn ở cạnh giường.
Cẩm Hương làm bộ nhắm mắt như đang ngủ. Bởi nàng biết ý mẹ. Bà muốn dò coi tình cảm của nàng đối với anh chàng nầy ra sao? Cuộc giao du giữa Thiện Tố và Cẩm Hương chưa bao giờ bà nghe nàng nói đến. Rồi bỗng dưng cả hai đi đám cưới chung và được chàng nuôi bịnh như vậy?
Cẩm Hương xét lại lòng mình. Nàng chưa bị búa tạ ai khệnh vào đầu, chưa bị ray rứt, chưa bị đau thốn con tim vì ai, chưa cảm thẩy thiếu vắng vì không gặp mặt ai, chưa mừng rỡ trong lòng khi nghe ai nhắc đến tên, chưa ghét, chưa hờn, chưa giận, cũng chưa buồn vui bất chợt không rõ nguyên nhân…. Đó là những lý do, những câu hỏi để nàng nhận định mình có rơi vào lưới tình chưa? Vấn đề đó con Thụy Châu dạy cho nàng biết hồi hai đứa còn học chung năm Đệ nhị niên. Cho nên, nàng khẳng định rằng: “Như vậy là mình chưa xao xuyến yêu thương anh chàng nầy”.
Thiện Tố kéo ghế ngồi sát giường bịnh, nắm tay Cẩm Hương bóp nhẹ, tha thiết:
– Em thấy trong người thế nào? Sắc mặt em hôm nay tươi, anh mừng lắm! Phải để cho anh bịnh thay em mới đúng, vì anh khỏe mạnh! Thấy em lì lịt, không ăn, không uống, nóng, lạnh bất thường anh vừa sợ, vừa lo, lại vừa tự trách mình tại sao lại rủ em đi đám cưới làm chi cho nên nông nỗi nầy? Thật anh ngu quá mà! Anh thành thật xin lỗi, bởi tại anh tất cả!
Cẩm Hương không trả lời. Nhưng bỗng dưng dòng lệ mỏng chảy trên má. Thiện Tố lấy khăn chặm nước mắt cho nàng, rồi bất ngờ chàng hôn nhanh lên má lên môi nàng. Phản ứng tự nhiên, Cẩm Hương xoay người vào trong trùm mền kín lại. Nhưng cái hôn đó hình như có một luồng hơi ấm chạy khắp châu thân, và nàng có cái cảm giác lâng lâng nhè nhẹ len lén vào hồn. Biết Thiện Tố đã ra khỏi phòng, nhưng nàng vẫn trùm mền kín mít không dám giở ra. Nàng vừa thẹn vừa sung sướng nên không muốn cho Thiện Tố bắt gặp đôi má ửng hồng của nàng. Phải ở đây có cái hang, nàng nhứt định sẽ chun xuống ngay cho đỡ mắc cỡ.
Ông bà Ký Tân ăn cơm xong, trở lại phòng bịnh. Bà kêu lên:
– Nóng quá, sao con trùm mền bít đầu bít đít vậy? Bộ con lạnh hả?
Cẩm Hương không trả lời, bà thuận tay kéo mền ra. Nàng nắm chặt lại. Bà rờ trán, rờ tay xem có gì không? Trán nàng đẫm mồ hôi, bà hoảng hồn gọi Thiện Tố:
– Hãy vào xem, Cẩm Hương nóng hổi và toát mồ hôi đầu. Mau mời phạm-nhe!
Thiện Tố lo sợ:
– Dạ, để cháu đi mời thầy phạm-nhe.
Nói rồi chàng bước đi nhanh, Cẩm Hương hoảng hồn, nói láo với mẹ và để cản anh ta lại:
– Đừng gọi phạm-nhe, con có gì đâu? Tại trùm mền ngủ quên đó mà.
Thiện Tố thoáng buồn, thầm nghĩ. Chắc Cẩm Hương giận nên không muốn cho mình ở lại. Mình vừa mới lau nước mắt cho nàng đây mà! Nàng có cái phản ứng khó hiểu: Trùm mềm. Vậy là sao?.
Riêng Cẩm Hương cũng nghĩ ngợi. “Đàn ông là như thế sao? Thiện Tố thật sự không biết tâm sự của con gái sao? Chàng vô tình đã làm rung động tâm hồn cô gái trẻ vô tư, chưa có người yêu và chưa một lần yêu dù là yêu đơn phương… Hay ngoại cảnh làm cho tâm hồn nàng xao động sanh ra lãng mạn, thương mây khóc gió… Hoặc nàng ở đây mà tâm hồn bay bỗng đi đâu… Nàng không biết! Và nàng sợ lắm, không muốn biết! Nhưng sao trong đầu óc nàng cứ luôn nghĩ đến chàng và cảm thấy hương vị ấm áp của cái hôn còn phảng phất trên má trên môi nàng!”
Bà ký Tân biết con không sao thì an lòng, và bà cũng đoán được phần nào tâm tư của chàng thanh niên và cô ái nữ của mình, bà hỏi con:
– Con có muốn uống chút nước không?
Cẩm Hương không nói, chỉ lắc đầu:
– Dạ không.
Bà quay qua nói với Thiện Tố:
– Trời hôm nay nóng bức quá, cháu ở đây với nó, hai bác xuống băng đá dưới kia, có bóng cây ngồi cho mát một chút. Nếu nó có cần gì thì nhờ cháu giúp dùm cho, hay là gọi bác nghen.
Thiện Tố “dạ”. Ông bà Tân bước ra khỏi phòng. Chàng kéo ghế đến ngồi gần giường Cẩm Hương, nhẹ hỏi:
– Em có muốn ăn gì hay uống nước không?
Cẩm Hương lắc đầu. Nàng chỏi tay muốn ngồi dậy. Nhưng nàng cảm thấy đầu hơi nặng nên rên nhẹ rồi lại nằm xuống. Thiện Tố nói:
– Để anh đỡ đầu em lên cao, dựa lưng vào thành giường cho dễ chịu nghen?
Cẩm Hương gật đầu. Chàng lòn tay phía sau chêm thêm gối để nàng dựa lưng cho khỏi bị cấn. Cẩm Hương nói:
– Cảm ơn anh hổm rày đã vất vả vì em. Nay em cũng đỡ rồi, giờ chỉ chờ em bình phục mà thôi. Em nghỉ lâu lắm là 3 tuần nữa em trở về dạy lại. Công viêc nhà máy dồn đống đang đợi anh đó.
Thiện Tố cười buồn, nghĩ là Cẩm Hương còn giận mình. Anh nói:
– Bộ em còn giận anh hả? Việc ở nhà máy thì có Thiện Cảm lo, vậy chớ lúc anh đi coi ruộng cả mấy tháng thì sao?
Cẩm Hương nhớ đến giọng điệu chanh chua của bà má lớn, và hai bà chị của Thiện Tố hay nổi chứng bất ngờ làm cho người đối diện thấy dễ ghét khó ưa nên nàng vẫn cương quyết:
– Đó là chuyện có dự định trước, còn chuyện nầy quá bất ngờ. Em cũng khỏe nhiều rồi không dám làm phiền anh nữa.
Thiện Tố có vẻ không vui, xẳng giọng:
– Được rồi, em không cho ở, thì mai anh về làm việc lại!
Cẩm Hương biết anh ta giận, nàng dịu giọng:
– Em về nhà dưỡng bịnh. Hôm nào rảnh anh có thể lên nhà thăm em. Nhưng anh phải rủ ai đi theo, chớ anh đến một mình thì không được, vì bên nội em khó lắm, họ sẽ dị nghị và cười mẹ con em.
Thiện Tố tươi ngay nét mặt, mắt ngời sáng siết chặt tay nàng, Cẩm Hương giật tay lại
– Anh đã vi phạm nhiều rồi nghen!
Chàng cười trừ! 
Đêm nay là đêm rằm tháng ba. Các ông trong Hương Chức Hội tề sau Tết ta đã đi quyên tiền của các thương gia trong châu thành quận để mướn gánh hát bội về hát cho dân coi miễn phí. Bà Tư Hiền dù là vợ hai nhưng cũng là dâu ông Cả, và là vợ nhỏ ông chủ nhà máy chà đã đóng góp số tiền lớn cho lễ hội nên cũng được giấy mời đi chung với gia đình bên chồng xem hát bội. Từ chiều bà Tư Hiền đã sang nhà bà lớn để cả hai cùng đi. Trước đó, bà có rủ Cẩm Hương đi, nhưng nàng từ chối, vì sợ đông người chen lấn. Thiện Tố chưa về, hay đã đi xem hát cùng gia đình? Nàng không biết.

Sau hơn ba tuần nghỉ dưỡng bịnh, trở lại dạy học, Cẩm Hương cảm thấy không khí ở nhà trường thật khó thở. Bạn đồng nghiệp lạnh lùng với nàng, còn các học trò không còn thân thiện với cô giáo như trước nữa. Nàng nghe phiền muộn vô cùng mà không biết lý do tại sao? Nhưng trong nhà, nàng được bà Tư Hiền chăm sóc chu đáo hơn. Còn nàng thì luôn cố tình lánh né Thiện Tố. Mỗi hôm đi dạy về, nàng kêu đói để được ăn cơm trước. Sau đó nàng vào phòng, đóng cửa lại đọc sách, xem tiểu thuyết hoặc chấm bài cho học trò, rồi ngủ. Nàng không cùng bà Tư Hiền chờ Thiện Tố ăn cơm như dạo trước. Có lẽ Thiện Tố biết ý nàng, nên lặng lẽ làm việc của mình. Sáng sớm chàng đi làm, có bữa khuya lơ mới về. Hai người họ không có lý do mà tự dưng hình như có chiến tranh lạnh với nhau!
Hồi trưa, Thục An lấy xe hiệu Delahaye của ba nó chở Ái Mỹ và Ánh Nguyệt xuống Cai Lậy thăm Cẩm Hương, nhân lúc hai con kia đến nhà nó chơi. Cẩm Hương dắt cả ba đến quán bà Hai Ngâu, bảo:
– Bọn bây đến Cai Lậy mà không ăn bì bún, bì cuốn, nem chua là uổng một chuyến đi.
Bà Hai Ngâu vui vẻ:
– Tôi vừa ép bánh tằm còn nóng hổi. Cô nào muốn ăn bánh tằm bì chan nước cốt dừa thì có ngay.
Ái Mỹ nhìn nắng chan hòa khắp phố xá:
– Sáng nay oi bức, ăn bì bún mát miệng hơn.
Thục An bảo:
– Nhơn tâm tùy thích. Tao không mấy đói, chỉ ăn hai cuốn bì là đủ no rồi.
Cẩm Hương và Ánh Nguyệt ăn bánh tằm bì. Bốn cô đang ăn uống nói cười vui vẻ. Ánh Nguyệt dừng lại, khoe dùm bạn:
– Chị Cẩm Hương có biết là hai con chồn đèn nầy có bồ rồi không?
Cẩm Hương mở to mắt ngạc nhiên, nhìn Thục An và Ái Mỹ:
– Thiệt vậy sao?
Thục An dúc dắc:
– Người yêu của tao đẹp lãng mạn như kép Từ Anh trong gánh hát Huỳnh Kỳ.
Ái Mỹ kênh kiệu:
– Còn người tao yêu giống như hoàng đế Bảo Đại.
Cẩm Hương mắc tức cười hai con khoe khoang lớn lối nầy. Bỗng thấy Ánh Nguyệt làm thinh tư lự, Cẩm Hương động lòng:
– Còn mầy thì sao Ánh Nguyệt?
Ánh Nguyệt làm bộ để mặt buồn áo não:
– Em đang yêu một chàng, chàng cũng đã đá lông nheo lia lịa với em. Em đợi chàng viết thư tỏ tình. Gần Tết chàng chỉ gởi thiệp chúc xuân vậy thôi. Đợi chàng tỏ tình chắc phải đến cóc mọc râu! Nhưng em biết ảnh thương em lung lắm, nhưng ảnh nhút nhát nên ngại ve vãn em đó thôi.
Thục An chợt nhớ ra:
– Tháng trước tao đi xe điện (tramway) đến Hốc Môn để thăm dì Tư tao. Trên xe tao gặp con nhỏ Thanh Hà. Bây còn nhớ con nhỏ roi roi, có nước da ngăm đen học dưới bọn mình 1 lớp đó không? Tao với nó trò chuyện tương đắc lắm. Khi chia tay, nó có cho cái địa chỉ và ân cần mời tao đến chơi. Nhà nó ở đường Mặc Má Hồng (Mac Mahon, về sau đổi tên Công Lý). Té ra con nhỏ lấy chồng Tây. Dân Tây mới ở đường Công Lý thuộc khu sang trọng. Tuần rồi có dịp qua ngang đó, tao tìm đến thăm nó. Thằng chồng Tây của nó chở hai đứa tao đi ăn cơm Tây nhà hàng ở đường Bonard (về sau đổi là đường Lê Lợi) uống rượu rum pha li-mô-nát.
Ánh Nguyệt hỏi tới:
– Chồng Tây của nó bao nhiêu tuổi? Có đẹp trai không? Có giống Clark Gable không?
Thục An cười:
– Chồng nó khoảng ba mươi ngoài, không đẹp trai, nhưng khi nói, cười có duyên đáo để. Hắn là Biện lý tòa thượng thẩm đó đa.
Ái Mỹ trề môi:
– Ăn nói có duyên mà ưa buộc tội can phạm giữa tòa án thì thất đức lắm đó. Tao không thèm lấy thứ chồng như vậy đâu. Thà tao ở vá còn hơn.
Ánh Nguyệt nói:
– Mầy nghĩ vậy cũng đúng. Mợ Ba tao thường nói: “Mấy người ăn ở thất đức thì coi chừng sanh con sẽ không có lỗ đít”. Nhưng chồng con Thanh Hà chỉ phán tội cho những người phạm tội thôi mà. Mầy khó tánh thì sẽ gặp… chồng mổng chổng mông mà gào cho coi.
Cả ba phá lên cười muốn vở nóc nhà, và hai cô kia xúm lại đấm thùm thùm lên vai cô con gái nói trây, phát ngôn bừa bãi, ẩu tả có cái tên Ánh Nguyệt trong sáng đó.
Ăn xong, Cẩm Hương dắt ba cô dạo quanh phố chợ Cai Lậy. Họ mua một vài món đồ lưu niệm rồi ra xe về. Nhìn làn khói bụi cuốn tỏa phía sau và xe khuất trong ngõ quẹo, Cẩm Hương trở về nhà trọ mà lòng man mác buồn.
Trăng tròn ngạo nghễ trên lưng trời phương đông. Ngày rằm, cũng là vào ngày nước rông, Cẩm Hương mở cửa sổ nhìn ra ngoài. Ánh sáng loang loáng trải trên mặt kinh dài sau nhà bà Tư. Nước nhấp nhô đưa đẩy từng đợt sóng nhẹ. Dòng kinh được trăng rọi lộ màu nước ngấm nhiều phù sa. Đêm nay vắng tiếng đùa giỡn của mấy đứa trẻ tắm dưới kinh như những mùa trăng qua, cũng thiếu bóng dáng xuồng câu có ngọn đèn tán chai le lói, và thiếu người giặt áo quần trên sàn lảng sau nhà hay trên những chiếc cầu nhũi dưới mé kinh. Ngọn gió nhẹ thổi cũng đủ đưa cành so đũa lay động thướt tha ngoài mái hiên còn rải rác những bông trổ muộn, những trái non xanh lặt lìa dài như chiếc đũa ăn cơm cọ quẹt vào mái nhà vào vách bổ kho nghe xạc xào.
Nàng nghĩ: đêm qua, đêm nay và đêm mai nữa, nhà nào cũng vậy, già, trẻ, bé, lớn, đều đi xem hội chợ và xem hát chầu trong dịp cúng rằm Thượng Nguơn ở đình trong phố quận. Mỗi năm trừ những ngày Tết ra, trong làng chỉ có 3 ngày vui lớn nầy. Cho nên dân trong làng và các làng lân cận làm sao bỏ qua cho được? Nam thanh nữ tú, ăn mặc tươm tất. Trên đường, từng nhóm năm bảy người đi bộ, xuồng bơi, ghe chèo, còn những người ở gần lộ đá thì đi xe ngựa, xe kéo…
Cẩm Hương thở dài. Gần đây sao nàng cảm thấy dằng dặc muộn phiền, và hình như thiếu vắng thứ gì đó nhưng nàng không biết phát xuất từ đâu và tại sao? Nàng rời phòng, đi lần xuống nhà bếp rót ly nước uống, và mở cửa ra ngồi trên chiếc võng bên hiên nhà. Bà Tư khéo tay đương võng nầy bằng dây từ bẹ chuối xiêm chẻ mỏng phơi khô nên chắc và mềm để ai đó nằm, ngồi không bị cấn. Nàng ngã lưng lên võng, lót hai bàn tay dưới ót, một chân xoải dài trên võng, một chân chỏi dưới đất để đong đưa. Tiếng võng kêu kẽo kẹt phát ra từ chỗ hai đầu lòn trong 2 vòng sắt bị khô dầu. Nàng nghĩ ngợi miên man, nhớ hai em, nhớ cha mẹ già. Bà Ký Tân hay than thở:
– Má rầu thúi ruột, thiệt uổng công cho cái thằng Thành ăn học đàng hoàng tới nơi tới chốn bây giờ lại thương cái con đi làm thư ký cho hãng Denis Frères của Tây. Trong hãng toàn là Tây tà. Con gái học trường Tây, trường u không ý tứ đó, tự do ngã ngớn đụng ai cũng hốt cũng ôm không ra gì cái thể thống gì hết! Thiệt là khó coi, chướng mắt! Còn thằng Tuấn lúc rày bày đặt nhậu la-ve với con trai ông chủ lò chén Chòm Sao.
Cẩm Hương biết lò chén Chòm Sao chớ! Đó là chỗ sản xuất tô, tượng, chén dĩa, chậu, vịm, ảng, bồn, lu, hũ, khạp… Nói tóm lại là đồ gốm làm bằng sành. Nơi đó có 4 gian nhà lợp ngói âm dương. Ngoài sân lót gạch tàu. Giữa sân là chòm cây sao, có 4 cây cao vút, nên quạ từ các nơi kéo về là ổ trên ngọn. Lò nầy ở làng Hưng Định cách chợ Lái Thiêu chừng 2 cây số.
Má nàng hậm hực:
– Từ lâu, má muốn thằng Tuấn cưới con gái ông chủ lò đường. Cô ta hiền lành dễ thương, tuy xinh lịch mà không liến xáo như gái tân thời. Mấy hôm trước đây, nó gởi thư về thăm ba má nói rằng nó đã để ý con Á̉nh Nguyệt, bạn thân của con. Cô nầy, tuy giỏi nữ công, giỏi chữ nghĩa ngang ngữa với thằng Tuấn nhà mình, nhưng ngặt cái là miệng cổ lép xép liên tu bất tận như vịt xiêm rỉa tép nên má ngại lắm.
Cẩm Hương trấn an mẹ:
– Ánh Nguyệt học chung với con lâu rồi. Con biết nó tuy là gái tân thời, nhưng không vượt ra khỏi vòng lễ giáo. Con gái của má đây cũng vậy mà, nên xin má cứ an tâm.
Bà Ký Tân giả bộ quắc mắt, khôi hài:
– An tâm sao được, con? Cổ lúc nào cũng lễ phép với người trưởng thượng. Nhưng má nhìn cái nút ruồi bên mép cổ biết ngay là cổ ưa eo óc móc xỏ chồng, biến chồng thành tên râu quặp, run lập cập khi vợ nguýt háy con mắt có đuôi. Đó là cái tướng gái hay ăn tạp, ăn xàm xạp tối ngày “Thịt quay nhai nguyên ký, canh bí ních hết nồi, mâm xôi xơi sạch bách”.
Bà bật cười thành tiếng và Cẩm Hương cũng cười ngất ngất. Nàng thừa biết mẹ nói vậy chớ bà đã có cảm tình với Ánh Nguyệt rồi.
Cẩm Hương cười nhìn mẹ:
– Còn con, sao không nghe má nhắc tới? Vậy khỏe quá, má khỏi lo cho đứa con gái nầy.
Bà cú đầu con, trìu mến:
– Con là đứa má lo nhiều nhứt, vì con là gái. Cậu Thiện Tố coi cũng liền lạc trai, tánh tình lại thuần hậu, có tâm địa tốt. Cậu ta có vẻ quyến luyến con lắm. Cậu ấy đang làm nghề ngổng chi, và con có nghĩ gì cho tương lai của mình không? Đừng có nói láo với má rằng con không có tình ý gì với cậu ta nghen. Có con gái lớn như hũ mắm treo đầu giàn, không biết rơi xuống lúc nào!
Rồi bà chép miệng nhìn trời xa. Cẩm Hương thương mẹ vô cùng, hai năm nay bà già đi ngó thấy. Nàng cố tình làm cho mẹ vui, nên nói:
– Bộ má thấy anh Thiện Tố có ý với con hay sao? Ồ, tại sao con không biết gì hết vậy cà? Cái anh chàng đó tối ngày quần vo, áo vận, vác lúa hụt hơi, lúc nào không vác lúa gạo thì tính toán li chi lời lỗ, thiếu thừa, đến tối tăm mày mặt. Cái mặt anh ta lại lầm lì chừ bự, thì còn thời giờ đâu mà nghĩ đến kẻ khác? Con không ham đâu. Lạy tạ Trời Phật cho hắn đừng bao giờ nghĩ đến con. Người ta mở miệng ra thì tiền hô hậu ủng, quan yêu dân chuộng. Còn anh ta mở miệng ra như cú kêu ục rúc. Nhắc đến ảnh con thấy mà phát ngán ngẩm mớ đời!
Cẩm Hương ngừng lại, cười cười liếc xéo mẹ, nũng nịu hỏi:
– Bộ má muốn gả con cho anh phu khuân vác đó hả?
Bà Tân cười nhẹ:

– Phu khuân vác thì sao? Người sang hay hèn là do hành vi của họ, chớ không phải gò bó vào bực cao, bực thấp của thân phận. Đừng vịn vào địa vị sang hèn đó mà bỏ lỡ lương duyên làm uổng phí cuộc đời! Cho nên theo má nghĩ, Thiện Tố sẽ là người chồng tốt, sẽ đem hạnh phúc cho người nào nó thật lòng thương yêu. Người ta nói đàn bà chỉ ở trong nhà lo cho con cái… Đàn bà đã có đàn ông lo mọi thứ chuyện bên ngoài… Má thì khác, nền móng hạnh phúc của gia đình là trách nhiệm chung của cả hai vợ chồng, đàn ông hay đàn bà đều phải làm việc sanh lợi như nhau. Con thấy cậu mợ Sáu con đó, mợ thì khoa bảng, còn cậu có gì đâu? Chỉ cái bằng Thành Chung mà rớt lên rớt xuống 2, 3 lần mới đậu. Nhưng cậu mợ vẫn hạnh phúc và các con đã nên người hết rồi. Nên đừng đòi hỏi quá nhiều ở đối tượng của mình. Cái thực tế và quan trọng là mình có thương yêu đối phương và đối phương có thật lòng yêu mình không?
Cẩm Hương không ngờ mẹ mình là người đàn bà tuy sống ở thôn quê mà nhìn cuộc đời có những ý nghĩ sâu sắc như vậy! Hèn gì 3 đứa con của bà đều được bà ân cần dạy dỗ, cho học hành đến nơi, đến chốn. Nàng nói:
– Nhưng có chồng khoa bảng, giàu sang, có địa vị vẫn hơn chớ má?
Má nàng gật đầu:
– Con nói đúng. Nhưng đối với người đàn bà có chồng có con thì hạnh phúc gia đình mới là vô giá con à. Con cũng biết các tràng pháo tay nào rồi cũng chấm dứt. Các giải thưởng rồi cũng sẽ đóng bụi. Các quán quân hoặc kẻ thắng cuộc rồi cũng sẽ bị quên lãng. Giàu sang, địa vị, khoa bảng nếu ở trong tay người thiếu đức hạnh thì nguy hiểm vô cùng. Thiện Tố tuy không đi làm việc ở công sở, không ngồi ở văn phòng, không có địa vị trong xã hội, nhưng cậu ta là người có học, có phong cách của người đàn ông và có tư cách ở đời. Má không ép bức con cái trong vấn đề tình cảm hôn nhân, nhưng má lấy kinh nghiệm và nhận xét của mình nói cho các con biết để các con lựa chọn người phối ngẫu cho mình. Theo trào lưu tiến hóa, và dù cho cuộc đời có nhiều đổi thay nam nữ bình quyền… Nhưng câu “Gái chính chuyên chỉ có một chồng!” vẫn là khuôn vàng thước ngọc cho đàn bà chúng ta. Cho dù gặp người chồng khư khư ôm quan niệm “Trai năm thê bảy thiếp” đi nữa, âu cũng là phần số hẩm hiu của người đàn bà, đương sự đành phải chịu chớ biết làm sao! Không lẽ “ông ăn chả, thì bà ăn nem”! Bởi vậy ông bà ta mới có câu “Phận gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu”. Thanh niên chân tình và thành thật như Thiện Tố không dễ tìm ở thời buổi nầy đâu con…
Cẩm Hương háy yêu mẹ:
– Thôi được rồi sư mẫu Ký Tân ơi, lần nầy xuống đó dạy, Cẩm Hương của sư mẫu sẽ năn nỉ Thiện Tố đi cưới cổ cho rồi…
Nói đến đó, nàng cười lớn:
– Má thật là lạ! Mẹ của người ta thường bắt con gái mình phải tìm đối tượng môn đăng hộ đối, giàu sang, có địa vị… Tệ lắm cũng phải có bằng cấp ngang hàng với con mình, còn má thì xúi con đi cưới anh nông dân đó làm chồng.
Bà Ký Tân cười ngất, bảo con.
– Như vậy có gì không tốt đâu con? Ước mơ của má cũng bự sự không thua kém ai đâu, nhưng ở đời phải biết người biết ta, đừng có trèo cao quá thì sẽ té đau. Cứ mơ mộng cao xa, rượt bắt những cái ngoài tầm tay mình thì khổ lắm. Bắt được mà không giữ được lại càng đau khổ hơn. Bởi “Càng cao danh vọng càng dầy gian nan” mà.
Nghĩ đến mẹ, Cẩm Hương cảm thấy hãnh diện và yêu kính cảm phục mẹ bội phần. Còn cha nàng, ông Ký Tân vốn thích đọc sách, nên mỗi khi có dịp ra chợ ông thường đến tiệm sách tìm mua sách báo chất đầy mấy dãy kệ trong phòng sách. Cho nên, mỗi tối rảnh rang, bà Ký Tân cũng lấy những quyển sách “Học Làm Người“, sách đề cao nhân nghĩa đạo lý con người, sách trau giồi đạo đức… ra xem để bồi bổ kiến thức. Cuốn “Gia Huấn Ca” bà đã thuộc nằm lòng. Chữ nào trong sách vở không thông suốt thì bà hỏi chồng. Một người đàn bà có trình độ chưa hết Tiểu học mà hiếu học, cầu tiến như bà, dù ở Sài Gòn hoa lệ cũng không có được bao nhiêu. Cho nên khi đàm đạo với bạn bè, khách khứa, bà tỏ ra hoạt bát, lời nói giản dị mà cận nhơn tình, ráo rẻ thế sự và tràn ngập cảm thông. Mấy nhỏ Thụy Châu, Thục An, Ái Mỹ, Ánh Nguyệt…bạn của con gái, và bạn của con trai rất kính phục bà.
Thụỵ Châu đã than thở với Cẩm Hương:
-Về chuyện tình yêu và hôn nhơn tao đâu dám tâm sự với bà già tao. Hễ tao mở miệng ra là bị mắng ngay: “Chuyện chung thân của con là để cho cha mẹ sắp đặt. Biết rằng con có ăn học, nhưng làm sao hiểu việc đời bằng ba má? Có đời nào trứng khôn hơn mén?”.
Ái Mỹ xuýt xoa:
– Mèn ơi, nếu đứa nào có tâm sự rối nùi đem bày tỏ với má chị Cẩm Hương, thì bác sẽ khuyên lơn, an ủi, giúp nhiều ý kiến vượt qua chướng ngại một cái rột.
Thục An ca ngợi:
– Ờ, bác gái là bà tiên trong cổ tích, bà thánh trong đạo Thiên Chúa, là thị nữ của Quan Thế Âm trong kinh Phổ Môn.
Ánh Nguyệt lẽo lự, bắt bẻ Thục An:
– Đức Phật Bà có nàng Long Nữ làm thị nữ, cầm bình cam lộ rồi. Phải nói bác gái là bà quản gia của Đức Phật Bà thì đúng hơn.
Tiếng tằng hắng của Thiện Tố, Cẩm Hương giựt mình lật đật ngồi bật dậy, vuốt lại mái tóc, rồi giả giọng tự nhiên:
– Anh mới về?
Thiện Tố đến ngồi trên khúc cây xoài to. Khúc cây xoài từ cây xoài bị chết nhác ở côi vườn của ba chàng, mà chàng đã nhờ chú Sáu làm vườn cắt ngang lấy đem về, rồi dùng giấy nhám chà mặt cây cho hết dăm, hết sần sùi trở nên trơn nhẵn. Chàng dùng khúc cây ấy để làm cái đôn ngồi, và được đặt nó đối diện với chiếc võng. Chàng hỏi:
– Em đang nghĩ gì mà có vẻ suy tư quá vậy? Anh về lâu rồi, nhưng không dám gây tiếng động mạnh sợ làm em tỉnh giấc mơ tiên của em! Em nghĩ gì? Có liên quan đến anh phải không? Cho anh biết với.
Cẩm Hương đong đưa chiếc võng, cười nhẹ:
– Đang nghĩ những chuyện vu vơ lúc còn trẻ. Anh biết để làm gì?
Dưới ánh trăng bàng bạc, mắt Thiện Tố sáng ngời, anh cười nửa miệng:
– Bộ bây giờ cô Cẩm Hương già lắm sao? Biết để thương yêu em nhiều hơn nữa.
Nàng không trả lời. Chàng làm thinh không nói. Không gian như ngừng lại, không gian như lắng đọng giữa hai người. Bỗng Thiện Tố đứng lên, bước tới cầm lấy tay nàng:
– Anh muốn biết Cẩm Hương có người yêu chưa? Nếu chưa thì cho anh cơ hội, và em tìm hiểu thêm về anh. Sau nầy, nếu em bằng lòng thì chúng ta sẽ tiến đến hôn nhân… Em có biết không Cẩm Hương? Thật sự lòng anh xao động khi gặp em lần đầu tiên đứng nhìn mưa dưới hiên trước nhà. Nhưng anh ngại thân phận mình không xứng với em, nên lòng dặn lòng không nên tiến thêm nữa, hãy xem em như người bạn thông thường thôi. Nhưng cho đến khi em bị ngã bịnh, anh không còn tự chủ được nữa! Đêm em mê sảng, nếu em có mệnh hệ nào, chắc anh chịu không nỗi!
Cẩm Hương bồi hồi e thẹn cúi đầu. Làn gió mát rượi thổi qua. Trời về khuya, trăng càng lên cao, ánh trăng càng trong sáng trải lên vạn vật, trải lên vùng trời quê đầy tình yêu thương.
Đêm đó Thiện Tố và Cẩm Hương ngồi chuyện vãn, kể chuyện nọ xọ chuyện kia. Mãi khi bóng trăng gác đầu lên ngọn cây dương bên xóm xa, mãi đến khi hương hoa bưởi ở khu vườn bên cạnh tỏa theo cơn gió mỏng và hơi sương mát lạnh, cả hai mới chia tay, mạnh ai về phòng người nấy.
Vào buồng, nằm lên giường rồi mà Cẩm Hương vẫn còn thao thức. Nàng vặn cao ngọn đèn dầu, lấy thư của Ánh Nguyệt ra xem lại cái đoạn:
“…Nhỏ Thục An và Ái Mỹ chủ nhật tuần rồi có dắt kép đến thăm em. Kép của Thục An là anh chàng Ấn lai (cha Ấn mẹ Việt) có dáng oai phong và râu hùm hàm én, mày ngài mắt to như Từ Hải trong truyện Kiêu. Tiếng nói anh ta sang sảng như rống, như gầm nghe ớn óc. Vậy mà bạ chuyện gì cũng nựng nịu nhỏ Thục An giữa bàng dân thiên hạ. Ai biết sau lưng người ta tụi nó hun hít ra sao, mùi mẫn tới bực nào? Quỉ ơi, người cầu hôn em mà có mặt mày dữ dằn và thái độ trống trải như vậy chắc em sợ đến chết giấc, ở đó mà cười híp mắt và có thái độ ra điều tự đắc như con quỉ cái Thục An.
Còn bồ của Ái Mỹ thì dễ nhìn hơn, người dong dỏng cao, thái độ khép kín, nhưng lời nói ngọt như đường cát, mát như đường phèn, như mứt bí, mứt dừa. Hắn ưa vuốt đuôi lươn lời nói bất cứ ai. Hèn chi lời ngọt của hắn không lọt vào tim, gan, phèo phổi, lá lách lá mía, ruột già, ruột non của con thị tì Ái Mỹ sao được?
Hai thằng kép của hai con đó nói để giới thiệu em cho em của họ, bạn của họ. Như em đã từng tâm sự với chị rằng: Trái tim dại khờ của em đã có một chàng tân học bảnh trai xâm lăng rồi. Hắn đã xây thành đắp lũy, cất chòi canh trong đó, nên em khó mà dời đổi hoặc chứa chấp anh Ba anh Bảy nào khác.
…Còn nhỏ Thụy Châu thì tức cười lắm. Nó đem thư tình của anh Thịnh ra khoe. Nhỏ nói: “Hễ viết thư nào cho tao xong, ảnh cũng ướp dầu thơm hiệu Coty tao thích cả…” Thiệt hết nói nổi, con nầy đía xạo không ai bằng mà! Nó mua dầu thơm hiệu Coty để xức hàng ngày mà. Có nghĩa là nhỏ xịt vào lá thư vài giọt dầu thơm của nó đó chị à. Con chim chèo bèo nầy ưa lộng giả thành chơn lắm.
CHƯƠNG MƯỜI
Trong những thửa ruộng loang loáng nước, ngăn cách nhau bởi bờ mẫu ngoằn ngoèo chia ruộng ra có miếng hình vuông, hình chữ nhật, hình xéo… còn rộng hay hẹp là tùy theo diện tích của mỗi miếng ruộng. Những bụi lúa mập, tua tủa lá vươn cao rậm rạp và xanh lặt lìa như đỡ nâng bông lúa đòng đòng ngậm sữa quằn nặng hột. Những bụi lúa trồng san sát nhau thành những hàng ngang hàng dọc thẳng tắp chạy dài đến tận chân vườn xa lắc xa lơ. Là đà trên ngọn lúa, bầy chuồn chuồn xanh, đỏ, tím, vàng, cam, hồng… đủ màu đủ sắc, bay qua lượn lại tìm bắt muỗi. Thỉnh thoảng cây lúa rung rinh, hay quặn lên làm chao động mặt nước do lũ cá rô, cá sặc, cá lóc… hám ăn nhào lộn, rượt đuổi nhau, hoặc tranh giành đớp mồi. Những chú cào cào, sâu, bọ vô tình bị rơi xuống. Những con ốc bươu đen huyền, sùi bọt trắng đeo từng chùm, từng đám trên cọng lác, cọng đưng mọc ngầm dưới nước. Nước ruộng trong veo, nhìn thấy rõ những bầy cá bãi trầu, cá lòng tong mương, cá bạc đầu lội nhỡn nhơ… Gió sáng mát rượi. Trên gò nổng, xa xa đám vịt trời, le le, chằn nghịch… đang rỉa lông. Bầy chim áo dà, chích chóe gọi nhau bên chòm bông cỏ, bông gạo. Ven ao, có hàng cây điên điển nở từng chùm hoa vàng phơi phới, nghiêng nghiêng in bóng dưới lòng ao, mặt bằng phẳng nước.
Nền trời xanh ngát, điểm những cụm mây mỏng do phản chiếu màu sắc rực rỡ của vầng hồng vừa ló dạng, tạo thành một bức tranh có nhiều hình dáng khác nhau tùy theo cặp mắt mỹ thuật của mỗi người dưới trần thế ngắm nhìn.
Mặt trời ngạo nghễ dần dần lên cao. Ánh hồng tươi chan hòa lên vạn vật, làm những giọt sương mai còn sót trên cành cây kẽ lá, trên hoa lấp lánh. Và theo làn gió còn ngậm sương, hòa với mùi đất, cỏ, cây, trái, lá, hoa… và mùi khói rơm, mùi cỏ cháy quyện vào nhau thành một thứ hương của đồng nội thanh thanh, ngan ngát. Tiếng chim kêu, tiếng gà gáy văng vẳng từ côi vườn bên kia… Cảnh vật, âm thanh của buổi bình minh ở đồng quê len vào tâm hồn người một cảm giác nhẹ nhàng, êm ả.
Trước cảnh thiên nhiên êm đềm thanh khiết nơi ruộng vườn bao la bát ngát nầy đã vào lòng Cẩm Hương, làm nàng cảm thấy lâng lâng dễ chịu vô cùng. Nàng phóng tầm mắt nhìn bên kia bờ mẫu có lác đác những nhà nông ra đồng sớm. Họ đang khum lưng nhổ cỏ lúa, vét bờ. Gần đó những người đang đứng câu rê. Bắc ngang qua dòng kinh đào là cây cầu tre già cong cong, mà có nơi còn gọi là cầu khỉ. Mặc dù cầu có tay gượng, nhưng cây cầu lắc lẻo, chồng chềnh khó qua. Bên kia ruộng có vài mục tử rượt bắt đùa giỡn chạy qua cầu lanh lẹ như chạy trên đất liền. Có mục tử ngồi trên lưng trâu để cho chúng ăn quanh đám cỏ non xanh dờn…
Buổi sáng ở thôn quê là một bức tranh. Mà nàng nghĩ rằng, cho dù một họa sĩ tài ba xuất chúng đến đâu, cũng không làm sao dùng cọ, màu… để vẽ thành một bức họa thiên nhiên sống động và diễm tuyệt như thế.
Cẩm Hương đã bị ngoại cảnh thu hút, tâm hồn ngẩn ngơ, bâng khuâng trước cảnh ruộng đồng bao la xanh biếc chạy dài, mà quên rằng gần nàng còn có bà Tư Hiền và Thiện Tố. Họ đang chỉ trỏ, nói về thửa đất ruộng mà cha và bà má lớn của Thiện Tố vừa chia cho chàng. Và trên lộ đá thỉnh thoảng có những chiếc xe đò, xe đạp, xe thổ mộ, xe bò di chuyển để lại vùng bụi xám ở phía sau.
Bà Tư Hiền có vẻ không vui, càm ràm với Thiện Tố:
– Ổng chỉ có 4 đứa con thôi, con nào cũng là con. Trong gia đình, từ bà lớn đến mấy con của bả luôn lánh nặng tìm nhẹ. Chuyện gì cực khổ vất vả thì đùn qua cho mẹ con mình làm… Cái gì sung sướng tốt lành thì mẹ con họ hưởng. Ba con cũng biết điều đó chớ. Vậy mà khi chia ruộng đất cho các con cũng bên trọng, bên khinh, chia cho đám con bà lớn ruộng vườn quá nhiều hơn con. Thổ ngơi của tụi nó còn ở vị trí tốt, sát mé sông, tàu ghe đi lại dập dìu, nhà cửa san sát. Vườn thì đã có thu hoạch huê lợi mấy năm rồi, còn ruộng màu mỡ lúa nếp luôn trúng mùa… Má cũng đã cực khổ cả đời cùng gầy dựng của cải cho ổng bả chớ phải ăn không ngồi rồi đâu? Mà hôm nay ổng bả bố thí cho con mảnh đất không ai thèm ngó tới, nơi khỉ ho cò gáy, chó ăn đá, gà ăn muối. Lại còn có mấy cái mả đá hoang kia chiếm cũng hết một góc rồi. Ổng bả thật là bất công và tham lam quá độ mà!
Nói đến đây, bà Tư Hiền mủi lòng kéo chéo khăn vắt trên vai lên lau nước mắt. Thiện Tố vuốt vuốt lưng mẹ, khuyên:
– Đời vốn là bất công mà! Thôi má đừng buồn nữa, nhà mình ít người, ba chia như vậy cũng được rồi. Giờ đây mẹ con mình cũng có mười mẫu ruộng. Mình sẽ lấy mấy công ruộng cho lên vườn và cất nhà, còn hơn những người khác có gì đâu? “Tiền tài như phấn thổ, nhân nghĩa tợ thiên kim”, tranh chấp làm gì má ơi! Hôm chia đất, ba và má lớn nói là đã cho người mướn ruộng biết rồi, sau mùa lúa nầy là họ sẽ trả lại cho mình. Muốn cho mướn nữa hay lấy lại tự canh tác thì tùy ý của con.
Vào thời Pháp thuộc ở xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh, các bậc điền chủ thượng lưu có 3 trăm, 4 trăm mẫu ruộng là thường. Ai có chừng 5, 6 mẫu vườn là thâu huê lợi bộn bàng rồi. Ông Hai Cung giờ còn được 80 mẫu ruộng, và vườn, sau khi truất hữu bán cho chánh phủ gần 50 mẫu, và sang nhượng cho người ta thêm mười mấy mẫu nữa để xây nhà và mua máy chà lúa Phú Long.
Số ruộng đất còn lại ông bà chia cho 3 đứa con dòng lớn và đứa con dòng nhỏ như sau: Hai cô Kiều mỗi người vừa ruộng vừa vườn 15 mẫu. Thiện Cảm 30 mẫu ruộng, 5 mẫu vườn (vì cậu là con trai!). Thiện Tố được chia 10 mẫu ruộng. Có 1 mẫu 7 công, ở trước mặt Cẩm Hương và mẹ con bà Tư Hiền, còn 8 mẫu 3 công ruộng nữa ở tuốt trong Kinh Mười Hai. Theo di chúc thì ngôi nhà ông bà Hai Cung đang ở nằm trên 10 mẫu đất dính liền vừa ruộng vừa vườn, và cái nhà máy chà lúa sanh lợi hàng tháng về phần hương hỏa. Trong 2 người con trai, Thiện Cảm và Thiện Tố, sau khi ông bà qua đời ai lãnh phần hương hỏa thì được giữ của đó.
Bà Cả Cần (má ông Hai Cung) trước khi nhắm mắt qua đời có trao cho cô Tư Hiền một chiếc hộp lớn cỡ hộp bánh bích quy, dặn dò:
– Con à, phận hai mẹ con của con bị thiệt thòi nhiều lắm. Mai sau gia tài nầy được chia chác cho lũ cháu nội của má, thì thằng Thiện Tố chẳng được bao nhiêu đâu. Vậy mấy món nữ trang cùng 10 lượng vàng lá, má cho con hết, để khi thằng Tố lớn lên có vốn làm ăn và cưới vợ cho nó. Các món nữ trang gồm có bông tai, dây chuyền, cà rá, vòng đeo tay là của bà nội thằng Cung lúc đi cưới má cho, lớp má mua sắm thêm sau nầy. Trong những nữ trang đặc sắc nhứt là miếng ngọc bội bằng cẩm thạch, chạm hình chữ Cát Tường có kết tua chỉ đỏ và thắt nơ bướm. Miếng ngọc bội nầy là do bà nội chồng của con vốn là xẩm lai để lại, coi như món bùa hộ mạng. Má không giao cho Thiện Cảm, sợ nó thua bài bán mất. Con nhớ dặn Thiện Tố giữ kỹ món nầy, coi như bửu vật truyền tử lưu tôn.
Bà Tư Hiền nhớ đến lòng tốt của mẹ chồng, và nghĩ đến hiện tại vẫn còn tủi thân thút thít khóc. Thiện Tố nãy giờ lo cho mẹ, quên đi Cẩm Hương đang đứng gần đấy, chàng quay sang, hỏi:
– Em nghĩ gì mà thất thần vậy? Hãy nhìn xem miếng đất ở đồng chó ngáp trước mặt em mà ba anh đã chia cho anh, em nghĩ xem mình sẽ hoạch định như thế nào? Hãy cho anh biết ý kiến của em?
Thiện Tố vừa nói, tay vừa chỉ cho Cẩm Hương thấy vị trí miếng đất bắt đầu dài, ngang từ đâu, tới đâu… Nàng lấy ngón tay đẩy mặt chàng ra, vì không biết vô tình hay cố ý mà mặt chàng kề sát má nàng. Bà Tư Hiền chợt thấy, bật cười. Thiện Tố cũng cười trừ. Cẩm Hương háy chàng, nói:
– Đừng có lợi dụng nghen! Đất của anh, chớ phải đất của tui đâu mà hoạch định? Cho anh ý kiến thì miễn cưỡng còn nghe được!
Thiện Tố cười cầu tài.
– Thì cứ cho biết ý kiến đi cô giáo?
Cẩm Hương nghiêm giọng hỏi Thiện Tố:
– Miếng đất từ lộ đá vào giáp mí với đất anh có lẽ từ lâu bị bỏ hoang không trồng gì hết, nên các loại đế, đưng, lác… mọc mất trật tự. Có phải của hai chị Kiều không?
Bà Tư Hiền chăm chú nghe, vì bà rất tin tưởng những gì Cẩm Hương sắp nói ra. Bởi trong thâm tâm bà đã mến thương nàng. Bà còn nghĩ: Cẩm Hương tuy nhỏ tuổi nhưng thuộc con nhà đàng hoàng, có trình độ học vấn, có kiến thức, tánh tình nhã nhặn, mực thước, không phân biệt sang hèn, chuyện to nhỏ gì trước khi nói, trước khi làm nàng đều đắn đo tính toán kỹ lưỡng nên ít khi sai chạy, hoặc làm mất lòng người khác. Nàng đến dạy học ở đây chưa đầy 2 năm mà các bạn đồng nghiệp của nàng và phụ huynh học sinh đều thương mến. Mấy tháng trước, sau khi nàng đi dự tiệc cưới với con trai bà thì có tin đồn bất lợi cho nàng: “Cô giáo Cẩm Hương và con trai bà vợ nhỏ của ông Hai Cung lẹo tẹo với nhau, xuống Mỹ Tho mướn phòng ngủ ở. Xui xẻo, cổ mắc mưa rồi vướng bịnh cảm mạo phong hàn phải nghỉ dạy cả tháng…”. Phụ huynh học sinh lên tiếng, tưởng đâu nàng bị chuyển đi nơi khác. Nhưng rồi nhờ chú của nhỏ Ánh Nguyệt, vốn là phó thanh tra Tiểu học can thiệp, nên chuyện dữ hóa lành.
Ở thôn quê là thế đó, người dân quê hiền lành chất phác, họ luôn tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau khi trong thôn xóm có người gặp tai ương hoạn nạn. Nhưng họ rất khắt khe với vấn đề nam, nữ, trai, gái làm những việc mà họ cho là bất chánh như là lẹo tẹo, bồ bịch với nhau, cho dù cả hai còn độc thân cũng vậy. Nhứt là các thầy cô giáo dạy dỗ hướng dẫn con em của họ… là phải tỏ ra những tấm gương sáng theo đạo lý của thánh hiền.
Đứng trước buổi họp của phụ huynh và giáo chức, Cẩm Hương rất tự nhiên nói:
– Quý vị nghĩ thế nào về tôi cũng được. Nhưng tôi xin thưa rằng tôi chưa làm điều gì sai trái với cá nhân và gia đình. Tôi chưa làm gì có lỗi với các vị ở đây, và tôi cũng chưa chễnh mảng trong việc dạy dỗ hướng dẫn học sinh của tôi.. Tôi muốn dạy các học sinh của tôi hết năm học, bởi còn 3 tháng nữa thôi, các em sẽ thi tuyển vào lớp đệ nhứt niên trung học. Tôi không muốn chúng bị chi phối bởi những hành động và lời nói của một số người thiếu suy nghĩ gán ghép chuyện xấu xa cho tôi. Các em thi xong rồi, có mời ở lại tôi cũng không ở lại..
Năm đó học sinh lớp Cẩm Hương thi tuyển vào trung học đậu hơn 30%, kéo trường tiểu học của cô dạy lên tỷ lệ đứng đầu các tỉnh về học sinh tiểu học (lớp nhứt) đậu vào lớp đệ thất trường trung học tỉnh. Ty tiểu học cấp bằng khen thưởng nàng.
Thiện Tố nói:
– Miếng đất nầy của chú Hoàng, chủ một bầy trâu cho mướn kéo trục ở Vĩnh Kim. Bởi miếng đất nhỏ có mấy sào, lại nằm phía trũng, năm nào cũng bị nước ngập, thu hoạch huê lợi không bao nhiêu so với vốn, nên chú bỏ hoang không khai thác. Tháng trước đây gặp chú, chú nói với anh về hỏi ông già coi có muốn mở cho ruộng rộng thêm, chú sẽ sang rẻ chỗ đó lại cho.
Cẩm Hương bảo với bà Tư Hiền thay vì nói với Thiện Tố:
– Đừng buồn nữa bác, miếng đất ruộng bác trai chia cho ở nhằm vị trí không tốt thật. Bởi nó nằm giữa đất của người ta. Mỗi lần đi thăm ruộng phải đi nhờ trong đất những người kế cận. Nếu bác lên thành vườn cất nhà ở thì càng không tiện cho lắm, vì lúc nào cũng đi nhờ vào ruộng đất của người khác mới đến mé kinh mà ra sông, ra đất liền được. Lâu lâu bác đi nhờ một lần không nói gì, chớ đi hàng ngày thì khó khăn và phiền phức lắm. Nhưng ngay thửa ruộng của bác, sát lộ đá đây, lại có miếng đất nhỏ của ông Hoàng nào đó muốn bán, bác mua lại đi thì đất của bác sẽ giáp với lộ đá. Vậy bác đâu cần mở con đường đi về phía kinh làm chi cho xa xôi. Bác lên vườn hết miếng đất ruộng nầy, vì dù sao bác cũng cần có đất để cất nhà và vườn để trồng trọt. Bác trai chỉ cho có 10 mẫu ruộng chớ không có vườn. Vậy thửa ruộng nầy lên vườn đi bác.
Cẩm Hương bỗng nhiên dừng lại, hít vào buồng phổi làn gió mát tinh khiết buổi sáng. Rồi nàng cao hứng, hăng hái, bảo:
– Ở giữa miếng đất chồm lên phía trước, bác cất một căn nhà. Hai bên hông, và phía sau rộng thênh thang để bác tha hồ trồng cây ăn trái, nuôi gà, nuôi vịt, nuôi heo, đào mương nuôi cá… Rồi đây ở chốn nầy, bác sẽ có một ngôi nhà thật là lý tưởng đó bác.
Bà Tư Hiền tươi ngay nét mặt khen:
– Cô giáo giỏi quá! Nhận xét và sắp xếp về cuộc đất nầy thật rành rẽ.
Cẩm Hương mỉm cười, tay chỉ trỏ, vui vẻ nói tiếp:
– Từ mé lộ, bác đào cái mương bề ngang chừng 2 thước song song lộ đá. Bác bắc cây cầu hình bán nguyệt từ lộ đá qua mương để vào nhà. Miếng đất trước kia không ở vị trí tốt, mua được miếng đất của ông Hoàng thì thật tiện lợi vô cùng bác à. Đi đâu về, xe ghé lại, bác vào nhà không phải cuốc bộ xa xôi.
Cẩm Hương thao thao phác họa miếng đất của bà Tư Hiền theo ý mình. Vì trong thâm tâm nàng từ lâu đã manh nha ý nghĩ là sau nầy nàng sẽ mua một thửa đất ở thôn quê để cất nhà, chăn nuôi, trồng trọt và tạo một cuộc đời bình dị, không phải hao tâm, tổn trí, ganh đua, chật chội như ở thị thành. Rồi nàng phì cười, với ý nghĩ chợt đến:
– Thưa bác, cháu nghĩ dại nghen, cho dù nếu có tại nạn xe cộ ở lộ đá trước nhà bác đi nữa, thì cũng không hề hấn gì cả. Bởi trước khi lủi vào sân, xe đã rơi tòm xuống mương rồi.
Bà Tư vui vẻ, khen:
– Cô giáo nghĩ thật chu đáo quá! Cảm ơn cô.
Thiện Tố thấy trên trán Cẩm Hương lấm tấm những giọt mồ hôi. Chàng lấy khăn tay màu dưa cải đưa cho nàng, Cẩm Hương tự nhiên lấy khăn chặm mồ hôi rồi trả lại chàng. Thiện Tố nói với mẹ và mời nàng ghé qua nhà má lớn của chàng cho biết. Chàng nghĩ, đã đến đây mà không ghé qua nhà từ đường, nếu cha chàng biết được sẽ buồn. Thiện Tố chỉ:
– Cẩm Hương hãy nhìn qua bên kia kìa. Nhà ba anh mái ngói đỏ ở trong chòm dừa đó, em có thấy không? Chỉ đi tắt qua bờ mẫu, quẹo phải là tới ngay. Má cũng ghé qua nghen má?
Bà Tư Hiền nghe nói đến nhà bà lớn, hờn giận trong lòng nổi lên ngay, nạt con:
– Nhiều chuyện quá, má đi về đây. Còn con có đi thì đi với cô giáo.
Thiện Tố cười như mếu:
– Má không đi thì cô giáo cũng sẽ không đi đó. Đi đi má, con năn nỉ mà.
Mấy mươi năm làm vợ bé người ta, có cái khổ nào mà bà Tư Hiền chưa nếm, chưa biết qua từ bà vợ lớn nham hiểm và hai cô con gái chanh chua của chồng. Nhưng vì thương con, thương chồng nên bà cắn răng chịu đựng. Từ khi rời khỏi cái địa ngục trần gian ấy đến nay, bà chưa bao giờ cảm thấy vui vẻ mỗi lần về chơi. Vì nó khác hẳn với tâm trạng đến viếng thăm như đến nhà bạn bè, hay nhà lối xóm… Về thăm bên đó, mỗi lần trở lại nhà riêng bà đều mang nỗi buồn! Nên bà đến khi nào nhà chồng có đám giỗ, Tết, hay có chuyện gì bà lớn nhờ bà đến giúp. Hoặc bà lớn gọi bà, chớ chưa bao giờ bà tự động về gặp bà lớn và hai cô Kiều.
Thiệt tình bà không muốn ghé nhà bà lớn, nhưng hôm nay cũng vì con, và vì cô giáo, và bà cũng muốn cho bà lớn biết mặt mũi của cô giáo. Sau nầy biết đâu cô là dâu bà! Bà sẽ rỡ mặt rỡ mày chứng minh cho bà lớn và đám con của bà ta biết rằng Thiện Tố của bà không vô dụng như mẹ con họ thường trề nhúng, khinh khi… Nghĩ đến đó, bà cảm thấy được trả thù, rửa hận nên vui vẻ trong lòng, mỉm cười đi theo Thiện Tố.
Chưa đến 11 giờ mà nắng chang chang. Bên chòm cây trâm bầu, nhà nông dụm ba dụm năm ngồi ăn cơm trưa, và sau đó nghỉ ngơi dưỡng sức trong chốc lát. Họ dùng nón lá phe phẩy quạt, có người cảm khái tình quê ca vang những câu Vọng cổ mùi mẫn, mà họ đã bắt chước các vở tuồng cải lương trong mấy dĩa hát.
Bỗng từ cây sắn trên gò, tiếng ai lanh lảnh chào lớn: “Chào bà Tư, chào cậu Năm, chào cô giáo”. Con bé chừng 13, 14 tuổi, nhưng vóc dáng đèo đẹt, và chai ngắt như con người ta 8, 9 tuổi từ trên cây tuột xuống tay còn cầm nhánh sắn chín đen nhiều hơn trái chín đỏ. Tóc nó xù lên vì cây kẹp tóc muốn tuột ra ngoài. Lá sắn khô dính trên tóc, và mấy con kiến vàng còn chạy lơn ton trên đầu, trên vai nó. Thiện Tố hỏi:
– Lén bà lớn ra đây hái sắn hả Hiền Từ?
Con nhỏ cười hềnh hệch, nhe hàm răng mọc ba xí ba tú và cái miệng đen thui vì nước cốt trái sắn. Nó bảo:
– Dạ không có. Ông qua bên ông Tám thầy thuốc đánh cờ. Bà lớn đọc truyện Tàu và sai con ra xem coi có trâu chạy lạc vào phá đám chuối không? Con thấy sắn chín nên leo lên hái ăn chơi. Bà Tư ăn cơm chưa? Để con đi về nấu nghen.
Bà Tư Hiền lắc đầu:
– Bà và cô cậu đây ăn sáng rồi, còn no lắm, chỉ ghé qua thăm bà lớn một chút rồi về ngay. Cháu khỏi nấu cơm. Lóng rày cháu còn leo lên cây mận sau hè đái nữa không?
Con Hiền Từ cười bẽn lẽn, lắc đầu rồi nhảy qua mương chạy mất vào vườn có mấy cây ổi cửu ngoạt rậm rạp. Bà Tư nói với Cẩm Hương;
– Nó tên là Nguyễn Thị Hiền Từ. Con của vợ chồng chú tá điền của ba thằng Tố. Tội nghiệp con nhỏ vô phước, vừa lọt lòng mẹ, thì mẹ qua đời vì chứng hậu sản. Ba năm sau ba nó đi ruộng bị rắn cắn chết. Không nội ngoại bà con, nhà làng nói để đem nó cho bà phước ở Mỹ Tho. Bác và bà lớn thấy vậy đem về nuôi. Thiệt là căn đày kiếp đọa. Càng lớn nó càng giống như đứa ngất ngơ, điên không điên, tỉnh không tỉnh, tội nghiệp hết sức! Nhưng nó giỏi lắm, sai gì làm nấy, sạch sẽ gọn gàng nhưng có tật hay quên. Không biết nghe lời ai, mà khi biết leo biết trèo nó hay leo lên cây ổi, cây mận sau nhà ngồi đái xuống mương rôn rổn…
Cẩm Hương mắc tức cười, nhưng mắc cỡ quay nhìn vào vườn tược. Hai bên đường đi, gia chủ trồng nhiều mận hồng đào trái sai quằn nhánh, trái chín đỏ cây và rụng nổi lềnh bềnh trên mặt nước mương. Cây xoài cát đen sát đường đi có từng chùm trái xanh nõn nà mà người đi qua phải tránh né kẻo bị đụng lịch bịch vào đầu.
Nhà hương hỏa nằm trên khu đất rộng trên hơn một mẫu đất vườn, sát bờ sông có trồng dừa lửa, dừa xiêm, dừa Tam Quan. Trong vườn trồng nhiều loại cây ăn trái khác như: mận da người, vú sữa, sa-bô-chê, măng cụt, nhãn, cam, quít, ổi, xoài, đu đủ, các loại chuối, nhứt là chuối cau vì dễ trồng và bán có giá hơn các loại chuối khác. Coi như nhà nầy mùa nào cũng có trái cây vườn để ăn, để bán.
Dưới mé sông có nhà thủy tạ, cột đúc bằng xi-măng. Đường đi từ đất liền được lót bằng ván chuốt bào bóng láng chạy dài ra tới nhà thủy tạ. Nóc nhà thủy tạ hình nón, lợp bằng ngói đỏ. Từ cây cột nầy đến cây cột kia được đóng lan can cao tới chừng một thước sơn đỏ như son tàu. Dưới sông nhìn lên nhà hương hỏa giống như một dinh thự hơn là nhà của thường dân. Cẩm Hương nhớ hình như có lần bà Tư Hiền nói rằng ông cố nội của Thiện Tố ngày xưa có thời làm Cai Tổng, và ông nội làm Hương Cả.
Muốn vào nhà phải qua cái hàng rào bằng đá cao cả thước từ mặt đất lên, bên trên nối liền với những khuôn bông uốn bằng sắt cao khỏi đầu. Cửa rào lớn bằng song sắt có bông xen kẻ. Đường đi vào nhà lót gạch tàu. Trước sân có những chậu kiểng được uốn hình tứ điểu, ngũ long… Có hòn non bộ và những chậu tùng La Hán xanh biếc… Nhà nền đúc cao gần tới ngực, vách tường, mái ngói âm dương màu đỏ đã ngã nâu vì thời gian rêu úa, bụi bám, mốc giăng. Muốn vào nhà phải lên mấy bậc tam cấp lót bằng đá hoa cương tráng men bóng.
Cả ba đi vào nhà bằng cửa hậu. Thiện Tố nói nhà ít khi mở cửa trước, trừ những ngày Tết, hoặc có tiệc tùng trong dịp gả, cưới.
Má lớn của Thiện Tố mặc áo túi bằng lụa có in bông hột dền màu ngà voi, quần lãnh mỹ a đen. Tóc bà bới cao khỏi ót, quấn qua, quấn lại mấy vòng như kiểu tóc của bà phủ, bà huyện. Dáng bà cao, ốm, nước da hơi ngăm, mắt to, mũi cao nhưng hai lỗ trống phộc. Ông bà ta thường nói, người nào có mũi nầy không tốt vì không giữ được tiền. Trán bà rộng, miệng nhỏ nhưng môi thâm. Bà mang kính lão trắng gọng vàng được chùi bóng, trễ xuống gần đến gò má. Thoạt nhìn người ta có thể đoán được bà là một người đàn bà nhà giàu, có quyền uy, khó tánh, khó chịu, ưa bươi móc lỗi lầm của kẻ dưới tay.
Phòng khách chưng dọn theo xưa. Có từng cặp liễn mun và liễn sơn chữ mạ vàng treo ở từng cặp cột. Căn giữa rộng đặt cái bàn dài và cặp trường kỷ chạm trổ tinh xảo có cẩn xa cừ nổi vân bóng ngời. Sau bộ trường kỷ là bàn thờ Phật A Di-Đà. Hai bên cặp trường kỷ qua lối đi ở giữa là hai bộ đi-văn chưn quỳ bằng cẩm lai. Sau hai bộ đi-văn là hai tủ lớn bằng gỗ mun cũng được cẩn xa cừ để thờ ông bà. Trên đầu tủ thờ nào cũng có bộ lư đồng gồm có hai chưn đèn, cái lư hương, bình cắm nhang được chùi lau sáng ngòi. Áp hai bên vách tường là tủ kiếng đựng đồ cổ ngoạn quý báo: Dĩa Càn Long lớn gần bằng cái sàng để sàng tấm, cám. Dĩa Mai Hạc, dĩa Như Ngọc, dĩa Ngọc Ngoạn, chén tráng men trắng bóng ngời vẽ hình Tiêu Tương Bát Cảnh, ly pha lê, bộ bình trà Thế Đức màu gan gà… Hai bên hông ngoài tủ, trên 2 cái chưn quỳ là hai cái lộc bình da rạn cao gần tới ngực.
Tủ thờ bên trái thờ ông bà Cai Tổng, tức là ông bà nội của ông Hai Cung. Tủ thờ bên phải thờ ông bà Cả Cần. Hình truyền thần của họ lớn theo khổ 36X48 đã ngã màu ngà.
Chắc là có con Hiền Từ chạy tắt ngã vườn vô báo trước rồi, cho nên ba người vừa bước vào chào, thì bà lớn tự nhiên đứng dậy chào lại để trả lễ. Bà hỏi bà Tư và Thiện Tố qua loa vài ba câu chuyện, nhưng ánh mắt sắc bén của bà không rời Cẩm Hương. Lúc đầu, nàng cũng thấy ớn đôi mắt có thần đó, nhưng tánh lì đổ ra làm nàng tỉnh queo, thộn mặt chẳng nói chẳng rằng. Bà lớn dù chưa gặp mặt nàng nhưng đã biết ít nhiều về nàng do hai cô Kiều chỉ trích và tâu rỗi sao đó. Bà chăm chú nhìn nàng từ đầu đến chân rồi hỏi:
– Cô nầy là ai vậy?
Thiện Tố vọt miệng trả lời:
– Thưa má lớn, đây là cô Cẩm Hương dạy ở trường tiểu học Cai Lậy, đang ở trọ bên nhà má con. Ba đâu rồi má? Chú Sáu không có ở nhà sao?
Bà lớn tằng hắng, tiếp:
– Vậy à? Ba mầy đi qua nhà anh Hương giáo Lợi, hay anh Tám thầy thuốc đánh cờ, còn chú Sáu đi chợ hốt thuốc rồi. Nhưng má muốn hỏi cổ chớ không phải hỏi con. Cô ở đâu đến đây dạy học vậy cô giáo?
Cẩm Hương thấy bực! Thì ra tánh tình hai nàng Kiều được sao y bổn chánh từ bà mẹ! “Ở đời mà, hơi sức nào giận người dưng cho mệt! Bà ta là má lớn của Thiện Tố, chớ có phải má của mình đâu mà sợ sệt bả, mà không dám trả treo với bả. Nhưng nếu nàng làm như vậy thì tốt cho bả quá, để bả ngừa, mai mốt gặp người khác mặt bả cởi mở vui vẻ, chớ không lạnh lùng và cứng như tảng nước đá”. Nghĩ như vậy, nên nàng đổi thái độ, lễ phép trả lời:
– Dạ thưa bác, cháu ở Lái Thiêu.
Bà hé miệng cười. Nàng nhớ ngay là má mình thường nói “Con người, nhứt là đàn bà con gái dù không đẹp, nhưng khi họ cười là mất đi cái xấu xí của họ liền…”. Thật thế, má lớn của Thiện Tố cười trông cũng không đến nỗi nào, cũng dễ thương lắm. Nhưng hai hàm răng bà ta khít rịt. Những người cười như vầy thì có đẹp thiệt, nhưng đó chỉ tướng kẻ nham hiểm, khó chịu.
Bà má lớn của Thiện Tố, khen:
– Người ta nói ở Thủ Dầu Một có nhiều người đàn bà con gái xinh đẹp như tiên nga! Chẳng sai, cô đẹp lắm. Cô có thích vùng vườn đất quê mùa Cai Lậy nầy không? À mà cô còn độc thân hả? Người ta nói Cai Lậy đến dễ khó về đó cô!
Cẩm Hường mỉm cười trả lời những câu hỏi của bà, chớ không góp ý và cũng không hỏi lại. Nói chuyện một hồi, bà bảo Thiện Tố:
– Con dẫn cổ ra vườn hái trái cây đi.
Bà Tư Hiền chưng hửng, còn Thiện Tố thì ngạc nhiên tường mình nghe lộn. Bởi má lớn chàng là một kẻ bảo thủ gắt gao. Bà luôn công kích đả phá kịch liệt về thanh niên nam nữ chưa thành hôn mà đã gần gũi, cặp kè với nhau… Bà chê bai mạt sát những người đàn bà góa đi lấy chồng khác… Bởi trong óc tồn cổ của bà còn có thêm bịnh phong kiến trầm trọng nữa. Tại sao hôm nay bà lại dễ dãi bảo Thiện Tố dắt Cẩm Hương ra vườn hái trái cây? Không phải bà đã một lần gọi chàng về nhà từ đường mắng nhiếc rồi sao? Thiện Tố tư lự không phải là vô lý! Và má lớn chàng làm như vậy cũng không phải không có lý do. Thật ra bà đã nghe mấy đứa con gái cưng của mình nhỏ to đàm tiếu với bà về việc Thiện Tố và Cẩm Hương đang cặp bồ với nhau, nhưng chưa ra mặt. Bà ghét lắm, không bao giờ muốn nghe, không bao giờ muốn biết muốn thấy những gì mẹ con Thiện Tố hơn mẹ con bà. Nhưng chỉ có trời mới biết bà đang nghĩ ra sao và tính toán gì ở trong bụng?
Cẩm Hương tự nhiên đứng lên xin phép hai bà rồi theo Thiện Tố ra ngoài. Nàng mừng thầm như vừa thoát được sự ngột ngạt khi nói chuyện với bà má lớn của Thiện Tố. Nàng theo chàng đến hông nhà chứa củi, lấy cây lồng máng trên vách để ra vườn hái trái cây. Vừa đi, Thiện Tố vừa hỏi:
– Cô thấy má lớn tôi thế nào? Cô cũng biết chiến tranh khi lạnh khi nóng của hai bà má nầy từ khi tôi còn bé tí tẹo lận. Bổn phận làm con khiến tôi rất khó xử. Tôi luôn luôn tìm cách giải hòa, nhưng hai chị gái tôi thì cứ đổ dầu vào lửa. Nhưng hai má của tôi đều yêu thương, và nghe lời ông chồng, nên mọi việc rắc rối tới đâu rồi cũng êm xuôi cho đến hôm nay. Nhưng họ vẫn luôn ở trong chiến tranh ngầm.
Nói đến đó, chàng bật cười thành tiếng, tiếp:
– Cô thấy có hai vợ khổ quá phải không? Người ta nói “Một vợ thì ngủ giường lèo. Hai vợ ngủ chèo queo. Ba vợ thì ra chuồng heo mà nằm” Cô nhận thấy thế nào? Tôi thấy má lớn tôi cũng tốt, và cũng thương tôi lắm.
Cẩm Hương phì cười:
– Tôi không biết, và cũng không muốn biết gì về chuyện của gia đình anh hết. Chuyện của người lớn phiền nhiễu và phức tạp lắm. Kẻ hậu bối không nên xen vào nhứt là một kẻ ở ngoài gia tộc anh như tôi đây. Nhưng tôi dư biết rằng trong mắt anh thì ai cũng là người tốt cả. Có đúng không?
Thiện Tố nheo mắt, cười tươi:
– Đang tìm hiểu về tôi, cô phải nên biết về hoàn cảnh gia đình tôi chớ. Nhưng dù sao tôi cũng xin đa tạ sự tin cậy của cô. Trong mắt cô tôi được như vậy sao? Vậy mà tôi không biết chớ.
Cẩm Hương trợn mắt, thẳng thắng:
– Trên cõi đời nầy, cái tốt thường đi liền với cái xấu. Tôi chỉ tìm hiểu về anh thôi, mà còn gặp lắm chuyện làm tôi điên đầu. Tìm hiểu về cả một gia đình to lớn của anh chắc tôi sẽ chết không kịp ngáp quá!
Nhưng tôi cũng không keo kiết mà cho anh biết rằng: Nếu sau nầy anh sanh lòng đổi dạ, tôi sẽ không là người vị tha như má lớn đối với ba anh. Và tôi cũng không phải người hiền lành có sức chịu đựng bền bĩ phi thường như má anh đâu nghen!
Thiện Tố trong lòng nở hoa, cười mỉm chi:
– Chưa chi mà em đã ló đuôi ghen dữ dội rồi há!
Cẩm Hương ghét lắm, ngoe ngoảy bỏ đi. Bồng thấy con Hiền Từ đang ngồi trên cháng ba cây ổi. Nàng hoảng hồn dội ngược lại vì sợ nó ngồi trên cây đái xuống. Nhưng lần nay thì không, tay nó cầm chùm ổi chua da trắng ngã vàng bóng lường. Hai chân nó đong đưa, miệng cười toe toét. Nó đưa tay ngoắc, và gọi:
– Cô đến đây, có nhiều ổi chín lắm nè… 
Trước Tết năm đó, bà Tư Hiền và Thiện Tố dời về căn nhà mới cất bên kia cầu đúc Cai Lậy. Thiện Tố được ruộng cha chia cho, và cộng thêm phần đất trước nhà anh đã mua lại của người khác nên được hơn 10 mẫu (kể cả thửa ruộng ở Kinh Mười Hai). Căn nhà cũ thì bà Tư Hiền cho Cẩm Hương và bạn bè dạy chung với cô mướn. Còn phần ruộng cha anh chia cho vì xa xôi, và không có người để canh tác nên anh bán lại cho người khác được chút ít tiền, cộng với tiền mẹ con anh dành dụm bấy lâu nay. Họ xây được ngôi nhà khang trang trên khu đất ruộng mới lên vườn nay.
Bà Tư Hiền biết rõ chồng mình có ruộng và đất vườn ở rải rác các làng xóm trong quận không nói là “cò bay mỏi cánh, chó chạy cong đuôi” nhưng cũng có hàng mấy chục mẫu. Ông có cả thảy 3 đứa con dòng lớn và một đứa con dòng nhỏ. Nhưng khi chia của cho các con, ông chia cho Thiện Tố chỉ 10 mẫu ruộng, mà các con dòng lớn chê không đứa nào chịu lấy vì một nơi thì ruộng trũng và ở xa ít ai chịu mướn. Một chỗ thì sát đất gò, lại có chòm mả hoang đó từ đời nào không ai biết chiếm mất cả một góc. Bà Tư Hiền đã biết như vậy rồi, mà mỗi lần nhớ đến bà hết sức bực tức chồng, không khỏi giận và nguyền rủa bà vợ lớn. Bà nói với con:
– Ba con là một người cha bất công với con cái. Còn vợ lớn ổng thì tham lam, hiểm độc. Cho nên bị Trời phạt lúc nào bả cũng eng eng bịnh quanh năm suốt tháng. Má bị ổng hãm hại chớ đâu phải tự nguyện nhào vô làm bé. Và sau khi làm vợ bé của ổng, má chịu biết bao nhiêu là đau khổ, và phải làm lụng như kẻ ăn người ở chớ có khác chi đâu để xây dựng cho sản nghiệp ông. Bây giờ ổng bả lại đối xử với mẹ con mình như vậy.
Thiện Tố biết tánh mẹ, lấy khăn đưa bà lau nước mắt, và khuyên:
– Thôi bỏ đi má, mình chỉ có hai mẹ con thôi, ăn nhiều chớ ở bao nhiêu? Má nghĩ xem ba chỉ chia có chục mẫu ruộng thôi, mà mình còn bán lại cho người ta số ruộng ở Kinh Mười Hai, để có tiền đắp vô miếng ruộng lên vườn và cất cái nhà rồi. Chớ công sức đâu mà làm cho xuể? Mướn người làm thì phải trả công hơn 2/3 rồi. Gặp lúc lúa trúng mùa thì không nói làm gì, rủi thất mùa thì đổ nợ… Như vậy có ruộng đất nhiều làm chi? Xin má đừng có buồn! Ông Trời cho mình có đôi tay rắn chắc làm việc để tạo dựng sự nghiệp cho chính mình thì mới quý. Má là người chơn chất, hiền lương như vậy thì tương lai của con sẽ sáng sủa “Trời sanh cỏ nhỏ sương” mà má.
Với bản tánh thật thà, nhân hậu sẵn có cùa người dân quê, bà Tư Hiền nguôi cơn hờn giận dễ dàng sau những lời lẽ phân bày của con trai mình. Bà vui vẻ nói:
– Tuần nầy cô giáo có về thăm nhà không Thiện Tố? Nếu cổ không về thì con hãy mời cổ qua đây chơi. Tôi nghiệp, sống xa nhà chắc cổ cũng buồn lắm? Cổ dễ thương nết na. Mai sau con có được người vợ như cổ thì má mừng lắm.
Thiện Tố không trả lời mẹ ngay, chàng cười nói:
– Cổ dữ lắm đó má ơi! Nhưng nếu má muốn, thì để hôm nào gặp lúc cổ vui, con sẽ hỏi thử cố xem coi có chịu ưng con không?
Bà Tư Hiền nhìn con chưng hửng! Nhưng bà nghiêm giọng bảo con:
– Hôm mẹ con mình lên thăm cổ bị bịnh. Thấy bề thế nhà cửa của ba má cổ, má ngại không dám nuôi hy vọng lúc ban đầu là mong ước sau nay sẽ nhờ mai mối đi cưới hỏi cổ cho con. Má biết thân phận mình lắm “Gối rơm theo phận gối rơm, có đâu dưới thấp mà chồm lên cao “ đó con.
Thiện Tố dù sao cũng theo lớp trẻ cởi mở chớ không như mẹ. Cho nên chàng muốn mẹ mình hãy bỏ quan niệm xa xưa lỗi thời đó đi:
– Má nói vậy, câu “con vua thì nối dòng vua, con sãi ở chùa phải quét lá đa” là câu tầm bậy! Quan niệm đó bây giờ lỗi thời rồi má à. Ngày nay, người đàn ông cũng không nên hai vợ như ba … Và cũng không còn “chồng chúa vợ tôi” như những thế hệ trước nữa. Hôm nay con muốn cho má biết một chuyện, không biết má nên mừng hay nên lo? Nhưng má phải hứa với con một điều là không được nói cho ai nghe, kế cả ba. Thật sự con không muốn giấu ba. Nhưng sợ ba quên, nói với má lớn thì cả làng cả nước trong tích tắc sẽ biết hết. Rủi chuyện không đi đến đâu, thì má con mình có nước mà độn thổ chớ không sao sống nỗi với cái miệng chót chét của hai bà chị con.
Bà Tư Hiên nóng ruột, ngắt ngang:
– Muốn nói gì thì cứ nói đi, con cứ ậm a, ậm ừ làm má nóng ruột quá đây nè.
Thiện Tố tằng hắng, nói:
– Sau ngày Cẩm Hương bị bịnh trở xuống dạy lại, con có ngỏ lời bảo cổ tìm hiểu về con để sau nầy nếu hợp tánh nhau, chúng con sẽ đi đến hôn nhân. Nên chúng con đã thân thiện với nhau từ đó. Và chúng con cũng đã giao hẹn là bên ngoài ai nghĩ gì, nói gì thì kệ họ, hai đứa nhứt định không được gần gũi công khai cho đến khi nào hai bên đính hôn.
Bà Tư Hiền ngắt lời con:
– Thằng khỉ! Dám dấu cả mẹ nó. Bây giờ hai đứa ra sao? Chừng nào sửa soạn đám hỏi? Chừng nào mới làm đám cưới?…
Thiện Tố nhăn mặt, cười với mẹ:
– Đó, đó, thấy chưa? Chưa chi mà má muốn bẻ giao kèo, nếu con cho má biết trước là má sẽ nói với ba và má lớn nghe thì bể mánh hết rồi. Chúng con nghĩ là sẽ kết hôn vào năm tới. Còn lâu mà, má không phải lo, mọi việc để con lo hết
Bà Tư cười vui ra mặt. Niềm hạnh phúc trong lòng bà chắc chắn cũng không thua gì niềm vui của thằng con. Bà nói:
– Bậy nà, má chỉ có mình con. Ngày con cưới vợ là ngày trọng đại, má để mặc con lo một mình sao được? Má phải mua nhẫn trơn cho hai đứa, bông tai cho cô dâu. Phải mua bông gì đây cho xứng đáng với cổ? Đôi bông cưới rất quan trọng, vì đó là cái duyên con gái. Còn dây chuyền đeo cổ, lắc đeo tay cùng những món nữ trang khác cho cô dâu… Phải có đủ lễ theo phong cách người Việt mới được. Mới nghe qua thì nhẹ nhàng lắm… Nhưng không phải dễ đâu. Để má hỏi ông thầy Tám dạy chữ Nho, ông biết chuyện quan hôn tang tế. Má sẽ nhờ ông dạy mình phải làm sao về quà lễ trong việc hỏi cưới. Kẻo không thì mình sẽ thất lễ với họ nhà gái đó con à…
Bà Tư Hiền lo lắm, vì tiền bạc đã châm vào trong cái nhà hết rồi. Giờ đây lo cưới vợ cho con. Mặc dù còn hơn năm nữa, nhung ngày đám hỏi sẽ tới bên đít. Không biết làm sao đây? Điều duy nhứt nếu là có được tiền thì bà phải nói với chồng xin ổng phụ lo cho thằng con. Nó là con trai của ổng mà! Hai đứa con gái ổng lấy chồng ổng bả thầu hết, sau đó sợ hai cô Kiều về làm dâu cực khổ họ còn bỏ tiền mua nhà, mở tiệm cho hai cô nữa. Còn Thiện Tố của bà chăm sóc cai quản nhà máy chà lúa chỉ được trả lương như mọi công nhân khác. Tất cả tiền lời mỗi tháng tính sổ xong thì chàng giao hết cho cha. Bà hỏi con:
– Con định chừng nào mới cho ba con biết về việc nay?
Thiện Tố ngần ngừ, rồi nói:
– Má khoan cho ba biết, và cũng đừng nói với ai. Chừng nào nói được, con sẽ cho má biết.
Bà Tư vẻ mặt thành khẩn gật đầu, trong khi lòng bà nở rộ niềm vui.
Sau khi ướp niêu cá bống dừa, để lát nữa kho tiêu dọn bữa cơm chiều. Bà Tư ra sân lót gạch tàu để sang những chậu kiểng qua chậu mới mua bằng sứ Giang Tây tráng men xanh, men lục. Đây là những món quà của Thiện Cảm tặng bà vợ nhỏ của cha cậu hôm ăn mừng tân gia. Sở dĩ cậu tử tế với mẹ con bà là nhờ bà Tư giúp cậu làm quen với ông Cai Tổng Hiếu để cậu xin với ông cho làm chức Hương Hào trong ban Hội Tề. Cậu tặng 5 chậu sứ và 5 cây kiểng: Một cây là lài trâu, 2 cây cau kiểng, 1 cây kim quít, 1 cây bùm sụm.
Cẩm Hương hôm sau cũng sang mừng nhà mới đem tặng bà hai chậu sứ Thái Lan bông trắng ửng hồng ở cuốn. Thấy chậu lài trâu, Cẩm Hương nói:
– Bông lài trâu lớn hơn bông lài thường mà cũng thơm không kém. Người miền Bắc gọi nó là bông bạch ngọc. Cây gì lọt vào đất Bắc của họ thì cũng có cái tên đẹp.
Thiện Tố ghẹo:
– Nhưng họ gọi nguyệt bạch là cúc mốc, vì lá nó trắng như có ai rắc mốc trắng.
Bà Tư Hiền rầy:
– Mình là người Nam Kỳ, ông bà mình kêu sao thì mình kêu vậy, đừng gọi theo người Bắc mà có lỗi với ông bà của mình.
Thiện Tố không nói gì, nhìn Cẩm Hương nheo mắt cười. Bỗng từ ngoài ngọn rạch vọng vào giọng hò trong trẻo của cô gái thương hồ:
“Xa chàng thì thiếp bơ vơ.
Hỡi người quân tử bây giờ tính sao?”
Thiện Tố cười chúm chím, hò đáp:
“Anh về tìm cưới vợ giàu.
Còn nàng cứ việc cạo đầu đi tu… “
Cẩm Hương cười ngất. Bà Tư Hiền bảo:
– Đành rằng hò cho vui, nhưng con phải lựa câu hò có đạo lý, có tình nghĩa mà hò. Đừng có hò những câu vô nghì, đoản hậu rồi nhập tâm, mai sau sẽ nghĩ bậy sẽ làm việc quấy.
Cẩm Hương nhìn bà Tư Hiền, trong lòng cảm phục lắm. Đây là mẫu người trung hậu, chất phác biết giáo dục con. Hèn gì anh chàng Thiện Tố nầy vốn sẵn có tâm lành, tánh tốt lại được lời giáo huấn đạo đức nên chàng ta mới trở thành kẻ thuần hậu như vậy.
Mấy hôm trước, Thiện Tố đón ghe chở cây ương, cây chiết nhánh bán trên sông, mua mấy cây cam hồng mật, vài cây quít đường cao cỡ hai gang tay đem về trồng ngoài vườn. Ở hai liếp cuối vườn, chàng đã trồng đủ các loại chuối như: Chuối ngự, chuối xiêm, chuối cau, chuối già hương, chuối chà bôm vàng, chuối chà bôm lửa, chuối sáp… Chàng trồng mận xiêm màu xanh cẩm thạch, mận hồng đào có sọc đỏ, mận da người màu ngà voi, mận bánh bao màu trăng. Các cây được chàng trồng ngay hàng thẳng lối. Vạt đất trồng rau cũng có mỹ thuật, luống đất, vồng đất được nằm song song với nhau. Giàn mướp, giàn bầu che mát ụ ghe tam bản. Trong ao phía trước, xéo sân nhà, chàng thả sen, thả bông súng, trong đìa sau vườn chàng thả ấu. Các mương sát ranh đất người ta chàng thả rau muống trâu, thả bèo, rau mác có nhiều rễ để mùa nước lớn cá vào trú ẩn và các loại rau nầy vớt lên đem bầm nhỏ trộn với cám cho heo, cho vịt ăn thêm mau lớn.
Nhà cũ của bà Tư Hiền cho Cẩm Hương và cô giáo quê quán ở Mõ Cày thuộc tỉnh Bến Tre cùng với một cô giáo người Tân An mướn. Nhà một căn hai chái nên Thiện Tố định chia làm ba, ngăn vách bằng lá xé. Cẩm Hương cản, cứ để như vậy, mỗi phòng một người có khóa riêng còn mọi thứ như nhà bếp, nhà tắm, cửa lớn đều dùng chung cho tiện, và Cẩm Hương vẫn giữ phòng mình như từ hồi nào đến giờ. Cả ba đều xách cơm tháng nên ít khi nấu ăn ở nhà. Họ chỉ đốt rề-sô khi nào nấu nước châm trà, hoặc pha cà-phê.
Sáng hôm nay, Cẩm Hương dậy thật sớm, mở cửa sau bước ra ngoài vươn vai, lắc mình qua lại làm vài động tác thể dục cho giãn gân cốt và hít thở không khí trong lành của buổi hừng đông. Mặt trời chưa lên.
Sương mù quyện hơi nước của dòng kinh trắng như dải lụa. Nước lớn dâng đầy, những bầy cá lòng tong ăn mống lội lềnh trên mặt nước đục màu phù sa. Cá mang rỗ phóng nhanh rèn rẹt làm bầy cá lìm kìm hoảng sợ nhảy cỡn lên rồi trở lại bầy nhỡn nhơ bơi. Nhà nhà vẫn còn yên ngủ. Tuy nhiên, bến xe cách nhà nàng ở trọ chỉ có mấy căn nhà, ngày nào cũng như ngày nấy ồn ào, xe cộ ngược xuôi. Động cơ các loại xe, tiếng rao hàng, tiếng mời khách, tiếng cãi cọ, chửi thề tưng bừng… Lúc đâu nàng bực bội vô cùng, nhưng ở riết rồi cũng quen dần đi.
Lúc nãy đi ngang qua phòng hai chị bạn đồng nghiệp nàng còn nghe tiếng ngáy ngủ pho pho của họ.. Nàng rón rén múc nước đánh răng, rửa mặt rồi về phòng thay quần áo, đợi chút nữa đây Thiện Tố đi xe đạp qua rước nàng về bên nhà ăn sáng và ở chơi chắc là chiều lắm mới về. Bởi hôm chiều thứ năm, Thiện Tố ghé qua cho mấy trái dưa hoàng kim đầu mùa, và chuyển lời mời của má chàng.
Cẩm Hương mở tủ lấy bộ đồ ủi hôm chủ nhật, ra vẻ hài lòng. Nàng ngắm nghía chiếc áo bà ba màu dưa cải có thêu bông lan dây hai bên ngực, rô-đê ở trôn và tay áo. Quần sa-teng tuyết nhung đen mướt rượt. Mẹ nàng có lần bảo: “Bộ áo quần màu sắc hơi tối, nhưng đi với nước da trắng của con trở nên rất trang nhã, dễ nhìn”. Nàng chải lại mái tóc đen huyền của mình, rồi lấy cây kẹp ba lá kẹp hết về phía sau cho gọn, kẻo khi Thiện Tố chở nàng bằng xe đạp, gặp gió, tóc khỏi bung lên như tóc bà điên.
Cẩm Hương khe khẽ dùng chìa khóa mở cửa. Nàng giựt mình đánh thót, bởi chưa đẩy mà cánh cửa bật mở ra. Đứng trước nàng, Thiện Tố với khuôn mặt tươi tỉnh, sáng rỡ, hồng hào, nụ cười nửa miệng hồn nhiên. Hôm nay chàng mặc áo thun trắng, quần cụt bằng vải ka-ki, chơn mang giầy Bata bố màu xám lợt.
Chiếc áo thun bày những bắp thịt nổi cộm ở cánh tay, ở vai, ở ngực chàng. Cặp giò chàng rắn chắc như giò những cầu thủ đá banh, hoặc chạy bộ. Thân chàng gân guốc, vạm vỡ, ngập tràn sinh lực.
Cẩm Hương chợt nghĩ: Chắc là trong máu anh chàng nầy số lượng hồng huyết cầu lấn chiếm số bạch huyết cầu nên anh ta mới hồng hào khỏe mạnh như vậy. Nếu cho anh ta đóng vai “Vọi” trong phim phóng tác theo truyện “Trống Mái” của Khái Hưng chắc là hợp lắm. Nghĩ tới đây, nàng cảm thấy má, mũi và lỗ tai mình nóng bừng. Nàng cúi mặt mắc cỡ, hỏi trỏng:
– Sao sớm vậy?
– Anh vừa mới đến thôi. Chúng mình đi nghen.
Nàng gật đầu, đóng cửa và khóa lại đi theo sau chàng. Thiện Tố lấy xe đạp dựng dựa cổng rào. Bỗng chàng nói:
– Hồi hôm nầy anh không ngủ được.
Cẩm Hương hỏi dồn:
– Tại sao vậy? Bộ anh không được khỏe à?
Dắt xe ra tới lộ, Thiện Tố ngồi lên yên xe, một chân để lên bàn đạp, một chân chõi xuống lộ giữ cho xe thăng bằng. Chờ Cẩm Hương ngồi vững lên bọc-ba-ga, anh dùng cái chân chõi đó đẩy xe lấy trớn và đạp đi. Cẩm Hương lo lắng:
– Tại sao đêm qua anh không ngủ được? Coi chừng anh bị cảm. Anh có uống thuôc giải cảm rồi chưa?
Thiện Tố cười:
– Có bịnh hoạn gì đâu mà uống thuốc? Không ngủ được bởi cảm em đó! Em ngồi cho vững nghen. Hãy ôm chặt eo anh, bởi xe đang lên dốc câu.
Cẩm Hương nổi sùng vì bị gạt. Nàng nạt ngang:
– Vô duyên! Vịn yên được rồi. Bộ muốn lợi dụng sao bảo người ta ôm eo? Chắc chở cô nào anh cũng bảo họ ôm eo anh hết phải không?

Thiện Tố thả xe xuống dốc chạy bon bon. Cẩm Hương sợ quá quíu mấy ngón tay vào dưới yên xe có lò-so làm hai móng tay gãy ngang mà không dám kêu đau. Trong khi Thiện Tố đắc ý cười lớn:
– Ờ phải vậy chớ, vì mấy khi được chở người đẹp?
Cẩm Hương làm thinh không nói lời nào, nhưng trong lòng ứa gan cho cái người “vô duyên dễ tức, sứt bàn nạo, không có gạo mà nấu, không có trấu mà un” nầy. Thiện Tố dừng xe:
– Tới rồi cô giáo. Mời cô xuống xe.
Đau nhói, Cẩm Hương rút bàn tay ra khỏi yên xe giấu sau lưng rồi đi vào nhà. Thiện Tố một tay cầm yên xe, một tay nắm “ghi-đong” rồi giở chiếc xe lên cao khỏi hàng rào. Vòng rào nầy dùng để chặn ngang không cho gà vịt chạy ra ngoài bươi phá mấy bụi hoa chuối nước màu hồng và màu gạch mới trồng lấy giống từ Lái Thiêu do Cẩm Hương mang về tặng. Chàng cảm thấy mấy ngón tay nắm cái yên nghe ươn ướt. Nhìn mấy ngón tay, chàng giật mình, buông vội chiếc xe ngã xuống đất, chụp tay nàng, xót xa:
– Sao em không nói? Đau lắm hả? Đi chơi lần đầu bị bịnh, lần kế bị gai xương rồng đâm về làm độc… Lần nay bị lật móng tay chảy máu. Vô nhà đi. Để anh lấy thuốc đỏ và băng lại kẻo vết thương bị làm độc nữa…
Thiện Tố bảo Cẩm Hương ngồi trên ghế, anh lấy đồ cắt móng tay, cắt những chỗ bị gãy xây xát thừa ra bên ngoài. Nếu không làm như vậy, chỗ gãy dễ bị vướng khi thay áo quần, sẽ làm nàng đau. Chàng lấy bông gòn chặm hết máu đọng lại trên móng tay, lấy thuốc đỏ bôi lên, miệng chàng thổi pho pho cho đở rát, và dùng miếng the trắng băng lại. Bà Tư Hiền từ nhà sau nghe có tiếng lục đục đi lên. Thấy sự việc, bà càm ràm:
– Qủi thần ơi, mấy ngón tay sưng húp rồi kìa. Sao con bất cẩn quá vậy? Lại để cho cổ bị thương! Nè cháu, khi Thiện Tố băng bó xong rồi cháu xuống nhà dưới, để bác lấy dầu nóng xoa bóp mấy ngón tay cho bớt đau và bớt sưng.
Cẩm Hương vừa đau vừa cảm động trước sự săn sóc của bà Tư và Thiện Tố dành cho mình nên rướm nước mắt. Nàng lí nhí trong miệng:
– Thưa bác, lỗi ở cháu chớ không phải ở anh Thiện Tố.
Bà Tư Hiền nói:
– Đừng có binh nó nữa. Lỗi của nó chớ ở cháu sao được? Qua rước người ta đến nhà chơi thì người được mời không bị cái nầy cũng bị cái kia…
Thiện Tố cười như mếu:
– Má còn binh cổ rầy ép con nữa. Lúc ngồi vào xe, con đã bảo ôm eo con, cổ có nghe đâu, thọc tay vịn dưới yên bất cẩn thế nào cho lật móng tay. May mà không bị mấy cái lò-xo nghiền nát ra.
Bà Tư Hiền trợn mắt với con:
– Miệng ăn mắm ăn muối, đừng có nói bậy nà.
Rồi bà nhìn Cẩm Hương tỏ vẻ rất hài lòng. Từ lâu bà không thấy có gì đặc biệt ở cô. Nhưng sau khi nghe con nói hai người sẽ kết hôn thì lòng quý mến của bà đối với cô càng tăng gấp bội. Cô mặc áo quần nào trông cũng đẹp, cô nói năng gì nghe cũng hay, cũng đúng… Mồi lần gặp cô, bà không sao kềm được vui mừng nên nói cười vui vẻ và cởi mở… Cẩm Hương cũng biết điều đó nên càng giữ lễ độ hơn.
Vừa lúc bà Tư rửa cái xửng hấp bánh ướt, thì có con chim khách từ đâu xẹt ngang cửa sau nhà hót véo von. Bà vui vẻ nghĩ thầm: “Chắc có khách quý đến thăm nên có con chim khách bay qua báo trước. Nếu là hai con Kiều đến thì phải có con chim ục, chim cú hoặc con chim ác là báo tin”.
Đúng như vậy! Khách đến nhà là Hồng Ánh vợ của Thiện Cảm. Cô ta hôm nay diện quá! Cô đội nón Huế quai nhung màu đỏ cam, mặc áo bà ba màu vàng có thêu hoa cúc tím lá xanh, đeo dây chuyền vàng mặt vàng cẩn Phật Bà Quan Âm bàng cẩm thạch, cổ tay đeo chiếc cẩm thạch cẩn vàng kiểu mắc tre, bông tai cẩm thạch tròn mặt bánh men, cà rá cũng bằng cẩm thạch hình móng ngựa xanh màu vỏ đậu. Cô bải buôi:
– Dì Tư có mạnh không? Bấy lâu nay vì lu bu chuyện nhà, con chưa tới thăm dì. Hôm nay sẵn dịp về Cái Nứa đám giỗ bà nội ruột của con, nên con trước là ghé thăm dì, sau là nhờ dì giúp con một việc. Dì cũng biết, năm ngoái ông già chạy chức Hương Hào cho anh Thiện Cảm, giờ thì mọi việc đã xuôi chèo mát mái. Do ông già dạy, tuần sau đây tụi con phải làm tiệc đãi Hương Chức Hội Te trong làng. Má chồng con cậy dì Tư nấu dùm món vịt tiềm, món cà-ri gà ăn với bún. Bún con đặt ở ngoài lò rồi.
Cô mở bóp, lấy tờ giấy bạc hình con công (tức là tờ giấy 20$), bảo:
– Dì cầm lấy số tiền nầy để mua sắm vật liệu. Nếu có thiếu hụt con sẽ đưa thêm.
Thiện Tố cười:
– Vậy là chị sẽ làm thím Hương Hào Cảm rồi.
Hồng Ánh cười buồn:
– Chức Hương Hào có tiếng mà không có miếng, chỉ được ăn cỗ bàn vào lễ Kỳ Yên và lễ cúng đình mà thôi. Má chồng của tui không muốn để cho anh Thiện Cảm bị người ta gọi là cậu ấm, nên xúi ba mua chức cho con trai bả đó chớ. Thiệt tình, tui không hãnh diện chút nào đâu.
Bà Tư Hiền cầm tờ giấy bạc. Bà vốn có cảm tình với Hồng Ánh. Cô ta đằm thắm, vui vẻ, không nịnh nọt kẻ trên, khinh bạc kẻ dưới như hai cô Kiều.
Bà hỏi:
– Thiện Cảm không đi ăn giỗ với cháu sao?
Hồng Ánh bảo:
– Ảnh mắc đi đóng bách phần cho dây ruộng giúp đình làng. Nên cháu đi có một mình thôi.
Bà Tư Hiền mời:
– Nếu không gấp gáp, cháu ở lại đây ăn sáng với má con dì và cô giáo nghen.
Hồng Ánh bưng tách trà Thiện Tố vừa rót, uống từng ngụm. Cô từ chối:
– Cảm ơn dì, sáng sớm cháu thấy trong bụng bào xào, nên ăn một phần tư trái mãng cầu xiêm.
Bà Tư nhìn Ánh Hồng, vui miệng:
– Biết đâu cháu cấn thai.
Hồng Ánh cười:
– Cháu cũng mong như vậy.
Uống xong tách nước trà, Hồng Ánh ra lộ đón xe xuôi về Bắc Mỹ Thuận, ghé qua ngã Ba Cái Nứa rồi đi đò chèo về nhà cha mẹ mình.
Bà Tư Hiền chưa mời lần thứ hai là Cẩm Hương đã cầm đũa. Nàng đang ăn ngon trớn liền khựng lại, vì Thiện Tố cười tinh nghịch chọc quê:
– Tay đau em có ăn được không? Hay là để anh đút cho nghen?
Bà Tư Hiền cười ngất, còn Cẩm Hương nguýt anh ta con mắt có đuôi, rồi cắm đầu ăn tiếp. Hôm nay bà Tư làm bánh ướt Triều Châu nhưn tôm khô ăn cặp với giá trụng chín chan xì-dầu trộn giấm ớt. Món điểm tâm nay thanh đạm. Cẩm Hương khen:
– Món nầy ngon hơn món bánh đúc tôm khô, ăn hoài mà không ngán.
Căn nhà mới của bà Tư Hiền phải là tổ ấm của mẹ con bà và cô dâu tương lai với một bầy cháu. Đó là niềm mơ ước của một người đàn bà đã từng đau khổ quá nửa cuộc đời. Đất ruộng của chồng bà chia và Thiện Tố mua thêm 5 sào của người ta, được lên liếp thành vườn giữa những cánh đồng lân cận bao quanh. Mùa hè không nóng nhờ gió mát từ đồng ruộng thổi về. Mùa đông không lạnh nhờ hơi nước và ánh sáng mặt trời rọi thẳng xuông khuôn viên nhà bà. Mái nhà lợp ngói đỏ, vách ván bổ kho. Mặt trước có cửa chánh, gồm 2 cánh lớn đóng kiểu lá sách ở giữa nhà. Cửa sổ ở hai bên hình chữ nhựt dựng đứng. Vách hông mỗi bên có 3 cửa sổ, đó là phạm vi của nhà trước.
Trong nhà, sau hai cửa sổ hai vách ở mặt tiền được đặt hai bộ đi-văn chưn quỳ để dành khi khách khứa đến có chỗ ngủ và khi đãi tiệc, trên hai bộ đi-văn nầy cũng dọn ăn được. Ở nhà trước còn có bộ xa-lông bằng gõ với 4 chiếc ghế bành to và chiếc bàn hình bầu dục đặt giữa hai hàng ghế.
Sau hai bộ đi-văn là hai vách ván ngăn mỗi bên hai phòng ngủ ở trong. Mỗi bên có một cửa vào và đi thẳng ra cửa sau. Cửa buồng có treo màn dài phủ xuống tới ngạch, chiếc màn màu xanh da trời bằng lụa, và tấm rèm thêu nổi đôi chim đậu trên cành hoa.
Sau bộ xa-lông là phòng vuông không có cửa đóng bằng ván hình chữ U có tủ thờ chạm trổ đặt bên ngoài, bên trong tiếp sau có đặt mấy cái bàn có ảnh bán thân của ba má bà Tư Hiền và cậu em trai đi lính đánh giặc Đức Phát-Xít bên Tây tử trận chưa có gia đình, bà cũng thờ luôn.
Nhà cất trên nên cao gần bằng mặt lộ đá. Thiện Tố cố tình cho đắp nền nhà cao như vậy, vì đây là đất ruộng vào tháng tám tháng chín nước lên tràn bờ, lại là mưa mùa nên chỗ đất thấp dễ bị ngập lụt lắm.
Nền nhà được lót bàng gạch tàu khổ lớn. Xuống 3 bậc thang là nhà dưới, nền và mái nhà dưới thấp hơn nền và mái nhà trên. Từ mái nhà trên, cách mái nhà dưới khoảng hai thước, Cẩm Hương nhìn thấy được bầu trời có điểm mây bay và ánh sáng rọi vào.
Dọc theo thềm nhà trên xuống nhà dưới là 2 hàng lu mái đầm lớn, có máng xối với ống bằng nhôm để dẫn nước mưa vào các lu. Những lu chứa nầy đã giúp hai mẹ con bà Tư Hiền được uống nước mưa quanh năm không thiếu. Bà còn cho bí đao vào ba cái lu đậy kín, để dành mùa nóng uống cho mát và khỏe khoắn.
Nhà dưới ngắn hơn nhà trên, không vách ngăn, ở giữa nhà có bàn ăn với 6 cái ghế, có tủ để thức ăn 3 bề được đóng bằng lưới ngăn cho ruồi lằn không vào được, và dưới mỗi chưn tủ có chén sành cù lao đựng nước ngăn cách cho kiến không bò lên tủ lưới. Có 2 chiếc võng lác treo tòn teng hai bên cột nhà gần bàn ăn.
Cửa sau ngăn bởi hai tấm vách hai bên là mái nhà dài để giàn bếp cao có 4 cái cà ràng và 2 hỏa lò lớn. Nhà bếp rộng, có tủ, có kệ đựng các món gia vị và các món lương khô dùng hàng ngày hay để lâu như muối, đường, tiêu, tỏi, nước mắm, gạo, nếp, bột, tương, chao, tôm khô… Có bộ ván bằng gỗ tạp cùng mấy cái ghế đẩu để ngồi gọt bí, xắt thịt, lặt rau, cải…
Sau hè, sát vách nhà bếp có vựa chất đầy củi. Sàn lảng bằng xi-măng bắc trên mương có nuôi cá. Cột đóng sâu xuống mương nước cũng bằng xi-măng. Mặt sàn lảng cũng bằng tấm bê-tông lớn bản, kê sát lại chừa kẽ hở cho nước chảy xuống và cho dễ quét rác.
Sàn lảng bằng xi-măng thường của mấy nhà có tiền dư dã mới làm, nó có lợi là không bị mau rã mục, nhưng chén, tô, dĩa, ly đồ bằng sứ, đồ sành bị chạm mạnh vào nền xi-măng là bị mẻ, bị bể ngay…
Bà Tư có nuôi gà để ăn cơm đổ cơm rơi, nuôi hai con heo cho ăn cám chuối, nuôi bầy vịt xiêm ăn rong ăn roi dưới ao đìa.
Ở hiên nhà bên trái, Thiện Tố có nuôi cặp cu cườm trong chiếc lồng tre. Lâu lâu chúng cất tiếng gáy cúc, cu, cu, cu… Người nghe tiếng cu kêu cảm thấy cõi lòng an bình và êm ả. Mặc dầu nhà của họ chỉ xa chợ quận ồn ào náo nhiệt chưa được 2 cây số.
Bao bọc khu đất nhà, Thiện Tố cho trồng tre gai bên ngoài, bên trong trồng xương rồng. Thật ra Thiện Tố ngừa trâu chạy lạc vào phá cây vườn. Bởi thời buổi nầy không nghe có trộm cướp.
Các mương chung quanh nhà được xẻ ngang xẻ dọc, và các loại cây ăn trái được trồng theo ý gia chủ, nên khuôn viên nhà đất nầy trông thật khang trang, mát mắt. Phải nói là quá lý tưởng… Còn mấy ngôi mả vôi vô chủ ở cuối vườn, Thiện Tố cho rào lại riêng biệt, làm cỏ sạch sẽ trồng mấy cây bông điệp vàng, bông điệp đỏ. Mỗi khi nhà có cúng giỗ, hay vào Tết, mẹ con chàng đốt nhang, cúng bái vong linh người quá cố không quyến thuộc như cúng vong linh người thân. Đến lễ Thanh Minh bà Tư bảo con quét vôi trắng những ngôi mả đó, để người dưới mộ được ấm lòng và phù hộ cho mẹ con bà.
Bên trái của những ngôi mộ, bà bảo con cất ngôi miểu nhỏ thờ Thổ Thần. Nền miễu chừng 2 thước 50, vuông vức, được đắp cao bằng đất sét. Vách bổ kho ba phía, ở sau, và 2 bên hông, phía trước thì để trống. Miễu cao từ mặt đất lên chừng 2 thước. Nóc lợp ngói ống có tráng men (có người gọi là ngói lưu ly) mới nhìn bóng láng như ve chai. Bà Tư hàng ngày nhang khói để cầu nguyện Thổ Thần phù hộ cho cuộc đất mình phì nhiêu, mưa thuận gió hòa. Bên trong miễu có vẽ mấy chữ viết bằng mực tàu nét lớn trên giấy hồng đơn đỏ, dán dính trong chiếc khánh sơn son thếp vàng.
Công việc xây dựng tổ ấm mới tạm xong. Mấy người em trai và cháu bà Tư Hiền vốn là thợ mộc. Họ dùng gỗ tạp như mít già, thau lau đóng cho Thiện Tố hai cái kệ có nhiều ngăn để chàng bày sách. Cái tủ kiếng bằng cây sao để chàng bày những món đồ cổ ngoạn mà khi sanh thời ông nội chàng đã tặng: Cặp dĩa Ngoạn Ngọc màu lam, một cái dĩa bằng sứ trắng có vẽ mai hạc, cái tô bằng sành céramique màu lá trúc, một cái lộc bình vẽ Hằng Nga thanh nữ (chị Hằng và cô gái trẻ), một cái dĩa Như Ngọc màu cẩm thạch. Cẩm Hương tặng bức tranh giỏ lam. Chiếc giỏ thêu bằng chỉ len màu nâu trên nền lụa thiên thanh, còn bông thì kết bằng sa-teng đủ màu: trắng, đỏ, hường, tím, vàng… và lá cũng bằng sa-teng xanh lục gắn vào nền tranh.
Thiện Tố vốn quý sách báo. Những tờ báo lâu ngày ngã màu ngà vàng, được đóng thành tập dầy cui, bìa cứng, bọc giấy kiếng vàng, giấy kiếng xanh. Một ít sách quý thì chàng cho bọc da, chữ mạ vàng sáng. Còn loại sách thường, tiêu thuyết thì chàng bao bìa bằng giấy kiếng không màu để dễ nhìn thấy tên sách in trên bìa.
Lúc hay tin Thiện Tố rất khéo tay trang hoàng ngôi nhà mới của mình. Hai cô Kiều liền rủ Thiện Cảm tới thăm. Kiều Lan chê bai:
– Thằng Thiện Tố dại dột, lo trang hoàng o bế sách vở, không để dành tiền mua gạch tráng men lót nền nhà.
Kiều Liên phụ họa chị:
– Đúng rồi, gạch tàu dùng để lót sân đúng điệu hơn, chớ đâu để mà lót nền nhà!
Bà Tư Hiền mời lũ con chồng uống trà. Thiện Tố không trả lời hai chị, vì trong mắt họ, có cái gì mà chàng làm tốt, làm đẹp bao giờ đâu. Thiện Cảm săm soi tủ sách, tấm tắc:
– Từ khi đọc sách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, tui mới biết quý sách báo. Thật là tao nhã, tui thiệt phục lăn Thiện Tố! Thế nào tui cũng sắm những cái tủ sách như vây.
Kiều Liên nguýt thằng em ruột, mỉa mai:
– Thôi cho tao can đi! Dòng họ mình đã có một học giả rồi. Ai cần mượn cái mặt mẹt mầy đóng vai trí thức rồi bày đặt viết văn. Mầy cũng chẳng có bằng cấp nào lận lưng hết!
Thiện Cảm sừng lại:
– Chị bớt chót chét lại đi. Bằng cấp dính dáng gì đến việc viết văn? Có bằng cấp mới viết văn được hay sao? Thật là đầu óc nhỏ hẹp như cái vú cau!
Kiều Lan õng ẹo:
– Tui cấm chồng tui coi tiểu thuyết. Thời buổi nầy mấy ông bà văn sĩ hay đề cao tình yêu. Chồng tui vốn nhẹ dạ. Nếu rủi ảnh nhiễm tư tưởng lãng mạn trong tiểu thuyêt, ảnh sẽ mềm lòng lỏng dạ mỗi khi gặp con lành con lủng nào đó ở ngoài chợ thì phiền toái cho tui lắm. Lòng dạ tui chặt chịa, cứng cỏi, thì tui có quyền coi tiểu thuyết.
Kiều Liên bị em nạt không cự lại, vo vảnh:
– A di đà phật. Chồng tui thích coi đá banh thôi. Nhưng hễ gặp mấy con lành tốt mã, gặp mấy con lủng lăng lơ thì cặp măt ảnh chớp lia chớp lịa, thây thật ứa gan!
Sáng chủ nhật lần sau đó, bà Tư Hiền bảo Thiện Tố mời Cẩm Hương đến nhà ăn bánh xếp nhưn tôm thịt với mẹ con bà.
Ăn sáng xong, Cẩm Hương phụ với bà Tư dọn dẹp và rửa chén. Thiện Tố rủ Cẩm Hương theo chàng ra cuối vườn xem chàng vét rong trong mấy ống bọng để cho nước ra vào được thông thương. Trời bắt đầu nắng gắt. Thiện Tố mặc cái quần lở, không dài cũng không ngắn, hai ống có chỗ rách tưa và thấm đậm nước phèn lâu ngày. Đầu chàng đội chiếc nón vải ngã màu và lốm đốm nhiều vết mủ cây. Bà Tư lấy nón lá cũ của mình đưa cho Cẩm Hương, vui vẻ nói:
– Cháu lấy chiếc nón nầy đội, để cái nón của cháu lại đi. Đội nón nầy có dính bùn đất hay mủ cây không sao. Và hãy bận chồng cái áo nay vào, kẻo ra vườn áo cháu sẽ lem luốt coi chừng giặt không ra.
Thiện Tố vào bên trong đi ra, nách cắp cái rổ xúc, tay xách cái thùng cắt đôi, nhìn Cẩm Hương cười nói:
– Em phải tập làm bà nông dân cho quen đi cô tiểu thơ à. Đừng có chê nghen, người dân quê tay lấm chấm bùn, nhưng họ chân thật và có nghĩa có tình lắm đó cô giáo ơi.
Cẩm Hương cười cười không trả lời, lẽo đẽo theo sau chàng. Hôm nay họ ăn một bữa cơm trưa thật ngon. Cẩm Hương no muốn phát ách. Những món ăn không gì cao sang. Thứ cá rô don nầy do Thiện Tố vừa bắt được trong lúc khai thông ống bọng, đem nấu canh chua với bông súng, bông so đũa, chuối cây non xắt mỏng, rau muống, bông điên điển (mỗi thứ chừng một nắm). Bà Tư dùng chất chua của con mẻ, và để vào canh nhiêu thứ rau thơm xắt nhỏ như: ngò om, ngò gai cùng ớt sừng trâu. Món cá bống dừa kho tộ để thêm mỡ xắt hột lựu. Cà tím xào với thịt ba chỉ. Các món tầm thường, thanh đạm mà ăn bắt miệng vô cùng. Đã no cành cái bụng rồi mà nàng vẫn còn muốn ăn thêm.
Cẩm Hương cố tình ra ngoài đi mấy vòng cho xuống cơm. Thiện Tố cũng đi theo, qua khỏi bụi mía thâm diệu là cây lý tơ gie xuống mương có điểm lác đác những chùm trái màu vàng, màu tím hồng. Chàng với tay hái trái lý chín cây ngã màu vàng nghệ thơm phưng phức đưa cho nàng:

– Em thử ăn xem, lý có trái chiếng, đầu mùa chưa gặp mưa nên ngọt lắm.
Cẩm Hương ngạc nhiên. Cây trái gặp mưa mới mau lớn, mới nhiều nước và mới ngon chớ? Trái lý nầy lạ thiệt.
Thiện Tố biết ý:
– Các loại trái cây có nhiều mưa mới lớn trái, mới không bị khô. Nhưng lý thì khác, nắng càng nhiều, trái lý càng dầy cơm, càng thơm, càng ngọt. Còn gặp vài đám mưa thì trái sẽ to ra, thịt trở nên mỏng và hay có dòi. Những trái màu tím kia thì còn non, nó sẽ đổi màu, màu càng vàng thì trái càng ngọt.
Tiếng bà Tư gọi từ nhà vọng ra.Thiện Tố đi trước, Cẩm Hương vừa ăn trái lý chàng mới hái cho.
Lý dòn quá, ăn tới đâu nghe ngọt và thơm tói đó. Gần tới nhà, nàng thấy hai đứa bé rất xinh, một trai lớn có lẽ là anh, một gái nhỏ lăng xăng chạy ra. Hai đứa sà xuống ôm chân Thiện Tố, và chợt thấy có người lạ nên chúng mắc cỡ rồi len lén liếc liếc tròng mắt đen láy nhìn nàng. Thiện Tố bảo:
– Ngoan, hai cháu lại chào cô giáo đi.
Hai đứa nhỏ lắc đầu, chàng dụ dỗ:
– Đứa nào chào trước cậu sẽ cho kẹo và sẽ cõng đi chơi.
Hai đứa nhỏ nhanh chân đến trước mặt nàng. Thằng anh thỏ thẻ: “Dạ chào cô giáo”. Con em mím môi mọng đỏ: “Dạ chào cô giáo”. Cẩm Hương cười rất tươi, khen hai đứa nhỏ xinh đẹp và lễ phép. Thiện Tố nói:
– Chúng là con chị Kiều Liên. Mẹ con chỉ đến chơi đó. Thôi chúng ta vào nhà đi.
Cẩm Hương có vẻ ngần ngừ. Chàng nắm tay nàng, hối:
– “Nàng dâu xấu cũng phải gặp mặt mẹ chồng” mà. Vô đi em, biết em ở đây, chị ấy đến chơi mà mình không vô gặp chị thì kỳ lắm.
Cẩm Hương chưa nhúc nhích thì bà Tư và chị của Thiện Tố bước ra. Thiện Tố vui vẻ chào hỏi:
– Chị Ba mới qua hả? Anh Ba đâu? Bộ ảnh không đi chung với vợ con hay sao?
Kiều Liên ỏn ẻn:
– Anh rể mầy đi Vĩnh Long dọ giá lúa. Mấy chành lúa ở quanh vùng làm eo, làm ngặt, định giá rẻ tàn, rẻ mạt. Ảnh còn tính mướn ghe chài chở lúa lên bán ở các chành miệt Cần Giuộc, Bình Đông, Chợ Lớn để kiếm chác thêm tiền.
Thiện Tố xuôi miệng:
– Năm nay vùng mình nắng hạn, em sợ lúa thóc bị vộp không được chắc hột như những năm qua.
Kiều Liên cười:
– Nắng đổ lửa ở đây, còn mưa chan canh ở miệt Chợ Bưng, Bến Tranh, Phú Kiết. Thiên hạ đồn lúa thóc ở đó tiêm khá bộn.
Thiện Tố lại hỏi:
– Chị qua đây chơi hay có chuyện chi không?
Kiều Liên nguýt thằng em:
– Tao qua đây mượn cái trã về luộc đầu heo, cái trã bên nhà hương hỏa, má cho con Ngọc Huệ mượn rồi.
Hôm nay Kiều Liên mặc áo bà ba bằng hàng cẩm điệp mình khô bông ướt, quần cẩm tự bông ướt mình khô. Cô để mặt tự nhiên không thoa son giồi phấn, chỉ đeo đôi bông tai mù u cắt mặt bằng hột sa phia tím vàng, xâu chuỗi bằng san hô đỏ pha vàng như màu da trái cà chua. Đôi vòng tay bằng cẩm thạch huyết của cô rất họp với màu hai món nữ trang kia.
Sở dĩ Cẩm Hương hay để ý đến cách ăn mặc, trang sức của hai cô Kiều là vì họ không đẹp, nhưng biết cách chưng diện. Chỉ tội một chút là hai cô điệu quá là điệu và làm phách nữa, nên dễ làm chướng mắt những người chung quanh.
Có lần nghe bà Tư nói: “Bỗng dưng, một hôm Kiều Liên đổ hô là mình giống cô đào cải lương Sáu Ngọc Sương. Mấy cô em chồng và em họ chồng ghét, nói lén với nhau: Sáu Mục Xương, chớ Sáu Ngọc Sương gì mụ đó! …” Còn Kiều Lan thì khoe với mọi người là mình giống hệt như cô đào Tư Hélène. Hồng Ánh vợ của Thiện Cảm, bảo với bác rằng: “Dì Tư coi, chị Hai con bị mấy con mẹ thèo lẻo ở ngoài chợ gọi chị là cô Tư Heo Lang chớ ai thèm gọi chỉ là Tư Hélène”.
Chạm mặt, Cẩm Hương lịch sự chào bà chị của Thiện Tố. Còn bà chị của chàng nhìn Cẩm Hương từ đầu đến chân rồi vừa chào vừa cười nói với em mình:
– Xin chào cô. Hôm trước nghe má nói là em có dẫn cô giáo về chơi. Má khen cô đẹp lắm và rất xứng đôi với em.
Bà Tư nãy giờ lo rượt đuổi bầy gà con đang bươi mấy gốc trầu vàng trồng cạnh mé mương, Cẩm Hương cảm thấy khó chịu cho sự ăn nói trống lỏng thiếu tế nhị của Kiều Liên. Thiện Tố nghiêm nét mặt, thẳng giọng:
– Chị Ba, đừng có nói chơi như vậy!
Kiều Liên chẳng những không ngượng, mà còn cười hô hố, tỉnh bơ:
– Ê, không phải tao nói! Bà già nói đó, tao chỉ là người thuật lại thôi. Bả khen chớ có chê chỗ nào đâu, mà mầy phùng mang, trợn mắt trắng xác với tao? Còn cháu gái ông Cả Bảy nữa? Cô ấy đã chờ đợi mầy bao nhiêu năm rồi. Mầy đã làm mất đi bao nhiêu cái xuân xanh của người ta, mầy tính làm sao đây? Đừng có trách tao không nhắc nhở mà bắt chước cái phường thả mồi bắt bóng! Trời sẽ không dung, đất sẽ không tha đâu nghen mậy…
Thiện Tố giận tím mặt, nạt lớn:
– Chị nói đủ chưa? Dắt con về đi!
Kiều Liên cũng chẳng thua, nói gằn từng tiếng:
– Mầy tưởng quen với cô giáo là bảnh.lắm hả? Mầy giỏi, tao biết mầy giỏi lắm mà! Mầy dám đuổi tao! Để coi, rồi đây mầy sẽ hối hận nghen cái thằng ôn dịch!
Cẩm Hương đứng chết trân nghe hai chị em họ cãi lộn! Kiều Liên ngoe ngoảy lôi hai đứa con ra về chẳng thèm nửa lời chào Cẩm Hương. Vừa đi chị ta còn lầm bầm rủa Thiện Tố. Bà Tư vừa mới đi vào còn đang ngỡ ngàng không biết việc gì đã xảy ra? Thiện Tố mặt mày tức tối, khổ sở: “Không gây giông tố, không quậy ba đào chắc mụ chịu không nổi! Thiệt tình, rõ ràng là con mẹ điên mà!”. Bà Tư hỏi con:
– Sao con Kiều Liên về rồi? Chuyện gì xảy ra giữa hai chị em bây? Nói cho má nghe coi.
Thiện Tố kể lại cho bà Tư nghe chuyện vừa xảy ra. Bà Tư giận dữ:
– Thiệt hết chỗ nói mà, cái con Kiều Liên đi đến đâu là sanh chuyện đến đó. Hôm nay chắc nó uống lộn thuốc rồi!
Bà Tư quay qua Cẩm Hương nói:
– Xin cô bỏ qua mà đừng buồn nghen, cái con nầy tánh tình kỳ cục lắm.
Nói đến đó, bà chép miệng thở dài:
– Ông nhà tôi thật bất hạnh có ba đứa con với bà lớn không ra gì hết. Con Kiều Liên hồi đi học, là đứa phá của nhứt nhà. Má nó đút nhét tiền dấu ổng cho riêng thêm để tiêu xài. Mỗi lần đi học về chưa bao giờ nghe nó nói về học hành giỏi dở mà chỉ nghe nói nào là kiểu tóc nay tân thời, thằng kia đẹp trai, thằng nọ xài sang, con kia có bồ, con nọ bồ bỏ. Học đâu chưa hết năm thứ hai ban Thành Chung thì nó về xin đi dạy học được đâu mấy tháng lại mang bụng bầu. Ổng bả phải đến nhà trai năn nỉ người ta cưới thiệt là xấu hổ! Ổng bả còn phải bỏ tiền ra bao đàng trai làm đám cưới, họ mới chịu cưới nó cho con trai họ! Tôi không phải nói xấu nó, nhưng con nhỏ đó miệng mồm và tánh tình tệ lắm, nên lời nói của nó coi như nước đổ lá môn. Xin cô bỏ qua đừng có để trong lòng nghen cô giáo.
Cẩm Hương thở dài, không nói gì. Thiện Tố lên võng nằm, gác tay lên trán phiền muộn! Chàng âu lo thế nào Cẩm Hương cũng hạch hỏi chất vấn mình về chuyện cháu ông Cả Bảy. Chàng nhớ đến đâu phát tức đến đó. “Thật là mụ chị trời thần đất đỏ thầy chạy, bà vãi chê, hết thuốc chữa mà!”.
Cẩm Hương lòng buồn rười rượi, và càng lúc nỗi buồn càng lan rộng! Nàng thắc mắc nghĩ ngợi. Cháu ông Cả Bảy là ai? Tại sao phải đợi chờ Thiện Tố mất bao nhiêu tuổi xuân? Thật rối rắm quá! Còn lòng dạ nào mà ở lại đến chiều? Nàng lấy nón chào bà Tư rồi lủi thủi ra về không nói lời nào với Thiện Tố. Nàng chưa qua cầu trước cổng nhà, thì chàng dắt xe đạp theo sau, nói như trách hờn:
– Em về, sao không nói với anh lời nào hết vậy?
Nàng ức lòng, mặc dù không thốt nên lời “Cẩm Hương cũng đang khó chịu đây! Chớ không phải chỉ một mình anh khó chịu thôi đâu”. Nhưng lúc nầy, nàng không muốn cãi vả với chàng, nên dịu giọng:
– Xin lỗi, tôi tưởng anh đang ngủ. Anh trở vào nhà đi, tôi đi bộ về được rồi.
Thiện Tố nổi nóng, gằn giọng:
– Bị mụ điên đó nói bậy, anh đang bực bội trong mình muốn chết. Đã vậy em không có một lời an ủi, còn muốn hành hạ anh nữa phải không? Lên xe đi, anh chở đưa em về!
Chịu hết nổi, nàng phản pháo lại liền:
– Anh thiệt là vô lý! Đừng có giận cá chém thớt nghen. Tôi cũng không phải cái thớt để cho anh chém! Tôi không cần anh đưa, từ rày đừng có lại chỗ tôi ở nữa, tôi không muốn thấy mặt anh!
Chưa hả cơn tức, Cẩm Hương thuận tay chọi Thiện Tố bằng cái bao đang cầm trên tay có mấy trái ổi lúc nãy bà Tư bảo đem về. Bao bể toang, ổi văng tung tóe trên mặt đất. Cẩm Hương cắm đầu chạy. Thiện Tố vụt xe đạp phóng theo níu lại. Mất thăng bằng nàng ngã chúi vào lòng chàng. Thiện Tố ôm cứng nàng, xuống giọng:
– Em làm gì vậy? Xe qua lại ào ào em nhắm mắt chạy đại rất nguy hiểm! Có biết không?
Cẩm Hương giằng co:
– Buông ra, buông tôi ra! Nguy hiểm kệ xác tôi.
– Nói gì kỳ vậy? Em là người yêu của anh mà.
Cẩm Hương càng tức giận cô bườn ra khỏi vòng tay rắn chắc của anh ta, nhưng vô hiệu, nàng hăm:
– Ai là người yêu của anh? Còn khuya! Nếu anh không buông, tôi sẽ la lên bây giờ.
Thiện Tố nới lỏng vòng tay. Chàng biết mình nóng nảy tầm bậy, nên nhẹ giọng:
– Anh xin lỗi, lúc nảy anh nóng giận với em thật bậy quá. Nhưng thật sự anh yêu em và lo cho em mà. Đừng có mắc kế chia rẽ của hai bà chị anh.
Cơn giận đã nguôi ngoai nhưng Cẩm Hương còn ức lòng lắm, xẳng giọng:
– Tôi không cần anh thương yêu gì hết, tôi cũng không cần anh lo. Anh hãy thương yêu và lo cho cháu ông Cả Bảy của anh đi, đừng để người ta đợi chờ mất cái tuổi xuân.
Thiện Tố bị mắng tả tơi không giận thì chớ, mà đôi mắt sáng ngời nhìn Cẩm Hương, nhỏ giọng:
– Bộ em ghen hả?
Cẩm Hương háy anh ta, hằn học:
– Sức mấy! Bổn cô nương mà ghen hả? Còn lâu à…
Không chờ nàng nói thêm, Thiện Tố dùng môi mình bịt miệng nàng lại. Đứng trong nhà nhìn ra, bà Tư Hiền mỉm cười, nhẹ buông màn cửa sổ. Trời cao vòi vọi gợn mây trắng hồng. Ánh thiều quang chan hòa trải dài lên vạn vật. Đàn chim nhàn hạ xoải cánh bay lượn trên không gian êm đềm. Đó đây những con ong bầu đang vo ve ù ù tìm mật. Mấy chú bướm nhởn nhơ đôi cánh mỏng là đà bên khóm hoa hồng thắm tưng bừng hương sắc. Dưới đìa nước trong leo lẻo có thả những dây ấu xanh, bầy cá bơi lội ăn mống làm mặt nước chao động rồi trở lại bằng phẳng. Vầng thái dương đã ngã về hướng tây. Buổi xế chiều tạnh trời như không cần biết giông tố đang lộng hành trong lòng đôi thanh niên nam nữ.
7/4/2020
Dư Thị Diễm Buồn
Theo https://vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...