Thứ Ba, 1 tháng 3, 2022

Tính hiện đại và bản sắc dân tộc không phải là cái áo khoác trong thơ

Tính hiện đại và bản sắc dân tộc
không phải là cái áo khoác trong thơ

1- Hai khái niệm Tính hiện đại và Bản sắc dân tộc về mặt ý nghĩa chúng có mối quan hệ biện chứng và có những thay đổi theo thời gian. Khi đứng cạnh nhau chúng không còn tồn tại trong những phạm vi ý nghĩa riêng rẽ mà tích hợp trở thành một biểu tượng kép, thành phẩm chất chung cho nhiều hiện tượng đời sống, tuy nhiên lĩnh vực được nhắc đến nhiều nhất và đầy đặn nhất vẫn là lĩnh vực văn hóa và đỉnh cao tập trung  của sự thể hiện là văn chương - nghệ thuật.            
Trên phương diện triết học quan hệ giữa hai phạm trù trên không gì khác hơn là quan hệ giữa hai tính chất của cái khái quát và cái cá biệt, giữa quy luật và hiện tượng. Ta có thể hiểu, bản sắc dân tộc là cá tính tinh thần của một bản chất chung loài người thể hiện nơi một cộng đồng và hiện đại chính là cái chung nhân loại ở tầm cao thời đại, cũng là cái mà dân tộc phải vươn tới để tồn tại một cách hài hòa!. Bản sắc dân tộc, thực chất là cái nét riêng, một biểu hiện của tính đa dạng, là đặc tính của từng cộng đồng nảy sinh trong hoàn cảnh cụ thể đặc biệt. Nói phấn đấu xây dựng nền văn hóa hiện đại giàu bản sắc dân tộc, bên cạnh cái ý giữ lấy cái nét riêng truyền thống của dân tộc, còn muốn nói đến cái ý phải phát triển đưa cái tính dân tộc Việt lên ngang tầm thế giới, ngang tầm thời đại để luôn trong cái này có cái kia như nhà thơ Chế Lan Viên từng viết: Đi đến tận cùng Dân tộc, ta gặp Nhân loại.           
Bản sắc dân tộc không phải là một hằng số, nó là một khái niệm có tính lịch sử, nó luôn biến đổi có khi phát triển nhảy vọt tạo sắc thái mới để tồn tại trong hoàn cảnh mới. Tính hiện đại cũng vậy, yêu cầu phải luôn tiếp thu các thành quả tiếp diễn của Nhân loại, để đứng ở tầm cao thời đại. Các tính chất này không dừng lại ở những yếu tố hình thức bên ngoài như các thủ pháp nghệ thuật học được đâu đó mà chính là hồn cốt bên trong chi phối cả nội dung tư tưởng và thủ pháp nghệ thuật.       
2- Như trên đã phân tích, văn chương - nghệ thuật là nơi thể hiện tập trung nhất, cao nhất phẩm chất Hiện đại - Dân tộc. Phẩm chất này vừa là mục tiêu vừa là giá trị của các sáng tạo nghệ thuật. Với quan điểm lịch sử thì phẩm chất này đã có mầm mống trong quá khứ, tính hiện đại trong quá khứ chính là tính thời đại, đỉnh cao của tư tưởng- thẩm mỹ nhân loại đương thời và bản sắc dân tộc chính là “hồn cốt dân tộc” ẩn chứa trong đó. Hai đặc tính một phẩm chất, chúng hòa quyện trong nhau, những tác phẩm có giá trị cao đều có phẩm chất này trong quá khứ cũng như hiện tại. Cố nhiên hai đặc tính này từ xưa chưa được nâng thành lý luận như bây giờ mà chỉ hình thành một cách tự phát như là những “yếu tố”. Trong lịch sử văn học Việt, thơ ca phát triển sớm và các thời đại đều có những đỉnh cao, tiền đề của những đặc điểm này bởi vậy cũng đã có rất sớm. Những bài thơ của Sư Lưu, Sư Thuận với sứ Tàu thời Tiền Lê có lẽ là những tác phẩm tiêu biểu đầu tiên vừa thể hiện tinh thần dân tộc vừa có tính chất thời đại. Trong quá khứ Phật giáo là một trào lưu tư tưởng chung của nhân loại, nhưng vào Việt Nam laị có những biểu hiện tính dân tộc rất nhuần nhị. Bài thơ: "Nga nga lưỡng nga nga...”, một bài thơ thuộc dòng thơ nhà chùa (Phật giáo), nhưng lại đầy Việt tính. Đặt lại bài thơ trong bối cảnh sau can qua của các triều đại lúc bấy giờ mới thấy hết cái đặc sắc.Trong không khí thanh bình (ta đã đổi bằng máu của cuộc chiến tranh vệ quốc) Sứ Tàu  đi với Sư Ta, thấy đôi ngỗng bơi lội phô sắc đẹp đẽ, trong làn nước xanh, Sứ nhà Tống Lý Giác ứng khẩu câu thơ có cái ý “ngửa mặt hướng về trời xa” (ngưỡng diện hướng thiên nha) đầy vẻ tự mãn, Sư Thuận ứng đối câu thơ tặng lại “chèo hồng quậy sóng xanh” (hồng trạo bãi thanh ba) đầy vẻ tự hào quê hương. Tả cảnh, ngụ tình và cả ngụ ý. Phật tính sâu xa đó là tình yêu tạo vật, tình yêu con người, nhưng cũng là tính Việt kín đáo gửi gắm ở sự bình đẳng, tình bè bạn, yêu hòa bình. Bài thơ, một thông điệp hòa hiếu của dân tộc thời bấy giờ! Sức sống bài thơ nằm ở sự cảm hoá  khiến sứ nhà Tống khâm phục thốt lên: 
“Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu/ Khê đàm ba tịnh kiến thiềm thu.”
(Ngoài trời lại có trời soi sáng/ Vầng nguyệt trong in ngọn sóng đầm). 
Câu Ngoài trời lại có trời soi sáng, tác giả có ý xưng tụng vua nước Việt cũng “soi sáng” như vua của họ, nhờ khẩu khí thơ văn xướng họa mà đã làm chuyển đổi được tư thế của nước nhà, đang từ thế bị động sang hẳn một thế chủ động. Chính bởi điều đó nên sau này Lê Quý Đôn cho là“ Câu thơ của thiền sư Pháp Thuận, làm cho sứ giả nhà Tống phải kinh dị” (Sư Thuận thi ca,Tống sứ kinh dị - Thiền Dật).         
3- Trong quá trình tiếp cận thi ca bấy nay không it người nghĩ rằng tính hiện đại  là sự đổi mới các thủ pháp nghệ thuật ở các phương diện cấu trúc, xây dựng hình tượng, ngôn ngữ, thể loại v.v..., mà chủ yếu là phỏng theo các thi phái thơ tồn tại trên thế giới như Thơ ngôn ngữ, Tân Hình thức, Hậu hiện đại v.v... Đó là gì? là ngôn ngữ xù xì thô ráp, là thơ không vần, không ngắt câu, là hình tượng chứa đầy ảo giác vô thức... Còn tính dân tộc  là thể thơ, là ngôn ngữ là phong tục, tập quán Việt... Những điều vừa nói đúng là những dữ liệu, những đặc điểm tạo nên sự khác biệt, nhưng nếu dừng lại đó thì chúng chỉ đẩy các tác phẩm ra xa nhau như đi về hai hướng! Vậy thì ý nghĩa của mối quan hệ thẩm mỹ lớn lao và sâu sắc tạo nên chân giá trị của các tác phẩm theo các khuynh hướng Dân tộc - Hiện đại nằm ở đâu? Khi mà Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn rất xa cách nhau về phong cách so với Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn; Thanh Thảo, Inrasara cũng không gần gũi gì về cá tính sáng tạo với Dương Tường, Hoàng Hưng… Nên tìm sự gặp gỡ của họ ở một bình diện khác, nơi mà tác phẩm họ có một dấu nối của giá trị chung! Đó không là cái áo khoác ngoài,dù là áo dài dân dã hay áo đầm dạ hội mà chính cái sắc thái tổng thể, cái hồn cốt tạo nên vẻ đẹp hoa hậu Việt Nam. Cái áo chùng không làm nên ông thầy tu, người ta đã nói thế!           
Văn chương thời nay nói chung và thơ ca nói riêng ghi nhận khá nhiều thành công về sự hài hòa Bản sắc dân tộc và Tính hiện đại (nếu hiểu đó là Tính thời đại). Thương lượng với thời gian - thơ Hữu Thỉnh: tình yêu con người thể hiện trong một âm hưởng chân chất mà sâu sắc pha chút hóm hỉnh ảnh hưởng nhiều sắc thái dân gian. Sự mất ngủ của lửa - Nguyễn Quang Thiều, một cái nhìn xuyên thời gian về nỗi đau cũng như sức sống dân tộc. Lôlô - Ly Hoàng Ly, Gửi VB - Phan Thị Vàng Anh, những cảm nhận về đời thường nhưng đầy sức khái quát về một chủ nghĩa nhân văn mới đang hình thành trong cuộc sống đương đại. Rồi trường ca Đổ bóng xuống mặt trời, Ngày đang mở sáng - Trần Anh Thái, Metro - Thanh Thảo là những suy tưởng, những cảm nhận về con đường dân tộc trải qua trong gần thế kỷ với bao thăng trầm âm ỉ và đột biến vượt lên đau thương mất mát  để “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” sánh vai cùng bè bạn năm châu đi trên con đường mới. Và gần đây trong cuộc hội thảo về thơ Mai Văn Phấn - Đồng Đức Bốn ở Hải Phòng, nhiều tác giả đã nhận thức  khá rõ vấn đề đặt ra cho thơ ca đương đại: từ “chưng cất các giá trị truyền thống” để qua đó thấy các “chân trời thơ ca mới”, “mở rộng biên độ sáng tạo không ngừng”... Những tác phẩm thể hiện cuộc sống và con người Việt Nam, nhưng tầm nghĩ và tầm cảm của các tác giả vươn lên ngang tầm thời đại, “phát huy nhân tính” hòa quyện với tâm lý cộng đồng hòa vào dòng chảy chung. Thơ Đồng Đức Bốn và Mai Văn Phấn khác nhau, có thể xem như hai phong cách, sự khác nhau chủ yếu ở thủ pháp nghệ thuật ở cách sử dụng ngôn ngữ. Một bên ưa dùng những thủ pháp ẩn dụ, tỉ dụ, lối chuyển nghĩa dân gian đầy nhạc tính biểu cảm truyền thống, bên kia lại tìm đến một cách nói, cách thể hiện mới đầy tính siêu nghiệm và tượng trưng cùng một ngôn ngữ tạo sinh đa nghĩa. Nhưng điều đó không đủ tạo nên giá trị và sức hấp dẫn của thơ họ. Họ vẫn đi trên một lối chung mà đằng sau và bên cạnh còn nhiều“bạn bè” tạo thành một khuynh hướng. Cái mà họ làm xúc động người đọc, cái mạch chìm ẩn trong sự mới lạ của hình thức làm tác phẩm họ đọng lâu tròng lòng độc giả, đó là mối đồng cảm với những bất trắc, những nghịch lý nhân sinh thực tại, những tình yêu đồng loại, tình yêu quê hương lan tỏa trong mọi cung bậc đời sống, tạo nên cái mà Hữu Thỉnh với lối nghiệm suy triết học gọi là “nhân tính”, mục đích của mọi sáng tạo. Ở họ đều có một lối viết đi sâu vào các tầng ngầm nội tâm, thể hiện những rung động bề sâu của tâm hồn; theo ý chúng tôi đó là sự gặp gỡ trên một dòng chung văn hoá: tính thời đại và bản sắc dân tộc.  
Sự phát triển của VH-NT đương đại hướng đến hai tính chất thoáng nhìn như “trái ngược” nhưng thực ra có một quan hệ biện chứng, là đồ thị một hệ phương trình mà trục tung là tính dân tộc, trục hoành là tính hiện đại, tuy có hai tham số nhưng tích hợp lại cùng một phương. Trong ý nghĩa sâu xa của nó, khi một nền văn hóa phát triển đạt được bản sắc dân tộc ở tầm cao cũng tức là đạt tính hiện đại và ngược lai khi nó đạt tính hiện đại sâu sắc thì cũng sẽ hàm chứa bản sắc dân tộc, hay nói một cách khác: Với cách nhìn có tính lịch sử, nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng nếu có giá trị chân chính ở thời nào cũng có tính hiện đại và bản sắc dân tộc thời đó... 
6/6/2011
Yến Nhi
Theo https://vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh

Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh Thực lòng lúc ấy tôi bỗng ứa nước mắt. Nhưng bất giác tôi kịp tỉnh ra là mình đã bắt đầu làm cho...