Thứ Năm, 21 tháng 4, 2022
Góp thêm một cách hiểu về thơ nhìn từ thông diễn học hiện đại
Góp thêm một cách hiểu về thơ nhìn
Thông diễn học là khoa học nghiên cứu về hoạt động hiểu và diễn
đạt (bao gồm diễn giải và tái diễn giải) đúng đắn những gì đã hiểu (H.G.
Gadamer - Chân lý và phương pháp). Đây là cách hiểu đi đúng theo tinh thần của
thông diễn học hiện đại. Điểm phân biệt giữa thông diễn học hiện đại với thông
diễn học truyền thống ở chỗ, các nhà thông diễn học truyền thống cho rằng,
thông diễn học như là biểu hiện và khôi phục lại ý nghĩa, trong khi đó, các nhà
thông diễn học hiện đại khẳng định, thông diễn học hiện đại quan tâm đến sự hiểu
và diễn giải lại đối với sự hiểu nhằm phá vỡ hoặc giảm bớt ảo tưởng. Do vậy,
các nhà thông diễn học hiện đại gắn liền với tâm thế hoài nghi trước văn bản,
trong đó niềm tin của nhà thông diễn học hiện đại không thuần túy ở việc tìm lại
nghĩa sau khi đã đi sâu tìm hiểu các kiểu bối cảnh trong và ngoài văn bản, cao
hơn, các triết gia này quan niệm, niềm tin mà họ hướng tới văn bản là một niềm
tin có lý tính, bởi vì niềm tin ấy đã trải qua quá trình phê phán. Nó để lại dấu
vết mối bận tâm về đối tượng, với những trăn trở, suy nghiệm, nó thôi thúc con
người cần phải có thái độ giải thiêng nghiêm túc. Tâm thế của nhà thông diễn học
hiện đại đi vào văn bản không phải để hiểu miêu tả và tái lặp nó, trái lại quá
trình ấy phải được thực hiện và tiến hành bởi liên tiếp những hình thức tái diễn
giải lại đối tượng và, viết lại chính là phương pháp mà các nhà thông diễn học
hiện đại sử dụng để giải cấu trúc đối tượng thông diễn. Bởi vì, hiểu và tái lặp
lại sự hiểu trong quá trình diễn giải, thực chất là một sự hồi tưởng và như vậy,
nó đã hoàn tất, cho nên tái lặp là một hoạt động hướng về phía sau (nghĩa là
tin và đi theo một cách thụ động, thiếu tính giải thiêng về đối tượng). Thông
diễn học truyền thống đi theo tinh thần này, với đại diện tiêu biểu: J.C.
Dannhauer, Schleiermacher xem thông diễn như là một Hệ Thống, Phương Pháp Giải
Thích các Văn Kiện Thánh Kinh; Descartes, Hégel xem Thông diễn như là một sự hiểu
thấu suốt, và thông suốt tất cả quy luật của lịch sử, tức nắm được cái tinh thần
của lịch sử (Geist der Geschichte) nằm sâu trong, và ở đằng sau các hiện tượng;
nhóm đi theo quan điểm của Dilthey thì xem thông diễn học như là một nền tảng lịch
sử và mang nhân tính để xây dựng một phương pháp luận đặt nền móng cho nền khoa
học tinh thần… Trong khi đó, hiểu và tái diễn lại sự hiểu trong quá trình diễn
giải cần được quan niệm như là một hồi tưởng hướng về phía trước. Đó là một quá
trình mà nhà thông diễn hiện đại không ngừng đặt ra những nghi vấn về vấn đề mà
văn bản và tác giả quá khứ (hoặc cùng thời) đặt ra, để từ đó thâm nhập vào bối
cảnh văn hóa (gồm bối cảnh bên trong + bên ngoài văn bản) do văn bản vẫy gọi,
trên cơ sở đó hiểu những vấn đề mà bối cảnh ấy đặt ra: vấn đề nhân sinh, xã hội,
đạo đức, thiết chế… thông qua sự trao đổi nghĩa các lớp ký hiệu. Về điều này P.
Ricoeur có lý khi nhận xét, “Khuynh hướng tuân thủ vận động của nghĩa, vận động
này, xuất phát từ ý nghĩa cụ thể sát thực […] hướng tới nắm bắt cái gì đó nằm
trong vùng linh thiêng”(1), tức là hướng tới ý nghĩa biểu tượng. Với quan niệm
trên Ricoeur cho rằng, hoạt động thông diễn hướng niềm tin vào ngôn ngữ, một thứ
ngôn ngữ nói với mọi người nhiều hơn là được nói bởi mọi người. Trên cơ sở của
cách nghĩ ấy, ông xem Marx, Nietzsche và Freud như là ba bậc thầy hoài nghi vĩ
đại, học thuyết của họ là kết quả của một quá trình phá hủy những cấu trúc cũ để
tái lập một cấu trúc mới và mỗi người, theo cách riêng của mình đã sáng tạo ra
một cách diễn giải phù hợp. “Bằng việc xây dựng khoa học trực tiếp về nghĩa, họ
chỉ ra mối quan hệ che dấu - biểu lộ như là phạm trù căn bản của ý thức và kết
hợp phương pháp giải mã “ý thức” với công việc giải mã “vô thức” mà họ gán cho
ý chí quyền lực, cho bản thể mang tính xã hội, cho bộ máy tâm lý vô thức” (2).
Trong khi thông diễn học truyền thống lấy sự tái hợp ý nghĩa làm nền tảng thì,
thông diễn học hiện đại lấy diễn giải như là “sự thực hành hoài nghi và trở
thành thông diễn giải [cấu trúc] hoặc thực hành ảo tưởng”. Điều này trong các
văn bản thời kỳ Hậu hiện đại đặc biệt phổ biến, các nhà diễn giải hậu hiện đại
coi việc phá vỡ giới hạn của những cấu trúc cũ như là một phương thức để kiến tạo
một trật tự cấu trúc mới, mà những triết gia tiên phong cho khuynh hướng này là
những nhà hậu cấu trúc và giải kiến tạo như: U. Eco, H. Jauss, R. Barthes, M.
Foucault, G. Deleuze, I. Hassan… đặc biệt là J. Dérrida. Họ cho rằng, “cần phải
phá vỡ tất cả những gì có thể phá” và văn bản chính là trung tâm của mọi hoạt động
phá vỡ và kiến tạo, bởi “không có gì ngoài văn bản” (J. Dérrida), do đó phá vỡ
cấu trúc của một văn bản là phá vỡ một hệ thống thông tin đã lạc hậu, và một
thông tin mới được xác lập khi ngôn ngữ thay đổi. Viết chính là hình thức để
thay đổi ngôn ngữ. Sự triển hạn vô tận của những kiểu ngôn ngữ khác nhau, sẽ
quy định sự luân phiên của những kiểu văn bản khác nhau. Theo nghĩa ấy, tiến
trình lịch sử và xã hội cũng chạy dài theo cuộc phiêu lưu, trao đổi từ những ký hiệu biểu trưng của ngôn ngữ và đó chính là động lực để tiến hóa xã hội loài
người. Xem xét thơ trong mối quan hệ với thông diễn học hiện đại, bài viết cũng
không đi ra ngoài những vấn đề đã nêu ở trên.
Bàn về thơ, quy kết cho thơ một cách hiểu duy nhất, là một việc làm mạo hiểm.
Những cách diễn giải về thơ, ở một góc độ nào đó, đứng về mặt khoa học, thực chất
chỉ là góp thêm một cách hiểu chủ quan về thơ, còn xem nó như một hệ chuẩn là một
việc làm dường như là vô ích, bởi vì khi chúng ta hướng đến thơ và cố khuôn thơ
vào một lối viết nào đó, đều là biểu hiện của những cách nghĩ khác nhau về một
đối tượng: Sự áp đặt của kinh nghiệm, của ý đồ về thơ. Các nhà phê bình thường
suy xét hoạt động phê bình thơ như là một hướng đi của tư duy về thơ. Theo
nghĩa ấy, mỗi nhà phê bình thơ đã tự khai tử cách nghĩ của mình về việc, cố tạo
ra một định nghĩa cho thơ, hoặc là nhà phê bình tự mâu thuẫn giữa ý chủ quan và
việc làm khách quan, hoặc cố tạo ra một mặt nạ cho một dạng thức học thuật.
Theo nghĩa ấy, việc tạo ra một định nghĩa về thơ, thực chất là sự nài ép độc giả
vào khả năng vây hãm của một định chế ngôn từ, trong khi đó, bản chất của thơ
là tự nhiên, mọi việc làm có hướng thu hẹp khoảng tự nhiên ấy đều có nguy cơ đẩy
thơ tới bờ phá sản. Claude Lévi Strauss có lý khi nhận ra một sự thực, “Nỗi bất
lực này lại càng thêm khó chịu khi tôi giữ vai trò là người giám sát: bởi
vì… thí sinh yếu kém nhất dường như đã nói đầy đủ tất cả [mọi sự thực về tri thức],
cứ như là các đề tài [được lựa chọn như những sự việc đã được dựng sẵn đáp án]
tan biến đi trước mắt tôi chỉ do cái điều duy nhất là, tôi đã từng một lần gán
suy nghĩ của tôi cho họ” (3). Theo nghĩa ấy, cố phác họa một cách đọc về thơ là
một việc làm mạo hiểm và có chủ ý. Do vậy, chúng tôi không cho rằng hoạt động
viết này như một quá trình tìm ra phương pháp diễn giải về thơ mà thực chất, là
cố gắng vạch ra những dấu hiệu cho phép nhận biết và ở một góc độ, có thể giúp
cảm được tốt hơn về một bài thơ dựa trên những ý kiến của các nhà lý luận - phê
bình bàn về thơ đã từng làm.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Uống trà
Uống trà Một số người tìm sự bình an, sự tịnh tâm trong việc uống trà. Có thể vì vậy mà họ thường thuộc lứa tuổi đã cao, xế chiều. Thanh niê...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét