Thứ Ba, 3 tháng 1, 2023

Nam Đế Vạn Xuân - Tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai

Nam Đế Vạn Xuân - Tiểu thuyết
lịch sử của Phùng Văn Khai

Lời Từ sư phụ nói đến đâu, như từ trong huyết quản, tâm khí, mạch máu rần rật chạy trong tim óc các bậc lão trượng hương thôn tới đó. Ai cũng muốn ngay lập tức nắm chặt bàn tay người bên cạnh, gắn kết thành một khối, chỉ dạy cháu con nghe theo những lời nói như chắt ra từ gan ruột của vị sư trụ trì cổ tự.
Tiểu thuyết lịch sử Nam Đế Vạn Xuân
HỒI THỨ NHẤT 
Rừng Hắc Lâm hổ vàng rơi giọt lệ
Chùa Cổ Pháp thiền sư nhận học trò
Dưới chân con đường ngoằn ngoèo dẫn từ bìa rừng Hắc Lâm hướng về hương Cổ Pháp lúc chạng vạng chiều. Sương khói mịt mùng ảm đạm bay là là trên bờ cây ngọn cỏ càng khiến cảnh vật thêm vẻ thê lương. Trên nền trời xám xịt đang ngày càng ụp xuống sùm sụp, tiếng quạ kêu chiều chờn vờn hoang hoải. Trên khung cảnh ấy, một lữ hành độc bộ như cái chấm nhỏ nhấp nhô ẩn hiện trên con đường mờ mịt. Gần tới xóm Trại, xóm ngoài cùng của hương Cổ Pháp, vị khách khẽ dừng lại ngửa mặt nhìn lên nền trời xám ngoét rồi lặng lẽ men theo một lối mòn đi tắt về ngôi chùa gỗ nhỏ đã bắt đầu le lói ánh đèn. Trời càng tối càng lạnh. Gió bấc ù ụ thổi trên những tàng cây lòa xòa che phủ lối đi. Vị khách đi đường vận bộ vải thô màu xám lồ lộ những miếng vá to tổ bố song đường kim mũi chỉ gọn gàng lắm, chứng tỏ là một tay thuần thục vá may. Chiếc khăn vải thô màu đen quấn gọn trên đầu chỉ làm sáng thêm cặp mắt tinh anh thi thoảng sẽ chùng xuống như nghĩ ngợi điều gì mông lung vô định. Đứng trước chiếc cổng gỗ đẽo gọt sơ sài cũng là cổng sau của ngôi cổ tự, vị khách giơ nắm tay bình thản gõ luôn sáu bảy cái. Tiếng lộc cộc lẫn vào trong tiếng gió tưởng chừng như chẳng có ai trong cổ tự có thể biết được. Mà dường như ngôi cổ tự đã chìm hút trong màn sương giăng từ sẩm chiều chỉ còn le lói ánh đèn hạt đỗ. Vậy mà thoáng chốc, một bóng thiếu niên mảnh khảnh tay cầm chiếc đèn lồng nhỏ nhanh nhẹn bước về phía cánh cổng cúi đầu thi lễ cất giọng trang nghiêm:
– Bạch thầy đã về! Lý hương trưởng mấy hôm nay mong thầy về lắm!
Cánh cửa gỗ sơ sài được nhấc qua một bên rồi mau chóng đóng lại như ý chừng muốn ngăn ngọn gió lạnh đang thông thốc đuổi theo vị khách. Rảo bước vào trong, người thiếu niên là một chú tiểu trạc mười lăm mười sáu tuổi gương mặt sáng sủa vóc dáng thư sinh đã mau chóng bê một giành tích to sụ đặt trên chiếc bàn gỗ được ghép bằng những thân tre rắn chắc đã lên nước bóng loáng. Một chiếc chén gỗ sẽ sàng đặt trên bàn. Chú tiểu mau chóng rót đầy một chung trà bốc khói ấm sực hai tay bưng tới đặt trước thầy tươi tắn nói:
– Con mời thầy dùng trà. Trà của Lý hương trưởng chiều nay tới tìm thầy cúng vào chùa. Lý hương trưởng hình như đang có việc gì gấp lắm.
Vị khách trung niên bấy giờ mới nói:
– Tinh Thiều con, việc chùa gần một năm nay giao cho con ta đã yên tâm nhiều. Ở hương Cổ Pháp, Lý hương trưởng yêu thương dân, lại biết chỉ dạy chúng việc cấy cày, săn bắn, ăn ở lễ nghĩa ta cũng rất yên tâm. Sở dĩ ta phải đi xa một chuyến vì có hẹn với sư huynh. Nay Lý hương trưởng có ý tìm ta gấp chắc muốn gửi gắm điều gì hệ trọng. Nay ta hãy nghỉ ngơi, chờ trời sáng ta sẽ đích thân tới Lý gia trang xem ngài ấy cần nhờ vả việc gì. Trà ngon lắm, con hãy uống đi cho ấm bụng.
Vị tiểu tăng được sự cho phép của thầy bấy giờ mới lặng lẽ đi tìm chiếc chung gỗ lớn rót ra uống liền hai chung, đoạn mau chóng đi thu dọn căn buồng nhỏ phía bên trái ngôi cổ tự. Đã gần một năm, căn buồng nhỏ hôm nào tiểu tăng cũng quét dọn ngăn nắp dẫu biết sư thầy vẫn chưa về. Cái đức chăm chỉ của tiểu tăng khiến dân chúng hương Cổ Pháp thường đem ra răn dạy con em hàng ngày. Thắp xong ngọn đèn treo sát vách tường, vị tiểu tăng rút về căn phòng nhỏ bên phải ngôi cổ tự. Biết tính sư thầy rất kiệm lời, chỉ luôn theo lối tâm truyền. Thầy muốn nói gì thường chỉ qua hành động, đôi khi nói bằng mắt, bằng vẻ mặt đã kíp truyền đạt mọi việc, còn hiểu thấu tâm can người khác. Sống với thầy tròn mười năm, tiểu tăng đã học được kiến thức và khí độ của thầy đến sáu bảy phần. Gần một năm giao ngôi cổ tự một mình tiểu tăng coi sóc tuần tiết ma chay giỗ chạp cho dân chúng trong hương Cổ Pháp cũng là ẩn ý của sư thầy muốn rèn luyện đức tính độc lập cho tiểu tăng. Hiểu được cao ý của thầy, không chỉ gần một năm nay, mà từ trước đó, tiểu tăng luôn ngày đêm miệt mài tu tập, đặc biệt là luôn lấy gương thầy để tự rèn mình. Khi vắng sư thầy, tiểu tăng Tinh Thiều việc lớn việc nhỏ trong hương Cổ Pháp đều thực hiện hết sức nghiêm cẩn, nhất là lễ nghi trong các đám tang đều không quản thời tiết mưa nắng gió bão, đêm ngày lập đàn cầu kinh niệm Phật giải thoát cho người đã khuất, làm an lòng người còn sống nên rất được lòng dân chúng trong hương.
Ngồi trên chiếc ghế gỗ đơn sơ nhấp trà, vị trụ trì nhìn lướt một vòng quanh ngôi chùa gỗ. Trong màn đêm tịch mịch, vẫn những vật dụng quen thuộc, hai hàng cau chạy tít thẳng ra cổng chính phía Đông Nam lặng lẽ vẽ lên nền trời đêm những nét gầy guộc, đơn sơ. Không cần nhìn xuống phía dưới, vị trụ trì cũng thấy thoang thoảng hương ngâu mùa cuối đông lặng lẽ len lỏi trong làn gió bấc. Loài hoa ngâu đến lạ, càng rét mướt, càng lặng lẽ tỏa hương thơm. Loài cây cho hoa sang tận cuối xuân mới bung hết sức. Chỉ những cây ngâu ngót trăm năm tuổi mới có hoa lúc đông lạnh. Mới hay tạo hóa không chỉ biết khắc nghiệt thử thách lòng dạ con người mà còn luôn ban tặng những món quà đầy thâm ý như nhắc nhở chúng sinh phải biết cần kiệm liêm trung, phải biết lấy đạo tu thân tích đức làm đầu mới tự vượt được mình, chứ chỉ cầu xin thánh thần trời Phật sẽ không bao giờ thành chính quả. Như dòng họ Lý ở đây, nối đời làm hương trưởng, luôn biết lấy đức làm đầu, tự mình làm việc khó trước, nhường nhịn sẻ chia cho dân chúng hương ấp Cổ Pháp mới được yên bình đến hôm nay. Ngay như ngôi chùa gỗ này cũng do họ Lý hưng công xây dựng từ hơn hai trăm năm trước. Đã biết kính Phật yêu dân tất phải là người thấu hiểu đạo lý ở đời. Ba năm trước, khi còn tại thế, hương trưởng Lý Cạnh là người khiến ta không chỉ tâm phục khẩu phục mà còn giúp ta rất nhiều chỗ chưa thông trong đạo được thông suốt. Chỉ riêng chuyện Lý gia nối đời chuyên tâm thờ Phật, thời điểm bước ngoặt nào cũng không quản đường xa dặm thẳm đi tìm bậc chân tu đạo hạnh tới trụ trì cổ tự nơi đây. Với đức độ của Lý gia, thực có thể cắt cử một người trong tôn tộc tới trụ trì cũng là nhất cử lưỡng tiện. Song họ Lý chưa bao giờ làm điều đó. Chính đó là một sự cân bằng, là đạo ở trong đạo vậy. Lấy người họ mình tới đảm đương vị trí trụ trì ngôi cổ tự do chính họ Lý hưng công xây dựng, dẫu công tâm đến mấy cũng không tránh khỏi điều tiếng xì xào trong dân chúng. Lý gia làm vậy là cao minh lắm. Là đã biết đặt chữ không cao hơn chữ có, chữ tâm cao hơn chữ tài, chữ đức ở ngôi chính tâm mà bền gốc rễ lắm thay. Ngay như cuộc ta về đây trụ trì cũng là lời dặn của sư phụ cách đây đã tròn ba mươi năm. Khi ấy, Lý gia đã xin phép với sư phụ muốn thỉnh một cao tăng ở tận thành Gia Ninh về trụ trì để giáo hóa phật tử nơi đây còn muốn hưng công xây lại ngôi tự khang trang bề thế hơn. Khi biết ý dựng lại chùa của vị sư tăng sắp tới, sư phụ đã đàm đạo nửa ngày trời với hương trưởng họ Lý khi ấy là Lý Hoa. Chẳng biết sư phụ và Lý Hoa đã nói những gì với nhau. Chỉ biết rằng, sau cuộc đàm đạo ấy, Lý gia tuyệt nhiên không bao giờ nhắc đến việc dựng lại cổ tự nữa, càng không bao giờ tìm đón vị cao tăng ở Gia Ninh về mà nhất nhất theo lời sư phụ cho tìm ta khi ấy đang cùng sư huynh vừa tu tập vừa gây dựng ngôi chùa nhỏ mãi tận hương Màn Trò vùng Chu Diên. Không quản đường rừng đường sông, hùm beo rắn độc, hương trưởng Lý Hoa đã cho người vượt sông băng ngàn tìm ta về kịp lúc sư phụ lâm chung. Dẫu sư phụ không nói một lời thì Lý gia đã đồng lòng mời ta ở lại trụ trì ngôi cổ tự. Khi hương trưởng Lý Hoa theo về tiên tổ đã cầm tay con trai là Lý Cạnh dặn bảo tuyệt đối phải theo nguyên tắc tổ tông, sau này việc truyền sư trụ trì không được tự ý quyết định, càng không được lấy người họ Lý đưa vào. Lý Cạnh là người nhân đức nhưng yểu mệnh. Ta đã dốc hết tài y thuật cũng chỉ giữ được cho Lý hương chủ qua được tuổi bốn mươi. Lý Cạnh về với tổ tông, theo gia phong họ Lý, nếu người mất khi con trai dưới mười ba tuổi sẽ truyền tôn vị hương trưởng cho người em kế cận. Khi mất, ba con của Lý Cạnh là Lý Thiện, Lý Bí và Lý Hùng đều chưa đầy mười tuổi. Việc người em Lý Cạnh là Lý Khang giữ chức hương trưởng hương Cổ Pháp cũng là theo tộc truyền của Lý gia. Nay luôn mấy hôm, Lý hương trưởng cho tìm ta gấp hẳn có việc quan trọng gì chăng? Vừa miên man ngẫm ngợi, đến tận khuya, vị trụ trì mới lặng lẽ trở về căn buồng gỗ nhỏ sẽ sàng đặt mình xuống.
*
Lý gia trang lúc mờ sáng.
Khi tiếng gà gáy đầu canh năm căn nhà gỗ lớn của Lý gia trang đã sáng ánh đèn. Mùa đông đêm dài, lại đúng chặp mưa rét dầm dề đêm càng như miên man bất tận. Luôn mấy hôm trước, Lý trang chủ đồng thời cũng là hương trưởng hương Cổ Pháp mấy lần tới ngôi cổ tự tìm gặp sư trụ trì họ Từ chỉ có tiểu tăng Tinh Thiều đón tiếp. Không biết có việc gì mà Từ sư phụ rời tự đã ngót năm trời vẫn chưa trở về? Chắc là việc trọng đại với sư huynh Đỗ Khuông đang dựng chùa thuyết giảng đạo pháp nơi hương Long Đỗ. Biết tính nết của Từ sư phụ tuy phóng khoáng nhưng hết sức kiệm lời. Vậy mà hôm ngài rời cổ tự đã đích thân tới Lý gia trang ủy nhiệm việc giúp đỡ tiểu tăng những ngày ngài vắng tự. Lý trang chủ cũng không hỏi nguyên do chỉ lắng nghe lời dặn, đoạn sai bọn gia nhân soạn ít đồ chay để Từ sư phụ tiện lên đường. Lúc ngài đi cũng là buổi chớm đông. Sương mù mờ mịt sà xuống như cố ý chắn lối vị sư phụ vẫn rẽ sương tiến thẳng vào bìa rừng Hắc Lâm, nơi có đường mòn dẫn tới lối thượng du mà đám tộc khách phía bên kia núi vẫn đi ngựa xuống hương Cổ Pháp mang mật ong, ngà voi, sừng hươu đổi gạo muối mỗi dịp Tết đến. Từ sư phụ không chỉ đạo học cao thâm còn rất tinh thông võ học và y thuật. Không nhờ thuốc của Từ sư phụ, huynh trưởng Lý Cạnh khó có thể kéo dài mạng sống thêm được mấy năm liền. Từ nhỏ, Lý Cạnh đã có duyên Phật pháp. Nếu không phải con trưởng, lão gia Lý Hoa đã gửi vào cửa Phật không cho hoàn tục. Đã thành thông lệ, dẫu các sư trụ trì các đời nơi cổ tự đều do họ Lý không quản gian khó mời từ các nơi về trông coi song bao giờ họ Lý cũng vâng theo sự chỉ bảo của các cao tăng chùa Cổ Pháp. Con cháu Lý gia trang, nếu là con trai, khi mười tuổi nhất nhất đều đưa vào tự để sư trụ trì chỉ dạy. Đến năm mười tám tuổi đều cho rời tự hoàn tục trở về Lý gia tiện việc gia thất, cũng là cùng với dân chúng lấy đời làm đạo, khẩn hoang lập nghiệp, gia tăng nhân tài vật lực khiến vùng đất hương Cổ Pháp trù mật mãi lên. Việc này từ lâu đã thành nền nếp quy củ. Những ngày đầu thay sư phụ trụ trì cổ tự, Từ Học Lương dần dần hiểu được sự cao thâm của pháp giới đặc biệt nơi đây. Nối đời làm hương trưởng hương Cổ Pháp, họ Lý đã tìm được sự huyền diệu nơi đạo Phật chính là việc cân bằng giữa đời và đạo. Việc đạo pháp đã ngấm rất sâu vào những người chủ trì Lý gia trang từ lúc tóc còn để chỏm. Xuân thu nhị kỳ, vẫn là đời đấy mà đạo đấy. Cổ tự hương Cổ Pháp dẫu chỉ là dãy nhà gỗ đơn sơ đã trên hai trăm năm tuổi nhưng tiếng tăm của nó đã vang xa lắm. Mỗi dịp Tết nguyên đán, có những bậc danh sư tận ở Phong Châu, Cổ Loa, Long Biên, Tân Xương, Vũ Bình, Gia Ninh, Chu Diên, Ma Lôi… không quản hàng trăm dặm đến cùng giảng đạo pháp tương kính lắm. Có vị cao tăng mãi tận châu Phúc Lộc theo đường thượng đạo tìm về cổ tự đàm đạo với sư trụ trì nơi đây cả tuần trăng mới rời tự. Trước khi rời tự, vị cao tăng xin được tự mình đi thuyết giảng khắp các thôn cùng xóm vắng trong ngoài hương Cổ Pháp. Đi tới đâu ngài cũng ca ngợi công đức của Lý gia và các đời sư trụ trì cổ tự. Mới thấy sự nhiệm màu của đạo đã khăng khít với đời sống của dân chúng nơi đây rất tự nhiên vậy.
Trời còn chưa sáng hẳn, những luồng gió bấc thổi thông thốc vào gian nhà lớn khiến những tấm cửa gỗ dày vững cũng phải rung lên kêu cót két. Đã thạo nếp ăn ở của Lý trang chủ, tên gia nhân sau khi đem bình trà nóng đặt lên chiếc kỷ gỗ lập tức rời xuống gian nhà nhỏ cũng là gian bếp chuẩn bị bữa sáng cho chủ nhân.
Lý trang chủ trạc ngoài bốn mươi, vóc vạc đường bệ, ngài bận bộ quần áo vải chàm dày, cổ quấn khăn vải màu tím nhạt, chân đi đôi giày da báo uyển chuyển ngồi xuống chiếc kỷ gỗ tự tay rót luôn chung trà lớn vừa uống vừa nhìn ra ngoài. Bỗng ngài hơi sững lại khi thoáng nhìn thấy bóng người phía con đường mòn trước cổng thấp thoáng trong mờ sương. Cặp mắt tinh anh của Lý trang chủ đã kịp nhận ra dáng đi quen thuộc của Từ sư phụ.
Rất nhanh nhẹn, Lý trang chủ thoăn thoắt bước thẳng ra cổng lớn cũng là lúc Từ sư phụ dừng chân trước cổng.
Lý trang chủ vừa khum tay thi lễ vừa cất giọng trầm vững nhưng không kém phần vồn vã:
– Bạch Từ sư phụ! Sao sư phụ không sai tiểu tăng đến báo để Lý mỗ đến cổ tự thăm hỏi sư phụ? Sư phụ làm thế này khiến Lý mỗ áy náy quá!
Từ sư phụ khẽ rũ rũ đám sương đọng trắng trên vai áo thong thả đáp:
– Ta cũng mới về chập tối qua. Ngại đêm hôm đường đột không tiện tới Lý gia, đợi trời sáng mới đến. Không biết gần một năm qua Lý gia trang có bình an không? Dân chúng hương Cổ Pháp có được mùa không?
Lý trang chủ khoát tay mời Từ sư phụ vào trong nhà ngồi trên chiếc kỷ gỗ tự tay rót chung trà nóng bưng tới trước mặt mới nghiêm trang đáp:
– Bạch sư phụ! Nhờ Phật tổ phù hộ độ trì, dân chúng hương Cổ Pháp luôn mấy năm nay đều được mùa, thóc lúa đủ chi dùng trong vài năm không hết, khoai sắn hoa quả mùa nào thức nấy đều dồi dào cả. Vâng theo lời sư phụ, ta cùng đám tráng đinh từ đầu xuân đến nay đã cho đẵn gỗ kéo về đẽo xẻ ra phơi khô để đóng thuyền nơi vụng Đầm Bạch Long để tiện đón đám thương thuyền dưới xuôi đem dầu muối vải vóc lên đổi gạo củi, sản vật, ngà voi, thú rừng. Lại vâng theo lời chỉ dạy của sư phụ cho phường săn vào rừng Hắc Lâm tìm cây sơn đen lấy nhựa về trộn với chu sa quét trám lên khe gỗ khiến thuyền kín nước mà vững vàng lắm. Ta đang mong sư phụ về để hỏi thêm mấy việc. Thật may đúng lúc sư phụ trở về.
Lý trang chủ nói tới đó vừa lúc tên gia nhân đem tới một giỏ khoai lang luộc nghi ngút bốc khói, lại thêm bát muối mè giã ớt xanh đặt lên trên chiếc bàn gỗ. Tên gia nhân nhìn chủ nhân có ý muốn sai bảo, dò hỏi vị cao tăng có dùng bữa sáng hay không đã thấy Từ sư phụ khẽ mỉm cười thuận tay cầm luôn củ khoai còn bốc khói bẻ đôi vừa đưa cho Lý trang chủ vừa nói:
– Nào ta hãy cùng dùng bữa sáng! Món này lão tăng ăn từ tấm bé mãi đã thành quen mất rồi. Phật Tổ dạy có thực mới vực được đạo. Khoai lang đỏ luộc uống kèm với trà xanh mát ruột mà ấm lòng lắm. Trang chủ quả là người rành các vị thuốc ngay từ trong bữa ăn dân dã.
Lý trang chủ phá lên cười lớn. Ngài vẫn phục lăn tính khí khoáng đạt của Từ sư phụ. Từ ngày tới hương Cổ Pháp trụ trì cổ tự, Từ sư phụ thấy cơm là ăn thấy việc là làm thoải mái lắm. Mùa xuân mưa phùn ngài còn xắn quần xuống cày ruộng với dân chúng. Mỗi khi được mùa, những khoảnh ruộng quanh ngôi cổ tự ngài đều tự mình gặt lúa, dùng trục đá lăn lấy thóc rồi phơi phóng quạt sảy rất thành thạo không cần nhờ tới đám phật tử tới giúp. Trong hương ấp, có nhà nào chuẩn bị cất nóc nhà mới, ngài đều đến từ hàng tháng trước, tự tay đẽo rui, đục cột, chỉ bảo ngàm đố mộng mực con lăn thớt trên thớt dưới rất tỉ mỉ, khiến đám thợ mộc trong hương ấp rất kính phục. Cái nết ăn ở của sư phụ giống y như lão sư phụ trụ trì thuở trước, chẳng hề có khoảng cách giữ gìn với Lý trang chủ, càng chẳng bao giờ có khoảng cách với dân chúng nơi đây.
Nhấm nháp chung trà xanh nóng, Từ sư phụ thong thả nói:
– Lão tăng rất mừng khi Cổ Pháp lại được mùa năm nữa. Càng đáng mừng hơn khi Lý trang chủ biết chỉ bảo đám trai tráng xẻ gỗ đóng thuyền. Hương Cổ Pháp ta, tuy là dựa vào núi rừng đồng ruộng nhưng việc xẻ gỗ đóng thuyền là vô cùng đáng quý. Phải biết được khắp trong các vùng đất xứ Giao Châu, liên tiếp các vùng Phong Châu, Cổ Loa, Long Biên, Gia Ninh, Chu Diên, Phúc Lộc…, cư dân ở đâu cũng đều thành thạo sông nước cả. Người phương Nam chúng ta phải thuần thục thuyền bè sông nước mới mong tinh tiến bền vững được. Ta mới ở chỗ sư huynh Đỗ Khuông vùng cửa sông Đầm Vực hương Long Đỗ về đây. Khi đi đường thượng đạo không chỉ hùm beo rình rập cây đổ đá lăn khó bảo toàn mạng sống mà còn hao tổn thời gian sức lực. Khi trở về, sư huynh cho đám tiểu đồng dẫn đi theo đường thủy vừa thong thả an nhàn vừa giảm thiểu thời gian công sức. Hương Cổ Pháp ta, Lý trang chủ nay mai phải cho đám tráng đinh thăm dò luồng lạch Đầm Bạch Long xuôi theo hai nhánh Câu giang, Dã giang về mạn Bạch Hạc tìm đường ra sông Cái xuôi xuống mạn Cổ Loa, Gia Ninh, Giang Biên, Long Đỗ, Màn Trò, Chu Diên mới được. Cổ Pháp tuy là vùng đất truyền đời của Lý gia nhưng phải biết mở mang đi khắp nơi mới là ý chí của tiền nhân. Chẳng hay Lý trang chủ có suy nghĩ về điều đó không?
Trang chủ Lý Khang đột ngột sững sờ trước từng câu từng lời của Từ sư phụ. Từ thuở nhỏ, mỗi khi con cháu Lý gia rời cổ tự năm mười tám tuổi trở về Lý gia trang hoàn tục đều được các bậc cao niên đức cao vọng trọng họ Lý dành một tuần trăng để nói về truyền thống của Lý gia vùng Cổ Pháp. Họ Lý ở đây nối đời làm hương chủ, yêu dân mở đất đã hàng trăm năm. Tiếng là hương Cổ Pháp thực chất vùng đất được khai khẩn đã dài rộng vài chục dặm khắp vùng hạ trung thượng rừng Hắc Lâm, phía dưới trùm qua Đầm Bạch Long xuôi mãi dòng Câu giang, một ngả vươn theo dòng Dã giang cũng vài chục dặm. Các họ ở đây dẫu nhiều họ như họ Đinh, họ Cù, họ Triệu, họ Bạch suất đinh có tới hàng ngàn đều thần phục suy tôn họ Lý làm hương chủ. Lý gia trang từ lâu nghiễm nhiên là nơi hội họp bàn bạc quyết sách của hương Cổ Pháp. Các vị trưởng lão các họ Đinh, Cù, Triệu, Bạch, Ma, Vững, Giàng, Khái… luôn căn dặn đám con cháu đời sau phải biết tin phục Lý gia. Cũng chưa bao giờ Lý gia cậy thế cậy quyền ép các tộc họ khác. Bất luận việc khó khăn đến đâu, Lý gia đều cam tâm đi đầu gánh vác. Săn được voi hổ hươu hoẵng nhiều ít, Lý gia đều cho chia đều các tộc họ không phân biệt càng khiến dân chúng hương Cổ Pháp một dạ theo về. Trong buổi căn dặn cháu con khi rời tự lúc mười tám tuổi, các bậc cao niên họ Lý đều nói thẳng nói thật đường ăn nét ở của họ tộc mình để đám con cháu coi đó là gia quy mà thực hiện. Chính bởi vậy, ở hương Cổ Pháp, họ Lý được suy tôn nối đời làm hương chủ là vì thế.
Suy nghĩ một hồi như thế, Lý trang chủ trang nghiêm đáp:
– Bạch Từ sư phụ! Tổ tông Lý gia đã hàng chục đời an cư lập nghiệp ở đất này. Cũng may mắn được dân chúng quanh vùng đùm đậu mới có ngày nay. Lại nối đời được các trụ trì chùa Cổ Pháp giáo hóa chỉ dạy điều hơn lẽ thiệt. Cứ như thiển ý của Lý mỗ, vùng đất Cổ Pháp ta sở dĩ được yên bình trước hết bởi lòng người đồng thuận, các họ Đinh, Cù, Triệu, Bạch, Ma, Vững, Giàng, Khái… đều một lòng hướng về phật pháp, biết lẽ phải, chăm làm việc thiện ở đời. Nay sư phụ là người học nhiều hiểu rộng, lại mới đi khắp một vòng các vùng đất kinh kỳ đô hội hẳn đã có được nhãn quan dài rộng mà chỉ dạy cho Lý gia. Ta trộm nghĩ, việc sư phụ bày cho phép đóng thuyền ở Đầm Bạch Long hẳn là có ý để con cháu hương Cổ Pháp sau này tiện việc mở mang vùng bãi bồi, sông nước. Chủng tộc người Giao Châu vốn thành thạo sông nước đầm hồ. Nếu không biết tích cốc phòng cơ, ở nơi cao ráo không biết lo xa ngày mưa lũ là sớm hại đến thân vậy. Có được bè nhiều thuyền vững mới thuận tiện khi chuyên chở thóc gạo để đổi lấy dầu muối của đám thương thuyền dưới xuôi. Ta cũng đã cho dựng vài dãy nhà gỗ ở bãi đất rộng nơi bìa rừng Hắc Lâm để tiện việc tiếp đón trao đổi sản vật của dân chúng vùng thượng du về lấy gạo muối, đồ sắt đồ đồng. Luôn mấy năm nay, theo lời chỉ dạy của Từ sư phụ, việc dân chúng các nơi đến hương Cổ Pháp học đạo học nghề, trao đổi sản vật ngày càng đông đúc. Đám tráng đinh trong hương vì thế cũng được mở mang tầm mắt. Còn như sinh kế lâu dài bền vững, mong Từ sư phụ chỉ dạy thêm cho.
Lý trang chủ nói đến đâu, khuôn mặt Từ sư phụ thêm tươi nhuần ra đến đó. Sư phụ thong thả nói:
– Lý trang chủ thật là người biết lo cho dân chúng hương thôn, còn biết nhìn xa trông rộng, tích cốc phòng cơ, biết mở lòng với dân vùng thượng du, hạ bạn. Mọi việc như thế cũng là thuận theo ý Phật tổ. Chẳng hay luôn mấy ngày nay muốn tìm ta gấp có việc gì?
Lý trang chủ trầm ngâm nói:
– Bạch sư phụ! Đây là việc riêng của Lý gia chúng tôi. Ba năm trước, huynh trưởng chẳng may bạo bệnh qua đời, ba tiểu điệt còn nhỏ tuổi, Lý mỗ vạn bất đắc dĩ phải ngồi vào chức hương chủ Cổ Pháp cũng như ngồi trên tấm băng mỏng. Ngày đêm lo nghĩ sợ mình có gì khinh suất thật là mang tội với Lý gia. Từ ngày huynh trưởng quy tiên, đại tẩu Cù Nương đêm ngày thương tiếc đã kết thành bệnh trong tâm không thuốc nào chữa được. Nay đại tẩu đã yếu lắm, ngặt nỗi các tiểu điệt đều còn nhỏ tuổi khiến ta trăn trở không yên. Đại huynh ngày trước căn dặn sau này đại tẩu có mệnh hệ gì hãy đem an táng chung với người. Đây cũng là hợp với gia quy của Lý gia. Nay mọi việc đã gấp lắm rồi, Lý mỗ muốn thỉnh giáo cao ý của sư phụ.
Từ sư phụ đăm chiêu nói:
– Lão tăng ngày trước bốc thuốc trị bệnh cho hiền huynh ngài đã sớm biết sức khỏe của đại tẩu như ngọn đèn trước gió không được bao lâu nữa. Nay bệnh đã kết phát vào trong tim óc, chúng ta hãy cố nén lòng mà tính việc lâu dài cho ba người con của họ mới là việc nên làm. Trưởng tử Lý Thiện năm nay đã tròn mười tuổi ta sẽ gửi xuống cho sư huynh ở hương Long Đỗ rèn dạy. Xem tướng mạo Lý Thiện sau này công quả ắt thành. Thứ tử Lý Bí xem ra tướng mạo có chỗ phi phàm sau này ắt không phải người thường, trước mắt hãy tạm cho vào tự để ta rèn dạy, sau này tìm người tài giỏi xin theo học cũng chưa muộn. Duy thứ út Lý Hùng còn quá bé, trước mắt chỉ có thể để Lý trang chủ đùm đậu mới yên tâm được. Còn như việc đảm nhiệm chức hương chủ, xét về tài đức vị thế ngài đều xứng đáng chớ nên bận tậm nhiều. Hãy mau đưa ta tới thăm bệnh tình đại tẩu xem sao?
Lý trang chủ nghe kỹ từng lời của Từ sư phụ. Khuôn mặt trang chủ đầy vẻ quan hoài nghiêm nghị. Từ sư phụ vừa dứt lời, Lý Khang mau chóng đứng lên dẫn sư phụ đi qua khu vườn rộng đầy cây ăn quả tiến tới khoảnh sân nhỏ phía trước có căn nhà gỗ cửa vẫn còn đóng, phía bên ngoài có tên gia nhân đang đứng ý chừng đợi người bên trong mở cửa.
Hai người bước tới giữa khoảng sân nhỏ đoạn ra hiệu cho tên gia nhân khẽ gõ vào cánh cửa gỗ đang khép kín.
Tên gia nhân gõ mãi, gõ mãi cánh cửa vẫn im lìm. Cảm thấy có sự lạ gì ở bên trong, Lý trang chủ ra hiệu cho tên gia nhân đẩy mạnh cánh cửa gỗ.
Cánh cửa đột ngột bị đẩy vào phía trong. Thì ra bên trong không hề cài then cửa. Tên gia nhân hơi chao người về phía trước đã mau chóng giữ lại được thăng bằng. Phía bên trong, ngọn đèn dầu đặt trên bàn vẫn le lói cháy. Khi ánh sáng bên ngoài ùa vào theo cánh cửa cũng là lúc ba người sững sờ nhìn thấy người đàn bà nhỏ bé nằm lọt thỏm trên chiếc giường gỗ có đắp tấm chăn mỏng, khuôn mặt đã xoám ngoét, mắt nhắm nghiền, búi tóc trắng xổ tung xòa trên gối.
Từ sư phụ khẽ niệm nam mô rồi từ từ tiến tới khẽ đưa bàn bay đặt hờ lên khuôn mặt người phụ nữ một lúc khá lâu mới chậm chạp quay ra nói khẽ:
– Đại tẩu đã quy tiên rồi!
Tên gia nhân bưng mặt òa khóc cứ thế đứng run cầm cập phía góc giường. Lý trang chủ nhìn khuôn mặt người quá cố lòa xòa tóc trắng không ngăn được hai giọt lệ rơi xuống đất. Cố nén nỗi đau, trang chủ khẽ nói:
– Đại tẩu cả đời vì Lý gia nay sung sướng chẳng có gì lại sớm theo hiền huynh về nơi cực lạc. Trước lúc lâm chung đại tẩu chỉ muốn gặp Từ sư phụ việc cũng không thành. Mẹ góa con côi đến bây giờ con nhỏ lại mồ côi cả cha lẫn mẹ. Ông trời sao nỡ bất công với Lý gia ta…
Lý trang chủ nói đến đó thì giọng đã nghẹn tắc lại chỉ còn nghe tiếng hức… hức… rất thê lương. Nước mắt lã chã chòm râu đốm bạc. Từ sư phụ luôn miệng niệm nam mô a di đà phật mặc tên gia nhân đã ngã khuỵu xuống tự bao giờ.
*
Hương Cổ Pháp luôn mấy ngày mưa phùn gió bấc liên miên không dứt.
Đám tang của Lý gia, các họ Đinh, Cù, Triệu, Bạch, Ma, Vững, Giàng, Khái tới rất đông để chia buồn. Theo phong tục hương Cổ Pháp, ba người con Lý Thiện, Lý Bí, Lý Hùng đều mình quấn vải trắng, đầu chít khăn trắng trên vấn nùn rơm, chân trần chống gậy tre đi lùi trước linh cữu. Theo di nguyện của người quá cố, thi hài Cù Nương được quấn chặt để trong chiếc quan tài gỗ mít đóng kín đặt trên chiếc xe bánh gỗ cọt kẹt kéo về chân núi Ông Hùm nơi bìa rừng Hắc Lâm. Núi Ông Hùm là một quả đồi đất lớn kéo thông lên dãy núi đá Tam Ngai phía Tây Nam hùng vĩ nơi có rừng rậm núi cao nhiều hổ báo được người dân truyền nhau gọi là núi Tam Vương rất thiêng. Ba năm trước, thi hài của Lý trang chủ Lý Cạnh cũng được chôn ở ngôi đất chân núi Ông Hùm. Hôm trước, đám tráng đinh theo chỉ dẫn của Lý gia đi đào huyệt mà phong tục họ Cù gọi là làm nhà mới cho Cù Nương tìm mãi không thấy ngôi mộ của Lý Cạnh đâu. Phải rất lâu người họ Lý mới xác định được chiếc gò không biết đã được mối đùn cao như một quả đồi từ bao giờ chính là mộ của Lý Cạnh. Mọi người ai cũng cố sức đào sâu huyệt đất mà đến tận sẩm chiều mới chỉ được một chiếc hố nhỏ nép bên cạnh mộ Lý Cạnh giờ đã như ngọn đồi hình như ngày càng âm thầm cao lên.
Khi trời tối hẳn, đoàn người đào huyệt mệt mỏi quay về hương Cổ Pháp.
Người đi đưa đám ma đông chật ních con đường đất ngoằn ngoèo dẫn ra đồi Ông Hùm. Trời lâm thâm mưa phùn. Gió càng thổi càng lạnh. Đám cờ phướn đi đầu người nào người nấy câm lặng trong mưa lạnh. Những rải cờ thấm mưa phùn rủ thõng xuống ẽo ợt dưới bầu trời xám xịt. Tiếp đến là đội kèn bát âm. Tiếng kèn, tiếng nhị, tiếng chiêng, tiếng trống ảo não càng tăng vẻ thê lương. Đi trước chiếc xe gỗ ậm ạch chở quan tài, ba cậu nhỏ cao thấp khác nhau toàn thân quấn vải trắng trên đầu đội mũ rơm chống chiếc gậy tre non thập thững bước lùi thi thoảng vấp ngã lăn dúi xuống rệ đường. Trưởng tử Lý Thiện đôi mắt như vô hồn đi giật lùi trước linh cữu mẹ dường như đã cạn nước mắt cố đứng vững. Thứ tử Lý Bí bặm chặt cánh môi nước mắt cứ thế giàn giụa trên gò má lạnh như đồng. Đôi chân Lý Bí đã tướp máu nhưng những bước giật lùi của họ Lý lại tỏ ra khá vững trãi. Cứ từng bước từng bước giật lùi mặc máu thấm trên con đường đất sỏi lồi lõm. Phía trước, trang chủ Lý Khang vừa rìu vừa thi thoảng nhấc bổng cậu bé Lý Hùng mới hơn ba tuổi không thể tự đi lùi được. Cứ dăm bảy bước cậu lại ngã lăn xuống vệ đường khiến mọi người ai cũng xót thương. Phía sau chiếc xe tang lọc cọc, đoàn người đông đúc đi sát vào nhau dưới trời mưa lạnh trên con đường ngoằn ngoèo tưởng chừng bất tận. Tiếng khóc hờ thi thoảng rộ lên át cả tiếng chiêng trống kèn nhị não nề. Khi đoàn người tiến sát đến bên huyệt đất đào hôm trước tất cả không khỏi kinh động khi chỉ sau một đêm không biết bằng cách gì chiếc hố như to rộng gấp ba bốn lần đám tráng đi đã đào hôm trước. Mọi người càng lấm lét khi nhìn thấy nhiều dấu chân hổ to như chiếc đấu hằn rõ trên nền đất mới.
Khi nấm mộ được vun đầy cũng là lúc trời chợt hửng lên se sẽ sáng. Gió bấc dường như thổi nhẹ hơn. Mưa phùn cũng đã ngừng rơi từ lúc chiếc quan tài gỗ được đám tráng đinh dùng dây thừng ròng hạ xuống đáy huyệt sâu tút hút. Những vật dụng được người các họ Đinh, Cù, Triệu, Bạch, Ma, Vững, Giàng, Khái thi nhau ném xuống dưới huyệt người quá cố. Ba cậu tang chủ nhỏ đứng sát vào nhau cắm ba chiếc gậy tre non xuống nền đất lạnh. Có ai đó đã quấn những tấm vải vào bàn chân tứa máu của ba cậu nhỏ. Cậu út Lý Hùng dường như chưa nhận ra điều gì hệ trọng đứng co ro bên cạnh hai người anh. Lý Bí đứng giữa, đôi chân quấn vải trắng đã rịn máu chuyển sang màu hồng choãi ra như cắm hẳn xuống lòng đất trước huyệt mộ đang lấp đất rào rào. Cậu nhìn thẳng vào lòng ngôi mộ rồi nhìn xuyên ra bìa rừng Hắc Lâm rồi lại nhìn sâu vào nơi giữa rừng cây cối rậm rạp ánh mắt rực lên rất lạ. Người con trưởng Lý Thiện cao vượt hẳn lên một cái đầu đứng nhìn đoàn người với con mắt thê lương.
*
Đêm khuya trong căn nhà gỗ lớn Lý gia trang.
Trước hương án thờ, hai cành tre non héo rũ rủ xuống nhang án. Tấm bài vị gỗ được khắc còn mới thơm mùi mực. Từ chiều, sau khi chôn cất xong xuôi cho người quá cố, Từ sư phụ đích thân khắc chữ vào chiếc bài vị đặt ngay ngắn trên án thờ. Ba năm trước, cũng tại căn phòng lớn này, cũng đích thân Từ sư phụ khắc những dòng chữ lên bài vị cho trang chủ Lý Cạnh. Mới thế mà Cù Nương đã đột ngột theo chồng xuống suối vàng bỏ lại ba con còn thơ dại. Ngày Lý Cạnh mất, Từ sư phụ đã phải vuốt mắt đúng bảy lần đôi mắt họ Lý mới chịu khép lại. Dường như Lý Cạnh có điều gì muốn nói mà không nói được nữa. Trước khi khép mắt, hai giọt lệ còn ứa ra khuôn mặt mới có đôi chút thanh thản. Lúc cùng với trang chủ Lý Khang vào thăm Cù Nương lần cuối, dù đã đi từ trước đó, sắc mặt Cù Nương cũng có được đôi phần thanh thản. Dù mái tóc không hiểu sao đã đột ngột bạc trắng như mây. Mới thấy ở đời bãi bể nương dâu. Con người làm được điều gì tốt hãy gắng sức mà làm. Từ sư phụ thong thả ngồi lên tấm chiếu trước bài vị Cù Nương thong thả vừa gõ mõ vừa nhẩm đọc những câu kinh đã thuộc từ lâu. Lời kinh đan trong tiếng mõ đều đều siêu sinh tịnh độ cho vong hồn người đã khuất.
Trên chiếc tràng kỷ gỗ lớn, trang chủ Lý Khang ngồi im như pho tượng. Lúc sẩm tối, khi tiễn đoàn các họ Đinh, Cù, Triệu, Bạch, Ma, Vững, Giàng, Khái về nhà sau bữa cơm chay cảm ơn mọi người, Lý trang chủ chỉ kịp căn dặn đám gia nhân chăm sóc tốt cho Lý Thiện, Lý Bí và Lý Hùng rồi chính ngài do quá mỏi mệt cũng đã thiếp đi trên kỷ gỗ lúc nào không biết. Chợt khi tỉnh giấc chỉ thấy hai ngọn bạch lạp chập chờn trên nhang án, phía dưới là Từ sư phụ đang đều đều gõ mõ tụng kinh.
Không muốn làm kinh động sư phụ, trang chủ khẽ khàng vươn vai đi vòng xuống căn nhà gỗ bên dưới, nơi các tiểu điệt Lý Thiện, Lý Bí, Lý Hùng và đứa con nhỏ năm tuổi của ngài được gia nhân đưa về đó nghỉ ngơi sau một ngày tang gia mệt mỏi. Ông khẽ đẩy tấm cửa gỗ, bên trong, thấp thoáng qua ngọn đèn vặn nhỏ, Lý trang chủ giật mình khi thấy trên chiếc giường gỗ có rải chăn ấm chỉ thấy có ba đứa trẻ. Ông khẽ dụi mắt nhìn thật kỹ nhẩm đếm cũng chỉ có ba người. Lý Khang xoay người vặn to ngọn đèn nhìn điểm mặt từng đứa bỗng thất kinh không thấy đứa cháu ruột là thứ tử Lý Bí đâu. Cứ để nguyên ngọn đèn cháy sáng, Lý trang chủ vội khép lại cánh cửa gỗ rồi lật đật trở về gian nhà lớn mặc kệ mấy đứa nhỏ vẫn ngủ say sau một ngày đầy biến động.
Trong căn phòng lớn có đặt nhang án, Từ sư phụ vẫn đều đều tiếng mõ như không hay biết Lý trang chủ đã quỳ sát bên cạnh giọng thảng thốt nói:
– Bạch sư phụ! Lý Bí không biết đã đi đâu mất rồi?
Từ sư phụ chợt dừng tay mõ.
– Lý trang chủ! Ngài vừa nói cái gì?
Lý trang chủ giọng càng thảng thốt hơn:
– Lý Bí không biết đã đi đâu mất rồi? Ta đã kiểm tra kỹ mà không thấy!
Từ sư phụ vội đứng lên, ôm gọn chiếc mõ tre vào lòng ra hiệu cho Lý trang chủ đi về phía chiếc kỷ gỗ rồi đăm chiêu nói:
– Có lẽ nào? Có lẽ nào tên tiểu tử này lại ra chỗ đó chăng?
Lý trang chủ bồn chồn lao lung mãi mới lắp bắp:
– Không thể nào?… Không thể nào…
Từ sư phụ nhìn sâu vào hương án chỉ thấy hương khói vẽ lên trần nhà những vệt khói trắng ngoằn ngoèo vô định. Tấm bài vị nước sơn còn mới. Những dòng chữ như những mũi dao cứa vào tâm can hai người đàn ông trong đêm đông lạnh. Ngoài trời sương rơi lộp bộp. Thi thoảng tiếng gió bấc thổi vào cánh cửa khiến chúng rung lên cọt kẹt.
Từ sư phụ nhìn sâu vào màn đêm nói quả quyết:
– Chắc chắn tên tiểu tử chỉ có thể đến đó mà thôi!
Nói đoạn, Từ sư phụ vấn chặt chiếc khăn nơi cổ quấn thêm hai vòng trùm kín đầu đặt chiếc mõ vào bị cói tùy thân thắt đôi giày vải đứng lên nói:
– Chỉ cần mình lão tăng ra đó là đủ. Lý trang chủ hãy ở nhà bảo toàn đám trẻ tránh việc cái sảy nảy cái ung. Lý gia đang trong lúc biến động ngài hãy nghe lời lão tăng mới được.
Lý trang chủ bần thần đáp:
– Mọi việc Lý mỗ xin theo sự sắp đặt của sư phụ.
*
Chân núi Ông Hùm nơi bìa rừng Hắc Lâm đêm đông tịch mịch.
Một khung cảnh dị thường đã bày ra phía trước ngôi mộ đất. Mấy gộc củi khô bắt lửa cháy liu riu phả ra từng đụn khói. Lửa nhập nhoạng lúc tỏ lúc mờ. Ngay sát đống lửa kề ngôi mộ đất, một thiếu niên chạc bảy tám tuổi cặp mắt mở to nhìn sâu vào lòng mộ không chớp. Toàn thân cậu bé được quấn trong một lớp vải trắng dày lấm láp đôi chỗ dính vài vệt máu đã xỉn lại. Cậu bé ngồi im, mắt nhìn sững vào lòng đất như oán hận điều gì chất chứa. Bên cạnh nấm mộ đất nhỏ, một nấm mộ đã xanh cỏ từ lâu cao tựa ngọn đồi như choán hết chân núi Ông Hùm. Ánh lửa nhập nhoạng, chợt khi cơn gió bấc thổi bùng lên hắt cái bóng của cậu bé trùm lên ngôi mộ đất. Giữa canh khuya, từng vạt sương lòa xòa đậu ướt khắp các cành cây ngọn cỏ thi thoảng rỏ xuống lộp bộp, có giọt sương bị gió thổi táp vào tàn lửa cháy xèo xèo. Mặc kệ tất cả, cậu bé vẫn ngồi im như tượng trước ngôi mộ đất.
Đã khuya lắm, chừng như quá mệt mỏi, cậu gục quỳ sát xuống ngôi mộ thiếp ngất đi. Bỗng đâu, lẫn trong tiếng gió lào xào, trong chờn vờn ánh lửa, một ông hổ vàng dài thườn thượt đến ngót một trượng uốn lượn tấm thân như sóng nhẹ nhàng từ trong rừng Hắc Lâm tiến thẳng tới ngôi mộ đất.
Cậu bé vẫn thiếp ngất chẳng hay biết điều gì đang sắp sửa xảy đến với mình. Ở vùng rừng Hắc Lâm khi ấy, nơi thượng du và cả vùng hạ bạn, không tuần trăng nào, dân chúng trong vùng không phải nộp mạng cho các ông hùm ở nơi đây.
Thật khác thường, trong ánh lửa giờ chỉ còn leo lét hắt ra những chùm sáng yếu ớt nơi chân mộ đất, ông hổ vàng khổng lồ to bằng hai con trâu mộng bỗng trườn thấp xuống rồi quỳ hẳn sát ngôi mộ. Hai sải chân móng vuốt được thu giấu ẩn tàng trong đám lông mịn như nhung xoãi thẳng về phía trước. Ông hổ khẽ lúc lắc chiếc bờm khoang trắng rũ rũ nhưng hạt sương đêm bám trên đó rồi đặt chiếc đầu khổng lồ lên hai sải chân chỉ cách cậu bé ba bốn thước. Trong ánh lửa xập xòe lúc mờ lúc lịm hẳn đi, hai giọt nước mắt hổ vàng – vị chúa sơn lâm từng gieo rắc bao kinh hoàng cho dân chúng khắp vùng se sẽ rịn ra, chảy qua hàng râu cọp trắng xóa rơi xuống đất.
Bên cạnh cậu bé đã thiếp ngủ từ lâu.
Ngược con đường đất dẫn tới chân núi Ông Hùm, vừa rảo bước dưới trời khuya lạnh, Từ sư phụ vừa ngẫm ngợi về phỏng đoán của mình. Khi lấp huyệt mộ Cù Nương, ánh mắt của tiểu tử Lý Bí đã rực lên rất lạ. Chắc chắn với cá tính khác thường ấy, tên tiểu tử đã tự một mình đến bên mộ mẹ cũng nên? Như thế quả là quá khác thường. Từ tấm bé, lão tăng đã linh cảm một điều gì đó rất đặc biệt của Lý Bí. Người cha Lý Cạnh mất khi cậu mới tròn năm tuổi khi ấy chỉ bặm môi không khóc. Năm tuổi đầu đã tự mình chống cây gậy tre đi lùi trước linh cữu người cha suốt chặng đường dài không hề vấp ngã cũng là một điềm lạ. Buổi sáng, khi chôn người đã khuất nơi huyệt mộ, ta đã linh cảm điều gì ghê gớm sẽ xảy đến khi thấy mộ huyệt đám tráng đinh đào bới chẳng được bao lăm hôm trước chỉ qua một đêm đã được đào sâu hoắm một cách khác thường. Xung quanh đầy vết chân cọp càng khiến mọi người lo lắng. Duy chỉ thứ tử Lý Bí không tỏ vẻ gì sợ hãi, cậu còn nhìn thẳng vào đám vết chân cọp in hằn trên nền đất mới với vẻ mặt thoáng đanh lại. Có lẽ nào cơ duyên run rủi cho Lý gia có bước khởi phát phi thường chăng? Hôm trước, khi ở với sư huynh, xem tuổi cho thứ tử Lý Bí ngài đã phán bảo sau này chắc chắn có sự khác thường.
Cứ thế, vừa miên man suy nghĩ, đôi bàn chân Từ sư phụ vừa thoăn thoắt ngược sương gió đêm đông hướng về phía núi Ông Hùm.
Còn cách vài chục bước chân, Lý sư phụ giật mình kinh động mấy lần dụi mắt nhìn kỹ cảnh tượng phía trước. Trong ánh lửa leo lét yếu ớt thi thoảng gặp gió khẽ bùng lên, một hình ảnh phi phàm như không có thực đập vào mắt vị sư trụ trì hương Cổ Pháp. Dưới chân ngôi mộ đất, thứ tử Lý Bí đã ngất thiếp gục hẳn xuống ngôi mộ. Ngay sát bên cạnh, một ông hùm bằng xương bằng thịt to lớn dị thường nằm phủ phục như đang canh giữ cậu chủ nhỏ. Không chút sợ hãi, Từ sư phụ khẽ khàng tiến đến sát đống lửa lặng lẽ quỳ xuống giở bị cói lấy chiếc mõ thân thuộc luôn theo sát bên mình đều đều gõ lên đó miệng lẩm nhẩm đọc kinh. Càng kỳ lạ hơn, ông hổ vàng vẫn nằm im không động cựa, chỉ cặp mắt bắt lửa xanh lét chập chờn hình như có giọt nước lăn ra khỏi hốc mắt. Phải rất lâu sau, trong tiếng mõ đều đều lốc cốc, ông hổ vàng từ từ ngấc đầu lên, thu hai sải chân đứng dậy, vặn tấm thân cuồn cuộn như sóng chậm rãi bước ngược vào rừng Hắc Lâm tối thẫm. Ông hổ vàng đi được một lúc, cậu bé gục xuống bên nấm mộ đất mới chợt giật mình thức giấc. Cảm giác được tiếng mõ cốc… cốc… cốc… đều đều quen thuộc, cậu bé mở mắt quay sang nhìn đống lửa chỉ thấy Từ sư phụ vừa gõ mõ vừa lầm rầm chậm rãi đọc kinh.
*
Một tuần trăng sau nơi sân chùa Cổ Pháp.
Hôm đó nhằm đúng ngày rằm tháng Chạp. Hương Cổ Pháp dân chúng đang tất bật chuẩn bị cho tết Nguyên Đán. Luôn mấy năm được mùa, dân trong vùng Cổ Pháp sung túc có của ăn của để. Các họ Lý, Đinh, Cù, Triệu, Bạch, Ma, Vững, Giàng, Khái… họ nào cũng có ngày chạp họ riêng nhưng đều thống nhất với nhau rằm tháng Chạp đều cử tộc trưởng họp mặt ở sân chùa Cổ Pháp. Ngày này hàng năm cũng là ngày Lý gia xuất tiểu tử vào tự khi vừa mười tuổi và đón tiểu tăng hoàn tục trở lại Lý gia trang khi tròn mười tám tuổi. Đây cũng là ngày trọng đại của Lý gia và cổ tự. Rằm tháng Chạp năm nay dường như báo hiệu một sự khác thường. Trong ngoài cổ tự đã được dân chúng quét tước sạch sẽ từ mấy hôm trước. Chiếc cầu ao nhỏ bằng tre ngâm nước bắc ra mặt ao chùa vươn lên mấy chiếc cọc tre hôm nay đã được điểm thêm hai chiếc đèn lồng nhỏ soi bóng xuống mặt ao buổi cuối đông se sắt trong veo. Trong sân gạch lát nghiêng nhuốm màu thời gian rêu phong ngôi cổ tự, hai dãy bàn gỗ thô mộc được kê nối vào nhau trên đặt những chiếc chung gỗ lớn sạch sẽ. Phía căn nhà gỗ nhỏ bên phải, tiểu tăng Tinh Thiều đang tất bật nấu nồi nước trà xanh nghi ngút khói. Khéo léo chuyên ra các giành tích đan bằng tre trúc bên trong chứa chiếc ấm gốm lớn, vị tiểu tăng mau chóng bê bốn chiếc giành tích chứa đầy trà lên đặt ngay ngắn trên hai dãy bàn gỗ cũng là lúc các lão trượng của các tộc họ Đinh, Cù, Triệu, Bạch, Ma, Vững, Giàng, Khái dẫn đầu là Lý trang chủ đẩy cánh cổng gỗ đĩnh đạc bước vào trong sân.
Hai mươi bảy tiếng chuông lần lượt vang lên, Từ sư phụ vận bộ cà sa màu tía trang nghiêm tay cầm gậy tổ truyền đĩnh đạc bước ra vái chào rồi thong thả nói:
– Thưa các bậc lão trượng cùng Lý trang chủ! Bần tăng hôm nay tuân theo đạo pháp của sư phụ làm lễ thu nhận đệ tử Phật gia. Phật tổ hoằng pháp cao thâm, ngài luôn độ trì cho muôn dân cùng với khắp mọi nhà hương Cổ Pháp đã hàng trăm năm cho đến nay mọi người đều yên ổn. Ngày nay, trong hương ấp ấm no đủ đầy cũng là do Phật tổ độ trì mà nên. Lý gia xưa nay luôn biết hướng tâm vun trồng gốc Phật, nối đời cúng dường Phật môn chưa bao giờ dứt. Lại biết sát cánh làm gương cùng các tộc Đinh, Cù, Triệu, Bạch, Ma, Vững, Giàng, Khái chăm lo mọi việc trong ngoài hương ấp. Nay Lý gia có sở cầu đưa thứ tử Lý Bí sớm xuất gia vào cổ tự tu tập. Sư phụ trước đều quy định phải mười tuổi mới được xuất gia, song lão tăng trộm nghĩ, gia cảnh Lý Bí hôm nay đã ở vào lúc mồ côi cả mẹ lẫn cha, việc sớm xuất gia cũng là thuận theo ý của Phật tổ. Dẫu là như thế, quy tắc không dễ gì dỡ bỏ mà phải được sự đồng thuận của chư vị. Nay trước Phật môn, đúng ngày trọng đại, lão tăng xin thỉnh thị ý kiến của các tộc xem có quyết cho Lý Bí được sớm xuất gia không?
Lời Từ sư phụ dứt đã lâu trong sân cổ tự mọi người vẫn im phăng phắc.
Mãi một lúc lâu, một lão trượng họ Cù cũng là trưởng tộc đồng thời là cụ bác ruột bên ngoại của Lý Bí thong thả đứng dậy vái khắp một lượt rồi run giọng xúc động nói:
– Kính thưa lão tăng trụ trì cổ tự! Kính thưa các vị lão trượng đại diện cho các tộc Lý, Đinh, Triệu, Bạch, Ma, Vững, Giàng, Khái có mặt hôm nay. Các tộc chúng ta, từ thời thượng cổ đều quây quần hướng về Lý gia, nối đời suy tôn họ Lý làm hương chủ Cổ Pháp. Từ xưa đến nay, họ Lý đều đồng cam cộng khổ với các tộc khác. Việc mất mát của họ Lý cũng là mất mát của các tộc họ trong hương. Ba cháu chắt về bên ngoại họ Cù chúng ta đau thương liên tiếp giáng xuống đầu khiến ai cũng thương xót. Nay gặp lúc phải rứt ruột đưa cháu chắt xuất gia để chúng sớm được tu tập cũng là phúc đức của Lý gia, của các tộc. Tổ tiên chúng ta đã dạy, sống ở đời không được câu chấp bảo thủ. Nay Lý gia đã quyết ý, các tộc khác đều bằng lòng để cho Lý Bí bảy tuổi được xuất gia vào chùa. Ta xin đại diện cho các tộc thỉnh với Từ sư phụ y nguyện cho.
Cù lão trượng nói chưa dứt lời đã có những giọt nước mắt rịn rơi xuống chòm râu bạc. Cậu bé Lý Bí mặt đầy biểu cảm đôi mắt không hề chớp nhìn thẳng vào Từ sư phụ, sát bên là Lý trang chủ cao to vạm vỡ khuôn mặt nghiêm trang.
Lặng yên một lát, Lý trang chủ mới thong thả tiến ra một bước thủ lễ bốn phía chậm rãi nói:
– Bạch Từ sư phụ! Kính thưa các vị trưởng lão, hương thôn. Lý gia ta đã mấy trăm năm ăn ở sinh sôi vùng đất này đều luôn tự răn mình phải lấy chữ nhân chữ đức làm đầu, luôn chân thành đoàn kết với các tộc họ khác cày cấy làm ăn. May mắn được các tộc suy tôn cho giữ chức hương trưởng luôn tự nhủ phải khiêm cung học hỏi, làm gương cho các tộc khác. Điều này các bậc lão trượng đều đã tận mắt nhìn thấy. Nay hiền huynh ta chẳng may mất sớm, để lại gánh nặng cho Lý mỗ nào dám lơ là. Ba đứa cháu ta, hai ba tuổi đã mất cha, sáu bảy tuổi đành lìa mẹ côi cút thật không gì đau đớn bằng. Hôm trước ta đã bạch với sư phụ cho trưởng tử Lý Hiền xuất gia nơi cửa Phật dưới chùa Long Đỗ nơi có sư huynh Đỗ Khuông trụ trì cũng đã dứt ruột một lần. Hôm nay, thứ tử Lý Bí mới vừa bảy tuổi đã quyết chí xuất gia theo Phật ta lại lần nữa rứt một khúc ruột khỏi thân mình. Còn đứa cháu út bốn tuổi ta đang cùng với gia nhân tự tay nuôi nấng chung với con ruột cũng ngày đêm không dám rời mắt. Lý gia có lời xin các tộc hãy cho phép Lý Bí xuất gia đầu phật, xin sư phụ dốc lòng rèn dạy để Lý gia có ngày được mở mặt mở mày ta có chết cũng không báo được hết ơn. Mọi chuyện xin sư phụ hãy định đoạt cho.
Lời Lý trang chủ còn chưa dứt, những chòm râu bạc lại rung lên rưng rưng xúc động. Từ sư phụ hiểu được tâm lý của mọi người, khẽ chống cây gậy tổ bước lên một bước nói:
– Lão tăng từng đi tu tập nhiều nơi song chưa thấy nơi đâu như hương Cổ Pháp, con người luôn ghi sâu đạo lý, đặt lễ nghĩa làm đầu cao hơn cả danh dự mạng sống như ở đây. Âu cũng là điềm mừng của vùng đất này. Các tộc họ ở đây người người khí khái, họ nào cũng biết nhường nhịn trước sau. Riêng với Lý gia không hổ là tộc dẫn đầu, luôn nêu gương chịu thiệt, tôn trọng tận cùng các tộc họ khác mới có được sự khăng khít môi răng như hôm nay. Việc Lý Bí bảy tuổi xuất gia cũng là một hysinh không nhỏ của Lý gia. Các bậc lão trượng, các vị hương thôn phụ lão hãy cứ an tâm giao việc này cho lão tăng mà giành nhiều tâm sức chỉ dạy đám tráng đinh trong họ ngoài thôn phải biết chăm chỉ việc cày cấy nông tang, mở mang săn bắn thuần dưỡng muông thú, lại phải dốc sức đẵn cây xẻ gỗ đóng nhiều thuyền bè mới được. Hương Cổ Pháp đã mấy trăm năm bền vững gốc rễ thì việc mở mang ra bốn phía cũng là lẽ thường. Sau này, con cháu các tộc họ Lý, Đinh, Cù, Triệu, Bạch, Ma, Vững, Giàng, Khái sẽ càng sum suê cành nhánh đi khắp năm con sông mười ngọn núi học hành tinh tấn mới là ao ước của tổ tiên các tộc họ cũng là ý nguyện của Phật tổ.
Lời Từ sư phụ nói đến đâu, như từ trong huyết quản, tâm khí, mạch máu rần rật chạy trong tim óc các bậc lão trượng hương thôn tới đó. Ai cũng muốn ngay lập tức nắm chặt bàn tay người bên cạnh, gắn kết thành một khối, chỉ dạy cháu con nghe theo những lời nói như chắt ra từ gan ruột của vị sư trụ trì cổ tự.
Từ ngày vào cổ tự, tiểu tăng Lý Bí cùng sư huynh Tinh Thiều miệt mài tu tập. Từ sư phụ vốn không chỉ đạo hạnh cao thâm, tính tình khoáng đạt mà còn giỏi y thuật, chữ nghĩa, đặc biệt các việc tầm tang canh cử, thổ mộc, lục nghệ, sư phụ đều rất tinh thông. 
Tiểu thuyết lịch sử Nam Đế Vạn Xuân
– Nam Đế Vạn Xuân – Tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai (hồi 1)
HỒI THỨ HAI 
Rời Kiến Khang, Tiêu Tư ôm chí lớn
Đến đất khách, Tinh Thiều học thi thư
 
Kinh đô Kiến Khang triều đại Lương Vũ Đế năm thứ mười ba.
Lương Vũ Đế tên tục là Tiêu Diễn, vị hoàng đế khai quốc của triều Lương thời kỳ Nam – Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Tiêu Diễn sinh năm Đại Minh thứ tám (464), đây là thời gian trị vì của Lưu Tống Hiếu Vũ Đế. Cha của Tiêu Diễn là Tiêu Thuận Chi, một trong những tướng giỏi của đại tướng Tiêu Đạo Thành. Họ Tiêu chính là hậu duệ của thừa tướng Tiêu Hà đời nhà Hán. Biết rõ biệt tài của Tiêu Thuận Chi, đại tướng Tiêu Đạo Thành đã tìm cách xin phong cho ông làm Lâm Tương huyện hầu, được làm tướng. Tiêu Diễn là con trai thứ ba của Tiêu Thuận Chi, vốn từ nhỏ đã thông minh đĩnh ngộ lại được học hành rất cẩn thận. Với biệt tài văn võ hơn người, chưa đầy hai mươi tuổi, Tiêu Diễn đã được đặc cách cho đi phụng sự việc đánh dẹp cùng với Ba Lăng vương Tiêu Tử Luân, con trai của Nam Tề Vũ Đế. Tiếp sau đó Tiêu Diễn phục vụ dưới quyền Vương Kiệm, một đại tướng lừng danh của nhà Nam Tề lúc bấy giờ. Ấn tượng trước tài năng văn võ của Tiêu Diễn, Vương Kiệm từng nói: Tiêu Diễn sẽ trở thành Thị trung trước năm ba mươi tuổi, sau đó sẽ dần dần có địa vị cao quý không thể nói được bằng lời. Cũng trong thời gian này, Tiêu Diễn kết giao với Cảnh Lăng vương Tiêu Tử Lương, một trọng thần đại tướng từng suýt đoạt được ngôi hoàng đế. Khi Tiêu Loan lật đổ hoàng thái tôn Tiêu Chiêu Nghiệp đã phong Tiêu Diễn làm tướng và phái đi trấn thủ thành Thọ Dương. Khi Tiêu Loan đăng cơ hoàng đế Nam Tề, Tiêu Diễn lại được phong làm Kiến Dương huyện Nam liên tiếp cầm quân Nam chinh bắc chiến giúp hoàng đế Tiêu Loan ổn định cục diện triều chính. Tiếp đó ông được tín nhiệm cử làm Thứ sử Ung Châu, nhận trọng trách trấn thủ thành Tương Dương và nắm giữ chức vụ này khi Nam Tề Minh Đế qua đời, con là Tiêu Bảo Quyển lên ngôi hoàng đế Nam Tề ở tuổi mười lăm (498), song quyền lực của vị hoàng đế trẻ tuổi theo lệnh vua cha trước lúc lâm chung đã bị kiềm chế bởi sáu vị đại thần.
Với tính tình hung bạo, hoàng đế Tiêu Bảo Quyển liên tục nghi kỵ và hãm hại các đại thần, tướng soái khiến triều chính vô cùng bất an. Với tài năng và tầm nhìn sâu sắc khác thường, Tiêu Diễn đã khôn khéo tự xây dựng thế lực của mình, kết giao với các Thứ sử, tướng lĩnh trẻ tuổi có thực lực trong triều ngoài biên, từng bước chuẩn bị cho việc đoạt ngôi báu.
Mùa xuân năm 502, khi Tiêu Diễn trên đường đưa hoàng đế Nam Tề trở về Kiến Khang, đến đất Cô Thục đã buộc hoàng đế phải ban thánh chỉ nhường ngôi cho mình kết thúc triều Nam Tề mở ra triều Lương đồng thời tự tấn phong là Lương Vũ Đế.
Lương Vũ Đế phong cho cựu hoàng đế Nam Tề tước hiệu Ba Lăng vương sau đó lập tức giết chết. Tuy nhiên với các hậu duệ cành nhánh Nam Tề Cao Đế và Nam Tề Vũ Đế, Lương Vũ Đế lại hết sức trọng dụng phân phong quan tước bởi ông cho rằng họ Tiêu xét cho cùng đều chung một gốc, đều là dòng dõi danh gia thế phiệt của nhà Hán. Bản thân Lương Vũ Đế là một người vô cùng tài giỏi cả hai đường văn võ, chính trị, bang giao. Bên ngoài hàng chục năm tự cầm quân đánh đông dẹp bắc mà trưởng thành. Bên trong khôn khéo tự gây dựng thực lực lên ngôi đế vị như trở bàn tay khiến người đời vừa kính sợ vừa tín phục.
Trong mười năm đầu trị vì, Lương Vũ Đế nhiều lần sai đại tướng đánh quân Bắc Ngụy khi thắng khi bại nhưng không có hao tổn lớn. Bên trong, Lương Vũ Đế chỉnh bị chính trị, khuyến khích dùng người hiền tài vào các vị trí chủ chốt, mở rộng giao thương, khuyến khích các nghề canh cửi. Những cải cách sâu rộng của ông khiến đất nước ngày càng cường thịnh.
Bấy giờ, ở Giao Châu, vùng đất trước đó nhà Tề từng phái các đại tướng giỏi chinh chiến xuống đánh dẹp đồng thời phong cho chức Thứ sử. Tề Minh Đế (494-498) sai đại tướng Lý Khải thay Phục Đăng Chi bấy giờ tuổi tác đã cao xuống Giao Châu làm Thứ sử. Lý Khải là người cơ mưu quyền biến, khi xuống Giao Châu đã mang theo tất thảy binh tướng bản bộ với dã tâm không nhỏ. Vùng đất phương Nam giàu khoáng sản tài vật lại xa cách kinh thành nhà Tề luôn tàng ẩn những dã tâm phản phúc của đám tướng soái. Dẫu đã biết trước như vậy, song nhà Tề khi đó đã rất suy yếu không còn gượng dậy được nữa, càng không thể tự ý điều khiển các Thứ sử ở nơi châu quận xa xôi. Chỉ bốn năm sau (502), khi Tiêu Diễn cướp ngôi Nam Tề cũng là lúc Lý Khải làm phản mưu đồ nghiệp riêng muốn hùng cứ phương Nam. Thấy rõ được dã tâm của đại tướng ngoài biên trấn cũng là tướng tài còn sót lại của nhà Nam Tề, Lương Vũ Đế một mặt củng cố ngai vàng một mặt cử đại tướng Lý Tắc phong làm Thứ sử Giao Châu đem quân bức hàng Lý Khải. Lý Khải không chịu khuất phục dàn quân huyết chiến với tướng Lương. Đánh nhau luôn mấy trận, do Lý Khải không được dân chúng Giao Châu ủng hộ, đám dân bản xứ đã đem hết thóc gạo dê ngựa giấu cả vào trong đầm lầy, rừng rậm khiến binh tướng của Khải cạn kiệt lương thực mà bị Lý Tắc bắt giết đi. Từ đó, Lý Tắc làm Thứ sử Giao Châu.
Khi đã yên ổn cục diện với nhà Bắc Ngụy, Lương Vũ Đế bắt đầu có thời gian để ý tới vùng đất Giao Châu. Được các mưu thần tin cậy hoạch định kế sách, Lương Vũ Đế cho gọi Vũ Lâm hầu Tiêu Tư, một tôn thất nhà Lương khi đó đang là trưởng sử vùng Vũ Lâm tới mật nghị riêng.
Tiêu Tư vốn dòng dõi tôn thất, từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, đa mưu túc kế, được người đời liệt vào hạng gian hùng. Lương Vũ Đế từ lâu muốn cử Tiêu Tư xuống Giao Châu, song trong bụng còn hồ nghi, sợ đưa Vũ Lâm hầu rời xa kinh thành sẽ khó bề chế ngự. Họ Tiêu khi đó chủ trì kiến lập nhà Lương song nội bộ vô cùng phức tạp. Các tướng họ Tiêu tranh giành quyền bính, đua nhau thoán đoạt không dứt khiến Lương Vũ Đế không khỏi không đề phòng. Nay đám mưu thần mật nghị Thứ sử Giao Châu Lý Tắc nhiều năm không chịu đưa của cải thóc gạo, vàng bạc châu báu, thợ giỏi gái đẹp về kinh đô Kiến Khang tấn hiến. Lương Vũ Đế nổi giận cho gọi Vũ Lâm hầu Tiêu Tư lập tức vào kinh lĩnh chỉ.
Nhận được thánh chỉ, Vũ Lâm hầu vội vã vào kinh.
Trong ngôi mật điện kinh đô Kiến Khang, Vũ Lâm hầu Tiêu Tư đứng ngồi không yên, lo lắng không biết hoàng đế triệu kiến mình có việc gì. Tự kiểm điểm lại công việc của mình, Vũ Lâm hầu không thấy có điều gì sơ suất. Biết rõ tính đa nghi của Lương Vũ Đế, luôn mấy năm nay, Vũ Lâm hầu đã biết tự gọt giũa che chắn bớt đi khả năng của mình, giả vờ giả tảng, chờ thời thế nên chưa để xảy ra chuyện gì khiến Lương Vũ Đế nghi ngờ. Còn đang tự vấn đã thấy cánh cửa lớn phía trước từ từ mở ra, Lương Vũ Đế mặc bộ đồ lụa vàng trong tẩm cung thong thả bước tới chính giữa điện.
Vũ Lâm hầu vội vã quỳ mọp xuống hô:
– Hoàng thượng vạn tuế! Hạ thần Tiêu Tư xin thỉnh an hoàng thượng!
Lương Vũ Đế dường như vừa mới từ Đồng Thái tự trở về, khuôn mặt không gợn chút ưu tư. Hoàng đế tiến tới ngồi trên chiếc long ngai. Luôn mấy năm nay, Tiêu Diễn đột nhiên rất chăm chỉ vào chùa lễ Phật. Có dạo, Tiêu Diễn vào ở hẳn trong chùa cả tháng liền khiến triều đình lo sợ phải đem tiền vào chuộc Lương Vũ Đế mới trở lại chủ trì triều chính. Biết rõ như vậy, Vũ Lâm hầu mới bớt phần sợ hãi nhưng vẫn phủ phục chưa dám ngẩng mặt lên.
Lương Vũ Đế lướt nhìn kẻ phủ phục dưới đất chậm rãi khẩu dụ:
– Tiêu Tư! Khanh hãy bình thân! Đây không phải buổi thiết triều, trẫm ban cho khanh được ngồi mà nhận mệnh.
Lời hoàng đế vừa dứt, bọn hoạn quan đã bê tới một chiếc kỷ nhỏ đặt chếch về bên trái đồng thời khiêng ra hai chiếc kỷ lớn hơn đặt sát vào bên phải long ngai nơi chính điện.
Cánh cửa phía trước lại từ từ mở ra, hai vị đại quan phẩm phục rực rỡ bước vào tiến tới trước long ngai quỳ tấu:
– Hoàng thượng vạn tuế! Chúng thần kính chúc hoàng thượng an khang!
Lương Vũ Đế tươi nhuần nét mặt khẩu dụ:
– Chu ái khanh! Từ ái khanh mau bình thân. Trẫm đang đợi các khanh đến để xin cao ý.
Khi đám quần thần yên vị, thái giám bưng trà ra đặt bên cạnh nhưng chưa ai dám động tới. Lương Vũ Đế thấy thế bèn khẩu dụ:
– Trẫm ban trà các khanh cứ tự nhiên. Trẫm cho gọi các khanh đến để tuyên chỉ Vũ Lâm hầu sớm thụ mệnh Thứ sử Giao Châu, thay trẫm dẫn binh đi hỏi tội phản thần Lý Tắc. Không biết các khanh còn có cao ý gì không?
Lời Lương Vũ Đế đã dứt từ lâu, trong mật điện vẫn im phăng phắc.
Một lúc, Tiêu Tư mới từ từ đứng dậy thủ lễ run giọng nói:
– Hạ thần bất tài xin liều chết phụng mệnh hoàng thượng!
Vũ Lâm hầu vừa dứt lời, đại thần Chu Xả, một trong hai trọng thần cùng với Từ Miễn rất được Lương Vũ Đế tin dùng đứng ra thủ lễ nói:
– Hoàng thượng thánh minh! Tên Lý Tắc ở Giao Châu đã từ lâu có bụng làm phản triều đình. Luôn mấy năm nay, y ngang ngược tấu triết về triều cả hai đường thủy bộ giặc cướp hoành hành không thể chuyên chở tài vật về Kiến Khang được. Nói thế khác gì y cho rằng Lương triều bất an bất tài không trị nổi đám giặc cỏ. Nay trong bụng y đã nảy sinh dã tâm muốn hùng cứ phương Nam. Hôm trước, hạ quan đã xin với hoàng thượng cho Vũ Lâm hầu chức Thứ sử Giao Châu, cũng là mong Vũ Lâm hầu thay hoàng thượng hỏi tội Lý Tắc, vỗ về đám man di vậy.
Lời Chu Xả vừa dứt, đại thần Từ Miễn đứng dậy vuốt chòm râu bạc thi lễ tâu:
– Bẩm hoàng thượng! Cứ như ý của hạ thần, việc Vũ Lâm hầu dẫn binh xuống Giao Châu bắt bọn phản thần Lý Tắc, giáo hóa man di không chỉ tỏ rõ ân uy của Lương triều mà còn là dịp để triều đình trưng tập lương thuyền, gom góp thợ giỏi về Kiến Khang dựng đại điện cho hoàng thượng mau thành đế nghiệp. Vũ Lâm hầu tuổi trẻ chí lớn, xông pha hòn tên mũi đạn cũng là dịp để tôn thất Tiêu thị khẳng định tài năng của mình. Bọn Bắc Ngụy, Thổ Dục Hồn, Nhu Nhiên xưa nay vẫn cho rằng dòng tộc Tiêu thị chỉ quanh quẩn ở Trung Nguyên, nay Vũ Lâm hầu cầm trọng binh dẹp loạn man di phương Nam là dịp thể hiện khí phách của Tiêu thị vậy.
Thấy hai viên đại thần thân cận nói những lời khiến Lương Vũ Đế đẹp ý, Tiêu Tư không khỏi mừng thầm trong lòng. Xưa nay, sống gần vua như gần hổ, không biết mưa nắng thế nào. Dẫu rằng thời gian gần đây, Lương Vũ Đế đột nhiên tôn sùng đạo Phật, bản thân hoàng thượng rất chăm chỉ tới Đồng Thái tự lễ Phật, song mọi lo xa đều không thừa. Hoàng thượng nghe theo hai sủng thần Chu Xả và Từ Miễn quyết đẩy Lâm Vũ hầu ta xuống Giao Châu cũng là mở ra một phương trời mới cho Tiêu Tư ta vậy. Giao Châu tuy ở vào nơi cuối đất cùng trời song cư dân đông đúc, tài vật dồi dào, nhiều rượu ngon lắm gái đẹp lại cách xa Kiến Khang đến ngàn dặm cũng là nơi để ta thỏa chí anh hùng. Mai kia, vạn nhất binh tướng Bắc Ngụy huyết chiến với Lương triều thì chính là kế xa thành khỏi bị vạ lây. Còn như chẳng may Lương triều thất thủ, ta ở Giao Châu cũng đã là vua một nước, kẻ nào làm chủ Trung Nguyên cũng phải vỗ về ta. Cuộc đi lần này, bề ngoài các đại thần Lương triều tưởng dồn ta vào vùng đất khó song cũng là mở ra cho Tiêu mỗ thực hiện hùng tâm tráng trí của mình. Ở kinh thành, nhất cử nhất động của ta đều bị triều đình giám sát nghiêm ngặt. Trong triều thì soi xét nghi kỵ. Bên ngoài các tướng soái luôn gầm ghè giữ miếng cũng là cảnh cá chậu chim lồng mà thôi.
Vừa suy nghĩ trước sau, Vũ Lâm hầu vừa mạnh dạn đứng ra thủ lễ nói:
– Hoàng thượng thánh minh! Các vị đại thần thật có ơn sâu đã chỉ cho Tiêu Tư con đường sáng. Hạ thần đội ơn hoàng thượng cùng các vị đại nhân quyết bắt giết Lý Tắc, nêu cao ân điển của hoàng thượng ở Giao Châu.
Lương Vũ Đế bấy giờ bèn khẩu dụ:
– Tiêu ái khanh chớ quá lo lắng! Trẫm đã cho chuẩn bị binh lương đầy đủ để nay mai khanh thay trẫm thảo phạt Lý Tắc, vỗ về đám man di ở Giao Châu. Mọi việc còn có khó khăn gì, khanh hãy bàn bạc với Chu Xả và Từ Miễn. Trẫm đang trong tháng Phật đản, không tiện nói nhiều đến việc binh nhung. Mọi việc các khanh cứ theo ý trẫm là được.
Lời Lương Vũ Đế còn chưa dứt, ba vị quan nhân đưa mắt nhìn nhau ý chừng hẹn đến phủ riêng bàn bạc. Lương Vũ Đế nói xong rũ tay áo đứng dậy đi thẳng vào bên trong không nói thêm lời nào nữa. Đám đại thần đợi hoàng đế khuất dạng mới từ từ đứng dậy.
Hai vị đại thần tiến tới trước mặt Vũ Lâm hầu nói:
– Xin chúc mừng Tiêu đại nhân, chúc mừng Tiêu Thứ sử Giao Châu.
Lâm Vũ hầu Tiêu Tư chỉ biết cung kính đáp lễ.
*
Phủ đệ Vũ Lâm hầu Tiêu Tư ở Kiến Khang.
Bấy giờ, Lương triều vẫn đặt ra lệ các phủ đệ bọn Thái thú, trưởng sử, quan lại trong ngoài triều dã thường được đặt trong thành Kiến Khang. Đây cũng là mưu kế của đám đại thần hiến cho Lương Vũ Đế nhằm khống chế gia tộc vợ con quan lại tướng soái Lương triều. Nhiều vị bất bình song chưa ai dám công khai nói trong lúc nghị chính bởi quá biết tính nết đa nghi của Lương Vũ Đế.
Trở về từ ngôi mật điện, Vũ Lâm hầu vội cho triệu kiến thủ hạ tâm phúc tới thương nghị. Tiêu Tư bấy giờ cũng đã biết che chắn thực lực nên đám môn khách được tuyển chọn kỹ lưỡng lắm. Phủ đệ của Vũ Lâm hầu nằm khiêm nhường phía xa góc Tây Bắc thành Kiến Khang. Trước khi tới mật nghị trong cấm điện, Vũ Lâm hầu đã cố nén lo lắng căn dặn đám thủ hạ nếu có mệnh hệ gì tuyệt đối không được kêu oan làm loạn mà nhất nhất vâng theo thánh chỉ của hoàng thượng. Liên tiếp trước đó xảy ra mấy vụ tướng lĩnh đại thần đột ngột bị Lương Vũ Đế gọi vào mật điện tuyên tội giết cả nhà khiến bọn tâm phúc của Vũ Lâm hầu không khỏi sợ hãi. Nay thấy chủ nhân điềm nhiên trở về với vẻ mặt phấn chấn, các võ tướng tâm phúc Mã Phương, Thạch Đạt và hai vị mưu thần Lưu Thạo, Chu Liêm vội ra đón chủ nhân.
Khi đã yên vị trong phòng khách kín, nhìn vào vẻ mặt phấn chấn của Tiêu Tư, mưu thần Lưu Thạo nhanh nhẹn tiến ra nói:
– Tại hạ xin chúc mừng Vũ Lâm hầu mới được tấn chức! Ngài tuổi còn trẻ lại sớm được hoàng thượng tin dùng, sau này tất có đại nghiệp sử sách lưu danh. Xin chúc mừng!
Thấy khuôn mặt Vũ Lâm hầu càng nhuận sắc, mưu thần Chu Liêm lập tức cung kính chúc:
– Xin chúc mừng chủ nhân phúc lớn lộc lớn! Đám hạ quan theo chủ nhân cũng được mở mặt mở mày, thật không uổng công dùi mài kinh sử.
Hai viên võ tướng thấy hai vị quan văn đột ngột tiến ra chúc mừng còn chưa hiểu đầu đuôi câu chuyện. Chỉ thấy Vũ Lâm hầu tươi cười đón nhận lời chúc, còn việc thụ phong chức tước chưa biết thế nào đã thấy Vũ Lâm hầu đứng dậy thong thả nói:
– Là phúc không là họa. Là họa không tránh được. Hoàng thượng nghe theo hai vị đại thần vừa mới truyền chỉ phong ta làm Thứ sử Giao Châu. Ở nơi cuối đất cùng trời ấy không biết liệu có giữ được mạng sống mà trở về hay không? Đã là chỉ dụ của hoàng thượng, ta chỉ biết liều mạng nhận mệnh. Nay các ngươi có cao kiến gì hãy cứ nói thẳng ra.
Căn phòng chợt trở lên ắng lặng. Xưa nay vẫn nghe đồn Lương Vũ Đế dùng người rất khó lường, nhưng việc định quan đặt tước, thay đổi tướng soái của hoàng đế đều vô cùng vi diệu. Các đại thần chiến tướng được bổ nhiệm đều sớm lập đại công. Cũng không ít người lập công vẫn rơi vào chết thảm khiến nơi triều dã các triều thần luôn cẩn thận giữ mình. Nay Lương Vũ Đế đột ngột phong chức tước cho Tiêu Tư họa phúc quả là khó đoán.
Thấy hai viên quan văn còn do dự, võ tướng Thạch Đạt rướn cặp lông mày rậm rì nói lớn:
– Bẩm Vũ Lâm hầu! Tại hại nhiều năm theo ngài vào sinh ra tử nào có tiếc gì mạng sống. Nay ngài tuổi trẻ chí lớn lại đúng lúc được hoàng đế tin dùng còn gì bằng. Vẫn biết xứ Giao Châu man di mọi rợ nhưng cũng là vùng đất tài vật dồi dào. Nay ở Trung Nguyên cát cứ tranh hùng, quanh năm giao chiến với bọn Bắc Ngụy, Thổ Dục Hồn, Nhu Nhiên… mạng sống đám tướng sĩ chúng tôi cũng chỉ như giọt sương treo trên đầu ngọn cỏ. Việc ngài nhận mệnh dẫn trọng binh xuống phương Nam chính là ý trời. Mạt tướng tuy bất tài, xin nguyện được làm tiên phong đánh xuống Giao Châu.
Thấy Thạch Đạt hăng hái mở lời, võ tướng Mã Phương lập tức đứng dậy nói lớn:
– Mạt tướng xin được cùng với Thạch tướng quân dẫn binh xuống phương Nam theo hầu Thứ sử đại nhân!
Vũ Lâm hầu Tiêu Tư thấy đám văn võ thuộc hạ tâm phúc đều đồng lòng theo mình trong bụng cả mừng nhưng vẫn dè dặt nói:
– Việc binh là việc hiểm. Xưa nay chiến chinh ngàn dặm người đi có mấy kẻ về. Ta được các vị đồng lòng giúp sức quả là không uổng mối giao tình từ trước. Mọi việc từ nay phải hết sức cẩn thận mới được. Nay ta giao cho hai tiên sinh Lưu Thạo, Chu Liêm mau chóng thu xếp lụa là vàng bạc để ta tới phủ hai vị đại thần Chu Xả và Từ Miễn. Hai vị đã cố sức xin cho ta xuống trị nhậm Giao Châu chắc hẳn có đại kế vẹn toàn bước đường sau này. Mai kia, việc binh lương lợi hại có phải bẩm báo triều đình đều nhất nhất phải qua hai phủ Chu-Từ trước mới được. Còn như việc điểm binh chọn tướng, ta giao cả cho hai vị tướng quân đây. Các tướng hãy nhớ, nay mai hành binh xuống Giao Châu, tuyệt nhiên không được lấy việc đánh giết làm đầu mà phải biết dùng mưu lược, phải biết che kín bớt thực lực của mình mới có thể đứng vững nơi đất khách. Lý Tắc kia tài văn tài võ không phải kém sút ta đâu, song hoàng thượng đã sớm có kế trừ khử y từ lâu rồi. Ta đồ rằng giờ khắc này Lý Tắc cùng đám bộ hạ có khi đã hồn lìa khỏi xác rồi. Việc dùng kế hiểm thay ngựa giữa dòng xưa nay hoàng thượng làm kín nhẹm lắm. Các ngươi hãy dốc lòng vào việc trị nhậm lũ man di mọi rợ đất Giao Châu ta mới đặng an lòng.
*
Phủ đệ đại thần Từ Miễn.
Buổi tối, phía Tây thành Kiến Khang từng dãy đèn lồng hắt ánh sáng lung linh khắp đường phố. Phía tây cũng là các khoảnh đất dành cho các đại thần Lương triều xây phủ đệ. Bản thân Lương Vũ Đế rất công tâm trong việc phân phong đất đai phủ đệ cho các sủng thần. Thời gian đầu Lương triều khai quốc, Lương Vũ Đế rất tin dùng hai đại thần Chu Xả, Từ Miễn. Tuy Lương triều khi đó không thực hiện chế độ Thừa tướng, song tiếng nói và vị thế của Chu Xả, Từ Miễn luôn có sức nặng như tả, hữu Thừa tướng vậy.
Vũ Lâm hầu Tiêu Tư cùng Lưu Thạo, Chu Liêm với bốn tên gia nhân mang theo đám hòm xiểng dừng chân trước cánh cổng gỗ lớn phủ đệ quan đại thần Từ Miễn. Phải đợi khá lâu cánh cổng mới từ từ mở ra. Vượt qua khoảng sân rộng tới trước phòng khách lớn, đám người dừng lại đã thấy đại quan nhân Từ Miễn phẩm phục uy nghiêm dang tay có ý đón mời vừa nói:
– Lão phu từ chập tối thấy chim khách cứ kêu rối rít, biết sắp có khách quý. Không ngờ lại là Tiêu Thứ sử. Xin mời ngài vào trong tệ xá dùng trà.
Vũ Lâm hầu Tiêu Tư ra hiệu cho bốn tên gia nhân khiêng mấy chiếc hòm xiểng sang gian nhà gỗ phía sau đoạn thong thả vái chào Từ Miễn:
– Hạ quan được Từ lão bá không ngại tài sơ đức mỏng tuổi trẻ non nớt mà tấu xin hoàng thượng cất nhắc mới có được phúc phận ấy. Nay hạ quan vâng mệnh hoàng thượng chuẩn bị lên đường, mạo muội đến phủ đệ trước là cảm tạ lão bá, thứ nữa xin được chỉ dạy cho công cuộc sau này.
Từ Miễn vuốt chòm râu bạc nhìn thẳng vào Vũ Lâm hầu cùng với Lưu Thạo, Chu Liêm, đoán chừng là các mưu thần của họ Tiêu bèn thong thả nói:
– Đại Lương ta, xưa nay anh hùng xuất thiếu niên. Thánh chỉ phong Vũ Lâm hầu làm Thứ sử Giao Châu là ý của hoàng thượng chứ riêng gì công của lão phu. Có điều Vũ Lâm hầu đi chuyến này, đường xa vạn dặm, cách biệt kinh thành, tuy là làm chủ một phương nhưng phải nhớ gương các Thái thú ngày trước mà tạo lập ân uy của hoàng thượng với đám man di. Lại phải biết sớm vận chuyển tài vật của cải về Kiến Khang mới đẹp lòng hoàng thượng, lúc đó lão phu mới không mang tội.
Tiêu Tư thầm nghĩ trong bụng lão hồ ly già này với Chu Xả cứ như đi guốc ở trong bụng ta, lại sớm đe noi Tiêu mỗ. Tiến cử bày kế cũng là ngươi, giật dây cảnh báo Tiêu mỗ cũng là các ngươi cả. Ta ngặt nỗi thế lực còn quá mỏng lại bị kẹt giữa hoàng thượng và đám quyền thần chỉ còn biết vâng mệnh mà thôi.
Tiêu Tư mặt đầy biểu cảm thi lễ nói:
– Xin đa tạ lão bá đã chỉ dạy. Mạt tướng đi chuyến này cha mẹ gia quyến, của cải nhà cửa, mọi sự ở kinh thành đều mong lão bá giúp đỡ cho. Mạt tướng nguyện muôn chết vì Lương triều, vì lão bá. Có hai vị tiên sinh đây đi cùng giúp sức, mai kia mọi tấu triết đều được xin chuyển trước tới phủ lão bá để lão bá định liệu giúp cho.
Từ Miễn cười rung chòm râu bạc ý chừng vừa lòng lắm bèn nói ngay:
– Ấy chớ! Các tiên sinh đây giúp Tiêu Thứ sử việc văn bút tấu triết ở Giao Châu phải biên chép thành hai bản, một gửi triều đình, một bản gửi trước cho lão phu là được. Cũng là để lão phu sớm có định liệu mà nói giúp mọi bề với hoàng thượng cho.
Vũ Lâm hầu cùng hai thuộc hạ tỏ vẻ thành kính lắng nghe một lát cả ba cáo từ rời khỏi phủ. Ngoài trời đèn hoa rực sáng, khu phủ đệ Từ đại nhân như một tòa thành nhỏ lung linh.
*
Phủ đệ đại thần Chu Xả.
Vẫn với cung cách ấy, Vũ Lâm hầu Tiêu Tư cùng với Lưu Thạo, Chu Liêm mang theo đám gia nhân cùng hòm xiểng lọt vào bên trong cánh cổng uy nghiêm có lính canh suốt đêm ngày. Lại những lời đội ơn mưa móc, hứa cúc cung tận tụy. Lại những hòm vàng bạc lụa là được đám gia nhân khiêng vào căn nhà gỗ phía sau. Lại những lời răn dạy của vị lão bá họ Chu quyền lực nghiêng triều. Cuối cùng, cánh cửa gỗ lại mở ra, Vũ Lâm hầu Tiêu Tư dẫn đầu đoàn người lặng lẽ bước trên con đường đèn hoa rực rỡ trở về phủ của mình.
Ngoài trời khuya, tiếng tên lính cầm chiếc đèn lồng đi tuần rao đều đều trên đường phố:
– Tiết trời hanh khô! Cẩn thận củi lửa!
*
Hương Cổ Pháp mùa đông năm 516.
Sau cái chết của Cù Nương, trang chủ Lý Khang theo sự chỉ bảo của Từ sư phụ cùng tráng đinh các dòng họ trong hương không quản ngày đêm chia nhau lên rừng đẵn cây kéo về Đầm Bạch Long xẻ gỗ đóng thuyền. Nhiều năm liên tiếp được mùa, thóc gạo khoai sắn đầy bồ đầy kho chỉ đợi đám thương thuyền dưới xuôi đem sắt, đồng, dầu, muối lên đổi lấy. Họ Cù họ Bạch họ Đinh vốn thành thạo săn bắn đã được Lý trang chủ giao cho lập phường săn vào rừng Hắc Lâm vừa săn bắt muông thú vừa có ý canh chừng đám hổ báo luôn mấy năm táo tợn xuống tận thôn xóm bắt trâu bò còn dám bắt thịt cả người trong thôn. Do chăm chỉ làm lụng, lại được dẫn dắt bởi các tộc họ đứng đầu là Lý tộc, hương Cổ Pháp ngày càng trù mật đông đúc rộng mở mãi lên. Đội thuyền Đầm Bạch Long đã lên tới gần trăm chiếc ngày ngày được đám tráng đinh vừa thi nhau học bơi lặn, chèo thuyền, chuyển hàng, sửa bến, vừa thăm dò các luồng lạch mãi xuống tận cuối nguồn Câu giang, Dã giang. Những là vụng nước nông sâu, phàm là dòng xuôi dòng ngược, Lý trang chủ đều cho đo vẽ biên chép rõ ràng. Ngay như kinh nghiệm đi đường sông của đám thương thuyền dưới xuôi lên trao đổi sản vật, Lý trang chủ cũng mời họ giảng giải để đám tráng đinh thêm hiểu về sông nước. Họ Lý lại cho làm kho nổi ở trên những chiếc bè lớn phòng khi nước lên cao cũng không hề hấn gì. Bởi vậy suốt đêm ngày, bến sông Đầm Bạch Long nhộn nhịp tấp nập lắm.
Buổi sáng dưới chân núi Ông Hùm nơi bìa rừng Hắc Lâm.
Tuy là tiết giữa đông, song hôm nay trời hửng sáng và khá ấm. Con đường đất ngoằn ngoèo dẫn từ xóm trại thôn ngoài hương Cổ Pháp tới bìa rừng Hắc Lâm một ngả rẽ vào núi Ông Hùm luôn mấy ngày được dọn dẹp khá phong quang. Mỗi dịp mùa đông chuẩn bị đón tết Nguyên Đán cũng là ngày Lý gia sắp đặt làm giỗ cho Lý Cạnh và Cù Nương. Các tộc họ Đinh, Cù, Triệu, Bạch, Ma, Vững, Giàng, Khái đều cắt cử người dọn dẹp cây cối, sửa sang con đường mòn dẫn ra núi Ông Hùm. Từ ngày tận mắt thấy phần mộ kết phát của Lý gia ở nơi đây, các tộc họ hương Cổ Pháp càng dành nhiều sự kính trọng với họ Lý. Tiếng đồn lan xa, đám thương khách dưới Đầm Bạch Long ngày rỗi rãi chờ đợi chuyển hàng đã xin với Lý trang chủ lên thắp hương vừa để tận mắt chứng kiến ngôi mộ kết phát. Đã hơn ba năm, phần mộ của vợ chồng Cù Nương ngày càng cao dày mãi lên mà tuyệt không thấy dấu vết bồi đắp mới nào từ bên ngoài. Cỏ cây xanh miên man trải dài khắp xung quanh hai ngôi mộ bây giờ đang dần gom thành một đỉnh. Hai thanh đá lớn dựng thẳng đứng đề danh phần mộ cắm chắc xuống mặt đất hoa cỏ cũng tràn cả xung quanh càng khiến thêm vẻ cổ kính. Liền kề đồi mộ, Lý trang chủ cho trồng hẳn một vạt tùng lấy giống từ rừng núi Tam Ngai cũng đã lên cao đến hai ba đầu người. Cây nọ đan cành tán vào cây kia khăng khít lắm.
Trên con đường đất phong quang, hai tiểu tăng Tinh Thiều và Lý Bí vừa đi vừa trò chuyện. Tinh Thiều khoác giỏ trái cây lớn, giơ tay chỉ về phía bìa rừng Hắc Lâm nói:
– Tiểu sư đệ! Thế cũng đã gần bốn năm đệ xuất gia rồi. Hôm nay tảo mộ song thân, đệ có điều gì muốn nói với cha mẹ chăng?
Tiểu tăng Lý Bí sau mấy năm đã cao vổng lên suýt soát bằng sư huynh hai vai khoác đồ cúng tế thong thả đáp:
– Thưa sư huynh! Tiểu đệ chẳng may sớm mồ côi xuất gia vào cửa tự được sư phụ và sư huynh hết lòng chỉ dạy chẳng có mong muốn gì lớn. Chỉ mong ước sao cha mẹ còn sống để đệ được vài phần phụng dưỡng không mang tiếng là kẻ bất hiếu là may mắn lắm rồi. Ao ước đó giờ chỉ có nằm mơ mà thôi.
Thấy Lý Bí chợt xúc động khi nhớ về cha mẹ đã khuất, Tinh Thiều không khỏi mủi lòng ngẫm ngợi nói:
– Ta nào có hơn gì sư đệ! Cha mẹ ta cũng đã khuất núi từ lâu còn không biết mộ phần nằm ở nơi đâu. May được sư phụ đưa về nuôi dạy. Nay thôi thì ta xin phép cứ coi mộ phần song thân sư đệ như mộ phần phụ mẫu của ta mà tưởng nhớ ơn đức trời biển sinh thành. Ta cũng đến tuổi sắp rời tự, mai đây góc bể chân trời chưa biết còn mất ra sao. Mong đệ ở cổ tự chăm sóc sư phụ, hàng năm hương khói cho song thân cũng là để ta ấm lòng trong bước ra đi vậy.
Tiểu tăng Lý Bí thấy sư huynh đột nhiên xúc động nói những lời tự đáy lòng chợt dừng chân ứa hai hàng lệ nói:
– Tiểu đệ biết được chí lớn của sư huynh cao rộng khác người. Đệ ngặt vì tuổi còn nhỏ, theo gia pháp họ Lý chưa thể cùng sư huynh xuất sơn thật là đáng tiếc. Chỉ mong sư huynh sớm thỏa được chí bình sinh của mình, gây dựng phúc trạch dồi dào, cứu khốn phò nguy được rộng khắp muôn nơi, khi ấy đệ cũng thêm phần rạng rỡ.
Nói tới đó, hai vị tiểu tăng đã bước tới trước hai ngôi mộ đất giờ đã sừng sững dưới chân núi Ông Hùm. Cả hai lặng lẽ dọn sạch vạt cỏ phía trước ngôi mộ, sửa sang lau dọn phiến đá lớn chuyên để bày hương hoa oản quả, sắp đồ cúng lễ đoạn cùng nhau rót nước thắp hương rất thành kính.
Trên nền trời chan hòa ánh sáng, ngay nơi bìa rừng Hắc Lâm chim chóc nhảy nhót đùa giỡn yên bình, hai thiếu niên anh tuấn vận bộ đồ vải nâu, đầu chít khăn vàng, chân đi giày cỏ quỳ trước hai nấm mộ. Tiếng mõ lốc cốc vang lên đều đặn. Những câu kinh trong vắt như suối nguồn thể hiện tấm lòng thơm thảo của hậu nhân tưởng nhớ ơn đức bậc sinh thành. Những làn gió nhẹ lao xao vẫy lá cây rừng. Một lúc lâu, khi ở giữa con đường đất loáng thoáng bóng người tiến dần ra phía mộ hai vị tiểu tăng từ tốn thu cặp mõ để vào chiếc bị cói tùy thân đứng dậy còn nhìn mãi vào hai phiến bia đá hồi lâu mới chầm chậm cất bước về ngôi cổ tự.
Từ ngày vào cổ tự, tiểu tăng Lý Bí cùng sư huynh Tinh Thiều miệt mài tu tập. Từ sư phụ vốn không chỉ đạo hạnh cao thâm, tính tình khoáng đạt mà còn giỏi y thuật, chữ nghĩa, đặc biệt các việc tầm tang canh cử, thổ mộc, lục nghệ, sư phụ đều rất tinh thông. Thường ngày, sư phụ chỉ dạy cho hai học trò người nào việc nấy không ngơi tay. Thông qua từng việc nhỏ, sư phụ luận bàn vào đời vào đạo rất sâu sắc. Sau đêm chứng kiến ông hùm phủ phục bên mộ đất Cù Nương, sư phụ cứ ngẫm ngợi vân vi mãi. Việc huyền diệu ở trong đời, sư phụ đã chứng kiến không ít nhưng việc hổ rừng cam tâm phủ phục trước cậu bé bảy tuổi chắc chắn phải có một bí ẩn khác thường nào đó. Dòng họ Lý đã mấy trăm năm tu nhân tích đức, giúp rập dân chúng hương Cổ Pháp ắt hẳn trời đất đã cảm động phái cọp vàng xuống báo ra điềm lạ chăng? Lại thấy tiểu tăng Lý Bí tuy còn nhỏ song dung mạo khác thường, tay dài mặt lớn, mũi rộng tai vuông rất có khí độ của bậc anh hùng. Cứ xem tính khí dẫu còn nhỏ tuổi đã thâm trầm khác hẳn trẻ đồng niên khác. Tiếc là tiểu tăng sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ, đường đời sau này chưa biết run rủi ra sao? Hôm Đỗ Khuông sư huynh có ý bảo ta đất Cổ Pháp sớm muộn cũng sinh hào kiệt hay là ứng vào tiểu tăng này chăng? Thiên cơ thật khó đoán nhưng việc tu nhân tích đức hành đạo làm việc thiện ở đời không thể vì dễ dàng hay khó khăn mà dừng ngang được. Tiểu tăng Tinh Thiều năm nay đã tròn mười tám tuổi. Trí tuệ, đức độ của Tinh Thiều cũng không hề kém ta ngày trước. Dường như mảnh đất hương Cổ Pháp đang tàng ẩn những điều kinh thiên động địa mà ta không biết hết được.
Ngồi trên chiếc ghế gỗ trong chùa, Từ sư phụ nhìn lên bài vị của các vị tổ sư miên man suy nghĩ mọi công việc trong ngoài cổ tự.
Bên ngoài, tiết trời mùa đông nhưng không hiểu sao mấy ngày nay trời rất ấm và sáng. Dường như trời đất cũng hân hoan khi dân chúng hương Cổ Pháp đã hàng chục năm yên ổn thái bình. Nghe sư phụ kể ngày trước, thi thoảng đám quan quân nhà Tề từ tận thành Gia Ninh, Long Biên, Cổ Loa theo đường thủy bộ đến tận đây cướp phá, bắt đi nhiều trai tráng, hãm hiếp phụ nữ, giết chóc người già trẻ con rất tàn bạo. Sau các vị sư phụ đã phải vận động toàn bộ phụ lão hương thôn Cổ Pháp giấu sẵn lương thực. Mỗi khi quan quân tới đầu Đầm Bạch Long tất cả khua chiêng trống báo động bế ẵm nhau trốn sạch vào rừng rậm đợi lũ quan quân kéo đi mới trở về hương thôn. Luôn nhiều lần như thế, đám quan quân nhà Tề thấy cũng chẳng cướp phá được gì không quay trở lại nữa dân chúng Cổ Pháp mới được yên ổn. Sau này bọn thuộc tướng của Lý Khải, tiếp đến là Lý Tắc của Lương triều cũng chẳng thèm nhòm ngó tới vì chúng cho rằng đây là vùng đất hoang dã, động tí dân chạy sạch vào rừng ở như loài muông thú chẳng có của cải gì đáng giá. Ở hương Cổ Pháp, mọi công to việc lớn các họ tộc đều nhất nhất theo lời sư trụ trì và Lý gia. Xưa nay, các tộc Đinh, Cù, Triệu, Bạch, Ma, Vững, Giàng, Khái theo tập tục riêng ít khi cho con cháu còn nhỏ xuất gia đầu Phật. Tuy vậy, các tộc họ đều dốc lòng thờ Phật và mời trụ trì tới giảng pháp. Bởi vậy, cổ tự dẫu vắng lặng do ít tiểu tăng song pháp độ vẫn được duy trì tận nơi thôn cùng xóm vắng. Thường buổi sáng, sư trụ trì và một tiểu tăng tới các dòng họ trong thôn giảng pháp. Từ khi có thêm Lý Bí, họ Lý thường được Từ sư phụ cho gọi theo bên mình. Tinh Thiều từ ngày có thêm sư đệ càng tỏ ra mẫu mực chín chắn, mọi việc lớn nhỏ trong tự đều hết sức chỉ bảo kỹ lưỡng cho tiểu đệ. Thấy hai đồ đệ khăng khít với nhau, Từ sư phụ trong bụng rất mừng. Cùng sư môn đồng đạo, cái gốc vững bền trước tiên là kết đoàn kiêm ái. Đã nơi cửa Phật, mọi suy nghĩ phải đến tận gốc rễ mới mong hoằng pháp thu phục nhân tâm.
Ngoài sân tự, hai vị đồ đệ đang khoác tay nhau chỉ trỏ về phía rừng Hắc Lâm như đang tranh luận điều gì. Thoáng thấy bóng sư phụ ngồi trong trai phòng, Lý Bí và Tinh Thiều thong thả tiến vào thủ lễ:
– Bạch sư phụ! Chúng tiểu tăng theo lệnh sư phụ đem hương hoa oản quả tới khu mộ núi Ông Hùm đã tụng đủ mười sáu bài kinh sư phụ dạy. Dọc đường còn gặp các vị hương thân phụ lão tới thắp hương ở đó. Cả hai ngôi mộ năm nay mối đùn cao hơn mấy năm trước nhiều lắm. Không biết đó là điềm gì xin sư phụ chỉ dạy.
Đợi hai học trò ngồi yên trên ghế gỗ uống xong bát trà xanh nóng trong giành tích, Từ sư phụ mới thong thả dạy:
– Tinh Thiều, Lý Bí! Luôn mấy năm gần gũi, ta cũng chưa chỉ bảo được nhiều cho các con. Song ta thấy các con vốn thông minh đĩnh ngộ, học đâu biết đấy. Đặc biệt Tinh Thiều theo ta đã mười năm, kinh kệ sách vở đã làu thông, việc đạo việc đời trong hương ấp đều có cái nhìn và thành tựu riêng cho mình. Việc kết phát hai ngôi mộ của Lý gia là ơn đức trời đất và Phật tổ ban tặng cho họ Lý. Ngay như các tộc họ khác đều đặn hàng năm đến thăm viếng hương hoa mộ phần cũng là đạo lý tốt đẹp ở hương Cổ Pháp. Có những việc rồi dần dần các con sẽ hiểu. Mấy năm nay, ta để ý thấy Tinh Thiều có ý muốn xuất sơn chu du đây đó để học tập. Không biết đó có phải là tâm ý của con không?
Tinh Thiều nghiêm trang nhìn thẳng vào sư phụ đáp:
– Sư phụ vẫn dạy con, người xuất gia không được nói dối. Xưa nay ở tự, con chưa việc gì không bẩm báo với sư phụ. Được sư phụ chỉ dạy không chỉ đạo pháp mà còn đạo lý rộng lớn ở đời. Từ ngày có thêm sư đệ, mấy năm nay con không chỉ học từ sư phụ mà học được cả từ sư đệ. Sư đệ tuy nhỏ tuổi nhưng suy nghĩ rộng lớn khác thường. Cái nghĩ của sư đệ không nghĩ riêng cho hương Cổ Pháp mà là toàn xứ Giao Châu. Dân ta không thể mãi trốn chạy vào rừng khi đám quan lại đến bách hại như thế được. Người Giao Châu càng không thể mãi làm tôi tớ trâu ngựa cho người phương Bắc. Sư phụ là người học rộng biết nhiều, mong hãy chỉ dạy cho chúng con. Từ ngày sư phụ chỉ cho Lý trang chủ mở đất đóng thuyền, dự trữ thóc gạo, sửa sang kho bãi, tích cực giao thương, lại luôn đặt việc cố kết các tộc họ Lý, Đinh, Cù, Triệu, Bạch, Ma, Vững, Giàng, Khái để hương Cổ Pháp ngày càng vững mạnh con đã dần ngộ ra cái ý cao thâm của sư phụ. Nay con đã đến tuổi phải rời tự, lại may có được tiểu sư đệ ở lại chăm sóc người, con quyết xin sư phụ cho xuất sơn. Con cũng giống như sư đệ, sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ, được sư phụ chăm nuôi từ nhỏ, công lao trời biển biết chẳng bao giờ có thể báo đáp, xin sư phụ định đoạt cho con.
Từ sư phụ xúc động nói:
– Tinh Thiều! Con ở với ta đã mười năm. Tâm tính đức độ tài năng của con ta đều biết rõ. Ta đang định sau mùa đông này gửi con xuống hương Màn Trò để sư huynh truyền thụ phật pháp thêm cho. Song thấy ý con đã quyết, ta cũng không giữ nữa. Chẳng hay khi xuất sơn con sẽ tới vùng đất nào?
Tiểu tăng Tinh Thiều trong lòng chợt dâng lên một cảm xúc khó tả. Bao năm ở nơi cổ tự, thấm đẫm nghĩa đất tình người bỗng chốc nói lời giã biệt sao thấy quá khó khăn.
Cố nén xúc động, vị tiểu tăng bình tĩnh nói:
– Con theo lời sư phụ chỉ dạy bấy lâu nay, thấy được điều căn cốt rằng, người Giao Châu chúng ta, về cơ bản vẫn hiếm khi tự giành lấy được nước mình, suốt ngàn năm là tôi tớ quận huyện của người phương Bắc. Từ thời Hùng Vương  xưng vương lập nước, kế đến các vị anh hùng thời sau như An Dương Vương, Cao Lỗ, Trưng Vương, Triệu Vương đều xưng vương lập nước nhưng cũng chẳng được lâu bền mà đều còn chóng bị người phương Bắc đàn áp dã man, khiến dân ta trăm bề cơ cực, lâm vào cảnh nước mất nhà tan thật là đau xót. Phật tổ dạy cứu khổ cứu nạn từ bi hỉ xả nhưng lũ người phương Bắc chưa bao giờ biết đến đạo lý ấy. Bởi vậy các anh hùng đất Giao Châu mới nối nhau vùng lên đánh đuổi chúng. Nay con muốn xin sư phụ xuất sơn, trước là đi một vòng khắp các vùng Phong Châu, Cổ Loa, Gia Ninh, Vũ bình, Long Biên, xem xét hình sông thế núi, lại dò vào lòng người xem hư thực ra sao. Tiếp đó, con muốn sang phương Bắc một chuyến, tới kinh đô Kiến Khang của nhà Lương học thi thư, thuật pháp, nghiên cứu quân chế, binh giáp, xem người phương Bắc có gì ưu việt mà ngàn năm nay chiếm cứ nước ta, ép ta mãi mãi làm quận huyện của chúng như thế.
Tiểu tăng Lý Bí ngồi nghe sư huynh nói như nuốt lấy từng lời.
Từ sư phụ lặng yên lắng nghe tâm tư của học trò trong bụng vừa ngạc nhiên vừa không khỏi mừng thầm.
Đợi cho đệ tử nói hết, Từ sư phụ mới nghiêm trang nói:
– Trước hết, sư phụ xin chúc mừng con đã sớm trưởng thành. Ta không ngờ con không chỉ tinh tấn Phật pháp, thuần thục công việc trong ngoài cổ tự mà nhãn quan và tấm lòng đều rất sâu sắc, rộng mở. Nay con sắp xuất sơn, ta nói để hai con cùng biết. Từ thượng cổ, khi hoàng đế nhà Chu dựng nghiệp đã cho rằng Giao Chỉ nằm ở ngoài cõi Bách Việt, không thể thống thuộc được, bèn chia ra giới hạn ở góc Tây Nam. Mãi về sau, dần dần hình thành nên các bộ lạc Việt Thường Thị; Vũ Ninh; Quận Ninh; Gia Ninh, Lục Hải; Ninh Hải; Thanh Tuyền; Tân Xương; Bình Văn; Cửu Chân; Nhật Nam; Hoài Hoan; Cửu Đức… đều nằm ngoài tầm cai quản của hoàng đế. Đến thời Trang vương nhà Chu thì người Giao Chỉ đã tự tôn xưng vua Hùng vương, định đô ở Văn Lang, lập ra quan văn quan võ, sửa sang phong tục thuần hậu, chăm sóc cư dân trên bến dưới thuyền rất có lễ nghĩa truyền tới mười tám đời. Tiếp đó đến đời Tần, Hán, Ngô, Tấn… người phương Bắc lại dùng vũ lực xua binh cai trị. Các quan lại phương Bắc được cử xuống cai trị Giao Chỉ từ thời Hán Vũ Đế như Thạch Đái, Chu Chương, Ngụy Lãng, Tô Định, Mã Viện đều dùng binh tướng tàn sát dân ta. Tiếp đó đến Chu Xưởng, Trương Kiều, Hạ Phương, Lưu Tháo, Chu Ngung, Chu Tuấn, Giả Tung, Nguyễn Tiến đều là những quan lại lỗ mãng quen thói vũ phu vô đạo. Phải đến khi Sĩ Nhiếp tự là Ngạn Uy sang làm Thái thú Giao Châu mới giữ nề nếp cai trị có phép tắc. Sĩ Nhiếp học vấn uyên thâm, chính sự trong ngoài nghiêm chỉnh, trong thời loạn lạc đã không hổ danh Thái thú hùng cứ một phương. Sĩ Nhiếp còn cho dân chúng học hành, giáo hóa lễ nghĩa. Ở cõi Giao Châu khi đó, Thái thú Sĩ Nhiếp đã dám dùng nghi vệ của bậc vương hầu, đi lại thì rung chuông, vào thành rước cờ, kèn vang trống nổi, rầm rộ trên đường, đến nỗi người đương thời cho rằng Triệu Đà cũng không bằng được. Sau Sĩ Nhiếp, đến bọn Đái Lương, Lữ Đại, Lục Doãn, Tôn Tư, Đặng Tuân, Ngô Hưng, Hoắc Đặc, Mã Dung, Dương Tắc, Lưu Tuấn, Đào Hoàng đều là những Thái thú được nhà Ngô cử sang kiêm quản Giao Châu nhưng hoặc là hèn nhát hủ hóa dẫn đến tự bại vong hoặc là đánh giết lẫn nhau mà tiếm quyền đều chẳng ra gì, chỉ khiến dân ta thêm khổ cực. Ví như chuyện Dương Tắc làm phản, Tôn Hạo vua nước Ngô đã phải sai đại tướng Đào Hoàng sang đánh Dương Tắc, rồi Đào Hoàng tự mình tấn tước đô đốc Giao Châu. Chuyện đại tướng bên ngoài tự tiếm tước khiến Tôn Hạo mất mặt bèn nhắm mắt phong Đào Hoàng làm Thứ sử Giao Châu cũng đã là mục nát lắm rồi. Quả liền sau đó, vua Ngô đầu hàng nhà Tấn, dòng họ Tư Mã cướp ngôi họ Tào đã khôn khéo xuống chiếu phong Đào Hoàng giữ chức Thứ sử Giao châu như cũ. Khi Đào Hoàng chết, nhà Tấn tiếp tục cử bọn Ngô Ngạn, Cố Bí, Đào Nguy, Đào Thục, Đào Tuy, Đào Khản đều là con cháu dòng giống của Đào Hoàng nhưng việc trị nhậm không bằng lúc trước khiến dân chúng Giao Châu đua nhau khởi nghĩa. Tiếp đó đến bọn Vương Lượng, Nguyễn Phóng, Nguyễn Phu, Chu Phu, Nguyễn Tốn, Đỗ Viện, Đỗ Tuệ, Đỗ Hoành Văn, Vương Huy đều chỉ là những Thái thú chăm chỉ vơ vét tài vật mà ít chú ý đến việc giáo hóa dân chúng. Đến các đời vua Tống cử bọn Đoàn Hòa Chi, Lưu Mục, Lưu Bột, Nguyễn Trường Nhân sang trị nhậm Giao Châu luôn dùng binh đàn áp dân ta. Thứ sử Giao Châu Đoàn Hòa Chi đời Tống Văn Đế còn đem binh vào tận Lâm Ấp đánh giết chém đầu hàng ngàn người. Quân khởi nghĩa phủ áo giáp lên voi kín mít xua quân giao chiến nhưng Thái thú họ Đoàn đã dùng binh sư tử giáp trận khiến phải sợ hãi bỏ chạy đều được Tống sử biên chép rõ. Tiếp đến nhà Tề, nhà Lương cử bọn Thẩm Hoán, Nguyễn Thúc Hiến, Lưu Khải, Phòng Pháp Tông, Phục Đăng Chi, Lý Khải, Lý Tắc sang cai quản Giao Châu cũng đều gây mầm họa cho dân ta. Mới hay thời nào cũng vậy, bọn người phương Bắc trước sau chỉ lăm le đàn áp người Giao Châu ta, biến đất đai ta thành quận huyện của chúng. Nay con lòng ôm chí lớn muốn đi một vòng thiên hạ, sang tận kinh đô phương Bắc quyết học thi thư, tìm hiểu căn cơ ngọn nguồn quả là đáng quý lắm thay. Ta chúc cho con chân cứng đá mềm, sớm thực hiện được hoài bão của mình, làm rạng danh người Giao Châu, sư phụ có chết cũng nhắm được mắt vậy.
Từ sư phụ nói đến đâu, Tinh Thiều và Lý Bí đều thấy như có một bầu máu nóng chạy rần rật trong huyết quản tới đó. Cả hai lặng người trước những lời nói từ tâm can gan ruột của sư phụ. Từ sư phụ dứt lời đã lâu, cả ba đều xúc động không nói nên lời.
Mãi sau, tiểu tăng Lý Bí đứng dậy cung kính trang nghiêm nói:
– Bạch sư phụ! Thưa sư huynh! Những lời sư phụ và sư huynh vừa nói khiến cho lòng con như vén được đám mây mù. Tổ tiên người Giao Châu không hiếm anh hùng hào kiệt. Người hiền đức thời nào cũng có mà sao đất ta dân ta cứ mãi là tôi tớ cho người, là quận huyện của người là do phương Bắc quá mưu mô tham tàn độc ác. Chúng đời vua nào cũng xua binh tướng xuống đánh giết cai trị nước ta. Nay sư huynh xuất sơn làm vị hành giả đi khắp thiên hạ hãy nhớ lời sư phụ răn dạy. Sư huynh sang phương Bắc, dẫu có học thi thư của chúng cũng chớ có quên mình là người hương Cổ Pháp xứ Giao Châu. Đệ ở lại cổ tự xin hứa với sư huynh sẽ chăm sóc tốt cho sư phụ, học hành tinh tấn đợi ngày sư huynh trở về.
Trong ngôi cổ tự thâm u trầm mặc, ba thầy trò nghiêm trang bàn luận mãi đến chính Ngọ mới dứt.
Từ sư phụ không khách sáo nữa nhẹ nhàng tiến lên tay đưa loang loáng một chặp đã thấy đại tăng bị tước chủy thủ đứng như trời trồng vì đã bị điểm một loạt huyệt đạo khắp toàn thân tê dại miệng cứng mắt mở trừng trừng.
Tiểu thuyết lịch sử Nam Đế Vạn Xuân
Hồi 1
Hồi 2
HỒI THỨ BA 
Cổ trấn Luy Lâu, Vũ Lâm hầu tạo nghiệp
Miếu hoang Cao tướng, Từ sư phụ cứu người
Thành Long Biên, mùa xuân năm 517.
Trong ngoài thành ngày đầu xuân mới, không khí nhộn nhịp, tấp nập lắm. Dân chúng khắp nơi tổ chức vui chơi. Thành Long Biên nằm trên khu đất trống trải dài đến tận sát bến Giang Biên cách Luy Lâu khoảng ba mươi dặm. Ngày trước, khi Thái thú Sĩ Nhiếp cai quản Giao Châu đã cho tôn tạo thành trì, xây dựng phố xá, đền đài, lăng tẩm, miếu mạo rất quy củ tại Luy Lâu. Nhằm vỗ về dân chúng Giao Chỉ, Sĩ Nhiếp cho xây dựng khu đền thờ Lạc Long Quân – Âu Cơ và các tướng thời Hùng Vương. Chính vì vậy, các đời sau đều gọi quan Thái thú là Sĩ Vương.
Sĩ Vương nắm giữ đại quyền kiêm quản Giao Châu trên 40 năm qua hai triều Hán – Ngô. Sĩ Nhiếp hai lần được phong tước hầu. Triều Đông Hán phong là Long Bộ Đình hầu. Triều Ngô phong Long Biên hầu. Từ thời Sĩ Vương đã cho quân binh mở trại Long Biên giao thương hàng hóa từ sông Dâu sang sông Cái, lập bến Giang Biên, đóng thủy quân trên Đầm Sương Mù, uy nghiêm thanh thế lắm. Sau này, bọn Đái Lương, Lữ Đại, Lục Doãn… các Thái thú nhà Ngô mới dần dần sửa sang, bồi đắp trại Long Biên vững chãi kiên cố và cho đắp bốn cổng thành. Dẫu vậy, cổ trấn Luy Lâu mới thực sự là nơi đô hội của cả xứ Giao Châu, mọi giềng mối trị nhậm đều từ đó mà ra cả.
Trong quân doanh thành Long Biên, Thứ sử Giao Châu Lý Tắc cùng các thuộc hạ vừa từ Luy Lâu cổ trấn sau nửa buổi thăm thú đình đền tỏ vẻ khá mệt mỏi. Từ ngày dẹp tan bọn Lý Khải tướng cũ nhà Nam Tề, Lý Tắc không dám đóng bản doanh ở Luy Lâu mà dời xuống quân doanh Long Biên. Là tướng viễn chinh, Lý Tắc quá hiểu mình cũng chỉ là con tốt của triều đình Lương Vũ Đế.
Buổi sáng, khi thăm thú các đình đền chùa miếu do Sĩ Vương tôn dựng, Lý Tắc thấy mình thực là quá nhỏ bé trước Sĩ Vương và cái trò ưa thoán đoạt của tướng soái Lương triều chắc chắn sẽ khiến triều đình đổ gãy trong sớm tối. Không biết gây dựng điều tín nghĩa, lấy giáo hóa vỗ về dân chúng làm giềng mối, một vương triều hùng mạnh đến mấy rồi cũng đổ gãy mà thôi.
Lý Tắc thầm nghĩ, hôm trước mật chiếu của Lương Vũ Đế đến ta chưa dám cho đám quan viên biết là sợ lòng quân sinh loạn. Nay Lương Vũ Đế nghe theo lời sàm nịnh quyết thay ngựa giữa đường, đẩy biên tướng có công vào tuyệt lộ cũng là tự chặt chân tay mình đi. Ta ngặt nỗi ngàn dặm xa xôi, có về thanh minh chắc cũng đầu lìa khỏi cổ. Thân làm tướng xâm chiếm nước người xưa nay có mấy kẻ toàn mạng trở về đâu? Càng nghĩ, họ Lý càng thấy cay đắng trong lòng.
Nén tiếng thở dài, Lý Thứ sử quay ra bảo đám tâm phúc:
– Các ngươi cho mời Trương Tổng quản sang đây!
Bọn tùy tướng gia nhân vâng dạ vội cho người đi mời. Nguyên khi đó, Lý Tắc chủ trì trị nhậm ở Giao Châu vẫn theo nếp cũ nhà Nam Tề, cắt đặt chức quan Tổng quản chuyên lo liệu việc thuế má, giao thương, sắp xếp mùa vụ, kê biên hộ tịch, chế định mọi việc dân sinh trong thành ngoài ấp. Mọi việc có quyền áp chế trước bẩm báo sau. Chính vì vậy, Lý Tắc mới có thời gian chuyên vào việc binh bị thành trì, luyện quân thủy bộ, dẹp yên phản loạn xa gần, Giao Châu hơn mười năm nay mới tương đối được yên ổn vậy.
Trương Tổng quản vốn là thân tín thủ hạ của Lương Vũ Đế thời kỳ ngài còn ở Tương Dương, theo binh tướng xuống kiêm quản Giao Châu vùng với Lý Tắc từ đầu nên bề ngoài là thuộc cấp kỳ thực bên trong họ Trương rất có uy lực. Dẫu thế, Trương Tổng quản cũng rất biết giữ mình, luôn thủ lễ khiêm cung nên Lý Tắc chưa có gì bắt tội được.
Nhận được lệnh triệu vào gặp, Trương Húc mau chóng phẩm phục chỉnh tề rồi theo tên tùy tướng của Lý Tắc sang trướng hổ.
Thủ lễ chào hỏi xong đâu đấy, Lý Tắc phẩy tay cho tả hữu lui cả ra, trầm giọng nói:
– Trương Tổng quản! Mời ngài xem cái này.
Theo cái khoát tay của Lý Tắc, tên cận thần phía sau bê ra chiếc hộp sơn son thếp vàng chuyên đựng thánh chỉ. Trương Húc thoáng giật mình song cố trấn tĩnh được ngay.
Thấy Trương Tổng quản còn rụt rè, Lý Tắc bảo:
– Tiên sinh hãy cứ xem đi đừng ngại. Xem kỹ rồi hãy cho ta biết cao ý của tiên sinh.
Thấy quan Thứ sử đột ngột thay đổi cách xưng hô. Trương Húc thầm nghĩ chắc phải là việc rất hệ trọng. Không khách sáo nữa, họ Trương hai tay mở nắp hộp gỗ ra cầm chiếu chỉ.
“… Hoàng đế chiếu viết.
Nay xét thấy Thứ sử Lý Tắc công lao hiển hách, tuổi tác đã cao, chinh chiến bên ngoài đã lâu, trẫm ngày đêm nhớ mong bậc công thần, cho triệu về kinh đô xét tài bổ dụng.
Nhận chỉ hãy lập tức về kinh. Mọi việc ở Giao Châu tạm giao cho Tổng quản Trương Húc đảm trách.
Khâm thử!”.
Đọc kỹ chiếu chỉ còn tươi nét mực, Tổng quản Trương Húc không khỏi toát mồ hôi dù trời đang se lạnh.
Im lặng giây lát, Lý Tắc lên tiếng:
– Chiếu chỉ triệu Lý mỗ về kinh đã rõ ràng. Trương tiên sinh có ý kiến gì không?
Trương Húc cẩn thận đặt lại tờ thánh chỉ vào khay gỗ, thận trọng đáp:
– Hạ quan có chỗ còn chưa hiểu hết thánh ý?
– Có điều gì tiên sinh cứ nói?
– Hạ quan cho rằng, thánh thượng hạ chỉ triệu gấp đại nhân về kinh là do hai cận thần Chu Xả, Từ Miễn đàn hặc. Giao Châu luôn mấy năm mất mùa đói kém, dân chúng ngầm nổi loạn khắp nơi, lại bọn giặc cướp vùng Hoài Hoan, Cửu Đức quấy nhiễu biên cương, việc chậm chạp dâng nộp gạo muối, sắt đồng, ngọc lụa lẽ ra hoàng thượng phải đèn trời soi xét. Nay đã không xét đến, lại vội vã nghe lời sàm tấu hoài nghi trung lương chả đáng lo lắm hay sao?
Lý Tắc thấy viên Tổng quản hiểu thấu sự tình, lại có ý chia sẻ tâm cơ với chủ tướng chỉ biết thở dài đáp:
– Ta là phận thần tử làm sao dám trái ý hoàng thượng. Chỉ mong tiên sinh ở lại giữ mình. Nơi lam sơn chướng khí xa xôi này có giữ được mạng cũng khó toàn danh mà về cố quốc. Bao năm tiên sinh giúp ta việc trong ngoài trên dưới, ta chỉ biết cảm tạ ghi vào trong lòng mà thôi. Cứ xem như chiếu chỉ thì hoàng thượng còn tin dùng Tổng quản lắm, chớ lấy làm ngại. Phần ta về tới Kiến Khang sẽ hết sức nói tốt cho tiên sinh.
Trương Tổng quản xúc động vái tạ:
– Hạ quan bao năm theo ngài Nam chinh xa xôi vạn dặm mười chết một sống đã quá tỏ tường tấm lòng trung nghĩa của ngài với Lương triều. Nay ngài vâng chỉ về kinh, hạ quan xin thu xếp ít vàng lụa sản vật để ngài tiện về Kiến Khang chi dùng. Mọi căn dặn của đại nhân, Trương mỗ xin ghi tâm khắc cốt.
Vừa nói, Trương Tổng quản vừa như rớm đôi dòng lệ, mãi mới chịu rời trướng hổ của Lý Tắc trở về. Lập tức, Trương Húc sai đám gia nhân tùy tướng kén chọn lụa vải, vàng bạc, sản vật đóng vào hơn chục chiếc hòm lớn sai mang đến quân doanh.
Khi chỉ còn một mình Thứ sử trong trướng hổ, họ Lý chỉ biết nhìn ra bên ngoài quân doanh đang lặng phắc u uẩn mịt mùng.
*
Đây nói tiếp chuyện Vũ Lâm hầu Tiêu Tư ở Kiến Khang.
Sau buổi nhận thánh chỉ thụ chức Thứ sử Giao Châu, lại đã cẩn thận đem nhiều vàng lụa đến vấn kế hai đại thần Chu Xả, Từ Miễn, Vũ Lâm hầu đêm ngày bàn với bọn Lưu Thạo, Chu Liêm, Mã Phương, Thạch Đạt chu đáo đâu đấy mới xin với triều đình cho chia binh xuất phát làm hai đường thủy bộ. Đường thủy, Vũ Lâm hầu và Lưu Thạo, Mã Phương đem theo năm trăm gia thần tùy tướng đi trên mười hai chiếc thuyền gỗ lớn theo đường biển kéo thẳng xuống Luy Lâu. Tiêu Tư vốn quen biết từ trước với đám thương khách nên từ buổi có tin Vũ Lâm hầu thụ chức Thứ sử Giao Châu, bọn người này ngày đêm qua lại dâng biếu vàng lụa nhằm cầu cạnh mai sau. Đường bộ, Tiêu Tư giao cho Chu Liêm, Thạch Đạt thống suất năm ngàn binh mã chiến giáp, khí cụ sớm xuất phát trước. Do đã có khẩu dụ của Lương Vũ Đế, mọi việc điều động bổ dụng tài lực đều do hai lão thần Chu Xả, Từ Miễn quyết định. Lương Vũ Đế luôn nửa tháng liền vào chùa tu Phật không còn triều nghị nữa. Bởi thế, Tiêu Tư đã lựa thời cơ lấy toàn ngựa tốt, giáp mới, lại xin thêm hơn vạn bộ cung tên tốt cùng hai vạn lạng vàng trong quốc khố chuyên chở xuống phía Nam. Có thể thấy xưa nay, hiếm có biên tướng nào đi trị nhậm phương xa lại được ưu ái nhiều tài vật đến vậy.
*
Chùa Cổ Pháp buổi đầu xuân.
Từ ngày Từ sư phụ cùng tiểu tăng Lý Bí chia tay Tinh Thiều nơi cổ tự, mọi chuyện trong ngoài chùa Cổ Pháp hễ có việc gì sư phụ đều giao cho tiểu tăng họ Lý. Phàm là các việc lau dọn Phật đường, tu sửa vườn tược cây cối trong tự, tiếp đón chư phật tử trong ngoài hương Cổ Pháp, thiết lập đàn tràng cúng giỗ người quá cố mọi việc tiểu tăng họ Lý ngày càng thực hành tinh tiến. Biết được cao ý của sư phụ và sư huynh, tiểu tăng họ Lý không chỉ chuyên tâm học phật pháp mà còn được sư phụ chỉ dạy võ nghệ, đạo lý, truyền thống lịch sử vùng đất Giao Châu từ thời thượng cổ. Ngay như việc tường minh các đời vua chúa phương Bắc cùng các đại thần tướng lĩnh ngay gian trung nịnh, các trường phái nho gia chính pháp, bàng môn tà đạo, mọi việc hễ tiểu tăng hỏi đến đâu, sư phụ đều giảng giải cặn kẽ tới đó. Sức học của tiểu tăng họ Lý cũng thật khác thường. Trí tưởng tượng khoáng đạt, tầm quyết đoán sâu sắc luôn khiến Từ sư phụ lấy làm kinh ngạc, càng nghĩ đến buổi nửa đêm hổ vàng chầu nơi mộ đất thân mẫu tiểu tăng mà trong bụng thầm nghĩ Lý Bí không phải người thường ắt sau này ứng vào ý trời mà đại sư huynh Đỗ Khuông từng nhắc đến. Nhân tuần tiết tháng Giêng vừa xong, hương dân Cổ Pháp đang tất bật lo cho vụ chiêm. Những khoảnh ruộng quanh cổ tự đã được cày cấy vuông tròn đâu đấy. Ngay như việc nông tang cày bừa, tiểu tăng Lý Bí cũng hết sức chăm chỉ. Tiểu tăng còn tự chế ra chiếc cày hai lưỡi có thể vừa úp thành luống đất vừa mở thành rãnh sâu để tiện việc trồng cấy. Họ Lý còn cho bắc những ống dẫn nước bằng thân tre già đục lỗ quanh các khu ruộng bậc thang khiến việc tưới tiêu rất thuận tiện được dân chúng quanh vùng đến xem học cách chuyển nước khéo léo vừa tiết kiệm vừa đỡ nhọc công sức.
Khi chỉ có hai thầy trò trong tự, Từ sư phụ thong thả nói với tiểu tăng:
– Ta đã mấy năm không rời tự, nay sư huynh con chắc đã xuống đến vùng Long Đỗ chỗ đại sư Đỗ Khuông rồi. Ta thấy việc du ngoạn các vùng đất của Tinh Thiều vừa là hành pháp vừa để tu tập, lắng nghe động tĩnh trong nhân gian không gì thiết thực bằng. Con hãy chuẩn bị hành trang theo ta một chuyến xuống Cổ Loa rồi tiện thể sang hương Long Đỗ một lần cho biết rồi sau sẽ ngược lên cổ trấn Luy Lâu. Luy Lâu vốn là vùng cổ hình thành đã hơn nghìn năm. Ngày trước đời Hán – Ngô, vùng cổ trấn này được Sĩ Vương dày công xây dựng hệ thống đình đền chùa miếu rất quy củ. Trong đám quan lại xuống phương Nam ta cai trị, duy chỉ có Sĩ Nhiếp được dân chúng vùng Luy Lâu lập đền thờ cũng đáng để ta chiêm nghiệm. Sĩ Vương ngày trước không chỉ biết dạy dân chúng cày bừa canh cửi mà còn hướng muôn dân đồng lòng theo phật pháp, cho lập đền thờ cúng những bậc vua chúa, danh tướng danh thần có công với nước là người phương Nam chúng ta. Đến như các triều Hán, Ngô, Tấn vốn rất cẩn thận trong việc triều nghi lễ nghĩa còn phải tâm phục mà phong cho Sĩ Nhiếp chức Thứ sử Giao Châu đến hơn bốn mươi năm. Khoảng thời gian ấy cũng là những ngày tháng thái bình yên ổn của người Giao Châu. Chính bởi vậy dân chúng mới tôn ngài làm Sĩ Vương.
Vốn nhiều năm chăm chỉ học kinh sử, thông thuộc các triều đại phương Bắc, biết khá rõ từng viên Thái thú sang trị nhậm cõi Giao Châu, riêng với quan Thái thú Sĩ Nhiếp, vốn là một người rất sùng đạo Phật, luôn dành được cảm tình của chư tăng, với tiểu tăng họ Lý cũng không ngoại lệ.
Ngẫm ngợi đôi chút, tiểu tăng bộc bạch với thầy:
– Bạch thầy! Cứ như chỗ hiểu của con, trong những Thái thú xuống phương Nam trị nhậm, người như Sĩ Vương cực hiếm, phải hàng trăm năm mới có. Tại sao đức độ của Sĩ Vương không cảm hóa được những kẻ đến sau mình như vậy?
Từ sư phụ trong bụng mừng thầm, thấy kiến thức của tiểu tăng ngày càng sâu rộng, những mối quan tâm đều liên quan mật thiết đến việc hưng vong thành bại của những bậc vương công đại thần có tài năng xuất chúng như Sĩ Vương bèn chậm rãi nói:
– Điều con hỏi ta cũng từng trăn trở bấy lâu nay. Phàm là kẻ đi xâm chiếm đánh cướp nước người đều là những bọn hung hãn quỷ quyệt, lấy tàn sát để khuất phục dân chúng bản xứ. Tại sao Sĩ Vương lại khác biệt đến vậy? Đó là vì Sĩ Vương trước hết là một nhân tài hiếm thấy. Ngay từ thuở nhỏ, họ Sĩ đã nổi tiếng là người khiêm tốn cung kính, học vấn uyên thâm. Khi được đổi sang Giao Châu kiêm quản, những người tránh loạn nhà Hán đều được Sĩ Nhiếp chiêu an cấp đất, dạy dỗ cấy cày khiến cho Hán đế cảm động ban cho tỉ thư, phong làm Tuy Nam trung lang tướng, quản lĩnh chức vụ Thái thú Giao Châu. Đến khi Tôn Quyền xưng đế ở Đông Ngô đều hết lòng khen ngợi Sĩ Nhiếp là người bên ngoài mềm mại, bên trong chính sự giỏi giang, trong thời đại loạn như vậy vẫn bảo toàn được một phương, uy danh hiển hách vang động Nam man, đến như Triệu Đà ngày trước cũng không bằng được. Sĩ Vương mất lúc chín mươi tuổi quả là người thọ nhất trong các Thứ sử từ thượng cổ đã cho thấy đức độ của Sĩ Vương cao đến bậc nào. Vậy tại sao những kẻ đến sau Sĩ Vương lại lập tức hiện nguyên hình là loài vô lương, chỉ lấy chém giết, cướp bóc, hãm hại dân chúng làm đầu, khiến người phương Nam oán giận đến tận xương tủy. Đó là bởi bản thân chúng đều là bọn vô học, bất tài, chỉ giỏi mưu ma chước quỷ. Ngay như vua chúa, hoàng đế nước chúng cũng rặt một bầy gian hùng khát máu, chuyên rình rập cướp ngôi lẫn nhau. Vua nào tôi đó. Chủ nào tớ đó. Bởi vậy, người Giao Châu chúng ta mới nối kiếp lầm than đã mấy trăm năm luôn bị đàn áp trong bể máu. Ta ngày trước từng được sư phụ giảng dạy, sau tự tìm trong các văn tự, sử sách, thư tịch nơi đình đền miếu mạo, trong dân chúng lầm than mà càng thấy tủi thân là người mất nước vậy.
Nói đến đó, sư phụ rơm rớm nơi khóe mắt. Đôi mắt ngày thường vốn hiền từ ẩn nhận nay chợt chùng xuống sũng nước khiến cho tiểu tăng Lý Bí không khỏi bồn chồn.
*
Mờ sáng, mưa xuân bay lất phất trên con đường đất ngoằn ngoèo dẫn xuống bến Đầm Bạch Long.
Từ sư phụ và tiểu tăng Lý Bí gọn gàng trên lưng ngựa khoan thai rời cổ tự. Khuất rặng cây cổ thụ đầu hương thôn, hai thầy trò quất ngựa đi nước kiệu. Trời se lạnh buổi sớm xuân, những hạt mưa bụi li ti phủ một lớp màn trắng xuống những tàn lá xanh lòa xòa hai bên con đường đất. Ngựa lướt nhẹ tới đâu, những cành lá rạt xuống khiến sương rơi lộp bộp. Khi phía trước mờ mờ hiện ra khoảng đầm nước mênh mông lác đác bóng thuyền di động trên mặt sóng lăn tăn bỗng phía sau có tiếng vó ngựa chạy dồn.
Hai thầy trò vừa kịp xuống ngựa đã thấy phía sau Lý trang chủ cưỡi con ngựa tía cao lớn ào đến.
Vừa xuống ngựa, trang chủ vừa thi lễ nói:
– Từ sư phụ sao không cho Lý mỗ tiễn một đoạn đường?
Từ sư phụ tươi cười đáp:
– Trang chủ bất tất phải chu đáo quá làm gì. Mọi việc nơi cổ tự, trong ngoài hương Cổ Pháp hôm trước ta đã bàn kỹ với ngài rồi. Nay mùa xuân vạn vật sinh sôi, lòng người rộng mở, ta với tiểu tăng du ngoạn một chuyến cũng là để mở rộng kiến văn cho việc lâu dài. Một thầy một trò hành lý đơn sơ. Cặp ngựa tốt này Lý gia tặng nhà chùa năm trước ta và tiểu tăng cưỡi cũng đã thuần thục. Ngay như tiểu tăng cũng rất háo hức lên đường, trang chủ cứ yên tâm.
Lý trang chủ nhìn hai thầy trò rồi nhìn ra Đầm Bạch Long ân cần nói:
– Từ sư phụ lâu nay hết lòng vì hương dân Cổ Pháp, lại giúp đỡ Lý gia ta biết bao công việc. Nay lại không quản sương gió dẫn học trò hành pháp muôn phương quả là đức lớn của bậc chân tu, Lý gia ta chỉ biết cảm kích trong lòng. Mọi việc ở hương Cổ Pháp mà sư phụ đã phó thác, ta nguyện hết sức cùng các tộc họ vâng theo lời sư phụ. Sư phụ xem kìa – vừa nói trang chủ vừa chỉ về phía bến bãi sông nước Đầm Bạch Long nơi thuyền bè san sát, những dãy nhà kho nổi trên mặt nước nối nhau tòa ngang dãy dọc miên man. Đám thương thuyền cũng đã bắt đầu xục xịch hò nhau mở chão cột neo thuyền, chống sào tản ra bốn phía.
Từ sư phụ tỏ vẻ hài lòng nói:
– Ta đã lâu mới xuống Đầm Bạch Long, không ngờ trang chủ đã biến vụng nước hoang thành nơi trên bến dưới thuyền đông đúc đến nhường này. Thảo nào, phật tử các nơi tới dâng hương cổ tự hết lòng ca ngợi trang chủ. Người Giao Châu chúng ta xưa nay vốn thạo nghề sông nước. Khai mở lại nghề tổ cũng là sinh kế lâu dài cho hương thôn cùng dân chúng quanh vùng. Trang chủ quả có tấm lòng và viễn kiến sâu sắc vậy.
Tiểu tăng Lý Bí nãy giờ chỉ biết lặng im nghe những lời trò chuyện căn dặn chân thành của sư phụ và thúc phụ. Tiểu tăng tuy mới mười bốn tuổi song đã sớm có dáng dấp của một thiếu niên anh tuấn thanh thoát cao lớn hơn người cùng lứa khá nhiều. Luôn mấy năm được sư phụ chỉ dạy thêm côn quyền võ nghệ nên bước đi dáng đứng, ánh mắt cử chỉ vừa nhanh nhẹn vừa trầm tĩnh của con nhà võ. Nhìn cảnh trên bến dưới thuyền đầu xuân tấp nập, tiểu tăng không khỏi thấy nao nao trong dạ, lòng đầy phấn chấn trong cuộc viễn du. Từ sư phụ đang còn chuyện trò với Lý trang chủ đã thấy một chiếc thuyền gỗ lớn tấp sát mép nước, chiếc cầu gỗ chắc chắn từ từ hạ bắc chếch lên bờ.
Lý trang chủ chỉ tay về phía thuyền mời Từ sư phụ:
– Bạch sư phụ! Hôm trước, Lý mỗ đã cho sửa soạn chiếc thuyền nhỏ đưa sư phụ xuôi dòng Câu giang cũng là tiện để hai thầy trò ngắm cảnh sông nước buổi xuân sang. Mùa này, gió yên nước lặng cũng là mùa đám thương thuyền dưới xuôi đến Đầm Bạch Long trao đổi sản vật tiện thể dâng hương cổ tự, thăm thú phong cảnh vùng đất Cổ Pháp. Năm nay, theo lời hẹn ước, các vị bô lão dưới xuôi sẽ lên thăm thú hương thôn ta cùng gặp gỡ với các họ, Đinh, Cù, Ma, Bạch, Lý, Vững, Giàng, Khái… Lý mỗ sẽ thay mặt sư phụ tiếp đón tận tình, xin người hãy yên tâm.
Từ sư phụ cảm khái nói:
– Lý trang chủ quả là người chu đáo. Cũng thật may mắn, hương Cổ Pháp có được người thảo thơm tình nghĩa như trang chủ. Ở đời đạo học như mây, pháp độ của Phật tổ ngấm sâu vạn vật cũng là phúc lớn của dân chúng. Lão tăng đi chuyến này sẽ sớm về để bàn với trang chủ một việc. Mọi việc trong ngoài hương ấp mong trang chủ hãy chu toàn cho.
Nói vừa dứt lời, Từ sư phụ và tiểu tăng mau chóng dắt ngựa xuống chiếc thuyền gỗ khá lớn được đóng vững chãi nhưng rất thanh thoát một nửa mui trần có những cột gỗ chắn thành khung xung quanh rất trang nhã. Đám người chèo thuyền cột xong ngựa cũng là lúc chiếc cầu gỗ từ từ rút lên khép vào bên mạn thuyền gọn ghẽ. Lúc đó tiểu tăng mới rơi giọt lệ chắp tay thủ lễ nói vọng lên bờ:
– Thúc phụ ở nhà mạnh khỏe. Con được đi cùng sư phụ sẽ sớm trở về.
Lý trang chủ lặng lẽ gật đầu. Tuy vẻ ngoài khuôn mặt giọt lệ chỉ trực trào ra nhưng trong bụng không khỏi mừng thầm khi thấy đứa cháu ruột chỉ mấy năm được Từ sư phụ rèn cặp đã trở thành một thiếu niên anh tuấn khỏe mạnh thần thái trầm tĩnh rất biết giữ gìn phép tắc nơi cửa Phật.
*
*    *
Bến sông Luy Lâu, mờ sáng mùa xuân.
Sau mấy ngày cổ trấn Luy Lâu tổ chức hội đầu xuân với nhiều trò chơi dân gian như đánh vật, đánh đu, đánh cờ, chọi gà, múa lân… sôi nổi mọi người dường như vẫn còn chìm sâu vào giấc ngủ. Từ nửa tuần trăng trước, theo tiếng trống tiếng chiêng giục về hội xuân cổ trấn Luy Lâu, đám người từ khắp các ngả đường bộ đường sông kéo đến cổ trấn rất đông đúc. Người nào người nấy áo quần tươm tất, sắc màu vui nhộn đi thành từng toán vừa ghé thăm đình đền chùa miếu vừa hòa vào từng điểm vui chơi. Năm nay, cổ trấn bố trí ba đám hát văn theo lối cổ trên những chiếc thuyền gỗ đậu giữa ao đình càng khiến khách thập phương không dứt ra được. Cổ trấn Luy Lâu từ ngày Sĩ Vương cho đặn các trò vui dân gian dịp đầu xuân lễ hội vẫn giữ được phong tục đó đến tận hôm nay. Trong cả tháng giêng, cổ trấn luôn ngập tràn sắc màu lễ hội.
Dưới bến Luy Lâu, dường như không ai để ý, từ nửa đêm nơi cuối nguồn sông Dâu đột ngột kéo đến mười hai chiếc thuyền gỗ lớn uy nghi trên dòng sông nhỏ. Đoàn thuyền đậu im phăng phắc giữa dòng sông nơi bến nước Luy Lâu. Khi trời sáng hẳn, đám dân chúng trên bến mới tò mò chỉ trỏ không hiểu thuyền buôn đến từ nơi nào mà uy nghi đến vậy. Ngay thuyền gỗ mùa nước lớn trong vùng Hoài Hoan, Cửu Đức hay mạn biển Hải Triều đem gỗ đá, muối sắt nhập kho quan viên trong cổ trấn cũng không to lớn đến nhường ấy. Mười hai chiếc thuyền như mười hai tòa thành nhỏ nổi trên sông.
Trên chiếc thuyền lớn nhất giữa đoàn, giữa khoang thuyền ấm sực đặt chiếc bàn gỗ lớn phủ tấm da báo, Vũ Lâm hầu Tiêu Tư vừa dùng xong bữa sáng thong thả quay ra bảo đám tùy tướng:
– Nay ta hãy giả lái luôn vào cổ trấn Luy Lâu trước. Nghe nói xưa nay ở Luy Lâu, dân chúng không biết đâu là triều Hán, triều Tấn, triều Ngô, triều Tề mà chỉ biết đến pháp độ của Sĩ Vương mà thôi. Nay mai các ngươi phải lưu tâm vừa là học cái uy của Sĩ Vương vừa phải dạy cho dân chúng biết Lương triều ta hoặc là lễ nghi triều dã hoặc là ân uy trong ngoài quốc thổ biên trấn đều phải hơn hẳn họ Sĩ kia mới được.
Đám tùy tướng, văn thần răm rắp tuân theo mệnh lệnh của Vũ Lâm hầu thay đổi trang phục, sắp đặt tùy tùng gọn ghẽ hơn chục người dùng thuyền nhỏ lướt vào cập bến Luy Lâu.
Vừa đi sát cùng chủ nhân, văn thần Lưu Thạo, người vốn đọc nhiều kinh sách, từng chu du nhiều nơi ở Trung Nguyên khi nhìn dọc hai bên phố sá cổ trấn Luy Lâu không khỏi thầm thán phục ngày trước Thái thú Sĩ Nhiếp với con mắt tinh tường đã sắp đặt đường sá nhà cửa quy củ đâu đấy. Mới biết dẫu nơi xa xôi ngàn dặm mà có người tài trị nhậm không chỉ chúng dân được yên ổn mà dấu ấn triều đại cũng được hiện hữu vào mỗi tòa nhà, đường sá, đền miếu.
Họ Lưu buột miệng nói với chủ nhân:
– Tại hạ vẫn nghe đồn Luy Lâu cổ trấn không thua kém gì các trọng trấn phương Bắc nay đến tận nơi quả là lời đồn không sai. Nay mai, xin với chủ nhân cho đám thầy địa lý khảo sát đo vẽ lập địa đồ khắp trong ngoài cổ trấn để tiện việc trị nhậm nơi đây.
Tân Thứ sử Giao Châu Tiêu Tư trong trang phục lái buôn nghiêm nét mặt nói:
– Tiên sinh quả là đã bị tên họ Sĩ kia mê hoặc rồi. Việc đo vẽ lập địa đồ tiên sinh hãy sai bảo đám thuộc hạ làm cho cẩn thận, còn như việc trị nhậm cổ trấn ra sao ta đã có phương lược riêng, tiên sinh tất phải lo nghĩ nhiều. Nay hãy dẫn ta đến đền thờ Lạc Long Quân cùng các thuộc tướng ở đây xem họ Sĩ kia rốt cuộc là người phương Nam hay người phương Bắc.
Thấy tân Thứ sử đột ngột có ý quở trách, họ Lưu thầm than khổ trong lòng, song đã ở cảnh cùng hội cùng thuyền nên chỉ biết cắn răng chịu đựng mà lặng lẽ cất bước không dám nói thêm nữa. Đi thêm một đoạn, đến trung tâm cổ trấn cũng là nơi đặt đền thờ Lạc Long Quân. Nguyên đền thờ này được dựng trên một quả đồi đất trong những năm đầu Sĩ Nhiếp đảm đương chức vụ Thứ sử Giao Châu.
Ngôi đền khá khang trang, vững vàng giữa quả đồi đất lớn xung quanh là những tầng cây cổ thụ hàng lối nghiêm ngắn. Trước cửa đền là một khoảng sân rộng có lát gạch vuông dày dặn xung quanh là tường gạch thấp đan xen những lối đi được lát bằng gạch nghiêng chạy vòng quanh đền chia ra nhiều lối nhỏ dẫn tới miếu thờ các vị tướng quân rất quy củ. Vũ Lâm hầu trong bụng thầm phục Sĩ Vương ngày trước có con mắt tinh đời chọn được nơi đắc địa lập đền thờ cho Lạc Long Quân cũng chính là tự lập đền thờ cho chính mình. Quả đúng như vậy, cách đó không xa, trên một đồi đất rộng phía bên phải, các Thái thú đời sau, theo nguyện vọng của dân chúng Luy Lâu đã lập một ngôi đền khang trang thờ Sĩ Nhiếp. Mới biết ở đời lòng dân là vạn đại. Người nào mang lợi ích chia sẻ với dân đều được tưởng nhớ công lao. Dẫu có ra sức lập đại công, chém giết binh tướng, khuất phục vua nước khác như đại tướng Mã Viện vâng mệnh Hán đế đánh dẹp Hai Bà Trưng chém giết vạn người cũng chỉ là gây thù chuốc oán bị người bản xứ coi là giặc mà thôi. Nay ta sang trị nhậm đất này phải sớm tạo ân uy mới mong dân chúng thần phục vậy.
Đoàn thương lái tiến vào trong sân đền cũng là lúc khá đông khách thập phương đến hành hương dâng lễ. Trên sảnh đền đặt một chiếc bàn gỗ lớn dùng để bày biện đồ cúng lễ. Đám người đến lễ ngày một đông phải xếp hàng theo thứ tự. Cụ thủ từ chừng đã cao tuổi nhưng vẻ mặt còn khá tinh anh vừa sắp đặt thứ tự các đoàn vừa yêu cầu mọi người giãn ra để các đoàn đến trước tiện việc hành lễ. Phía bên trong ngôi đền, đoàn các bô lão hai mươi bảy vị thuộc trang ấp vùng cổ trấn Luy Lâu đang thỉnh chiêng dâng lễ. Tiếng chúc văn tuyên đọc công trạng của đức thánh Lạc Long Quân cùng thánh mẫu Âu Cơ và các chư tướng vọng ra đều đều. Khách thập phương vẫn ùn ùn kéo đến ngày một đông chật cả sân đền đứng san sát vây quanh đoàn người của Vũ Lâm hầu. Ý chừng quá sốt ruột, tùy tướng Mã Phương dáng người vạm vỡ như hộ pháp, vệt râu quai nón rậm rì liên tục động đậy trên khuôn mặt đã bắt đầu lấm tấm mồ hôi gạt toán người sấn lên bàn sắp lễ. Thấy họ Mã tiến về phía trước, đám lái buôn vội theo sát tiến lên.
Thấy có sự xô đẩy ở giữa sân đền, ông lão thủ từ nơi bàn sắp lễ quay ra ôn tồn nói lớn:
– Các vị khách thập phương hãy giữ gìn trật tự nơi cửa thánh. Các vị bô lão đang hành lễ trước thánh Lạc Long Quân và thánh mẫu Âu Cơ phải một khắc nữa mới xong. Nếu không gấp gì, mời chư vị hãy tản bộ quanh đền chờ các bô lão hành lễ xong hãy vào dâng hương cửa thánh.
Mã Phương trong lúc xô đám du khách sấn lên đã gạt trúng phải một lão bà ngã lăn ra đất. Lão bà hét lên chỉ vào mặt người vừa gạt ngã mình:
– Nhà ngươi mù mắt hay sao mà giẫm bừa lên người khác thế?
Không nén được nóng giận, Mã Phương chỉ mặt lão bà dưới đất mắng:
– Chính ngươi mới là kẻ mù lòa! Không mau tránh đường để bọn ta hành lễ thì đừng trách.
Phía sau, Lưu Thạo vội vạch người tiến tới can ngăn họ Mã:
– Mã huynh đệ hãy nén giận, chúng ta chờ đợi một lát cũng không sao.
Thấy có người can ngăn, lão bà càng được thể mắng người vừa xúc xiểm mình:
– Đồ có mắt không tròng. Nơi cửa thánh ngươi còn hống hách thế chỗ khác chắc là giết sống mụ đây rồi. Vùng Luy Lâu không có loại thương khách như ngươi. Mau cút đi cho khỏi bẩn nơi cửa thánh.
Đến nước này, không thể chịu nhịn được nữa, Mã Phương gầm lên xông tới túm chặt mụ già nâng bổng lên không trung hét lớn:
– Mụ già khốn kiếp! Tưởng ông mày không dám giết người hay sao?
Trong cơn kích động tột cùng trước sự xỉ vả thình lình của mụ già bản xứ, bất chấp đám đông bắt đầu la hét chạy giãn ra, mặc kệ mụ già giãy giụa trên đôi tay hộ pháp, họ Mã chưa nói dứt lời đã ném xoạch người đàn bà lắm điều tai ác vào giữa đám đông.
Đám đông ré lên kêu khóc.
Thương thay mụ già xấu số lắm lời không biết giữ mồm giữ miệng trêu chọc vào tổ kiến lửa bị quẳng như tấm giẻ rách nằm hộc máu giữa sân đền không còn động cựa gì nữa.
Trong đám đông, có nhiều tiếng hét vang lên:
– Có kẻ giết người! Có kẻ giết người!
Mọi việc chuyển biến quá nhanh, trong trang phục lái buôn, Vũ Lâm hầu Tiêu Tư chỉ biết đứng như trời trồng chưa kịp nói năng gì đã thấy hai mươi bảy cụ bô lão dừng ngay tiếng chiêng trong đền nối nhau bước ra vây quanh người xấu số.
Cụ thủ từ từ đầu nhìn rõ mồn một cảnh Mã Phương xô đẩy người hành lễ lại thấy hai bên chửi mắng lẫn nhau rồi kết cục mụ già bị Mã Phương xách ném quật xuống đất chết tươi vội khẽ chắp tay vào ngực lẩm bẩm:
– Nam mô a di đà phật…
Trong đám các cụ bô lão, một cụ mặc áo thụng đỏ chừng như là người cao tuổi nhất khẽ vuốt chòm râu bạc nhìn thẳng vào Mã Phương đang đứng như trời trồng nghiêm giọng hỏi:
– Đại nhân là người phương nào tới, tại sao gây náo loạn cửa đền?
Thấy không thể im lặng mãi, Vũ Lâm hầu đành tiến ra vái các cụ nói:
– Tại hạ là thương khách từ Hợp Phố đem hàng hóa mới tới bến Luy Lâu đêm hôm qua. Nghe danh cổ trấn có ngôi đền thiêng mới dắt nhau đến dâng hương, chẳng ngờ tiểu đệ đây bất chợt nổi nóng gây nên cơ sự. Nay ta xin nhận lỗi với các vị lão trượng. Có phải đền bù tiền bạc gì xin các vị hãy cứ nói thẳng ra.
Các vị bô lão thấy toán thương khách toàn những người cao to lực lưỡng, mặt mũi kẻ thì dữ tợn người ra vẻ kín đáo khó lường lại tự xưng là thương khách từ Hợp Phố biết không phải bọn tầm thường song cũng không thể nén giận khi chưa tìm hiểu đầu đuôi đã vô cớ đánh chết người lại sớm định dùng tiền bạc đền bù tính bài chuồn. Thấy khách thập phương sau phút kinh hoàng dạt chạy đã vây kín trở lại thành đám đông lớn, cụ áo đỏ nhìn khắp một lượt trầm giọng nói:
– Tấm lòng của quý khách vào dâng hương cửa thánh tuy là đáng quý, song đã đến nơi đây đều phải theo thứ tự trước sau mà hành lễ mới phải đạo. Xưa nay ở cổ trấn Luy Lâu, dẫu là chức dịch quan quân cũng đều theo lệ ấy. Nay quý khách bất chấp quy tắc, sấn sổ chen lấn tranh giành, lại vô cớ làm chết người không thể cứ nói đền tiền bạc là xong. Các vị phải ở lại để ta cho mời thôn trưởng tới kê biên tên họ, hỏi rõ danh tính, lại phải để bên chấp pháp khám nghiệm hiện trường, định rõ cái chết, lại phải thuận theo gia đình người xấu số có chấp thuận cho các vị đem tiền bạc ra bồi thường hay không. Đây là pháp quy của cổ trấn Luy Lâu, mong các vị thương khách thi hành cho.
Thấy tình hình ngày càng căng thẳng, lại thấy các cụ bô lão có vẻ nghiêm nghị cáu giận, cụ áo đỏ áng chừng là người có uy tín lắm nên lời nói vừa dứt mọi tiếng tán đồng nổi lên râm ran bốn phía, Lưu Thạo vội vàng tiến ra vái tứ phía nói:
– Xin các lão trượng hãy bớt giận để tại hạ có lời phân giải. Chúng tại hạ đây trước tiên xin lỗi các vị lão trượng nơi cửa thánh đã để xảy ra việc bất như ý. Cũng do lần đầu mới đến không biết được quy cách của cổ trấn, lại thấy trời đã sắp chuyển sang trưa bèn nóng lòng muốn hành lễ trước còn kịp sang hành lễ bên đền Sĩ Vương. Nay tiểu đệ vô tình gây họa chỉ mong được sớm đền đáp bằng ngân lượng để chúng tại hạ xuống thuyền còn kịp đêm mai đến bến Giang Biên giao hàng cho quan Tổng quản. Nếu chẳng may chậm trễ quan Tổng quản trách phạt sẽ không biết ăn nói ra sao.
Lời Lưu Thạo chưa dứt, đám đông bốn phía tiếng hò hét đã vang lên:
– Bắt giữ ngay quân giết người lại! Định dùng tiền mua mạng người không xong nơi cửa thánh này đâu! Đừng để bọn Tổng quản phương Bắc ỷ thế làm càn bênh vực lũ gian thương. Bắt ngay bọn chúng xử tội tại nơi chúng gây án mạng.
Vũ Lâm hầu nhìn trước nhìn sau thấy đám đông ngày càng hò hét dữ tợn chưa biết tiến thoái ra sao bất đồ Mã Phương dường như không chịu thấu rút soạt thanh trường kiếm giấu trong bọc vải đeo phía sau trỏ đám đông quát lớn:
– Các ngươi không cút xéo hết ngay bản tướng sẽ không khách khí đâu!
Theo tiếng quát của Mã Phương, mười hai tên vệ sĩ giả dạng khách buôn đi cùng lập tức rút soạt đao kiếm chĩa ra bốn phía đồng thanh hét:
– Mau bảo vệ đại nhân!
Đám người đang hò hét chợt thấy đao kiếm không biết từ đâu rút ra loang loáng, lại thấy kẻ cao lớn vừa đánh chết bà lão sát khí đằng đằng tự xưng là bản tướng biết rằng không phải chỗ sinh sự lục tục kéo nhau đi hết. Vòng người giãn dần ngày càng thưa thoáng, duy chỉ hai mươi bảy cụ bô lão cùng vị thủ từ vẫn đứng im phăng phắc.
Đợi đám đông rút hết đi, cụ lão mặc áo đỏ mới tiến ra hỏi lớn:
– Chẳng hay các vị là binh tướng ở đâu? Đã thành tâm đến cửa thánh dâng hương sao còn đem theo đao kiếm? Đã vô cớ gây họa còn thị uy khách thập phương hỏi là theo đạo lý gì? Lão hủ sống đã ngót tám mươi tuổi chưa thấy ai hung hăng hỗn hào đến vậy.
Từ đầu đã khéo léo nhẫn nhịn, đến lúc này, Vũ Lâm hầu không còn giữ thể diện nữa trỏ cụ già mắng lớn:
– Ta là ai người thường như các người không thể biết được. Nay mai, Tổng quản Trương Húc sẽ cho các ngươi biết rõ thân phận của ta. Nay ta tạm tha cho đám dân đen các ngươi tội mạo phạm đại quan Lương triều. Hãy mau bảo bọn thôn trưởng sắc dịch ghi rõ tường tận mọi việc rồi báo lên quan trên. Đừng để lão gia nổi giận thì ngay cả cổ trấn Luy Lâu của các ngươi cũng khó mà toàn vẹn.
Các cụ lão trượng đứng sững người như không tin những điều mình vừa nghe còn chưa biết phản ứng ra sao trước thái độ quá ngang ngược của đám lái buôn giờ đã hiện nguyên hình là đám quan lại hống hách phương Bắc thì kẻ vừa mắng mỏ thị uy đã dẫn đầu đám lâu la rút thẳng xuống thuyền. Mới đi được một đoạn, phía đường lớn bỗng bụi bay mờ mịt, hơn hai trăm giáp sĩ ý chừng chờ chủ nhân lâu không trở lại đã nóng lòng xông thẳng lên bờ tìm đến đền thờ hộ vệ. Khi đoàn binh tướng rầm rầm rộ rộ rút xuống mười hai chiếc thuyền gỗ lớn nhổ neo đi rồi dân cổ trấn Luy Lâu vẫn còn bàng hoàng không tin vào điều vừa mới xảy ra.
*
Đây nói tiếp chuyện Từ sư phụ cùng tiểu tăng Lý Bí trên thuyền gỗ Đầm Bạch Long thuận dòng gió nước đầu xuân xuống Cổ Loa.
Thuyền nhẹ nước xuôi, cảnh sắc hai bên bờ dòng Câu giang đầu xuân cỏ cây hoa lá xôn xao khoe sắc. Có những vụng nước rộng cây cối hai bên bờ xòa ra cả mặt nước chim chóc nhảy nhót rất vui nhộn. Những thân cây cổ thụ xòa bóng rợp cả khúc sông lấm tấm khai hoa điệp lên nền trời xuân sắc màu lộng lẫy. Lần đầu rời cổ tự, tiểu tăng phấn chấn đứng ở đầu thuyền không ngớt chỉ trỏ, trò chuyện với những tráng đi theo lệnh Lý trang chủ đưa hai thầy trò xuống ngã ba Bạch Hạc. Hai con ngựa tía trên thuyền nhìn sang hai bờ sông nước chừng phấn khích gõ móng bồm bộp xuống mặt ván thuyền. Nguyên hai chú tía mật này Lý trang chủ đem về từ miền thượng đạo rừng Hắc Lâm. Vị tù trưởng nơi thượng đạo xưa nay vốn có mối giao tình sâu sắc với Lý gia đã đích thân kén chọn tặng đôi ngựa quý. Giống ngựa lông tía vùng thượng đạo Hắc Lâm không những dẻo dai vượt rừng leo núi cả ngày không mệt mỏi còn có thể vượt lầy lội rẽ nước sông hồ rất khéo. Lúc mới lên thuyền vó ngựa còn nghi ngại chỉ giây lát chúng điềm nhiên gại móng nhìn kỹ hai bên bờ chừng như để nhớ đoạn đường đang vượt qua nhằm ngày về không lạc lối. Thuyền như lướt trên mặt sông. Dọc đường, cứ một quãng ngắn, lại có vài tốp thuyền ngược lên Đầm Bạch Long. Mùa xuân không chỉ là mùa lễ hội các tộc người hai bên bờ Câu giang còn là dịp du xuân tiện thể giao thương khắp các vùng miền. Từ ngày Lý trang chủ cho mở rộng bến bãi Đầm Bạch Long, lượng hàng hóa, trâu bò dê ngựa, muối sắt, gỗ gạo vận chuyển về nhộn nhịp tất bật lắm. Chính vì thế, hương dân các tộc ở Cổ Pháp cuộc sống ngày càng sung túc mãi lên.
Thuyền đi đến sẩm chiều tới vùng ngã ba sông Bạch Hạc. Từ sư phụ cùng tiểu tăng từ biệt các tráng đinh dắt ngựa lên con đường nhỏ men sát bờ sông. Chờ khi bóng hai người cưỡi ngựa lẫn hút trong những vạt lau chiều in bóng xuống mặt sông chạng vạng chiếc thuyền gỗ mới từ từ quay mũi ruổi tay chèo phăm phăm ngược nước trước khi mặt trời lặn xuống mặt sông.
Nhẹ nhàng thúc ngựa đi nước kiệu, Từ sư phụ khẽ xoay người nói với tiểu tăng:
– Thầy trò ta đi nửa dặm đường nữa tới cổ tự Hạc Trì. Cũng gần mười năm rồi, không biết Cù sư phụ còn giảng pháp ở đó không?
Tiểu tăng Lý Bí khe khẽ gật đầu chăm chú nhìn vào con đường phía trước. Đường mòn theo sát bờ sông có những chỗ cây cối xòa ra chỉ vài bước chân không nhìn thấy người phía trước chứng tỏ vùng này cư dân thưa thoáng và dường như mọi di chuyển đều theo thuyền trên sông nước cả khiến con đường gần như bị bỏ quên mặc cỏ dại cây cối lấp đầy.
Chẳng mấy chốc, trong ánh sáng lấp lóa của những tia nắng cuối cùng, ngôi cổ tự nằm sát dòng sông đã hiện ra trước mắt. Cả một rừng cổ thụ vươn lên bầu trời đang bắt đầu tối thẫm khiến ngôi chùa càng trở lên tịch mịch.
Nhẹ nhàng xuống ngựa, hai thầy trò cột hai con tía mật ngay bãi đất trống nhỏ trước cổng tam quan cũ kỹ rêu phong thong thả tiến vào chùa. Cổng tam quan vẫn mở. Trong chùa đã le lói ánh đèn nhưng tịnh không thấy bóng người nào cả chỉ đều đều tiếng mõ lốc cốc thanh tịnh vang lên.
Từ sư phụ nhìn vào trong tự cất giọng:
– Nam mô a di đà phật! Chẳng hay Cù sư phụ có ở trong tự đó chăng?
Tiếng hỏi dứt đã lâu mới thấy tiếng mõ lốc cốc ngừng lại. Nơi cánh cửa gỗ vẫn mở từ trước xuất hiện một vị tiểu tăng trạc mười ba mười bốn tuổi dáng người thanh mảnh đứng thi lễ nói:
– Các vị thí chủ đi đâu sao lại đến cổ tự vào lúc chiều muộn thế này? Xin mời các thí chủ vào trong dùng trà.
Từ sư phụ đưa mắt nhìn vị tiểu tăng mảnh khảnh. Lúc này, mặc dù trời đã tối sẫm song tiểu tăng đã nhận ra hai vị khách cũng là bậc tu hành khoác áo vải nâu, đeo bị cói, chân đi giày cỏ. Hai người chắc từ xa đến bởi có tiếng ngựa gõ móng lộp bộp ngoài cổng tam quan. Thấy vậy vị tiểu tăng trầm giọng nói:
– Xin mời sư phụ và sư huynh vào tệ xá dùng trà.
Bấy giờ, Từ sư phụ mới cất tiếng:
– Nam mô a di đà phật! Lão tăng từ hương Cổ Pháp ghé thăm bạn cũ. Không biết Cù sư phụ có được khỏe mạnh không?
Vị tiểu tăng khẽ đứng qua một bên giơ tay mời hai vị khách vào trong vừa xúc động nói:
– Bạch sư phụ! Thì ra là Từ sư phụ ở hương Cổ Pháp, bạn tri âm của lão sư phụ. Bạch thầy! Sư phụ năm trước đã theo về với Phật tổ rồi.
Từ sư phụ khẽ sững người trấn tĩnh nói:
– Nam mô a di đà phật! Sao sư phụ sớm về nơi cực lạc không đợi lão tăng đến thăm lấy một lần. Lão tăng đây kể tuổi còn hơn Cù sư phụ hai niên vậy không hiểu lý do gì sư phụ sớm rời tự theo Phật tổ làm vậy?
Vị tiểu tăng rơm rớm đáp:
– Luôn mấy năm trước, sư phụ vẫn còn khỏe mạnh lắm. Ngài vẫn vào tận trong dân vùng thượng du giảng pháp, dạy việc nông tang, cày bừa, dệt vải, xẻ gỗ dựng nhà. Có thôn cách đến hơn mười dặm có đám hiếu nào thỉnh sư phụ đều đích thân đến lập đàn siêu độ cho. Đột nhiên năm trước, đúng mùa nước to dâng ngập sân cổ tự, ngài tịnh độ niệm kinh luôn một tuần liền rồi cứ thế hóa lúc nào không biết. Trước đó sư phụ có căn dặn khi nào có Từ sư phụ ở Cổ Pháp xuống hãy đưa cho một chiếc hộp gỗ. Tiểu tăng đợi đã hơn một năm nay.
Tiểu tăng Lý Bí từ nãy tới giờ ngồi im lắng nghe câu chuyện cửa chùa lòng dạ không khỏi bâng khuâng. Mới thấy việc sinh tử mất còn với các vị cao tăng cũng nhẹ nhàng như mây bay gió thoảng.
Từ sư phụ đợi tiểu tăng đem chiếc hộp gỗ ra mới thong thả nói:
– Lão tăng với Cù sư đệ trước đây là đồng môn huynh đệ cùng học một thầy. Sư đệ vốn đạo pháp cao thâm nhưng tính tình quá khiêm nhượng chỉ ưa thích những chốn tịch mịch để tiện ẩn mình mới chọn cổ tự Hạc Trì làm nơi giảng pháp. Dẫu thế sư đệ vẫn nhớ lời tổ dạy phải đồng hành với dân chúng trong công cuộc mưu sinh. Sư đệ không chỉ thông thuộc kinh phật mà còn rất giỏi lục nghệ, mọi việc thổ mộc nông tang, dựng nhà cất nóc đệ ấy đều tinh tường. Nay sư đệ sớm về nơi cực lạc không biết có điều gì dặn lão tăng đây?
Vừa nói Từ sư phụ vừa nhẹ nhàng mở nắp chiếc hộp gỗ. Bên trong là chiếc thẻ trúc được bọc bằng chiếc vuông vải nâu. Trên thẻ trúc chi chít những dòng chữ nhỏ được khắc rất tinh xảo.
Dưới ánh sáng của ngọn đèn dầu khi mờ khi tỏ, Từ sư phụ lặng lẽ đọc những dòng chữ rồi ngồi im có vẻ suy nghĩ lắm.
Thấy Từ sư phụ im lặng suy tư, hai vị tiểu tăng ngồi phía đối diện trên ghế gỗ cũng chỉ lặng lẽ nhìn mãi vào sư phụ.
Sau hai tuần ở lại nơi cổ tự Hạc Trì, căn dặn các việc với tiểu tăng Phạm Hiền, dâng hương trò chuyện nơi mật thất lưu giữ tro cốt của Cù sư đệ, hai thầy trò từ biệt lên đường. Một tuần ở đó, Lý tiểu tăng và Phạm tiểu tăng quyến luyến nhau lắm. Lý Bí hơn Phạm Hiền một tuổi được tôn làm sư huynh. Phạm tiểu tăng rất phục tài sư huynh không chỉ đạo pháp tinh tường, sử kinh thông suốt mà còn rất giỏi võ vật, cưỡi ngựa. Tuy chỉ ít ngày, Lý Bí đã kịp dạy cho Phạm Hiền phép luyện thở dưỡng thần và bộ quyền pháp nhằm rèn luyện sức khỏe. Phạm tiểu tăng vóc người thanh mảnh nhưng trí tuệ mẫn tiệp, học đâu biết đấy, lại rất cầu thị không ngại hỏi sư phụ và sư huynh mọi việc đạo – đời. Thấy hai tiểu tăng khăng khít với nhau, Từ sư phụ trong bụng rất vui mừng.
Buổi chia tay nơi sân cổ tự, Từ sư phụ nói với Phạm tiểu tăng:
– Nay ta và sư huynh con xuôi xuống Cổ Loa rồi tiện thăm thú các tự vùng Long Đỗ, Luy Lâu, Chu Diên, chắc phải cuối năm mới trở về. Con ở lại tự nhớ siêng năng đạo pháp, rèn luyện gân cốt thêm an vững. Lời dặn của Cù sư đệ ta đã thuộc ở trong lòng, nay con hãy giữ chiếc hộp gỗ, chờ ta đi khỏi hãy mở ra mà tu tập theo di nguyện sư phụ con.
Tiểu tăng Phạm Hiền xúc động nói:
– Bạch sư phụ! Thưa sư huynh! Con tám tuổi mồ côi cha mẹ được Cù sư phụ đón vào cửa chùa nuôi dạy. Nay người sớm về đất Phật dặn con sau này mọi việc phải theo lời Từ sư phụ. Nay con đợi sư phụ, sư huynh ở cổ tự này mong sớm được đón thầy nghe lời chỉ dạy. Đệ tử nguyện sẽ chuyên cần sớm tối. Sư phụ, sư huynh không phải bận tâm nhiều cho đệ tử.
Từ sư phụ nhìn đôi vai mảnh khảnh, cặp mắt sáng láng của vị tiểu tăng ân cần nói:
– Có gian nan rèn luyện mới thành công quả. Hôm trước ta thấy Kiều gia ở trong hương thôn Hạc Trì đến thăm cổ tự là người có viễn kiến sâu sắc, trò chuyện khiến ta rất yên tâm. Việc các lão trượng vùng Hạc Trì tuần tiết đều đến dâng hương cầu phúc ta đã bàn với Kiều trang chủ rồi. Có việc khó gì, con hãy thẳng thắn trao đổi với Kiều gia.
Nói đến đó, ba thầy trò từ biệt lên đường. Tiểu tăng Lý Bí mấy lần quay đầu nhìn lại cho tới khi cổng tam quan khuất bóng.
*
Sau hai ngày đi đường vất vả, Từ sư phụ và tiểu tăng Lý Bí đến vùng đất Cổ Loa lúc chạng vạng chiều.
Vùng thành ốc Cổ Loa khá tiêu điều. Sau ngày An Dương Vương để rơi kinh thành vào tay Triệu Đà, họ Triệu nhằm trả thù ngày trước bị chết nhiều binh tướng dưới chân thành đã cho phá bỏ nhiều đoạn, xua đuổi dân chúng, chặn sông khơi nước khiến vùng thành cổ triền miên ngập trong biển nước hoang. Nhằm dứt nền quốc thống người Giao Chỉ, Triệu Đà di dời trị sở sang vùng đất khác lại bách hại dân chúng khiến trăm họ vô cùng phẫn uất. Cổ Loa ngày trước vốn có nhiều tòa nhà gỗ lớn họ Triệu tháo dỡ còn sót lại dân chúng quanh vùng nhớ ơn đức vua An Dương Vương cùng tướng quân Cao Lỗ đã lặng lẽ gom gỗ đá dựng lên hai căn miếu nhỏ để thờ.
Hai thầy trò Từ sư phụ và tiểu tăng Lý Bí dừng chân trước ngôi miếu hoang thờ Cao tướng quân. Trong ánh chiều chạng vạng, thấp thoáng bóng dơi bay lạt xạt khiến môi miếu cổ càng thêm phần lạnh lẽo.
Hai thầy trò cột ngựa ngay bãi đất bên ngoài rồi lặng lẽ đứng quan sát. Một lát sư phụ bảo:
– Ngày trước, nếu vua An Dương Vương nghe lời tướng quân Cao Lỗ thì đâu đến nỗi vong quốc vong thân cùng đường tuyệt lộ phải giết cả con gái mình như thế. Mới thấy lời nói của trung thần không phải lúc nào các bậc vua chúa cũng nghe lọt vào tai.
Tiểu tăng Lý Bí trước ngôi miếu hoang không khỏi bần thần nói:
– Bạch sư phụ! Gốc nước là những trung thần nghĩa sĩ, nền tảng quốc gia là tấm lòng dân chúng hướng về. Vua phụ lòng dân, bậc quân trưởng không nghe lời hiền sĩ để đến nỗi kinh thành nguy nga tráng lệ bỗng chốc trở thành gò đất hoang vu thật đau xót lắm thay.
Hai thầy trò đang cảm khái chuyện trò bỗng đâu có bóng người hô hét chạy rầm rập từ con đường đất bên ngoài vào trong ngôi miếu cổ. Từ sư phụ thoáng thấy hai thiếu niên bận đồ vải nâu hốt hoảng chạy phía trước, phía sau là một đại tăng to lớn với cặp lông mày dữ tợn, khuôn mặt đằng đằng sát khí vừa nhắm bắt hai thiếu niên miệng vừa hò hét:
– Lũ tiểu quỷ các ngươi mau đứng lại để lão gia xử tội!
Hai thiếu niên thấy trong miếu có bóng người vội luồn qua hai con ngựa nhảy vào trong sân miệng kêu cứu rối rít.
Từ sư phụ bước ra chắn trước hai thiếu niên miệng nói:
– Nam mô a di đà phật! Chẳng hay phương trượng có việc gì cáu giận đến nỗi đuổi bắt đệ tử nơi cửa miếu này?
Đại tăng miệng thở hồng hộc vung cánh tay hộ pháp chỉ thẳng vào mặt Từ sư phụ hét to:
– Lão hòa thượng thối tha mau cút đi để lão gia trừng trị hai tên tiểu quỷ.
Từ sư phụ ôn tồn nói:
– Chẳng hay chúng có lỗi lầm gì mà đuổi đánh chúng? Phương trượng ở chùa nào, sao không dùng pháp độ giáo hóa đệ tử mà lại động chân động tay với chúng?
Lão tăng liên tiếp vung quyền miệng hét lớn:
– Lão hòa thượng thối tha! Ta đánh chết ngươi trước rồi dạy dỗ bọn kia cũng chưa muộn.
Vừa hò hét, lão tăng vừa vùn vụt tung quyền cước ào ạt nhằm Từ sư phụ đánh xuống không thương tiếc. Từ sư phụ chậm rãi tránh hết đòn này đòn khác rất uyển chuyển. Hai thiếu niên thấy đột nhiên có người che đỡ cho chúng sợ hãi lẻn trốn vào bên trong miếu mặc kệ lão tăng nổi cơn thịnh nộ bức bách lão sư phụ không quen biết ngay ngoài cửa miếu.
Đại tăng sau hồi loạn đả tay đấm chân đá bạt mạng không hạ được địch thủ thở hồng hộc càng điên tiết rút soạt thanh chủy thủ giắt sẵn bên hông xông vào quyết sát hại kẻ ngáng đường.
Thấy vậy, Từ sư phụ khẽ lùi lại nói:
– Nam mô a di đà phật! Người tu hành sao lại đem sẵn đao kiếm định giết người vô cớ làm vậy? Ngươi không sợ Phật tổ trách phạt hay sao?
Đại tăng hùng hổ mắng:
– Hôm nay ông đây sẽ cho ngươi về chầu trời tha hồ mách chuyện với Phật tổ.
Vừa nói vừa hét, đại tăng sấn đến vung chủy thủ đâm bừa vào Từ sư phụ. Từ sư phụ đảo bộ nghiêng sang một bên đồng thời quét ngang ngọn cước thần tốc sát sạt mặt đất khiến lão tăng to lớn đổ oạch xuống như một cây thịt trước sân miếu khiến chủy thủ văng ra khỏi tay. Đại tăng tức tốc nghiêng người cuộn nửa vòng đứng phắt dậy nhặt cây chủy thủ lại lập tức xông vào đâm kẻ vừa đánh ngã y. Từ sư phụ không khách sáo nữa nhẹ nhàng tiến lên tay đưa loang loáng một chặp đã thấy đại tăng bị tước chủy thủ đứng như trời trồng vì đã bị điểm một loạt huyệt đạo khắp toàn thân tê dại miệng cứng mắt mở trừng trừng.
Từ đầu đứng xem sư phụ trừng trị tên ác tăng, tiểu tăng Lý Bí không khỏi thần phục thân thủ phi phàm của sư phụ lúc đó mới quay người nói vọng vào trong ngôi miếu cổ:
– Hai vị tiểu huynh đệ hãy ra ngoài cho sư phụ ta hỏi chuyện. Lão ác tăng đã bị điểm huyệt không hại được người nữa rồi.
Hai thiếu niên lúc đó mới hoàn hồn thập thò bước ra khoảng sân nhỏ phía trước. Từ sư phụ nhìn kỹ cả hai thấy mặt mũi sáng sủa, dáng người nhanh nhẹn, tuy không giấu được vẻ sợ hãi nhưng thần sắc lộ rõ vẻ điềm tĩnh trang nghiêm bèn ân cần hỏi:
– Chẳng hay hai ngươi đã gây ra chuyện gì khiến đại tăng đây đến nỗi phải đuổi đánh đến cùng như thế?
Một thiếu niên tiến lên thủ lễ thưa:
– Bạch sư phụ! Đệ tử là Điền Công còn sư đệ đây là Điền Thái đều vào cửa phật từ năm bảy tuổi ở với lão sư phụ. Tháng tám năm ngoái, chẳng may lão sư phụ bạo bệnh qua đời được hương dân trong vùng ma chay chu tất còn thay nhau cắt đặt người đến cổ tự để giúp đỡ chúng tiểu tăng. Ba tháng trước, không biết đại tăng đây ở phương nào thình lình đến cổ tự ở lì không chịu rời chùa còn làm những chuyện thương luân bại lý, hãm hiếp đàn bà con gái ngay trong cổ tự. Thường ngày, đại tăng bắt chúng tiểu tăng đi khất thực ở nơi xa tối mới cho về tự để tiện giở trò đồi bại với các nữ phật tử. Chẳng dè hôm nay tiết trời mưa gió, từ giữa chiều tiểu tăng và sư đệ về sớm bắt gặp quả tang đại tăng đang hại người khiến đại tăng nổi giận đuổi giết chúng tăng đến đây. May nhờ có sư phụ ra tay cứu giúp chứ không biết tính mạng chúng tăng sẽ ra sao?
Từ sư phụ nghe tiểu tăng thuật lại câu chuyện trong lòng vô cùng phẫn nộ song ngài cố nén giận chiếu ánh mắt rực sáng vào lão đại tăng đã bị điểm huyệt nhưng hai tai vẫn nghe rõ từng tiếng tố tội mình mặt tái xám vì sợ hãi, miệng ú ớ nhưng không thốt nổi lời nào.
Từ sư phụ nén giận chỉ đại tăng mắng:
– Ngươi quả là nghiệt súc đã dám vấy bẩn cửa thiền còn mặt mũi nào tụng kinh niệm phật nữa. Ta lẽ ra thay mặt Phật tổ xử ngươi tội chết cũng đáng song mạng người là quý ta tạm tha cho. Ngươi hãy cút khỏi nơi đây mau hoàn lương tránh xa những tội lỗi đã gây ra, tuyệt đối không được phạm lại kẻo trời đất không dung tha ngươi lần nữa đâu. Cả đời ngươi tuyệt đối không được bước vào bất kỳ một chùa chiền đình miếu nào nữa. Hãy nhớ công ơn cha mẹ sinh thành mà tu tâm dưỡng tính sống tốt phần đời còn lại. Ngươi hãy mau cút đi!
Nói đoạn, Từ sư phụ thong thả tiến tới trước tên ác tăng vung tay giải các huyệt đạo cho gã thuận tay ném chiếc chủy thủ rơi chõm xuống đầm nước phía xa. Tên ác tăng sau giây phút bàng hoàng sượng sùng khổ sở không dám nhìn vào mấy người trong miếu lặng lẽ lê tấm thân bầm giập to lớn bước ngược con đường đất dẫn vào ngôi miếu hoang.
Khi cái bóng rùm ròa lẫn khuất trong ánh chiều chạng vạng cũng là lúc hai thiếu niên cùng leo lên ngựa với Từ sư phụ và Lý Bí tìm về ngôi cổ tự.
 
27/1/2021
Vũ Tuấn Hoàng
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme

Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme Bạn đọc yêu thơ hẳn còn nhớ tới một trong những thi phẩm đầu tay của nhà thơ ...