Nhận diện lại Nam Phong tạp chí
“Ở các nước văn minh tiên tiến thì văn học đều có trước báo
chí, mà ở nước ta thì chính lại nhờ báo chí xây dựng nền văn học.”(1) (Thiếu
Sơn).Chủ bút Phạm Quỳnh của Nam Phong tạp
chí1. Số đầu Nam Phong tạp chí ra ngày 1.7.1917.
Đây là tờ báo bách khoa nguyệt san, khổ 19×27,5cm, gồm hai phần: chữ
Quốc ngữ và chữ Hán, mỗi phần có khoảng từ sáu mươi đến bảy mươi trang. Bắt đầu
từ năm 1923 trở về sau, tạp chí có thêm phần phụ trương bằng chữ Pháp và từ số
195, ra ngày 1.5.1934, Nam Phong chuyển thành bán nguyệt san, nhưng chỉ tồn tại
đến cuối năm thì đình bản. Louis Marty, Giám đốc Phòng An ninh chính trị của phủ
Toàn quyền Đông Dương là người đứng ra sáng lập tạp chí, Phạm Quỳnh (hàn lâm viện
trước tác) làm chủ bút phần chữ Quốc ngữ, Nguyễn Bá Trác (hàn lâm viện thị giảng)
làm chủ bút phần chữ Hán và ông Lê Văn Phúc, chủ nhà in Đông Kinh làm quản lý
kiêm luôn việc phát hành báo. Tòa soạn đóng tại số 80 phố Hàng Gai, Hà Nội. Qua
17 năm tồn tại, nhân sự của ban biên tập cũng có sự vận động thay đổi: Phạm Quỳnh,
Nguyễn Bá Trác, Dương Bá Trạc, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Hữu Tiến, Phan Khôi, Tản
Đà, Hoàng Tích Chu, Nguyễn Mạnh Bổng (1917 – 922); Phạm Quỳnh, Lê Dư (phụ trách
phần chữ Hán thay cho Nguyễn Bá Trác), Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Trọng Thuật,
Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Triệu Luật, Hoàng Ngọc Phách, Trần Trọng Kim, Phạm Duy
Tốn, Vũ Đình Long (1922 – 1925), Nguyễn Trọng Thuật (thay Phạm Quỳnh), Lê Dư,
Nguyễn Hữu Tiến, Bùi Kỷ, Vũ Đình Long, Nguyễn Tường Tam, và một số văn nhân thi
sĩ phương Nam như Đông Hồ, Mộng Tuyết, Nguyễn Văn Kiêm, Trúc Hà (1925 – 1932);
Nguyễn Tiến Lãng, Lê Văn Phúc, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn
Phục, Đỗ Đình Thạch.
Nam Phong được thành lập theo “chủ thuyết” của Toàn quyền
Đông Dương Albert Sarraut, một người đã từng làm báo, từng là biên tập viên thường
trực cho tờ La Depeche du Midi ở Toulouse, hiểu rất rõ về sức mạnh của
báo chí, nên mục tiêu của tờ báo là quá rõ ràng, là nhằm “cung cấp cho giai cấp
sĩ phu và trí thức An Nam những bài chính xác ngỏ hầu họ quan niệm được cái vai
trò của người Pháp trên thế giới về phương diện văn hóa, khoa học và kinh tế. Tạp
chí mới này, lấy tên là Nam Phong, sẽ đăng những bài phân tích chính xác về những
tác phẩm khoa học và văn chương hay nhất, tiểu sử những nhà bác học danh tiếng
của chúng ta, những sự mô tả đẹp đẽ về nước Pháp, những bài phiên dịch những
truyện ngắn hay tiểu thuyết… Ngay sau khi phát hành, tạp chí này đã hoàn toàn
thành công trong giới độc giả trí thức mà nó muốn chinh phục và nhóm người nầy
lần đầu tiên đã tìm thấy được một cái gì tương đương với những sách vở mà họ đã
gửi mua từ bên Tàu trước đây”(2). Ngay cả việc in câu nói của Tổng thống Mỹ
Roosevelt lên trang bìa của tạp chí, cũng cho thấy dụng ý chính trị của thực
dân: “Có đồng đẳng mới bình đẳng được”. Câu nói như một lời đề từ, vừa khuyến dụ,
vừa có ý chê bai trình độ văn minh thấp kém của người An Nam. Cái tên Nam
Phong bắt nguồn từ bài cổ thi của Trung Hoa dưới thời vua Thuấn (2.255 năm
TCN) với cái nghĩa là ngọn gió khai hóa, cải tạo xứ An Nam.
Ngoài mục tiêu ca ngợi người Pháp, phổ biến nền văn minh
Pháp, A.Sarraut và L.Marty còn muốn dùng Nam Phong cách ly sự ảnh hưởng của người
Trung Hoa đối với nước ta, đồng thời chống lại sự tuyên truyền, nói xấu của người
Đức đối với người Pháp ở các nước thuộc địa, khi ở bìa sau của tạp chí có in
hình “rồng Nam phun lửa diệt Đức tặc”. Louis Marty cũng đã từng thừa nhận rằng:
“Tờ báo này nay tên là Nam Phong, viết bằng chữ quốc ngữ và chữ Nho, nhằm mục
đích gieo rắc một cách khéo léo và sâu đậm ảnh hưởng của nước Pháp vào giới sĩ
phu ở khắp ba kỳ, kể luôn các tỉnh Trung Hoa giáp giới Bắc Kỳ”(3). Vì vậy, hàng
tháng chính phủ thuộc địa đã trợ cấp cho tạp chí 400 đồng, nhằm hỗ trợ chi phí
cho tòa soạn và ấn loát (4, tr.211).
2. Về nội dung, những số đầu Nam Phong gồm có
tám mục: luận thuyết, văn học bình luận, triết học bình luận, khoa học bình luận,
văn tuyển, tạp trở, thời đàm và cuối cùng là tiểu thuyết. Về sau, tạp chí có
thêm những mục như tùng đàm, hài văn kỷ yếu, tồn danh thần lục, yếu lược về
kinh tế. Nhưng làm nên hồn cốt, diện mạo đặc sắc và khẳng định vị trí của Nam
Phong là các chuyên mục văn học, triết học và khoa học. Về triết học, tạp chí
chủ trương truyền bá tư tưởng triết học của phương Tây, nhằm cải biến nhận thức
truyền thống của người Việt thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng triết học Nho giáo, dịch
và đăng những công trình triết học của Déscartes, Bezson, Voltaire, Julessimon,
J.Rousseau, Montesquieu…(Chẳng hạn, Phạm Quỳnh dịch và giới thiệu học thuyết của
Voltaire in trên số 114, hoặc Thượng Chi (bút danh của Phạm Quỳnh) dịch thuyết Tự
do luận của Julessimon in trên số 121). Ngay trong Mấy lời nói đầu in
ở số đầu tiên, ra ngày 1/7/1917, chủ bút Phạm Quỳnh đã nói rõ: “Trong những bài
bình luận về triết học, chúng tôi lấy cái chiết trung chủ nghĩa làm cốt, nghĩa
là không thiên về một học thuyết nào, cái nào hay cũng thâu nhặt lấy. Nhưng cái
tôn chỉ của chúng tôi là giúp cho sự tiến bộ của quốc dân về đường tri thức, về
đường đạo đức, thì tấc khuynh hướng về cái “duy tâm chủ nghĩa” hơn là cái “duy
kỷ chủ nghĩa”. Vậy về đường tư tưởng, chúng tôi thiên trọng cái triết học của
nước Pháp, vì cái triết học Pháp thực là gồm cả bấy nhiêu cái khuynh hướng “duy
tâm”, “duy tha” mà thực tế đáng làm mẫu cho cái lý tưởng mới của ta”. Về văn học,
tạp chí dịch và giới thiệu văn học Hy La, các tác giả văn học Pháp như thơ của
Charles Pierre Baudelaire, truyện ngắn của Guy de Maupassant… Văn học trong nước
được giới thiệu ở mục văn tuyển, chọn đăng thơ của các tác giả thành danh trong
quá khứ (Bạch Vân thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Khóc quan thượng thư
Vân Đình Dương Khuê, Đùa ông bạn điếc của Nguyễn Khuyến…), thơ của các tác
giả đương thời (Đông Dương tổng ca của Tôn Thất Pháp, Chơi chùa Ngũ
Hành, Tới Ải Vân không gặp bạn của Trần Hữu Giương…), hoặc văn xuôi, mà chủ
yếu là truyện ngắn (Lòng yêu nước của Mân Châu Nguyễn Mạnh Bổng, Đồng
tiền nói chuyện của Điếu Hoàng…). Về khoa học, tạp chí giới thiệu những
phát minh/ kiến thức mới mẻ của phương Tây, như bài viết về kỹ thuật đóng tàu
ngầm của kỹ sư người Pháp Laubeuf, bài Tâm lý học-định lệ của cảm
giác (Nguyễn Triệu Luật dịch), hoặc các bài viết về khoa học thường thức
như Mấy lời về phép vệ sinh (Phan Khôi dịch), Bệnh lao có chữa
được không của Phạm Quỳnh, Cái hại thuốc lá của Mã Nhân… Nhìn
chung, nội dung tạp chí đã đề cập đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực khác nhau
trong cuộc sống của con người, xứng đáng với sự tôn vinh là bách khoa tạp
chí đương thời. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Muốn hiểu biết những
vấn đề tôn giáo hay văn học, những thơ văn Việt Nam từ xưa cho đến thế kỷ thứ
XIX, để hiểu hơn lịch sử hay cuộc đời của những nhân vật lịch sử Việt Nam, những
vấn đề chính trị hay xã hội Âu châu… chúng ta chỉ cần đọc theo dõi tạp chí này.
Chỉ cần đọc tạp chí Nam Phong cũng có thể mở mang kiến thức được” (5,
tr.210).
Về hình thức, tùy thuộc vào nội dung phản ánh và khuôn khổ của
các chuyên mục mà các tác giả lựa chọn một thể tài để chuyển tải thông tin đến
với người đọc, trong đó đáng chú ý là những bài bình luận hoặc những phản ánh
có tính chất phóng sự, đã cung cấp một nội dung chuyên sâu về một vấn đề tư tưởng,
văn hóa – xã hội. Tạp chí có đăng tải thể tài tin, nhưng thường nằm trong mục tạp
trở hoặc thời đàm, phản ánh những sự kiện diễn ra trong tháng trước, về chính
trị, văn hóa, ngoại giao của thế giới, mà chủ yếu là của nước Pháp. Về tin
trong nước, tạp chí đăng tải những sự kiện liên quan đến các hoạt động và công
việc của các chính khách Pháp ở nước ta và các quan lại triều Nguyễn. Tất
nhiên, tin thời kỳ này còn hạn chế về kết cấu, thiếu sự cô đọng, súc tích, đôi
khi tối nghĩa. Chẳng hạn, tin sau đây in trên số 19 (1919): “1 tháng 1 (năm
1919) – Điện Paris: Quan giám quốc Wilson từ Paris đi sang chơi bên Ý-đại-lợi
(Italia) thăm vua Ý/ Tới thành Rome là kinh đô nước Ý, vua cùng hoàng hậu ra
đón, nhân dân nghênh tiếp thật long trọng. Quan Wilson đến thăm điện Panthéon
là nơi lăng tẩm các vua Ý. Ngài lại đến Capitole là thị sảnh thành Rome, dân tặng
ngài chức công dân thành Rome. Ngài vào yết kiến đức Giáo Hoàng ở điện Vatican.
Ngày 5 tháng 1 ngài từ Rome đi ra thành Gênes, quê ông Christophe Colom là người
đã tìm ra châu Mỹ trước nhất, năm 1692. Ngài mang một vòng hoa đến viếng mả
ông, có đọc mấy lời, nhân dân nghe rất cảm động, có người muốn nắm lấy vạt áo,
cầm lấy tay ngài mà hôn. Ngày 7 lại trở về Paris”. Bình luận là thể tài chiếm
ưu thế trên tạp chí Nam Phong. Ít nhất có ba chuyên mục được đặt tên là bình
luận: văn học bình luận, triết học bình luận, khoa học bình luận, và ngay cả
các chuyên mục khác không gọi tên là bình luận, nhưng đều được viết dưới dạng
bình luận: Tiếng dùng trong quốc văn (Nguyễn Văn Ngọc, số 19), Bàn
về tiếng An Nam (Dương Quảng Hàm, số 22), Chữ Pháp có dùng quốc văn
An Nam được không? (Thượng Chi, số 22), Đàn bà phương Đông (Nguyễn
Đôn Phục, số 101)… Phần lớn những bài bình luận đều sử dụng phương pháp diễn dịch,
chứ không phải quy nạp, nên thường diễn giải dài dòng, thiếu sự chặt chẽ trong
kết cấu. Điều đáng chú ý là trên tạp chí này đã xuất hiện một số bài viết có
tính chất phóng sự – du ký có giá trị bền vững, được coi là sự mở đầu cho phóng
sự hiện đại trong quá trình hiện đại hóa nền văn học nước ta những năm đầu thế
kỷ XX: Mười ngày ở Huế (Phạm Quỳnh), Cuộc chơi trăng sông Nhuệ (Mai
Khuê), hoặc các phóng sự dài kỳ Một tháng ở Nam Kỳ (Phạm Quỳnh), Hạn
mạn du ký (Nguyễn Bá Trác)…
3. Như đã nói, Nam Phong ra đời với mục tiêu chính trị
rõ ràng nhưng, các nhà biên tập của nó là những nhà văn hóa, đã nỗ lực xây dựng
tờ báo trở nên một cơ quan ngôn luận có tầm ảnh hưởng và có đóng góp hết sức
quan trọng trong nhiều lĩnh vực, nhất là trong quá trình hiện đại hóa văn học
và ngôn ngữ.
Đương thời, nhà phê bình văn học Thiếu Sơn từng cho rằng, “có
những kẻ không hiểu biết gì về văn chương Pháp và Trung Hoa, nhưng với tạp chí
Nam Phong họ có thể có được một trình độ tri thức cần thiết cho cuộc sống hằng
ngày. Những học giả chỉ cần đọc tạp chí này cũng có được một kiến thức rộng
rãi. Và trong khi đọc tờ Nam Phong người ta cũng có thể học hỏi được nền văn
hóa phương Đông” (6, tr.176). Đăng tải những tác phẩm văn học nước ngoài, không
chỉ dừng lại ở việc giới thiệu thành tựu, đánh thức và vun đắp thị hiếu và năng
lực thẩm mỹ, mà còn mở ra môi trường giao lưu văn hóa, tiếp thu và phát triển
các yếu tố văn hóa hiện đại. Những thành tựu nổi bậc của nền văn học Pháp thế kỷ
XIX lần đầu tiên được giới thiệu với độc giả nước ta, với nhiều trường phái,
nhiều trào lưu, nhiều hệ thống quan niệm. Chỉ tính riêng tiểu thuyết, Nam Phong
đã trình chánh nhiều tác giả tiêu biểu của văn học Pháp như Alfred Victor de
Vigny, Henry Bozdeaux, Paul Bourget, bên cạnh tiểu thuyết chương hồi của Trung
Hoa, như Tuyết hồng lệ sử, Song phượng kỳ duyên, Lục mẫu đơn, Phong kiếm
xuân thu… Về văn học trong nước, Nam Phong ủng hộ và tạo điều kiện cho nhiều
khuynh hướng mới trong văn học ra đời và khẳng định vị trí trong lịch sử văn học
nước ta. Những tác phẩm văn xuôi được coi là mở đầu cho dòng văn học hiện thực
phê phán ở nước ta, đều xuất hiện trên tạp chí này: Sống chết mặc bay của
Phạm Duy Tốn (in số 18/1918), Câu chuyện một tối của người tân hôn của
Nguyễn Bá Học (in số 116/1920) hoặc bài thơ Khuê phụ thán của Thượng
Tân Thị làm thay lời vợ vua Thành Thái thương nhớ đến chồng (vua Thành Thái)
con (vua Duy Tân) bị chính quyền thực đày sang châu Phi (in số 112/1919)… Là sự
tiếp tục và thay thế cho Đông Dương tạp chí đã bị tàn lụi và “thay
tên đổi họ”, nhưng Nam Phong còn làm được nhiều hơn thế, có tầm ảnh hưởng trong
đời sống tinh thần tư tưởng, văn hóa – văn học cả nước, nơi thu hút và quy tụ
nhiều học giả, nhiều gương mặt văn hóa của đất nước. Cũng chính từ văn học, đã
thúc đẩy ý nghĩa văn hóa lấn át mục tiêu chính trị, mà nhà đương cục đề ra ban
đầu làm mục tiêu cho tạp chí.
Cố nhiên, ở một mức độ nào đó, Nam Phong vẫn chưa hoàn toàn
thoát khỏi lối văn biền ngẫu, lối đặt câu bốn chữ, sáu chữ hoặc sử dụng quá nhiều
điển tích, điển cố, trộn lẫn với những câu văn Pháp chưa thuần thục, không phù
hợp với tư duy người Việt. Những hạn chế tất yếu này không làm che lấp tầm ảnh
hưởng sâu rộng của Nam Phong trong đời sống văn học của đất nước, bởi lẽ,
“trong khoảng 17 năm tạp chí Nam Phong đã xây dựng nên một nền văn học căn bản
và vững chắc cho văn chương chữ quốc ngữ, bằng những bài báo hay, những bài khảo
cứu văn học mà những nhà văn, những nhà trí thức Việt Nam ở Bắc Kỳ cũng như ở
Nam Kỳ lúc bấy giờ đã say sưa theo dõi” (7, tr.120).
Về ngôn ngữ, trong quá trình hoàn thiện chữ quốc ngữ, Nam
Phong đã góp phần “làm giàu thêm ngôn ngữ nước nhà bằng cách đặt nhiều danh từ
mới có liên quan đến triết học, khoa học bằng cách mượn chữ Hán làm hoàn hảo tiếng
Việt trong dịch thuật và diễn tả những tư tưởng và học thuyết triết học” (8,
tr.97). Quan trọng hơn, những con chữ từ tạp chí đã trở nên sinh động và ngày
càng thấm sâu trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt.
Bên cạnh tạp chí Nam Phong, ban biên tập còn thành lập nhà xuất
bản Nam Phong tùng thư, cho in sách nhằm cung cấp tài liệu cần thiết
giúp cho việc học chữ quốc ngữ được dễ dàng. Trong tạp chí Nam Phong, số
114 (1927), có nêu rõ mụ đích của việc làm này: “Chữ quốc ngữ ngày nay đã phổ
thông khắp trong nước, có thể dùng để làm cái lợi khí để truyền bá cái sự học
trong nhân gian. Kể sách quốc ngữ gần đây xuất bản cũng nhiều, nhưng ngoài những
sách giáo khoa để dùng trong các trường sơ học, phần nhiều là những sách thơ
văn, tiểu thuyết, tuy cũng có quyển có giá trị, bổ ích cho quốc văn, song vẫn
là sách văn chương “chơi” không giúp gì cho việc truyền bá sự học. Mà việc này
chính là cần cấp ngày nay/ Nho học mỗi ngày một tàn, Tây học dẫu có lấn tới mà
ngôn ngữ bất đồng, văn tự sai biệt, cũng khó lòng phổ cập trong dân gian. Phổ cập
tri thức trong nước ta gần đây có phần sút kém cũng là bởi cái lẽ đó. Vậy ngày
nay thể tất phải dùng chữ quốc ngữ làm cái lợi khí để giới thiệu các học thuật
tư tưởng Đông Tây cho phần nhiều quốc dân được biết, ngõ hầu giúp cho cái trình
độ trí thức trong nước ngày một lên cao/ Bộ phận Nam Phong tùng thư này
mở ra là muốn theo đòi cái mục đích đó/ Cái chí chúng tôi là muốn giúp cho phần
nhiều người Việt Nam ta, không cần phải đọc sách Tây, chỉ biết chữ quốc ngữ
cũng có thể thông hiểu được cái điều nghĩa lý làm gốc cho văn hóa đời xưa đời
nay/ Chúng tôi ao ước rằng sau này người An Nam chỉ học bằng tiếng An Nam có thể
trở nên được người thông hiểu, chỉ đọc bằng sách quốc ngữ cũng đủ bổ ích được
cho trí khôn, ngày ấy thời sự khai hóa trong nước mới thật là có kết quả vậy.”
4. Nói đến Nam Phong không thể không nhắc Phạm Quỳnh
(1892 – 1945), người được coi là linh hồn của tờ báo. Ông quê ở Bình Giang, Hải
Dương, nhưng sinh ra ở phố Hàng Trống, Hà Nội. Chín tháng sau khi sinh, mẹ ông
lâm bệnh qua đời; chín năm sau, bố ông cũng đột ngột qua đời ngay tại phòng thi
khi dự kỳ thi Hương năm 1901. Ông được ông bà nội nuôi, cho đi học tại trường
tiểu học Pháp Việt, rồi trường trung học Bảo hộ (trường Bưởi), đỗ đầu kỳ thi
Thành chung năm 16 tuổi (1908), về làm việc tại trường Viễn Đông Bác Cổ. Năm
1913, cộng tác với Đông Dương tạp chí, 1917 thành lập Nam Phong
tạp chí, 1922 thành lập Hội Khai trí tiến đức, 1924 kiến nghị thành lập
trường tiểu học học bằng tiếng Việt ở Đông Dương, từ 1924 – 1932 làm giảng sư
khoa Văn chương và ngôn ngữ Hán Việt tại trường Cao đẳng Hà Nội, Hội trưởng Hội
Trí tri Bắc Kỳ, 1932 Bảo Đại về nước làm vua, ông được cử chức Ngự tiền Văn
phòng, rồi Thượng thư Bộ Học, sau đó là Thượng thư Bộ Lại, 1939 cùng vua Bảo Đại
sang Pháp xin trả lại Bắc Kỳ như Hiệp ước 1884 nhưng không thành. Tháng 3/1945,
Nhật đảo chánh Pháp, chính phủ Trần Trong Kim thành lập, ông xin rút lui. Sau
Cách mạng tháng Tám, ông bị bắt và qua đời tại Hiền Sĩ, Phong Điền, Thừa Thiên
Huế.
Phạm Quỳnh là người đề xướng thuyết quân chủ lập hiến, một chủ trương lỗi thời
trong tình hình nước ta bị thực dân Pháp xâm lược, đó là sai lầm về chính trị.
Nhưng đóng góp về văn học và báo chí của ông vào đầu thế kỷ XX thì không thể phủ
nhận được. Là người am hiểu sâu rộng về nhiều lĩnh vực văn hóa Đông Tây: văn học,
triết học, khoa học, tôn giáo, ngôn ngữ, phong tục, tập quán… được người đương
thời suy tôn đứng đầu trong “tứ trụ” là bốn nhà văn hóa tiêu biểu của đất nước:
Quỳnh, Vĩnh, Tốn, Tố. Nói đến Phạm Quỳnh là nói đến trữ lượng văn hóa tích tụ từ
Nam Phong. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Phạm Quỳnh có đủ khả năng
để tranh luận thấu đáo và minh bạch bất cứ vấn đề nào: văn chương, triết học,
tôn giáo, chính trị, xã hội. Trước khi đề cập đến một vấn đề, ông chịu khó
nghiên cứu kỹ lưỡng. Nếu so sánh Nam Phong với các tạp chí xuất bản bên Pháp
như Revue de Paris, Grande Revue, Mercure de France, Nouvelle Revue
Francoise, độc giả thấy các tạp chí Pháp cũng đề cập đến những vấn đề
tương tự, nhưng không tờ nào chú ý đến vấn đề của Đông phương, thời xưa cũng
như thời nay” (9, tr.127). Vì vậy, trước hết với tầm nhìn văn hóa sâu rộng, Phạm
Quỳnh có khả năng xóa dần các khoảng cách so le lịch sử, đưa nền báo chí non trẻ
của nước ta ngang tầm với thế giới.
Phạm Quỳnh là tác giả của một khối lượng đồ sộ với hàng trăm
tác phẩm sáng tác, nghiên cứu, biên khảo và dịch thuật gồm nhiều lĩnh vực như
triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý, văn học, nghệ thuật, báo chí, trong đó có
những tác phẩm chủ yếu như Văn minh luận, Lịch sử thế giới, Chính trị nước
Pháp, Văn học sử Pháp, Phật giáo lược khảo, Người quân tử trong đạo Nho, Tục ngữ
ca dao, Việt Nam thi ca, Khảo về Truyện Kiều, Khảo về chữ quốc ngữ, Hán Việt
văn tự… Về nghiên cứu lý thuyết văn chương, có thể coi Khảo về tiểu
thuyết (in rải rác trên báo, mà chủ yếu là Nam Phong, từ năm 1922, in
thành sách 1925) là công trình lý luận văn học đầu tiên của nước ta; các tác phẩm Mười
ngày ở Huế, Một tháng ở Nam Kỳ, Pháp du hành trình nhật ký là những phóng
sự đầu tiên của văn học hiện đại. Sai lầm của ông là khi đề ra một học thuyết
“Pháp Việt đề huề” và yên tâm với lý tưởng về một nền quân chủ lập hiến, mà “sự
thực hiện lý thuyết này không ích lợi gì cho đồng bào, nó càng làm tổn thương
cho văn nghiệp của ông. Bây giờ người ta không thấy hậu quả của việc làm ấy. Điều
hiển nhiên là từ khi ông chủ nhiệm ra đi, ai nấy đều nhận rằng giá trị văn
chương của Nam Phong trở nên sa sút”(10). Tất nhiên, ông có sai lầm về chính trị,
và sai lầm khi thiếu trách nhiệm với cả Nam Phong, nhưng không thể nói rằng ông
không yêu nước, không có tinh thần tự tôn dân tộc, khi ông kêu gọi gìn giữ quốc
hồn quốc túy, gìn giữ nền văn hóa lâu đời để phát triển đất nước. Năm 1922, khi
phát biểu tại Ban Luân lý và chính trị Viện Hàn lâm Pháp, ông đã khẳng định nền
văn hóa dân tộc với tất cả bầu nhiệt huyết: “Dân Việt Nam chúng tôi không thể
ví như một tờ giấy trắng. Chúng tôi là một quyển sách dày đầy những chữ viết bằng
một thứ mực không phai từ mấy mươi thế kỷ.” (11, tr.683).
Thời gian cứ trôi không ngừng nghỉ. Sừng sững trên nền vách của
thời gian, những nguồn mạch nóng hổi nhiệt huyết của Phạm Quỳnh từ thuở Nam
Phong vẫn còn tỏa bóng.
Chú thích:
(1), (6) Thiếu Sơn (1933), Phê bình và cảo luận, Nam Ký xuất bản, Hà Nội
(2), (3) Louis Marty (1917), Phúc trình về tạp chí Nam Phong, ngày
22,8.1917
(4), (7), (8) Huỳnh Văn Tòng (1973), Lịch sử báo chí Việt Nam – từ khởi
thủy đến 1930, Trí Đăng xuất bản, Sài Gòn.
(5), (9) Vũ Ngọc Phan (1960), Nhà văn hiện đại, Nxb. Khai Trí, Sài
Gòn.
(10) Thiếu Sơn (1931), Phạm Quỳnh, báo Phụ nữ tân văn, số ra
ngày 30.7
(11) Dẫn theo Phan Cự Đệ (chủ biên, 2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
9/9/2021 Phạm Phú PhongNguồn: Sông Hương 341/07/2017
9/9/2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét