Tiểu luận của Hoài Nam: Tiếng Việt và
những "cắc cớ" của sự
trong sáng
Tiếng nói/ ngôn ngữ của mỗi quốc gia dân tộc, bất kể quốc gia
dân tộc nào, đều là một thứ tài sản vô giá, trước hết, với chính quốc gia dân tộc
ấy. Nó là căn cước văn hóa của dân tộc. Mất căn cước văn hóa, dân tộc không là
gì, không còn gì cả.
Chẳng thế mà trước đây ngót một thế kỷ, ông chủ bút Nam Phong
tạp chí, nhân một dịp diễn thuyết về thi hào Nguyễn Du và danh tác “Truyện Kiều”,
đã khẳng định: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”. Và về
sau này, với tình yêu tiếng Việt vô hạn, thi sĩ Lưu Quang Vũ đã viết những câu
thơ dào dạt đắm đuối: “Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ/ Phá cũi lồng vời vợi
cánh chim bay/ Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay/ Tiếng trong trẻo như hồn
dân tộc Việt/ Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết/ Người qua đường chung tiếng
Việt cùng tôi/ Như vị muối chung lòng biển mặn/ Như dòng sông thương mến chảy
muôn đời…” (Tiếng Việt). Vậy nên, ở bình diện lý trí, việc giữ gìn tiếng nói/
ngôn ngữ dân tộc mặc nhiên đã trở nên một yêu cầu mang tính bắt buộc và thường
trực.
Nhưng trong bối cảnh xã hội nước ta hiện nay, khi trình độ
dân trí rõ ràng đã được nâng lên rất nhiều so với trước, và sự hội nhập với thế
giới đang diễn ra hằng ngày, lại nảy sinh một câu hỏi: Giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt như thế nào?
Câu hỏi không hề là ngẫu nhiên, chỉ cần chúng ta nhìn thực tế
đời sống của văn học dịch thời gian gần đây sẽ thấy: Cụm từ “sự trong sáng của
tiếng Việt” luôn được dẫn ra như một chuẩn mực để định giá chất lượng bản dịch
tiếng Việt của những tác phẩm văn học nước ngoài. Hơn thế, như một lời răn đe
trước những bản dịch bị coi là luộm thuộm, lủng củng, xa lạ, tối nghĩa về hành
ngôn tiếng Việt.
Quả đúng là đã có không ít bản dịch như vậy, và không gì khác
hơn, chúng là sản phẩm tồi của những người dịch kém. Nhưng ngược lại, oái oăm
thay, cũng có nhiều trường hợp bị kết án oan, và ở những trường hợp ấy, cụm từ
“sự trong sáng của tiếng Việt” nhiều khi chỉ đơn giản là một thứ vũ khí sẵn có,
được người ta sử dụng cũng chính bởi sự sẵn có ấy, như một quán tính.Nhà phê bình Hoài NamBản dịch tiểu thuyết “Lolita” của Dương Tường là một ví dụ.
Khỏi phải nói, dịch “Lolita”, nghĩa là dịch giả chấp nhận đối mặt với thách thức
cực lớn. Bởi nhà văn Mỹ gốc Nga Vladimir Nabokov vốn khét tiếng thế giới như một
phù thủy về ngôn ngữ. Tiểu thuyết “Lolita” của ông trùng điệp những ẩn dụ, những
trò chơi ngôn từ, những cấu trúc câu, những liên văn bản và xuyên văn bản bất tận,
cực kỳ… quái đản! Tóm lại, theo nghĩa nào đó, “Lolita” là một mê cung ngôn ngữ
mà người viết bày ra với mục đích, không gì khác, để tạo sự mờ đục làm rối trí
người đọc. (Thứ văn chương làm rối trí người đọc cũng cần thiết, ít nhất, ở mức
ngang bằng với thứ văn chương khiến người đọc được thư giãn). Trước một tác phẩm
như vậy – một tác phẩm đã được chúng khẩu đồng từ xếp vào hàng kinh điển của tiểu
thuyết hiện đại – mà dịch ra tiếng Việt sao cho đơn giản, dễ hiểu, “trong
sáng”, thì cũng chính là cách xuyên tạc tác giả hiệu quả nhất.
Một dịch giả lão thực như Dương Tường không chọn cách này.
Ông trung thành với phong cách ngôn ngữ của Nabokov. Dịch “Lolita”, đến chỗ nào
văn bản trở nên đa nghĩa hoặc quá tối nghĩa với người đọc, Dương Tường dùng chú
thích. (Có tất thảy gần năm trăm chú thích trong bản dịch “Lolita”, một sự nỗ lực
và thận trọng hiếm thấy trong hoạt động dịch văn học ở ta hiện nay – không nên
quên rằng trong bản dịch “Lolita” tiếng Pháp của Eric Kahane, bản dịch được
chính Nabokov đánh giá rất cao, thậm chí còn chẳng có lấy một chú thích nào! Và
do vậy, câu văn dịch “trên dòng kẻ có những dấu chấm” cùng lắm chỉ là một lỗi bất
cẩn nho nhỏ của Dương Tường, không đáng để thiên hạ xô vào đay đi nghiến lại
nhiều như thể trời sắp sập tới nơi).
Nhưng những người đọc thụ động thì không đủ hứng thú và lòng
kiên nhẫn để đi theo một trò chơi ngôn ngữ quá rắc rối. Họ khó chịu, và đó là dịp
quá tốt để cụm từ “sự trong sáng của tiếng Việt”, luôn sẵn đấy, lại được dẫn ra
như một lời răn đe.
Ví dụ này gợi nhớ đến cố dịch giả Cao Xuân Hạo. Sinh thời,
ông Cao Xuân Hạo từng phàn nàn về chuyện có tác phẩm nào đó của F. M.
Dostoievsky (xin miễn cho người viết việc phải nêu tên) được dịch ra tiếng Việt
bằng một văn phong hết sức “trong sáng”, mềm mại, uyển chuyển, dễ đọc, và đọc rất
“dễ chịu”. Trong khi trong nguyên tác tiếng Nga thì đó là một cách hành văn với
tiết tấu giật cục, gấp gáp, tác giả cố ý sử dụng kiểu ngôn từ tạo cảm giác u
ám, nặng nề đến tức thở, nhiều chỗ lại là sự thống ngự của những lớp ngôn từ
thô tục.
Tác phẩm gốc như thế và tác phẩm dịch như thế, thì chẳng sai,
dịch đích thị là diệt, và cái quan niệm cứng nhắc về “sự trong sáng của tiếng
Việt” chính là thứ vũ khí quá tốt để tiêu diệt phong cách của thiên tài văn học
Nga. (Dịch giả Cao Xuân Hạo, vốn dĩ là người rất dị ứng với hệ tiêu chí “Tín, Đạt,
Nhã” do dịch giả Trung Quốc Nghiêm Phục đưa ra, từng kêu lên đầy bực tức, rằng
nếu như ở tác phẩm gốc, tác giả cố tình viết một cách thô tục, mà người ta lại
cứ chăm chăm phải dịch ra tiếng Việt sao cho được Nhã, thì phải dịch cách gì
đây để đảm bảo trung thành với nguyên tác?).
Từ hai ví dụ trên, ít nhất, có thể rút ra một điều: Nên có
quan niệm và ứng xử cởi mở hơn trước yêu cầu “phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt”. Ngôn ngữ không phải là một hệ thống nhất thành bất biến. Nó như một sinh
thể, thường xuyên vận động, thêm vào và mất đi, liên tục được làm mới.
Mà một trong những con đường làm mới ngôn ngữ hiệu quả nhất,
chính là việc dịch văn học. Lịch sử văn học dịch Việt Nam ngay từ đầu thế kỷ XX
đã cho thấy: Thông qua sự tiếp xúc và chuyển hóa những tác phẩm văn học thuộc
các ngôn ngữ khác, tiếng Việt đã hấp thụ vào mình nhiều lớp ngôn từ mới, nhiều
cấu trúc câu văn mới, nhiều mô hình tư duy ngôn ngữ mới, và đã trở nên giàu có
hơn từ đó.
Hãy cứ hình dung: Nếu trước năm 1945 mà không có những bản dịch
các tiểu thuyết chương hồi của Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục (“Tam quốc chí diễn
nghĩa”, “Đông Chu liệt quốc”), không có những bản dịch “An Na Kha Lệ Ninh”
(Anna Karenina) của Vũ Ngọc Phan, “Những kẻ khốn nạn” (Những người khốn khổ) của
Nguyễn Văn Vĩnh, và nhiều dịch phẩm văn học khác nữa, tiếng Việt của chúng ta
chưa chắc đã đạt tới sự đa dạng và thanh thoát như bây giờ. Bởi vậy, nếu cứ
khăng khăng “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” với mặc định rằng đó là một
di sản ngôn ngữ đông cứng, thì hậu quả sẽ không chỉ là sự triệt tiêu phẩm tính
đặc dị trong phong cách nghệ thuật của các tác giả văn học nước ngoài, mà còn
là sự triệt tiêu khả năng phong phú hóa của bản thân tiếng Việt.
Với văn học dịch là thế. Còn với sáng tác văn học trong nước
thì sao? Có lẽ chỉ cần nói ngắn gọn: Chúng ta không ủng hộ những sự làm xấu tiếng
Việt, nhưng cũng không nên bám chặt vào một sự “trong sáng” mơ hồ nào đó của tiếng
Việt để đóng sập cửa trước những nỗ lực cách tân ngôn ngữ văn chương. Xét cho
cùng, “sự trong sáng của tiếng Việt” không ngưng đọng vào chỉ duy nhất một hình
thái nào đó. Lối viết văn tiếng Việt với dày đặc những câu biền ngữ, đăng đối
như trong các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh hay trong “Nho Phong” của Nhất Linh
Nguyễn Tường Tam, là biểu hiện của một thứ tiếng Việt “trong sáng”.
Nhưng cũng “trong sáng” không kém là câu văn tiếng Việt của
chính Nhất Linh ở giai đoạn sau, trong các tiểu thuyết như “Đoạn tuyệt”, “Đôi bạn”,
“Bướm trắng”… cho dù câu văn tiếng Việt ở đây đã rất khác với ở “Nho Phong”. Hoặc
giả, nếu cứ thuận theo ý kiến (không hề sai) của đa số độc giả, rằng các truyện
ngắn và tùy bút của Thạch Lam là một mẫu mực về “sự trong sáng của tiếng Việt”,
thì cũng không vì thế mà bảo những câu văn tiếng Việt của Nguyễn Tuân – ngôn ngữ
được đẽo gọt rất cầu kỳ, sử dụng những kết hợp từ đầy bất thường và bất ngờ, những
cú pháp bị vặn xoắn theo kiểu… chẳng giống ai – là không “trong sáng”. Nó là thứ
tiếng Việt “trong sáng” theo cách khác. Tóm lại, nói khác đi, ở đây chúng ta buộc
phải có một cái nhìn dân chủ hóa trước cụm từ “sự trong sáng của tiếng Việt”.
Nó không giống như chân lý tối thượng của Chúa Trời, đơn nghĩa. Nó là một tập hợp
của những chân lý tương đối, luôn mở ra, mời gọi sự sáng tạo của tất cả.
Không nên quên rằng trong lĩnh vực đặc thù như văn chương,
ngôn ngữ đã không còn là ngôn ngữ tiêu dùng nữa, mà là ngôn ngữ của nghệ thuật.
Xuất phát từ ngôn ngữ đời sống, nhưng nó đã được mã hóa. Và do vậy, nó mang đậm
dấu ấn cá tính sáng tạo của người sử dụng, không loại trừ cả sự đánh đố, khiêu
khích, gây hấn bằng ngôn ngữ. Vấn đề còn lại là thái độ của người tiếp nhận. Nếu
ta cứ đòi hỏi ngôn ngữ văn chương phải hiền lành, đơn nghĩa, dễ hiểu, “trong
sáng” theo cách của ngôn ngữ tiêu dùng, thì tốt nhất là chẳng cần có văn chương
làm gì.
Không nên quên rằng lời kêu gọi “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt” được nói ra trong bối cảnh một nước Việt Nam với trình độ dân trí nhìn
chung rất thấp, tỷ lệ người mới thoát nạn mù chữ cao ngang với tỷ lệ người còn
mù chữ. Để tuyên truyền, để vận động đối tượng này một cách hiệu quả nhất,
không gì khác, cần phải sử dụng một thứ ngôn ngữ dễ hiểu nhất có thể.
Nhưng không nên quên rằng bối cảnh xã hội Việt Nam hiện tại
đã rất khác. Tốt nghiệp đại học đã trở thành chuyện “thường ngày ở huyện”. Và
không nên quên rằng tiếng Việt là một sinh ngữ. Nó tồn tại. Và liên tục vận động.
10/9/2021 Hoài Nam
10/9/2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét