Thứ Năm, 20 tháng 6, 2024

Bài học của lịch sử 1

Bài học của lịch sử 1

Vài lời thưa trước - TỰA
Nguyên Tác: The Lessons Of History

Trong cuốn Đời viết văn của tôi, cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết:
“Vào khoảng 1969, tôi mua được trọn bộ Lịch sử Văn minh (32 cuốn) của Will Durant, dịch ra tiếng Pháp, do nhà Rencontre ở Lausanne (Thuỵ Sĩ) xuất bản. Bộ đó rất hay, ông bà Durant để ra ba chục năm tham khảo mấy ngàn cuốn sách, đi du lịch gần khắp thế giới để viết nó.
Năm 1970 tôi dịch cuốn Văn minh Ấn Độ (550 trang), Lá Bối in. Để viết bài tựa 16 trang cho cuốn đó, tôi đã gởi thư qua Thuỵ Sĩ nhờ nhà Rencontre kiếm cho tài liệu về đời sống và sự nghiệp của W. Durant. Độc giả hoan nghênh, một vị viết thư yêu cầu tôi dịch toàn bộ. Tôi đáp cũng muốn vậy lắm nhưng trong nước phải có ít nhất là 3.000 độc giả như ông ta thì nhà Lá Bối mới dám tiếp tục.
Sau tôi chỉ dịch thêm bốn cuốn nữa: Văn minh Ả Rập, Bài học của lịch sử, Nguồn gốc văn minh và Văn minh Trung Hoa. Cuốn sau chưa kịp in thì thay đổi chế độ. Những cuốn đó đều có ích, nhất là Bài học của lịch sử”.
Bốn cuốn Nguồn gốc văn minh, Lịch sử văn minh Ả Rập, Lịch sử văn minh Ấn Độ và Lịch sử văn minh Trung Hoa đều nằm trong tập I: Our Oriental Heritage (nhan đề bản Pháp dịch là Notre Héritage Oriental, tập này gồm 3 cuốn) của bộ Lịch sử văn minh, riêng cuốn Bài học của lịch sử thì không nằm trong bộ đó.
Trên trang 4 cuốn Bài học của lịch sử, Nxb Tổng hợp TP. HCM, 2006, ghi nguyên tác là The Lessons of History - Simon and Schuster, New York, 1968; Wikipedia cũng viết tương tự như vậy[1], nhưng chúng tôi đoán là cụ dịch từ bản Pháp dịch Les Leçons de l'histoire (Nxb Rencontre, Genève, 1970), còn nếu như cụ dịch từ nguyên tác tiếng Anh The Lessons of History thì có phần chắc là cụ có tham khảo bản Pháp dịch. Chúng tôi đoán như vậy là vì các nhân danh trong cuốn Bài học của lịch sử, nếu cụ không gọi bằng tiếng Việt như Tư Mã Thiên, thì cụ đều được gọi theo tiếng Pháp như César, Cléopâtre chứ không gọi theo tiếng Anh là Caesar, Cleopatra; địa danh cũng vậy, nếu cụ không viết theo tiếng Việt là Y Pha Nho (nay ta gọi là Tây Ban Nha), thì cụ viết theo tiếng Pháp như Londres, Olympe chứ không viết theo tiếng Anh là London, Olympus; hoặc như trong một chú thích, cụ bảo từ được dịch là biện chứng pháp là từ tiếng Pháp dialectique[2], chứ không phải là từ tiếng Anh là dialectic. Giữa bản Việt dịch và bản tiếng Anh mà chúng tôi tải từ trang http://learningresources.softarchive.net/the_lessons_of_history_will_durant.295285.html còn có một vài chỗ khác biệt nữa, như trong bài Tựa trong bản Việt dịch không có câu tương ứng với câu cuối cùng trong bài Preface trong bản tiếng Anh là: “Here, as so often in the past, we must gratefully acknowledge the help and counsel given us by our daughter Ethel”[3]. Ngược lại, trong bản tiếng Anh không có đoạn tương ứng với đoạn cuối của chương XI trong bản Việt dịch, từ “Ngay triết gia Bergson năm 1936 cũng viết” đến “Nếu vậy thì bi đát thật!”.
Một điều nữa mà chúng tôi cũng chưa rõ là cuốn Bài học của lịch sử này là do một mình cụ Nguyễn Hiến Lê dịch như được ghi trong bản in của Nxb Tổng hợp TP. HCM, hay là cụ dịch chung với cụ Trần Lương Ngọc như theo lời giới thiệu của Nxb Lá Bối in ở bìa sau cuốn Chiến Quốc sách của nhà này. Chúng tôi rất tiếc là không có bản in cuốn Bài học của lịch sử của nhà Lá Bối năm 1972, nên không biết bản đó có ghi tên cụ Trần Lương Ngọc hay không, nhưng theo bạn Tuanz thì: “Nxb Xuân Thu (ở nước ngoài) tái bản năm 1991 cũng ghi “Will và Ariel Durant, The Lessons of History, Bài học của lịch sử, bản dịch của Nguyễn Hiến Lê và Trần Lương Ngọc”.
Ebook Bài học của lịch sử đã được các bạn Quocdung, Okal, Dqskiu, H2203, Chụt đánh máy, Nambun sửa lỗi, và Tovanhung chuyển sang ebook và đăng trên TVE từ 29/09/2006.
Từ file Bài học của lịch sử có định dạng là.prc đó, bạn Quocsan chuyển thành file.doc và chỉnh lại cách trình bày cho gọn nhẹ; rồi từ file.pdf The Lessons of History, bạn Quocsan cũng chuyển thành file.doc và trình bày lại các chú thích và các niên đại ở trong phần Index. Cuối cùng, bạn Quocsan ghép hai file đó lại thành một file duy nhất và chuyển file đó thành ebook có định dạng.prc. Như vậy trong ebook mới này ta có cả hai bản: bản Việt dịch và bản nguyên tác tiếng Anh.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện ebook mới này, chúng tôi còn sửa thêm một số lỗi trong bản Việt dịch. Trong những lỗi đó, chúng tôi phát hiện được là nhờ đối chiếu với bản tiếng Anh (những lỗi này do sách in sai nên ebook cũ cũng sai theo).
Goldfish
Đầu tháng 11 năm 2010.
Chú thích:
[1] Nguyên văn: “Durant, Will & Durant, Ariel (1968). The Lessons of History. NXB Simon and Schuster, New York. Quyển này đã được dịch sang tiếng Việt với tựa đề Bài học của lịch sử do Nguyễn Hiến Lê” (http://vi.wikipedia.org/wiki/Will_Durant).
[2] Trên trang 107, cụ chú thích mấy chữ biện chứng pháp như sau: Dialectique: Chúng ta quen dịch như vậy, nhưng dịch là luận biện pháp hoặc dịch hoá pháp thì có phần đúng hơn.
[3] Tạm dịch: Ở đây, cũng như thường xuyên trong quá khứ, chúng tôi phải thừa nhận với lòng biết ơn sự giúp đỡ và tư vấn của con gái của chúng tôi là Ethel.
Tựa
Cuốn này chỉ là một kết luận nên không cần lời tựa. Sau khi in xong bộ Lịch sử Văn minh từ thời nguyên thủy tới năm 1789, chúng tôi đã đọc lại hết để sửa nhiều lỗi khi viết hoặc khi in, cả những lỗi bỏ sót nữa. Vừa làm công việc đó chúng tôi vừa ghi những biến cố, những lời phê phán có thể giúp độc giả hiểu những đại sự của thế giới, đoán được đại khái, tương lai ra sao, biết được tính con người và chính sự các Quốc gia. Độc giả sẽ thấy chúng tôi ghi nhiều xuất xứ ở trong các cuốn của bộ Lịch sử Văn minh, như vậy, không phải để dẫn chứng đâu mà chỉ là để đưa ra ít nhiều thí dụ và lời giải thích thôi. Chúng tôi đã rán đợi đọc hết trọn bộ rồi mới kết luận, nhưng chắc chắn là những ý kiến chúng tôi có từ lúc đầu đã ảnh hưởng tới cách chúng tôi lựa chọn thí dụ. Do đó mà có lập tiểu luận này. Chúng tôi đã lăp lại nhiều ý mà chính chúng tôi hoặc những nhà khác trước chúng tôi, đã diễn rồi: mục đích chúng tôi không phải là tìm sự tân kì mà chỉ mong được hoàn bị, đừng thiếu sót, chúng tôi tóm tắt kinh nghiệm của loài người, chứ không trình bày một phát kiến cá nhân.
CHƯƠNG I
Do Dự
Sử gia, khi làm xong một công việc nghiên cứu nào rồi, thường tự hỏi câu này: công lao khó nhọc của mình có cống hiến được chút gì không? Hay là mình chỉ tìm thấy được cái thú kể lại những thăng trầm của các dân tộc, các tư tưởng, chép lại những “truyện buồn về cái chết của các vua chúa”? Mình đã hiểu bản tính con người hơn những người thường chưa bao giờ đọc một trang sách nào không? Lịch sử có giúp mình hiểu thêm được thân phận con người không, có hướng dẫn mình trong sự phán đoán và hành động không, có chỉ cho mình cách đối phó với những sự bất ngờ trong đời sống hoặc những nỗi phù trầm của thời đại không? Trong sự liên tục của các biến cố, mình có tìm được những nhịp điệu đều đều giúp mình tiên đoán được những hành động sau này của nhân loại hay vận mạng của các Quốc gia không? Hay là rất có thể, rốt cuộc, “lịch sử chẳng có ý nghĩa gì cả”[1]. Chẳng dạy cho ta được gì cả, mà thời dĩ vãng mênh mông chỉ là một chuỗi dài chán ngắt gồm những lỗi lầm sau này sẽ tái hiện nữa một cách đại qui mô hơn?
Đôi khi chúng tôi có cảm tưởng đó mà đâm ra hoài nghi. Trước hết, chúng ta có biết thực sự dĩ vãng ra sao không, cái gì đã thực sự xảy ra không, hay là lịch sử chỉ như “một ngụ ngôn” không hẳn ai cũng “chấp nhận”. Bất kì là về biến cố nào, sự hiểu biết của chúng ta về dĩ vãng luôn luôn thiếu sót và có phần chắc là sai lầm nữa: Nó dựa trên những chứng cứ hàm hồ, khả nghi của những sử gia thiên kiến, và có lẽ nó còn chịu ảnh hưởng những ý kiến chính trị hay tôn giáo của chính ta nữa. “Phần lớn lịch sử là những điều phỏng đoán, phần còn lại là những thành kiến”[2]. Ngay một sử gia tự cho rằng mình đã vượt được những thiên kiến về xứ sở, chủng tộc, tín ngưỡng hoặc giai cấp, cũng để lộ những thiên ái thầm kín của mình trong cách lựa chọn tài liệu và dùng hình dung từ. “Sử gia luôn luôn đơn giản hoá quá mức (các biến cố) và trong các đám đông tâm hồn và biến cố phức tạp mênh mông không làm sao bao quát được, ông ta đành phải vội vàng lựa chọn một số nhỏ sự kiện và nhân vật dễ sử dụng, trình bày.”[3]
Vả lại thời này mà rút những kết luận từ dĩ vãng để dùng trong tương lai thì nguy hiểm hơn thời nào nữa, vì tốc độ biến chuyển bây giờ tăng quá mau. Năm 1909 Charles Péguy bảo rằng “Thế giới đã thay đổi trong ba chục năm gần đây nhiều hơn là từ thời chúa Ki Tô”, và một tiến sỹ vật lý còn trẻ bây giờ có thể nói thêm rằng môn vật lý từ 1909 đến nay đã thay đổi nhiều hơn là trong suốt lịch sử thế giới. Mỗi năm - trong thời chiến thì có khi là mỗi tháng - lại xuất hiện một phát minh mới, một phương pháp mới, một tình thế mới, và chúng ta bắt buộc phải thay đổi lề lối cùng ý nghĩ của ta.
Sau cùng, hình như có một yếu tố ngẫu nhiên, có thể là một yếu tố tự do, trong sự tác động của vật chất và của con người. Ngày nay chúng ta không còn tin rằng các nguyên tử, chứ đừng nói là các cơ thể, sau này sẽ phản ứng lại như thời trước. Các điện tử di chuyển một cách bí mật, như Thượng Đế của Cowper[4], và chỉ một chướng ngại về tính tình hoặc về hoàn cảnh là có thể làm cho một dân tộc bị xáo trộn, như khi vua Alexandre (cổ Hy Lạp) vì quá say rượu mà chết[5], khiến cho cả đế quốc mới thành lập của ông bị tan rã (323 trước T.L), hoặc như khi Đại đế Frederick thoát khỏi cảnh quốc gia sụp đổ nhờ sự lên ngôi của một Nga hoàng say mê lối sống của Phổ[6] (1762).
Hiển nhiên là môn soạn sử không thể là một khoa học được mà chỉ là một hoạt động, một nghệ thuật và một triết lí: Nó là một hoạt động khi tìm tòi các sự kiện, một nghệ thuật khi sắp đặt cái mớ sự kiện hỗn độn thành một trật tự có ý nghĩa, một triết lí khi đi tìm viễn cảnh và sự giải minh. “Hiện tại tức là dĩ vãng đã cuốn lại để cho ta hành động, mà dĩ vãng tức là hiện tại mở ra để cho ta hiểu biết” - ít nhất là chúng tôi nghĩ như vậy và ước mong như vậy. Triết lý giúp chúng ta nhìn thấy bộ phận dưới ánh sáng của toàn thể, còn “triết lý của sử” thì giúp chúng ta thấy hiện tại dưới ánh sáng của dĩ vãng. Không bao giờ đạt được sự hoàn toàn, chúng tôi biết vậy! Viễn ảnh tổng quát chỉ là một thị ảo giác. Chúng ta không thể biết được toàn thể lịch sử nhân loại, chắc là trước Sumer[7] và Ai Cập đã có những nền văn minh khác. Chúng ta chỉ mới khai quật các di tích hồi gần đây! Chúng ta phải làm việc bằng những kiến thức cục bộ, không trọn vẹn, và chúng ta chỉ tạm thời phỏng đoán thôi, về sử học cũng như về khoa học, chính trị học, phải thận trọng đừng tin các quy tắc, các định thức, bất kỳ định thức nào. “Lịch sử bất chấp cái tham vọng của ta muốn dồn dòng lịch sử vào những đường vạch sẵn của luận lý, nó thoát ra khỏi những quy nạp khái quát của ta, nó phá tan những quy tắc của ta, nó kỳ cục lắm”. Chưa biết chừng, trong những giới hạn đó, chúng ta lại học được của lịch sử tạm đủ để kiên nhẫn chịu đựng được thực tại và tôn trọng những ảo tưởng của nhau.
Con người là một khoảnh khắc trong thời gian của các tinh tú, một khách qua đường trên địa cầu, một bào tử của chủng loại, một miêu duệ của nòi giống, một phức hợp gồm thể xác và tinh thần, một phần tử của một gia đình và một cộng đồng, một tín đồ hay một kẻ hoài nghi, một đơn vị kinh tế và có lẽ là công dân một quốc gia hoặc là binh sĩ trong một quân đội nữa. Vậy thì chúng ta có thể lần lượt đứng về phương diện thiên văn, địa chất, địa lí, sinh lý, nhân chủng, tâm lí, luân lí, tôn giáo, kinh tế, chính trị và chiến tranh, mà tự hỏi lịch sử về mỗi phương diện đó, dạy cho chúng ta biết được những gì về bản thể, thái độ và tương lai của con người. Đem cả trăm thế kỷ lịch sử mà gom lại trong một trăm trang kết luận liều lĩnh, thì quả là một việc làm bấp bênh và điên khùng! Nhưng chúng tôi cũng làm thử xem.
Chú thích:
[1] Tên một cảo luận của Sử gia Pháp Sédillot. (Chú thích của tác giả).
[2] Lời của Durant trong bộ Sử (Chú thích của tác giả).
[3] Cũng lời của Durant. (Chú thích của tác giả) Từ đây trở đi, những câu chúng tôi không ghi xuất xứ đều là của tác giả, trong bộ sử.
[4] William Cowper (1731-1800) thi sĩ Anh, tác giả bài thơ nổi tiếng bắt đầu bằng câu “God moves in a mysterious way”.
[5] Theo Durant trong cuốn VI bản tiếng Pháp, sau khi chiếm được Ba Tư và một phần Ấn Độ, Alexandre trở về Hy Lạp, dọc đường bị cảm hàn, sốt mười ngày rồi chết ở Babylone. Nhưng có sách bảo ông chết vì sốt rét ngã nước.
[6] Năm 1762, Frederick, vua Phổ, chiến đấu với liên quân Pháp, Anh, Nga, tình hình nguy ngập, sắp đại bại thì Nữ hoàng Elisabeth của Nga mất, Pierre III lên nối ngôi. Pierre thích lối cai trị và tổ chức của Frederick, rút ra khỏi liên minh, giảng hoà với Frederick, nhờ đó Phổ thoát được cơn nguy.
[7] Hạ lưu sông Tigre và Euphrate (Irak ngày nay), văn minh trước Ai Cập.
CHƯƠNG II
Lịch Sử Và Trái Đất
Lịch sử có tính cách mơ hồ (khó định nghĩa cho đúng được), nhưng nếu chúng ta cho nó là sự diễn tiến của các biến cố đã qua và sự ghi lại các biến cố ấy thì lịch sử của nhân loại chỉ là một khoảnh khắc trong không gian, và bài học đầu tiên của lịch sử là ta nên khiêm tốn. Bất cứ lúc nào, một ngôi sao chổi cũng có thể đến quá gần địa cầu nhỏ bé của chúng ta, làm cho nó đảo lộn, lôi cuốn nó vào một quỹ đạo vô trật tự mà từ người đến rệp, rận đều tan thành khói hết: Hoặc một mảnh trời rực rỡ có thể văng ra - có lẽ hành tinh của chúng ta cũng đã từ mặt trời văng ra mới gần đây, so với thời gian vô biên - và rớt xuống đầu chúng ta một cách khủng khiếp, làm tiêu tan hết mọi nỗi đau khổ của nhân loại.
Trên đường đời chúng ta chấp nhận những sự có thể xảy ra được đó và mượn lời của Pascal để thách thức vũ trụ: “Ngay cả khi vũ trụ đè bẹp con người, con người vẫn cao cả hơn vũ trụ vì con người biết rằng mình đang chết, còn vũ trụ đâu có biết đến chiến thắng của nó”.
Lịch sử lệ thuộc vào địa chất học. Ngày nào biển cũng lấn vào đất hoặc đất cũng lấn ra biển ở một nơi nào đó, những thành phố chìm sâu dưới làn nước và những giáo đường ở đáy biển vẫn tiếp tục vang những hồi chuông thê thảm. Núi mọc lên và sụp đổ theo nhịp điệu của đất trồi đất lở, sông dâng lên và làm ngập lụt, hoặc cạn đi, hoặc đổi dòng, thung lũng trở thành sa mạc, và eo đất biến thành eo biển. Dưới con mắt địa chất gia, tất cả bề mặt trái đất chỉ là một dịch thể (chất lỏng) người ta di chuyển trên đó một cách kém an toàn cũng như thánh Pierre lướt trên sóng mà đi đến chúa Ki Tô.
Khí hậu không còn nhồi nặn chúng ta như Montesquieu  và Buckle đã nói, nhưng vẫn còn giới hạn chúng ta. Óc tinh xảo của con người thường vượt qua những trở ngại địa chất: Con người có thể đưa nước vào sa mạc hoặc điều hòa không khí cả trong sa mạc Sahara, con người có thể san bằng hoặc vượt qua núi, hoặc xẻ đồi thành từng bực để trồng nho, con người có thể xây dựng cả một thành phố nổi để qua đại dương, hoặc chế tạo cả những con chim khổng lồ để bay trên trời. Nhưng một trận cuồng phong có thể tàn phá trong một giờ một thành phố mất công xây cất hằng thế kỷ, một băng đảo có thể lật đổ hoặc phá vỡ một lâu đài nổi và đưa hằng ngàn du khách xuống đáy biển. Chỉ cần thiếu mưa là cả một nền văn minh bị chôn vùi dưới cát, như ở trung bộ Á châu; chỉ cần mưa tầm tã là cả một nền văn minh sẽ bị chết nghẹt trong rừng già như ở Trung Mỹ. Nhiệt độ trung bình ở các miền trù mật hiện tại chỉ cần lên hai mươi độ  là chúng ta sẽ lâm vào cảnh u mê man dại. Trong khí hậu bán nhiệt đới, một nước có nửa tỷ người có thể sinh sôi như kiến nhưng sức nóng tàn hại có thể khiến họ luôn luôn bị các toán dân hiếu chiến ở những vùng khí hậu lành mạnh hơn chinh phục.
Qua nhiều thế hệ con người đã càng ngày càng chế ngự được trái đất, nhưng rồi con người cũng sẽ chỉ là một nắm xương khô trong lòng đất.
Địa lý học là khuôn đúc, đồng thời cũng là mẹ nuôi và kẻ trừng phạt lịch sử. Sông hồ, ốc đảo và đại dương thu hút người tới sinh cơ lập nghiệp ở ven bờ, vì nước là mạch sống của cơ thể và của thành phố, và cung cấp những đường vận tải và mậu dịch ít tốn kém. Ai Cập là “tặng vật của sông Nil”, và vùng Mésopotamie đã xây dựng biết bao nền văn minh kế tiếp “giữa hai dòng sông”  và dọc theo các chi nhánh. Ấn Độ là con đẻ của sông Indus, sông Brahmapoutre và sông Gange. Trung Hoa sống được mà cũng điêu đứng vì các con sông lớn  thường đi lang thang (như chúng ta) ra khỏi lòng sông, đưa phù sa mầu mỡ vào miền lân cận. Ý Đại Lợi đã tô điểm cho các thung lũng sông Tibre, sông Arno và sông Po. Nước Áo phát triển dọc sông Danube, Đức dọc theo sông Elbe và sông Rhin, Pháp dọc theo sông Rhône, sông Loire và sông Seine. Petra và Palmyre được các ốc đảo trong sa mạc nuôi dưỡng.
Khi dân Hi Lạp trở nên quá đông, họ lập nghiệp ven bờ Địa Trung Hải “như ếch ở ven bờ ao”  và dọc theo Pont Euxin tức Hắc Hải. Suốt trong 2000 năm - từ trận Salamine (480 trước T.L.) tới trận đại bại của hạm đội bách chiến bách thắng Y Pha Nho (1588)  - bờ bể phía bắc và phía nam Địa Trung Hải là những trung tâm tranh giành ngôi thứ của dân da trắng. Nhưng từ năm 1492 trở đi, các cuộc hành trình của Colomb và Vasco de Gama đã khuyến khích người ta mạo hiểm vượt đại dương, do đó miền Địa Trung Hải mất địa vị bá chủ: Gênes, Pise, Florence, Venise suy tàn, thời đại Phục hưng (ở châu Âu) mai một, các quốc gia ven bờ Đại Tây dương trở nên thịnh vượng và sau hết giành quyền bá chủ trên khắp nửa thế giới. Khoảng năm 1730, George Berkeley đã viết: “Đế quốc có khuynh hướng bành trướng về phương tây”. Sự bành trướng đó có sẽ tiếp tục băng qua Thái Bình dương, du nhập những kỹ thuật, kỹ nghệ và thương mại Âu châu và Mỹ châu vào Trung Hoa, như đã từng vào Nhật trước kia  không? Dân số rất đông của phương Đông biết lợi dụng nền kĩ thuật mới nhất của phương Tây có sẽ gây nên sự suy tàn của phương Tây không?
Sự phát triển của thuật phi hành cũng sẽ lại làm thay đổi bản đồ của nền văn minh. Càng ngày các đường mậu dịch trên sông và biển sẽ càng ít đi, người và hàng hóa sẽ càng được đưa thẳng tới nơi bằng máy bay. Các nước như Anh, Pháp, sẽ mất ưu thế thương mại do hình thể bờ biển thuận lợi, các nước như Nga, Trung Hoa và Ba Tây, tới nay bị trở ngại vì diện tích quá lớn mà lại ít bờ biển, sẽ đỡ bị thiệt thòi một phần nào nhờ dùng đường hàng không. Các thành phố ven bờ biển sẽ giảm bớt nguồn lợi tức vì việc chuyển hàng từ tàu thủy lên xe lửa hoặc từ xe lửa xuống tàu thủy thật là bất tiện. Khi nào đường biển đã nhường bước cho đường hàng không trên lãnh vực vận tải và chiến tranh thì chúng ta sẽ được chứng kiến một trong những cuộc cách mạng lớn lao của lịch sử.
Ảnh hưởng của các yếu tố địa lý giảm dần theo sự trưởng thành của kỹ thuật. Địa thế và vị trí của một vùng có thể thuận lợi cho nông nghiệp, khai thác hầm mỏ hoặc thương mại, nhưng chỉ có trí tưởng tượng và óc sáng kiến của người lãnh đạo và sự cần cù của kẻ được lãnh đạo mới có thể biến những tiềm năng thành thực tại, và chỉ có sự phối hợp các sức mạnh đó (óc sáng kiến và sự cần cù) như ở Do Thái hiện nay mới có thể khiến một nền văn hóa vượt qua bao trở ngại để thành hình. Chính người, chứ không phải trái đất, mới tạo ra văn minh.
CHƯƠNG III
Sinh Vật Học Lịch Sử
Lịch sử chỉ là một phần nhỏ của sinh vật học: Cuộc đời con người chỉ là một trong vô số các biến hóa của các sinh vật trên đất và dưới bể. Đôi khi đi thơ thẩn một mình trong rừng vào một ngày mùa hạ, ta nhìn hoặc nghe thấy sự di động của hằng trăm loài bay, nhảy, bò hoặc chui rúc dưới đất. Chúng giật mình chạy đi khi thấy ta đến. Con thì trốn trong cành lá bụi cây, con thì lặn dưới suối, con thì bay vút lên không. Bỗng nhiên ta cảm thấy mình chỉ thuộc vào một thiểu số luôn luôn sống trong đe dọa trên trái đất vô tình này, và đi bên cạnh những loài ấy, mình đã làm náo động nơi chúng ở trong giây lát, chắc chúng cũng bực mình lắm. Lúc đó, tất cả những thành tích vẻ vang của con người đều trở về cái vị trí tầm thường trong lịch sử và sự biến hóa của một cuộc sống muôn hình vạn trạng. Tất cả các sự cạnh tranh kinh tế, tranh giành trai gái, sự đói khát yêu thương, buồn khổ và chinh chiến của chúng ta, tất cả có khác gì những cuộc săn mồi, giao cấu, chiến đấu và đau khổ đang âm thầm diễn ra dưới thân cây đổ, chiếc lá rụng, dưới nước hoặc trên cành kia không?
Do đó, các định luật sinh lý là bài học căn bản của lịch sử. Chúng ta phải chịu những diễn trình thử thách của tiến hóa, phải chịu sự cạnh tranh để tồn tại, ưu thắng liệt bại. Sở dĩ một số người chúng ta bề ngoài có vẻ thoát khỏi luật đào thải tự nhiên tàn khốc đó là nhờ đoàn thể đã che chở cho chúng ta, nhưng chính đoàn thể đã phải đương đầu với những thử thách đó để tồn tại.
Do đó có bài học đầu tiên này của lịch sử: Đời là một cuộc cạnh tranh. Cạnh tranh không phải chỉ là việc làm ăn mà là việc sinh tử. Cuộc cạnh tranh đó ôn hòa khi có nhiều thức ăn, và trở nên tàn bạo khi số miệng ăn nhiều hơn thức ăn. Các loài vật ăn sống nuốt tươi lẫn nhau mà không biết ân hận gì cả, còn con người văn minh thì thủ tiêu nhau một cách hợp pháp. Sự hợp tác quả thật có đấy, và gia tăng theo sự phát triển xã hội đấy, nhưng phần lớn chính vì nó là một công cụ và hình thức cạnh tranh. Chúng ta hợp tác trong đoàn thể của chúng ta, trong gia đình, xã hội, hội ái hữu, giáo hội, đảng, chủng tộc hoặc quốc gia của chúng ta, để làm tăng cường tư thế cạnh tranh của tập thể chống với các tập thể khác. Tập thể cũng như cá nhân, khi cạnh tranh thì đều tham lam, hiếu chiến, thiên vị và kiêu căng. Quốc gia gồm nhiều người như chúng ta, nên chúng ta ra sao thì quốc gia cũng vậy. Chỉ khác là bản chất của quốc gia đậm hơn, rõ rệt hơn, và cái thiện cái ác của quốc gia cũng lớn hơn của cá nhân rất nhiều. Chúng ta tham lam, hay gây lộn bởi vì trong huyết quản còn dòng máu của ngàn thế hệ đã phải săn đuổi, chiến đấu, giết chóc để sinh tồn, và đã phải ăn đến phình bụng ra vì sợ còn lâu mới kiếm được con mồi khác. Chiến tranh là cách săn mồi để ăn của một quốc gia. Nó tạo ra sự đoàn kết chính vì nó là hình thức cạnh tranh tối cao. Khi nào các quốc gia chưa trở nên thành phần của một tập thể lớn hơn và được tập thể che chở hữu hiệu thì chúng còn tiếp tục hành động như cá nhân và gia đình trong thời kì săn mồi.
Đây là bài học sinh lý thứ hai của lịch sử: Đời là một cuộc đào thải. Trong sự cạnh tranh để có thức ăn, thỏa mãn tính dục hoặc có quyền hành, một số sinh vật thành công, một số thất bại. Trong cuộc đấu tranh để sinh tồn, một số người được trang bị kĩ hơn các người khác. Vì tạo hóa (ở đây có nghĩa là toàn bộ thực tại và các diễn trình của nó) chưa đọc kỹ bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ hoặc Tuyên ngôn Nhân quyền của Cách mạng Pháp, nên sinh ra chúng ta đã không tự do, bình đẳng: Ta phải chịu những di truyền về thể xác và tinh thần, chịu sự chi phối của tập quán cùng truyền thống của tập thể, mỗi người một khác về sức khỏe, sức mạnh, khả năng tinh thần và tính khí. Tạo hóa thích dùng sự dị biệt đó làm chất liệu cần thiết cho sự đào thải và tiến hóa. Ngay cả anh em sánh đôi cũng khác nhau rất nhiều, và không có hai hạt đậu nào hoàn toàn giống nhau cả.
Sự bất bình đẳng không những chỉ tự nhiên và bẩm sinh mà còn gia tăng cùng với sự phức tạp của nền văn minh. Sự bất bình đẳng vì di truyền gây nên sự bất bình đẳng nhân tạo trong xã hội. Bất cứ một phát minh hoặc khám phá nào cũng đều do những cá nhân xuất sắc tạo ra và lợi dụng khiến cho người khỏe lại khỏe thêm và kẻ yếu hóa ra yếu hơn. Phát triển kinh tế gây ra sự chuyên môn hóa các chức vụ, dị biệt hóa khả năng, do đó mà có kẻ quí người hèn đối với tập thể. Nếu biết rất kĩ các người đồng loại thì chúng ta có thể chọn ba mươi phần trăm số người mà khả năng gom lại cũng nhiều bằng tất cả số bảy chục phần trăm kia. Cuộc sống và lịch sử đã lựa chọn, đào thải như vậy đấy, sự bất công vĩ đại đó làm cho ta nhớ tới Thượng Đế của Calvin[1].
Tạo hóa mỉm cười chế nhạo sự phối hợp giữa tự do và bình đẳng trong thế giới không tưởng của chúng ta. Bởi vì tự do và bình đẳng vĩnh viễn là hai kẻ thù không đội trời chung. Khi cái này mạnh thì cái kia phải chết. Cho con người được tự do thì sự bất bình đẳng tự nhiên giữa họ với nhau sẽ gia tăng theo cấp số nhân, như đã xảy ra tại Anh và Mỹ vào thời kỳ tự do kinh doanh ở thế kỉ mười chín. Muốn chặn bớt sự bất bình đẳng thì phải hy sinh tự do, như ở Nga sau 1917. Ngay cả khi bị kiềm chế, sự bất bình đẳng vẫn cứ gia tăng. Chỉ những người ở dưới mức trung bình về khả năng kinh tế mới muốn có bình đẳng. Những người nào cảm thấy tài giỏi thì lại muốn tự do. Rốt cuộc hạng tài năng thường được toại nguyện. Xét về phương diện sinh lí, những quan niệm không tưởng về bình đẳng không thể nào đứng vững được. Và các nhà hiền triết đầy hảo ý chỉ có thể ước ao được một tình trạng gần như bình đẳng về pháp luật và giáo dục thôi. Một xã hội trong đó mọi khả năng tiềm tàng được tự do phát triển và hoạt động sẽ có ưu thế tồn tại đối với các nhóm cạnh tranh khác. Ngày nay (vì phương tiện giao thông và truyền tin rất tiến bộ) các quốc gia hóa ra gần nhau hơn, tiếp xúc, xung đột nhau nhiều hơn, nên sự cạnh tranh càng trở nên gay go hơn.
Bài học sinh lí thứ ba của lịch sử là: Cuộc sống phải sinh sản, tăng gia lên. Tạo hóa không chấp nhận những cơ thể, biến trạng hoặc tập thể không biết sinh sôi nảy nở. Tạo hóa đòi hỏi phải có nhiều về lượng rồi mới lựa chọn về phẩm. Tạo hóa thích những đàn con đông và say mê những cuộc đấu tranh để giành sự sống còn cho một số ít kẻ mạnh. Tạo hóa chắc hẳn phải hài lòng được chứng kiến hằng ngàn tinh trùng đua nhau vượt lên để gieo tinh cho một cái noãn. Tạo hóa chú trọng đến chủng loại nhiều hơn là cơ thể và cũng không cần phân biệt giữa văn minh và mọi rợ. Tạo hóa không cần biết rằng sinh suất cao thường đi đôi với một nền văn minh thấp và sinh suất thấp thường đi đôi với một nền văn minh cao, và Tạo hóa (hiểu theo nghĩa toàn thể các diễn trình sinh nở, biến thể, cạnh tranh, đào thải và sinh tồn) lại còn cố tình để cho các quốc gia có sinh suất thấp lâu lâu đều đều bị chinh phạt bởi các tập thể khỏe mạnh và sinh sản nhiều hơn. Dưới thời César, dân xứ Gaule chống lại được với dân Đức nhờ các đạo quân La Mã, và ngày nay [Pháp] chống lại được Đức nhờ các đạo quân Anh, Mĩ. Khi La Mã suy tàn, dân Franc từ Đức kéo sang và biến xứ Gaule thành nước Pháp. Giả sử Anh và Mĩ lại suy tàn (như La Mã) thì nước Pháp với dân số gần như không thay đổi trong suốt thể kỉ XIX, có thể lại bị chinh phục.
Nếu loài người trở nên đông quá không kiếm đủ thức ăn thì Tạo hóa có ba cách để lập lại thế quân bình: nạn đói, bệnh dịch và chiến tranh. Trong tác phẩm nổi danh Luận về Dân số (1798) Thomas Malthus cho rằng nếu không có những sự kiềm chế định kì đó thì sinh suất sẽ cao hơn tử suất đến nỗi số miệng ăn gia tăng sẽ lấn át cả số gia tăng thực phẩm. Tuy là một nhà tu và một người có thiện ý, nhưng Malthus cho rằng cấp phát tiền và phẩm vật cứu trợ cho người nghèo là khuyến khích họ sinh đẻ bừa bãi, và do đó, làm cho vấn đề thêm trầm trọng. Trong lần xuất bản thứ nhì (1803) ông còn khuyên nên tiết chế giao hợp trừ khi muốn sinh sản, nhưng ông lại không chấp nhận các phương pháp kiểm soát sinh đẻ khác. Biết rằng lời khuyên thánh đức này khó được chấp nhận, nên ông tiên đoán là sự quân bình giữa số miệng ăn và số thức ăn trong tương lai sẽ được duy trì bằng nạn đói, bệnh dịch và chiến tranh như đã từng xảy ra trong quá khứ.
Những tiến bộ về kĩ thuật canh tác và cách ngừa thai trong thể kỉ XIX có vẻ đã bác bỏ lập luận của Malthus: tại Anh, Hoa Kì, Đức và Pháp, số cung thực phẩm đã theo kịp đà sinh sản, và mức sinh hoạt cao đã trì hoãn tuổi thành hôn, giảm số con trong gia đình. Có thêm người ăn thì cũng có thêm người sản xuất: những bàn tay mới đã khai thác đất nước để có thêm thực phẩm. Mới đây, Gia Nã Đại và Hoa Kì đã xuất cảng hằng triệu giạ lúa mì mà trong nước lại không bị nạn đói và bệnh dịch. Đó là câu trả lời Malthus sống động nhất. Nếu áp dụng kiến thức canh tác hiện nay khắp mọi nơi thì trái đất có thể nuôi sống một dân số đông gấp đôi số hiện tại.
Lẽ dĩ nhiên Malthus sẽ trả lời là giải pháp này chỉ làm trì hoãn cơn đại họa. Đất màu mỡ có giới hạn, chẳng sớm thì muộn các tiến bộ về kĩ thuật canh tác cũng mất hiệu lực vì số sanh nhiều hơn số tử. Trong khi đó y tế, vệ sinh và các công cuộc cứu trợ làm luật đào thải trở nên vô hiệu, khiến cho kẻ yếu sống sót để sinh thêm ra kẻ yếu khác. Để trả lời lập luận này, người ta hi vọng rằng các tiến triển trong lĩnh vực kĩ nghệ, đô thị hóa, giáo dục, và mức sinh hoạt tại các nước hiện nay đang là mối đe dọa cho thế giới vì quá đông dân cư, có lẽ sẽ đưa tới hậu quả làm giảm sinh suất như đã xảy ra tại Bắc Mĩ và Âu Châu. Cho tới khi đạt được mức bình quân giữa sản xuất và sinh sản, thì vì lí do nhân đạo, ta nên khuyến cáo việc phổ biến các kiến thức và phương pháp ngừa thai. Theo lẽ thường, sự sinh con đẻ cái phải là đặc quyền của những người khỏe mạnh chứ không phải là phó sản của sự kích thích tính dục.
Có bằng chứng nào cho thấy kiểm soát sinh đẻ sẽ làm cho nòi giống suy nhược không? Chắc là các người thông minh đã hạn chế sinh đẻ nhiều hơn người thường và cơ hồ trong mỗi thế hệ, sức sinh sản quá mức của những người kém hiểu biết đã làm cho nỗ lực của các nhà giáo dục hóa ra công dã tràng. Nhưng cái chúng ta gọi là óc thông minh phần lớn do kết quả của giáo dục, cơ hội và kinh nghiệm mỗi cá nhân, và không có bằng chứng nào cho thấy trí tuệ đã luyện được đó sẽ di truyền cho con cái. Ngay cả con các tiến sĩ cũng phải được giáo dục, phải trải qua những lỗi lầm và những cơn khủng hoảng về giáo điều, về niềm tin của tuổi trưởng thành. Chúng ta không thể nói là có bao nhiêu khả năng hoặc thiên tài tiềm ẩn trong nhiễm sắc thể của những người nghèo sống chật vật và thiếu thốn. Về sinh lí, sức mạnh về thể xác lúc sơ sinh có thể quí hơn dòng dõi trí thức. Nietzsche cho rằng dòng giống tốt nhất tại Đức ở trong huyết quản của nông dân. Các triết gia không phải là vật liệu tốt nhất để giữ cho nòi giống sinh sôi nảy nở.
Hạn chế sinh đẻ đã dự một phần trong lịch sử của Hi Lạp và La Mã. Thật là một chuyện buồn cười khi thấy César (năm 59 trước TL) thưởng cho người dân La Mã nào đông con và cấm những đàn bà hiếm hoi đi kiệu hoặc đeo đồ trang sức. Khoảng bốn chục năm sau, Auguste lại áp dụng chiến thuật ấy nhưng cũng bất lực. Hạn chế sinh đẻ tiếp tục lan tràn trong giới thượng lưu, trong khi đó dân di cư gốc Đức ở phương Bắc, dân Hi Lạp hoặc Trung Đông thay đổi dần thành phần dân số Ý. Rất có thể sự thay đổi chủng tộc này đã làm giảm khả năng và ý chí của dân chúng ngăn chặn ngoại xâm và chống lại sự bất lực của chính quyền.
Tại Mỹ, sinh suất thấp của dân gốc Anglosaxon đã làm giảm quyền hành kinh tế và chính trị của họ. Trong khi đó sinh suất cao hơn của các gia đình theo đạo Ki Tô cho thấy có lẽ vào năm 2000, Giáo hội Ki Tô sẽ là lực lượng mạnh nhất trong các chính phủ liên bang, cũng như tiểu bang và thị xã. Một diễn trình tương tự cũng đang giúp đạo Ki Tô phục hồi tại Pháp, Thụy Sĩ và Đức. Quê hương của Voltaire, Calvin và Luther chẳng bao lâu nữa có thể trở về vùng ảnh hưởng của Giáo hoàng. Thế là sinh suất cũng như chiến tranh, có thể định đoạt số mệnh của các khoa thần học. Năm 732, nếu Hồi giáo không đại bại ở Tours[2] thì kinh Coran đã thay thế kinh Thánh tại Pháp và Y Pha Nho rồi, ngày nay cũng vậy, ưu thế về tổ chức, kỹ thuật, tinh thần, đức tin và sức sinh sản của dân Ki Tô giáo có thể tiêu diệt cả cuộc Cải Cách Thệ phản (Tin Lành) và công trình khai hóa của Pháp. Lịch sử quả là nhà hài hước độc đáo.
Chú thích:
[1] Nhà cải cách tôn giáo Pháp (1509-1564). Giáo phái của ông rất nghiêm khắc, chủ trương rằng Thượng Đế có quyền chí thượng và tuyệt đối.
[2] Sử Pháp gọi trận này là trận Poitiers. Chiến công đó nhờ vua Pháp Charlemagne.
CHƯƠNG IV
Nòi Giống Và Lịch Sử
Trên địa cầu có khoảng hai tỉ người da màu và chín trăm triệu người da trắng. Nhưng có nhiều kẻ da trắng[1] mừng lắm khi bá tước Joseph Arthur de Gobineau trong cuốn Luận về sự bất bình đẳng giữa các giống người (1853-1955), bảo rằng nhân loại gồm nhiều nòi giống khác nhau về di truyền từ cơ thể tới khả năng tinh thần và tính nết, và chỉ có mỗi một giống người, giống “aryen” là bản chất cao quí hơn các giống khác.
“Cái gì vĩ đại, cao thượng, phong phú trong công trình của loài người về khoa học, nghệ thuật, văn minh, đều do một khởi điểm duy nhất, đều từ một phôi chủng phát ra…, chỉ thuộc về mỗi một nòi giống mà các chi đã ngự trị trên hết thảy các xứ văn minh trong vũ trụ… Lịch sử cho ta thấy rằng mọi nền văn minh đều phát sinh từ giống da trắng, không một nền văn minh nào không được giống đó giúp đỡ mà có thể tồn tại được, và một xã hội có còn giữ được dòng máu của tập thể cao thượng đã tạo ra nó thì mới còn lớn lao và rực rỡ”[2].
Theo Gobineau, những hoàn cảnh thuận lợi không đủ giải thích sự phát sinh của một nền văn minh, vì những hoàn cảnh tương tự (chẳng hạn những dòng sông có phù sa làm cho đồng ruộng phì nhiêu) đã tưới nhuần các nền văn minh Ai Cập và Cận Đông, lại không tạo được một nền văn minh nào cho giống người da đỏ ở Bắc Mĩ mặc dầu họ sống trên một miền đất cát màu mỡ, dọc theo những dòng sông đẹp đẽ. Các chế độ cũng vậy, không tạo ra được văn minh, vì văn minh phát sinh trong những chế độ khác nhau, có khi trái ngược nhau nữa, chẳng hạn chế độ quân chủ ở Ai Cập và chế độ “dân chủ” ở Athènes. Sự sinh trưởng, thịnh, suy rồi tàn của một nền văn minh tùy thuộc những đặc tính di truyền của nòi giống. Sự degeneration (thoái hóa) của một nền văn minh, theo đúng nghĩa gốc của chữ là sự suy nhược của cái genus (chủng loại), dòng dõi hay nòi giống. “Các dân tộc chỉ thoái hóa vì dòng máu của họ bị pha với dòng máu các dân tộc họ đã chiến thắng”, thường thường là do các hôn nhân giữa một nòi giống mạnh và những nòi giống bị xâm lăng. Do đó mà người da trắng ở Huê Kì và Gia Nã Đại (không kết hôn với người da đỏ) mới phú cường, văn minh hơn người da trắng ở Châu Mĩ La tinh (kết hôn với người da đỏ). Chỉ bọn con cháu suy đồi của những tạp chủng đó mới nói tới sự bình đẳng giữa các giống người hoặc nghĩ rằng “tứ hải giai huynh đệ”. Trái lại những người và những dân tộc mạnh nhận thức được nòi giống của mình và tự nhiên chống lại các cuộc hôn nhân với giống người khác.
Năm 1899, Houston Stewart Chamberlain, một người Anh coi nước Đức là tổ quốc của mình, xuất bản cuốn Die Grundlagen des neunzehnten Jahrhunderts (Nền tảng của thế kỉ XIX), trong đó ông ta rán chứng minh rằng giống người có óc sáng tạo không phải là toàn thể giống Aryen mà chỉ gồm riêng giống Teuton[3]. “Lịch sử thực sự bắt đầu từ khi bàn tay mạnh mẽ của người Nhật Nhĩ Mãn chiếm lấy di sản thời thượng cổ để lại”. Theo Chamberlain thì khuôn mặt của Dante[4] có những nét đặc biệt của giống Nhật Nhĩ Mãn, ông ta cũng nhận ra được giọng Nhật Nhĩ Mãn trong thư của thánh Paul gởi dân xứ Galatie, và tuy không xác nhận rằng chúa Ki Tô là một người Nhật Nhĩ Mãn, nhưng ông quả quyết rằng “kẻ nào bảo chúa Ki Tô gốc Do Thái thì “phi ngu tắc vu” (không ngu xuẩn cũng gian dối). Các văn sĩ Đức nhã nhặn quá nên không cãi lại vị khách kiều cư của họ: Treitschke và Bernhardi bảo người Đức là dân tộc lớn nhất thời cận đại, Wagner đem thuyết đó phổ vào nhạc, Alfred Rosenberg cho dòng máu và đất đai Nhật Nhĩ Mãn là “truyền kì gợi hứng của thế kỉ XX”, sau cùng Adolf Hitler, dựa vào lí thuyết căn bản đó mà lôi cuốn dân Đức trong cuộc diệt chủng tộc Do Thái và xâm chiếm châu Âu.
Trong cuốn The Passing of the Great Race 1916 một người Mĩ, ông Madison Grant bảo chỉ có mỗi một chi nhánh Aryen, mà ông gọi là “chi nhánh bắc” - gồm những dân tộc Scandinavie, Scythe, Nhật Nhĩ Mãn ở miền Baltique, Anh và Mĩ Anglo-Saxon[5] - là tạo nền văn minh. Những giống người tóc vàng, mắt xanh dương, quen với mùa đông lạnh gắt ấy đã tràn qua Nga, miền Balkan mà xuống chiếm miền Nam biếng nhác, u mê, và cuộc xâm lăng đó đánh dấu buổi bình minh của lịch sử. Cũng vẫn theo Grant, giống Sace (Scythe?) chiếm Ấn Độ, tạo ra tiếng Phạn, mà người ta gọi là “tiếng Ấn-Âu”, và thành lập chế độ tập cấp (caste) để dòng máu khỏi lai các giống thổ dân da đen. Giống Cimmérien vượt dãy Caucase và tràn qua Ba Tư, giống Phrygien tràn qua Tiểu Á, giống Acliéen và Dorien tràn vô Hi Lạp và đảo Crète, giống Ombrien và Osque tràn vô Ý. Giống Nordique (phương Bắc) ở đâu cũng là bọn mạo hiểm, hiếu chiến, có kỉ luật, họ ức chế các giống người phương Nam biếng nhác và bất thường, họ hợp chủng với giống Alpine[6], hậu quả là Sparte thắng Athènes trong chiến tranh Péloponnèse, và các dân tộc phương Bắc thuần chủng hơn ở Macédoine [phía Bắc Hi Lạp] và ở La Mã thời Cộng Hòa chiếm được Hi Lạp.
Tiếp theo là nhiều cuộc xâm lăng khác của giống phương Bắc, xuất phát từ Scandinavie và Bắc Germanie: Các giống Goth và Vandale chiếm trọn đế quốc La Mã, các giống Angle và Saxon chiếm xứ Anh và đặt cho nó một tên mới, giống Franc chiếm xứ Gaule và xứ này mang tên của họ [France tức Pháp: xứ của người Franc]. Sau đó, các giống Normand, Nordique lại chiếm Pháp, Anh, đảo Sicile. Giống Lombard râu dài và giống Nordique vô Ý, hợp chủng với nhau làm cho Milan và Florence thêm sinh khí nhờ đó mà có thời kì Phục hưng ở Ý. Giống Varange, giống Nordique chiếm Nga và thống trị Nga cho tới năm 1917. Giống Anh và giống Nordique khai thác châu Mĩ và châu Úc, chiếm Ấn Độ, và dựng đồn canh ở khắp các hải cảng lớn của châu Á.
Grant than thở rằng ngày nay giống người phương Bắc đó đương mất ưu thế. Ở Pháp, nó đã hỏng chân từ năm 1789, như Camille Desmoullins tuyên bố trong các quán cà phê, cuộc Cách mạng 1789 là cuộc nổi loạn của giống thổ dân Gaulois (tức người Alpin) chống lại giống Franc Teuton (gốc Đức) đã thống trị họ dưới trào Clovis và Charlemagne. Thập tự chiến, chiến tranh Ba mươi năm, các chiến tranh của Napoléon và thế chiến thứ nhất đã làm cho giống Nordique kiệt quệ, từ nay nó suy nhược quá rồi, không chống lại nổi sinh suất cao hơn của các dân tộc Alpin và Địa Trung Hải ở Âu cũng như ở Mĩ. Theo lời dự đoán của Grant thì vào khoảng năm 2000, giống Nordique đã mất ưu thế rồi, và sự suy đồi của họ sẽ làm cho văn minh phương Tây tiêu diệt trong một cảnh dã man mới, xuất hiện khắp nơi, từ trong cũng như từ ngoài. Nhưng ông sáng suốt nhận rằng “giống Địa Trung Hải” mặc dầu sinh lực kém giống Nordique (phương Bắc) và giống Alpin, lại hơn về phương diện trí tuệ và nghệ thuật, nhờ giống đó nên mới có thời cổ đại ở Hi Lạp và La Mã, tuy một phần lớn cũng do họ hợp chủng với giống phương Bắc.
Ai cũng nhận thấy được một số nhược điểm của thuyết chủng tộc. Một học giả Trung Hoa sẽ nhắc nhở chúng ta rằng dân tộc ông đã tạo được nền văn minh lâu bền nhất trong lịch sử - các nhà chính trị, nhà phát minh, nghệ sĩ, thi sĩ, khoa học gia, triết gia, thánh hiền, từ 2000 năm trước Tây lịch tới nay. Một học giả Mễ Tây Cơ sẽ chỉ cho ta những công trình kiến trúc uy nghi của người Maya, người Aztèque và người Inca ở Mĩ châu từ thời Christophe Colomb chưa đặt chân lên xứ họ. Một học giả Ấn Độ tuy nhận rằng giống người Aryen đã xâm nhập Bắc Ấn khoảng mười sáu thế kỉ trước Tây lịch, nhưng sẽ nhắc chúng ta rằng dân tộc Dravidien da đen ở Nam Ấn đã sản xuất được nhiều đại kiến trúc sư và nhiều thi hào, những đền ở Madras, Madoura và Trichinopoli là những kiến trúc đẹp nhất thế giới. Tháp điện Angkor Vat của người Khmer lại còn làm cho ta kinh dị hơn nữa. Lịch sử không biết tới màu da, và một nền văn minh có thể phát triển ở bất cứ nơi nào miễn là có đủ hoàn cảnh thuận lợi.
Dù chỉ giới hạn thuyết chủng tộc về các giống người da trắng thôi thì vẫn còn nhiều điểm khó giải thích: Giống Sémite sẽ nhắc chúng ta những nền văn minh của Babylone, Assyrie, Syrie, Palestine, Phénicie, Carthage và Hồi giáo. Người Do Thái đã tặng châu Âu Thánh kinh và Ki Tô giáo, tặng Mahomet một phần quan trọng của kinh Coran[7]. Còn người Hồi giáo thì có thể kê một loạt vua chúa, nghệ sĩ, thi sĩ, nhà bác học, triết gia đã chinh phục và tô điểm một phần thế giới da trắng từ Bagdad tới Cordoue, trong khi Tây Âu (vào khoảng từ 565 tới 1095) còn đang mò mẫm giữa thời đại Tối tăm.
Văn minh cổ Ai Cập, Hi Lạp và La Mã hiển nhiên là sản phẩm của hoàn cảnh địa lí thuận lợi và của sự phát triển kinh tế, chính trị, hơn là của thể chất một chủng tộc, và trong các nền văn minh đó, người ta thấy nhiều nguồn gốc phương Đông. Nghệ thuật và Văn chương Hi Lạp đã vay mượn của Tiểu Á, Crète, Phénicie và Ai Cập. ở thiên niên kỉ thứ II trước Tây lịch, nền văn minh Hi Lạp gọi là “văn minh ở Mycènes”[8] phát sinh một phần từ nền văn minh ở Crète, mà nguồn gốc nền văn minh này chắc là từ Tiểu Á. Khi giống Dorien “ở phương Bắc” vượt qua miền Balkan vào khoảng 1.100 trước Tây lịch, họ tàn phá gần hết nền văn minh Hi Lạp cổ sơ đó, và mãi nhiều thế kỉ sau, nền văn minh Hi Lạp thời hữu sử mới xuất hiện với Lycurguen ở Sparte, Thalès ở Milet, Héraclite ở Ephèse, Sapppho ở Lesbos và Sa lon ở Athènes. Từ thế kỉ thứ VI trước Tây lịch, người Hi Lạp truyền bá văn hóa của họ theo bờ Địa Trung hải ở Durazzo, Tarente, Crotone, Reggio de Calabre, Syracuse, Naples, Nice, Monaco, Marseille, Malaga. Nền văn minh La Mã phát sinh từ các thị trấn thuộc Hi Lạp ở Nam Ý, và cũng từ nền văn hóa Étrusque mà nguồn gốc có lẽ từ châu Á, rồi nền văn minh Tây Âu lại phát sinh từ nền văn minh La Mã, và sau cùng nền văn minh Bắc, Nam Mĩ phát sinh từ nền văn minh Tây Âu. Từ thế kỉ thứ III, các giống Celte, Teuton hoặc Á tàn phá Ý và các nền văn minh cổ điển. Người ta có thể nói rằng miền Nam tạo ra văn minh, miền Bắc thắng và tiêu diệt các nền văn minh ấy, rồi vay mượn của chúng để truyền bá chúng. Đại cương lịch sử là vậy.
Người ta đã thử đo tỉ lệ của bộ óc với mặt hoặc sức nặng, để giải thích sự liên hệ, giữa văn minh và chủng tộc, nhưng cũng chẳng làm sáng tỏ thêm vấn đề. Sở dĩ người da đen châu Phi không tạo nên được nền văn minh lớn nào, có lẽ là vì những hoàn cảnh và địa lí bất lợi: Thử hỏi có “giống” da trắng nào ở hoàn cảnh như vậy mà làm hơn họ được không? Và ta nên chú ý đến điều này là trong trăm năm gần đây, mặc dầu gặp mọi trở ngại xã hội, nhiều người da đen ở Huê Kì đã thành công rực rỡ trong nghề nghiệp, trong nghệ thuật và văn chương.
Sự thực trong lịch sử, nòi giống giữ vai trò khai đoan chứ không kiến tạo nên văn minh. Nhiều giống người tới cùng một miền vào những thời đại khác nhau, hòa hợp huyết thống, truyền thống, tục lệ của nhau - hoặc hòa hợp với thổ dân - cũng như hai nguồn di thể (tinh chủng) tiếp xúc với nhau mà sinh ra cái thai. Như vậy sau mấy thế kỉ, sự pha trộn nòi giống ấy sản xuất được một giống mới, có thể một dân tộc mới nữa, như người La Mã, Celte Angle, Saxon, Jute, Danois, Normand đã hỗn hợp với nhau mà sinh nòi giống Anh. Khi một giống mới đã thành hình thì những biểu hiện văn hóa của họ không giống một dân tộc nào khác và tạo nên một nền văn minh mới - mới về nét mặt, tính tình, ngôn ngữ, văn chương, luân lí, nghệ thuật. Không phải nòi giống tạo nên văn minh, mà chính văn minh tạo nên con người: Những hoàn cảnh địa lí, kinh tế, chính trị, tạo nên một nền văn hóa và nền văn hóa lại tạo nên một kiểu người. Người Anh tạo nên văn minh Anh ít hơn văn minh của họ ra ngoài quê hương họ, chẳng hạn khi họ ở Tombouetou[9] mà cũng bận lễ phục để ăn bữa tối, không phải là họ tái tạo văn minh của họ ở nơi ấy đâu, mà chỉ chứng tỏ rằng, ngay cả ở nơi ấy, văn minh của họ vẫn chế ngự họ. Lần lần những dị biệt về truyền thống và nòi giống phải chịu thua ảnh hưởng của hoàn cảnh. Sống vài thế hệ ở miền nhiệt đới rồi, những người gốc gác ở phương Bắc theo tính tình người phương Nam, và những đứa cháu hai đời của những người đã rời miền Nam nhàn nhã [để lên phương Bắc], lại theo cái nhịp sống, suy nghĩ mau lẹ hơn mà họ thấy ở phương Bắc.
Theo quan điểm ấy thì nền văn minh Huê Kì hiện còn ở giai đoạn hợp chủng. Từ 1700 đến 1848, những người da trắng sống ở phía bắc miền Florida hầu hết là người Anglo-saxon, và văn học của họ như một bông hoa của nước Anh cổ trồng trên đất nước Anh mới (New England)[10]. Từ năm 1848, Huê Kì mở cửa tiếp đón mọi người da trắng bất kì gốc gác ở đâu, và một cuộc hợp chủng mới lại bắt đầu, tới nay vẫn chưa hết, có lẽ vài thế kỉ nữa mới hết. Khi nào sự hợp chủng đó tạo nên một giống người thuần nhất, có thể rằng Huê Kì sẽ có ngôn ngữ riêng (khác hẳn tiếng Anh, cũng như hiện nay tiếng Y Pha Nho khác tiếng Ý) văn chương riêng và những nghệ thuật đặc biệt, ngay bây giờ, cũng đã thấy có những biến chuyển về phía đó, hoặc rõ ràng hoặc lờ mờ rồi.
Những hiềm kị về chủng tộc một phần dựa trên nguồn gốc nhân chủng, nhưng cũng có nguyên nhân khác có phần quan trọng hơn: Sự dị biệt về văn hóa đã thâu nhận, tức ngôn ngữ, y phục, thói quen, luân lí, tôn giáo. Không có cách nào diệt trừ những hiềm kị đó được, ngoài cách quảng bá một nền giáo dục bao dung. Kiến thức về lịch sử có thể dạy cho chúng ta rằng văn minh là một công trình hợp tác mà hầu hết các dân tộc đều đã góp sức, nó là di sản và món nợ chung của chúng ta, con người văn minh là con người biết coi bất kì một người đàn ông, đàn bà nào, dù tầm thường tới đâu, cũng là những đại diện của một trong những tập thể đã góp sức sáng tạo để cho nhân loại được được như ngày nay.
Chú thích:
[1] Nguyên văn là paleface (mặt lợt lạt), danh từ người da đỏ châu Mĩ dùng để trỏ người da trắng.
[2] Theo chú thích trong nguyên tác thì đoạn này trích trong tác phẩm Inequality of Human Races của Gobineau, nên tôi ghi thêm hai dấu ngoặc kép, một ở đầu và một ở cuối đoạn. (Goldfish).
[3] Đại khái giống Aryen là toàn thể giống da trắng, còn giống Teuton là giống Nhật Nhĩ Mãn tức giống Đức, như vậy ông ta muốn bảo rằng giống Đức cao quí hơn các giống Anh, Pháp, Ý, Hy Lạp v.v…
[4] Thi hào bậc nhất của Ý (1265-1321) tác giả tập thơ bất hủ Divine comédie.
[5] Anglo saxon trỏ những dân tộc Nhật Nhĩ Mãn (Angle, Jute, Saxon) qua chiếm nước Anh ở thế kỉ thứ V.
[6] Một miền ở Hi Lạp mà thị trấn lớn nhất là Athènes.
[7] Vì Mahomet phỏng theo nhiều đoạn trong Thánh kinh của Do Thái để soạn kinh Coran.
[8] Một thị trấn ở Hi Lạp.
[9] Một thị trấn ở châu Phi, gần bờ sông Niger, khí hậu rất nóng.
[10] Danh từ này trỏ tất cả những thuộc địa cũ người Anh dựng nên ở thế kỉ XVII, hiện nay là các tiểu bang New Hampshire, Massachusetts, Rhode island, Connecticut, Vermont và Maine của Huê Kì trên bờ Đại Tây Dương.
CHƯƠNG V
Tính Tình Và Lịch Sử
Xã hội không xây dựng trên một lí tưởng mà trên bản tính con người, và chính cái thể chất con người viết lại chính thể của Quốc gia[1]. Nhưng thể chất của con người ra sao?
Chúng ta có thể cho bản tính con người gồm những xu hướng và tình cảm căn bản của nhân loại. Chúng ta sẽ gọi những xu hướng căn bản đó là bản năng mặc dầu ngày nay chúng ta biết rằng chưa chắc bản năng đã có tính cách thiên phú. Muốn phân tích bản tính con người, chúng ta có thể dùng “bảng yếu tố của tính tình” chép ở dưới đây:
Theo sự phân tích đó, thì bình thường con người được Thiên nhiên (ở đây Thiên nhiên có nghĩa là di truyền) phú cho sáu bản năng tích cực và sáu bản năng tiêu cực, tác dụng là để duy trì cá nhân, gia đình, tập thể hoặc chủng loại. Ở những người có cá tính tích cực thì xu hướng tích cực thắng xu hướng tiêu cực; nhưng hầu hết mọi người đều có đủ hai nhóm bản năng đó để tránh né hoặc thích ứng với (tùy theo khí chất hoặc hoàn cảnh) những thách đố quan trọng hoặc cơ hội thuận tiện của đời sống. Mỗi bản năng gây một số thói quen và kéo theo một số tình cảm. Tất cả những cái đó tạo nên bản tính con người.
Nhưng bản tính con người đã biến đổi ra sao theo dòng lịch sử? Theo lí thuyết thì nó phải biến đổi vì luật đào thải tự nhiên chắc đã gây nên những biến đổi về sinh lí cũng như tâm lí. Vậy mà lịch sử hiện nay ta được biết không cho thấy rằng tính tình của con người đã thay đổi nhiều. Người Hi Lạp thời Platon cư xử một phần lớn cũng như người Pháp thời hiện đại, và người La Mã cũng chẳng khác gì người Anh. Phương tiện có thể thay đổi nhưng lí do và mục tiêu thì vẫn vậy: Người ta hành động hoặc nghỉ ngơi, chiếm hữu hoặc cho, chiến đấu hoặc bỏ chạy, tìm bạn bè hoặc sự cô liêu, kiếm bạn trăm năm hoặc ở độc thân, săn sóc con cái hoặc bực tức về thái độ của cha mẹ. Ngay từ giai cấp này tới giai cấp khác, bản tính con người cũng không thay đổi; xét chung thì kẻ nghèo cũng có những bản năng của người giàu; chỉ khác là họ ít cơ hội thuận tiện, ít khả năng hơn người giàu để thỏa mãn bản năng của họ thôi. Đối với sử gia thì thật là hiển nhiên, bọn phản nghịch khi thắng rồi, lại dùng ngay những phương pháp của kẻ thù mà trước kia họ mạt sát.
Suốt trong thời gian mà lịch sử đã ghi chép được, sự biến đổi của con người có tính cách xã hội hơn là tính cách sinh lí: Người ta không thể bảo rằng đã có những sự biến đổi di truyền của chủng loại, mà chỉ có những sự canh tân về kinh tế, chính trị, tinh thần, và luân lí được truyền lại đời sau nhờ sự bắt chước, nhờ tục lệ và giáo dục. Phong tục và truyền thống ở trong một tập thể cũng như đặc trưng và di truyền trong một chủng loại hoặc những bản năng trong cá nhân: Chúng là những giải pháp sẵn sàng để thích ứng với các hoàn cảnh đặc biệt và thường gặp. Nhưng cũng có khi một tình thế mới mẻ xuất hiện và đòi hỏi những phản ứng bất thường, khác hẳn những phản ứng cố hữu quen thuộc. Vì vậy mà ở các sinh vật cao đẳng, sự tiến hóa cần có một khả năng thí nghiệm và canh tân, khả năng đó trên phương diện xã hội tương đương với sự biến chuyển. Sự tiến hóa của xã hội là hậu quả của sự hỗ tương phản ứng giữa tập tục và óc tưởng tượng sáng tạo.
Lúc đó, cá nhân có sáng kiến (“vĩ nhân”, “anh hùng” hoặc “thiên tài”) tái xuất hiện thành một động lực quyết định của lịch sử. Cá nhân ấy không hoàn toàn là vị thần như Carlyle bảo đâu, mà chỉ là đứa con của thời đại, xứ sở, là sản phẩm mà cũng là biểu hiện của một số biến cố, cũng như người giúp việc hoặc người phát ngôn cho các biến cố đó thôi; nếu không gặp một hoàn cảnh nhất định cần một phản ứng hoàn toàn mới lạ, thì những ý nghĩ tân kì của họ sẽ hóa ra không hợp thời hoặc không thực hiện được. Nếu là một người hoạt động thì cái thế của họ và tâm trạng trong thời khủng hoảng sẽ tạo cho họ một sự quan trọng và những quyền hành mà ở thời bình thường tất còn tiềm tàng, không có chỗ dùng. Nhưng hạng người ấy không phải chỉ là sản phẩm của thời đại; biến cố xảy ra nhờ họ cũng ngang nhờ hoàn cảnh; những ý tưởng, quyết định của họ làm cho lịch sử chuyển hướng. Ở vào một vài thời đại, tài hùng biện của họ có thể mạnh bằng cả ngàn sư đoàn, như trường hợp Churchill; trực giác về chiến lược hoặc chiến thuật của họ có thể giúp họ thắng trận và dựng nên những quốc gia mới như trường hợp Napoléon. Nếu họ là một nhà tiên tri và có nghệ thuật cổ xúy quần chúng thì lời nói của họ, như trường hợp Mahomet có thể khêu gợi một tham vọng bất ngờ, và phát khởi một sinh lực phi thường trong lòng một dân tộc nghèo khổ, thua sút. Một Pateur, một Morse, một Edison, một Ford, một Wright[2], một Marx, một Lénine hoặc một Mao Trạch Đông đều là hậu quả của vô số nguyên nhân và nguyên nhân của vô số hậu quả.
Trong bảng kê những yếu tố của tính tình, hai thói quen sáng kiến và bắt chước đã được coi như trái ngược nhau, nhưng thực ra hai yếu tố đó hợp tác với nhau một cách thiết yếu. Những bản tính phục tùng hợp với các cá nhân thống trị để cho xã hội có trật tự, hoạt động điều hòa; cũng vậy phần đa số bắt chước theo sau phần thiểu số canh tân mà phần thiểu số này lại theo sau cá nhân có sáng kiến, thành thử mọi người đều phản ứng theo cách của mình để thích hợp với những nhu cầu mới của hoàn cảnh. Xét chung thì lịch sử là sự xung đột của các thiểu số; phần đa số vỗ tay hoan nghênh kẻ thắng và cung cấp số người cần dùng cho cuộc thí nghiệm xã hội.
Vậy trí tuệ là một trong những sức mạnh căn bản của lịch sử, nhưng nó cũng có thể là một yếu tố gây ra tan rã, suy tàn. Cứ một trăm ý mới đưa ra để thay những giải pháp cổ truyền thì ít nhất có chín mươi chín ý sau này mới thấy là kém những giải pháp đó. Không một người nào dù thông minh, biết nhiều tới đâu, mà có thể chỉ trong một đời người có kiến thức rộng rãi đủ để phán xét, bài xích tục lệ hoặc chế độ của xã hội mình mà không dễ bị lầm lỗi nặng: vì những tục lệ, chế độ đó là sự khôn ngoan của biết bao thế hệ suốt bao thế kỉ thí nghiệm trong phòng thí nghiệm của lịch sứ. Một thanh niên đầy nhựa sống có lẽ tự hỏi tại sao xã hội lại không để cho dục vọng của mình tự do phát ra; nhưng nếu chàng ta không bị tục lệ, luân lí hoặc luật pháp ngăn cấm, thì đời chàng sẽ hư hỏng trước khi tinh thần chàng đủ già dặn để hiểu rằng sinh lực đó là một dòng sông bừng bừng lửa đỏ, phải tìm cả trăm cách ngăn nó lại, làm cho nó nguội đi, nếu không muốn cho nó tàn phá cá nhân lẫn tập thể.
Vì vậy người thủ cựu chống lại sự thay đổi cũng ích lợi cho xã hội như người cấp tiến đề nghị thay đổi; có lúc còn ích lợi hơn nữa nếu ta nghĩ rằng gốc rễ quan trọng hơn cành tháp. Các ý mới nên được ta chú ý tới vì có vài ý có thể dùng được; nhưng cũng nên bị bác bỏ chống đối, thảo luận; đó là cuộc thử lửa mà các cuộc canh tân phải đủ sức chịu đựng trước khi được chấp nhận làm gia sản của nhân loại. Nên có những người già chống lại bọn trẻ, và có những bọn trẻ nói khích hạng già; do sự căng thẳng đó, cũng như sự căng thẳng giữa nam nữ, giữa các giai cấp, mà phát sinh ra một sinh lực sáng tạo dẻo dai, một sức kích thích sự phát triển, một sự hợp nhất và vận hành thầm kín, căn bản cho toàn thể.
Chú thích
[1] Nguyên văn: The constitution of man rewrites the constitutions (cũng có thể dịch là hiến chương) of states. Tác giả muốn nói một số chính khách theo lí tưởng mà lập một chế độ, một hiến chương cho quốc gia nhưng rồi chế độ đó, hiến chương đó phải sửa lại cho hợp với tính tình, tâm hồn của dân tộc.
[2] Hai anh em Wright, Wibur và Orville, sống ở Huê Kì cuối thế kỷ 19, đã sáng chế ra chiếc phi cơ đầu tiên năm 1903.
CHƯƠNG VI
Luân Lí Và Lịch Sử
Luân lí là toàn thể những qui tắc một xã hội khuyên mỗi người nên theo trong việc cư xử với nhau để xã hội được an ninh, có trật tự và phát triển điều hòa; mặt khác, luật pháp là toàn thể những qui tắc xã hội bắt buộc mỗi người phải theo. Nhờ tuân một đạo cương thường nghiêm và tinh tường mà trong mười sáu thế kỉ, những thiểu số Do Thái trong xã hội Ki Tô giáo đã giữ được sự liên tục và an ổn, và gần như chẳng cần tới quốc gia cùng luật pháp.
Người nào biết sử một cách nông nổi thì cho rằng luân lí không có giá trị gì cả vì luôn luôn thay đổi theo từng xứ và theo thời đại, nhiều khi còn mâu thuẫn nhau nữa. Nhưng nếu biết sử dụng một cách sâu sắc hơn thì người ta sẽ thấy có những qui tắc luân lí phổ biến, cần thiết.
Sở dĩ luân lí thường khác nhau vì phải thích nghi với tình thế lịch sử và hoàn cảnh xã hội. Chúng ta cứ hãy tạm chấp nhận rằng lịch sử kinh tế chia làm ba thời đại: thời đại săn bắn, thời đại nông nghiệp và thời đại kĩ nghệ; và như vậy dĩ nhiên mỗi thời đại có một nền luân lí khác với thời đại sau. Trong thời đại săn bắn, con người phải biết đuổi bắt, đánh và giết; khi bắt được mồi rồi thì ăn cho tới hết sức chứa của bao tử vì không biết bao giờ mới lại có thịt để ăn nữa; sự bất an toàn gây ra tính tham lam, cũng như sự tàn bạo là do người ta nhớ lại (ít nhất là nhớ lại trong huyết quản) cái thời mà chỉ những kẻ nào giỏi giết nhất là tồn tại được thôi (đó là trường hợp hiện nay của mọi quốc gia). Vì săn bắn là việc nguy tới tính mạng cho nên tử suất của đàn ông cao, họ phải có nhiều vợ và mỗi người vợ phải đẻ cho nhiều. Trong cuộc chiến đấu để sinh tồn, hễ hiếu chiến, tàn bạo, tham lam, nhiều nhục dục là có lợi thế. Có lẽ cái gì ngày nay ta gọi là tật xấu thì xưa kia đều là đức tốt, hiểu theo nghĩa một đặc tính giúp cho cá nhân, gia đình hoặc tập thể tồn tại được. Có thể rằng tội lỗi là một di tích của sự thăng tiến, chứ không phải của sự sa đọa của nhân loại[1].
Lịch sử không cho ta biết đúng vào thời nào thì loài người từ thời đại săn bắn bước qua thời đại nông nghiệp; có lẽ là trong thời tân thạch khí, khi loài người phát kiến ra rằng có thể gieo hạt để bổ túc sự sinh trưởng tự nhiên của lúa. Lối sống mới đó đòi hỏi những đức tính mới, và một số đức tính cũ biến thành tật xấu. Sự kĩ xảo hóa ra cần cho sự sống hơn là đức can đảm; sự siêng năng, tiết kiệm có lợi hơn là sự bạo tàn, và hòa bình lại thắng được chiến tranh. Từ nay con cái thành món lợi về kinh tế và sự hạn chế sinh sản hóa ra vô luân[2]. Tại trại ruộng, gia đình là một đơn vị sản xuất tuân lệnh gia trưởng và sinh hoạt theo thời tiết; quyền của người cha dựng trên những luật kinh tế. Người con trai bình thường nào cũng sớm già dặn về tư cách và có những kiến thức cần thiết để tự túc; hồi mười lăm tuổi đã hiểu những bổn phận vật chất của cuộc sống, như hồi bốn mươi tuổi; hắn chỉ cần một miếng đất, một lưỡi cày và một cánh tay siêng năng. Cho nên hắn cưới vợ sớm, gần như ngay từ tuổi dậy thì; do đó không phải chịu những bực bội vì những hạn chế mà xã hội mới bắt trai gái phải theo trước khi lập gia đình. Còn thiếu nữ thì phải giữ chữ trinh vì nếu không thì con sanh ra không được người thừa nhận, che chở. Khi số nam và nữ gần ngang nhau thì tự nhiên có chế độ một chồng một vợ. Trong mười lăm thế kỉ, lối sống nông nghiệp đó: tiết dục, tảo hôn, một chồng một vợ, không được li dị, gia đình đông con, tồn tại trong các xứ châu Âu theo Ki Tô giáo và các thuộc địa da trắng. Nền luân lí nghiêm khắc đó đào tạo được một số người tính tình cương quyết nhất trong lịch sử.
Lần lần, rồi mỗi ngày mỗi mau, mỗi phố biến, cuộc cách mạng kĩ nghệ thay đổi hình thức kinh tế và cơ cấu luân lí làm nòng cốt cho đời sống của người Âu và người Mĩ. Đàn ông, đàn bà và trẻ em thoát li gia đình, quyền uy của gia trưởng, sự thống nhất của gia tộc, để vô làm việc trong các xưởng, lãnh công riêng và sống riêng; những xưởng này xây cất để chứa máy móc chứ không phải để con người đoàn tụ. Cứ mươi năm thì máy móc lại nhiều hơn, phức tạp hơn; cái tuổi già dặn về kinh tế (nghĩa là cái khả năng nuôi được gia đình) lùi lại[3]; trẻ con không còn là mối lợi về kinh tế nữa, hôn nhân trễ hơn và con người khó tiết dục được trong thời kì chưa lập gia đình. Đời sống ở các thị trấn lớn có đủ thứ trở ngại cho hôn nhân mà lại có đủ thứ kích thích, đủ cơ hội cho sự phóng túng về tính dục. Người ta giải phóng phụ nữ, để cho họ làm trong các xưởng kĩ nghệ; các thuốc ngừa thai cho họ thỏa mãn tính dục mà khỏi có con. Uy quyền của người cha mất căn bản kinh tế rồi, vì kĩ nghệ làm cho chủ nghĩa cá nhân càng ngày càng mạnh. Hạng thanh niên hay phản kháng không còn bị coi chừng, giam hãm như ở trong làng nữa mà có thể sống hoang tàn lẫn lộn trong đám đông mà không ai biết. Do sự tiến bộ khoa học, mục sư không có uy tín bằng nhà nghiên cứu trong phòng thí nghiệm; sự cơ giới hóa các phương tiện sản xuất gợi ra những triết lí duy vật, như cơ giới luận; sự giáo dục khuyến khích người ta hoài nghi về tôn giáo; luân lí càng ngày càng mất căn bản siêu nhiên đi. Do đó, nền luân lí cổ của xã hội nông nghiệp bắt đầu tàn.
Ở thời đại chúng ta cũng như ở thời đại Socrate (mất năm 399) hoặc thời đại Auguste (mất năm +14), chiến tranh làm cho phong hóa suy đồi. Sau những cuộc bạo động và tình trạng xã hội lộn xộn trong chiến tranh Péloponnèse, Alcibiade[4] tự cảm thấy được tự do nhạo báng nền luân lí của tổ tiên, và Thrasymaque[5] tuyên bố rằng sức mạnh là hình thức duy nhất của pháp luật. Sau những chiến tranh giữa Marius và Sula, giữa César và Pompée, giữa Antoine và Octave, “La Mã đầy những người mất cơ sở kinh tế, đạo đức lung lay, tinh thần hỗn loạn; đầy những lính tráng đã nếm cái thú mạo hiểm và đã tập giết người; đầy những công dân bị thuế khóa và sự lạm phát thời chiến nuốt hết số tiền dành dụm được… đầy những phụ nữ say mê tự do, tha hồ li dị, phá thai và gian dâm… Một số người ngụy biện nông nổi, tự hào về chủ trương yếm thế, vô liêm sỉ của mình”. Đọc đoạn đó, chúng ta tưởng đâu như tả các thị trấn lớn ở Âu và Mĩ sau hai thế chiến vừa rồi.
Lịch sử an ủi chúng ta một chút vì nó nhắc nhở ta rằng chẳng phải chỉ riêng thế hệ chúng ta mới tội lỗi. Mà thế hệ chúng ta còn thua Hi Lạp và La Mã thời thượng cổ hoặc Ý thời Phục Hưng về sự phổ biến của tật đồng tình ái nữa. “Các nhà cổ điển học viết về tật đó với tinh thần khoan dung của các học giả, còn Aristote thì cho rằng chẳng ai là không mài miệt trong thói trụy lạc đó”. Arétin không ngại ngùng chút gì, xin quận công Mantoue gởi cho mình một thanh niên đẹp trai. Thời nào, xứ nào cũng có cái tệ mãi dâm, từ những nhà chứa của Quốc gia ở Assyrie thời thượng cổ, tới những “hộp đêm” tại các thị trấn lớn Tây Âu và Mĩ thời nay. Theo Luther thì năm 1544, ở Đại học Wittenberg, “bọn con gái bạo dạn chạy theo các sinh viên, từ phòng này qua phòng khác, bất kì ở đâu để hiến họ tấm thân ngà ngọc mà chẳng đòi hỏi gì hết”. Montaiglle (1533 - 1592) bảo rằng thời ông, loại sách khiêu. dâm bán chạy như tôm tươi; sự vô luân ở thời chúng ta khác sự vô luân ở thời Trùng Hưng của Anh về bản chất chứ không về cường độ; tập Memoirs of a Woman of Pleasure (Bút kí của một người đàn bà trác táng), tiểu thuyết của John Cleland mà cốt truyện là một loạt dài những cảnh dâm đãng sống sượng, năm 1749 được hoan nghênh ra sao thì năm 1970 cũng vậy. Chúng ta đã biết rằng các nhà khảo cổ học đã khai quật được những con thò lò ở chung quanh Ninive[6]; thời nào đàn ông và đàn bà cũng ham đánh bạc. Và thời nào cũng vậy, con người thì bất lương, chính quyền thì tham nhũng có lẽ thời nay còn kém thời trước. Ở châu Âu, thế kỉ XVI, thứ văn chương phúng thích cũng bêu xấu bọn con buôn trâng tráo bán các thức ăn pha hoặc hóa phẩm giả. Loài người không bao giờ theo được Thập giới của Chúa[7]. Chúng ta đã biết Voltaire bảo lịch sử trước hết là “một mớ tội lỗi, điên khùng và đau khổ” của nhân loại; Gibbon cũng nghĩ vậy.
Chúng ta đừng quên rằng lịch sử người ta thường viết khác xa lịch sử xảy ra thật: Sử gia ghi chép những gì đặc biệt vì cái đó mới khiến người ta chú ý tới. Nếu trong các bộ sử, tất cả những người vô danh mà được chiếm một số trang tương xứng với số đông của họ, thì chúng ta có được một đại cương đúng hơn nhưng kém rực rỡ về quá khứ của nhân loại. Sau cái bề mặt đậm màu sắc gồm nào là chiến tranh, chính trị, hoạn nạn, đau khổ, gian dâm, li dị, giết chóc, tự tử, có hằng triệu gia đình êm ấm, vợ chồng hòa thuận, hằng triệu đàn ông và đàn bà nhân từ âu yếm, vui về con cái mà cũng khổ vì chúng. Cả trong lịch sử thành văn chúng ta được biết, cũng có biết bao trường hợp hiền từ, cao thượng nữa, khiến chúng ta mặc dầu không quên được thì cũng tha thứ được những trường hợp tội lỗi. Những cử chỉ nhân từ cũng gần nhiều bằng những hành động tàn bạo trên chiến trường hoặc trong khám đường. Trong bộ sử mặc dầu vắn tắt của chúng tôi, độc giả đã thấy biết bao lần loài người cưu mang lẫn nhau:
Farinelli nuôi con của Domenico Scarlatti, nhiều người trợ cấp cho chàng thanh niên Haydn, bá tước Litta trả tiền học cho Jean - Chrétien Bach ở Pologne, Joseph Black luôn luôn ứng trước tiền cho James Watt, Puchberg cho Mozart mượn tiền hoài mà không ngán. Ai có can đảm viết một bộ sử về lòng nhân từ của loài người đây?
Vậy không có gì bảo rằng sự phóng túng về luân lí ở thời đại chúng ta báo hiệu một thời suy đồi; có thể nó là giao thời - đau đớn hay thú vị, tùy theo quan niệm mỗi người - từ một nền luân lí đã mất cơ sở nông nghiệp, qua một nền luân lí khác mà văn minh kĩ nghệ của chúng ta sau này sẽ phải tạo nên, thành một trật tự mới, bình thường của xã hội. Trong khi chờ đợi thì lịch sử xác nhận rằng các nền văn minh tan rã rất chậm. Nền luân lí của Hi Lạp bắt đầu lung lay vì bọn ngụy biện, vậy mà hai trăm rưởi năm sau, văn minh Hi Lạp vẫn tiếp tục sản xuất các tác phẩm văn chương, nghệ thuật bất hủ; luân lí La Mã cũng bắt đầu suy vi sau khi Ý bị lây cái sa đọa của dân tộc Hi Lạp bại trận (-146), nhưng La Mã vẫn có những chính trị gia đại tài, những triết gia, thi sĩ, nghệ sĩ cho tới khi Marc Aurèle chết (-180). Xét về phương diện chính trị thì La Mã suy nhất khi César được bầu lên chức Chấp chính, (-60). Vậy mà mãi đến năm 465, nó mới bị các Rợ diệt. Ước gì sự suy bại của chúng[8] cũng có thể kéo dài như sự suy bại của đế quốc La Mã!
Có thể rằng nền văn minh của chúng ta sẽ có kỉ luật hơn nhờ sự huấn luyện quân sự cần cho những chiến tranh sau này. Xã hội càng yên ổn thì cá nhân càng được tự do. Khi sự cô lập về địa thế không còn che chở cho Hoa Kì và Anh nữa thì chủ nghĩa cá nhân ở hai nước đó cũng sẽ bớt mạnh. Có thể rằng vì cái hại túng dục quá độ mà người ta sẽ thôi không phóng túng nữa; có thể rằng bọn con cháu phóng đãng của chúng ta sẽ đổi mốt mà hóa ra thích sự trật tự và tính e lệ, và cho quần áo có phần lại kích thích hơn là da thịt hở hang. Hiện nay thì sự tự do về luân lí của chúng ta kể ra cũng tốt về vài phương diện: cởi bỏ được nỗi khiếp sợ do thần học gây nên, được hưởng những thú vui chẳng có hại gì cho chúng ta và cho người khác mà chẳng ân hận thắc mắc, được phơi da thịt ra mà đón gió bốn phương, chẳng có chút mặc cảm gì cả, thú
Chú thích:
[1] Theo Ki Tô giáo.
[2] Hiện nay ở Âu, Mĩ, sự hạn chế sinh sản đã gần thành một đức tốt.
[3] Nghĩa là hóa ra trễ hơn.
[4] Tướng lãnh và chính khách Hi Lạp: 450-404.
[5] Nhà hùng biện và triết gia Hi Lạp ở thế kỉ thứ V trước T.L.
[6] Kinh đô xứ Assyrie thời thượng cổ, vào khoảng thế kỉ thứ VIII trước Tây lịch.
[7] Theo Thánh kinh, Chúa ban Thập giới đó cho Moise trên núi Sinai. Thập giới là mười điều răn như phải thờ kính Thượng Đế, có hiếu với cha mẹ, không được trộm cướp, giết người, gian dâm…
[8] Tức là Âu, Mĩ, nhất là Mĩ.
CHƯƠNG VII
Tôn Giáo Và Lịch Sử
Dù có óc hoài nghi đi nữa thì sử gia cũng phải tập kính ngưỡng tôn giáo, vì dưới gầm trời nào, ở thời đại nào, sử gia cũng thấy nó làm tròn nhiệm vụ của nó, và bề ngoài nó có vẻ như cần thiết cho nhân loại. Nó đem lại cho những người khốn khổ, số phận hẩm hiu và người già một niềm an ủi siêu nhiên mà hằng triệu người thích hơn bất kì sự cứu trợ tự nhiên vào. Nó giúp đỡ cha mẹ và các nhà giáo dục dạy dỗ thanh niên vào khuôn vào phép. Nó làm cho những cuộc đời hèn mọn nhất có một ý nghĩa, một phẩm cách, nó làm cho những giao ước của loài người có tính cách thiêng liêng như giao ước với Thượng Đế, nhờ vậy mà xã hội được ổn định. Napoléon bảo chính tôn giáo đã ngăn kẻ nghèo giết kẻ giàu, vì do sự bất bình đẳng giữa loài người mà đa số chúng ta phải nghèo túng, thất bại, và chỉ có mỗi một cách để khỏi tuyệt vọng là nuôi một niềm hi vọng siêu nhiên; mất niềm hi vọng này thì sự tranh đấu giữa các giai cấp sẽ thành chiến tranh. Thiên đường và không tưởng[1] như hai cái gầu trong một cái giếng: cứ cái này lên thì thì cái kia xuống, khi tôn giáo mất đất thì cộng sản lấn đất.
Mới xét thì ta thấy cơ hồ tôn giáo không có chút liên quan gì với luân lí. Có vẻ như (chúng tôi nói vậy vì đây chỉ là giả thuyết, nếu chúng tôi không muốn dẫn lời của Pétrone, mà chính Pétrone lại dẫn lời của Lucrèce)[2], có vẻ như “sự sợ hãi đã tạo nên các thần linh”: sợ những sức mạnh ẩn náu trong lòng đất, dòng sông, dưới biển, trên cây, trong ngọn gió và trên trời. Vậy tôn giáo là để thờ phụng các sức mạnh đó, cúng tế, cầu nguyện, đọc phù chú cho chúng đừng làm hại mình. Khi các tu sĩ dùng những kinh hãi cùng lễ nghi đó để phù trợ luân lí và luật pháp thì lúc đó tôn giáo mới thành một tổ chức giúp đỡ đắc lực cho quốc gia nhưng cũng kình địch với quốc gia. Nó tuyên bố với các dân tộc rằng luân lí và luật pháp trong xứ đều do các thần linh khải thị cho. Theo tôn giáo thì thần Thot đã đọc cho Ménès chép những luật của Ai Cập, thần Shamash đã gợi cho Hammourabi thảo luật của Babylone, Yahvé (Thượng đế của Do Thái) đã đọc cho Moise Mười giới luật (Thập giới) và sáu trăm mười ba qui tắc để dân tộc Israel theo, và Nữ thần Egérie đã truyền cho Numa Pompilius luật của La Mã. Các mục sư Ki Tô giáo hay ngoại đạo đều bảo rằng các vua chúa trên cõi trần đều thụ mệnh của các thần linh và được thần linh che chở. Được nâng đỡ như vậy, hầu hết các Chính quyền đều rất mang ơn và chia đất cùng lợi tức với giai cấp tu sĩ.
Một số người không theo tôn giáo không nhận rằng tôn giáo là nguồn gốc của luân lí vì cả trong những thế kỉ tôn giáo thống trị, con người cũng vẫn vô luân. Chắc chắn thời Trung cổ [thời tôn giáo mạnh nhất ở châu Âu] cũng có cái tệ dâm đãng, say rượu, thô tục, tham lam, bất lương, cướp bóc, tàn bạo; nhưng rất có thể rằng sự thác loạn về tinh thần, hậu quả của năm thế kỉ bị các rợ xâm lăng, năm thế kỉ chiến tranh, tàn phá, tan rã về chính trị, còn tai hại hơn nữa nếu không được nền đạo đức Ki Tô giáo hãm bớt lại, được các mục sư đăng đàn khuyên răn, được các vị thánh nêu gương và một nghi lễ làm dịu lòng và đoàn kết con người. Giáo hội La Mã đã có công diệt chế độ nô lệ, những thù nghịch giữa các quí tộc, những xung đột giữa các quốc gia, kéo dài các thời hưu chiến và thái bình, dùng lối phán xử của tòa án để thay lối phán xét bằng cách quyết đấu một chọi một, hoặc cách thử tội như đốt lửa, đổ chì[3]. Sau cùng nó đã mở rộng khu vực bác ái và sự tổ chức các cơ quan từ thiện.
Tuy giúp được việc cho Quốc gia, nhưng Giáo hội lại tự cho là mình ở trên hết thảy các Quốc gia vì luân lí cao cả hơn quyền hành. Nó dạy rằng ái quốc mà không trung thành với các giá trị siêu việt [tức các giá trị luân lí do thần thánh chỉ bảo] thì có thể thành lợi khí của lòng tham lam vô độ hoặc của tội ác. Nó ban bố một luật luân lí duy nhất, bắt tất cả các chính quyền kình địch trong giáo hội Ki Tô phải theo. Lấy lẽ rằng nó có nguồn gốc thần thánh, nó đòi một thứ quyền tối thượng về tinh thần, tự coi mình là một thứ tòa án quốc tế và tất cả các vua chúa đều phải chịu trách nhiệm về tinh thần trước tòa án đó. Vua Pháp Henri IV chịu nhận quyền đó của Giáo hội khi ông cúi đầu phục tòng Giáo hoàng Grégoire VII năm 1077; một thế kỉ sau, Giáo hoàng Innocent III (mất năm 1216) đưa uy danh và quyền vị của Giáo hoàng tới một mức rất cao khiến người ta tưởng rằng cái lí tưởng thành lập một Siêu Quốc gia tinh thần của Grégoire đệ nhất (?) đã thực hiện được.
Tinh thần quốc gia, tinh thần hoài nghi và sự nhu nhược của con người làm cho cái mộng vĩ đại đó sụp đổ. Giáo hội gồm những phàm nhân và nhiều kẻ đầy thiên kiến vụ lợi và bạo ngược. Nước Pháp mạnh lên, giàu lên, dùng Giáo hội làm một lợi khí chính trị; các vua sau cùng đủ mạnh để buộc một Giáo hoàng phải giải tán Giòng Tên trước đã tận tâm ủng hộ Giáo hoàng. Giáo hội lại tự hạ tới mức lừa gạt tín đồ, chẳng hạn bằng những truyện hoang đường mà họ gọi là truyện kính tín, bằng những thánh tích ngụy tạo, và những phép màu khả nghi; trong mấy thế kỉ, nó lợi dụng một truyền thuyết gọi là “tặng địa của Constantin”[4], theo thuyết đó thì Constantin đã tặng cho Sylvestre đệ nhất (làm Giáo hoàng từ 314 đến 335) tất cả Tây Âu, lại lợi dụng những Ngụy Giáo lệnh (khoảng 842) tức những giấy tờ giả mạo là có từ thời thượng cổ để chứng minh quyền hành tuyệt đối của các Giáo hoàng. Càng ngày Giáo hội càng dùng quyền lợi để truyền bá chính giáo chứ không phải luân lí, và Pháp đình tôn giáo [vì quá lạm bạo hành] suýt làm cho Ki Tô giáo mất thanh thế: Giáo hội một mặt khuyến cáo hòa bình, một mặt gây chiến tranh tôn giáo tại nước Pháp trong thế kỉ XVI, và chiến tranh Ba mươi năm[5] tại Đức trong thế kỉ XVII. Nó chỉ góp công một cách khiêm tốn vào sự tiến bộ đáng kể nhất về luân lí cận đại, tức vào sự phế trừ chế độ nô lệ. Nó nhường cho các triết gia cầm đầu những phong trào nhân đạo làm giảm bớt những đau khổ của thời đại chúng ta.
Lịch sử nhận rằng Giáo hội có lí khi nó bảo đại đa số nhân loại muốn một tôn giáo có nhiều phép màu, nhiều bí mật, nhiều huyền thoại. Đã có vài sự thay đổi nho nhỏ về phương diện nghi lễ, tăng phục và quyền của giáo chủ; nhưng Giáo hội không dám sửa đổi những thuyết vô lí, vì như vậy thì hằng triệu người tin những truyện huyền hoặc khích lệ, an ủi sẽ phật ý và thất vọng chua chát. Không thể hòa giải tôn giáo và triết lí được, trừ khi các triết gia thú rằng không đưa ra được cái gì để thay thế nhiệm vụ luân lí của Giáo hội, và Giáo hội chịu nhận sự tự do tín ngưỡng và tư tưởng.
Lịch sử có xác nhận lòng tin ở Thượng Đế không? Nếu chúng ta cho Thượng Đế không phải là sức sáng tạo của Thiên nhiên, mà là một đấng tối cao, toàn trí, toàn nhân, thì chúng ta buộc lòng phải đáp: “Không”. Như các ngành khác của môn sinh vật học, lịch sử thực ra là một sự đào thải tự nhiên giữa các cá nhân, các tập thể tài giỏi nhất trong một cuộc cạnh tranh mà cái thiện chẳng được ưu thế gì cả, cái ác thì rất nhiều, và tiêu chuẩn tối hậu là khả năng tồn tại. Nếu chúng ta đem các thiên tai do “Thượng Đế” gây nên để trừng trị loài người, như động đất, dông tố, gió lốc, nước dâng, bệnh dịch khiến cho trái đất của chúng ta cứ lâu lâu lại bị tiêu điều, nếu chúng ta đem những cái đó cộng vào những tội lỗi, chiến tranh và các tàn bạo khác của loài người, thì chúng ta tự nhiên nghĩ tới một số phận tàn nhẫn hoặc mù quáng, hoặc vô tư, và lâu lâu mới hiện ra những cảnh có vẻ như ngẫu nhiên, mà óc chủ quan của ta cho là có trật tự, đẹp đẽ, rực rỡ, hoặc hoàn mĩ nữa. Nếu lịch sử xác nhận một thứ thần học nào, thì thần học đó chắc phải là một nhị nguyên luận, tựa như nhị nguyên luận của Bái hỏa giáo[6] hoặc của giáo phái do Manès sáng lập [cũng gọi là Thiện ác nhị nguyên giáo][7]: một ông Thiện một ông Ác tranh nhau ngự trị vũ trụ và tâm hồn con người. Những tôn giáo đó và Ki Tô giáo (thực ra cũng có tính cách thiện ác nhị nguyên giáo) xác nhận với tín đồ rằng rốt cuộc cái thiện sẽ thắng; lịch sử không bảo đảm cho giả thuyết đó. Cả thiên nhiên lẫn lịch sử đều không chấp nhận quan niệm của chúng ta về thiện và ác; mà cho cái gì tồn tại được là “thiện”, cái gì bị đào thải là “ác”; vũ trụ không thiên vị với Chúa Ki Tô, mà ghét Gengis Khan (Thành Cát Tư Hãn).
Càng nhận thấy địa vị cực nhỏ của mình trong vũ trụ, con người càng mất thêm lí do để tin tưởng. Tại các nước theo Ki Tô giáo, có thể nói rằng sự suy vi đó bắt đầu từ thời Copernic[8] (1543). Sự diễn biến đó xảy ra chậm chạp, nhưng ngay từ năm 1611, John Donne đã rầu rĩ nhận thấy rằng trái đất chỉ là một “ngoại ô” ở giữa vũ trụ, mà “tân triết lí hoài nghi tất cả”; còn Francis Bacon mặc dầu vẫn ngả mũ chào các vị chủ giáo mà lại tuyên bố rằng khoa học là tôn giáo của con người tiến bộ. Sau cùng thế hệ chúng ta có thể là thế hệ “Thượng Đế đã chết”, Thượng Đế hiểu theo nghĩa vị thần ở ngoài thế giới.
Một hậu quả lớn lao như vậy tất phải có nhiều nguyên nhân ngoài sự tiến bộ của kiến thức về sử và khoa học. Trước hết, phải kể phong trào Cải cách tôn giáo mới đầu đã đưa ra quy tắc này là con người có quyền tự do xác tín[9]. Rồi tới vô số giáo phái phát sinh từ đạo Thệ phản (Tin Lành) và các thần học mâu thuẫn nhau, mà giáo phái nào cũng căn cứ vào cả Thánh thư lẫn lí trí. Rồi tới sự phê bình Thánh kinh, cho rằng bộ sách thiêng liêng, kì diệu đó thực ra là một tác phẩm không hoàn hảo của những người có thể lầm lẫn. Rồi tới phong trào tự nhiên thần giáo ở Anh, cho tôn giáo chỉ là một sự tín ngưỡng mơ hồ một vị Thượng Đế không khác Thiên nhiên là bao[10]. Rồi người ta lần lần phát giác được các tôn giáo khác, mà các thần thoại nhiều khi có trước Ki Tô giáo nữa, và tai hại thay, rất giống các điều căn bản của Ki Tô giáo mà người ta bảo là có tính cách lịch sử. Rồi đạo Thệ phản chỉ trích các phép màu bên Thiên Chúa giáo, còn Tự nhiên thần giáo thì chỉ trích các phép màu trong Thánh kinh, và mọi người đều chỉ trích những gian lận, những vụ giam bắt lạm quyền, tàn sát trong lịch sử Giáo hội. Canh nông trước kia khiến cho người ta tin có Thượng Đế vì thấy cái bí mật của sự sinh trưởng, thấy sự sống cứ mỗi năm lại hồi xuân, bây giờ kĩ nghệ ngày ngày lải nhải đọc lời thần chú của máy móc, gợi cho ta thấy rằng thế giới chỉ là một bộ máy (chứ chẳng do Thượng Đế nào điều khiển cả). Chúng ta nên kể thêm những tiến bộ táo bạo của khoa học hoài nghi (Bayle), của triết thuyết phiếm thần (Spinoza), sự tấn công đại quy mô vào Ki Tô giáo ở Pháp, trong “thế kỉ ánh sáng”[11] và cuộc nổi loạn của Paris chống Giáo hội trong cuộc Cách mạng Pháp. Ngày nay lại thêm những cuộc đại tàn sát thường dân trong các chiến tranh hiện đại. Sau cùng chúng ta phải kể những thắng lợi lớn lao của kĩ thuật, làm cho con người vừa có quyền năng tuyệt vời lại vừa có khả năng tự hủy, thành thử những giới luật từ trên trời ban xuống phải xét lại hết.
Xét theo một phương diện nào đó thì Ki Tô giáo đã tự đưa roi cho người ta quất mình vì nó đã gây cho nhiều người một ý thức đạo đức không thể chấp nhận được một dạng Thượng Đế thù vặt trong thần giáo truyền thống nữa. Ý niệm về địa ngục mất hẳn trong tư tưởng các người có học thức, ngay cả trong những bài thuyết giáo nữa. Các người theo phái Trưởng giáo (Presbytérianisme) thấy ngượng vì Tín điều Westminster buộc họ phải tin có một Thượng Đế đã sinh ra hằng tỉ con người mặc dầu Ngài biết rằng họ có đức hay có tội thì cũng phải vĩnh viễn đày địa ngục. Đi thăm tiểu giáo đường Sixtine, các tín đồ Ki Tô giáo có học thức thấy chướng mắt khi nhìn một bức Michel Ange vẽ chúa Ki Tô đày hỗn độn một đám người có tội xuống địa ngục để họ vĩnh viễn bị thiêu đốt, họ nghĩ bụng phải đó là “em bé Ki Tô dễ thương dịu dàng” mà hồi nhỏ họ muốn noi gương không. Thời cổ Hi Lạp, những tấn bộ của luân lí đã làm lung lay lòng tin các vị thần tàn bạo và dâm dật trên núi Olympe (Platon bảo: “Một phần nhân loại không tin có các thần linh nữa”), thì ngày nay cũng vậy, những tấn bộ của đạo đức Ki Tô giáo chầm chậm gậm nhấm thần học của Giáo hội. Chúa Ki Tô đã truất ngôi Jéhovah.
Hậu quả đáng chú ý nhất và nguy hại [cho tôn giáo] nhất của cuộc cách mạng kĩ nghệ là nó đã thay thế những cơ quan Ki Tô giáo bằng những cơ quan thế tục. Một trong những nhận xét căn bản làm óc ta thắc mắc và buộc ta phải suy nghĩ lại lối sống là nhận xét này: Các Quốc gia phải ráng đừng nhờ thần học biện chính cho mình nữa. Xưa kia, luật pháp là những sắc lệnh của một quốc vương do Thượng Đế trao quyền; bây giờ người ta nhận rằng luật pháp chỉ là những lệnh mập mờ, hỗn độn do những người có thể lầm lẫn soạn thảo ra. Trước kia giáo dục ở trong tay các mục sư được ơn thiên khải, ngày nay giao phó cho những người thường, đàn ông và đàn bà, không bận áo nhà tu, không có cái hào quang của nhà thần học, và những nhà giáo đó chỉ trông vào lí trí và sự thuyết phục để khai hóa những thiếu niên nổi loạn, bọn này chỉ sợ hiến binh và rất có thể chẳng bao giờ tập dùng tới lí trí. Các cơ quan giáo dục trước kia liên kết với Giáo hội, bây giờ đã thuộc về phạm vi hành động của các nhà kinh doanh và các nhà bác học. Xưa kia người ta tiêm cho thanh niên một giáo lí và một hệ thống luân lí siêu nhiên thì bây giờ người ta tuyên truyền cho tinh thần ái quốc, cho chế độ tư bản hay cộng sản. Ngày nghỉ không phải là “ngày lễ” nữa mà là ngày “khỏi phải làm việc mà vẫn ăn lương”. Rạp hát nào cũng đông nghẹt, và ngay ngày chủ nhật nữa, giáo đường cũng vắng tanh. Trong các gia đình anglosaxon, tôn giáo là một tập tục xã hội và một thứ mặt nạ tiện lợi; trong các gia đình công giáo ở Mĩ, nó được tôn trọng, nhưng trong giới trung và đại tư sản Pháp và Ý, tôn giáo là “một đặc tính phụ của nữ tính”[12]. Có cả ngàn dấu hiệu chứng tỏ rằng Ki Tô giáo suy tàn y hệt tôn giáo Hi Lạp sau khi xuất hiện bọn ngụy biện trong “thế kỉ ánh sáng” của Hi Lạp.
Thiên chúa giáo sở dĩ còn tồn tại là vì nó gợi óc tưởng tượng, niềm hi vọng và giác quan của con người, nhờ thần thoại của nó an ủi kẻ nghèo, làm cho đời sống của họ đẹp lên, và cũng vì sức sinh sản mau chóng có tính cách bắt buộc (?) của tín đồ lần lần chiếm lại được khu vực bị mất trong cuộc Cải cách tôn giáo. Thiên chúa giáo đã bỏ cái ý dụ dỗ giới trí thức và càng ngày càng mất ảnh hưởng do sự tiếp xúc với giáo dục và văn chương thế tục, trái lại nó thu phục được một số tâm hồn chán ngán những thay đổi bất thường của lí trí, và những tâm hồn hi vọng rằng Giáo hội sẽ ngăn được sự hỗn loạn và làn sóng cộng sản.
Nếu một thế chiến thứ ba tàn phá nền văn minh phương tây, tới nỗi các thị trấn lớn tiêu tan hết, mọi người đều khốn cùng, khoa học cũng không còn, thì rất có thể, như năm 476, Giáo hội sẽ là niềm hi vọng duy nhất, cơ quan chỉ đạo duy nhất của những kẻ sống sót sau đại tai biến đó.
Một trong những bài học của lịch sử là tôn giáo có nhiều đời sống và vẫn thường tái sinh. Đã bao lần rồi, Thượng đế và tôn giáo đã chết để rồi từ đám tro tàn lại sống lại! Akhenaton[13] dùng tất cả quyền hành của một Pharaon (vua Ai Cập thời cổ) để diệt sự thờ phụng thần Amon; ông ta chết năm trước thì năm sau sự thờ phụng đó được tái lập. Thời Thích Ca còn trẻ, thuyết vô thần hoành hành ở Ấn Độ, và chính ngài đã thành lập một “tôn giáo vô thần”; khi ngài tịch, Phật giáo tạo ra một thần học phức tạp, gồm đủ thần, thánh và một địa ngục. Triết học, khoa học và sự giáo dục làm cho đền miếu ở Hi Lạp mất hết thần, nhưng sự trống rỗng đó thu hút cả tá tôn giáo phương Đông có rất nhiều thần thoại về sự phục sinh. Năm 1793, Hébert và Chaumette hiểu lầm Voltaire[14] mà dựng ở Paris một đền thờ nữ thần Lí trí; một năm sau Robespierre sợ cảnh hỗn loạn và chịu ảnh hưởng của Rousseau, lập đền thờ Đấng Tối cao; năm 1801, Napoléon, giỏi về sử, kí một điều ước Hòa thân với Giáo hoàng Pie VII, thế là trả lại Thiên Chúa giáo cho nước Pháp. Thế kỉ XVIII của Anh là thế kỉ vô tín ngưỡng[15], nhưng qua triều đại Nữ hoàng Victoria[16] thì Quốc gia và Giáo hội mặc nhiên thỏa hiệp với nhau: Quốc gia chịu duy trì, chu cấp cho Giáo hội Anh[17] và các giới trí thức chịu giấu thái độ hoài nghi của họ; bù lại Giáo hội phải phục tòng Quốc gia và bọn tăng đồ Anh phải kính cẩn phục vụ giới quí tộc trong giáo khu. Ở Hoa Kì, chủ trương duy lí của các vị lập quốc, qua thế kỉ XIX nhường bước cho phong trào phục sinh tôn giáo.
Suốt dòng lịch sử, người ta nhận thấy phong trào thanh giáo nghiêm khắc và phong trào tà ngụy, vô tôn giáo, tác động lẫn nhau, thay phiên nhau, nghĩa là cứ sau một thời ức chế giác quan và thị dục thì lại tới một thời phóng dục. Xét chung thì tôn giáo và chủ trương nghiêm khắc thắng vào những thời luật pháp bất lực, và luân lí phải lãnh nhiệm vụ giữ trật tự xã hội; còn chủ nghĩa hoài nghi và phong trào tà ngụy xét chung thì phát đạt khi luật pháp và chính quyền mạnh lên, Quốc gia có thể để cho Giáo hội, gia đình, luân lí suy vi mà không hại gì lắm cho sự bền vững của Quốc gia. Ở thời đại chúng ta, sức mạnh của Quốc gia hợp với các sức mạnh kể trên [khoa học, kĩ thuật, tinh thần tự do hoài nghi], gây nên sự suy đồi về tín ngưỡng và luân lí, mà sự tà ngụy lại tự nhiên phát triển. Có thể rằng sự phóng túng của chúng ta sẽ gây nên một phản ứng mới; có thể rằng sự hỗn loạn về luân lí sẽ làm cho tôn giáo phục hồi; có thể rằng, như ở Pháp sau cuộc đại bại năm 1870[18]. Người ta sẽ thấy những người theo chủ nghĩa vô thần, gởi con vô học các trường Thiên Chúa giáo để chúng được kỉ luật của tín ngưỡng rèn cho. Chúng ta hãy nghe lời kêu gọi năm 1866 của triết gia chủ trương bất khả tri Renan:
“Chúng ta nên vui mừng về cái tự do mà với tư cách con của Thượng Đế, chúng ta được hưởng, nhưng phải coi chừng, đừng a tòng, làm cho đạo đức suy giảm đi mà sẽ nguy hại cho xã hội nếu Ki Tô giáo suy tàn. Không có tôn giáo đó thì chúng ta sẽ ra sao?… Nếu chủ nghĩa duy lí muốn ngự trị thế giới mà chẳng cần biết những nhu cầu tôn giáo của linh hồn, thì kinh nghiệm cuộc Cách mạng Pháp còn đó để chỉ cho ta thấy hậu quả của sự nhầm lẫn đó”.
Lịch sử có xác nhận kết luận của Renan không, tôn giáo có cần thiết cho luân lí không, vì một nền đạo đức tự nhiên yếu quá không đủ thắng những bản năng tiềm tàng dưới cái lớp sơn văn minh và lâu lâu lại biểu lộ trong những mộng tưởng, tội lỗi và chiến tranh của chúng ta. Joseph de Maistre trả lời câu đó như sau: “Tôi không biết lòng một tên vô lại ra sao; nhưng tôi biết lòng một chính nhân: Thật tởm!”. Cho tới ngày nay, trong lịch sử chưa có một trường hợp quan trọng nào mà một xã hội không cần tôn giáo cũng duy trì được đạo đức[19]. Pháp, Hoa Kì và vài xứ khác đã làm cho chính quyền tách ra, độc lập đối với các Giáo hội, nhưng vẫn nhờ tôn giáo giúp đỡ để duy trì trật tự xã hội. Chỉ có vài nước cộng sản là không những đoạn tuyệt với tôn giáo mà còn không thèm nhờ tôn giáo giúp đỡ nữa; mà có thể rằng kinh nghiệm đó hiện nay có vẻ thành công ở Nga là vì họ đã tạm thời dùng chủ nghĩa cộng sản làm tôn giáo (kẻ hoài nghi bảo là thuốc phiện) của dân chúng, thành thử chủ nghĩa đó thay tôn giáo mà ban bố niềm an ủi và hi vọng cho dân chúng. Nếu chế độ cộng sản thất bại trong việc gắng sức diệt sự nghèo khổ, thì tôn giáo mới đó sẽ mất nhiệt thành và hiệu quả; lúc đó có thể rằng Quốc gia lại ước mong trở về những tín ngưỡng siêu nhiên, để được giúp sức mà bịt miệng phe đối lập. “Hễ còn cảnh khốn khổ thì còn thần linh”.
Chú thích:
[1] Tác giả muốn nói chế độ cộng sản.
[2] Pétrone là thi sĩ La tinh ở đầu kỉ nguyên tây lịch - Lucrèce cũng là thi sĩ La tinh ở thế kỉ thứ nhất trước tây lịch.
[3] Thời Trung cổ, có lẽ ở khắp thế giới, và hiện nay tại các dân tộc bán khai, có tục xử kiện đó: bên nguyên và bên bị đấu sức với nhau, ai thắng là người đó được kiện, không có tội; hoặc ai bị đốt lửa, bị đổ chì sôi vào tay mà không cháy bỏng là được kiện.
[4] Tức Constantin đại đế (274 - 3/7) hoàng đế La Mã.
[5] Cũng là chiến tranh tôn giáo từ 1618 tới 1648, cho nên gọi là Ba mươi năm.
[6] Zoroastisme: Zoroastre (sinh khoảng 660) là người cải cách tôn giáo cổ của Ba Tư.
[7] Manichéisme: Manès, cũng gọi là Manichée, sinh năm 215 ở Babylone, mất ở Ba Tư năm 276-277. Tôn giáo ông sáng lập chịu ảnh hưởng của Ki Tô giáo và tôn giáo Ba Tư.
[8] Nhà thiên văn học Ba Lan (1473-1543) là người đầu tiên chứng thực rằng trái đất không phải là trung tâm vũ trụ (như mọi người thời đó tin tưởng) mà là một hành tinh quay chung quanh mặt trời.
[9] Nghĩa là quyền chỉ tin điều gì lí trí của mình nhận là đúng.
[10] Nghĩa là gần như coi Thượng Đế chỉ là thiên nhiên.
[11] Tức thế kỉ XVIII.
[12] Nghĩa là chỉ có đàn bà mới theo tôn giáo.
[13] Akhenaton: bản tiếng Anh chép là Ikhnaton. (Goldfish).
[14] Vì Voltaire tuy tôn trọng lí trí nhưng vẫn cho rằng quan niệm Thượng Đế có ích cho loài người.
[15] Xã hội Anh thời đó dĩ nhiên vẫn có tôn giáo nhưng chính quyền và dân chúng có tinh thần hoài nghi, không mộ đạo, không trọng Giáo hội.
[16] Nữ hoàng Victoria (1819-1901) giỏi trị nước và rất nghiêm, ảnh hưởng rất lớn tới xã hội Anh ở thế kỉ XIX.
[17] Cũng thờ Chúa Ki Tô, giáo hội này (Englise anglicane), tách ra khỏi Giáo hội La Mã và thịnh nhất trong số các giáo phái ở Anh.
[18] Pháp thua Phổ.
[19] Vấn đề này thật mênh mông. Chúng tôi chỉ xin đưa ra nhận xét này: giới trí thức (kẻ sĩ) Trung Hoa, ít nhất là trước đời Lục Triều (nghĩa là trước khi ảnh hưởng của đạo Phật đã hơi mạnh), tuy tin có Thượng Đế, có thần linh nhưng không thờ Thượng Đế và thần, chỉ thờ tổ tiên, cũng không theo một tôn giáo nào cả (Khổng giáo, Lão giáo đều không phải là tôn giáo mà Mặc giáo chưa có đủ hình thức một tôn giáo thì đã suy, biến thành một triết lí thuần túy, tức phái Biệt Mặc), vậy mà vẫn có một đời sống đạo đức cao không kém một dân tộc nào; chắc chắn là hơn các quí tộc thời Trung cổ châu Âu; giới bình dân cũng vậy. Và khi Lâm Ngữ Đường thắc mắc: “Nếu không có Thượng Đế thì còn ai làm điều thiện nữa, mà thế giới sẽ điên đảo mất”, một người bạn của ông, theo Khổng giáo, đáp “Tại sao lại như vậy? Chúng ta phải sống một đời sống hợp đạo chỉ vì chúng ta là những con người hiểu đạo, thế thôi”.
(Coi chương XIII cuốn Sống đẹp của Lâm Ngữ Đường Nguyễn Hiến Lê dịch, Tao Đàn xuất bản - 1965). Nhưng cho tới ngày nay, chúng ta phải nhận lời của Durant: “Hễ còn cảnh khốn khổ thì còn thần linh” là đúng.

Will - Ariel Durant
Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đi tìm một vì sao: Quê nhà, đất nước, tình người! – Kỳ 1 Suốt hành trình tham gia kháng chiến, mỗi nơi từng sống và chiến đấu đều lưu lạ...