Thứ Năm, 20 tháng 6, 2024
Bài học của lịch sử 2
CHƯƠNG VIII
Mà những khả năng thực tế của mỗi người đều khác nhau, và trong hầu hết các xã hội, đa số các khả năng đều tập trung vào một số người tối thiểu. Sự tập trung tài sản [vào một số ít người] là hậu quả tự nhiên của sự tập trung các khả năng đó, nó tái hiện hoài hoài trong lịch sử. Nếu mọi điều kiện, hoàn cảnh như nhau, thì sự tự do kinh tế - do luật pháp và đạo đức cho phép - càng cao, mức độ tập trung tài sản cũng càng cao. Chế độ độc tài có thể hãm lại sự tập trung đó trong một thời gian; chế độ dân chủ cho con người được tự do tối đa, trái lại xúc tiến sự tập trung đó. Cho tới năm 1776, người Mĩ tương đối bình đẳng với nhau; rồi từ năm đó trở đi, có cả ngàn yếu tố khiến cho họ cách biệt nhau về thể chất, trí tuệ hoặc kinh tế, thành thử hiện nay cái hố giữa người giàu và kẻ nghèo càng sâu rộng hơn bao giờ hết, từ cái thời La Mã còn là đế quốc ở trong tay một bọn phú hào.
Dưới thời hoàng đế Dioclétien, La Mã cũng đã theo một chế độ
xã hội. Ở trong nước thì dân chúng nổi loạn vì mỗi ngày một nghèo thêm, ở ngoài
thì các rợ lăm le xâm chiếm, Hoàng đế Dioclétien ở giữa hai nguy cơ đó, ban bố
năm 301 sau T.L., một sắc lệnh gọi là Edictum de Prettis cấm các nhà buôn có độc
quyền không được rút hàng về để tăng giá, qui định giá tối cao cho mỗi món hàng
và tiền công tối cao cho mỗi công việc quan trọng. Ông phát động nhiều công tác
xây cất lớn lao để cho bọn thất nghiệp có việc làm, phát chẩn thức ăn cho người
nghèo, hoặc bán rẻ cho họ. Chính phủ lúc đó đã làm chủ hầu hết các mỏ (kim thuộc,
đá) và các kho muối; từ nay Dioclétien kiểm soát kĩ lường hầu hết các kĩ nghệ
và công nghệ lớn. Paul Louis trong cuốn Le travail dans le monde romain (Sự lao
động trong thế giới La Mã) bảo: “Trong hết thảy các thành thị lớn, Quốc gia
thành một cố chủ[5] rất mạnh… mạnh hơn các nhà kinh doanh tư, mà hạng này lại
còn bị đánh thuế nặng”. Dĩ nhiên, các nhà kinh doanh tiên đoán thế nào Quốc gia
cũng sẽ phá sản. Dioclétien đáp rằng các rợ đương dòm ngó ở cửa ngõ Đế quốc thì
phải tạm thời từ bỏ tự do cá nhân đi, cho tới khi tự do quốc gia được vững vàng
đã. Chế độ xã hội của Dioclétien là một chính sách kinh tế chiến tranh chỉ có
thể áp dụng được khi dân chúng sợ bị ngoại xâm. Bao giờ cũng vậy, nỗi nguy bị
xâm lăng càng lớn thì sự tự do trong nước càng giảm đi.
Hiện nay các người Nga theo chủ nghĩa xã hội lại đánh vào
lòng ham tư lợi của con người để chế độ sản xuất được nhiều hơn, và cũng vì dân
chúng đòi hỏi nhiều tự do thể chất và tinh thần hơn. Ngược lại, chế độ tư bản lại
hạn chế tư sản cá nhân: luật pháp đã có một nửa tính cách chế độ xã hội rồi, mà
tài nguyên thì do “Quốc gia Phù trì”[22] phân phối lại rồi. Marx nhận là môn đệ
của Hégel mà đã phản Hégel. Theo ông ta, biện chứng pháp[23] của Hégel có nghĩa
là chế độ tư bản và chế độ xã hội tranh đấu nhau thì rất cuộc chế độ xã hội sẽ
toàn thắng; nhưng nếu chúng ta áp dụng thuyết Hégel (chính, phản, hợp) như vầy:
Cuộc cách mạng kĩ nghệ là chính đề: sự xung đột giữa chế độ tư bản và chế độ xã
hội là phản đề, thì rốt cuộc phải đưa tới sự tổng hợp của chế độ tư bản và chế
độ xã hội; vả lại hiện nay rõ ràng là Tây phương đương tiến tới sự hòa giải giữa
hai chế độ trái nhau ấy. Từ năm này qua năm khác, các chính quyền Tây phương
càng ngày càng xen vào đời sống kinh tế của dân, và chức vụ giao phó cho khu vực
kinh doanh của tư nhân bị gậm nhấm thêm mỗi ngày một chút. Trong số các yếu tố
cổ truyền, chế độ tư bản còn giữ lại nguyên tắc tư sản nó là một kích thích tố,
nguyên tắc tự do kinh doanh và nguyên tắc ganh đua; nó lại tặng chúng ta nhiều
sản phẩm cùng loại mà khác nhau để ta lựa chọn. Đồng thời nhờ chính sách thuế
khóa đánh nặng vào giai cấp giàu có, chính quyền có đủ tiền giúp cho một dân số
đã biết tự hạn chế sinh sản được hưởng nhiều dịch vụ hơn bao giờ hết về giáo dục,
y tế, tiêu khiển. Vì sợ chế độ tư bản mà chế độ xã hội phải trả cho dân chúng một
chút tự do; vì sợ chế độ xã hội mà chế độ tư bản đã bắt buộc phải giảm bớt sự bất
bình đẳng giữa các giai cấp. Phương Đông (cộng sản) đã giống phương Tây (tư bản),
phương Tây đã giống phương Đông, và chẳng bao lâu hai chế độ sẽ gặp nhau ở giữa
đường.
Chú thích:
Chế độ dân chủ có chịu trách nhiệm về tình trạng sa đọa hiện
tại của nghệ thuật không? Dĩ nhiên, không phải ai cũng cho rằng nghệ thuật ngày
nay sa đọa; đó là vấn đề phê phán chủ quan. Người nào thấy ghê tởm trước những
thái quá của nghệ thuật đó (những vết sơn vô nghĩa, những mảnh vụn dán bậy với
nhau, những cái chuông mắt hỗn độn), thì nhất định là còn lệ thuộc quá khứ,
không có can đảm thí nghiệm cái mới. Những người sáng tác các nghệ phẩm vô lí ấy
đâu có nhắm đại chúng (đại chúng khinh họ là bất thường, sa đọa, lừa gạt) mà cốt
để bán cho bọn giàu có dễ bị phỉnh, dễ chóa mắt vì lời rao hàng của người bán đấu
giá, và phục sát đất tất cả những cái gì mới mẻ, dù dị dạng tới đâu. Chế độ dân
chủ có chịu trách nhiệm về sự sa đọa đó thì chỉ ở điểm này: nó không biết đưa
ra những giá trị, những giám thức có thể thay thế những cái mà giới quí tộc thời
trước đã dùng để ngăn chặn bớt óc tưởng tượng và tinh thần cá nhân của các nghệ
sĩ mà giữ cho nghệ phẩm của họ dễ hiểu đối với người thưởng ngoạn, diễn được đời
sống và sự điều hòa của các bộ phận theo một thứ tự hợp lí, một toàn thể có mạch
lạc chặt chẽ. Sở dĩ nghệ thuật này nay có vẻ “kì cục”, không phải chỉ vì nó được
đại chúng gợi ý, chi phối, phổ biến[20], mà còn vì nó đã tận dụng những khả
năng của các môn phái và các hình thức thời trước rồi; thành thử nó lúng túng
trong một giai đoạn chuyển tiếp, đương tìm những hình thức, phong thể, qui tắc
và khuôn phép mới.
Tới đây phe tướng lĩnh mỉm cười: “Các ông quên tất cả những
bài học của lịch sử, ngay đến bản tính con người như các ông đã tả, các ông
cũng quên nữa. Có một số xung đột sâu sắc quá không thể giải quyết bằng cách
thương nghị được; vả lại lịch sử cho ta thấy rằng trong các cuộc thương nghị
kéo dài, hai bên cũng vẫn tiếp tục phá hoại lẫn nhau. Một trật tự cho cả thế giới
không thể thành lập bằng một gentleman’s agreement (giao ước bằng lời, lấy danh
dự bảo đảm) mà chỉ có thể thành lập sau một cuộc đại thắng có tính cách quyết định
tới nỗi một đại cường có thể bắt buộc các quốc gia khác phải theo luật của mình
đưa ra như một luật quốc tế trên như La Mã từ thời hoàng đế Auguste tới thời
hoàng đế Marc Aurèle[15]. Những màn thế giới thăng bình đó trái với tự nhiên, vậy
là lệ ngoại, chẳng bao lâu lại có một sự phân phối mới về vũ lực và cảnh thăng
bình phải chấm dứt. Các ông đã nói với chúng tôi rằng phải chấm dứt. Các ông đã
nói với chúng tôi rằng bản tính con người là thích ganh đua, rằng những xã hội
loài người thành lập nhất định cũng mang tính cách ganh đua ấy và luật đào thải
tự nhiên từ nay chuyển lên cương vị quốc tế. Chỉ khi nào các quốc gia đều bị tấn
công từ ngoài vào thì họ mới đoàn kết với nhau và hợp tác từ căn bản.
Một qui luật nữa là không phải cứ một quốc gia bành trướng về
chính trị tới đâu là văn hóa cũng lan tới đó. Mạnh về chính trị chưa nhất định
là cao về văn hóa. Như Pháp thời Napoléon, bành trướng nhất về chính trị mà chẳng
có một tác giả nào lớn cả, trừ Chateaubriand; mà thời văn học nghệ thuật thịnh
lại là thời đệ tam và đệ tử Cộng Hòa (trang 105-106). Ngược lại, khi chính trị
suy vi thì văn hóa lại có thể rất thịnh. Điển hình nhất là Trung Hoa trong đời
Tống, kinh tế, võ bị suy vi, chính trị hỗn loạn, mà triết học văn học, mĩ thuật
(kiến trúc, họa, đồ sứ) phát triển rực rỡ hơn cả các thế kỉ trước và các thế kỉ
sau. (Coi cuốn Tô Đông Pha của Nguyễn Hiến Lê – Cảo Thơm 1971).
[8] René Grousset trong sách đã dẫn cũng nhận định như vậy. Trang 145 ông nói: các nền văn minh có thể thụt lùi tạm thời và sự thụt lùi đó có thể kéo dài hằng mấy thế kỉ, như văn hóa châu Âu đã thụt lùi trong các thế kỉ VI, VII, VIII hơn bao giờ hết. Trang 123-124, ông bảo ngày nay chẳng những có sự cách biệt rất xa giữa trình độ văn minh của ngườ da đen và người da trắng, mà ngay giữa người da trắng, cũng có sự cách biệt giữa các dân tộc Scandinavie và Thụy Sĩ - năm 1930 họ cơ hồ đã đạt tới trình độ - và các dân tộc khác ở Âu Mĩ hồi đó vẫn còn tôn trọng những ý thức hệ sát nhân.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Đi tìm một vì sao: Quê nhà, đất nước, tình người! – Kỳ 1 Suốt hành trình tham gia kháng chiến, mỗi nơi từng sống và chiến đấu đều lưu lạ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét