Khoảng mát
Mẹ và em
Khi bắt tay giã từ, ông quản lý an ủi Lưu:
- Anh nên vui vẻ. Mỗi tuần anh chỉ phải lên đây có hai buổi.
Đi mười cây số thì có nghĩa gì? Đường tráng nhựa tốt…
Lưu chỉ bắt tay mà không nói. Không phải vì buồn mà vì anh
đang bâng khuâng, đang bỡ ngỡ, đang xúc động. Khung cảnh trước mặt anh liệu có
phải là một cảnh thực không? Hay đó là một cảnh mà anh đã sống trong quá khứ do
một bàn tay huyền diệu nào làm hiển hiện lại trước mắt anh, giờ này? Một bãi cỏ
thật rộng. Một dãy cây bàng chạy dọc theo con đường đi, lá non mới nhú trông
như những bàn tay chụm lại chổng ngón lên trời. Bên tay mặt: vườn cam mít của
nhà ai. Giữa sân rộng nằm bơ vơ một ngôi nhà mái ngói hai gian, diềm và cửa
không sơn. Tường màu vàng cũ mang nhiều vết lở loang lổ. Những cửa sổ quá nhỏ.
Trông như một ngôi truờng làng hay một kho chứa thuốc lá, chứa bông của Hợp tác
xã. Rồi một rặng tre quằn quại trong gió. Một đọt cây măng vòi cong vòng xuống
dưới sức nặng của một con chim chèo bẻo. Dãy núi trầm mặc. Bầu trời…
Lưu quên rằng anh đang đứng trước nhiệm sở mới của anh, với
những công việc mới đang chờ đợi. Anh bàng hoàng tưởng như tâm hồn mình đang chập
chờn bay về một chặng nào của dĩ vãng. Bác Cai cầm xâu chìa khóa im lặng đứng cạnh,
trong khi anh trầm ngâm nhìn ra một góc vại nước nhà bác, khám phá một cuộc sống
trầm lặng diễn ra nơi đó. Một dây mùng tơi lá dày xanh mướt bò theo một cành
tre khô cắm sát rào. Những lá to ở gần gốc bị ngắt đứt còn trơ cuống. Cạnh đó,
hai cây ớt đang ra trái. Vài rãnh rau muống, một cây đu đủ, mấy bụi tía tô… tất
cả cái khu lá xanh này dự vào cuộc sống của người chủ nhà một cách mật thiết vô
cùng. Mươi chiếc lá mùng tơi góp phần với một nắm rau má, mã đề đủ để làm bữa
canh rau. Bụi tía tô dùng làm lá nêm lại vừa làm thuốc ho, thuốc cảm. Còn mấy
cây ớt thì được thăm viếng hàng ngày, có khi ngay giữa bữa ăn. Cuộc sống thanh
đạm ít phiền lo…
Lưu chợt quay lại và bác Cai lên tiếng mời anh đi theo bác.
Bác tra chìa khóa lọc cọc vào ổ khóa. Tiếng gỉ sét rên lên và cánh cửa hé mở nặng
nhọc. Cái bàn giấy dành cho anh phủ một lớp bụi dày. Anh vội vàng lại mở cửa sổ.
Anh cần khoảng xanh ở ngoài kia hơn vì bụi mốc và mùi ẩm thì anh đã quen thuộc
quá rồi, quen đến độ anh sợ sệt.
Bác Cai mở tủ lấy từng chồng sổ sách. Lưu biết những việc anh
sẽ phải làm nên vội vàng cảm ơn bác. Anh không muốn sự hiện diện của một người
nào ở cạnh anh hết. Cho anh trơ trọi với màu xanh kia mà anh bị bắt buộc phải
xa cách không biết tự bao nhiêu năm tháng rồi. Dĩ vãng nào của anh cũng được đặt
vào một khung cảnh có cây cối làm nền. Anh dễ tưởng tượng lại một khuôn mặt
thân yêu, dễ sống lại một tâm trạng êm đềm hay xót xa khi mắt anh bắt gặp một
khung cảnh quen thuộc. Một bờ ao. Một ngôi chùa. Một hàng dậu có dây bìm leo nở
hoa hình chuông. Một dòng sông. Ký ức của anh, trái lại, rất ít bén nhạŠy khi
anh nhìn một dãy phố, một công thự, một kiểu ô tô… Có lẽ vì văn minh không lặp
lại còn thiên nhiên thì không đổi thay. Cho anh đẫm tâm hồn vào sự trầm lặng lớn
lao kia để cho vơi bớt đi những ưu tư phiền muộn đã từng dày vò khối óc muốn vỡ
tung của anh. Người mẹ màu xanh, thiên nhiên trầm tĩnh dịu dàng, anh biết chỉ ở
giữa thiên nhiên anh mới cởi bỏ được những xáo trộn của tâm tư mà hòa lòng mình
theo nhịp sống thanh thản vô tư của cây cỏ.
Bảy, tám năm hơn rồi, anh đã xa rời đồng quê để sống ở đô thị.
Mắt anh trở nên khô khan vì mãi nhìn những hiên nhà gần giống nhau, những mái lợp
ngói hay lợp tôn, những dãy hàng rào thản nhiên, ích kỷ. Đô thị giả dối. Chỉ có
thể nhìn bề mặt của nó mà thôi. Dãy nhà đồ sộ đường Tự Do, đường Lê Lợi chỉ
thanh lịch mỹ miều ở phía trước mặt. Nơi sân giữa, sân sau thì bẩn thỉu, luộm
thuộm. Mái nhà chỗ thì thò ra, chỗ thì thụt vào, vá víu từng tấm tôn tấm thiếc,
từng mảng xi măng bất ổn. Giây thép giăng mắc chằng chịt, áo quần, giẻ lau treo
phơi ngổn ngang. Những bộ mặt xấu xí thỉnh thoảng chìa ra ở một khung cửa sổ,
chới với trên chiều cao nơi những con chim én bay liệng. Thật khác xa với những
người ở trước mặt nhà, những người đàn ông tóc chải mượt, giày đen bóng và thắt
ca vát, những người đàn bà trang điểm lộng lẫy kéo từng luồng nước hoa trong
không khí sau bước chân của họ.
Nhưng lại cũng có bao nhiêu giả dối trên vẻ đẹp lộng lẫy đó,
trên bước đi có vẻ chắc chắn đó, trong tiếng nói nụ cười có vẻ tin tưởng yêu đời
đó. Mỗi lần sát cánh đi giữa họ là anh cảm nghe như ai cũng mang nặng thù hằn.
Con người tranh sống thái quá như đã vô tình bóp chết mọi tình cảm êm đềm mà chỉ
còn giữ lại niềm thù hận. Ai cũng coi người khác là kẻ thù của họ. “Nếu không
có mi hiện ra trên bước đường của ta!… Hãy biến mất đi!…” Con người nuôi dưỡng
quá nhiều thù hằn và họ tưởng đã khéo che giấu nó được dưới một lớp kính xã
giao quá mỏng và trong suốt.
Lưu mỏi mệt trong cái không khí nóng bỏng những giằn vặt,
tranh giành, thù hận đó. Thời đại anh đang sống như quá dễ dãi trong sự chiếm
đoạt. Một cô đào chiếu bóng ở truồng dễ nổi danh và do đó dễ làm giàu hơn một
nhà bác học. Ngôi nhà đồ sộ, chiếc xe lộng lẫy, bộ quần áo sang trọng không nhất
thiết dành cho người có tài trí hơn người mà nhiều khi cho những kẻ gian manh,
nhiều thủ đoạn. Nhiều giá trị bị hạ thấp xuống, đảo lộn đi khiến người ta nghi
kỵ nhau, khinh thường nhau. Người nào cũng tìm thấy những cớ để cho mình ấm ức.
Người ta dễ thù ghét nhau vì đó. Người làm cùng nghề, người sinh cùng lứa tuổi,
người ở cùng phố càng thù hằn nhau nặng hơn, tranh giành nhau bẩn thỉu hơn, điều
ấy dễ hiểu. Nhưng có những trường hợp người ta gầm gừ nhau một cách vô lý.
Lưu nhớ đến những tối la cà ở các phòng trà. Có lần sân khấu
bị choán bởi một nam ca sĩ. Người anh ta ngốt đi trong bộ com-lê màu đen và
ca-vat đen. Anh ta hát những bản man rợ của miền Nam Mỹ với nhiều tiếng rống,
tiếng hú và tay anh, chân anh, lưng anh, mông anh, toàn thân anh lắc lư như một
người bị động kinh. Cái miệng há rộng gào không nghỉ. Giá bịt tai lại cho khỏi
nghe tiếng nhạc và giọng hát, người ta sẽ có cảm tưởng đang nhìn một con cá thu
bị bắt đứng trên cạn, ngáp liên hồi và bị khô nước sắp chết. Lưu chú ý nhìn vào
đôi mắt của anh ta, đôi mắt chứa đầy cam chịu và tủi nhục khi nhìn xuống từng
bàn thính giả anh ta thấy họ đang mê mải bàn chuyện làm ăn với nhau hoặc tán tỉnh
ái tình với nhau. Nhưng nếu anh ta hát sai nhịp hay lạc giọng, đứt hơi thì anh
biết chắc bầy sói đó sẽ nhao nhao lên huýt sáo sỉ vả anh. Hình như những người
thính giả phòng trà thích chứng kiến những sự thất bại như vậy để mà họ hò hét
la ó.
Nữ ca sĩ được chiều đãi hơn vì người thính giả tầm thường
nhũn nhặn nhất cũng cứ có thể nghĩ rằng mình được các nàng lưu ý cảm mến. Tia mắt
và nụ cười đó chính là dành cho mình dù nàng không hề biết rõ mình là ai. Tuy
nhiên, nếu biết nàng đang yêu một người nào trong đám thính giả ấy thì lập tức
mọi người khác sẽ nghiêm khắc với nàng ngay. Con người ích kỷ và hẹp hòi. Lưu
chán nản khi phải đụng chạm hàng ngày với những khuôn mặt dò xét, nghi kỵ và phản
bội đó. Ai cũng làm ra người lịch sự, cũng thích trao đổi nụ cười nhưng khi một
tí quyền lợi bị đụng chạm là người ta chuyển sang thù ghét dễ dàng. Dây thần
kinh của con người đô thị như bị lột trần. Một chút va chạm nhỏ cũng có thể làm
họ mất bình tĩnh. Thế mà đô thị thì quá hẹp bởi con người quá đông. Họ chạm mặt
nhau hàng ngày khiến vết thương không kịp lành. Mỗi khuôn mặt gặp đều khơi động
một tâm sự, một mặc cảm, một điều ẩn ức, một nỗi buồn riêng.
Lưu gọi thầm:
- Ngô ơi!
Ngô là tên một cô bạn. Người con gái ấy đi chập chờn vào tâm
hồn anh bằng những bước rụt rè. Bởi đôi chân nàng hơi gầy, một bờ vai mỏng, cái
ngực kín đáo. Nhưng tâm hồn xao xuyến những xúc cảm và tư tưởng. Nàng nói:
- Ông Lưu ơi, ông có sốt ruột vì cuộc sống quá nhàm không?
Anh trả lời:
- Thế nghĩa là hiện giờ cô không có người yêu?
- Chưa chắc.
- Chắc chắn lắm chớ. Khi đang yêu, cô không thấy cuộc đời
nhàm nữa.
- Để tôi thí nghiệm lại xem. Chỉ biết hiện giờ tôi thấy chán
quá. Cứ nghĩ rằng tôi bị ngăn cách với ngày mai bằng một bữa ăn tối có quanh quẩn
những món ăn quen thuộc, bằng một giấc ngủ không thú vị gì hết. Rồi phải đánh
răng rửa mặt vội vã sáng hôm sau, phải nhìn mặt mình trong gương, phải ngồi trước
bàn giấy… Cuộc đời của tôi bị cắt ngắn đi một cách vô vị như thế mà tôi cứ phải
âm thầm cam chịu.
- Cô đang cần một người yêu.
Giọng Lưu quả quyết như giọng một ông bác sĩ có tuổi, hà tiện
lời nói. Vẻ mặt Ngô đăm chiêu:
- Tôi cũng có nhiều suy nghĩ đến một người yêu. Tôi cùng người
ấy đi thật xa, thật xa vào trong một khu rừng nào rậm rạp, xa hẳn mọi người.
Chúng tôi sẽ căng lều mà ở, bắt thú vật và hái quả mà ăn…
- Nhưng tôi xin phép nhắc chừng là cô phải chọn kỹ càng người
mà cô tưởng đã yêu. Vì nguy nhất cho cô là khi đã đi sâu vào rừng già rồi cô mới
chợt thấy rằng người ấy không đúng là người yêu lý tưởng của cô. Lúc bấy giờ phải
mang nặng lều vải trở về đô thị thật không gì chán bằng.
Câu chuyện trao đổi vụn vặt ấy đã hé mở cho Lưu thấy một cạnh
góc của tâm hồn Ngô. Lưu đã yêu cái tâm hồn khao khát tình yêu lý tưởng ấy. Ngô
có một đời sống nội tâm thật, nên những câu nói của nàng không khô khan vô vị
như của hầu hết những cô bạn khác. Một hôm Ngô hỏi:
- Ông Lưu ơi, ông không dám sống sao?
Câu hỏi bất ngờ làm anh lặng im một phút suy nghĩ. Cuối cùng
anh nói:
- Tôi cũng dám sống lắm. Nhưng chỉ khi nào người đàn bà cho
phép, vì tôi không muốn mang tiếng là ích kỷ. Bởi tôi là… đàn ông… Thế con cô,
cô có dám sống không?
Ngô chỉ mỉm cười mà không đáp.
Mối tình kín đáo nhẹ nhàng ấy lớn lên một cách chậm chạp. Lưu
nghĩ đến nàng một cách thường xuyên hơn và trong những hồi mơ mộng tưởng tượng,
người đàn bà mà anh ôm trong tay nhiều khi là Ngô. Anh cảm nghe ngực nàng dán
chặt vào ngực mình, cái cổ mảnh chuyền sang một hơi nóng bỏng, mùi thơm nồng nồng
tỏa nơi mái tóc và xương vai xương sườn của nàng nhún xuống, cong lại như sắp
gãy trong vòng tay siết mạnh của anh.
Người yêu trong tâm tưởng ấy, một chiều, Lưu thấy ngồi sau xe
Vespa của một người đàn ông. Nàng nheo mắt cười như mọi người đàn bà vào trường
hợp đó. Lưu buồn một đêm, ngồi thầm trong bóng tối. Vài ngôi sao xa ứa những giọt
lệ long lanh. Sáng hôm sau, anh nhận lời đi Diên Khánh.
Tình yêu, đau khổ tranh chấp, thù hằn chạy dài theo đường phố,
đóng khung giữa hai dãy nhà cao, len lỏi vào các cửa tiệm, rạp hát, hiệu ăn…
Lưu bỏ lui chúng lại đằng sau một khi xe anh vượt quá Cầu Dứa chạy bon bon trên
đường Phú Vinh, con đường rải nhựa đen bóng loáng có bóng cây im mát. Hai bên
đường, làng xóm kế tiếp với ruộng lúa. Từng chặng, một cái quán nghèo nàn ngồi
thu hình dưới một tàn cây. Vườn cam bưởi, vườn mía, vườn chuối nối nhau chạy dọc
theo những con mương nước. Một hồ sen hiện ra, hoa màu hồng nở lác đác điểm giữa
màu lá xanh tối. Ruộng lúa nằm nép thấp xuống làm con đường thêm cao. Tháng tám
lúa chín vàng, đó đây có từng đám ruộng đang gặt. Ngồi trên xe, Lưu nhìn những
dáng người vạm vỡ cúi xuống quơ vòng hái, đứng dậy vặn bó lúa, đưa lưỡi liềm cắt
ngọt một nhát, tất cả những động tác uyển chuyển nhịp nhàng và dễ dàng như một
trò biểu diễn nhẹ. Làm việc cần mẫn, nhu cầu rút hẹp, chính những người nông
dân ấy nuôi dưỡng mình mà không hề tự phụ. Lòng Lưu thấy phần khởi vui vẻ. Anh
thấy tin tưởng ở sức mạnh cần lao và lòng thiện, trái với khi nhìn những con
người ở phố bám víu vào cuộc sống bằng thủ đoạn và sự lười biếng.
Vòng bánh xe càng lăn sâu vào con đường thiên lý, thành phố ồn
ào bụi bặm càng bị bỏ lui đàng sau xa hơn thì tâm hồn anh càng thấy bình tĩnh
êm ả hơn. Anh cho xe mình chạy đua với những chiếc xe Lambretta ba bánh, cả với
những chiếc xe buýt đầy nhóc khách. Sự đuổi bắt thú vị khi ngồi ở sau xe là một
người đàn bà có sắc đẹp. Chàng và họ nhìn nhau rồi xa nhau rồi gặp nhau trở lại,
liên tiếp trên con đường dài. Sở dĩ có trò vui đó là vì xe ba bánh chạy mau hơn
xe anh, nhưng cứ từng chặng nó phải dừng lại để bỏ khách xuống hoặc đón khách
lên.
Nhiều buổi sáng anh đi sớm quá, lên đến Diên Khánh mới bảy giờ.
Lúc bấy giờ anh có cái thú chứng kiến sự thức dậy của một quận lỵ nhỏ. Trung
tâm sinh hoạt là cái chợ. Vài hàng xôi cháo, vài sạp bánh mì cung cấp quà sáng
cho mấy người dậy sớm. Đường phố xóc đá lởm chởm và vương vải rác, lá cây.
Có những buổi chiều xong việc sớm anh không muốn dong xe về vội
mà cho xe chạy chầm chậm theo hai con đường phố chính. Những tiệm buôn đều nhỏ,
hàng hóa xếp lộn xộn. Không có một cô bán hàng trẻ đẹp nào mặc dù anh đã phải
đưa mắt tìm ở các sạp vải ngang hông chợ. Cái gì ở đây cũng khiêm tốn, cả ngay
sắc đẹp của con người. Khách hàng qua lại đa số là những người nhà quê mặc áo vải
đen. Áo phủ trước ngực những người đàn bà có tuổi, nhô ra như những cái mái ngắn.
Ở đây các bà còn mặc áo ngắn có túi dưới lớp áo dài (túi đựng tiền, trầu thuốc
và đủ mọi món lẩm cẩm) nên thiếu cái eo nơi thắt lưng áo. Không khí quanh chợ
thành ra nghiêm trang khắc khổ.
Những hiệu sách trống trải vắng vẻ khiến người đứng bán mang
một vẻ gượng gạo mỏi mệt. Phải rồi, ở đây sự buôn bán không làm nên sức mạnh. Sức
mạnh tản mác về các ốc đảo màu xanh trên cánh đồng kia, tiềm tàng dưới mái rạ,
sau những đụn rơm.
Xe anh đi theo con đường Trịnh Minh Thế lở lói vá víu. Trước
một ngôi nhà thấp bốn mái phủ rêu đen có tấm bảng ghi “Ty Bưu Điện”. Nếu từ
trong ngôi nhà già nua ấy bước ra một ông quan đại thần đội mũ cánh chuồn, mặc
áo bào vàng, mang hia cầm cốt, anh sẽ không ngạc nhiên vì ngôi nhà gần gũi với
không khí phong kiến âm u hơn là khoa học sáng của nhanh nhẹn.
Các công sở đều nhỏ, gọn, sạch sẽ. Chúng cho anh cái cảm tưởng
đang nhìn những cô gái tỉnh nhỏ làm đỏm, cạo lông mày quá kỹ hay bôi phấn quá
nhiều. Người lính đứng canh ở trước công sở biểu lộ một nét nghiêm trang quan
trọng. Chắc ít khi có người qua đây để đưa mắt trầm trồ nhìn anh. Nơi đây là
cây xanh nhiều hơn mặt người.
Đi vào cửa Đông của thành Diên Khánh, Lưu có cảm tưởng mình
đang đi vào dĩ vãng. Bờ tường dày đến bốn thước khiến cái cửa sâu hun hút.
Không khí mát lạnh so với sức nóng ngoài kia. Chiếc vọng lâu ở trên đầu cửa điểm
một nét điêu tàn cho cảnh. Vẻ điêu tàn còn bàng bạc nơi những hàng cây gòn đứng
xoe từng tàn cây mỏng dọc theo bức tường thành. Không khí của những triều Minh
Mạng, Tự Đức lảng vảng đâu đây.
Một hôm trên đường về Lưu gặp một chiếc Vélosolex chạy trước
mặt do một thiếu nữ cầm lái và chở ở đằng sau một thiếu nữ khác. Người ngồi sau
mặc một chiếc áo dài màu hạt dẻ. Qua đầu cầu đông đảo xe cộ, anh thả ga cho xe
mình chạy vụt lên, vượt qua xe kia nhưng khỏi cầu anh lại để xe mình chạy chậm
lại cho xe kia vượt lên. Từ đó, anh giữ cho xe mình chạy sau với khoảng cách
năm thước. Cái lưng thon và màu áo hạt dẻ cứ chập chờn rung rinh trước mắt anh,
anh thấy đẹp như một hy vọng không bao giờ nắm được trong tay. Như cái bóng
dáng hạnh phúc để cho anh luôn luôn ao ước.
Về đến ngã tư cây xăng, có bốn con đường để xe của hai nàng tự
do chọn một: Gia Long, yersin, Độc Lập, Phường Củi. Lưu không ngờ xe trước lầm
lũi chạy theo con đường Gia Long, đúng vào con đường của anh. Đến ngã sáu Nhà
Thờ lại một lần hồi hộp nữa. Nhưng lại một lần nữa chiếc xe lại lầm lũi chạy
theo hành trình của anh: Phước Hải… Huỳnh Thúc Kháng. Cuối cùng xe kia rẽ sang
đường Nguyễn Trãi còn anh tách chạy thẳng về con đường Hồng Bàng của anh, không
tò mò tìm xem xe hai người kia về đúng nơi đâu.
Chừng nửa tháng sau anh gặp lại lại màu áo hạt dẻ ở trong một
trường Tiểu học. Mùa này là mùa nhập học, cứ mỗi buổi sáng xe anh gặp hàng đàn
học sinh đi dọc bờ đường, đều đặn thẳng tắp như một hàng rào thấp. Suốt con đường
lên Diên Khánh cứ cách vài cây số là có một trường Tiểu học nằm sát bên đường:
trường Vĩnh Điềm, Vĩnh Châu, Phú Vinh, Võ Tánh, Diên Khánh. Người học sinh Tiểu
học ở vùng quê, ngây thơ rụt rè, áo mũ nghèo nàn là một hình ảnh đáng yêu. Lưu
thấy lòng mình cũng trẻ lại, vô tư hồn nhiên khi nhìn mấy em nhỏ ôm sách vở một
cách khó khăn, môi mím chặt, hai mắt nghiêm trang ngó trước mặt để tỏ rằng mình
là người lớn. Trên cánh đồng lại có từng dãy học sinh năm bảy đứa đi chầm chậm
trên con đường ruộng chênh vênh, rón rén tránh những thân lúa nằm mọp đầu gối
lên bờ. Có đứa thấy anh chễm chệ ngồi trên xe liền giở nón chào. Có đứa, ngược
lại, vẫy tay chỉ chỏ vừa cười nham nhở.
Từ khi biết chắc màu áo hạt dẻ là một cô giáo rồi thì mỗi lần
đi về anh đều để ý đến giờ khắc hơn. Anh tính cho xe mình chạy đến Bình Cang kịp
giờ bãi trường. Nhưng đã hai lần xe anh vừa đến thì thấy ở tít đằng xa trước mặt
chiếc VéloSolex chở nàng áo màu hạt dẻ đang vun vút bỏ chạy. Anh mê mải đuổi
theo, bất chấp cả xe vận tải, xe nhà binh, bất chấp cả phong cảnh hai bên đường.
Nhưng vẫn không đuổi kịp. Anh thất vọng kết luận: Muốn chinh phục một người đàn
bà thì ít nhất phương tiện giao thông của mình phải: hơn họ.
Mùa thu hay có mưa giông, anh đi bằng Lambretta hàng. Ngồi
chen chúc với những người hành khách bình dân khác, anh thấy cái thú của sự
chung đụng. Người ngồi cạnh anh có khi là những bà bán cá, những chị bán rau,
những người xách giỏ đi chợ. Họ gợi chuyện một cách dễ dàng, thẳng thắn. Không
cần xã giao, không cần lịch sự, họ vung đòn gánh trúng chân anh mà không cần
“xin lỗi”, họ bước ngang trước mặt anh mà không cần khép nép giữ gìn. Hai người
xa lạ xưng hô với nhau bằng anh chị như đã quen thân với nhau lâu. Dường như họ
không quan tâm tìm đoán xuất xứ của người đang đối diện với họ. Người thị thành
đa nghi hơn và cũng khéo biết lợi dụng người đối diện của họ hơn.
Được khuyến khích bởi tính ăn nói hồn nhiên của họ, Lưu cũng
góp chuyện một cách cởi mở. Anh thấy rằng lối sống của mình xưa nay nhiễm nặng
tính chất ích kỷ. Đi trên cái xe riêng của mình, tới sở ngồi vào cái ghế của
mình, về nhà nằm trên cái giường của mình… tất cả mọi thứ nhu cầu đều riêng biệt
không để cho ai được động chạm đến.
Một hôm chiếc Lambretta chở anh chạy đến Bình Cang thì dừng lại.
Người đón xe chính là cô áo màu hạt dẻ cùng đi với một cô khác. Hai cô nhìn vào
trong xe thấy khách ngồi đông nên không chịu lên. Họ đón xe khác. Cùng đi với
hai cô có một người đàn ông trẻ mà lúc nãy anh không để ý. Người đàn ông mặc quần
màu tối nên khi đi với đàn bà họ bị màu áo dài của đàn bà làm lu mờ đi. Cả ba
cùng ôm cặp. Chắc họ là đồng nghiệp với nhau. Người đàn ông lăng xăng giữa hai
cô bạn. Anh nhọc nhằn trong một hoàn cảnh may mắn cao quá tầm anh vì hai cô đều
xinh. Chỉ một cô thôi tưởng cũng đủ cho anh nhọc rồi. Vẻ mặt láu lỉnh ấy, đôi
tay đôi chân phong phú cử động ấy dường như sinh ra để phụng sự đàn bà. Anh lái
xe lầm bầm vì bị mất ba người khách. Lưu cũng mơ hồ cảm thấy rằng mình vừa mất
một cái gì khi xe vụt chạy anh nhìn ra sau thấy cô áo màu hạt dẻ cười vui vẻ với
anh bạn đồng hành.
Tuy vậy, chừng một tháng sau thì Lưu quen cô áo hạt dẻ. Hai
tháng sau anh yêu cô áo hạt dẻ. Từ đó cảnh vật hai bên đường không còn quyến rũ
tâm hồn anh nhiều như trước nữa. Hai người đợi nhau cùng đi một chuyến xe nên
anh hóa thành con người bận rộn. Buổi sáng đi lên sợ trễ giờ đến sở. Buổi trưa
đi về sợ trễ giờ nàng đợi. Anh không còn biết mùa này hoa sen có còn nở đỏ trên
mặt hồ nữa không, ruộng lúa đang vụ cày hay vụ cấy. Anh chỉ còn để ý đến con đường
nhựa đen bị ngốn đi khi anh nhìn ra trước xe, kéo dài ra không dứt khi anh nhìn
ra sau xe. Khi có nàng ngồi bên thì anh mê mải nói hay nuốt say sưa những lời
nói của nàng. Thỉnh thoảng anh cũng có đưa mắt nhìn ra cảnh vật nhưng mà cái
nhìn lơ đãng làm sao! Cảnh vật hiện ra với anh như một người bạn dễ dãi, không
thân lắm nhưng sẵn sàng cười với anh một tiếng, khen tặng anh một câu.
Một hôm Lý, - tên cô áo màu hạt dẻ, - nói:
- Trước đây em thấy anh ngồi trên xe mà mắt cứ nhìn ở đâu đâu
trông bộ lơ đãng dễ ghét lạ.
- A, tại vì anh mê mải nhìn cảnh vật trên con đường đi. Cảnh
vật, thiên nhiên, anh cho rằng đó là người mẹ bảo bọc mình, an ủi mình. Đó là
thứ thuốc dấu linh nghiệm để rịt vào những vết thương do loài người gây ra
trong lòng mình.
- Loài người…?
- … là xã hội, là người quen biết và không quen biết, là bạn
mình, là người yêu của mình.
- Em?
- Có thể lắm. Nhưng dù biết vậy, anh vẫn yêu em, vẫn làm việc,
vẫn hy vọng. Bởi vì chúng ta chưa già và vì thiên nhiên lúc nào cũng còn đó, sẵn
sàng để bảo bọc và an ủi người thất bại.
Ðôi chim bồ câu
Bầy bồ câu của tôi, một số bị mèo vồ ăn thịt, một số bị mèo vồ
hụt sợ quá bỏ bay mất hết. Chỉ còn lại một đôi vợ chồng. Có lẽ chỉ vì có hai
cái trứng đã đẻ đó không nỡ bỏ đi nên chúng còn lưu lại nơi cái chuồng của tôi.
Tôi phải chăng thêm nhiều lớp dây thép gai chung quanh chuồng để bảo vệ cái gia
đình còn sót lại này.
Trong các giống chim nhà, tôi yêu nhất những con bồ câu.
Chúng nó cái dáng đẹp đẽ với cái ức trọn trặn và bộ lông mượt. Chúng có cái
dáng quí phái với những đôi chân manh mảnh màu hồng. Tôi còn yêu mối tình đằm
thắm của chúng đối với nhau. Những buổi nắng đẹp chim đực đi xung quanh người
yêu, miệng rầm rì những lời thiết tha. Chim mái nằm yên tĩnh lắng tai nghe. Sự
dịu dàng của tình yêu đó thật khác xa với lối biểu lộ tình yêu nông nổi hạ cấp
của lũ chim sẻ chẳng hạn, mồm nói choèn choẹt và điệu nhảy lấc cấc, liến thoắng.
Lối mổ thóc, lối đi đứng lối bay của bồ câu cũng có cái vẻ gì chững chạc đàng
hoàng đặc biệt của những người tự biết mình cao quí, không cần hấp tấp vội
vàng. Sự đằm thắm trong tình yêu, con chim đực còn biểu lộ trong cử chỉ tha rác
về làm tổ. Rồi khi trứng đẻ ra rồi thì thay phiên với vợ mà ấp. Đến khi con nở
thì nhẫn nại đứng sú mồi cho con. Lần đầu tiên thấy chim đực sú mồi, con tôi lật
đật chạy đi tìm tôi, miệng gọi ơi ới. Tôi hốt hoảng tưởng có một tai họa nào xảy
ra cho nó. Thấy tôi, nó hơ hãi nói:
- Ba ơi… con chim lớn… cắn con chim con.
Tôi vội vã chạy ra xem và buồn cười nhìn lại vẻ mặt lo lắng của
nó. Tôi bảo:
- Con chim cha đút mồi cho chim con ăn đấy.
- Nhưng mà nó mổ ngay giữa cổ họng.
- Biết làm sao bây giờ? Đó không phải là cử chỉ êm đềm nhất
mà nó chọn, chắc vậy, mà chỉ vì nó không có hai tay khéo léo như ta. Hai tay nó
đã phải biến thành cánh. Nó phải mổ lấy thóc, để thóc vữa ra trong cái diều rồi
mới ựa ra cho con ăn.
- Nhưng nó không thể làm việc đó dịu dàng hơn sao?
- Dịu dàng hay không là theo ý xét đoán của mình. Con còn nhớ
hôm đi xem phim Misfits, lúc con ngựa mẹ bị trói nằm xuống đất thở phì phò thì
con ngựa con chạy lại lấy chân khoèo khoèo vào mặt ngựa mẹ không? Khoèo chân là
để tỏ tình âu yếm, y như ta lấy hai tay nựng vào mặt mẹ ta vậy.
Một tối kia, có tiếng cánh chim rần rật bay hoảng từ lồng bay
vút lên đọt dừa. Lại bị mèo quấy phá nữa. Soi đèn ra xem thì thấy một cái trứng
bị rơi xuống đất bể, lòng trắng chảy nhầy nhụa xuống cát. Sáng hôm sau đôi chim
bỏ ấp, đi thẩn thơ.
Nỗi căm giận của tôi đối với con mèo hàng xóm đã lên đến cực
độ. Nỗi căm giận biến thành thù hằn. Tôi muốn giết con mèo. Tưởng tượng khi bắt
được nó tôi sẽ bóp siết vào cổ nó cho thật chặt và tròng mắt của nó sẽ lộ ra và
thân hình nó sẽ dãy dụa và cuối cùng nó tắt thở. Nhìn dáng nó đi uyển chuyển
trước hiên nhà, nhìn người hàng xóm vuốt ve âu yếm nó, tôi càng tức giận hơn.
Thà nó hung bạo, xấu xí và cộc cằn! Tôi sẽ tha thứ nó. Ai nỡ trả thù một người
đau khổ, một người đã phải chịu đựng nhiều nỗi bất hạnh và bất công. Đằng nầy
nó đi nhởn nhơ ra vẻ một người lương thiện và chủ nó cũng an nhiên bình tĩnh dường
như cũng chỉ nghĩ đến điều thiện. Thật là bất công và vô lý. Tôi (và lũ bồ câu
của tôi) là nạn nhân, đã bị đau xót lại còn bị dằn vặt bởi những ý nghĩ thù hằn
trong khi kẻ ác nhởn nhơ thoải mái.
Nhưng giết nó đâu phải dễ. Thà bắt gặp nó đang cấu xé con bồ
câu của tôi, lúc ấy tôi sẽ có đủ hăng máu để giết. Đằng nầy khi nào gặp nó là y
như tôi chỉ thấy nó dịu dàng và uyển chuyển, vẻ mặt hoặc trầm tư hoặc thơ ngây.
Tôi không đủ sức bạo tàn để làm hại một kẻ thù giữa lúc nó hiền lành như vậy.
Chỉ còn có cách tôi cố bảo vệ lấy kỹ lưỡng hơn nữa đôi bồ câu còn lại.
Suy nghĩ nhiều ngày, tôi quyết định thuê người lấy lưới thép
giăng thành một cái lồng thật lớn và đặt cái chuồng bồ câu vào trong lòng. Thế
là chúng vẫn có phòng ăn ở kín đáo, có điều chúng chỉ được bay quanh quẩn trong
lồng. Tất cả những tiện nghi tôi đều lo cho có đầy đủ: lúa, bắp, đậu xanh, rau
xà lách, nước uống và nước tắm. Cuộc sống tạm gọi là yên ổn. Tuy nhiên để tránh
chủ quan, tôi dặn con tôi hãy lưu ý đến dáng điệu của chúng xem chúng có tỏ vẻ
buồn bã, ủ rũ không. Vì nỗi lo lắng đó mà khi thấy con đực đứng gù gù bên cạnh
chim mái hoặc thấy chim mái lấy mỏ rỉa nhẹ vào lông má chim đực là lòng tôi vui
không xiết. Và mươi ngày sau, tôi thấy chim đực tha rác. Thế là tôi thành công.
Con tôi vui nhảy hớn hở. Bữa cơm trưa hôm đó của chúng tôi vang lên nhiều tiếng
cười nói hơn mọi ngày. Và rất cần mẫn, con tôi cứ lấp ló nhìn xem chim đã đẻ
chưa.
Ngày nó thấy hai cái trứng mới đẻ trên ổ rơm, nó chạy ra tận
đầu phố để đón tôi về mà báo tin mừng. Chúng tôi rối rít lo mua thêm đậu, thêm
cả mè, để thưởng cho chim. Và chim chia phiên nhau ấp. Tôi bàn với con tôi:
- Bây giờ chúng đã đẻ trứng rồi thì có lẽ ta nên cho chúng
bay tự do một chút.
Con tôi vội phản đối:
- Không được. Thả ra sợ chúng bay mất.
Tôi vừa ngẫm nghĩ vừa nói:
- Chẳng có lý. Chúng đã đẻ rồi thì thế tất chúng yêu con mà
chẳng nỡ bỏ đi. Nhốt chúng trong một cái lồng, tù túng quá cũng tội. Cho bay
đây đó một chút thì chúng mới có đủ sức khỏe.
Con tôi hơi xiêu lòng, chỉ phản đối yếu ớt lấy lệ:
- Con sợ nó bay mất. Nhưng mà… có lẽ ba nói đúng. Nó thương
con, chắc chẳng bay mất đâu.
Câu chuyện trao đổi chỉ đến đó.
Hôm sau khi tôi đi làm về, con tôi ra đón ở cổng. Vẻ mặt nó
đăm chiêu. Thấy tôi nhìn nó có ý ngờ vực, nó nói giọng rụt rè:
- Ba ơi! Con chim đực bay mất rồi.
- Sao vậy? - Tôi vội hỏi.
- Con nghe lời ba, sáng nay mở cửa lồng. Con bồ câu đực vụt
bay ra mất.
- Còn con mái?
- Con lật đật đóng cửa lồng lại. Con mái bay không kịp.
- Bậy chưa! Sao con không hỏi ba mà tự ý thả như vậy? Bây giờ
biết làm sao? Nuôi một con thì nó sống thế nào được? Mà nuôi một con thì để làm
gì? Chẳng lẽ bắt ăn thịt. Mày thật là vô tích sự. Ở nhà không lo học. Chỉ có
tài nhanh nhẩu đoản. Tao chán mày lắm.
Giọng tôi gằn gằn một lúc một nhanh hơn. Con tôi vừa sợ vừa hối
hận, nước mắt lưng tròng, ngước nhìn tôi không nói. Tôi chợt thấy là tôi đã rầy
oan nó. Chính tôi đã bàn việc thả cho bồ câu bay tự do một tý, thế mà bây giờ
tôi lại đổ tội cho nó. Trong cơn giận, người cha nào cũng hay bất công như vậy.
Không dám nhận lỗi mình mà chỉ đổ lỗi cho người khác, cho cả ngay chính con
mình. Tôi ngượng, để tay lên vai con tôi:
- Thôi. Cứ vào rồi sẽ tính sau.
Con tôi líu ríu đi cạnh tôi, dáng thất vọng rõ rệt. Tôi hỏi:
- Từ sáng đến giờ con chim đực có bay về không? Con có ngó chừng
lên mái nhà không?
- Có. Con có ngồi đợi cho nó về. Nhưng nó không về.
- Bội bạc.
Tôi buông một tiếng. Quả thật tôi không ngờ con chim có thể bỏ
vợ con lại nơi giam cầm, - trong óc nó chắc nghĩ vậy, - mà đi tìm tự do một
mình. Nỡ đoạn tình vậy sao? Đoạn tình đến mức không hề bay trở lại qua nhà để
tìm xem vợ con mình ra thế nào, còn hay mất. Người ta nói bồ câu chung tình và
tôi cũng tin như vậy. Nhưng hôm nay không những tôi mất lòng tin nơi chim mà
tôi còn mang nặng thêm hoài nghi nơi người. Chung tình có phải là một thái độ
tình cảm thành thật đâu? Khi có điều kiện thuận tiện, rất thuận tiện để bạc
tình thì người ta liệu có từ chối sự bạc tình không? Tôi mất đi lòng tin nơi
thiện tâm của con người, đó là một sự mất mát lớn. Vì trong vài ngày sau đó
lòng tôi không được vui.
Tôi săn sóc con chim mái để bù vào nỗi cô đơn mà nó phải gánh
chịu. Nhưng nó bỏ ăn đứng im lìm một mình. Bỏ trứng không ấp nữa. Ai ở vào hoàn
cảnh nó cũng sẽ làm như vậy vì cái lồng trống trơn như luôn luôn nhắc nó nhớ đến
những kỷ niệm êm đềm với người chồng ra đi. Dưới vẻ mặt trầm tư xa vắng đó,
không biết nó nghĩ gì? Nó nhớ chồng? Nó giận chồng? Hay nó giận tôi, thù tôi?
Buổi chiều, con chim đập cánh phành phạch bay bám vào mắt lưới
tìm lối ra. Lông đầu của nó xơ xác. Cánh xệ xuống. Con tôi nói:
- Hay mình đem thả con mái luôn đi ba.
Đúng là ý nghĩ của tôi lúc ấy. Nên tôi nổi giận quay lại:
- Sao lại thả ra? Chưa chi đã chịu thua trận, đó không phải
là một tính tốt. Phải tìm mọi cách để nuôi cho kỳ được. Người ta nuôi bồ câu,
sinh đẻ hàng bầy, bay đi bay về nườm nượp, chẳng lẽ mình chịu thua sao?
Con tôi không trả lời được. Tôi tiếp:
- Chúng ta phải tìm mọi cách để thắng. Chúng ta phải thắng,
con hiểu chưa? Con có cách gì không?
Cố nhiên là con tôi không có cách gì hết, vì cả ngay tôi cũng
đang lúng túng. Quả tình việc nuôi bồ câu của tôi gặp nhiều trở ngại quá khiến
tôi đã chán muốn bỏ từ lâu, nhưng vì tự ái mà tôi đã nhẫn nại, cố tìm mọi cách
để nuôi cho được. Tôi cũng đồng thời muốn gián tiếp dạy cho con tôi một bài học
kiên trì, đừng vội nản chí khi gặp thất bại. Nhưng đã tới mức này, tôi không biết
giải quyết ra sao. Tôi biết rằng quần chúng có nhiều kinh nghiệm về mọi địa hạt
nên tôi đem thảo luận vấn đề với những người mà tôi quen; ông thợ cắt tóc mà
tôi gặp mỗi nửa tháng, bà chủ tiệm gạo, ông quản lý sở tôi - người có tuổi và
tháo vát, ông liên gia trưởng ba hoa hay nói lạc đề, cả cô thư ký giữ máy điện
thoại nữa.
Mọi ý kiến không giống nhau. Ông quản lý không tán thành việc
nuôi bồ câu: chúng ỉa bẩn và đi lại trên mái nhà làm tuột ngói. Nên ông đề nghị:
“làm thịt quách con bồ câu còn lại”. Cô thư ký phản đối: “Ai lại nỡ ăn thịt một
con bồ câu dịu dàng như vậy? Thà thả nó ra cho nó tìm một người yêu mới”. Ông
liên gia trưởng chưa kịp nghe tôi trình bày đầu đuôi câu chuyện đã bắt tôi nghe
hơn nửa giờ về phương pháp thu cây rào để rào ấp chiến lược. Bà chủ tiệm gạo
siêng năng đi lễ Phật khuyên tôi phóng sanh con chim đi. Chỉ có anh thợ cắt tóc
là có vẻ hiểu rõ vấn đề hơn hết. Anh nói:
- Ông sai người ở đi chợ lựa mua một con bồ câu đực về đem thả
chung vào lồng với con mái.
- Nhưng bồ câu người ta bán cả cặp mà, - tôi nói.
- Mình có thể trả mua một con cũng được. Cũng có khi người ta
bán lẻ riêng từng con.
- Phải đi xuống chợ Đầm?
- Cần gì. Chợ Xóm Mới cũng có. Một bà già người Bình Định lâu
lâu mang bồ câu vào bán cả giỏ. Tôi mới thấy hôm qua kia đây.
- Nhưng mua về biết con mái nó có chịu không?
- Được mà.
Tôi về, kêu chị ở dặn tìm mua một con bồ câu đực. Vừa ra lệnh
mà vừa sợ chị ta hỏi lại. Chẳng hạn nếu chị bảo: “Làm sao tôi biết nó là con bồ
câu đực”, thì tôi sẽ lúng túng chẳng biết trả lời sao. May thay, chị cầm tiền đứng
ngần ngừ một lát rồi lẳng lặng đi xuống nhà sau. Tôi dặn vói theo:
- Mua một con cũng to như con mái. Lựa cho cùng một màu trắng
đẹp, kẻo con mái nó chê.
Hai hôm sau, lúc tôi đi làm về, con tôi ra mét:
- Chị Hai mua được bồ câu rồi ba à.
Tôi mừng quá, không ngờ công việc được tiến hành nhanh chóng
đến thế. Tôi hỏi:
- Nó đâu?
- Chị Hai thả vào lồng rồi.
Tôi bước ra lồng, thấy có con bồ câu mới, hơi nhỏ hơn con mái
một chút.
Chị Hai từ bếp đi ra đứng cạnh tôi.
- Thưa thầy, bồ câu Tây đó.
- Nhưng có chắc là con đực không?
- Bà già bảo đúng là bồ câu đực.
Con tôi cầm lấy bàn tay tôi, nói chen vào:
- Hai đứa nó chưa quen nhau, ba nhỉ? Mỗi đứa đứng mỗi nơi.
Tôi biết con tôi là người sung sướng nhất trong ba người đứng
đây. Nỗi lo buồn vì tự mình thả sống con chim đực, chắc đến giây phút này nó mới
xóa được. Tôi dắt tay nó vào nhà, vừa nói:
- Mong cho hai đứa nó thương nhau.
Nhưng chiều hôm đó từ lồng chim vang lên tiếng vỗ cánh rần rật.
Lại con tôi chạy vào hơ hãi nói:
- Ba ơi chúng nó cắn nhau.
- Con nào cắn con nào?
- Con mái cắn con đực.
Tôi bước ra sân. Con chim mái đang mổ tới tấp vào con chim đực.
Chim đực né tránh rồi đứng dịch ra xa hơn. Nhưng chim mái lại sấn tới mổ vào
cánh, đôi cánh để lè phè và lông xơ xác không đều đặn. Chim đực kéo lui đôi
cánh một cách vụng về lúng túng. Chim mái mổ bốn năm cái liên tiếp vào đầu chim
đực khiến chim đực bay bám vào mặt lưới sắt, thò đầu ra mắt lưới tìm chỗ thoát.
Làm sao để giải cứu cho con chim đực bị ruồng bỏ kia? Tôi la “ùi ùi” và con
chim đực tuồng như tăng thêm sợ sệt. Còn con mái thì cứ tròn xoe đôi mắt không
tỏ dáng xúc động. Giá có một khuôn mặt linh động như người thì tôi tin rằng nó
sẽ nhíu đôi mày và bặm môi để tỏ sự căm thù con đực và bất cần sự có mặt của
tôi. Tôi nói lời dỗ dành như chỉ theo một thói quen:
- Đừng mổ nó chớ. Mổ nó chi tội nghiệp vậy?
Lời nói thật vô ích. Chỉ có con tôi nghe mà thôi và cũng như
tôi, nó cũng cố ý che lấp sự bất lực của mình bằng những câu nói vô ích như vậy.
- Con bồ câu mái trông vậy mà hung tợn quá ba nhỉ?
- Ừ. Khi người ta… ghét thì người ta trở nên hung bạo.
Ý tôi đang nghĩ rằng: “khi người ta không yêu thì người ta
tàn nhẫn”, nhưng nói cho con tôi nghe, tôi phải đổi như vậy. Thật tình là tôi
đang chuyển từ phạm vi chim sang địa hạt của người. Tôi nhớ rằng khi yêu, con
người có thể hạ mình làm những việc tầm thường, thậm chí có thể làm những ngu
si được. Nhưng khi đã không yêu thì họ tàn nhẫn lắm. Họ giả vờ bỏ mất địa chỉ để
không viết thư trả lời, họ nói dối là bận lắm để khỏi gặp mặt, họ mong tìm thấy
một lỗi nhỏ nơi người kia để lấy cớ mà giận mà tuyệt giao. Con người có trí
khôn nên yêu ghét đều cực đoan.
Nhưng con chim bồ câu, tôi không hiểu nó ghét vì lẽ gì. Theo
lời một người bạn tôi kể lại thì anh có đọc trong một trang sách nào đó bảo rằng
bồ câu là một giống chim không sống được trong cảnh cô đơn. Phải có cho nó một
người bạn, nếu không khác phái thì tạm đồng phái cũng được. Người ta thí nghiệm
rằng nếu nuôi nó trong một cái lồng bốn mặt có gương phản chiếu lại thì nó sẽ
yên lành mà sống trong đó vì có hình ảnh của nó làm bạn với nó. Một con vật có
nhiều thiện ý bằng hữu như vậy sao nỡ hành hạ một người bạn đã được chọn cho
mình và xứng đáng với mình? Hay là vì nó thủy chung với người chồng cũ? Ừ nhỉ!
Nghĩ đến đây, tôi nhìn nó với đôi mắt trìu mắt. Thì ra chỉ có bồ câu mái mới biết
chung tình. Tôi xấu hổ lây cho con bồ câu đực hôm nọ, bỏ người vợ chung tình lại
một mình, ra đi không hề ngoái lại. Người vợ đó hôm nay vì anh mà cự tuyệt một
người đàn ông khác đẹp đẽ không kém anh. Chung tình với một người bội bạc, trường
hợp đó thật cao quí, và chỉ phái yếu mới có. Tôi nghĩ xa hơn một chút và kết luận:
đàn ông như mình thật đáng ghét.
Sau một hồi hưu chiến, con bồ câu mái lại chạy a vào mổ tới tấp
vào con bồ câu đực. Ý chừng nó thấy tôi chịu đứng bất lực ngoài lồng không thể
viện trợ gì được cho kẻ thủ của nó nên nó mở cuộc tấn công lại. Con bồ câu đực
lại né tránh và chạy dài. Đôi cánh kéo lết dưới sàn lồng. Một cái lông măng
dính nơi mỏ của chim mái. Với món chiến lợi phẩm nầy dính nơi mỏ, con chim mái
trông thật vũ phu.
Con tôi bỏ chỗ đứng đi lại phía con chim đực, có lẽ để tỏ
lòng ưu ái với một chiến sĩ có thừa sức khỏe nhưng không nỡ tay đánh một người
đàn bà. Vẻ mặt nó đăm chiêu và ra dáng đau khổ. Hai má nhếch lên vẽ những đường
nhăn ở hai khóe mắt. Tôi chắc nó lại nghĩ đến cái lỗi của nó đã trót thả con
chim đực bay mất hôm trước. Nếu nó không vụng tính đến nỗi làm cái việc dại khờ
đó thì làm gì có cảnh đau khổ hôm nay. Tôi đi lại kéo tay con tôi vào nhà vừa bảo:
- Thôi, mặc kệ nó.
- Nhưng con hối hận quá.
- Đã trót rồi thì đừng nghĩ đến nữa. Vả lại, một con chim thì
có giá trị gì. Điều cần nhất là con nên rút từ đó ra một bài học.
Ngày hôm sau con chim mái bớt vẻ hằn học, do đó con chim đực
có đủ bình tĩnh để xếp lại đôi cánh cho gọn gàng hơn. Hai đứa chia nhau đứng mỗi
đứa một góc lồng. Mặt chim đực buồn bã. Ngày hôm sau nữa, chúng đứng gần nhau
hơn. Đến ngày thứ tư, thứ năm gì đó tôi không nhớ rõ, chúng đứng sát cạnh nhau.
Sự thù ghét chấm dứt và được nối liền bằng tình yêu. Dường như không có một khoảng
trống nào giữa hai tình cảm bị diệt, mâu thuẫn đó.
Đến đây, tôi không muốn dễ dàng để trí óc mình suy nghĩ và kết
luận về đời sống tình cảm của lũ chim nữa. Chúng ghét đó rồi yêu đó, thủy chung
và bạc tình đi cạnh nhau. Nhưng thú thật là tôi rất yên tâm khi thấy chúng
không còn gây rắc rối cho tôi nữa. Những mối tình êm đẹp ở loài chim hay ở loài
người cũng đều không gây tò mò thích thú nơi kẻ bàng quan. Con tôi lại bình
tĩnh đợi chờ ngày mối tình ấy có kết quả. Những cặp trứng màu trắng nho nhỏ
xinh xinh được nằm trên nệm rơm êm nhưng lần ấp nào cũng không thành. Đôi lần,
ba lần, hy vọng rồi thất vọng liên tiếp, rốt cuộc chúng tôi chỉ nhớ chi tiền
mua thóc cho chim ăn, còn thì không để ý gì đến chúng nữa. Cho đến một tối kia
thừa lúc cửa chuồng đóng không kỹ, con mèo hàng xóm lẻn vào bắt mất con chim
mái. Nhưng tôi đã chán sự thù hằn rồi. Tôi đã chán cả hy vọng rồi. Nhằm lúc đó
có một người quen đến chơi ao ước nuôi bồ câu, tôi tặng cho anh ta cái chuồng
chim và cả con chim đực cô độc.
Rút bỏ đi được sự rối rắm trong việc nuôi chim nhưng quả tình
lòng tôi chưa thoát được những ấm ức. Tại sao người ta vẫn nuôi được. Ông liên
gia trởng hay nói lạc đề của tôi có một chuồng bồ câu lớn với nhiều tiếng gù,
tiếng rên rỉ, tiếng vỗ cánh rộn ràng. Nhà ông công chức ở cạnh sở tôi làm vừa dựng
thêm một chuồng bồ câu thứ hai. Mỗi khi nhìn qua cửa sổ là mắt tôi bắt gặp lũ
chim hớn hở bay lên đậu xuống. Dĩ vãng nuôi chim của tôi bừng sống dậy và tôi cảm
nghe trong lòng như có một nỗi buồn dâng lên. Trong khi ấy thì tôi lại gặp được
nhiều người cũng chán nản bỏ cuộc như tôi vậy. Thành ra để tự an ủi mình, tôi
hay đem câu chuyện nuôi bồ câu ra nói, mong tìm những sự thất bại cụ thể nơi những
người kiên nhẫn nhất và có nhiều điều kiện để tích cực hơn tôi.
Nỗi niềm đó mấy ai hiểu thấu? Chẳng hạn một chiều nọ, một cô
bạn mời tôi đến nhà thầy mẹ cô chơi. Khi cô đưa tôi ra sân để giới thiệu những
chậu hoa hồng, hoa sói do bàn tay khéo léo của mẹ cô vừa chiết được, tôi lơ
đãng nghe và nhìn mà chỉ chú ý đến bầy bồ câu đang bay qua bay lại từ chuồng đến
mái nhà. Khi người em trai của cô đi qua, tôi giữ lại hỏi:
- Anh Vĩnh này, anh nuôi bồ câu có thành công không? Có lợi
đích xác làm anh bằng lòng không?
Vĩnh đang ngẫm nghĩ để xếp đặt một câu trả lời thì cô bạn tôi
nói ngay:
- Sao lại không lợi? Bồ câu đẻ mỗi tháng mỗi lứa…
Tôi phải xin lỗi ngắt lời cô bạn mà nói:
- Có lẽ Vĩnh biết rõ vấn đề hơn cô. Lâu lâu cô mới về thăm thầy
mẹ, chắc cô không được rõ đâu. Ý tôi muốn hỏi Vĩnh, - chẳng hạn: bồ câu có bị
mèo hàng xóm chụp không?
Vĩnh tươi cười ngay vì câu hỏi chi tiết dễ trả lời hơn câu hỏi
tổng quát lúc nãy.
- Dạ, bị mèo vồ luôn.
- Có hay bị trẻ con hàng xóm bắn ná cao su không?
- Dạ, cũng đó xảy ra luôn. Bồ câu đang ấp mới bay xuống đường
là bị bắn chết một con. Con còn lại bỏ ổ không ấp nữa.
- Có phải nhiều khi có một cặp trứng mà ấp chỉ nở có một con?
- Dạ, có vậy.
- Bồ câu dễ mắc bệnh lắm?
- Vâng.
- Thế thì nuôi chúng chẳng lợi mấy…
- Vâng ạ. Mấy tháng đầu thì có lợi, ham lắm. Nhưng sau lần lần
thì hơi chán…
- Cám ơn câu trả lời của Vĩnh.
Vĩnh và cô bạn tôi đều tỏ ra ngạc nhiên không hiểu ý tôi muốn
nói gì. Tôi giảng giải:
- Tôi nuôi chim bồ câu bị thất bại nên bỏ không nuôi nữa. Mặc
dù tôi đã kiên nhẫn nhiều nhưng tôi vẫn cho rằng tại mình mau nản lòng nên vẫn
có ý ngầm tự trách. Do đó mà tôi muốn nghe người khác nói lên sự thất bại, sự
chán nản để tôi được an ủi.
Vĩnh mỉm cười thú vị vì ngẫu nhiên mà chúng tôi cùng một tâm
trạng như nhau. Chắc Vĩnh đang cần một sự an ủi tương tự như tôi vậy. Cô bạn
tôi thì dáng không vui. Một người đàn bà đang còn đẹp, ít khi chịu để cho một
người đàn ông nói trái ý mình.
Đích thực là càng ngày tôi càng yên tâm rằng tôi không nên hối
tiếc vì sự nuôi chim thất bại. Nhưng lòng yêu chim bồ câu của tôi, tôi thấy vẫn
không suy giảm. Tôi sẵn lòng yêu bất cứ chim bồ câu nào của ai mà tôi bắt gặp,
mà tuyệt nhiên không có ý tưởng muốn nuôi nó làm riêng của mình. Cái đầu nhỏ,
đôi mắt đen láy, cái cổ mảnh, cái ức gọn gàng, tất cả sự dịu dàng ấy ám ảnh
tôi, ám ảnh cả vào những lúc mà tôi không ngờ nhất.
Tôi nhớ có lần tôi đi dự một nhạc hội. Người ca sĩ được giới
thiệu, tôi đã nhiều lần nghe giọng hát ở đĩa nhựa và máy thu thanh. Đêm nay
cũng giọng hát trầm ấy thổn thức nức nở, như kéo là là xuống mặt đất, như muốn
tràn ra mênh mông, như muốn vỡ ra từng mảnh. Tôi nhìn lên tấm thân manh mảnh của
nàng trong tà áo màu ngà, với mái tóc buông dài, với đôi má trắng, đôi mắt đen
láy. Có những lúc giọng hát trầm quá tôi chợt lo rằng nàng sẽ không giữ được
thăng bằng, giọng hát trĩu nặng xuống và nàng sẽ chênh vênh, và nàng sẽ ngã.
Nhưng nàng vẫn đứng đó, tà áo màu ngà manh mảnh, đôi má trắng, đôi mắt đen và
giọng hát vẫn êm đềm thổn thức. Con chim bồ câu! Thoáng một giây, tôi nghĩ đến
con chim bồ câu, con chim bồ câu trắng dịu dàng, con chim bồ câu không phải của
riêng tôi nhưng mà tôi sẵn sàng mến yêu bất cứ nơi đâu và chẳng cần biết là của
người nào.
Đụng Độ
Số 508, đừng liếc sang bên cạnh.
Người thí sinh mang số ký danh 508 thu cái nhìn về. Đôi mắt
khép lại trong khoảng hẹp của tờ giấy thi. Nét mặt đăm chiêu.
- Số 492, đừng nói chuyện.
Anh thí sinh mang số ký danh 492 thôi nói, miệng nở một nụ cười
gượng.
Phương pháp lập một bản đồ lớp trên tờ giấy, ghi số ký danh của
thí sinh theo vị trí ngồi của họ đã giúp Luân giữ trật tự phòng thi một cách có
hiệu quả. Có ai rục rịch hoặc hỏi lời giải hoặc tự nhiên cho xem nháp, anh chỉ
nhìn vào bản đồ gọi đúng số ký danh của người thí sinh phạm lỗi, thế là trật tự
vãn hồi. Nếu cứ gọi vu vơ “Ê, anh kia đừng nói chuyện. Suỵt, suỵt…anh. Anh này,
đừng cho xem nháp chớ…” thì cả lớp sẽ bị quấy rầy nhiều quá. Người thí sinh
lương thiện nhút nhát thì cứ tưởng giám khảo muốn ám chỉ mình nên giương mắt
lên nhìn và đợi, còn người có lỗi thường điềm nhiên tiếp tục, tưởng như giám khảo
đang bảo người khác.
Lá phi lao hát vu vơ trên tầng cao, kéo dài một giọng đều đều,
lê thê, buồn ngủ. Lá tối màu rong biển nhọn nhọn, li ti, như thiếu sự bình
tĩnh, như lúc nào cũng rối loạn thần kinh, như thiếu sự bao dung. Cành rậm chỉa
xiên lên trời. Đó không phải là thái độ ân cần đón mời những đôi chim. Phi lao
hay đứng ở sân bệnh viện, công sở và nghĩa trang. Những nơi này không ai thích
đến.
Luân mơ màng nhìn ra dãy phi lao sắp hàng trước sân trường để
nghĩ vẩn vơ như vậy. Anh để cho cô giám thị làm nhiệm vụ của cô. Từ đầu giờ đến
giờ cô cứ ngồi nơi ghế đặt ở cửa ra vào. Cô giáo cần phải ngồi như vậy mới có vẻ
nhu mì. Phải vòng hai tay trước ngực nữa. Thí sinh không phải đều là học sinh.
Học sinh không, cũng đã khó điều khiển rồi. Họ xem những cô giáo trẻ và đẹp như
chị của họ ở nhà, thậm chí như một người yêu mà họ mơ tưởng. Ở những trường
trung học lớn, thỉnh thoảng ở nơi góc trường có những hàng chữ thầm lặng rụt rè
mà thiết tha như những tiếng kêu tuyệt vọng. Chẳng hạn “Cô Kim Nhung ơi, cô đẹp
lắm”. Cô giáo mang rất nhiều mặc cảm: nhỏ, yếu, bị người ta đánh giá và thưởng
thức sắc đẹp. Như một cái hoa thơm, như một cái quả ngon…
Cô giám thị đi đi lại lại trong phòng. Bước chân nhẹ, ngắn.
Ngay ở dãy bàn đầu, những người ngồi thì cũng đã quá cao so với cái bàn, cái
băng. Họ như mất thăng bằng. Giống như những lực sĩ ngồi xệp xuống đất để sử dụng
đàn tranh. Trong số thí sinh có mấy quân nhân mặc quân phục mang cả phù hiệu cấp
bậc. Có những cán bộ nhân viên hành chánh nét mặt đã già. Họ viết chữ đẹp, hay
dùng tẩy và thước gạch. Đề luận Việt văn thì chỉ chọn: “Hãy giải thích lời nói
sau đây của Tổng Thống…” Cô giáo viên giám thị địa phương mất bình tĩnh với họ.
Cả đối với thí sinh - học sinh cũng vậy. Học trò thời nay không coi ai ra gì. Học
trò dốt, đi thi để hỏng thì càng hung tợn hơn. Giám thị mang giày đế da có đóng
cá sắt bị ghét vì đi lộp cộp làm rộn họ. Mang giày đế cao su êm cũng bị ghét vì
họ cho là đi nhẹ để dễ rình. Cô giám thị mang guốc đế nhọn đi lóc cóc thì bị nữ
sinh ghét. Ghét! Ghét! Ở cái xã hội học đường thi cử người ta ghét nhau dễ dàng
như thở không khí.
Luân bảo cô giám thị:
- Cô Tâm này, cô thử đi một vòng xuống dưới cuối lớp. Thí
sinh họ nói chuyện hơi nhiều.
Cô Tâm uốn éo đôi vai, nghiêng cái đầu nhiều lần rồi mới thỏ
thẻ nói:
- Họ không sợ tôi mô. Ông xuống kiểm soát thì họ nể hơn.
Luân an phận đi xuống cúi lớp. Cô Tâm vẫn vòng tay nhìn ra
sân nơi đó mươi ông lính Bảo an vác súng đi đi lại lại.
Chiều hôm ấy, khi rời trung tâm thi để về phòng trọ, Luân lững
thững đi một mình. Gió thổi nhẹ và trời xanh cao vút. Đi qua trường Nữ tiểu học,
- nơi đây cũng là một trung tâm thi, - anh để ý đến một đám đông đứng bao quanh
cổng trường. Nhiều người đi lảng vảng ở dãy quán bên kia đường. Có những con mắt
xoi mói nhìn anh đi qua. Một câu chửi thề:
- Đù mẹ. Tức không chịu được.
Một câu khác:
- Nó bỏ trốn đi đâu mất, chiều nay tao kiếm không ra.
- Đợi kiếm một lát nữa.
Chiếc máy phát thanh transistor đeo ở vai một người đứng đó
léo nhéo giọng ca vọng cổ như người nghẹt mũi. Chắc là đoạn chót của một vở tuồng
cải lương khi nhân vật nữ xuống tóc đi tu vì bị tình phụ. Có tiếng chuông, tiếng
mõ và tiếng sư cụ khuyên đệ tử “Nam mô A Di Đà Phật…”. Những người đứng vây
quanh cổng trường chăm chú nhìn vào văn phòng nhà trường dường như không để ý đến
giọng khuyên dạy ôn tồn của sư cụ nơi máy phát thanh. Một tiếng lại nổi lên:
- Đù mẹ…
Không biết “đù mẹ” ai, “đù mẹ” cái gì.
Về đến phòng trọ Luân thấy ngay một số giám khảo tụ tập trước
hiên.
- Chúng nó lùng kiếm anh Lung suốt cả chiều nay. May mà anh
ta nhanh mắt trông thấy.
- Nếu anh Nghĩa không nhanh trí xếp cho Lung ngồi xe ô-tô của
Hội đồng thì không khéo Lung bị chúng nó thịt rồi. Khi xe ra cổng, tôi thấy
chúng nó nhớn nhác nhìn vào xe tìm. Bác tài nhấn ga cho chạy vọt tới. Hú vía.
Ông Du một tay lần vào lưng quần, một tay đong đưa vơ vẩn:
- Thế này thì loạn mất. Thí sinh uy hiếp giám thị kiểu ấy thì
còn thể thống gì nữa? Còn trật tự gì nữa? Ngồi “cóp” ở phòng thi, giám thị cảnh
cáo vậy mà về gọi du đãng đến trả thù. Ở nước nào có như vậy không?
Ông Khuê vừa xoa cằm vừa cung hai ngón tay nhổ những sợi râu!
- Chính phủ phải có biện pháp chấm dứt tình trạng đó. Năm
ngoái, phó chủ khảo trung tâm Phan Rang ngồi trong phòng Hội đồng bị một thí
sinh xông vào đánh vọt máu mũi. Có làm biên bản, có khiếu nại nhưng rốt cuộc chả
biết hồ sơ đi đến chặng đường nào thì bị bỏ xó. Kẻ có lỗi không bị nghiêm trị
thì người khác khinh thường pháp luật là phải.
Trưa hôm sau, một tin dữ khác được đồn đi thật nhanh: anh Hợi
giám thị hành lang ở trung tâm trường Nam tiểu học bị thí sinh lúc bất ngờ đánh
vào mặt rồi bỏ chạy. Nguyên nhân là hôm thi Toán người thí sinh này lượm được
cái nháp nhưng chưa kịp chép đã bị anh Hợi tịch thu. Hôm thi cuối cùng là thi
nhiệm ý, thí sinh này thi vẽ xong, bước ra khỏi lớp gặp anh Hợi và tặng luôn
cho anh một thụi vào mặt, món quà giã biệt. Rồi chạy.
- Biết được tên người thí sinh đó chứ?
- Biết được.
- Nghe bảo thí sinh đó là con của một công chức?
- Vâng, đúng vậy.
Các giám khảo có hai ngày rảnh trong khi đợi bài thi và các
giám khảo ở Hội đồng hai tỉnh lân cận đến nên ngoài những giờ ăn và ngủ họ tụm
năm tụm ba bàn tán việc thí sinh hành hung giám khảo.
- Việc này không thể cho qua được. Phải làm cho ra chuyện. Cụ
Chánh chủ khảo đã được báo tin chưa?
- Được báo cáo đầy đủ với mọi chi tiết. Báo cáo của đương sự
nạn nhân và của chủ tịch trung tâm nữa, dường như Cụ đang khổ tâm lắm nên Cụ cứ
tháo kính ra lau luôn, cứ năm phút lau kính một lần.
- Chỉ còn hai năm nữa thì Cụ về hưu nên chuyện rắc rối nhỏ nhặt
nào cũng mang những kích thích vĩ đại qua đôi kính lão của Cụ.
- Những việc này tự nó đã vĩ đại rồi, hay ít nhất nó cũng sẽ
mang lại những hậu quả vĩ đại.
- Mình phải công bằng một chút. Ai chẳng muốn làm ra chuyện,
nhất là cụ Chánh thì càng muốn làm ra chuyện hơn ai hết vì Cụ có trách nhiệm với
anh em, với Bộ. Có chuyện không hay xảy ra thì Cụ bị khiển trách trước. Nhưng Cụ
đâu có quyền nghiêm trị ai? Phải nhờ chính quyền. Phải tùy ở sự sốt sắng của
chính quyền.
Mười giờ tối hôm đó, có tiếng chân chạy rầm rầm ở hành lang
trường và tiếng đập cửa thình thình. Đa số giám khảo và cụ Chánh chủ khảo đều ở
trọ lại trường nên khi mọi cánh cửa mở tung ra, đèn bật sáng lên là các vị ùa
ra đứng chật hành lang trong nháy mắt. Anh Lung, người giám khảo nạn nhân ở
Trung tâm trường Nữ mặt hơi xanh, thở hổn hển và nói đứt quãng:
- Tụi nó bao vây tôi. Có gần chục đứa.
- Tụi nào?
- Tụi bữa trước. Theo lời chúng nó bàn với nhau thì chúng nó
đi lùng tôi ở hiệu ăn Tứ Hải và tiệm chè Lạc Viên nơi tôi thường tới ăn uống.
May hôm nay tôi có hẹn lại ăn cơm ở nhà anh bạn tôi nên vô tình mà đánh lạc đường
chúng nó. Vừa về qua đây chúng thấy hút, ào tới bủa vây. May tôi chạy thoát.
Ngực anh nhấp nhô và hai hàm răng cắn rít lại.
Một giám khảo cất giọng lè nhè:
- Nhưng có chắc là chúng định bao vây anh không? Có thể chúng
đang đi trả thù một người nào đó rồi anh trông gà hóa cuốc.
Anh Lung quắc mắc liền:
- Sao lại không chắc? Chúng nó gọi đích danh tôi.
Một giám khảo trẻ, tuổi chừng hăm lăm mang một bộ râu mỏng
manh nằm vắt dài ở môi trên dớ dẩn hỏi:
- Sao anh không quay lại giã cho chúng một trận?
Nhiều con mắt đổ xô vào nhìn bộ râu yếu ớt có tính chất thí
nghiệm ấy và người ta phân vân không biết anh nói thật hay nói đùa. Nói thật
hay nói đùa cũng đều vô duyên như nhau trong lúc này. Nhất là khi thấy cụ Chánh
chủ khảo loay hoay lau kính có đến hàng phút mà vẫn chưa đeo kính lên. Đôi lông
mày cụ phải quặm xuống và cụ nhướn đôi mắt lạc lõng nhìn về một khoảng khung trời
đen sẫm ngoài kia. Giọng cụ rời rạc, trắng bệch như nói không cốt cho ai nghe,
như nói vào khoảng trống.
- Vào trong này ở với chúng tôi. Anh ở khách sạn phải không?
- Thưa Cụ vâng ạ. Con ở khách sạn Thiên Sơn.
- Vào trong này mà ở.
- Dạ.
Một giám khảo mình gầy và đen đứng còng lưng trông như một
cái dấu ngoặc đơn, cất giọng ồ ồ:
- Rồi chúng nó sẽ tìm đến đây trả thù. Chẳng phải đầu thì phải
tai. Thế nào cũng có anh bị mắc đòn oan.
- Cụ Chánh phải báo cáo ngay với chính quyền không thể trì
hoãn được nữa.
Nhiều giọng nói họa theo, mạnh mẽ cứng cáp, bởi an ninh đã bị
đe dọa thật sự.
- Chúng tôi yêu cầu Cụ phải can thiệp ngay với Chính quyền.
Cụ Chánh thong thả đáp:
- Tôi đã xuống báo cáo trực tiếp với Tỉnh hồi chiều. Công văn
thì gửi hôm qua.
- Thế ông Tỉnh trưởng bảo sao?
- Ông Tỉnh trưởng đang bận đi về quận thanh tra.
- Nghĩa là rốt cuộc vẫn thân ai nấy lo. Yêu cầu anh em ai có
khí giới nào thì tự phòng thủ bằng khí giới nấy. Dao con chó, dạo cao râu, nịt
da, thước kẻ.
Nhiều người cười và nhân cơ hội đó họ giải tán một cách tự
nhiên.
Xế hôm sau, một người tùy phái mặc đồng phục kaki chễm chệ
mang vào một quyển sổ “Tiếp phát công văn” dày cộm bìa bọc vải màu đen. Công
văn của tòa Tỉnh đến, Cụ Chánh ký nhận, đọc, lẩm nhẩm nhiều lần, suy nghĩ đến
méo cả miệng mà không biết. Cuối cùng, cụ đằng hắng to rồi hai ngón tay bấm vào
một góc của tờ giấy pelure, cụ xách nó đi ra hiên tươi vui như người chiến sĩ
tay cầm chiến lợi phẩm. Giám khảo tụ họp lại nhanh như học sinh đánh hơi có tin
được nghỉ lễ.
- Có công văn của tòa Tỉnh gởi lên đây.
Và Cụ đứng ngay ngắn tuyên đọc.
Qui Nhơn ngày 30 tháng 4 năm 1963
Tỉnh Trưởng tỉnh Bình Định kính gửi
Ông Chánh chủ khảo Hội đồng khảo thi THĐNC, Hội đồng Qui Nhơn
Kính thưa Ông,
“Tỉnh tôi vừa nhận được báo cáo của ông về việc hai giám khảo
Nguyễn Văn Lung và Hồ Sĩ Hợi bị hai thí sinh hành hung ở trung tâm trường Nữ và
trường Nam tiểu học. Tỉnh tôi đã ra lệnh cho hiến binh và cảnh sát tăng cường sự
bố trí để bảo vệ an ninh hữu hiệu. Kính mong ông tin cho quí vị giám khảo biết
để quí vị an tâm thi hành công vụ.
Kính chào Ông.”
Cụ Chánh ngừng đọc, đưa mắt nhìn cử tọa miệng phác một nụ cười.
Thì trong cử tọa cất lên một giọng nói:
- Chỉ có tăng cường Cảnh sát và Hiến binh không thôi à? Còn
hai tên thí sinh công nhiên hành hung giám khảo thì Tỉnh giải quyết như thế
nào? Sao không thấy nói?
- Chắc họ cũng đang giải quyết, - cụ Chánh ôn tồn trả lời.
Một giọng cương quyết hơn:
- Nếu không trừng phạt hai người thí sinh đó thì mọi biện
pháp tăng cường bảo vệ đều vô hiệu.
- Chúng ta nên đi từ từ, - lại lời cụ Chánh - Ông Tỉnh đã hứa
rồi thì mình cứ an tâm.
Vừa lúc ấy có dáng no tròn của anh Hợi từ ngoài cổng xăm xăm
đi vào. Tay chân múa thoăn thoắt. Thấy cụ Chánh đứng giữa cử tọa, anh phân bua
ngay:
- Thưa Cụ phải làm thế nào chứ thí sinh láo quá tôi không chịu
nổi. Tôi đi đâu chúng cũng sán lại bao vây chỉ chỏ và bàn tán lớn tiếng.
- Mình nhịn đi một chút, - lời cụ Chánh.
- Thưa Cụ tôi nhịn nhiều quá rồi chứ không những là một chút.
Nhưng càng nhịn chúng càng được thể reo hò, vỗ tay, la lối.
Một câu hỏi vút lên, nhọn như mũi tên:
- Thế Cảnh sát và Hiến binh tăng cường ở đâu? Chẳng lẽ họ chọn
nơi nào không có mặt giám khảo để tăng cường?
- Nguy quá. Thế này mà ông Tỉnh khuyên “hãy an tâm thi hành
công vụ”. Tôi có cảm tưởng chúng ta đang bị bao vây trong cái thành quách mỏng
manh này, thiếu cửa ngõ phòng thủ vừa không biết địch tình.
- Ngày 2 tháng 5, khi Hội đồng có đủ giám khảo của hai tỉnh
Quảng Ngãi và Phú Yên về dự chúng ta sẽ đưa vấn đề này ra thảo luận và làm kiến
nghị yêu cầu chính quyền địa phương định rõ biện pháp. Kiến nghị phải đồng thời
gửi ra Nha Đại diện giáo dục và Bộ Quốc gia giáo dục.
- Đúng, phải làm cho ra nhẽ một lần.
Các cuộc tiếp xúc, bàn tán thảo luận từng nhóm, từng phòng
kéo dài suốt cả ngày 1 tháng 5. Cụ Chánh chủ khảo nét mặt đăm chiêu đi đi lại lại,
mặt cúi xuống đất. Cụ không muốn có những chuyện rắc rối xảy ra. Làm khó dễ ông
Tỉnh trưởng, đó không phải là chuyện chơi. Ông Tỉnh trưởng nào cũng có thế lực,
cũng có vai vế, cũng có tay trong. Dù chỉ còn hai năm nữa về hưu nhưng hai năm
không phải là ngắn nếu phải đổi về làm Hiệu trưởng một trường Trung học ở gần
biên giới. Chính trị có nhiều rắc rối bất ngờ. Đang thắng đổi thành bại, chuyển
bại làm ra thắng, đó là chuyện thường, dễ nữa. Nhà giáo mẫu mực, lo xa lúc nào
cũng tự vạch cho mình những ranh giới và nhất định chỉ đi trong ranh giới đó. Đối
lập với chánh quyền đó là điều cụ không bao giờ nghĩ tới. Nhưng không thể bắt
giám khảo im lặng chịu đựng như cụ. Họ đa số còn trẻ, gân cốt và tim phổi đang
mạnh. Như những trái banh ten-nít mới đập xuống sân thì bật tung ngay, vọt thật
cao. Do đó mà hôm hội nghị mồng 2 tháng 5 cả cử tọa ồn ào như sắp nổi loạn. Tiếng
cụ Chánh yếu ớt chìm vào tiếng nói, tiếng xì xào; thân hình cụ Chánh đứng nhỏ
nhoi ở giữa phòng như bị chìm đi giữa những lớp sóng người ngồi bao quanh. Cụ
vào đề rất ngắn, - một trường hợp ít khi xảy ra, - rồi phân công cho các tiểu
ban. Những tiếng ồn ào nổi lên và vấn đề “thí sinh hành hung giám khảo” được đặt
ra. Giám khảo nạn nhân được mời ra thuật lại tự sự. Cử tọa lắng nghe. Mấy cô
giám khảo thỉnh thoảng trợn mắt ngạc nhiên hoặc lè lưỡi sợ hãi, hoặc rên lên
khe khẽ. Có cô lấy tay che cái miệng hả tròn.
Sau lời tường thuật, cụ Chánh trấn tĩnh ngay cử tọa bằng cách
đọc lại bức thư ưu ái của tòa Tỉnh. Những lý luận ở hành lang phòng trọ được lặp
lại với lời lẽ mạnh hơn, bởi vì người nói thấy có nhiều người chú ý nghe mình
hơn. Một giám khảo đưa ý kiến:
- Học trò đánh thầy, theo Hoàng Việt Hình Luật là tội đại
hình (Cử tọa im thin thít. Té ra quan trọng thế đó). Vài năm nay những vụ thí
sinh hành hung giám khảo sở dĩ cứ tái phát là bởi chính quyền không trừng phạt
họ, là bởi chúng ta cứ chịu nhịn nhục mãi. Vậy tôi xin đề nghị: Chúng ta không
chấm bài thi trước khi chính quyền trừng phạt kẻ có lỗi.
Mặt cụ Chánh lộ tất cả vẻ bàng hoàng y như chính Cụ là kẻ có
lỗi sắp sửa đưa ra trừng phạt. Cụ nói:
- Như thế là các ông đình công.
- Đình công thì cũng được chứ sao. Chuyện ức như thế này mà
ngậm miệng chịu sao?
- Các ông.. chúng ta là công chức không có quyền đình công.
- Nhưng dù có ngồi chấm bài thì cũng đâu còn an tâm mà chấm
khi thân mình bị đe dọa.
- Tôi sẽ gửi thêm công văn xuống Tỉnh.
- Phải có kiến nghị thì lời nói của mình mới được lưu ý.
- Nhưng phòng họp này Chính phủ dành cho Hội đồng giám khảo.
Muốn lập kiến nghị, các vị nên họp ở một địa điểm nào khác.
- Họp đông người thì phải xin phép chính quyền và phải đợi
chính quyền cho phép mới được họp.
- Nghĩa là rốt cuộc chúng ta sẽ khỏi phải họp gì hết cho đến
ngày chấm xong và tuyên bố kết quả.
Một giám khảo nói nhỏ như chỉ để mình nghe:
- Chán thật! Năm ngoái mình giám thị ở Phan Thiết một thí
sinh quân nhân rút bao súng lục để lên bàn rồi mới ngồi xuống làm bài. Có thí
sinh rút dao găm để dưới hộc bàn. Báo cáo cho chủ tịch Hội đồng thì cũng chỉ
nghe ậm ừ vô ích như hôm nay. May nhờ chế độ giám thị cứ thay phòng mỗi buổi
nên mỗi anh giám thị chỉ phải nếm mùi một lần.
Thế là hội nghị bế tắc. Hội nghị uể oải chuyển sang mục phân
chia tiểu ban, phân chia bút chì đỏ để chấm bài và phân chia bài để chấm. Như
những con tằm trong thời kỳ ăn lên nghiến lá dâu rào rào, các giám khảo chấm
bài rào rào, ai lo phần nấy. Một buổi qua. Một ngày qua. Sau đó có một bản kiến
nghị đề gửi lên Bộ, lên Nha Đại diện giáo dục được đánh máy và được chuyền cho
các giám khảo ký. Có nhiều người ký, ít người không. Ai phụ trách gửi, ai ủy
nhiệm gửi, gửi ngày nào, không mấy ai lưu ý đến nữa. Câu chuyện thảo luận sôi nổi
hôm nào bây giờ đã nằm xuống im lặng. Khi có người khuấy động lên thì nó trở
sang tính chất hài kịch. Một giám khảo gật gù:
- Theo cái đà này thì đi chấm thi cũng gần như đi sứ sang Tàu
hồi xưa. Hay cũng như đi lính thú. Lính thú đời nay! Ngày nhận công lệnh đi chấm
thi, vợ con tiễn chân ra phi trường e phải ngâm câu:
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước lên phi trường nước mắt như mưa
Luân đã theo dõi câu chuyện từ đầu đến cuối. Như mọi giám khảo
thận trọng khác, anh đã thay đổi chiến thuật ngay từ khi thi viết thứ hai.
Không còn lớn tiếng khắc khe nữa. Lúc nào cũng chuẩn bị để đón nhận một đòn uy
hiếp. Đi qua đám đông thí sinh tụ họp trước sân trường, anh cúi nhìn xuống đất
đi chậm rãi như một người tư lự. Như đám đông kia không có quan hệ gì đến mình
hết. Làm nghề thầy giáo đã nhiều năm anh biết tạo cho mình một lối đi khiêm tốn
khi cần. Người hơi ngã về đằng trước một chút. Mắt lơ đãng không nhìn chắc về một
điểm nào. Hai cánh tay khuỳnh ra ôm xấp giấy. Anh tự ngượng với mình về lối
đóng kịch đó. Nhưng vì cuộc đời là một tuồng kịch dài nên anh quen đi, an phận
giữa những kịch sĩ tài ba khác. Ai cũng mong được yên thân. Người nào cũng gắng
giữ sao cho thân mình còn được lành lặn khi về với vợ con. Mình đâu phải là chiến
sĩ để hãnh diện về nhà với một cánh tay gãy, một cái môi vêu hay một cặp mắt
sưng húp? Các giám khảo ít đi chơi đêm hay đi dạo phố thẩn thơ một mình. Ở một
tỉnh lỵ, các giám khảo từ xa đến bao giờ cũng dễ nhận biết, do đó những khi ra
hiệu ăn anh phải lưu ý nhìn trước nhìn sau. Điều này động chạm đến tự ái của
anh nhất là khi anh nhớ đến hồi nhỏ đi thi mình nhìn các giám khảo với đôi mắt
kính nể và thèm muốn. Họ giữ quyền sinh sát và thân phận mình nhỏ nhoi như những
con muỗi đực. Bây giờ thời thế đã quá khác xưa, khác đến mức anh không thể nào
tưởng tượng được sự thể lại có thể xảy ra như vậy.
Chiều qua đi từ hiệu ăn phòng trọ anh đang chậm bước mắt nhìn
xuống mũi giày mình thì bỗng một chiếc Solex chạy vút tới, sát cạnh. Anh giật
mình nhìn lên. Trên xe có hai thanh niên ngồi. Người thanh niên ngồi sau quay
lui hỏi anh:
- Nhìn cái gì? Muốn cái gì? Hả?
Người thanh niên ngồi trước cũng quay lui nhìn anh và cả hai
hô hố cười to. Không khí thù địch, khiêu khích sang sảng trong tiếng cười ngạo
mạn. Chắc là hai thí sinh làm bài kém hay là bạn của thí sinh. Anh phải cúi
nhìn xuống mũi giày và khiêm tốn đi tiếp.
Tối hôm ấy trời nóng. Hàng cây so đũa đứng nghiêm trang trước
hiên buông từng chùm quả dài so le như dải rút. Không có gió len lỏi giữa cành.
Bình nước trà cạn từ hồi chín giờ. Luân chui vào màn cố nhắm mắt ngủ cho qua
cơn khát nhưng giấc ngủ bướng bỉnh không đến. Đèn phòng mở sáng và các bạn anh
tiêu khiển ồn ào xung quanh. Anh Lợi và anh Long đập cờ tướng chan chát. Các
anh Quang, Hữu, Châu, Đức đánh các-tê thỉnh thoảng vỗ đùi la lối om sòm. Anh Trợ,
anh Sung rủ rì nói chuyện nhà cửa, người yêu, trường trại, chuyện phát phần thưởng
đã qua, chuyện khai giảng niên khóa tới.
Luân nhìn đồng hồ. Mới mười giờ rưỡi. Anh lăn mình ngồi dậy.
Không thể đánh lừa cơn khát được, anh lặng lẽ mặc áo ra đầu phố uống nước.
Đến đường Hàm Nghi gió mát như thổi tan đi cơn buồn ngủ nặng
nề. Anh lại hàng nước mía quen. Họ bán hết hàng, đang thu dọn đồ đạc về nghỉ.
Anh đi xa thêm ra hiệu kem. Khách khứa ồn ào. Thuốc lá Kent, Winston phì phèo
cháy trên những đôi môi 16, 17 tuổi. Giọng nhạc uốn éo, bập bùng rồi chuyển
sang quay cuồng hỗn loạn. Tiếng thìa khuấy trong ly canh cách. Tiếng máy xay quả
chạy rè rè. Tiếng gọi, tiếng thưa tréo vào nhau như mắc cửi.
Anh uống xong một hơi hai ly nước cam, trả tiền rồi bước ra về.
Sau anh có dáng một người cũng hấp tấp đứng dậy, bước ra quầy hàng. Anh đi men
theo bờ đường, ánh đèn đường không soi sáng đủ lối đi. Có bóng người đi theo
sau.
Anh bước sang con đường ngang. Bóng tối mờ mờ. Sau lưng anh
tiếng chân giày vẫn nhẫn nại bước theo. Anh rảo chân thêm. Tiếng chân giày đằng
sau gõ mạnh hơn và nhanh hơn. Anh muốn quay nhìn ra sau xem người đi theo mình
là ai nhưng ngại không làm. Quay nhìn tức là tỏ ra mình lưu ý đến họ, nghĩa là
mình mất tự do, là nể họ, sợ họ. Anh rẽ sang đường khác. Tiếng giày vẫn mải miết
đi theo. Nhanh hơn. Dồn dập hơn. Một tiếng đằng hắng. Dấu hiệu mở màn cuộc khởi
hấn? Máu chảy dồn dập nơi cổ, nơi thái dương, nơi đôi cánh tay của anh. Vô lý.
Mấy hôm nay mình có nghiêm khắc với người thí sinh nào đâu? Hay là khi thu bài,
khi phát giấy thi, khi kiểm soát thẻ căn cước mình đã vô tình chạm tự ái họ?
Không có lý. Mình đã cố hết sức nhã nhặn với mọi người mà. Hay là vẻ mặt nghiêm
nghị của mình làm họ tưởng mình kiêu kỳ nên họ ghét? Có thể. Một luồng lạnh chạy
vút qua sống lưng làm tê cóng đến hai bàn tay. Anh mím chặt đôi môi. Đến nước
cùng thì đành phải liều mạng mà đánh, may ra. Anh lẩm nhẩm trong óc, hối hận
sao mấy lần định học lớp Nhu đạo rồi vì lười biếng mà bỏ trôi qua. Thuyết
Helmholtz, phương trình Logarit, hệ thức Chasles không thể dùng để đối phó với
những bắp thịt quyết tâm đánh mình. Kiến thức sách vở chỉ dùng để chế ngự học
trò được thôi. Tiếng giày lộp cộp. Đúng là tiếng giày có đóng cá sắt, mũi nhọn,
rất nguy hiểm cho địch thủ. Ánh điện đường hắt một bóng đen chạy dài dưới chân
anh, bóng của người đi sau. Dáng y vạm vỡ. Còn khoảng hai trăm thước nữa mới tới
phòng trọ. Anh thu hết sức lực đi cho nhanh. Tiếng giày gần anh. Gần anh thêm.
Gần thêm. Một tiếng phát ra:
- …Ầ - ầy…
Anh quay phắt trở lại. Hai bàn tay người kia chụp nắm tay
anh. Anh rút phắt tay ra, đồng thời một luồng lạnh lại chạy vút theo cột xương
sống, tê ở hai bên má, chạy lên mang tai. Người đối diện với anh mở to đôi mắt,
để ngửa hai tay.
- Thầy.
- Anh là ai? Anh muốn gì?
- Thầy… thầy không nhớ em sao? Em là Dương Sanh Thọ.
Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của anh, người kia nói tiếp:
- Em học đệ Tứ với thầy năm kia mà. Ở trường Lê Qúi Đôn. Em
là Dương Sanh Thọ mà thầy cứ kêu lộn với tên hiệu buôn xe Vespa Dương Sanh
Phát.
- À! À! Tôi nhớ rồi.
Tiếng tim đập rầm rầm làm anh đứng nghỉ một chút.
- Anh ra đây làm gì?
- Thưa thầy em đã thôi học. Bây giờ em làm thư ký đánh máy
cho ty Thông tin. Chắc thầy ra ngoài này chấm thi.
- Vâng.
- Thầy độ rày vẫn mạnh khỏe?
- Cám ơn anh. Như anh ngó thấy đấy.
- Thầy vẫn còn ở chỗ cũ?
- Vẫn ở chỗ cũ.
- Lúc nãy em thấy thầy ở hiệu kem Khánh Trang. Em định lại
chào thầy nhưng thầy đã trả tiền bước ra. Em vội vã đi theo mà thầy đi mau quá.
- Tôi định về ngủ sớm. Đi chơi khuya, sáng mai mệt, trở ngại
cho công việc.
Tiếp theo sau là những lời thăm hỏi xã giao và trao đổi địa
chỉ. Nói chuyện trong mười phút, anh bắt tay giã từ Dương Sanh Thọ. Dương Sanh
Thọ tỏ lòng cung kính giơ hai bàn tay nắm chặt tay thầy. Anh suýt bật cười, nhớ
lúc nãy anh đã lầm thế bắt tay đầy cung kính này với một thế chưởng “Hàn băng
miên chưởng” hay “Giáng long thập bát chưởng” “Phiêu tuyết xuyên vân chưởng” của
kẻ thù, tưởng như mình đang sống lại không khí của những cuộc tranh hùng giữa
các môn phái Thiếu lâm, Võ đang, Nga mi, Không động… trong tập truyện võ hiệp
tràng giang “Cô gái Đồ Long” mà anh vừa đọc xong tuần trước.
Dốc Hiểm Nghèo
Tuyên tháo bỏ tấm màn treo ở cửa sổ cho ánh sáng vào nhiều
hơn. Nắng vàng rực trên những cánh hoa mai khiến anh có cảm giác rằng chỉ ở
trên cánh hoa mới có nắng. Hoa mai nở đầy cành chen lẫn với những nụ xanh mướt
bóng loáng to nhỏ đủ cỡ. Nụ làm cho hoa bớt trơ trẽn. Có sự sống từ tốn trầm lặng
kế tiếp theo sự háo hức tràn trề.
Vốn dốt trong việc chọn lựa mặc cả nên khi đi tìm mua cành
mai, Tuyên ghé lại khu trại của một ông bán hoa quen. Ít nhất cũng tránh được
những bà bán hoa phiêu lưu trong việc thách giá và vô trách nhiệm sau khi đã đếm
đủ tiền và cẩn thận nhét vào túi áo trong.
- Chào ông. Có cành mai nào đẹp không?
- A! Chào thầy. Có cành này đây. Đẹp quá thầy thấy không.
Ông ta giơ cao cành hoa đang cầm trên tay.
- Bao nhiêu đó?
- Thầy cho ba trăm rưỡi.
- Đắt hơn năm ngoái…
Ông tháo cái “pip” đang ngậm với dáng vội vã.
- Mai năm nay mà, thầy. Ở dưới chợ cành nầy phải bốn trăm rưỡi.
Chỗ thầy quen…
Tuyên mân mê vài cành mai nhỏ, đếm lẩm nhẩm vài nụ rồi nói,
hơi rụt rè bởi mình chưa đi chợ, chưa khảo giá:
- Hoa không được sai.
Ông bán hoa hít gấp gấp hai hơi thuốc, nhổ một bãi nước bọt rồi
chụp ngay tiếng chót của anh:
- Như thế này là sai “hung” rồi đó. Thầy coi, - ông chỉ tay về
một nhánh mai cao đặt đứng cạnh đó, - cành mai kia bà Thiếu tá Sự trả tôi tám
trăm mà tôi chưa để. Mai năm nay hiếm lắm, kiếm chặt không ra.
Ông bán hoa cúi gằm mặt xuống liếc mắt qua khe kính lão, nhìn
lên anh:
- Bị nạn bão lụt mai rừng hư hết…
- Tôi thấy ở dưới chợ bày bán cũng khá nhiều…
- Đó là mai Thủy Triều, mai Mỹ Ca, mai biển. Mai biển đâu có
sánh nổi mai núi. Lứa này là mai Krong Pha đó. Thầy thấy không, hoa nó kép mà
cánh hoa dài thế này.
Ông hạ giọng nói nhỏ vừa chồm người lại gần anh:
- Bây giờ đi núi đâu có dễ. Mò vô trong rừng sâu thì sợ gặp mấy…
(ông giơ một ngón tay ra dấu) Còn đi rảo ở bìa rừng thì có mai tốt đâu mà chặt.
Khổ lắm.
Ông cất cao giọng trở lại:
- Thầy lấy cành đó đi, để tôi sai cháu nó vác theo thầy. Lớn
ơi! Lớn! Cái thằng hở một chút là chạy chơi đâu mất. Tôi không tính mắc đâu. Chỗ
quen lớn mà…
Tuyên chỉ một cành khác đứng dựa cạnh đó,
- Còn cành này?
Ông bán hoa chụp luôn theo:
- Dạ, cành đó cũng đẹp lắm. Nụ nhiều, chơi đến cuối tháng
Giêng. Dạ, thầy lấy cành nào cũng đẹp hết.
Tuyên không hỏi đến cành thứ ba, cành thứ tư nữa vì anh biết
trước là cành nào rồi cũng sẽ đẹp hết. Giọng ông nói ngọt và êm và dẻo khiến
anh liên tưởng đến cái ghế có lót nệm.
Vài người đàn ông ghé tạt lại, chọn lựa hỏi giá rồi lẳng lặng
đi rảo qua dãy hoa bày thành hàng, đi thẳng ra ngõ cổng. Có người trả được vài
tiếng, nói đôi câu bâng quơ về thời tiết rồi hẹn sẽ trở lại. Ông hàng hoa bình
thản nói giá, nói chuyện xã giao vừa chăm chỉ vặn những sợi lạt buộc các nhánh
mai cho gần nhau. Tội nghiệp cho những người đàn ông. Mua bán mặc cả không phải
là sở trường của họ nên họ dễ ngượng nghịu lúng túng.
Tuyên chậm rãi đi một lượt qua dãy hoa để có thì giờ suy nghĩ
và quyết định. Cành hoa nào cũng khéo có những khuyết điểm. Nếu nụ rậm ở dưới gốc
thì phải chịu lác đác ở đầu cành. Ông hàng hoa khôn ngoan không để cho cành nào
đẹp hoàn toàn.
Một người đàn bà dáng hấp tấp từ ngả chợ bước vào.
- Ông có cành mai nào đẹp đó?
- Dạ có. Cô lấy cành này. Tám trăm đồng.
Người đàn bà đứng nhìn những nụ vàng lác đác, đưa ngón tay ngắt
vài nụ héo rồi nói:
- Được rồi. Lát nữa tôi cho chị ở lại lấy. Ông chỉ cành này
cho chị ta vác về.
Người đàn bà nắm trong tay một cuộn giấy bạc, mở tay ra chọn
đếm một số rồi trao cho ông:
- Ông cầm một nghìn đây. Chọn cho tôi thêm một cành nữa giá
hai trăm đồng.
Thấy anh đứng đó, người đàn bà mỉm cười chào:
- Ông mua hoa?
- Vâng ạ.
Tuyên không nhớ đã quen người đàn bà vào dịp nào.
- Ông đã chọn được cành nào chưa?
- Ông hàng hoa giới thiệu cho tôi cành này.
- Đẹp đó. Nhiều nụ và nụ nào cũng mởn. Có thể chơi đến nửa
tháng Hai. Họ đòi bao nhiêu tiền?
- Ba trăm rưỡi.
- Không đắt đâu. Ông lấy cành đó đi.
Tuyên nhìn người đàn bà mà không nhìn sang những nụ mơn mởn
có thể chơi đến nửa tháng Hai. Khuôn mặt không đẹp lắm nhưng đôi mắt thông minh
dịu dàng dễ gây cảm tình.
- Cành này cô khen đẹp?
- Vâng.
- Vậy tôi sẽ mua nó. Cám ơn cô đã chọn hộ. Cô mua hoa nhiều…
- Cành lớn để biếu chỗ ơn nghĩa. Cành nhỏ cắm ở nhà. Chồng
tôi không cho mua hoang phí. Chỗ tiền mua hoa là tiền do các cơ quan thuê chén
bát trả.
- Họ thuê làm gì vậy cô?
- Các cơ quan ăn liên hoan mừng Tết. Họ thuê chén dĩa của hiệu
tôi. Chỗ bổng này được ngót hai nghìn đồng.
Tuyên cười thú vị: mình vô tình được biết thêm một khía cạnh
sinh hoạt những ngày cuối năm.
Khi thằng Lớn lẽo đẽo vác cành mai đi theo anh về đến nhà,
Tuyên nhờ nó đặt vào cái lọ ở phòng khách cạnh cửa sổ. Cành mai trông đẹp hơn hẳn
lúc nó đứng lẫn lộn với nhiều cành khác ở trại hàng hoa. Nó độc quyền ở căn
phòng này và nó tăng thêm vẻ kiều diễm. Y như những người vợ. Đứng chung với
nhiều người khác, người vợ thường bị nuốt mất như nước sông tan vào trong đại
dương. Vụng về, tối tăm giữa đám đông, người vợ sẽ tìm lại được trọn vẹn giá trị
của mình khi trở về ngôi vị cũ trong gia đình, khỏi cạnh tranh với ai hết. Cành
mai quả đã làm chủ căn phòng nhỏ nhắn sáng sủa và những rèm cửa như cũng tỏ cảm
tình với nó trong sự hòa hợp màu sắc và đường nét.
Qua ngày hôm sau và hôm sau nữa, cứ từng ngày một mùa Xuân lặng
lẽ nở thành đóa vàng trên mỗi nhánh hoa nhỏ. Tuyên thưởng thức mùa Xuân trên mầu
hoa, say mê theo dõi những nụ vừa nở, những nụ mới nhú. Mỗi buổi sáng ngủ dậy,
trong phòng có mùi hương thoang thoảng thơm mát, nhẹ quá, thoảng quá làm anh
bâng khuâng không biết có phải là mình bị khứu giác đánh lừa không. Hương thơm
đó giống một loại hương thơm nào mình đã quen thuộc? Anh đứng lại gần những
cánh vàng, bắt tìm mùi hương vừa gạn lọc trí nhớ. Phải năm, mười lần khó khăn
như vậy anh mới thấy rõ rằng đó là hương thơm của một thứ trà ngon không ướp
hoa. Nhẹ và mát. Trong sạch và thanh tịnh. Đêm đêm chợt dậy, anh hay bật đèn
sáng nhìn hoa, cảm thấy niềm cô đơn của mình bớt trống lạnh. Vạn vật thản nhiên
trong cuộc sống riêng lẻ, yên lặng, chịu đựng.
Một buổi sáng có tiếng vù vù trong phòng, một con ong vò vẽ
bay lượn giữa cành hoa nhiều vòng rồi sà đậu xuống một cành hoa mới nở. Cánh
hoa, nhị hoa quằn quại dưới sức nặng của con vật. Cuống hoa cong hẳn xuống như
sắp gãy. Phấn vàng bay lả tả xuống mặt sàn gạch. Ong thay chỗ đậu, bay vụt đến
một đóa hoa khác. Lại những cánh vàng mỏng bị tả tơi, vòng nhị đực bị xô lệch.
Tuyên xót xa nhìn sự dịu dàng bị chà xé tàn bạo như vậy suốt
cả buổi mai. Làm cách nào để bảo vệ kẻ yếu đuối? Đóng cửa lại? Tuyên đóng cánh
cửa gần đó và con ong bay vào ngã cửa khác. Không thể đóng kín mít cả phòng.
Tuyên nhìn xung quanh mình. Sẵn cái thước dẹp đặt ở mặt bàn, tiện tay anh cầm
lên, giơ cao. Con ong bay lại giữa chòm hoa và cây thước của anh đập tới, đập
nhằm thân cây làm cánh hoa rơi lả tả vàng cả mặt gạch. Con ong vụt bay ra cửa sổ,
thẳng như một mũi tên. Cơn giận ùa chiếm lấy Tuyên. Động mạch thái dương làm ù
tai. Máu bốc lên mặt nhiều hơn. Trước mắt anh, những cánh hoa tả tơi, phấn hoa
nhị hoa chồng lên nhau. Trừng trị kẻ vũ phu không được, trở lại vùi dập người bị
hiếp đáp. Một sự tàn bạo vừa xảy ra. Một sự phân ly. Giã từ vĩnh viễn nhựa cây,
nhu mô vỏ, giã từ ánh sáng mặt trời. Ngày mai, những cánh mỏng màu vàng như
cánh chuồn này, những sợi nhị đực thơm mùi trà này sẽ quằn quại dưới ngọn chổi
cứng, lăn dính trong đất, trà trộn theo những vật bẩn ở sân, ở bếp. Rồi đến
thùng rác. Xe rác. Ruồi. Nhặng…
Con ong vụt từ đâu bay trở lại, nhởn nhơ như một người lương
thiện. Tuyên quật nó một thước. Tiếng rơi “bịch” xuống góc nhà. Anh đi lại gần.
Nó cất mình bay xéo lên. Cây thước đập tiếp xuống. Nó lại rơi bịch. Nó nằm yên.
Một lát, cánh đập vù vù trở lại nhưng không thể nhấc nổi mình lên. Nó là là lướt
trên mặt gạch. Mình nó cong hẳn sang một bên để cố tạo một thế thăng bằng. Vô
hiệu quả. Nó quay chậm chậm theo một con đường cong. Nằm nghỉ một lát. Rồi cánh
lại đập vù vù. Cái bụng cong queo hẳn tưởng như sắp tách ra khỏi cái ức. Bộ
lông nhung đen mướt ở trên lưng ngã dạt lộn xộn tạo những khoảng trống màu xám.
Bụng thở thoi thóp.
Tuyên cúi gần nhìn nó. Cơn giận đã xua tan từ lúc nào, bây giờ
bắt đầu sự thương xót. Số phận của nó sẽ như thế nào? Những cặp chân đen và dẹp
kia chỉ biết mềm mại. Nó có lỗi gì? Hoa kia là của nó hay của anh? Ai là kẻ chiếm
đoạt? Nó đang quằn quại cong veo mình lại để đi vòng tròn. Sẽ gặp gì ở tâm điểm
của vòng tròn đó? Cái chết? Tuyên cúi nhìn gần nó kỹ hơn như nhìn chính thân phận
của mình. Nó truyền sự đau đớn và tuyệt vọng sang anh.
Sự việc xảy ra sáng ba mươi Tết. Mười giờ, Lệ Châu đợi Tuyên ở
dưỡng đường bác sĩ Tùng, nhưng anh không đến. Hai giờ chiều, chú gác dan của dưỡng
đường đem tới một phong thư của Lệ Châu nhưng anh dặn chị ở trả lời là anh đi vắng…
Lệ Châu ơi, tôi xứng đáng với mọi sự giận dỗi nguyền rủa của em nhưng em đâu có
biết rằng chính con ong vò vẽ đã giữ tôi không cho đến gặp em trong ngày ba
mươi Tết đó, giữ cho chúng ta khỏi tuột xuống một con đường dốc hiểm nghèo.
Tuyên quen Lệ Châu trong một trường hợp ngẫu nhiên không mấy
lý thú: ở nơi phòng mạch của bác sĩ Tùng. Nàng gầy, nước da trắng xanh. Khuôn mặt
thon dài. Mí mắt thẫm và hàng lông mi dày làm cặp mắt thêm to, thêm sâu. Vẻ đẹp
bệnh hoạn của Marguerite Gauthier(1 ). Nàng hỏi anh về tài nghệ của ông bác sĩ.
- Cũng như mọi ông khác - Tuyên trả lời - Không có gì đặc biệt.
- Thế sao ông lại chọn ông ta?
- Vì ông ta có mặt ở phòng mạch giờ này. Mấy ông bác sĩ khác
làm việc nhà nước nên chỉ tiếp khách quá sớm và quá trễ. Còn cô?
- Tôi ở Huế mới vào. Đối với tôi ông nào cũng như nhau vì tôi
chưa được biết ông nào.
Giọng nói chậm, nhỏ, mỏi mệt nhưng quả tình là có nhiều thông
minh trong cách nói.
Người bệnh nhân vừa được mời vào phòng mang số thứ tự 15. Số
của Tuyên đến 40. Còn bao nhiêu là thì giờ rỗng.
Tuyên hỏi:
- Xin lỗi. Cô mang số mấy?
- Băm lăm.
Tuyên cười lên không giữ được và nàng cũng cười ngon lành.
Nàng nói:
- Đó là một con số có duyên. Vì nó chọc cười được mọi người.
Nàng cúi xuống đọc một tờ Life bỏ ở bàn xa lông phòng đợi.
Tuyên nhìn sang những bệnh nhân khác. Một bà cụ già da mặt nhăn nheo như một vỏ
cây nứt nẻ. Những đứa trẻ gầy yếu chân tay khẳng khiu. Những người đàn ông u buồn.
Người nào cũng chăm chăm nhìn một khoảng diện tích hẹp trước mặt mình. Người
nào cũng nhắc nhở một sự suy yếu nghiêm trọng, một sự khô héo mỏi mệt. Chỉ có
cô bệnh nhân làm mát được tâm hồn anh một chút thôi. Ngón tay nàng trắng dài.
Một tiếng cửa đóng sầm làm nàng ngửng lên nhìn. Rồi đặt tờ
báo xuống dài, nàng nói:
- Chịu. Không thể đọc được nửa trang khi óc mình không có sự
bình tĩnh.
- Đi khám bệnh cũng như đi dự phiên tòa xử án mình. Không án
nặng thì án nhẹ, chẳng mấy khi được tha bổng. Còn nguy hiểm hơn dự phiên tòa xử
án bởi vì khi ra tòa dẫu sao mình cũng biết được đại khái tội lỗi của mình. Đằng
này tới phòng khám bệnh mình phải đối diện với sự bí mật.
- Tôi bị tension… huyết…
- Huyết áp…
- Huyết áp cao. Hay xây xẩm. Tim hồi hộp.
- Đáng lẽ đó không phải là chứng bệnh dành cho tuổi trẻ của
cô.
Nàng mỉm cười:
- Thời đại bây giờ đảo lộn hết tất cả mọi qui ước. Mười ba tuổi
hút thuốc lá. Mười tám tuổi la cà ở quán rượu, tiệm nhảy. Giám khảo sợ thí
sinh. Học trò uy hiếp thầy giáo. Vậy trẻ như tôi mà bị chứng huyết áp cao thì
tưởng cũng là thuận lý.
Câu nói chứa một vị chua chát không phù hợp mấy với vẻ đẹp
đài các của nàng. Không có nét ranh mãnh nào trên khuôn mặt đó cả. Cũng không
có nét buông tuồng liều lĩnh nào.
- Bị huyết áp cao - Tuyên nói, - thì không được lo lắng phiền
não… Dẹp bỏ mọi sự bất bình. Ăn rau nhiều và uống nước lọc. Tôi chắc vậy.
Nàng phì cười:
- Bày vẽ thuốc men mà bảo “tôi chắc vậy” thì còn ai dám tin
theo nữa?
Tuyên cười theo:
- Để dành cho ông bác sĩ khẳng định “tôi cương quyết bảo thế
này”
Khi tới phiên nàng, Tuyên thấy nàng loạng choạng đứng dậy.
Đôi vai mỏng lọt qua khung cửa. Cánh cửa sơn trắng nhẹ nhàng khép ở sau lưng.
Không một tiếng động. Tự nhiên anh rùng mình. Bao nhiêu bệnh nhân đã nhẹ nhàng
đi qua khung cửa hẹp rồi sau đó đi về một khoảng không gian khác. Sẽ đến lượt
nàng?
Thì giờ trôi qua rất chậm. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ
treo tường nghe rõ mồn một trong sự im vắng của tâm hồn khiến Tuyên có cảm tưởng
là thời gian đang rơi từng giọt. Dự thẩm còn đang hoàn tất hồ sơ hay chánh án
và phụ thẩm đang nghị án? Huyết áp cao. Chắc còn có gì hơn nữa.
Nàng bước ra khỏi phòng, môi mím lại, nghiêm trang. Tuyên đứng
dậy:
- Cô… không sao chớ?
Nàng gật đầu:
- Cám ơn ông. Lại huyết áp…
Tuyên tiễn nàng ra đến cổng dưỡng đường. Nàng bước lên xích
lô, cúi đầu chào anh và nói cám ơn.
Sau đó anh gặp lại nàng đôi lần nữa, một lần ở phòng triển
lãm họa phẩm của người bạn họa sĩ quen, một lần ở bữa cơm do hội Việt Mỹ địa
phương tổ chức. Lần này nàng đi với một người đàn ông. Ban tổ chức giới thiệu:
Ông bà Trưởng ty Lê Văn Phúc.
Sự kiện thật đột ngột, Tuyên đinh ninh là nàng chưa có chồng.
Hôm gặp ở phòng triển lãm, nàng nói chuyện nghệ thuật hội họa với anh và chọn bức
họa “Một mình” làm bức mà nàng ưng ý nhất. Tuyên nói:
- Tôi sẽ mua tặng cô bức họa đó nếu cô vui lòng nhận. Về với
cô, nó sẽ không còn cô đơn nữa.
- Cám ơn lòng tốt của ông. Xin hẹn một dịp khác vì hiện giờ
tôi còn có… có vài điều… chưa yên.
Biết rằng anh bị phật ý, nàng đẩy nhẹ anh cùng đi về một góc
phòng, chỉ cho anh xem một bức họa thiếu nữ với tay chân dài ngoẵng rồi nói:
- Tôi tiếc không có được những cánh tay dài như thế kia.
Tuyên nhìn nàng chưa hiểu. Nàng nhếch một nụ cười làm mấy nếp
nhăn vẽ ở khóe miệng:
- Cố nhiên là tôi muốn nói nghĩa bóng.
Hôm nay anh mới hiểu ý nghĩa câu đó. Một người đàn bà đã có
chồng thì cánh tay không thể dài được. Mình ở quá tầm tay của nàng. Vô lý, một
thiếu nữ như vậy lại là người đàn bà có chồng.
Một anh bạn ngồi cạnh Tuyên thấy anh lưu ý nhìn nàng liền hỏi
khẽ:
- Có quen?
- Không.
- Tên là Lệ Châu.
- Bà Trưởng Ty Lê Văn…
- Phải. Tên là Lệ Châu. Đẹp đấy nhé. Chỉ hơi gầy một chút. Mới
gầy hồi mới lấy chồng.
- Cặp đó trông xứng…
- Chớ tưởng bở. Con vợ nát ruột mà phải làm bộ mặt tươi tỉnh
ngồi cạnh thằng chồng mà nó không yêu.
- Anh có thể nói rõ ràng hơn một chút.
- Lệ Châu đang học ở Văn Khoa thì ông bố bị một vụ vu khống lớn
phải ngồi tù và sạt nghiệp. Hồi đó người ta tha hồ sáng chế ra tội trạng. Nàng
Kiều thời nay phải bỏ học, phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc tội cho cha.
Mã Giám Sinh ngồi lù lù cạnh nàng đó. Sau này phát giác ra thì Mã Giám Sinh
chính là một tay em trong bè lũ vu khống.
- Nhưng tình yêu xóa bỏ thù hận.
- Nếu được như vậy thì cũng an ủi đôi phần. Đằng này ông chồng
là một tay vừa cả ghen vừa vũ phu.
Lệ Châu tránh tia mắt nhìn của Tuyên. Nàng ngồi thu hẹp hai
vai như một người phạm lỗi.
Ngày hôm sau, nàng nằm dưỡng đường. Cô y tá cho Tuyên biết
tin. Tuyên hỏi:
- Lại chứng huyết áp cao?
- Vâng. Có thêm tim yếu.
- Tôi chắc bệnh tình không đến nổi trầm trọng.
- Thường thôi. Cứ độ vài ba tháng, cô đến nằm ở dưỡng đường
mươi ngày. Có lẽ cốt để tìm sự yên tĩnh nghỉ ngơi nhiều hơn là cần thuốc tiêm
và thuốc uống.
- Khung cảnh bệnh viện không có gì êm đềm vui tươi hết.
- Điều đó còn tùy thuộc ở căn phòng mà mình chiếm. Cô Lệ Châu
thì luôn chọn căn phòng cuối cùng ở cánh tả lầu nhất. Phòng đó mở nhìn xuống một
bãi cỏ và được bóng râm của một cây trứng cá làm im mát cả ngày. Cứ vào chặng
tám giờ sáng lại có một đôi chim vành khuyên ríu rít bay đến lượn giữa cành lá
để tìm sâu.
- Một phòng có nhiều tiện nghi như vậy thì chắc chẳng mấy khi
vắng khách.
- Cũng có lúc. Khi phòng bận có người nằm thì cô dặn bao giờ
khách lành mạnh dọn đi thì bảo cô biết để cô đến.
- Nằm bệnh viện mà y như đi nghỉ mát dặn dành phòng trước.
- Đối với cô, có lẽ đúng như vậy.
Tuyên gửi tiền nhờ cô y á mua một bó lai ơn thật đẹp để cắm ở
phòng nàng. Liền sau đó cô y tá đến gặp anh:
- Cô Lệ Châu cảm ơn sự ân cần của ông.
- Đó chỉ là một chút xã giao thông thường.
- Cô mời ông, ngày kia có rảnh thì ghé lại phòng cô.
- Ngày kia? Ngày ba mươi?
- Vâng. Mười giờ sáng. Cô hẹn như vậy.
Ngày ba mươi Tuyên đã lỡ tay đập ngã con ong vò vẽ. Anh đã lặng
lẽ hối hận ngồi nhìn nó quằn quại trong niềm đau đớn tuyệt vọng. Và anh thẫn thờ
tự nói với mình: khi người ta yêu một cái gì thì người ta trở nên độc ác tàn bạo
trong việc chiếm giữ độc quyền vật mà người ta yêu. Con ong không có tội gì hết.
Hoa mai đó là của nó, của núi rừng sinh sản ra để dành cho nó, làm món ăn, làm
nguồn sinh sống cho phần nó. Mình chỉ là kẻ cướp đoạt. Mình không có quyền…
Lệ Châu ơi, tôi không có quyền, tôi không muốn làm kẻ tước đoạt.
Tôi không muốn vì yêu em mà trở thành kẻ bạo tàn. Chiều ba mươi Tết, tôi cầm bức
thư của em xót xa bức rức nửa muốn nghe theo tiếng nói của lương tâm, nửa muốn
chạy vù đến tìm em rồi mặc cho cuộc đời muốn ra sao thì ra. Tôi thẫn thờ thắt
ca vát rồi tháo ca vát, khóa cửa rồi mở cửa, lên xe rồi xuống xe. Tôi đi tới đi
lui, ngồi xuống rồi đứng dậy. Tôi biết nếu tôi tới với em lúc này thì chúng ta
không thể nào ngăn cản khỏi mắc vào một mối tình tội lỗi. Nhất định là em sẽ
ngã vào cánh tay tôi, nhất định là tôi sẽ hôn nhiều lần lên đôi mắt thâm quầng,
lên đôi môi nhợt nhạt của em. Nhất định chồng em sẽ là kẻ chiến bại và hắn xứng
đáng với cái kết quả mà hắn phải nhận. Nhưng tôi không muốn, không muốn. Tôi
không đủ can đảm nhìn lại hình ảnh con ong nạn nhân. Nó vẫn ở góc phòng và cứ
chốc chốc lại đập cánh vù vù, uốn cong lưng bay thành vòng tròn là là trên mặt
đất.
Ngày mồng hai Tết, cô y tá bảo Tuyên:
- Sao hôm ba mươi ông không đến? Cô Lệ Châu đợi ông đến tám
giờ tối. Chồng cô đem xe đến giục về từ chiều nhưng cô lấy cớ còn tiêm thuốc,
còn thu xếp đồ đạc, còn… Mãi đến khi tiếng pháo cúng tất niên nổ rền ở dãy phố
trước mặt, khi biết chắc chắn là ông không đến cô mới chịu lên xe.
Tuyên đứng tần ngần không trả lời. Trước mắt anh, những người
đi du xuân cười nói rộn ràng. Màu áo mới lòe loẹt. Không có Lệ Châu đi trong
đó. Anh tưởng thấy nàng ngồi trong xe vặn kính kín mít. Ánh điện sáng ấm áp.
Bánh xe lăn nhẹ nhàng và nàng quay lui chăm chăm nhìn lại con đường dẫn tới dưỡng
đường nơi đó nàng còn nuôi hy vọng thấy bóng anh hăm hở lao xe vút đến tìm
nàng.
(1) Nhân vật chính của tiểu thuyết Trà Hoa Nữ.Con Đường Gaion gái mà học ban B là không hợp cách. Ban B đòi hỏi lý luận
chính xác, áp dụng công thức, làm cho tâm hồn con người khô khan đi, chỉ chúi
mũi vào vẽ, tính, đặt phương trình, giả thiết…- Nói chuyện với một cô bạn học ban C thấy câu chuyện đậm đà
ý vị. Còn nói với mấy chị ban B…- Học ban B sau này đi các ngành kỹ sư mới có lợi. Nhưng con
gái làm kỹ sư thì đâu có tiện? Học ban A để đi dược khoa, y khoa.Đại khái đó là những ý kiến của các ông bạn ba tôi nói chuyện
oang oang ở phòng khách. Tôi ngồi ở bàn học trước quyển Vật lý và tự mình mò mẫm
học lấy. Niên khóa bắt đầu quá chậm và chấm dứt quá sớm. Tháng Tám giáo sư còn
lo đi chấm thi. Tháng Chín biểu tình xuống đường. Chính phủ độc tài thì biểu
tình chống đối. Khi lung lay cho họ ngã được rồi thì lại biểu tình để ủng hộ
Chính phủ mới. Nhiều môn học, giáo sư cố gắng dạy đến bốn phần năm chương trình
là cùng. Thế cũng là may. Có năm, có món, chương trình in dài đến ba tấc mà
giáo sư chỉ thanh toán được chừng tám phần. Nhiều lý do xác đáng đã đẩy trách
nhiệm đó về tận Sài Gòn. Đó là cớ thiếu thầy, Bộ Giáo dục bổ dụng giáo sư và điều
động giáo sư quá chậm chạp. Niên khóa bắt đầu vào tháng Chín mà có môn mãi đến
tháng Mười Một mới có một cô giáo rụt rè đến, nhận lãnh môn dạy một cách miễn
cưỡng bởi lẽ cô học ban Lý hóa mà trường bắt dạy Toán hay Văn chương. Hơn nữa,
cái thành phố nhỏ này không hấp dẫn được ai hết, nóng như thiêu đốt. Những mặt
bàn lát bằng ván ép cong lại như con tôm đất bỏ vào chảo dầu sôi. Phi cảng thì
còn nằm trong vòng dự án xây cất. Đường ô tô bị chặt từng đoạn, giao thông với
các tỉnh lớn phải nhờ ở các thuyền buồm và ghe máy. Chúng tôi bảo nhau: Hãy
nhìn xuống, nhìn xuống nữa để mà tập bằng lòng. Có trường có lớp tại chỗ để mà
học vẫn còn hơn là phải đi tỉnh xa ăn ở trọ. Ba tôi thường an ủi tôi bằng cách
kể lại những mẩu chuyện hồi nhỏ đi học xa phải ăn cơm trọ:- Tao thấy một bộ răng đủ (đủ cả răng cửa, răng nanh và răng
hàm), một nha thức gồm 32 cái thật vô ích đối với một học sinh đi ở trọ. Vì lẽ
lũ tao có bao giờ nhai đâu? Ít nhất là trong thời gian thanh toán bát cơm thứ
nhất, lũ tao chăm chăm vơ đũa thật nhanh chọn gắp miếng ăn thật ngon rồi và lấy
và để. Khi mọi đĩa thức ăn đã hết sạch rồi tình hòa hiếu mới tái lập trở lại. Vừa
nhai chậm chạp vừa kể chuyện vừa pha trò. Dưa món, nước cá kho, nước mắm… không
đòi hỏi phải tranh giành, chiếm đoạt.Em tôi nói:- Ba nói quá. Học sinh gì mà tệ vậy? Nhất là hồi xưa, hồi thời
của Ba người ta “tiên học lễ, hậu học văn…”Ba tôi cười:- Cố nhiên là tao có nói quá đi. Nhưng nếu tao không dọa cho
bay sợ thì bay cứ đòi đi Huế, Đà Nẵng mới học được.Tôi chọn ban B vì thích lý luận chính xác, thích những lời giải
không ai có thể nói trái lại được. Như thế kết quả đúng hay sai rõ ràng cụ thể
ra đó. Không thể nói quanh co dài dòng và quan niệm linh động đến mức mâu thuẫn
nhau được. Tuy nhiên, quyết định chọn ban cũng do ảnh hưởng của Ba tôi một phần.
Ông kể hồi đi học giáo sư Math (1 ) hay miệt thị học sinh Philo (2 ) Trong lớp
Math, nếu có học sinh nào lười hoặc kém là giáo sư hay dọa bằng câu: “Nếu anh
không cố gắng thì tôi cho anh xuống lớp Philo”. Sao lại xuống? Sao không nói
“qua lớp Philo?” Sao dám chắc rằng bên Philo giáo sư sẽ nhận người học sinh
này? Descendre en Philo! Vô lý thật.- Nếu thời bây giờ, - Ba tôi tiếp, - thì anh em học sinh ở
ban Philo dám xuống đường biểu tình phản đối lắm.Nhưng học Toán mà không thể theo học những lớp riêng, những lớp
tối thì thật là điều khổ tâm. Học ở trường không đủ. Toán tập làm không hết.
Giáo sư hoặc dạy quá chậm hoặc quá mau. Thời gian như cái khung ảnh chật mà
chương trình là tấm ảnh quá lớn. Phải cắt xén mọi bề mà vẫn không lồng vào được.
Tôi quằn quại một mình với những chương Toán, Lý Hóa còn sót lại. Hỏi bạn thì đứa
nào cũng mờ mịt như nhau. Học thêm ở lớp tối thì không tiện vì nhà tôi ở mãi tận
ngoại ô, đi về xa xôi. Ba tôi chữ nghĩa không còn rớt lại được bao nhiêu. Mỗi lần
mó đến định lý, công thức thì ông loay hoay ngồi nhắm mắt gật gù, tập trung trí
nhớ. Những ngày gần thi, ông buôn bán lỗ lã nên hết châm điếu thuốc này đến
châm điếu thuốc khác. Nếu không gặp ông ngồi bóp trán trước những dãy con số
thì thấy ông nằm lăn trở trên giường. Chiến tranh chặt đứt đường giao thông. Mười
lăm chuyến xe chở đầy bắp su, cà rốt từ Đà Lạt xuống đành nằm chết ở Nha Trang,
chịu không thuê được tàu thủy chở đi. Ngày nào cũng có điện tín màu xanh đến.- Xuống đủ mười lăm xe. Stop. Tàu thủy chưa được. Stop.- Gởi gấp hai mươi lăm ngàn.- Rau úng bỏ ba mươi phần trăm. Stop. Cho biết quyết định.Những bức thư tay ghi rõ chi tiết, đọc lên bi đát hơn. Rau
thúi đổ từng đống. Không có kho để chứa. Bán lỗ lã ở các chợ. Nhà vườn thúc tiền.
Tài xế thúc tiền. Ba tôi ăn cơm hết được. Ngồi đâu thì ngồi yên một chỗ mặt gục
nhìn xuống. Có lần ông nổi cáu la tôi:- Tao lo lắng mệt ăn hết nỗi mà tụi bay không đứa nào thèm
lưu ý đến tao. Ít nhất bay cũng phải pha sữa bắt tao uống hoặc sai chị bếp nấu
cháo nấu mì cho tao. Ngày nào bay cũng bắt tao ăn cơm…Tôi đang loay hoay với định luật Berthollet chưa biết hỏi nhờ
ai giảng mà ngày thi chỉ còn cách ba bữa, nên quay lại:- Ba muốn uống sữa thì ba sai…- Muốn, muốn cái gì? - ông ngắt lời tôi. Tao đâu phải là con
nít mà muốn uống sữa? Tao mệt không ăn được thì bay liệu săn sóc tao một chút.- Chớ ba tưởng con không mệt sao? Người ta học thì có má nấu
chè hột sen với đường phèn cho ăn. Hầm bồ câu cho ăn. Ninh chân giò cho ăn. Còn
con, chẳng ai lo cho con hết. Ba còn rầy con nữa.Ba tôi ngồi lặng im. Rồi chợt cười xòa:- À, tao rầy oan. Tụi mình cùng một cảnh ngộ, khổ như nhau,
thôi chẳng ai trách ai được hết.Tôi hối hận vì câu nói của mình, nhất là khi nghe Ba tôi hồn
nhiên nhận lỗi. Săn sóc cái ăn cái uống cho con, người đàn ông đâu có lo chu
đáo được, nhất là trong những lúc buôn thua bán lỗ. Ba tôi chỉ biết lo mua sữa
mua đường, bánh ngọt, bơ, dầu cá. Thế giới mua sắm của ông là con đường vòng
tròn đó. Quả tình có một người mẹ thì sung sướng hơn nhiều. Hôm nọ đến nhà thăm
cô Bảy, tôi nghe cô nói về người con của cô:- Thằng Ngoạn hắn học cả đêm. Nhiều bữa hắn gục thiếp đi trên
bàn. Cô phải đi rón rén nhẹ nhàng đặt ly chè bo bo bên cạnh đó cho hắn.Tôi nghĩ thầm: Sung sướng thay là khi học thi mà có người mẹ
dịu dàng như vậy. “Gục thiếp đi”, những lời đó nghe mới êm đềm trìu mến làm
sao. Bảo rằng “nó ngủ gục trên bàn” thật là tội nghiệp cho người ngủ. Tôi nhớ
ba tôi cứ khi nào thức giấc thấy phòng tôi còn mở đèn sáng là ông cất tiếng:- Ê! Một giờ khuya rồi. Ngủ đi. Học nhiều bệnh đó bay.- Tụi nó học đến ba, bốn giờ sáng.- Kệ tụi nó.Có nhiều đêm tôi ngủ gục trên bàn nhưng có ai nói rằng tôi
“đã mệt quá đến thiếp đi”?Cách ngày thi hai hôm, tôi đi tìm số ký danh, số phòng thi và
địa chỉ điểm thi. 1892. Con số của Định Mệnh. Nó sẽ gắn liền với tên tôi, mang
lại vận may hay số rủi? 1892. Y như mua vé số kiến thiết người ta nhìn những
con số đã mà hy vọng. Căn cứ vào đâu để mà hy vọng thì không ai trả lời được,
tuy vậy người ta vẫn cứ ngờ ngợ để mà hy vọng. Địa điểm thi và phòng thi không
làm tôi an tâm. Thi ở trên lầu thì chẳng trông chờ gì được ở sự viện trợ bên
ngoài. Ngày thi Trung học vừa rồi, ở trung tâm trường Nữ, thí sinh tha hồ nghe ở
bên ngoài người ta đọc to lời giải bài Toán, bài Sinh ngữ. Thi ở trường Tiểu học,
ở từng dưới có nhiều hy vọng hưởng những sự may mắn như vậy. Nhất là ở trường
nào có một cái sân hẹp, có nhà đồng bào cất sát bên tường.Con Cảnh, một con bạn hỏi tôi:- Mày ngồi gần đứa nào? Trai hay gái?- Một trai một gái. Trước tao là Lâm Bá Thông và sau tao là
Lê Thị Thun.- Con gái thì chẳng trông nhờ được gì. Ít đứa giỏi Toán lắm.
Mày có thể nhờ ở thằng Thông.- Sao biết nó là “thằng”? Lỡ một ông già thì sao?- Ít khi gặp ông già. Ông già thường thì thi ban C. Vả lại thằng
Thông tao có quen. Nó học ở bên Trần Quốc Tuấn. Giỏi Toán một cây. Được phần
thưởng cuối năm.- Mày nói trước với nó, khi nào tao bí nó cho tao coi với.- Được. Tao sẽ đi lùng tìm nó.Tôi tự thấy xấu hổ khi nghĩ đến sự nhờ vả. Ai có kinh nghiệm
thi cử đều trông chờ những người học giỏi ngồi cạnh để nhờ vả đôi chút. Hỏi đáp
số bài Toán để được an tâm khỏi phải mò mẫm thử lại. Hỏi một chữ bí. Nếu gặp
giám thị tử tế, có thể liếc nhìn cả bài Công dân giáo dục, bài Sử Địa. Có bà
con với nhân viên lập danh sách thí sinh không phải là điều vô ích. Thằng Thúc
vô tình đã lộ bí mật ấy cho tôi biết. Đỗ Trung học xong, nó đi Sài Gòn học hai
năm, đệ Tam và đệ Nhị. Kỳ thi Tú tài nó về đây thi. Hỏi vì sao phải lặn lội
gian khổ vậy, nó không nói. Nhưng hôm sau tôi dặn nó hễ làm được bài thì nhớ để
cho coi nếu như tôi bí, nó trả lời:- Chắc không được đâu.- Sao lại không? Mày tên Thúc, tao tên Thu, thế nào cũng ngồi
cạnh. Chẳng lẽ có đứa nào tên Thù tên Thú, hay tên Thua, ngồi chen ở giữa. Hay
là mày ích kỷ?Mặt nó nhăn lại, thiểu não. Nó ngập ngừng một hồi lâu. Tôi dằn
giọng:- Sao?Và nó nói nhỏ:- Chú mình nhờ văn phòng xếp cho mình ngồi giữa thằng Thanh
và thằng Thuận hai thằng này giỏi Toán lắm. Ba đứa ngồi chung một bàn.- Sao lại xếp được? Tao tưởng phải theo thứ tự A, B, C.- Có lẽ chỉ theo ở những chữ đầu tên. Còn những chữ ở giữa
thì tùy nghi.Tùy nghi! Tôi muốn kêu lên như bà Roland: “Hỡi chữ “Tùy
nghi!” Người ta phạm bao nhiêu tội lỗi vì mày”.Ngày đầu thi Việt văn. Khi tôi ở phòng thi về, Ba tôi hỏi
cách bố cục bài Luận. Tôi trả lời mới nửa chừng, mới được nửa phút thì ông đã
giơ tay ra hiệu ngăn lại.- Được rồi. Con làm đủ điểm trung bình. Lo coi lại Toán đi. Gọi
chị bếp múc chè hột sen cho mà ăn. Ba đã dặn chị nấu chè cho con đó.Ba tôi cúi xuống nhìn trang giấy viết dở dang. Cạnh đó, bỏ rải
rác những điện tín và thư. Ông đang ngụp lặn giữa những sóng gió tài chánh.Tối đó, khi sắp chia tay đi ngủ, Ba tôi bùi ngùi nói:- Con lo nhất là Toán và Lý Hóa vì hệ số lớn. Con có thể cầu
nguyện để má con phù hộ cho con.Tôi trả lời:- Con có cầu nguyện má mấy lần nhưng má chẳng giúp gì được hết.
Hồi thi vào đệ Thất, má để con rớt chổng cẳng.Chắc Ba tôi không tin rằng khi cầu nguyện thì linh hồn người
thân sẽ về giúp đỡ phù trì mình. Chắc Ba chỉ muốn gợi lên một không khí gia
đình để tôi thêm vui, thêm bạo dạn tin tưởng mà vượt chướng ngại, ngày mai.Bài Toán và bài Lý Hóa, tôi làm không hoàn toàn. Đáp số bài
Toán đáng chia 2 thì lại không chia, đáp số bài Lý Hóa đúng ra không chia thì lại
chia 2. Ngồi trong phòng thi thấy không khí ở bên ngoài như loãng hơn, trong
hơn, mát hơn. Thằng Thông có tiếng là giỏi Toán ngồi viết vèo vèo. Mặc kệ những
người ngồi kề quay mặt sang hỏi, nó làm như không nghe không thấy. Thật là một
tên làm ăn chí thú, gương mẫu trong sự ích kỷ. Chắc chắn nó sẽ thành một công
dân có phiếu lý lịch số 3 trong sạch, một viên chức nhà nước mẫn cán bởi tính rụt
rè nhút nhát.Bước ra phòng thi, nghe người ta nói bô bô đáp số, tôi muốn
rã rời người ra, đầu óc cơ hồ như đang quay. Tôi lẩm nhẩm tự cho điểm mình: Việt
văn 11, Toán 9, Lý Hóa 13. Rồi hạ bớt xuống: Việt văn 10, Toán 8, Lý Hóa 11.Ba tôi đi về thấy tôi nằm im thin thít trong giường, liền hỏi:- Sao mà xẹp đi vậy? Bộ rớt rồi hả?Tôi cự nự:- Chắc rớt.- Thôi, lo học lại để thi kỳ II, - giọng nói của ông đủng đỉnh.- Kỳ này không đỗ thì kỳ II còn hy vọng gì.- Thế thì phải hy vọng ở kỳ này. Con còn thi món nào nữa?Tôi kể lể:- Còn Vạn vật, Sử Địa, Sinh ngữ.- Hãy cầu cho thoát loạt I cái đã. Đâu, lấy cuốn Vạn vật ra
đây. Bố con cùng học.Ba tôi chọn những bài “có vẻ đáng ra” rồi đọc to từng chữ, đọc
chậm rãi vừa giảng vừa lặp lại. Tôi lặp lại theo, tối đó hai cha con thức thật
khuya cùng học chung những phôi tâm, noãn khổng, thai tòa, dissaccarit, nhu mô,
chu luân… Đã bảy năm nay rồi, ba tôi không còn học dùm cho tôi nữa. Ngày tôi
còn ở lớp Nhất, lớp đệ Thất, đêm nào Ba cũng phải ngồi học chung với tôi ít nhất
nửa giờ. Có Ba học thì mau nhớ. Có tình thương bàng bạc trong giọng nói, trong
tia mắt nhìn, trong dáng ngồi che chở bảo vệ của Ba.(1) Toán(2) Triết họcThi xong loạt I và loạt II tôi thấy nhẹ người. Đằng nào thì sự
việc cũng đã xảy qua rồi. Có hối tiếc một chút là: nếu như cho mình bình tĩnh
làm lại thì bài làm sẽ đúng hơn, hay hơn.Hễ cha con có chút thì giờ rảnh là ngồi lại tính toán.- Bài luận đó, ba cho mạt lắm cũng 8 điểm trên 12. Cho điểm
trên 12 lợi lắm. Giáo sư ở trường thường cho điểm trên 20 nên họ quen tay quen
óc, cho theo thói quen. Tính sang điểm trên 12 thì thí sinh có lợi.Tôi ầm ừ, chưa tin lắm ở lý luận lạc quan ấy. Ba nhìn sang,
thấy vẻ hoài nghi của tôi, liền hỏi:- Thôi. Được rồi. Bài Luận cứ cho 6 điểm là ít nhất đi. Câu hỏi
Giảng văn con đúng được 6 điểm nữa là 12. Lợi 2 điểm, nhân hệ số 2 thành 4.Thấy bộ dạng hăng hái dứt khoát của ông làm như điểm số 12 là
một sự có thật nên tôi cười.- Sang đến Toán. Con nói có hy vọng được 10 điểm.- Đâu có, - giọng tôi lừng khừng.- Hôm qua con nói đó.- Con hỏi lại bạn bè và thầy giáo, càng hỏi càng thấy con sai
nhiều chỗ nữa.Gương mặt Ba tôi đăm chiêu. Mấy vết nhăn ngắn cày sâu khoảng
giữa hai đường chân mày.- Thế bây giờ con đoán được mấy?- Chừng 6 điểm.- Ít vậy?- Nếu họ chấm cẩn thận coi theo cái marche của bài Toán con
làm thì có hy vọng được 9 điểm.- Theo dõi cái marche thì ít giám khảo nào theo dõi lắm. Năm
nào đề thi ra khó, thí sinh rớt nhiều thì họa may họ chấm cẩn thận để cứu vớt.
Bài thi năm nay theo dư luận chung thì có khó không?- Con nghe người ta nói là vừa phải.- Con nghĩ rằng giám khảo có thể cho lên được 7 điểm.- 7 điểm thì được.- Nếu vậy thì tốt. Con sẽ thiếu 2 điểm. Nhân hệ số 4 thành 8.- Thiếu tới 3 điểm chớ, Ba.
- Ba không nghĩ vậy. Chẳng lẽ Hội đồng không vớt sao? Ít nhất
cũng phải vớt 1 phần mười số điểm. Cần đủ 110 điểm mới được chấm loạt II, vớt 1
phần mười tức là còn 99 điểm. Thực ra thì đây chưa gọi hẳn là vớt được. Coi như
cho thí sinh mượn 11 điểm để sang loạt II nếu họ đủ điểm thì bắt trả lại. Vớt
là khi cộng điểm cuối cùng, ban cho họ dứt khoát một ân huệ.
Tôi hỏi:
- Như Hội đồng vớt 1 phần 10 số điểm thì Ba tính xem con còn
thiếu mấy?
- Lúc nãy mình tính Việt văn dư 4 điểm, Toán thiếu 8 điểm, thế
là thiếu 4 điểm. Còn Lý Hóa con nói con hy vọng được 12.
- Có lẽ chỉ còn 9 thôi. Con làm lộn câu hỏi về bậc số oxýt
hóa.
Ba tôi lại loay hoay vá víu. Điểm thi thật giống như cái áo
rách. Lấy mụn vải này chụp lên lỗ thủng kia, kéo chằng qua, nhíu hẹp lại thật
không thong thả thoải mái một chút nào cả.
- Bài Công dân giáo dục con thuộc, có thể bù qua bài Lý hóa
được. Nhưng mà… (ông trầm ngâm giây lâu) điểm của bài Công dân giáo dục tùy thuộc
ở trạng thái vui buồn của giám khảo nhiều lắm. Bài làm dài thườn thượt, chữ viết
chi chít, đúng sai khó phân biệt rõ…
Đến đây, việc “kế toán” bị treo lên bởi trạng thái vui buồn của
giám khảo không có cách nào định rõ được. Ba tôi chợt vỗ tay vào trán:
- Quên!
Tôi trố mắt đợi ông tuyên bố món bảo bối cứu khổ.
- Còn điểm lụt.
Tôi suýt cười to. Điểm lụt thì tôi đã nhớ từ hồi chưa thi. Đứa
bạn này nói: Bộ cho thêm 5 điểm lụt. Đứa kia bảo: ít nhất cũng 10 điểm vì nạn lụt
năm ngoái là một nạn lụt lịch sử, lớn nhất trong suốt 60 năm. Năm nay nghe
trong kỳ thi Tú Tài II vừa rồi điểm lụt được tính là 2 phần 10 số điểm vớt.
- Con nghe rõ là 2 phần 10 điểm vớt? Như vậy nếu vớt tối đa
11 điểm thì lụt sẽ được…
- 2 điểm rưỡi.
Ba tôi gật gật đầu:
- Cũng vừa. Thực ra thì tụi bay có bị lụt lội gì đâu? Trong
khi ở nhiều tỉnh đồng bào chết cả xóm, trâu bò nhà cửa trôi mất tích thì tụi
bay xăn quần lội nước đi chơi. Rồi lại cũng được thêm điểm lụt. Thật tụi bay gặp
may hết cỡ. Không đỗ năm nay thật là uổng. Nghìn năm một thuở.
Tôi nói:
- Ba con còn quên 2 điểm thể thao của con.
- À! Nhưng lúc này con mới thấy là 1 điểm hay nửa điểm đều có
khả năng cứu vớt người lục trầm. Hồi kia ba khuyên con thi thể thao, con chê.
Bây giờ có còn chê 2 điểm nữa không?
Cố nhiên là không, tôi nghĩ. Nhưng đâu phải tôi chỉ thiếu 2
điểm để hòng nhờ thành tích thể thao bù vào.
- Nhưng tao hỏi này, điểm thể thao và điểm lụt cộng vào kết
quả cuối cùng chớ đâu vào kết quả loại I?
Tôi trả lời chậm rãi bởi vì tôi đã hỏi chắc:
- Họ cộng vào kết quả loại I.
- Khó hiểu. Người ta bày ra chấm riêng loại I là cốt để bắt
người thí sinh phải giỏi, phải chuyên, phải xứng đáng với một ngành nhất định,
hoặc là Toán, hoặc là Văn chương, hoặc là Khoa học. Tao chưa hiểu vì sao việc
chạy nhảy, leo giây ném tạ lại có liên hệ với môn Toán của mày. Nhưng chẳng sao
miễn là có lợi cho mày thoát qua loạt I.
Cứ như thế đêm nào ăn xong cha con tôi cũng ngồi bàn tính về
điểm. Mỗi ngày số điểm dự tính mỗi gầy dần đi bởi tôi cứ mỗi ngày mỗi phát giác
ra thêm những khiếm khuyết, những sai lầm trong bài thi của mình.
Một ông giám khảo quen cho ba tôi biết:
- Bộ công điện báo chấm nới điểm giảng văn vì câu hỏi thuộc
chương trình ban C. Những bài đã chấm rồi, điểm đã cộng rồi, chỉ còn có cách là
vớt tối đa.
“Vớt tối đa” ba chữ này cứ hiện ra, sắp hàng ngay ngắn trong
óc tôi như những khẩu hiệu “Ấp chiến lược là quốc sách” tôi gặp liên miên trước
đây khi đi về nhà quê chơi.
Vừa thi xong hai ngày thì bắt đầu có tin đồn. Người này mách
“Ban C vớt 6 điểm. Đỗ loạt I được 25%. Người kia than thở: “Ban B nhiều người bỏ
cuộc. Vớt đến 8 điểm mà chỉ đổ được 14%. Tin đồn bao giờ cũng mâu thuẫn nhau.
Tôi không tin mà vẫn muốn nghe. Nhưng tin đồn chằng chịt đan dày như mắc lưới
và tôi là con cá nạn nhân vùng vẫy trong đó. Nguyệt nó thi ban C nghe loạt I dư
đến 25 điểm. Tôi cứ dằn vặt mình: Giá hồi đó mình thi quách ban C như Nguyệt.
Ba tôi vỗ về:
- Con gái có đỗ trước một năm cũng không cần thiết như con
trai bởi vì con trai thi đỗ thì để hoãn dịch để tiếp tục học. Con gái không có
mối lo quân dịch.
Những lý luận đó không làm tôi an tâm hơn. Tôi chỉ muốn biết
dứt khoát: Tôi có qua được loạt I không?
Ba ngày sau, tin đồn có vẻ thống nhất hơn. Ban B được vớt tối
đa. Điểm đã cộng, đã ghi vào phiếu điểm và Hội đồng đang chọn những phiếu có đủ
99 điểm.
Ba tôi xách xe ra đi. Nửa giờ sau, ông quay về. Tôi ngồi ở
bàn nhìn thẳng ra, nhướng mắt ra dấu hỏi. Ông bặm môi lặng lẽ đi vào. Đi ngang
qua tôi ông ném mạnh cái mũ xuống bàn, nói lớn:
- Đỗ.
Thật hay dối? Dối? Chẳng có lẽ. Ai nói dối một kẻ thất bại? Nếu
đỗ mà nói hỏng thì có thể được. Mặc dù nghĩ vậy, tôi cũng không thể không hỏi:
- Ba không nói đùa?
- Nói đùa sao được. Đây là số điểm.
Ông móc ở túi áo sơ mi một mảnh giấy nhỏ rồi đọc Việt văn 8,
Toán 32, Lý hóa 33, Công dân 26, Thể thao 2, lụt 2 rưỡi. Dư điểm đỗ.
Tôi không biết nên giữ một vẻ mặt như thế nào cho hợp lý,
đành cười một cách vô duyên. Và nói một câu cũng vô duyên.
- Còn loạt II nữa.
Không kịp biểu lộ cái vui, vội vàng bấu vào cái lo, lúc nào
cũng lo, cũng hoài nghi, cũng hồi hộp.
- Loạt II mà cũng còn sợ nữa? Vậy mà dám bảo thi ban C thì đỗ
như không.
- Ở đời may rủi biết đâu. Lỡ bài của con bị mất. Phiếu điểm của
con bị thất lạc. Thư ký cộng lộn…
Ba tôi nhún vai:
- Thật y như má mày ngày xưa. Đi nhà thương mổ về, cứ lo ngay
ngáy là không biết ông bác sĩ có bỏ quên một cái kéo hay một cái kềm trong bụng
không? Rồi hỏi tao xem có lưu ý đến đủ số kéo và số kềm ở trên khay mổ hay
không.
Tôi tin ở hai bài Sinh ngữ. Không thể dưới 14 điểm. Tuy vậy,
tôi vẫn cứ đòi hỏi có ba tôi ngồi hí hoáy tính toán đủ thiếu với tôi, tôi mới
thấy yên lòng.
Qua ngày hôm sau thì tin đỗ dứt khoát truyền lan tới tấp. Thằng
Hắc đỗ. Con Tùng đỗ. Trinh, Thi, Lan, ba đứa đẩy cửa nhà tôi ùa vào như một ngọn
lốc:
- Mày đỗ rồi. Mày đỗ rồi.
- Thiệt hả?
Thi chạy đến đấm thùm thụp vào lưng tôi:
- Mày còn giả vờ hỏi nữa. Mày có đỗ tao mới đánh. Hễ tao sướng
là tao ưa đánh lắm.
Bốn chúng tôi ngồi nói nhảm với nhau, cười to hơn mọi ngày và
ăn đủ thứ quà. Tha hồ đau bụng. Có trúng thực nữa cũng được. Trong bốn ngày thi
và ba ngày trước đó, tôi ăn uống kiêng khem cẩn thận, chỉ sợ đau bụng phải bỏ
cuộc.
Tôi báo tin đỗ cho Ba tôi nghe. Bữa ăn tối đặt trước mặt
chúng tôi. Ba tôi nhận tin, không cười cũng không nói. Chắc lại có một tin xấu
nào vừa đến với ông. Đêm qua ông thức khuya. Sáng nay thằng nhỏ ở mang bốn, năm
tờ điện tín đi xuống Bưu điện. Hồi trưa có điện thoại của Việt Nam Thương tín gọi.
Hồi xế hãng vận tải Nam Kiều cho tin: hàng hóa ở chành, chưa bốc xuống tàu được.
Tôi tiếc sao đã báo tin vui vào một lúc ba tôi không lưu ý đến tôi. Có lẽ ba
tôi cũng chưa nghe rõ tôi vừa nói gì nữa. Ông lặng lẽ nhìn cốc bia sủi bọt đặt
ngang tầm tay. Rồi thay vì đưa tay ra cầm cốc, ông chõi hai cánh tay tựa lên
mép bàn. Ông đằng hắng một tiếng nhỏ chậm rãi nói:
- Trong một ngày vui lớn như hôm nay mà thiếu mất má con, cái
vui không còn trọn vẹn nữa. Đáng lẽ phải có má con hãnh diện nhìn vào công lao
bú mớm săn sóc của mình nay có kết quả. Ba lăn lộn với đời nhiều nên cái vui mất
đi tính chất hồn nhiên. Chắc chắn là má con mới là kẻ vui nhiều hơn hết khi
nghe được tin con đỗ. Và chắc chắn là con cũng sẽ vui nhiều hơn nữa nếu có má
con bên cạnh. Má con… má con chỉ nếm được cái cực nhọc của thân phận làm mẹ mà
chưa nếm được niềm vui… Từ nay trở đi, bao nhiêu thành công và bao nhiêu thất bại
trên đời chỉ có chúng ta lẻ loi chia xẻ cùng nhau.
Ba tôi ngừng nói, quay nhìn trầm ngâm ra sân. Có phải là ông
đang theo dõi hình bóng của má tôi, mới ngày nào vẫn thường hay đi qua lại trước
hiên, cái hình bóng dịu dàng mà sau chín năm cách xa, mỗi lần hồi tưởng lại tôi
thấy đã mờ đi những đường nét.
Khoảng Mát
Trưa hôm nay, đứa con gái lớn của tôi đi học về mang theo một
tờ giấy in roneo. Nó thập thò đợi tôi ở cửa ngõ. Tôi vừa đặt mũ xuống bàn, chưa
kịp lau mồ hôi trán thì nó đã lanh lảnh có tiếng hỏi:
- Ba ơi, Ba làm nghề gì hở Ba? Uở! Sao mặt Ba đỏ vậy? Ba uống
rượu hả?
Tôi quay lại, bất ngờ vì câu hỏi. Lại có chuyện gì mới xảy
ra! Tôi hồi hộp lo lắng. Sự bất ngờ, tôi không thích vì hầu như chúng đều bất lợi
cho tôi. Nhà tôi hiện đang nghèo và trong họ hàng không hề có một ông cậu một
bà cô nào vừa triệu phú vừa không con. Ở Âu Mỹ, thần tài hay gõ cửa một cách đột
ngột quá sức tưởng tượng. Không phải chỉ có trúng số độc đắc. Người mua vé số dầu
sao cũng còn có hy vọng, cho dù rằng hy vọng chỉ bằng đốm lửa đỏ ở đầu que
diêm. Đằng này có người nằm chờ chết, - chết đói, - và bỗng nhiên người chưởng
khế gõ cửa báo tin: có một bà cô “gái già” của anh vừa tạ thế để lại một cái
gia tài, có chúc thư cho anh thụ hưởng. Tên của bà cô, anh lẫn lộn với tên của
một hiệu may y phục phụ nữ. Địa điểm nơi bà cô ở, phải lật tự điển ra tra. Tôi
cũng có một bà cô trước đây bỏ nhà ra đi hoang vì mê một ông cai Lục bộ. Cả nhà
ai cũng ghét bỏ thù hằn người đàn bà làm điếm nhục gia phong như thế. Chừng bảy,
tám năm gì sau đó, có tin bà chết vì bệnh sốt xuất huyết khi theo ông Cai đi
phóng đường ở Lộc Ninh. Không ai nói một lời thương xót. Lâu lâu có lần bà nội
tôi vô tình nhắc đến, chẳng hạn: “Hồi xưa con Tám nó hay… (cô tôi thứ Tám)…
Ngày trước, hồi con Tám nó còn…” nhưng chợt nhìn vẻ mặt lạnh lùng kín mít của
những người có mặt, bà nội tôi vội im, bỏ lửng câu nói dở dang.
Vậy thì chắc chắn như hai lần năm là mười rằng tôi không thể
mong có một bất ngờ nào mang lại hoạnh tài cho tôi. Ngược lại, mọi cái bất ngờ
đều tốn kém cho tôi hết. Chẳng hạn thằng con leo lên ghế kéo ngã bể cái bình
trà. Chẳng hạn vợ tôi làm bếp chặt nhằm ngón tay. Chẳng hạn có thông cáo của Xã
mời đồng bào hôm sau tập trung tại sân vận động để dự biểu tình. Tôi nghi kỵ Dịp
May và Thần Tài. Trung thành với tôi là những giọt mồ hôi, những suối mồ hôi đổ
cay con mắt, đổ ướt vạt áo sơ mi. Là sự mỏi nơi bắp thịt đùi, nơi thắt lưng sau
một ngày cong người ngồi trên cái yên xe và hai chân kĩu kịt nặng nhọc đạp. Là
những suy nghĩ âu lo cuộn khúc, quằn quại trong khối óc tôi. Tôi không tin ở Dịp
May.
Nhìn con tôi nghếch mặt đợi chờ, tôi nói:
- Con hỏi làm chi?
- Cô giáo bắt học trò kê khai tên tuổi… tên cha mẹ…
Nó ngắt câu nói đến đó vừa trao tờ giấy in roneo cho tôi. Đó
là tờ “Phiếu lý lịch của học sinh”. Mọi khoảng trống đều đã được ngòi bút của
nó lấp kín: tên họ học sinh, ngày sinh, nơi sinh, tên cha mẹ… Chỉ khoảng nghề
nghiệp của cha là con để nguyên.
Một cảm giác khó chịu ùn ùn dâng lên, hình như từ chặng ngực
đổ lên đầu rồi tràn ra bao trùm lấy mặt. Nghề nghiệp của cha. Nghề nghiệp của
tôi. Tôi có nghề nghiệp gì đâu? Thu tiền rác không phải là một nghề. Tôi nói,
giọng ngập ngừng:
- Con cứ ghi là… thư ký.
Thư ký! Tôi tự ngượng với mình khi, lật qua lật lại chữ “thư
ký” trong óc, tôi thấy nó vướng víu như thân phận tôi không dung nổi kích thích
của nó. “Thư ký” là để dành cho những người đi giày da đen, áo nyl-france và cưỡi
Vespa vùn vụt. Người thư ký cạo râu có bôi bọt xà phòng và đổ eau de Cologne
xoa giữa hai bàn tay trước khi đi làm. Người thư ký mời nhau hút lá Ruby, - ít
nhất là thuốc là Ruby và ngậm kẹo chewing-gum khi nói chuyện với nữ đồng nghiệp.
Tôi cách xa người thư ký bằng rất nhiều nghìn bạc. Quần kaki, áo sơ mi popeline
nội hóa. Xăng đan cao su trắng. Xe đạp cũ… Tôi…
- Sao con còn đứng đó?
- Con biên là thư ký hở Ba?
- Ừ. Hay là… Con cứ biên là “tư chức”.
Tôi lẩm nhẩm: “Tư chức”. Thôi việc gì mà thắc mắc. Cô giáo
đâu có biết tôi là ai để mà cân nhắc xem danh từ nào mới xứng hợp cho tôi.
Có tiếng vợ tôi quát to ở sau bếp:
- Để dành phần cho ba mày. Có miếng nào ngon ngon mày ăn hết.
Tiếng thằng Đức, thằng con nhỏ của tôi:
- Con chỉ ăn cái cùi. Có cái cùi thơm mà má cũng không cho.
- Cùi thơm để bằm trộn với mắm.
Quả là giọng nói của vợ tôi đã chát đi, đã chua đi như rượu
ngon đã biến thành giấm. Hồi mới lấy nhau, giọng ấy ngọt, rót vào tai như tiếng
con chim tình tự. Sự túng bấn vô tình đã là thứ vi khuẩn Myco-derma aceti.
Tôi bước trở vào nhà sau. Thằng Đức, con Thúy Bình chạy ùa ra
mừng. Tôi chọn những chữ thật đẹp để đặt tên cho con. Đó là món hàng xa xỉ độc
nhất mà tôi có thể sắm cho chúng. Đặt tên đẹp không phải tốn tiền. Chỉ cần tra
tự điển. Ít nhất chúng cũng được an ủi khi mang theo người món hàng trang sức
đó. Aùo quần, giày dép, bút máy, đồng hồ, thì có thể sắm sau, khi nào có tiền.
Tôi nghĩ: công tác làm cha mẹ, mình phải chia ra từng đợt để thực hiện, y như
xây cất nhà mà chưa có đủ tiền để làm một lúc. Có người làm nhà ngang trước,
còn nhà lớn đợi làm sau. Có người làm nhà bếp nhà tiêu nhà tắm trước. Có người
chỉ lo đổ được cái nền. Lựa chọn cái tên cho con, trước tiên, cũng quan trọng
như khi xây móng. Lắm người đỗ đạt cao, làm chức vụ lớn mà trót mang một cái
tên xấu xí không còn sửa chữa được nữa khiến họ phải ân hận.
Thằng Đức khoe:
- Con đã làm được hai bài tính rồi, Ba ơi.
- Ừ.
Con Thúy Bình giật giật tay nói:
- Con đã viết tập đủ một trang. Ba lên xem.
- Ừ. Ừ. Để tí nữa ba xem.
Đi thu tiền rác quả thật không phải là một nghề. Ai cũng có
thể thay tôi được, vào bất cứ lúc nào. Tranh sống với tôi là mọi người đàn ông
đủ sức đạp nổi chiếc xe đạp và viết gẫy gọn một bức thư tình. Nhưng tôi có quyền
đòi hỏi chi hơn? Chiến tranh âm ỉ vụt nổi vụt tắt trong suốt ba năm ở quê tôi,
nay ào ạt bừng bừng như những ngọn lửa gặp gió. Mọi người chạy tản lạc bỏ cả
nhà cửa, ruộng nương. Ông Nhân, thư ký Hội đồng Xã chạy ra Đà Nẵng làm phu
khuân vác cho Hãng hàng không Việt Nam. Anh Bá hương sư ăn lương ngân sách Xã
thì chạy vào La Gi tá túc nơi họ hàng bên vợ đổ bánh bèo, bánh căng độ nhật.
Gia đình rất đông con của ông Phó tổng Vịnh tìm nơi trú ngụ không có, phải liều
dựng nhà bên bờ đường với một số đông những gia đình khác đồng cảnh ngộ. Ty Cảnh
sát lập biên bản phạt đủ tội: xây cất không có giấy phép, phạm lộ giới, chiếm đất
bất hợp pháp… Nhưng những lỗ tai quen với tiếng nổ long trời của bích kích pháo
và đạn ca nông 105 ly đâm ra lờn với tiếng nói mực thước của Luật pháp. Phạt tiền
không có hiệu quả, phải dùng đến phạt giam. Đàn ông khôn khéo lánh mặt hết để
cho đàn bà bế con nít lếch thếch theo Cảnh sát vào trại giam. Đêm đến, đàn ông
xuất hiện, dựng cột, dựng vách, lợp mái tôn. Tiếng búa đóng đinh chan chát.
Như ở trong chuyện cổ tích, cái khu phố bí mật này dựng ra
toàn trong đêm đen. Cuối cùng nó cũng thành lập Liên gia đại biểu như ở những
khu phố hợp pháp khác và lũ trẻ con đã chạy chơi không chút e sợ trước sân, các
bà mẹ đã vạch vú cho trẻ bú trước hiên. Thế là ông Phó tổng Vịnh yên tâm để
chuyển sang nghề làm thợ mộc.
Biết bao nhiêu bà con khác ở quê tôi phân tán đi đến những miền
nào tôi chưa biết hết. Giống như những mảnh giấy vụn bị gió lốc cuốn đi, có mảnh
bay xa có mảnh tấp gần, trên các chặng đường ra vô lên xuống, họ đều hiện diện.
Và xơ xác như những mảnh giấy.
Vậy đích thực là tôi không có quyền lựa chọn. Tôi bằng lòng với
thân phận mình lọc cọc trên một chiếc xe đạp lở lói. Khu hoạt động của tôi là một
khu tân lập trước đây là bãi cát hoang và nghĩa địa. Từ ngày có phong trào di
cư, người đến đông ở chật thành phố nên chính quyền phân lô cấp những khoảnh đất
cát đầy mồ mả và gai ma vương móc ó này cho những tân nghiệp chủ. Nhà mọc lên
thay thế những ngôi mộ. Người sống giành chỗ của người chết. Đường cái chỗ lồi
chỗ lõm, xe tôi phải nghiến răng ken két để leo lên những cái dốc liên tiếp.
Nhiều lần đang xổ dốc ngon trớn bỗng chạm vào một mô đất cao, cả xe và người
tôi đánh bật thối lui tưởng như giàn xe và xương sống tôi có thể gãy đi được. Nắng
đổ xuống mặt đường hoa cả mắt. Tôi phải nhắm mắt từng chập để tưởng tượng mình
đang đi dưới những hàng cây xanh thả bóng mát yên tĩnh xuống lưng người bộ
hành. Nắng. Nắng. Nắng quanh năm.
Thân chủ của tôi không mấy người hòa nhã. Một bà di cư to béo
phục phịch tru tréo lên khi nghe tôi tự giới thiệu:
- Giời thần ơi! Nhà cháu có bỏ rác ra đường đâu mà ông bắt giả
tiền rác. Vườn nhà cháu đất trũng thành ao thành hồ, nhà cháu phải đi xin rác của
hàng xóm đổ vào cho đầy.
- Nhưng mà thành phố đã đặt ra lệ thu tiền rác, - tôi ôn tồn
ngắt lời.
- Nhà cháu nghèo ăn uống rau dưa chả có tí đầu tôm xương cá
nào vất bỏ cho xe rác cả. Gốc rau, rễ rau nhà cháu để dành băm cho lợn cho vịt
ăn. Đây, ông không tin thì xin mời ông bước ra sau…
Bà kéo tôi đi ngay ra nhà sau, không cần biết tôi có ưng thuận
hay không. Tôi phải khó nhọc lắm mới gỡ được bàn tay sức lực và cả quyết đó.
Một ông công chức thịnh nộ bảo tôi:
- Đường chưa rải đá thì luật lệ đâu lại bắt trả tiền rác.
- Dạ, đây là tòa Tỉnh thể theo lời yêu cầu của các Liên gia đại
biểu xin phái xe rác đến để dọn rác cho đồng bào.
- Cả Liên gia tôi chẳng có đại biểu nào yêu cầu hết.
Ông nhìn thẳng ra sân mà nói, không thèm ngó đến tôi nữa.
- Dạ, chúng tôi đi thu tiền rác ở xóm này đã được nửa năm nay
rồi ạ. Trước đây thì tôi đi thu ở khu Sân Bay còn khu này có người khác đi. Dạ,
thế ra từ trước đến giờ ông chưa trả tiền rác tháng nào hết?
Ông công chức im lặng, đôi lông mày vẫn còn nhíu. Nhưng không
còn vẻ giận dữ nữa mà thay vào đó là một sự bối rối, một sự lúng túng. Ông đằng
hắng thật to vừa gọi con như quát:
- Lũ nhỏ đâu. Vào lấy cái ví ra đây cho tao.
Không có ai tử tế đón tiếp tôi. Ít ai mời ngồi. Lắm khi phải
đứng ở hiên kê bút lên chiếc cặp da để viết biên lai. Nhiều nhà hẹn:
- Mời ông hôm sau đến. Hôm nay mợ cháu đi vắng.
Hoặc:
- Ông chủ đi làm không có ở nhà. Mời ông bữa khác tới.
Tôi thoáng thấy bóng của “người đi vắng” đang lục đục ở trong
bếp hoặc nói chuyện ồn ào ở nhà ngang. Nhiều nhà cửa cổng khóa kỹ gọi khan cả
tiếng mà không ai mở. Ở xóm Mới nhà nào cũng nuôi chó, nhà ba con, nhà đôi con.
Lúc nhỏ đi học tôi trót học thuộc bài Bệnh dại nên cứ thấy chó là sợ. Nhưng biết
làm sao? Chỉ còn trông nhờ nơi Số mạng.
Sau bữa cơm trưa nuốt vội vàng, tôi nằm trên chiếc đi-văng gỗ
lơ mơ nghĩ đến Huệ. Sáng nay khi gõ cửa một căn phố ở cuối đường Lê Đại Hành,
tôi giật mình khi cửa mở tôi thấy có hai người đang ôm nhau hôn. Người đàn ông
là một quân nhân Huê kỳ da mặt đỏ và tóc màu hung như râu bắp. Người đàn bà mặc
pyjami đứng cao mới đến ngực người đàn ông. Họ hôn nhau rõ lâu bất chấp có tôi
đứng đó. Khi họ rời nhau ra, người quân nhân bước vội ra sân và người đàn bà
lanh lảnh nói:
- Tu nai, nhé Johnny? Ai quây pho iu nhé? Bai bai...(1 )
Tôi giả như đang mải nhìn một khoảng khung trời xa. Khi chiếc
xe rồ máy lao vút đi tôi quay lại. Người đàn bà trân trân nhìn tôi:
- Ông… Uở, anh Bân.
Tôi ngạc nhiên:
- Dạ…
- Anh không nhìn ra em sao? Em là Huệ đây mà.
- A! Huệ - tôi reo lên.
- Có lẽ đến bảy, tám năm rồi em mới gặp lại anh.
Huệ mời tôi vào nhà. Căn nhà treo quá nhiều rèm, màn thêu hoa
vẽ hoa sặc sỡ, kín đáo như một cái hang. Mùi nước hoa thơm ngát. Mặt Huệ bôi
nhiều phấn và mi mắt có nét bút chì vẽ xếch lên khiến tôi nghĩ đến đôi mắt của
chim bạc má… Huệ đưa thuốc lá mời tôi hút rồi nàng đi vào phòng sau. Tiếng nàng
hỏi vọng ra:
- Anh uống gì để em đem ra? Gin nhé? Hay Whisky?
Tôi nói:
- Cám ơn em. Anh không uống được rượu mạnh.
- Thế thì uống Coca.
Huệ đẹp và thơm ngồi cạnh tôi.
Cốc Coca đặt trước mặt.
- Anh đi đâu vào giờ này mà ngẫu nhiên em lại được gặp?
- Ơ… Anh đi tìm nhà người quen.
- Ở địa chỉ này phải không? Chắc hắn ở đây trước em. Em mới dọn
về mười ngày.
- Người Mỹ lúc nãy là…
- Thằng chồng em đó. Nó làm ở lực lượng đặc biệt. Tử tế lắm.
Nó hẹn khi nào về Huê kỳ nó sẽ đem em theo.
Huệ lấy chồng Huê kỳ! Thật khó ai ngờ được cũng như khó ai ngờ
rằng hôm nay tôi là nhân viên đi thu tiền rác. Con của một ông Thông phán, cháu
nội của một ông Lãnh binh.
- Thỉnh thoảng em có về quê không?
- Biệt! Vả lại, về để làm gì? Quê hương hẹp hòi như cái đáy lờ,
như cái vũng nước, con cá quay qua trở lại không có chỗ vẫy vùng.
- Em cần cả một đại dương?
- Vâng. Em sẽ vượt Thái bình dương. Với Johnny. Mời anh uống.
Em lấy thêm hai chai nữa cho anh.
Tôi giơ một bàn tay ra ngăn:
- Thôi, bấy nhiêu đây đủ rồi.
- Bây giờ anh làm gì?
Huệ chống một tay lên cằm chìa mắt sát lại gần tôi. Đôi môi đỏ
hé như một vết thương.
- Anh làm… lăng nhăng. Chẳng ra chi. Mình chạy tản cư đến chỗ
lạ, may có việc làm ăn là đủ quí rồi.
- Không ngờ anh mà cũng phong trần. Nhưng anh có chữ nghĩa
nhiều nên tìm việc không đến nỗi khó.
Tôi nuốt vào một nỗi thẹn thùng, một niềm tủi nhục xót xa.
Không có nước bọt chạy kèm theo vào thực quản. Huệ tưởng đâu tôi vẫn giữ được
phong độ như ngày trước.
Thấy tôi đưa mắt nhìn những lớp màn, những lớp rèm vây quanh
chi chít, nàng nói:
- Căn nhà hẹp quá phải không anh? Ở không đủ. Thuê mỗi tháng
năm ngàn đồng. (Chết! Gấp đôi số lương của mình, tôi nghĩ). Em nhờ người đưa mối
tìm thuê một ngôi nhà có vườn chừng mười ngàn mỗi tháng.
Những con số ngàn như có chiều cao trong trí tưởng tượng của
tôi. Những chồng giấy bạc. Những cột giấy bạc. Phần lương tháng của tôi mỏng
như một chiếc dép cao su trẻ con vất bỏ nơi những đống rác ở các góc phố. Chưa
đếm đã vội hết. Cứ độ hăm lăm mỗi tháng vợ tôi thường lục tung nhà cửa vừa hò
hét trẻ con, tưởng chừng có lỗ thủng ở ngăn kéo cất tiền.
Ngày còn đi học, Huệ yêu tôi. Chúng tôi hôn nhau hai lần và
tôi giữ chiếc khăn mùi xoa của nàng. Thầy tôi không muốn tôi cưới Huệ vì mẹ Huệ
mê cờ bạc và đồng bóng. Chúng tôi xa cách nhau. Huệ lấy chồng.
- À, anh ăn cái gì với em nhé? Em chưa kịp ăn sáng. Đêm qua
đi nhảy về khuya ngủ mê mệt.
Huệ đi lại mở tủ buffet đem bày ra bàn đủ thứ lon, đủ thứ lọ.
Nàng bắt tôi ăn săng-uých, phó-mát, uống bia đóng hộp, nước nho đóng hộp. Tôi
nhìn xuống cánh tay béo lẳn trắng mịn của Huệ. Cái cổ no tròn như nặn bằng mỡ đặc.
Viên hồng ngọc ở mặt nhẫn lóe lên làm tôi lưu ý đến những ngón tay béo trắng
thon thon.
Huệ ngừng ăn, trầm ngâm một giây rồi chậm rãi nói:
- Em nhớ ngày chúng mình lén gặp nhau ở sau rộc rau muống. Từ
ngày đó đến nay, em chưa bao giờ thấy có lần nào trời xanh trong và lá xanh mát
như buổi chiều hôm ấy. Anh hôn em…
Nàng im lặng. Khi tôi ngửng nhìn nàng thì thấy mắt nàng lã
chã nước mắt. Nàng nhếch một nụ cười:
- Em bây giờ ăn nói lì lợm, anh đừng cười nhé! Xã hội không
coi em ra gì thì em còn ăn nói văn hoa nghiêm chỉnh với ai? Phải văng tục. Phải
ẩu tả. Phải hello okay. Phải tiên sư mày phải xưng tao. Phải hôn chùn chụt phải
cười đĩ thỏa. Em đâu có thích? Em muốn mơ mộng lãng mạn như hồi xưa, hồi chúng
mình yêu nhau lần đầu, hồi anh hôn em rụt rè với đôi bàn tay ngượng nghịu.
Nàng bỗng bật cười:
- Anh nhớ lúc bấy giờ anh hôn em như thế nào không?
Tôi lắc đầu.
- Anh để mũi vào má em rồi hít dài như người ta hôn trẻ con.
Tôi cũng bật cười và thấy xốn xang ở nơi mắt của mình. Tôi nhớ
lại mùi thơm của cái hôn đầu tiên đó. Lúc bấy giờ chỗ chúng tôi ngồi có mấy bụi
é rừng, chúng tôi đứa nào cũng bứt từng nắm lá é vò giữa những ngón tay rồi để
lên mũi ngửi. Khi tôi kính cẩn hôn lên má Huệ, tôi nghe mùi thơm cay của é rừng
lẫn với mùi da thịt ấm áp nồng nồng.
Huệ nói:
- Đời em hỏng rồi. Lấy thằng Huê kỳ hay Huê kiều hay Việt Nam
gì rồi cũng lê lết thân tàn cho đến ngày xuống lỗ.
Nàng hít dài một hơi thuốc lá:
- Anh với em thì cách biệt nhau quá xa rồi, mỗi người ở mỗi
điểm trên một đường thẳng. Khi không được lấy nhau thì chúng mình như hai động
tử nghịch chiều cứ mỗi ngày mỗi xa cách thêm. Thật là họa hoằn lắm mới gặp nhau
được như hôm nay. Aø, lúc nãy anh bảo anh hiện làm gì?
Có nên thú thật với Huệ không? Trả lời rằng: Anh đi thu tiền
rác? Không được. Huệ vẫn còn giữ tình yêu với tôi, vẫn còn nhìn về khung trời
màu xanh với rộc rau muống và cái hôn đượm mùi é rừng. Không. Tôi lắc đầu. Thà
tôi thất nghiệp.
- Sao anh lắc đầu?
- Ờ! Anh làm việc nhì nhằng. Cũng có thể coi như đang thất
nghiệp. Cuộc sống khó khăn, chiến tranh đẩy quá nhiều người về đô thị…
Tôi nói lảm nhảm rất nhiều để tránh phải nói đúng điều tôi muốn
nói.
Huệ nắm lấy tay tôi:
- Được rồi. Để em liệu tìm việc cho anh. Sở của Johnny tuyển
người luôn luôn, nhưng để em vận động cho anh vào làm ở cơ quan dân sự cho nhàn
hơn.
Cho đến lúc chia tay, Huệ không hỏi một lời nào về gia đình
tôi hết. Có phải vì thì giờ eo hẹp, vì có nhiều kỷ niệm ngày xưa cần gợi lại
hay vì những lý do tâm lý nào khác? Huệ không muốn có ai xen vào giữa chúng
tôi? Có lúc nàng cầm hai tay tôi rõ chặt, rõ lâu rồi nói:
- Phải chi em có thể nắm chắc hai tay của anh mãi mãi như thế
này, khỏi phải bỏ ra. Em không cần ăn. Không cần sung sướng. Không cần sống.
Tôi đưa mắt tìm một tấm gương soi lớn để ngó xem tôi có xứng
đáng không với tấm lòng thiết tha của Huệ. Nhưng đồng thời tôi lại sợ: nếu nhìn
vào tấm gương, e tôi phải vội vàng kéo lui đôi tay của mình.
Tiễn tôi ra đến cổng, Huệ dặn:
- Hôm nào anh đưa em về nhà quê chơi một ngày. Suốt một ngày.
Nhà quê nơi nào cũng được, của ai cũng được.
Huệ trao tay cho tôi bắt.
Khi ngồi lên xe đạp, tôi cảm thấy không còn đủ sức để đạp nữa
trên những con đường lồi lõm chang chang ánh nắng. Tôi không còn đủ can đảm để
tiếp tục đi gõ cửa những nhà còn lại, chìa tập biên lai và đọc câu phù chú:
“Xin bà cho tiền rác tháng này”. Tôi chán nản hết: công việc, trách nhiệm, âu
lo. Nhưng đồng thời sao lại có một niềm hy vọng mới, một sức mạnh mới len lỏi
trong tôi như một giây leo luồn tránh bao nhiêu thân cây rậm rạp để ngoi lên
ánh sáng.
Tôi ghé lại một quán nước, gọi một chai 33 và ngồi suy nghĩ
mông lung. Óc tôi thoáng dày đặc, thoáng trống rỗng. Tôi quằn quại trong một hiện
tại nhiều biến cố, thong thả trong một quá khứ có những khoảng mát. Tôi nghe phảng
phất mùi thơm cay của lá é rừng vò nát trong ngón tay. Và câu nói của Huệ. Tôi
lẩm bẩm nói lại với nàng:
- Huệ ơi! Chúng ta hôm nay không còn ngây thơ nữa. Thân em
giang hồ và thân anh đọa đày. Nên anh tin chắc chắn là lần sau anh sẽ hôn em
đàng hoàng hơn. Không còn để mũi vào má em rồi hít như người ta hôn trẻ con nữa
đâu.
Chuyện Cái Răng
Văn có những kỷ niệm không mấy êm đềm về những cái răng của
mình. Kỷ niệm xưa nhất lảng vảng vào chặng chàng lên chín, mười tuổi. Lúc bấy
giờ, dù nhỏ, chàng đã phải đóng vai một cậu học sinh đi trọ học ở trường Huyện.
Mỗi tuần về thăm nhà một lần vào chiều thứ Bảy, chàng đã vừa đi vừa chạy để nuốt
cho hết quãng đường dài hơn ba cây số cốt sao cho đến bến đò Cây Dừa mặt trời vừa
lặn. Đoạn đường từ xóm Bình Hòa ra đến bến đò là một bãi cát rộng đầy bụi gai
xương rồng và mồ mả. Từng chặng nổi lên một cây mù-u hay một bụi tre. Sự có mặt
của những chòm cây lớn không giảm bớt cái không khí hoang lạnh ma quái của bãi
cát vắng. Thỉnh thoảng một bông vú dẻ đưa hương ngọt ngào nhưng Văn không dám dừng
lại hái. Chàng lầm lũi bước, tầm mắt cố khép lại ở ngang hai rìa đường và lưng
chàng như tê cứng. Tiếng “rẹt” của con rắn mối chạy vội vã vào bụi rậm đủ làm
cho một luồng máu lạnh dâng lên chạy tràn ra khắp lưng. Chàng giữ để khỏi nhìn
ra đằng sau lưng. Chàng nghĩ, nếu lỡ nhìn ra sau, chàng sẽ hoặc ù té chạy hoặc
ngất đi nên chàng nắm chặt sự can đảm trong hai bàn tay nhỏ, cúi nhìn xuống từng
hòn đá dưới chân và chú ý chỉ nghe tiếng chân mình sào sạo trên sỏi. Bé bỏng và
nhút nhát chừng ấy mà Văn đã phải một mình chống chọi với một cái răng sâu khi
xa nhà. Mỗi lần răng nhức, chàng vào nằm ở bộ ván sát vách cong lưng và co quắp
chân lại áp phía có răng sâu xuống gối. Chàng cố gắng ngủ, bỏ những bữa cơm
trưa cơm tối. Chủ nhà trọ thấy vắng chàng ở bữa cơm, lơ đãng hỏi:
- Thằng Văn sao không đi ăn cơm?
Tiếng một đứa bạn ở trọ trả lời cũng một cách lơ đãng:
- Thưa thím nó nhức răng.
- Tội chưa.
Và tiếp theo là tiếng bát đũa va vào nhau, tiếng húp canh xì
xoạt, tiếng cười nói ồn ào. Những buổi tối, Văn nằm im ôm cái má có răng nhức
đưa mắt lén nhìn gia đình sum họp của người chủ trọ. Lũ con của nhà chủ quây quần
xung quanh cha mẹ. Thằng Tư lên 5 tuổi kéo em nó để đòi má bế. Con Ngọc lên 9
tuổi mà được cha nó vuốt tóc và kiểm soát tai, mũi:
- Ơ này mình ơi, sao tai con Ngọc có cái mụt gì thế này?
- Đâu? Đâu nào?
Bà chủ trọ lật đật bỏ con nhỏ xuống, kéo đứa chị lại gần mình
để xem xét cái tai. Đôi mắt nheo nheo đầy tình trìu mến. Xem xét sờ mó một lát,
bà mỉm cười:
- Cái mụt cóc nó có từ hồi 5 tuổi.
Nói đoạn bà cúi xuống hôn tóc con rồi vội đẩy con ra:
- Mồ tổ cha mày, cái đầu chua lét. Trưa mai nhắc má gội cho.
Sự đầm ấm trong gia đình người làm cho Văn tủi thân. Nó mường
tượng đến quê hương nó, đến con đường của xóm Lò Gốm đầy đá và mẻ sành, đến cái
cổng nhà nó, đến cái bàn cái ghế, con chó, cái giếng, đến cha mẹ và lũ em nó.
Ôi! Bao nhiêu là đầm ấm, thế mà nó phải nằm một mình ở đây, ôm một cái răng nhức
và chỉ biết đợi cho cái răng tự ý êm đi. Giá ở nhà, nó sẽ đi lại cái bàn kê ở đầu
giường lấy lọ dầu Nhị Thiên chấm một giọt nhỏ vào lỗ răng. Thơm, cay và đỡ nhức
biết bao! Trong cái khay đặt trên bàn đó sao mà lắm dầu, lắm thuốc dầu chanh, dầu
chổi, dầu cù là, dầu bạc hà, an-côn đờ măng (1 ) Nó thèm thuồng mà nghĩ rằng một
thứ dầu nào trong số những lọ dầu kia cũng đủ sức để làm mất cơn đau. Ở đây thì
không có gì cả, không có món gì dự trữ trong nhà. Nước mắm, dầu hỏa mà cũng sai
con xách chai đi mua ở hàng quán. Ở nhà nó, nó không hề nghe đến tiếng “hết”.
Không hiểu vì sao mà chai luôn luôn có dầu có nước mắm, tỉn luôn luôn có bột có
đường, khạp luôn luôn có gạo. Sự sung túc ấy Văn phải giã từ để sống cuộc đời
trọ học thiếu thốn khắc khổ, nhất là những khi ốm đau. Sự suy nghĩ miên man làm
nó quên bớt đau và nó ngủ hồi nào không hay.
Cái răng sâu ấy sau đó không biết do ai nhổ. Có những kỷ niệm
rõ ràng nằm ôm răng nhức mà lại không nhớ cái kềm nào đã thò vào để nhổ cái
răng ấy đi, thật cũng lạ.
Bẵng đi một thời gian dài, cuộc sống không bị đánh dấu bởi những
cuộc nhức răng nữa. Năm mười chín hai mươi tuổi, rút kinh nghiệm những cái răng
sâu thuở nhỏ, Văn nhìn cái răng hàm có chấm đen một cách nghi ngờ. Làm hư răng
là những cái chấm có bề ngoài hiền lành vô hại này. Có phương tiện để lo xa, -
lúc bấy giờ chàng đang ở Hà Nội, - chàng ghé lại mấy hiệu chữa răng trồng răng,
Minh Sinh hay Kim Sinh gì đó. Hiệu nào bề ngoài trông cũng qui mô rực rỡ. Những
hình vẽ hàm răng bổ ngang bổ dọc với gân đỏ, gân xanh có vẻ như dọa nạt chủ
nhân của những chiếc răng hư. Vừa bước vào hiệu, chàng bị chủ nhân xoắn lấy. Rồi
thì miệng ba hoa, tay múa may, chủ nhân giảng cho chàng nghe tất cả những sự hiểm
nguy của một vết đen trên răng, những hiểm nguy có thật do khoa học tuyên bố và
những hiểm nguy tưởng tượng do chủ nhân tự bày đặt lấy. Tiếp theo, chủ nhân
bưng ra một khay đựng đầy những dụng cụ mạ kền trắng tinh trong đó có mọi thứ kềm
đủ cỡ. Chủ nhân lấy đưa chàng coi một cái kim mảnh mà dài vừa nói một cách long
trọng:
- Tôi sẽ lấy “ne” (nerf) (1 ) cho ông.
Sự biểu diễn quá chu đáo khiến Văn đâm ra nghi ngại. Chàng
lén nhìn sang cái môi dày của nhà khoa học, - tức chủ nhân, - đôi hàm răng khập
khễnh và cặp mắt ti hí. Nhìn rộng ra khuôn mặt, chàng thấy khó lòng có một điểm
thông minh nhỏ lạc loài ở một vị trí nào trên khuôn mặt đó. Đưa mắt nhìn rộng
hơn, chàng kết luận rằng chỉ có cái áo blouse trắng mà chủ nhân khoác, cái ghế
ngồi dành cho nạn nhân và cái khay đựng kềm đủ cỡ là có tính chất khoa học mà
thôi. Chàng phải lật đật vừa đứng dậy vừa nói:
- Hôm nay tôi đến hỏi thăm cách chữa của ông. Sáng mai tôi sẽ
lại.
Chủ nhân cũng lật đật vui vẻ:
- Vâng. Sáng mai xin mời ông trở lại. Chúng tôi làm việc rất
cẩn thận nên rất được tín nhiệm. Vâng. Kính chào ông… Vâng…
Văn không biết tiếng “vâng” cuối cùng là tiếng nhận lời chào
của chàng hay tiếng “vâng” chuyển mạch quen miệng của anh nha sĩ. Nhưng chàng
biết chắc chắn là mình vừa thoát nạn.
Sau đó, một người bạn quen mách chàng:
-Răng “toa” mới có chấm đen, đừng đến nha sĩ tốn tiền. “Toa”
ghé lại phân khoa nha y của trường Thuốc ở ngang góc đường Tràng Tiền Hội Vũ. Ở
đấy có giáo sư chuyên môn dạy cho các sinh viên nha khoa. Sinh viên họ chữa cho
dưới sự chỉ dẫn của giáo sư.
Lời đề nghị nghe rất hợp lý, Văn nghe theo. Chàng đến đúng giờ
làm việc của phân khoa và sốt ruột ngồi ở phòng đợi, chờ đến phiên mình. Để giải
trí, chàng để ý đến mọi chi tiết nhỏ xung quanh. Thú vị nhất có lẽ là khi nhìn
cái anh sinh viên mang kính, mỗi lần gọi tên người bệnh thì gọi rất nhỏ và gọi
giọng Tây. Gọi giọng Tây nghĩa là đánh vần các tên Việt Nam một cách khó nhọc
vì gặp những vần ngớ ngẩn và những dấu giọng kỳ quái. Chẳng hạn vần uyên, oach…
dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng. Anh sinh viên chừng đã nhẫn nại hết sức mới giữ cho
khỏi phẫn nộ vì những cái tên oái oăm. Ngược lại anh, ông giáo sư người Pháp của
anh thì hình như bất cần những băn khoăn hình thức đó. Ông bận sơ mi ngắn, quần
tây cụt, mang xăng-đan đi đi lại lại không nhìn ai. Lũ lông lá đen ngòm trên
cánh tay, trên ống chân cũng thản nhiên phô bày không ngượng nghịu, không giấu
giếm, không kiểu cách. Chị sinh viên áo hoa cà dáng chừng con nhà quí phái nên
nhìn cái răng nào của ai cũng tỏ vẻ khó chịu. Tiếc thay người ta lại chỉ đem
răng - mà toàn những răng hư hỏng - đến cho chị săn sóc nên chị không biết làm
cách nào khác. Cái nhún vai và cái bĩu môi lặp đi lặp lại một cách đều đặn, cuối
cùng, Văn coi như là một cử chỉ chào đặc biệt của chị, chào những cái răng mới
tới.
Văn được một chị sinh viên thân hình cục mịch mặt mũi hơi xấu
xí mời vào ghế da. Chàng băn khoăn không biết như thế là may hay rủi. Người xấu
xí thường làm việc rất tận tâm nhưng cũng có thể rất dễ cáu. Chị bắt chàng há
miệng, liếc nhìn cái răng một cách lạnh lùng rồi cho máy khoan vào nạo. Văn sợ
sự tàn nhẫn của hai bàn tay trả thù, vì một người không đẹp thì có rất nhiều mối
thù, thù những người đẹp, thù ông trời, thù cha mẹ, thù cả những vật, những người
không can dự gì đến sắc đẹp của họ hết.
Sau mười phút hồi hộp, lo lắng, chàng được giải phóng. Về đến
nhà trọ chàng lật đật đem gương ra soi xem thì thấy một đường trám trắng tinh nằm
giữa răng. Màu trắng tinh sạch có đủ tính chất khoa học làm chàng yên tâm và
tin tưởng. Đi giữa phố đông đảo chàng có cái thú hiên ngang của một người lành
mạnh.
Nhưng cái thú ấy hưởng không được lâu. Chừng hai tháng, thứ
xi măng trám tuy vẫn giữ y màu trắng nhưng bị mòn đi, trũng xuống. Chàng chưa kịp
đưa ra đi trám lại thì chiến tranh bùng nổ phải chạy tản cư về quê. Cuộc chiến
kéo dài, cái răng lủng dần, sâu rộng ra, hóa thành cái răng sâu thật sự. Thế là
như mười mấy năm trước, sự vui buồn của chàng vốn chịu lệ thuộc ở nhiều điều kiện,
nay lại lệ thuộc thêm ở cái răng hoặc êm hoặc nhức. Thật vô lý hết sức là những
cái răng sâu.
(1) alcool de menthe: dầu bạc hà
Nó nhức bất ngờ cũng như nó êm không hẹn trước. Sáng ngủ dậy
cảm thấy rêm rêm mà tìm mãi nhất định không thấy lý do vì đâu. Nhức nhối tưởng
có thể vỡ đầu ra được, thế mà nằm ngủ một giấc, - giấc ngủ đầy những mộng mị, cố
nhiên, - sáng ra thấy êm ả y như chẳng có việc gì vừa xảy ra hết. Sự bình thản
êm đềm ấy có một vẻ gì dối trá giống như một buổi sáng tươi nắng sau một đêm
giông tố.
Văn chịu đựng sự hành hạ độc đoán của cái răng mà không đòi hỏi
gì ở nó hết. Nó không còn đủ khả năng để nhai nữa. Nó cũng không đóng vai “có mặt”
như những cái răng cửa mà nhiều khi người ta giữ lại với một mục đích là để kín
hàm răng. Mặc dù vậy, nó vẫn cứ bể lần, bể lần. Cho đến một ngày nào đó trong
cái năm kháng chiến không biết thứ mấy, Văn phải giao nó cho cái kềm của ông
bác sĩ. Sự phân khoa học của ngành y học hiện đại chỉ cho phép ông bác sĩ toàn
khoa nhổ được răng chớ không chữa được răng. Chàng yên tâm vứt bỏ nó mà không
phản kháng gì hết vì sống bấp bênh giữa chiến tranh người ta không có quyền lựa
chọn. Vả lại một cái răng thì có nghĩa gì khi cả cuộc đời một người cũng có thể
dễ dàng bị xóa bỏ trong một vụ thả bom, trong một cuộc càn quét. Huống chi đời
sống kham khổ trong khói lửa đâu để cho người ta có thì giờ và có phương tiện
nghĩ đến những bộ phận phụ thuộc của con người như “cái răng cái tóc”.
Tuy vậy, sau đó khi một cái răng cửa mẻ đi một cạnh, Văn
không giữ nổi bình tĩnh nữa. Chàng phải đi Bồng Sơn cậy một người thợ trồng
răng người Trung Hoa. Đó là người thợ giỏi nhất, theo như lời nhiều người giới
thiệu. Anh ta nạo bỏ cái phần sâu của răng và bịt vàng viền xung quanh. Lần này
Văn tin cậy một cách rất tương đối ở lối chữa đó của anh thợ. Nạo lớp sâu mà
không có thuốc gì khử được sâu đi thì tai họa chỉ bớt đi, làm cho chậm xảy đến
chớ không phải là hoàn toàn rạch bỏ tai họa. Nhưng vì lối chữa đó là độc nhất
nên chàng phải tạm bằng lòng. Những lúc này, chàng thấy ước muốn được chữa bởi
mấy anh chị sinh viên cẩu thả ngày trước. Vì dẫu sao họ cũng còn phân biệt được
thế nào là cẩu thả phản khoa học thế nào là khoa học thật. Nếu họ không làm chu
đáo là vì họ không muốn làm chớ không phải là vì họ không biết làm. Còn người
thợ này thì chắc chắn là anh ta chỉ nhờ cậy ở trực giác, và nếu may mà có thì
giờ ở kinh nghiệm.
Hai năm… Ba năm trôi qua. Thỉnh thoảng nhìn vào gương chàng
dò xét cái răng và ngạc nhiên thấy nó không bị sâu thêm. Mặt răng vẫn một màu
ngà trắng. Chàng lạc quan kết luận: Anh thợ Trung Hoa coi vậy mà làm nên việc.
Sự luộm thuộm phản khoa học không ngờ lại đem lại kết quả tốt. Nếu không nạo
sâu và viền vàng, cái răng dễ đã hư mất từ lâu rồi. Và chàng thầm hẹn: Đừng bao
giờ vội kết luận khi vấn đề chưa kinh quá thời gian.
Sau đó, chiến tranh chấm dứt. Cuộc sống có đủ tiện nghi trở lại.
Cái viền vàng của kỹ thuật thời tiền chiến bị xem là lạc hậu so với kỹ thuật
răng xương vặn pi-vô, cũng như những mái tóc chải vồng, những mái tóc bỏ vào lưới
rất hợp thời thuở tiền chiến đã bị thay đi bằng những mái tóc uốn quăn nhuộm
màu. Văn không muốn chạy theo thời trang nhưng mối băn khoăn vì cái răng chưa
được chữa kỹ thỉnh thoảng vẫn ám ảnh chàng.
Một buổi chiều thứ bảy rảnh việc chàng đi rong chơi thành phố.
Qua một ngã tư, vì phải đợi một đoàn xe dài chạy nối đuôi nhau, chàng lưu ý đến
một tấm bảng Nha sĩ quen quen. Nơi này trước kia lại là một hàng giải khát có
khá đông nữ chiêu đãi viên. Chàng tò mò nhìn con đường rãi sỏi dẫn vào nhà, cái
giàn hoa ti-gôn màu vàng nhạt. Nhớ tới cái răng hôm qua hơi ê và bực mình vì
đoàn xe rầm rộ chạy không dứt, chàng bước vào phòng nha sĩ.
Khi ngồi vào ghế da, chàng chỉ cái răng và kể tiểu sử của nó.
Nha sĩ lắng tai nghe. Đó là một người dong dỏng cao, mắt nhỏ và tròn. Nét mặt
có một vẻ nghẹn ngào bằng lòng, dễ dãi và cam chịu. Người này lúc nhỏ đi học chắc
thường bị chúng bạn ăn hiếp. Đôi má nhếch lên theo thói quen và nếp nhăn ở đôi
mắt như chuẩn bị để nhăn theo một cái cười giải hòa. Hàm rộng khá rậm râu, chân
râu vào buổi chiều đâm tua tủa. Nghe chàng trình bày xong nha sĩ thò kềm tháo
cái viền vàng, lấy cái châm nhọn do thám kẽ răng rồi đột nhiên nói:
- Ở dưới nuớu răng của ông có mọc một cái mụt.
- Vâng, tôi biết.
- Cái mụt mọc đã bao lâu? Ý tôi muốn nói lần đầu tiên một cái
mụt như thế mọc ra, ông nhớ lại xem cách đây bao lâu?
Văn ngần ngừ tính toán một lát nhưng quả tình chàng không nhớ
rõ bao lâu. Chắc đã có từ lâu lắm nhưng nghĩ ngượng ngượng, chàng nói:
- Chắc chừng 5, 6 tháng.
Nha sĩ đứng xích ra và nghiêm trọng nói:
- Ông cần rọi điện và chụp hình hàm răng.
Văn ngạc nhiên như mình vừa nghe lầm. Nha sĩ chừng quen với
những phản ứng im lặng như vậy của bệnh nhân nên điềm tĩnh giảng giải:
- Cái mụt mọc ở mãi trong này khiến tôi nghi ngại là xương
hàm bị có mủ. Sâu răng nó không ăn ra ngoài răng được nên nó ăn vào xương hàm.
Phải rọi điện và chụp hình thì mới biết chắc mà chữa.
Thế là chàng từ phòng nha sĩ đi ra, tay cầm tờ giấy giới thiệu
đi rọi điện. Lại vô lý hết sức là cái răng, - chàng bực tức nghĩ. Tưởng nhờ nha
sĩ băng thuốc, lấy gân máu rồi cưa tra răng xương vào, công việc dễ dàng và đơn
giản như vậy, ai ngờ lại đi tìm thêm sự rắc rối. Mà cái răng có vẻ đòi hỏi gì
cho cam!
Nó vẫn tử tế như thường ngày. Con mắt xoi mói đa nghi của nhà
khoa học để vào đâu là y như họ thấy tai nạn có thể xảy ra từng chuỗi. Nhưng đã
trót nghe trót biết, chàng phải làm y theo lời nha sĩ vậy.
Chiều hôm đó chàng đến phòng mạch của bác sĩ rọi điện. Khi xe
lái vào dưỡng đường, chàng lưu ý xem trên đường có những người quen nào thấy
mình chăng. Chàng ngại bị bắt gặp bước vào một phòng khám bệnh. Chàng lấy dáng
mạnh bạo, vẻ mặt vui tươi bình tĩnh bước vào. Y như một người đi thăm người bệnh
hoặc mình là bạn đến thăm ông bác sĩ.
Ở phòng đợi nhiều người đàn bà ngồi. Có người bình tĩnh như
ngồi đợi một chuyến tàu. Có lẽ bệnh hoạn đối với họ đã quen thuộc. Một người
đàn bà có mang bế một đứa bé gái chừng 2 tuổi. Đứa bé khóc, quấy, đứng dậy ngồi
xuống bà người đàn bà nhẫn nại chiều theo mọi cử động của con, miệng không ngớt
dỗ dành. Đôi mắt người đàn bà chỉ nhìn xuống con và nhìn xuống đất. Thỉnh thoảng
khi con thét lên thì đôi mắt ấy liếc nhanh qua hàng ghế trước mặt như ngầm xin
lỗi. Văn thấy quả đáng tội nghiệp là những người đàn bà. Họ nhận hết những phiền
phức, những tội lỗi về họ.
Trước mặt chàng, một người đàn ông cũng đang ngồi đợi. Vẻ mặt
buồn và dáng ngồi khép nép nhu mì. Sự cô đơn, dù vậy, vẫn chứa một vẻ gì ích kỷ.
Khi đau ốm, người đàn ông thường chỉ lo cho thân mình, còn người đàn bà đa mang
hơn. Đó là một vấn đề phân công, chàng biết vậy, nhưng chàng vẫn cảm thấy mình
thiếu thốn bổn phận hết sức khi nhìn những người đàn bà bận rộn kia.
Một tiếng phanh xe xích lô lách cách vang lên. Lại một người
đàn bà bế con bước xuống. Bộ quần áo nhầu nát và cái chăn quấn con bẩn thỉu phù
hợp với vẻ mặt cằn cỗi tối tăm vì nghèo.
Đứng một lát thấy mỏi chân, chàng ghé ngồi xuống một đầu chiếc
băng gỗ. Vừa ngồi chàng vừa thầm trách mình: trong sự lo lắng vì bệnh tật, mình
còn phân biệt sự sang hèn của chỗ ngồi. Ừ, mà thật vậy, những cái băng gỗ sơn
xanh như thẹn thùng vì không nhận được những người khách sang trọng. Người đàn
ông độc nhất ăn mặc đứng đắn là chàng thì chắp tay sau lưng đi đi lại lại, hết
nhìn những tấm phim rọi phổi, rọi xương sống, vỏ não, tử cung…, đến lẩm nhẩm đọc
hết mọi chi tiết quảng cáo thuật “đẻ không đau”. Những người đàn bà đẹp và sang
trọng không thấy ngồi ở cái băng bình dân ấy. Họ bước xuống xe, đi thẳng lại cửa
kính gõ nhẹ vài cái, tức thì cửa kính hé ra, đớp mất họ rồi khép kín, im ỉm. Những
người ngồi ngoài càng thấy mình nhẫn nại và cam chịu. Một người đàn bà dáng chừng
đanh đá, không chịu thua, bước tới đứng chực sẵn ở cửa. Khi cửa hé nhả ra một bệnh
nhân tươi tỉnh thì người đàn bà xông vào không để cô y tá kịp giữ lại. Và cánh
cửa lại khép. Vừa đến sau, vừa không phải là người đẹp, Văn đành ngồi tẩn mẩn
thương hại vẩn vơ cho con người phải tranh giành nhau cả trong những trường hợp
không thích thú gì cho lắm.
Khi cô y tá lách mình ra mời chàng vào, sự hồi hộp làm chàng
hơi choáng váng. Một cái răng, một mảnh xương hàm giá trị thật không bao nhiêu
so với những hồi khám phổi khám tim nhưng vì nó có giữ những bí mật nên nó cứ
gây ra hy vọng và thất vọng liên tiếp. Sự hồi hộp quá dễ dãi khiến chàng hơi bực
mình.
Khi nằm lên cái bàn dài ở phòng tối, chàng khó chịu nhìn cái
máy đồ sộ mà ông bác sĩ cho chạy nhè nhẹ từ trên cao áp gần xuống mặt chàng.
Đây là cái máy nói sự thật, những sự thật thường là khiếp đảm, những sự thật
phũ phàng phá vỡ hạnh phúc của những đời người. Nhưng niềm lo lắng của Văn vụt
nhiên thấy nhẹ đi, như loãng ra khi chàng liên tưởng đến những bệnh nhân mang
những bệnh trầm trọng đã từng nằm dưới cái máy này, đã đứng trước cái máy này.
Tiếng ông bác sĩ vang nhè nhẹ trong cái khí lạnh âm u:
- Ông nằm có thấy khó chịu không? Cái gối để như thế có vừa
không?
Tiếng trả lời của chàng như tắt nghẽn:
- Vâng… Tốt… Được.
- Ông há miệng to ra. Đúng là cái răng này đấy nhé? Ông để
hai ngón tay giữ dùm miếng phim này. Vâng. Vâng. Giữ chặt như thế… Vâng. Ông
yên lặng… Xong rồi.
Mọi việc xong trong nháy mắt. Cái phút quan trọng đã qua rồi.
Khi ra bàn giấy để trả tiền, chàng lưu ý nhìn ông bác sĩ và các cô y tá. Những
người này tràn đầy sức khỏe giữa bầy bệnh nhân đang vây quanh họ. Chắc họ dễ cảm
thấy họ sung sướng và yêu đời khi hàng ngày va chạm với toàn những người đau khổ.
Hạnh phúc là một ý niệm tương đối. Vậy làm y tá chắc là dễ bằng lòng hơn làm
nhân viên ngân hàng, nhân viên ngân khố chẳng hạn. Lương mỗi tháng vài ngàn bạc
mà cứ phải mãi nghe những con số triệu, tiếp xúc hàng ngày với những người mà
con số ngàn không được ghi thành chương mục trong óc, mà tâm trí chỉ chịu bận bịu
với những con số từ mười vạn trở lên thì thật tủi thân vô cùng. Thật y như một
người kém nhan sắc mà cứ phải nhìn mãi bóng mình trong tấm gương soi ở hiệu uốn
tóc.
Cô y tá nhí nhảnh thưa:
- Thưa ông chiều mai đến lấy phim.
- Giờ này?
- Vâng.
Chàng mở cửa bước ra hiên. Không khí ở ngoài mát mẻ ôm chụp lấy
chàng. Những bệnh nhân đang ngồi đợi đều ngẩng mặt lên một loạt nhìn vào chàng
để tìm đọc một nét đau khổ. Chàng phải mỉm cười nhè nhẹ vừa cúi nhìn xuống đất.
Bụi bông giấy mọc ở mé hiên lá xanh dày, sáng rực một màu
xanh dịu dàng. Rời bỏ những máy móc vừa nhắc đến nỗi khổ triền miên của loài
người, chàng thấy lòng mình êm dịu lại khi tựa vào thiên nhiên vui tươi và lành
mạnh.
Xế hôm sau Văn đến lấy phim. Sự hồi hộp, hy vọng và lo sợ đã
quen đi, hôm nay chàng thấy mình rất nhẫn nại, chuẩn bị để nghe những tin xấu về
cái răng. Chàng định ăn mặc thật cẩn thận, giày mới và ca-vát tươi màu để tránh
cái vẻ dáng thương hại của một người có khuyết điểm, nhưng nghĩ thì hăng hái
như vậy mà khi thực hành chàng thấy không đủ hào hứng. Rốt cuộc ca-vát có tươi
màu mà đôi giày thì vẫn đôi thường ngày. Cô y tá nhí nhảnh chào chàng:
- Thưa ông đến lấy phim?
Lẽ tất nhiên. Sao cô không tìm được một lời chào nào khác
hơn? Thấy mặt mũi cô đẹp đẽ dễ yêu, chàng mỉm cười không trả lời, nụ cười giễu
cợt nhẹ nhàng. Thông minh, cô đáp lại cũng bằng một nụ cười nhỏ rồi khẽ cúi đầu
quay vào.
Sự tiếp xúc với phòng bệnh hôm nay bắt đầu bằng nụ cười làm
chàng hơi vui vui. Ông bác sĩ tiếp chàng và đưa cái phim, chỉ một vết trắng nhỏ
ở chỗ xương hàm. Thế là cái răng bị tuyên án. Bao nhiêu nỗi băn khoăn hồi hộp
cuối cùng được kết thúc một cách trơ trẽn bằng cái vết trắng ấy trong mảnh
phim. Sự có mặt của ông bác sĩ chợt trở nên vô ích và lời nói của ông cũng hóa
ra lạt lẽo. Cái gánh nặng của sự âu lo không biết đã rơi đâu mất hay bỗng thành
nặng quá, quá sức cảm giác của chàng. Chàng cầm lấy phim giơ lên một cách thất
vọng. Cái vết trắng sờ sờ ra đó, chàng không thể mong là một sự huyền hoặc.
Chàng cúi chào ông bác sĩ rồi quay gót.
Cô y tá cầm tay nắm cửa, hé mở vừa mỉm cười chào chàng. Chàng
lách mình đi qua. Chợt thấy mình thiếu xã giao một cách vô lý, chàng khẽ mỉm cười
trả lại nhưng cô y tá đã ở quá sau lưng, cái mỉm cười nở quá chậm. Giận dỗi,
chàng nện mạnh gót giày xuống nền nhà và gọi xe đến phòng nha sĩ.
Vừa gặp chàng, ông nha sĩ nói ngay:
- Tôi đã được xem cái phim của ông. Hồi 11 giờ trưa nhân qua
đó lấy cái phim của một người quen, tôi có hỏi xem cái phim của ông. Thật đúng
như lời tôi đã đoán.
Hy vọng rằng ông có thể lầm với rằng ai chăng, chàng móc đưa
tấm phim. Ông cầm lấy, giơ lên ánh sáng và chỉ cho chàng xem.
- Cái chân răng này tốt, ông thấy chưa? Còn chỗ chân này bị
làm mủ vào xương hàm.
Chàng hỏi:
- Thế ông có cách gì chữa?
- Phải nhổ thôi.
- Không thể có cách khác?
- Chỉ có nhổ. Nhổ đi rồi mới làm curetage (2) được.
Im lặng một phút. Cuối cùng chàng nói một cách chán nản:
- Nếu không có cách nào khác thì đành phải vậy chớ biết làm
sao?
Chàng tránh không dùng chữ “nhổ”, coi như nói lên chữ ấy là
mình đã mạnh bạo đồng ý với nha sĩ. Có thể người nha sĩ sẽ vin vào chữ ấy để
xem như chính chàng ra lệnh. Nhưng ông nha sĩ dáng chừng bình tĩnh đến mức độ
không cảm xúc. Lập tức ông ra lệnh cho anh phụ lấy ống tiêm, thuốc tê. Ông châm
mũi tiêm vào nuớu, châm chỗ này rồi chỗ nọ, cùng khắp vội vàng. Rồi xoi, rồi kềm,
ông ta túi bụi nạy, kéo, mắt chăm chăm nhìn vào cái răng như thù hiềm, như sợ
nó trốn đi mất. Cuối cùng, một tiếng “xoảng” trên nắp khay cái kềm bỏ xuống, miếng
bông thuốc ấp vào và Văn hoàn toàn là một bệnh nhân thiểu não.
Trên đường về nhà, chàng thầm thương cho mình và cho anh thợ
trồng răng hiệu Hồng Phát mà chàng vừa ghé cách đây năm bữa. Bữa ấy chàng còn
đinh ninh là răng mình còn tốt và người thợ trồng răng rất đồng ý với chàng về
điểm đó. Anh ta đề nghị một cách êm đẹp:
- tôi lấy gân máu cái răng này rồi tôi sẽ cưa đi. Xong đâu
đó, tôi tra pi-vô răng xương vào. Răng xương “mác” bên Tây cẩn thận có bảo đảm
và vàng 18 ca-ra chớ không phải răng Nhật đâu.
- Bao nhiêu tiền?
- Tôi lấy ba trăm mỗi cái.
Chưa có kinh nghiệm về giá, nhưng chàng cũng kêu lên theo
thói quen của người mua:
- Đắt vậy?
- Giá biểu tôi vẫn đề sáu trăm đồng một cái.
Chàng liếc nhìn lên tấm ghi giá biểu và đồng ý là anh thợ nói
thật.
- Các nha sĩ họ đều tính sáu trăng đồng một cái.
- Thế cưa đi thì mấy ngày mới tra được răng mới vào?
- Cũng phải hai ngày.
Chàng cười to lên, như chế nhạo người thợ nói lẩm cẩm:
- Anh bắt tôi phải trống hàm răng trong hai ngày! Một ngày
thôi. Một ngày chủ nhật.
Anh thợ lắc đầu:
- Một ngày thì không kịp vừa lấy dấu răng, vừa đúc thạch cao,
vừa đổ vàng, vừa làm cho sắc sảo cạnh góc. Một ngày không được đâu. Hai ngày là
nhanh nhất rồi đó.
Không chịu để cho hàm răng bị trống hai ngày để hôm nay chàng
cam nhận một lỗ trống trong một tháng rưỡi. Vì lời ông nha sĩ còn như văng vẳng
bên tai:
- Cái răng nhổ xong, ông phải súc miệng với Septyl trong 10
ngày. Uống Trisulfazine, Tetracycline 10 ngày. Một tháng rưỡi sau nghĩa là (ông
dò lên cuốn lịch treo tường để gián tiếp nhắc chàng nhớ rằng việc này quan trọng
lắm) 15 tháng Giêng ông mới có thể trồng được răng mới.
Chàng lặng nghe, không phản kháng không mặc cả ngày tháng như
lúc ngồi ở hiệu. Nghĩ đến đây, chàng thầm thương cho mình và cho anh thợ Hồng
Phát. Đồng thời, mối lo len lỏi đến. Chàng làm nghề dạy học nên trống một cái
răng không phải là việc dễ có thể bỏ qua. Trước nhất là sự xấu xí buồn cười của
một hàm răng “trống cửa sổ”. Thầy giáo thường ngày vẫn nghiêm trang xứng đáng với
sự tín phục của học sinh, mà tâm lý của người học sinh là không muốn chấp nhận
một khuyết điểm nào ở nơi thầy giáo của họ hết. Thế thì bạn làm sao? Chắc chắn
là không thể nói tự nhiên như ngày thường để cái lỗ trống làm trò cười cho học
sinh khiến trí óc họ xao lãng mà lời giảng của mình cũng kém hứng thú. Nhưng
che giấu cũng không được vì sớm chậm gì học sinh họ cũng tìm ra sự thật mà một
khi họ đã tự khám phá ra sự thật thì họ sẽ yếu tố hiếp mình dữ lắm. Suy tính đắn
đo đủ chiều, cuối cùng chàng quyết định: sẽ vừa nói sự thật vừa giữ cho mình
không hóa thành trò cười.
(2) nạo sạch
Sáng thứ Hai chàng vào lớp. Sau khi đâu đó im lặng, chàng liếc
nhìn cả lớp một cách chững chạc rồi tay trái che miệng, chàng chậm rãi nói:
- Tôi vừa bị một tai nạn nhỏ làm hỏng một cái răng. Phải
trong một tháng rưỡi mới chữa xong. Trong thời gian đó, có những âm lưỡi, âm
răng như PH, V tôi không phát âm rõ được. Xin anh chị em chịu phiền và nhất là
giữ im lặng hơn ngày thường.
Vẻ mặt nghiêm trang và giọng nói hơi buồn khiến học sinh kính
cẩn nghe. Họ không biết là chàng bị tai nạn gì. Có lẽ ngã xe chăng? Chắc không
phải vì mặt mũi chàng lành lặn thế kia. “Còn chữa” nghĩa là thế nào? Nhưng
chàng không để cho họ suy nghĩ lâu. Chàng mở sổ gọi đọc bài và như thế là mọi
người giũ hết thắc mắc.
Đối với một vài lớp đầu tiên thì dễ như thế đó. Nhưng có những
lớp đến thứ Tư hay thứ Năm thứ Sáu, chàng mới có giờ dạy thì tình hình biến
chuyển bi quan hơn. Số là cái tin chàng bị gãy răng đã loan truyền đi và học
sinh các lớp sau này cứ lén khúc khích với nhau khi gặp chàng khiến cho câu mở
đầu mất vẻ tự nhiên và nghiêm trọng đi. Riêng ở một lớp nọ thì ngẫu nhiên mà có
một học sinh cũng bị bẻ răng nên hôm ấy anh ta đi học cứ lấy tay bịt miệng. Oái
oăm là chàng kêu nhằm anh ta lên đọc bài. Thế là ở dưới lớp chỗ này chỗ kia có
tiếng rúc rích cười. Một chị học sinh chừng thú vị quá phải nói bật thành câu:
- Hai cha con…
Chàng nghe, cũng muốn cười theo vì lời có duyên và hợp cảnh.
Nhưng chàng phải cố kiềm hãm tiếng cười. Lời pha trò có duyên thật khó làm cho
ta giận được. Cũng như ta khó ghét một người đẹp dẫu người ấy có những khuyết
điểm. Qua đi giai đoạn nhập đề, đến phần gay go là phần tiếp xúc hàng ngày. Phải
tập sao cho bàn tay trái lúc nào cũng kịp thời đưa lên che miệng khi miệng phát
ra một tiếng nói. Khi nói cả câu dài, khi giảng bài thì việc này không khó.
Nguy nhất là những khi bật ra cười. Cười là cái biểu lộ tức thời có tính chất
phản xạ tự nhiên. Đợi có một bàn tay đưa lên che miệng rồi mới cười thì cái cười
đâm ra ngượng nghịu tính toán. Khi chưa quen khi chưa tập kiềm chế được, chàng
đã vài lần lỡ cười rồi mới chợt nhớ ra mà ngượng nghịu mím miệng lại. Sau vài lần
khuyết điểm như thế, chàng giữ thái độ khắc khổ của một người có tâm sự để đối
phó với sự quyến rũ của những tiếng cười xung quanh. Đến việc phát âm. Những chữ
phụ âm môi răng (consones labio-dentales) lúc nhỏ học văn phạm đọc thuộc lòng một
cách khó khăn, bây giờ không cần coi lại sách mà vẫn nhớ. Cứ việc phát âm lên rồi
chữ nào xì hơi ở ngay cái chỗ lỗ răng trống là biết ngay nó thuộc phụ âm môi
răng. Ví dụ phụ âm V. Thật là phiền phức khi tiếng Việt có người chữ bắt đầu bằng
V: vì, và, vâng, vả lại… Nhiều chữ khi gặp phải chàng tránh đi, như thay chữ
“vì” bằng “bởi”, “vả lại” bằng “hơn nữa”. Nhưng đó là khi giảng bài, có thể hoặc
nói hoặc không, có thể thay chữ này bằng chữ khác, còn khi đọc bài cho ghi chép
thì không thể nào trốn tránh được. Có những đoạn oái oăm như:
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái.
Hoa để vàng bởi tại bóng dương
Hoa vàng hoa rụng quanh tường…
Mỗi lần đọc chữ Vàng, chàng phải làm ra vẻ lơ đãng lấy một
ngón tay ấn khít môi vào chỗ lỗ răng trắng rồi mới phát âm. Chữ “vàng” phát ra
nghe nhọc mệt và lờ mờ. Chàng nhớ liền đến lời ông nha sĩ khi chàng tỏ ra băn
khoăn:
- Mất một cái răng trong hơn một tháng thật phiền cho việc
phát âm.
Người nha sĩ trả lời không cần suy nghĩ:
- Mình sẽ vận dụng môi lưỡi để thay thế.
Ông ta không nói xem vận dụng như thế nào và chàng cũng không
muốn quấy rầy hỏi kỹ, coi như đó là việc nhỏ. Mà quả thật, khi gặp vào việc thì
tự nhiên mình tự biết cách xử sự lấy. Và phải gặp lúc mất đi một cái răng chàng
mới thấy rằng nói tiếng miền Nam, như mình thật có những sự tiện lợi. Đó là
khi, dùng chữ “Và”, một chữ hay trở lại trong câu nói. Nói giọng miền Nam,
chàng dùng chữ “Với” và phát âm như “Viới”. Nhưng san phẳng đi được mấy trở ngại
đó trong giờ nói tiếng mẹ đẻ thì khi dạy tiếng Pháp chàng không thể tránh những
chữ Vous, Voir, Va, Viens… Ở đây thì không phân biệt giọng Nam giọng Bắc nào nữa
chỉ còn phương pháp độc nhất là lấy ngón tay ép môi vào lỗ răng thôi. May thay,
không người học sinh nào để ý đến cái ngón tay chiến lược của thầy. “Đoạn trường
ai có qua cầu mới hay” chàng thầm nghĩ. Và chàng tự an ủi: “Mất đi một cái
răng, mình có được biết bao những kinh nghiệm độc đáo về cái răng”.
Ngày đầu bàn tay trái phải luôn luôn giơ lên che miệng khiến
cánh tay mỏi rừ. Những giờ cuối cùng trong ngày, cánh tay mỏi muốn run lên.
Ngày hôm sau chàng phải ngồi lại bàn, chống một tay để xa trước miệng vừa nói,
y như một diễn giả lấy điệu bộ hoặc như một nhà trí thức đang suy nghĩ. Vừa che
giấu được cái xấu lại vừa tô điểm cho dáng dấp thêm đẹp, thật là một cử chỉ đơn
giản mà quí giá. Sự phát minh này khiến chàng giảng bài một cách thích thú. Như
một nhà nghệ sĩ mê say đi tìm những hình thức phô diễn mới, qua những ngày sau,
chàng chỉ dùng một ngón tay trỏ cung lại để ngay trước miệng ngay chỗ cái răng
trống. Và không biết vào ngày thứ mấy, chàng lại phát minh ra lối để dựng một
quyển sách lên bàn cách xa mình 2 tấc, vừa đủ che miệng. Tuy vậy, những lúc
thong thả thoải mái hơn hết vẫn là những lúc đứng ở cuối lớp quay mặt lên để đọc
bài cho học sinh chép. Những lúc đó chàng khỏi phải che tay giấu miệng gì hết
vì học sinh đều ngồi ngó lên thuận chiều với chàng. Sau chừng ba ngày những cử
động quen đi. Biểu diễn thứ tự nhịp nhàng không còn lẫn lộn nữa. Dù vội vã trả
lời lại, dù bất chợt bật ra cười, nhưng tay chàng đều kịp thời đưa lên che miệng.
Cái răng đã thường xuyên ám ảnh khiến lúc nào chàng cũng để ý
đến cái răng. Gặp một người, ngồi nói chuyện là y như mắt chàng nhìn thẳng vào
đôi hàm răng của họ. Và đến đây chàng mới thấy rằng mình đã sống rất hời hợt,
tiếp xúc lâu với một người mà mình không hề nhìn kỹ họ. Lần này có nhìn kỹ mới
thấy rằng người bạn mình mất hết một cái răng nanh hàm dưới khiến phía môi ấy
móp lại. Một anh bạn khác nghe chàng than phiền về cái răng gây ra tai họa liền
tươi cười đáp:
- Anh tưởng răng của tôi tốt lắm sao? Này…
Anh bạn há miệng rồi chỉ vào dãy răng hàm hàm trên không còn
cái nào.
- Răng hàm hàm trên nhổ hết. Răng hàm hàm dưới còn vỏn vẹn
hai cái. Đó là hàm bên trái. Răng hàm bên tay mặt cũng như vậy. Tôi ăn chỉ nhai
lỏn chỏn bằng mấy cái răng cửa nên ăn rất chậm.
Chàng nói một cách thất vọng:
- Ai có thể tin được thấy anh béo tốt thế kia.
- Đâu đã hết? Ruột của tôi lại cũng là thứ ruột bệnh hoạn.
Đem rọi kiến chụp hình thì thấy cái kết tràng lên bị a-míp ăn bám dày đi.
Chàng nhìn bạn và thấy yêu bạn hơn trước. Bệnh tật là một mối
liên hệ bạn hữu. Chàng được an ủi khi biết rằng chung quanh mình, những người
khác không phải đều hoàn toàn khỏe mạnh, hoàn toàn sung sướng hết. Trong khi đó
thì có những người làm chủ những hàm răng tuyệt đẹp. Một cậu học sinh nhà ăn
chay trường lên đọc bài để lộ một hàm răng quá đẹp so với dáng dấp lam lũ của
anh. Hàm răng trắng tinh, nhỏ và đều. Chàng nhìn hàm răng một cách say mê như
khi nhìn một tác phẩm mỹ thuật.
Chàng thầm nghĩ và tiếc vẩn vơ, có một hàm răng tốt như thế
này mà chỉ để ăn rau đậu không thì cũng uổng. Cứ say mê chú ý vào những hàm
răng khiến có lúc chàng suýt cười to lên khi tự ví mình với anh lái buôn ngựa.
Muốn biết tuổi ngựa, chỉ cứ nhìn hàm răng nên bị méo mó nghề nghiệp, chắc anh
ta chỉ thấy những răng là răng. Dễ thường trong giấc mơ anh cũng chỉ thấy toàn
răng ngựa!
Nhân nhìn răng người, chàng chợt nhớ đến răng của con mình.
Chàng soát lại răng của con và thấy mình đã thiếu sót phận sự. Thằng Tịnh có 2
cái răng nanh mọc lỗi. Đáng lẽ khi răng sữa lung lay, mình phải đưa đi nhổ ngay
để nhường chỗ cho răng vĩnh viễn mọc ngay thẳng. Hết phương cứu chữa cho đứa lớn,
chàng kiểm soát đứa nhỏ. Vài cái răng sún nhổ rồi, - do ai nhổ và nhổ bao giờ,
chàng không hề nhớ, than ôi - chàng không hiểu có còn kẹt lại chân răng không.
“Thôi, để vài bữa mình đến chữa răng, đưa nó đến hỏi thăm luôn nha sĩ”, chàng tự
dặn như vậy.
Đúng hôm hẹn phải đến nha sĩ, chàng bảo người ở:
- Hôm nay chị Hai khỏi phải đi ra trường đón em. Tôi đi đón lấy.
Chàng đi ra xe thẳng trường để đón con. Bé Phượng thấy chàng
đến đón mừng quá.
- Hôm nay chị Hai đi đâu không ra đón con, hở Ba? - Bé Phượng
lật đật hỏi:
- Chị Hai bận.
- Ba chở con ra biển ngồi chơi mát đã rồi hãy về. Ừ, mà thôi,
đi ra phố chơi đi Ba.
Chàng mỉm cười ranh mãnh nhìn con:
- Chắc ý con muốn nói: rồi chúng muốn ghé lại hiệu kem Tuyết
Viên ăn chơi như bữa trước. Có phải vậy không?
Phượng cười rũ lên như khi chơi cút bắt với bạn, ngồi nấp một
xó kín bị bạn tìm bắt được.
- Kem ở hiệu đó ngon nhất đó Ba à. Thằng Trọng Tâm bảo con vậy.
- Điều ấy có thể đúng lắm. Nhưng hôm nay chúng ta không có
thì giờ. Nào, con leo lên xe đi, Ba chở con ra phố.
Phượng vui vẻ leo lên ngồi sau chàng, miệng hát vang bài hát
vừa tập ở lớp. Xe rẽ qua mấy phố rồi dừng lại trước phòng nha sĩ. Phượng ngạc
nhiên:
- Đây là chỗ nào? Hiệu Tuyết Viên ở mãi đằng kia mà.
- Vừa mới bảo xong: hôm nay không có thì giờ ăn kem. Ba ghé lại
nha sĩ để chữa cái răng. Con vào ngồi đợi một tí.
Quả tình cái phòng đợi lạnh lẽo này không làm cho bé Phượng
phấn khởi chút nào cả. Không có một chú bé bệnh nhân nào ngồi đó cả để cho Phượng
nhìn vào và bặm môi nhíu mày với nó. Hai người đàn bà đau răng ngồi hằn học liếc
mắt vào người mới đến. Mặc dù ba bảo ngồi, Phượng vẫn ôm cặp sách đứng ngó ra mảnh
sân nhỏ trước phòng. Ở đó, một dây nho nhẫn nại bò lẫn vào trụ cột đến mãi sát
giàn mới dám đâm lá xanh. Đợi đến lượt mình, Văn bước vào phòng sau khi dặn bé
Phượng ngồi chờ. Nha sĩ soát lại vết nhổ bữa trước. Nơi đó một cục máu đọng. Từ
màu đỏ bầm, đầu cục máu chuyển sang màu trắng nhợt trông bẩn thỉu. Buổi trưa ở
nhà chàng đã lấy lưỡi lay cục máu để đẩy nó đi. Nó không rơi ra. Chàng lấy ngón
tay đẩy. Nó chỉ nhích hở một chút. Hơi ngượng vì cái cục máu trông bẩn thỉu,
chàng bảo nha sĩ:
- Tôi đã lay cho ra mà không được. Lấy bông nắm rứt đi mà vẫn…
- Ấy chết, - nha sĩ la lên, - Ông muốn chết hả? Cứ để y
nguyên thế. Bông hút nước bẩn lắm, ông để vào bị sài uốn ván chết.
Văn thấy đầu mình khẽ choáng váng như vừa nhìn phải một cái
chớp giật. Sài uốn ván. Chết. Lúc nào cũng có thể chết được. Nhưng chàng đã tự
trấn tĩnh: cũng may mà bông chỉ chạm vào mặt ngoài của cục máu, phần máu chết.
Chỗ vết thương phải ở mãi tận trong.
Nha sĩ bôi thuốc lên. Khi đã xong, chàng ra cửa gọi con vào.
Bé Phượng nghiêm trang nhìn những khuôn mặt lạ và những dụng cụ lạ mắt. Chàng
nói:
-Nhờ nha sĩ xem dùm hàm răng cho cháu. Cái nào cần nhổ, cái
nào cần chữa…
Chỉ đảo mắt qua một lượt, nha sĩ đã bảo:
- Cái chân răng này phải nhổ đi để có chỗ cho răng sau mọc
lên.
Văn nhìn xuống đồng hồ: 6 giờ chiều. Chàng nói:
- Để hôm nào trở lại.
- Có thể nhổ ngay liền bây giờ.
Và thế là cái mũ và cái cặp sách phải rời bé Phượng lại nằm
lên bàn giấy ông nha sĩ để bé Phượng được bế lên ngồi trên ghế da, mặt ngơ ngác
không biết người ta sắp làm gì mình. Rồi những hiệu lệnh “mang khay… lấy thuốc
tiêm…” được truyền đi nhẹ nhàng, mũi tiêm liên tiếp đâm phập vào nớu răng, cái
kềm bẻ vẹo theo cánh tay, cái chân răng vất “xoảng” lên khay. Bé Phượng chưa kịp
phản kháng, chưa kịp ưng thuận. Một miếng bông đắp thuốc đỏ được nhét vào lỗ
răng, hai hàm ngậm chặt. Và chàng chở người nạn nhân bất ngờ này về nhà.
Từ lần ngộ nạn này, Phượng mừng rỡ một cách rất dè dặt khi thấy
Ba đem xe đến đón tại trường, thấy những cuộc chở xe đi dạo phố không chỉ hứa hẹn
vui chơi sung sướng như ngày xưa. Hiệu kem Tuyết Viên không được Phượng hăng
hái nhắc đến nữa.
Sự săn sóc răng cỏ cho con đã tam xếp xong, chàng nghĩ đến
răng cỏ của những người quen. Dạy học đến bài “giải phẫu bộ máy tiêu hóa” chàng
dừng lại khá lâu để giảng về răng. Thôi thì: vệ sinh khi răng lành, khi răng
sâu, có nên nhổ ngay khi nhức không, các phương pháp chữa răng trồng răng… Đôi
khi giữa những lời giảng say sưa chàng lẩn thẩn nghĩ: Phải chi mỗi trường có
nhiều thầy giáo để khi dạy những bệnh tật ghi trong chương trình người ta xếp
cho thầy nào đã mắc bệnh gì thì dạy ngay bệnh ấy. Đối với bạn thì chàng hóa ra
người cố vấn nhiệt thành.
- Anh nên làm cua-ron bằng bạch kim cho cái răng đó… Ồ! Ghé lại
nha sĩ họ lấy gân máu cho. Đừng tin người thợ cẩu thả đó.
Bày vẽ cho người ta nhưng rốt cuộc lại bị người bày vẽ lại.
Việc ấy xảy ra thế này. Số là từ ngày bị mất cái răng, chàng chỉ che miệng khi
nói với học trò và người lạ, còn đối với người quen thì chàng cứ để tự nhiên.
Che dấu là một cách tự hạ mình và có thể bị xem là một lối làm dáng quê mùa.
Tuy vậy đối với những người đàn bà quen thì chàng không thể cười nói tự nhiên với
một cái răng thiếu, thiếu một cách trắng trợn thô lỗ như vậy. Mà thật thế, cái
hàm răng trống một lỗ đen trông vừa buồn cười vừa ngu si. Để cho một người đàn
bà thấy nó, chàng coi như là một sự khiếm nhã, y như chàng tiếp họ với một cái
sơ mi quên cài hột nút. Một hôm nói chuyện với một chị bạn quen, chị bạn nhận
xét: Anh coi chừng kẻo mà thành tật đó nghe. Cái tay che miệng đó. Trước đây
tôi cũng có một cô bạn quen cũng nhổ răng như anh và cũng phải che miệng như
anh suốt thời kỳ chưa trồng răng giả. Sau đó, răng mới đã trồng nhưng tật cũ
không bỏ được. Những lúc ngồi nói chuyện, khi chợt cười cô ta vẫn đưa tay lên
che miệng.
- Tật giữ trong bao lâu, chị?
- Hai năm sau tôi vẫn thấy cô ấy che miệng.
Quả là một điều khá đáng lo thật vì mới 5, 6 ngày nay mà việc
đưa tay che miệng đã hầu thành một cử chỉ tự nhiên. Cả đến khi nói chuyện với
những người lớn, những người quen mà chắc chắn mình không cần và không nên giấu
giếm gì cả, thế mà chàng cũng quen tay đưa lên che miệng. Khiến một bà cụ quen
thân ái bảo:
- Ông giữ chừng kẻo đưa tay che miệng hóa thành một thói quen
đó. Tôi đã biết có mấy người như vậy. Cứ nói như thường, che làm gì?
Chàng thầm nghĩ: Lẽ tất nhiên là nói chuyện với cụ thì không
nên che làm gì thật.
Nhưng tuy nghĩ vậy mà lúc để tay xuống chàng vẫn mường tượng
nghĩ đến cái xấu xí của hàm răng nên chàng cứ thấy ngường ngượng. Bà cụ tiếp:
- Che miệng là một cử chỉ không đẹp.
Qua hai lần bị phê bình, chàng thấy người đàn bà chú ý đến
cái đẹp hơn đàn ông. Và sự phù hợp của hai điều nhận xét khiến chàng thành thật
lo trước cho cái thói quen xấu mà mình sợ sẽ không tước bỏ được.
Thứ Bảy tuần đó, y hẹn, chàng đến phòng nha sĩ, để nhận sự
săn sóc cuối cùng. Chàng hỏi thể thức trồng lại cái răng.
- Chỗ răng nhổ đi sẽ trồng thay bằng một cái răng xương,
nhưng nó phải bám vào 2 cái răng hai bên. Có hai cách trám. Một là bao vàng
răng bên cạnh, hai là làm pi-vô. Làm pi-vô, thì phải lấy gân máu và cưa cái
răng đi rồi thay răng xương vào.
- Như thế thì tiếc cho hai cái răng vô tội. Vả lại còn bị đau
nữa khi lấy gân máu, khi cưa.
- Nhưng mà đẹp hơn là bao vàng. Các bà các cô thì đều chịu
đau để đẹp. Có người cái răng mọc không đều, các cô đem đến nhờ nhổ đi và thay
răng xương vào.
- Nếu tôi làm răng ở đây thì ông tính bao nhiêu mỗi cái?
- Sáu trăm đồng. Phải trồng cái giữa và bám hai cái hai bên.
Thế là 1800 đồng.
- Nếu ông lấy gân máu và làm pivô thì mỗi răng thêm hai trăm.
Cộng lại là hai nghìn hai.
Văn suýt bật cười lên vì mình đã đoán đúng. Người nha sĩ tính
đúng như lời anh thợ Hồng Phát đã nói còn nhớ thêm hai trăm đồng lấy gân máu
cho mỗi cái răng. Chàng nói:
- Người ta bảo khi chữa răng thì đến nha sĩ nhưng khi trồng
răng bịt răng thì có thể nhờ thợ trồng răng. Họ tính rẻ hơn.
Nha sĩ mỉm cười một cách gượng gạo. Có lẽ ông cũng nhận rằng
lối lý luận vừa rồi là đúng. Tuy vậy, ông vẫn nhẹ nhàng nói:
- Nghĩa là… người thợ răng họ cũng làm cho ông có cái răng.
Nha sĩ tính tiền chàng phải trả. Khi trả tiền xong, chàng cám
ơn người nha sĩ và bắt tay giã từ. Bước qua vuông sân rộng, chàng cảm tưởng
mình cũng đồng thời giã từ cái hình ảnh nghèo nàn của người nha sĩ mà mình có
khi đầu tiên tiếp xúc với ông. Quả tình lần đầu tiên đến ngồi ở phòng nha sĩ,
chàng thấy thương cho thân phận người nha sĩ.
Trong phòng mạch của bác sĩ, lăng xăng rộn rã bao nhiêu nữ y
tá, thế mà ở đây chỉ vỏn vẹn có một anh phụ việc. Anh này lại thật thà, hơi quê
mùa nữa, nên cảm tưởng vắng vẻ càng tăng thêm. Có lẽ chỉ cần một cô y tá hoặc đẹp
hoặc làm dáng là đủ làm rộn ràng cái không khí của căn phòng, sắc đẹp hùng biện
như lời nói có khi hơn lời nói. Không có đôi ba cô y tá nhí nhảnh với nhau để
khách hàng vui lây thì sắc đẹp của một cô cũng có thể làm cho họ nghĩ ngợi vẩn
vơ mà trong khi đợi chờ đỡ tẻ. Dáng người nha sĩ lại thiếu bệ vệ. Trắng hơn một
chút, béo hơn nhiều nữa và đôi mắt nặng nề mỏi mệt hơn thì ông sẽ có vẻ giàu có
sung sướng hơn. Thêm vào đó mấy cái ghế ở phòng đợi chàng không thấy có lần nào
có khách ngồi đầy. Chàng tự nhiên có cảm tình với ông ta như với một người bạn
xấu hổ. Cảm tình đó hôm nay chàng đánh mất. Điều này làm cho chàng không vui vì
quả tình chàng như vừa mất một người bạn. Nhưng nếu cảm tình đối với người nha
sĩ bị nhạt đi thì trái lại chàng thấy thêm tình yêu mến đối với anh thợ răng Hồng
Phát. Khi biết rằng trồng một cái răng với giá 300đ là không hớ một tý nào cả,
chàng thấy yên tâm lạ. Chàng không còn nhìn anh thợ Hồng Phát với một ý nghi kỵ
nữa. Chàng không còn phải loay hoay để định trả một giá, trả sao cho khỏi bị đắt
vừa khỏi quá rẻ. Chàng chỉ cần định điều kiện thôi. Hôm sau chàng đến hiệu Hồng
Phát.
- Anh phải cưa một cái răng?
- Phải cưa một cái.
- Còn răng kia thì nhất thiết phải bọc vàng?
- Phải bọc vàng, không có cách gì khác.
Tâm hồn chàng rơi thõm vào cái mệt mỏi của những ngày trước
đây khi không tìm một giải pháp nào khác hơn, tốt đẹp hơn là phương pháp bọc
vàng. Chàng nói thẫn thờ như một lời nuối tiếc:
- Không thể tránh được…
Anh vội vàng trấn tĩnh:
- Nhưng tôi sẽ làm thật cẩn thận và mỹ thuật. Đường chỉ bọc sẽ
rất nhỏ. Ông cứ yên tâm.
Chàng nói:
- Thôi được. Một tháng rưỡi sau tôi sẽ trở lại. Nha sĩ bảo phải
đợi cho hết hạn đó.
Một tháng rưỡi ngượng nghịu âm thầm qua, tối tăm như giữa mùa
mưa gió. Khi kỳ hạn đến, chàng ngoan ngoãn ghé lại hiệu Hồng Phát. Người thợ
trình bày rõ ràng hơn về những công việc phải làm trong hai ngày để hoàn thành
cái răng. Chàng vẫn cố mặc cả một ngày thôi, ngày chủ nhật, nhưng quả tình người
thợ không thể làm được. Chàng đành phải nhẫn nại chịu nhận hai lỗ răng trống
trong hai ngày. Thật là quá sức chịu đựng, khi một lỗ răng trống thôi đã đủ làm
chàng khó chịu. Khi ngồi lên ghế, chàng đợi nghe tiếng vù vù của bàn cà quay.
Và khi bàn cà chạm vào răng, một cảm giác tê buốt chạy rần ở cột xương sống, tỏa
một luồng lạnh ra khắp lưng. Hình như bao nhiêu bắp thịt ở lưng co rúm lại. Một
mùi bột xương nhàn nhạt hăng hắc bốc lên mũi. Hết bàn cà tiếp đến bàn nạo, bánh
xe cưa… thần kinh của chàng như bị những tấn cống dồn dập.
Khi thân răng gãy nhẹ giữa hai ngón tay của người thợ, chàng
quay sang cầm ly nước súc miệng và vội vàng đưa chiếc gương lên soi. Thật bất
ngờ, chàng đang đợi một lỗ trống toang ghê tởm thế mà sự thực thì lỗ trống mới
không khác với lỗ răng trống bữa trước mấy. Sự bất ngờ có lợi này mang lại cho
chàng một thú vị nhỏ khiến chàng vui vui. Căn phòng chữa răng màu trắng, màu của
tường và của dụng cụ, chàng thấy bớt vẻ lạnh lẽo. Khi bắt tay từ giã anh Hồng
Phát, chàng bắt tay chặt và giữ tay anh ta hơi lâu.
Tuy vậy suốt hai ngày sau, không lúc nào thôi băn khoăn về
cái răng xương mà chàng sắp nhận. Người thợ hết lời cam đoan về nghệ thuật và
kinh nghiệm của anh, nhưng nếu chàng có thể sẵn sàng tin ở sự thành thật của
anh thì trái lại chàng có nhiều nghi ngờ về trình độ thẩm mỹ của anh lắm. Do đó
mà chiều hôm sau, khi đến hiệu, chàng thấy mình hơi hồi hộp. Anh thợ tiếp niềm
nở nhưng không khiến chàng yên tâm. Dù cố giữ để không hỏi - chàng biết câu hỏi
và câu trả lời đều vô ích, - nhưng rốt cuộc chàng vẫn hỏi:
- Có đẹp không?
Người thợ tròn đôi mắt và cái miệng.
- Thưa…
- Cái răng làm có đẹp không?
- A! Đẹp lắm. Để rồi ông xem.
Ở phòng khách, ngồi đối diện với chàng là một người đàn bà tuổi
chừng hơn 40. Người ấy ngồi im, miệng ngậm một cách lúng túng. Chàng nghĩ: có lẽ
người đàn bà này bị nhổ răng. Chợt người ấy hỏi người thợ:
- Sao tôi thấy nó cồm cộm đau đau.
Người thợ ngắt lời:
- Không sao đâu. Tôi đã coi kỹ rồi.
Người đàn bà im lặng nhưng dáng vẫn đăm chiêu. Đôi mày nhíu lại,
tia mắt nhìn về người thợ có một vẻ gì bực tức. Cuối cùng người ấy lại rụt rè:
- Sao tôi thấy nó cứ đau đau.
Người thợ xẵng giọng:
- Tôi đã nói rồi mà. Tôi đã xem kỹ rồi.
Văn hỏi người thợ:
- Chắc bà kia nhổ răng.
- Không. Bà ấy trồng răng.
Như mừng có dịp để phân trần, người thợ vội vã:
- Bà này trồng cả một hàm răng giả. Phải lựa thứ răng đen hiệu
Nhật Bản cho bà ta. Tôi lấy cả hàm có 1.800đ. Vậy mà bà còn kỳ kèo là đau và cộm.
Hiệu tôi làm có bảo đảm, ai cũng…
Khi câu nói chuyển sang mục quảng cáo, Văn không để ý nghe nữa
mà chăm chú nhìn hàm răng đen đều đặn mà đôi môi của người đàn bà hé mở cho thấy.
Chàng nghĩ đến sự chu đáo của kỹ nghệ, tạo ra loại răng đen đặc biệt của một
thiểu số người còn sót lại trên các lãnh thổ vòng quanh Thái bình dương, ít ỏi
và đặc biệt như những động vật thời khuyết sử còn lại. Người thợ đứng dậy mời
chàng:
- Xin mời ông vào phòng răng.
Chàng đi theo người thợ, bỏ lại người đàn bà băn khoăn một
mình ở phòng khách với một hàm răng bị hắt hủi.
Khi chàng ngồi chững chạc lên ghế rồi thì người thợ mở tủ lấy
cái răng đã làm xong đưa chàng xem, kèm theo một câu đề bạt:
- Ông coi xem, đẹp hết sức rồi đó.
Chàng cầm nhìn. Đường vàng viền nhỏ, có thể gọi là tinh vi so
với tác phẩm của anh thợ cũ ở Bồng Sơn. Tuy vậy chàng vẫn tham lam:
- Anh không thể làm cho nhỏ hơn nữa được sao?
Người thợ nhún vai la to lên, ngạc nhiên như vừa nghe ai phủ
nhận tên mình.
- Như thế này mà ông còn chê sao? Tôi gò suốt cả một buổi
sáng nay mới được đó.
- Tôi không chê. Phải nói khen thì mới đúng. Nhưng ý tôi muốn
hỏi là ông có thể làm tinh hơn nữa không.
Mặt người thợ dịu xuống, nụ cười hài lòng nở rộng và giọng
nói cũng dịu lại.
- Chịu thôi, như thế là đẹp nhất rồi đó.
Vừa nói, người thợ vừa lẳng lặng tháo hồ trám, tra pi-vô và
tra răng mới vào. Khi ngón tay người thợ đẩy ép chiếc răng mới đi sát vào nướu,
chàng thấy đau đau. Nhưng liền sau đó là một cảm giác ấm áp đầy đủ, cảm giác của
hàm răng trống trải nay đã chấp nhận một bộ phận mới. Chàng lấy gương soi. Hàm
răng đều đặn như tự thuở nào nó vẫn thế. Dù vậy, vẫn có một chút ngượng ngập gì
trong cảm giác. Cái răng mới dường như cứng nhắc, nặng nề, thiếu sự thong thả dễ
dãi của những cái răng tự nhiên. Chàng nhìn lâu vào bóng hàm răng phản chiếu
trong gương, gạt bỏ cái phần cảm xúc chủ quan để nghe lòng vui vui vì hàm răng
đều đặn và bóng sáng.
Trả tiền và lấy giấy bảo kê xong, chàng cám ơn người thợ. Lời
cám ơn thành thật, khác với nhiều lúc chàng nói vì xã giao. Đi qua phòng khách
chàng chợt nhớ đưa mắt tìm người đàn bà ban nãy, nhưng các ghế trống không. Chắc
chán nản người đàn bà đã bỏ ra về. Chàng tưởng chừng cảm thấy được sức cộm của
cả một hàm răng mới trồng của người đàn bà. Những giây thần kinh ở nớu, ở má, ở
môi… đều như nhất loạt không chấp nhận kẻ ngoại lai là cái hàm răng giả.
Khi bước ra đến đường phố, sự suy nghĩ của chàng đã vẩn vơ
chuyển sang giá trị của những vật giả. Ai biết được hàm răng đen “rưng rức hạt
na” của người đàn bà kia là giả? Ai biết được hàm răng trắng bóng, đều đặn của
một người thiếu phụ sang trọng nào đó là không thiệt? Đi xa hơn hàm răng, chúng
ta gặp những hàng lông mi cong, những nốt ruồi đẹp, những bộ ngực nở nang,
nhưng càng thấy đẹp người ta càng đặt vấn đề nghi ngờ. Thực hay giả? Sự giả dối
tinh vi làm tổn hại không ít cho sự thật thà. Một người có cái ngực đẹp tự
nhiên, có hàm răng đẹp tự nhiên, có chuỗi ngọc trai thật, vòng kim cương thật,
dễ bực mình biết bao khi kẻ bàng quan không phân biệt được họ với chủ nhân những
món hàng giả. Giá trị con người thật khó định đoạt khi chân giả lẫn lộn xung
quanh mình.
Ý nghĩ của Văn bị ngắt quãng khi đi qua một hiệu tạp hóa quen
người chủ hiệu mỉm cười chào chàng.
- Chào ông. Lâu ngày không thấy ông đi phố.
- Chào bà. Hơn một tháng nay tôi… bận.
Chàng ghé vào hiệu mua vài món hàng lặt vặt. Chàng trả lời
vui vẻ những câu hỏi của người chủ hiệu. Đến khi bước ra, chàng chợt nhớ rằng
lúc nói chuyện mình vẫn còn quen đưa tay che miệng.
Buổi chiều hôm đó, cứ lúc nào nhớ ra là chàng lại nhìn vào
gương để tìm xem cái cảm tưởng tốt đẹp về cái răng mới trồng có phải là một cảm
tưởng sai lầm chăng. Lần nào cũng vậy, chàng đều thấy là mình quả không lầm. Thật
hiếm hoi hết sức là sự hài lòng về một món hàng mà mình vừa mua hay vừa sắm.
Lâu lâu bất chợt nhìn vào gương, chàng sung sướng gặp mặt cái răng mới trồng, đồng
thời gặp gỡ luôn niềm vui của những ngày đầu sơ ngộ với nó.
Bốn tháng sau, một bạn đồng nghiệp của Văn bị tai nạn ô tô được
chở về nằm ở bệnh viện. Văn đến thăm. Những đường băng bó chằng chịt ở mặt, ở đầu,
ở cánh tay. Sau khi kể những vết thương tích anh mang trên người, anh bạn rên rỉ
nói tiếp:
- Bị gãy hai cái răng cửa nữa.
Chi tiết chót này suýt làm cho Văn cười lên. Chắc chắn là
thương tích không nặng lắm mặc dù băng bó khá bộn bàng nên anh bạn mới đủ tỉnh
trí mà nhớ đến hai cái răng.
Sau khi lành mạnh, người bạn đến văn phòng, miệng toe toét cười
hở lỗ trống của hai cái răng gẫy. Văn nhìn bạn giây lâu tìm xem có nét thay đổi
nào trên khuôn mặt ấy không, do lỗ trống gây ra. Trái với sự tưởng tượng của
chàng, nét mặt không có gì thay đổi lớn. Lỗ răng trống anh không che đậy, mới
nhìn thấy một lần mà như là vật cố hữu của anh, không tăng mà cũng không giảm vẻ
quen thuộc của khuôn mặt. Chàng lưu ý đến phản ứng của cô thư ký ngồi gần đó.
Người đàn bà đẹp bao giờ cũng có những phản ứng tự nhiên không kềm chế kịp khi
họ gặp một chi tiết nào phản lại mỹ thuật. Nhưng không, cô thư ký vẫn tươi cười
hỏi thăm sức khỏe của người bạn và tỏ ra vui mừng vì người bạn thoát nạn một
cách êm đẹp.
Chàng nghĩ đến một tháng sau người bạn phải đi trồng răng giả,
phải chấp nhận hai cái viền vàng bao hai chiếc răng kế cận. Số phận của chiếc
răng sẽ trồng chưa được định đoạt. Nó còn tùy thuộc ở người thợ mà anh bạn sẽ
nhờ đến. Nó có thể đem lại cho anh ta sự khó chịu hàng ngày. Chàng tự nhủ thầm:
May cho mình. Nhưng đồng thời chàng nghĩ: Tiếc thay, mình đã quên đi cái thú của
sự hài lòng.
Thật vậy, chừng một tháng sau khi trồng lại chiếc răng, chàng
thấy cái cảm giác sung sướng lúc đầu nhường chỗ dần dần cho cái cảm giác êm ả
bình thường cho đến một lúc nào đó chàng nhìn vào gương mà không còn để ý đến
chiếc răng trồng đẹp nữa. Trong khi đó, những mối lo thường dồn dập đến, đóng
đô ở tâm hồn chàng, vững chãi, thường xuyên. Thật là khờ dại. Con người thích
mơn trớn những nỗi băn khoăn, những nỗi khổ của mình, còn các điều toại ý thì họ
hưởng một cách vừa dè dặt vừa bủn xỉn. Đáng lẽ nên làm ngược lại. Chàng chợt
mong mình có thể bước ra đường, đi từng bước nhỏ, sống hồi hộp trở lại những
băn khoăn khi cái răng bị tuyên án, khi cái răng phải nhổ, khi cái lỗ trống gây
trở ngại âu lo và cuối cùng là niềm thoải mái khi cái răng mới trồng vừa ý
chàng mong. Sự êm ả thoải mái ấy, chàng muốn nuôi dưỡng cho nó kéo dài, thật
dài. Thấy lòng háo hức, chàng đứng dậy bắt tay người bạn và chào cô thư ký.
Chàng siết chặt tay bạn vừa vui vẻ nói:
- Một tháng sau anh tìm gặp tôi. Tôi sẽ mách cho anh một người
thợ trồng răng hữu hạng.
Võ Hồng
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét