Thứ Hai, 24 tháng 6, 2024
Những đứa trẻ chết già
Phần 1
- Bà đừng có bênh. Thằng chó dái, tôi không thể chịu đựng được
thói mất dạy. Tao thì tao nghiền mày ra như cám, hiểu chưa? Thằng đĩ đực.
Cảm giác về sự già nua rõ nhất mỗi khi ông bị ốm. Trong túp lều
tối ẩm, ông lắng nghe tiếng mọt nghiến ken két, tiếng nước ầm ì và tiếng gió lật
mái gianh. Bụi mọt phủ khắp người. Ông nghĩ rằng những bụi mọt kia sẽ phủ kín
mình nếu như ngày mai ông không dậy. Ngày mai đã qua nhưng ông chưa bị phủ. Rồi
ngày nữa, ngày nữa. Đầu ông chập chờn, nóng hầm hập. Ông liên tục mê thấy mình
đi trên đá. Dưới chân ông, những đốm lửa phụt lên rồi vụt tắt. Những ngọn lửa
giấu trong lòng đá, như ngày xưa nó giấu dưới đám rêu xanh trong câu chuyện về
ông ngoại. Mỗi lần ngọn lửa phụt lên là một lần đầu ông bị mũi dùi xuyên qua.
Trận ốm nặng nhất của ông kéo dài hai tuần. Khi dứt ốm, phải cố gắng lắm ông mới
gạt được lớp bụi đã đông cứng phủ lên mình. Lần đó tóc ông rụng hết hai bên
thái dương. Rồi mùa đông ông lại phải chống chọi với những trận lụt. Ông đeo bọc
quần áo vào cổ, cố gắng leo lên chóp đá cao nhất để thoát khỏi cơn đại hồng thủy.
Ông nhìn xung quanh, tất cả đều đục ngầu, đều cuồn cuộn, đều xoay tròn, vỡ nát.
Thị trấn ngập ngụa trong mưa. Mưa xối xả đến mức không thể trở lại được. Mọi thứ
rác rưởi cùng đồ đạc, xác người xác vật trộn vào nhau, nổi lềnh bềnh trong trạng
thái buông xuôi, bất lực. Nước à à khắp nơi. Nước vươn tay định kéo ông xuống để
mang đi đâu đó. Ông hoảng sợ, thấp thỏm chờ. Biết đâu thằng Tĩnh lại về những
lúc đó. Ông không biết nó ra đi vô tình hay cố ý. Khi kéo chiếc cải tiến chở
thuê về, ông gọi nhưng không nghe tiếng trả lời như mọi hôm. Ông lần ra mép đá
nơi ngày đầu gặp mẹ con nó và thấy một chiếc cần câu nằm chúc đầu xuống nước.
Ông lồng lên, chạy cuống cuồng dọc mép sông gọi nó. Ông gọi cho đến lúc kiệt sức,
gục xuống mỏm đá. Trăng xoã khắp người làm ông gượng tỉnh. Ông khóc rống lên.
Thế là nó đã đi. Nó đã bỏ ông một mình. Mẹ nó, người vợ đầu tiên của ông, cũng
từng bỏ đi mà không nhắn lại lời nào. Người ta chỉ cho ông một đống tro trắng xốp
nằm giữa khu nhà cháy. Đám cháy khổng lồ không rõ nguyên nhân đã đưa vợ ông đi
vĩnh viễn. Chỉ còn lại hai bố con nuôi nhau bằng chiếc xe cải tiến kéo thuê.
Ông âm thầm nghiến răng làm, cố gắng dành dụm cho thằng Tĩnh một số tiền. Nó phải
có cái để mà ăn, mà gây dựng vợ con khi ông không còn. Cũng dạo đó, ông quen
người đàn bà thứ hai. Cô ta phiêu bạt từ xuôi lên và tự nguyện theo ông về làm
vợ. Ngay buổi đầu, cô ta đã véo tai bắt thằng Tĩnh đi kiếm cành khô về làm củi
đun. Cô ta ăn khỏe như hùm. Phải công nhận rằng cô ta cũng biết xoay sở. Có một
dúm vốn, cô ta liền bỏ ông để đi theo một anh chàng bán thuốc bắc rong. Ông
không đủ sức buồn, chỉ lặng lẽ thu xếp những gì còn lại và tiếp tục duy trì cuộc
sống của hai bố con. Nhà có cái gì, cô ta mang theo hoặc đem bán đi hết. Một thời
gian dài sau đó, cô ta lại quay về. Ông không có nhà. Cô ta bắt thằng Tĩnh chỉ
cho mình chỗ ông giấu tiền. Nó không chỉ, nên bị đánh đập. Thằng Tĩnh chạy ra cổng.
Nó chửi điên cuồng cho đến khi sẩm tối, ông lóc cóc kéo chiếc xe về.
Bà giáo nhà cuối làng. Gọi là bà, nhưng năm ấy bà mới chỉ hai
mươi tuổi thôi. Bà lấy một anh chồng làm thợ rèn. Chồng bà to cao, da bóng nhẫy
cả trong mùa đông lẫn mùa hè. Bà giáo có chửa và sinh đứa con đầu lòng. Cả làng
mang quà đến biếu vợ chồng bà. Vừa ra đời, đứa trẻ đã gây sự kinh ngạc khắp
làng. Nó là trai. Người ta phát hiện ra rằng con bà giáo có râu. Không những thế,
ba bốn ngày sau tóc nó còn bạc trắng. Đứa trẻ không khóc, nó giương đôi mắt kèm
nhèm nhìn mọi người như phán xét. Vợ chồng bà giáo hoảng hồn. Không ai dám đặt
tên cho đứa bé. Hai tuần sau nó chết. Ngay bản thân vợ chồng bà giáo cũng chẳng
dám gọi nó là con. Bẵng đi một thời gian, khoảng ba năm, bà giáo lại có chửa.
Dĩ nhiên ngay sau lần sinh đầu, bà đã nghỉ không đi dạy học nữa. Ai dám cho con
đến học bà? Bà ở nhà trồng bắp cải. Những cây cải to chưa ở đâu bằng. Dân làng
nghi ngờ nhìn chằm chặp vào cái bụng phưỡn to của bà giáo. Bà sợ không dám bước
chân ra ngoài nữa. Suốt ngày ru rú trong nhà, chiếc bễ lửa ngoài cửa của chồng
bà giáo cứ ù ù như lên cơn điên dại, thù hằn. Bà giáo ở cữ. Lão Biền thi thoảng
lại bỏ cắt tóc vào thăm bà. Khi ra, bao giờ mắt lão cũng nhấp nhát, hai cánh
mũi phập phồng. Chồng bà giáo bỏ làm, rút vào với vợ. Bà giáo đẻ lúc nào không
ai biết. Dân làng thì thào rằng chính lão Biền đỡ đẻ. Họ xúm vào hỏi nhưng lão
chỉ gãi đầu im lặng. Gần một tháng trời vợ chồng bà giáo không ra khỏi nhà. Người
ta lồng lộn tò mò. Cùng với bí mật quyến rũ đến ghê người, làng tự dưng bị lâm
vào một tình trạng chưa từng xảy ra bao giờ. Đó là sự mất tiếng. Cứ về đêm, mọi
âm thanh của người và vật biến mất. Những con chó sủa không thành tiếng, chỉ thấy
mõm chúng há ra, ngậm vào như hình ảnh trong giấc mơ. Rồi con người cũng lâm
vào tình trạng đó. Mọi cử chỉ, ngôn ngữ về đêm được diễn ra dưới sự im lặng kỳ
quặc. Tất cả đều nhìn nhau kinh ngạc. Người nọ nhìn người kia và cách giải quyết
tốt nhất là đi ngủ thật sớm. Giấc ngủ cưỡng bức, vội vã chìm ngập trong mùi
hương thơm lựng từ miếu dì Lãm. Cả làng trở thành một chiếc bóng câm lặng khổng
lồ. Ngọn Rùng đen thẫm in trên nền trời. Khói hương bốc ngùn ngụt. Ngay cả tiếng
thầm thào ở gốc si cũng biến mất như kẻ tuân theo một mệnh lệnh nghiêm khắc.
Người làng vẫn không quên hướng mọi giác quan về phía vợ chồng bà giáo. Chuyện
vỡ ra từ hôm thằng Thành, con lão Mộc toét vô tình nhìn thấy bà giáo ẵm con xuống
bếp. Mà hôm ấy đúng vào ngày cả làng được trả lại âm thanh.
Hai bố con lão Liêm ngồi trên đỉnh đồi, giữa hai ngôi mộ.
Bóng đêm lảng vảng kéo đến vây lấy họ. Dòng Linh Nham sôi âm ỉ. Hải cau có gại
gại móng tay vào ống quần, chờ đợi xem bố định nói gì. Lão Liêm thả mắt bâng
quơ khắp vùng đồi đang thoi thóp giữa bóng tối. Tự dưng lão thấy khó xử vô
cùng. Đã có thể nói rõ cho thằng con không đáng một xu tin tưởng này điều lão
canh cánh ấp ủ chưa? Chẳng biết nó có xứng đáng được đón nhận, chia sẻ bí mật ấy
không nhỉ? Lão hiểu trước sau mình cũng phải nói, nhưng hình như chưa đến lúc,
vả lại lão biết mình còn dư sức lắm. Nói ra ngộ nhỡ thằng chết đâm chết dầm này
làm hỏng bét cả thì khốn. Đầu lão căng lên vô vàn câu hỏi, lão sực nhớ mình
chưa hỏi ý kiến ông bố. ở cái nhà này chỉ có hai người biết được điều thiêng
liêng và quan trọng đó. Nghĩ đi nghĩ lại, lão Liêm quyết định không nói nữa.
Trước lúc xuống nhà, lão hắng giọng bảo con:
Hải ngồi thở dốc, mồ hôi đầm người. Bà Liêm xua hang xóm về rồi
đóng cửa. Bà rên rỉ như đau đẻ. Cụ Trường ôm cột nhà, nhìn lên trời luôn miệng
kêu: “gay đấy, gay thật đấy”. Lão Liêm hồ hởi đi quanh Hải, nhìn con trai thán
phục ra mặt:
… Bác Lung đổ sụp xuống, bỏ ăn hàng tuần trời. Rồi một đêm
bác đùng đùng vác dao vào rừng chặt củi. Không ai cản được bác. Dì Lãm nhìn
theo bóng bác đi, miệng chúm chím cười thỏa mãn. Dì lại tiếp tục đốt hương. Mẹ
ông không ngủ. Mẹ ôm hai anh em ông vào lòng, mắt chong chong nhìn lên trần
nhà. Tiếng chặt củi của bác Lung vọng từ núi Rùng xuống chan chát, cộc cằn dữ tợn.
Cả làng í ới gọi nhau ra sân nghe ngóng. Quá nửa đêm không thấy bác Lung về.
Người ta đổ xô ra chỗ gốc si và tìm thấy bác nằm sóng sượt, không thấy con dao
đâu cả. Đám ma bác Lung diễn ra gọn nhẹ. Dì Lãm và bố ông không đến dự. Từ đấy,
hễ đêm trăng sáng, trên đỉnh núi Rùng lại vọng xuống tiếng chặt cây chan chát,
đều đặn. Tầm gần sáng tiếng chặt lại biến mất. Mẹ ông định đón hai người con
bác Lung về nuôi, nhưng vì đang ở thời sống khó khăn, với lại bố ông không đồng
ý, cho nên hai chị đó đã bỏ làng ra thị trấn làm thuê. Khoảng bảy tám năm sau
người ta thấy cả hai về nằm chết dưới gốc si. Chính ông và lão Biền đã tổ chức
chôn cất họ.
- Con người là thế, cô bé ạ, đang yên đang lành lại nổi cơn
lên, làm một chặp rồi rốt cuộc vẫn trở lại trạng thái ban đầu. Nó sẽ quay trở lại…
Cái đêm ở ghềnh đá, cạnh thằng Tĩnh, người vợ ấy đã hỏi ông,
hỏi rất nhẹ, vẻ thương cảm. Ông không trả lời, lê đến mép vực ngồi nhìn xuống
dòng nước lừ lừ, loáng rợn. Thời gian chồng chất lên cơ thể ông những thất bại
cay đắng về chuyện đó. Ông lại nghĩ đến Xoan. Ngay cả khi lão Hạng chỉ cho ông
cái cô gái điếm gầy ngẳng, ông cũng nghĩ đến cô. Đêm nghe thằng Tĩnh thở khò
khè, ông vùng dậy lang thang dọc sông Cầu, nhìn lơ vơ các lùm cây như hy vọng
tìm thấy điều gì quen thuộc. Mọi cái đều trốn chạy ông, chính xác hơn là chúng
chơi trò ú tim. Chúng trôi lênh đênh giữa chặng đường ông đi và bất lực tựa hồ
một sinh vật nhỏ nhoi, tuyệt vọng giữa dòng nước, đang cố gắng níu với những mảnh
ván để rồi lại lùi xa, lại đến gần. “Cuộc đời là cái chập chờn!”. Câu nói bâng
quơ của người vợ thứ hai trong đêm ngủ với nhau lần cuối còn in đậm trong trí
óc ông. Ông biết mình chẳng có một uy lực nào đối với những sự kiện đã, đang và
sẽ xảy ra quanh mình. Cuộc đời kiếm tìm lại dòng dõi, rốt cuộc trở nên nỗi cay
đắng không chối bỏ được đối với ông. Bác Lung chết, chị Cải chết, Xoan lang
thang phiêu dạt không biết đâu mà lần, rồi lão Biền, lão Hạng. Tất cả đều đã bỏ
ra đi mà biết đâu giờ này họ đang tụ tập nhau ở chỗ nào đó để nhắc nhớ về thời
đã qua của mình, không loại trừ khả năng họ lại nhắc đến ông cũng nên. Cái chết
của mẹ ông là điều hiển nhiên, ông quan niệm như thế, bởi vì người mẹ nào rồi
cũng chết đi, và người mẹ nào cũng sinh ra. Trên thế gian này chỉ có một bà mẹ,
bà sinh ra ngàn lần, chết đi ngàn lần và chỉ có một đám tang duy nhất mà thôi.
Còn những kẻ khác? Những kẻ mà cái chết của họ là sự vô tăm tích vĩnh viễn. Bởi
vì họ chưa từng sinh ra, nếu có, họ cũng mang đi những di sản cuối cùng đó. Phải
chăng họ là kẻ ích kỷ? Cái chết bao giờ cũng là điều vĩ đại cuối cùng mà con
người đạt đến. Bao nhiêu ngàn năm nay con người cứ khao khát thanh thản, khao
khao khát tự do, bình đẳng, khao khát cả nỗi cô đơn tịnh mịch nữa. Những điều
đó đều nằm trong cơ thể của cái chết. Cũng phải đến lúc cả ông, cả hai thanh
niên này, chưa biết chừng, cả kẻ ngồi trên con tàu kia nữa, cũng phải chết. Biết
đâu, lại may mắn chết cùng một lúc cũng nên. Ông luôn tin vào giới hạn, tin chắc
chắn như mặt trời sẽ phải tắt, mặt trăng phải lên. Tất cả đều có hạn định, trừ
gã đánh xe này. Thật kinh khủng khi nghĩ rằng gã không bao giờ chết. Gã không
già đi, cũng chẳng trẻ ra. Vậy thì sự tồn tại của gã còn gây ra nỗi nhức nhối
cho những kẻ sống. Cũng như trường hợp anh chàng Quang ở làng ông trước kia.
Cái chết của anh ta không phải là chết. Anh ta biến mất nhưng vẫn hiện diện thường
xuyên. Sự hiện diện ấy được lưu giữa bằng cảm giác sợ hãi của những người đang
sống. Cái anh chàng Quang kỳ lạ ấy không biết bây giờ còn gọi tên mình giữa đồng
cỏ dưới chân núi nữa không? Lâu quá rồi…
Bà Mịch hoảng hồn chạy bổ về, mặt cắt không ra máu. Đám cỏ ấy
không ai dám đến gần, những đêm vắng từ đấy vọng lên tiếng gọi yếu ớt và có
bóng một người con gái trắng mờ mờ quanh quẩn bên cạnh. Còn ông Mộc, một đêm
đang nằm trên sập bỗng nghe tiếng trẻ con trò chuyện. Vốn người bạo gan, ông nằm
im lắng nghe. Đấy là hai chiếc đầu lâu ở cổ hai con hạc rì rầm trao đổi với
nhau. Chúng nói bằng âm thanh lành lạnh:
Giữa khoảng cách xảy ra chuyện của dòng họ, ông mắc phải một
chuyện rắc rối. Dạo ông sắp hết cấp và chuẩn bị nhập ngũ. Ông yêu. Cô học cùng
lớp và cùng làng với ông. Đấy là Xoan. Cái tên ấy lạc lõng giữa một lô xích
xông những cái tên quê mùa kệch cỡm ở làng và thị trấn. Xoan có đôi lông mày chạy
dài đến thái dương, hai cánh mũi mỏng. Lúc nào Xoan cũng như cười, gò má trong
suốt, cặp môi đỏ phớt, hơi trễ xuống. Chẳng biết từ bao giờ ông đã thấy quý cô.
Rồi ông cảm giác mình không thể sống thiếu Loan được. Xoan là cô gái duy nhất
trong làng không bị đám con trai thị trấn coi khinh, trái lại cô còn coi đám
con trai thị trấn như một lũ rách rưới, bẩn thỉu. Xoan khinh cả ông nữa. Mặc dù
vậy ông vẫn yêu Xoan, ông không rời mắt khỏi cô. Tất nhiên chưa bao giờ ông dám
nhìn Xoan trực diện. Khi yêu, người ta trở nên lưu manh và gian giảo. Đấy là kết
luận duy nhất trong cuộc đời ông về tình yêu. Ông trở thành kẻ mò mẫm, chui lủi,
luôn luôn ở trạng thái sợ bị bắt quả tang. Bao lần ông nằm mơ thấy Xoan. Ông thấy
mình cầm tay Xoan đi lên núi và hai đứa nhìn nhau mỉm cười. Lần khác ông lại mơ
mình lạc vào một thung lũng ngùn ngụt sương còn Xoan đang buồn bã đọc sách trên
một tảng đá xám lạnh. Lần khác nữa, mà giấc mơ này khiến ông xấu hổ mỗi khi nhớ
lại, mặc dù nó gợi lên một khoái cảm kỳ lạ lần đầu trong cơ thể trưởng thành của
người con trai. Ông mơ thấy mình và Xoan trần truồng ôm nhau lăn lộn giữa bãi cỏ
dưới chân núi. Lúc đó hoàng hôn rừng rực cháy và tất cả đều đỏ rực. Ông vuốt ve
bắp đùi Xoan, vuốt ve cặp môi, bầu vú. Tất cả người ông và Xoan đều nhuộm đỏ, đều
quằn quại. Xoan ngửa mặt, mắt lờ đờ nửa dại nửa điên và cô rùng mình tru lên,
chân tay quấn chặt ông như những con trăn lửa. Giấc mơ bị phá vỡ nửa chừng khi
ông giật mạnh khỏi Xoan và ngã từ giường xuống. Ông bàng hoàng mấy hôm liền, sức
học sút xuống nhanh chóng. Ngày ngày, ông vẫn chứng kiến cảnh Xoan mím môi ngồi
góc trong cùng. Tóc Xoan đen óng, thấp thoáng ánh xanh của cây xấu hổ hắt từ cửa
sổ vào. Lũ con trai thị trấn bâu quanh Xoan, chúng thi nhau nịnh nọt cô nhưng hầu
như Xoan không để ý. Xoan như người luôn luôn phải bận tâm về điều gì đó xa
xăm. Bọn con trai thị trấn nhờ ông giới thiệu, chúng ăn nói sỗ sàng, tục tĩu.
Ông đỏ mặt cố nén cơn ghen cứ chực trào lên.
- Con này, chẳng biết đếch gì. Mày tưởng chỉ đem cái thân mày
ra là người ta đến đấy? Gớm chửa, không có bà mày đây cầu các Ngài đưa khách đến
thì đừng có mà hòng, con nhá!
Bà Trình ủ rũ bỏ đi, dáng bà khàng khạng vẻ khổ sở. Tiến quắt
nheo mày nhìn theo, gã chúm môi huýt gió. Khoảng tám giờ tối Hương lại sang.
Hai người làm tình xong, Tiến nằm vật sang bên, vắt tay qua trán nghĩ vơ vẩn.
Sự biến mất một cách kỳ quái của hai người thợ mộc rong chấm
dứt vĩnh viễn cảnh xâm nhập của người nơi khác vào làng ông. Câu chuyện về sau
này còn mang những dư âm kinh hoàng cho đến cuối đời tất cả họ hàng nhà ông.
Chính nó đã quyết định một bước ngoặt mang tính định mệnh đối với dì Lãm. Cả em
gái ông cũng vậy, nó thất thần hàng năm trời, ý định đi chu du khắp thiên hạ bằng
những con ốc sên không còn thu hút hai anh em ông nữa. Bố ông càng ngày càng ít
nói chuyện với mọi người. Mẹ ông lại khác, bà liên tục thở dài và năng sang
hàng xóm chơi hơn. Dạo ấy làng bước vào mùa đông. Mùa đông ở làng không đâu có.
Gió lạnh réo u ú. Người tê tái. Bầu trời xám xít võng xuống sát các ngọn cây.
NGười ta bảo giữa làng ông và vùng Linh Nham có mạch thông cả lên trời lẫn dưới
đất. Trên thông gió, dưới thông nước. Động ở Linh Nham cũng sẽ động ở làng ông.
Đêm mùa lạnh sương lên hầm hập khắp làng. Có thể nói, kèm theo sự kiện mất âm
và cái lạnh người làng đâm ra nghi ngờ nhau, kẻ này trở thành bí hiểm đe dọa đối
với kẻ kia. Đến mức anh em, họ hàng, chồng vợ, cũng trở thành cái gì đó mang
tính kinh hoàng, ghê rợn. Không ai hiểu ai. Không ai tin ai. Không ai đủ khả
năng để phát ra một âm thanh nào cả. Mà nếu ai nói được, kẻ đó sẽ trở nên dị biệt
đến mức phải bị hắt hủi. Những luồng khí ở gốc cây si mỗi ngày bốc lên một nhiều,
chúng quyện với khói hương thơm lựng từ miếu của dì Lãm tạo thành một lớp khí đặc
quánh. Buổi sớm, ngồi bên đống lửa đốt sưởi bằng gộc cây, bố ông bảo:
Tiếng kêu nhỏ, nhưng trong cảnh tĩnh mịch nên nghe rất rõ. Cả
làng đổ ra xe, nhưng đêm sau, không có ai nghe thấy gì nữa. Ở đấy chỉ thấy
sương khói mờ mờ tỏa lên. Cách đấy hai hôm, cô Sảnh lại nghe thấy. Người làng
không in, nhưng họ cũng không dám bén mảng đến nữa, cấm luôn cả trẻ con. Dần dà
cây si trở thành nơi rùng rợn để doạ những đứa trẻ hay khóc. Ông lén rủ em gái
ra dấy xem, nó không chịu đi. Thế là một mình ông vác dao tìm cách vào tận gốc
si. Ông rủ cả thằng Chí ở nhà bên cạnh. Hai thằng bọn ông mê mải phát cỏ, lội
vào tận gốc si. Phải nói rằng chỗ đó nhiều rắn, chúng nhung nhúc, quyện vào
nhau đủ loại tạo thành một tấm thảm dày dịt rung rinh trông đến sợ. Hai thằng bọn
ông phải xua mãi chúng mới chịu tản đi nơi khác, cũng may là toàn loại rắn hiền
cả. Đang sục sạo tìm kiếm chợt thằng Chí nhẩy cẫng lên, mặt méo xệch. Ông giơ
cao bó đuốc và rồi cũng rùng mình như bốc hơi khỏi mặt đất. Cái rùng mình ấy
còn đeo đẳng hết đời ông, nó luôn xuất hiện trở lại vào những lúc ông bị xúc động
mạnh. Nhiều đêm nằm lẩn thẩn nghĩ ngợi, ông rút ra kết luận rằng ở đợi này chỉ
có cái rùng mình là bí hiểm nhất, thiêng liêng nhất. Ông và thằng bạn nhìn thấy
một xác người chết lật khật như kẻ say rượu. Không kịp bảo nhau, cả hai thằng cầm
đuốc chạy ùa về nhà. Mãi đến trưa hôm sau, xác người chết mới được mang ra khỏi
gốc si. Điều lạ nhất, cái xác đó chính là bố thằng Chí, tức ông Trạch. Bà Trạch
ngất xỉu vì kinh sợ và người ta vội vã mang cái xác kia đi chôn cuối bãi tha
ma. Không ai lý giải được sự kiện kỳ quặc đó. Bởi vì ông Trạch chết cách đây
bao nhiêu năm rồi mà chết mất xác ở chiến trường, chỉ có giấy truy điệu gửi về
cùng giấy báo tử với chiếc túi rách rưới có hai chiếc quần mặc dở. Vậy ai mang
xác ông Trạch về đây? Tại sao ngần ấy năm người ông vẫn như mới chết vậy? Còn
những tiếng kêu kỳ lạ kia nữa, của ai? Cả làng cứ nháo cả lên, bán tín bán
nghi. Còn bố ông, bố ông chẳng góp lời bàn tán gì, chỉ lẳng lặng nằm ở nhà mắt
trợn ngược như trúng gió. Không ai, kể cả mẹ ông lại nghĩ rằng bố ông nói dối,
nhưng lần này, tất cả đều nhìn bố với con mắt nghi ngờ sợ hãi. Chính bố ông là
người chiến đấu cùng ông Trạch và chứng kiến cái chết của ông ta. “Bắt, bắt lấy
nó!”. Đêm nào bố ông cũng gào lên trong mơ. Sau này lớn thêm chút nữa ông mới
được bố kể cho nghe về câu nói ám ảnh kia. Lần ấy bố ông và ông Trạch đi ngang
đường thì sa vào ổ phục kích. Vốn nhanh chân, lại nhỏ người, bố ông luồn ngay
vào rừng được, còn ông Trạch ù ì nên bị chúng dồn ra ngoài trảng cỏ để bắt. Ông
Trạch chạy thục mạng, đằng sau, bọn giặc vừa đuổi vừa hô: “Bắt, bắt lấy nó!”.
Không hiểu chúng ngọng nghịu, mệt nhọc thế nào mà cứ hô thành “Bắt, bắt lấy
gió!”. Sau khi bọn địch rút lui, bố ông đã quay lại chôn cái xác nát bươm của
ông Trạch trong rừng Định Hóa. Vậy mà đùng một cái xác ông ta lại hiện về dưới
gốc si, vẫn nguyên vẹn, lành lặn sau hàng chục năm trời. Sau cái xác của ông Trạch
hiện về, dân làng còn tìm thấy nhiều xác người khác nữa. Họ là người làng, chết
ở nơi đất khách quê người từ lâu. Rồi mọi thứ cũng trở nên thường tình đến mức
thành lệ. Hễ gia đình nhà ai có người chết ở nơi xa, cứ ra chỗ gốc si thế nào
cũng thấy xác. Cho nên khi ông đem giấy báo tử của Chí về thì gia đình nó và mọi
người trong làng chẳng ai ngạc nhiên.
Ông Trình đứng dậy khoác áo vào người, vừa đi về ông vừa điểm
lại những khuôn mặt thân quen của mình. Tự dưng ông thấy nhớ con gái đến cồn
cào. Có gì đấy báo cho ông biết nó gặp chuyện chẳng lành. Và ông liên tưởng
ngay đến đứa con chưa biết mặt của mình. Sau lần này, ông quyết tâm tìm bằng được
người em hoang đó. Đêm nay ông cứ lẩn thẩn nghĩ rằng đứa em mình là có thật.
Không những thế ông còn cảm thấy như đã gặp người em đó khá nhiều lần. Tất
nhiên điều này gây cho ông không ít khó chịu.
-… Sẽ có một người trong gia đình ta phải chết khi con Nghê
đó xuất hiện lần cuối. Đấy là núm vú thứ ba để mở cửa kho của cải kia. Tao đã
nói bóng gió xa xôi rồi mà mày tối dạ quá con ạ!
Bất giác tay ông nắm chặt lấy chiếc thìa nhôm trong túi. Chiếc
thìa bao năm theo ông, giờ nó nóng rực như bị nung lửa. Những lúc ngồi rỗi, ông
vẫn đem nó ra ngắm nghĩa, tìm kiếm. Bao nhiêu đời người đã cầm lấy nó để rồi
truyền tay nhau. Phải chăng ông sẽ là người cuối cùng của dòng họ cầm nó? Phải
chăng chuôi thìa sẽ chỉ in thêm vân tay của ông nữa thôi? Mấy đời truyền nhau rồi
nhỉ? Ông không đếm xuể những vết tay in trên chiếc thìa méo mó này. Nhiều lắm,
hết lớp nọ chồng lớp kia, chẳng phân biệt được của ai với ai nữa. Tuy nhiên đấy
chẳng phải là điều đáng quan tâm đối với ông. Ông chỉ càn tìm ở những vết tay
đó một điều thôi, của ai cũng được, thế hệ nào cũng được, miễn là có nó. Ông
tìm kiếm một cái hoa tay. Nhưng điều ông cần thì cứ mịt mù đến tàn nhẫn. Trong
hàng ngàn hàng vạn những dấu tay đó không có một biểu hiện nào của hoa tay. Như
vậy chẳng lẽ dòng họ nhà ông bất tài đến thế sao? Có lẽ đúng như vậy. Đôi lúc
ông tự trả lời mình. Bởi vì nếu có một ai trong họ hàng nhà ông có hoa tay chắc
hẳn chiếc thìa đã bị bỏ xó. Ông lén lút đưa tay lên trước mặt. Mắt ông tìm kiếm
săm soi mười đầu ngón tay của mình.
Bà Trình ngồi ủ rũ trước ngọn đèn. Đêm đã khuya, gió hiu hiu
thổi trên nóc nhà. Qua cửa sổ có thể thấy chùa Phú Liễn mờ ảo sau những làn
sương trắng trôi vùn vụt. Bà Trình ngồi đợi con gái như thế đã hai ngày. Sau trận
cãi nhau kịch liệt giữa hai mẹ con, Hương đùng đùng mang quần áo bỏ đi. Đi đâu
bà chả rõ. Càng nghĩ, bà Trình càng buồn. Đối với bà, cuộc đời trở nên mù mịt kể
từ khi về làm vợ ông Trình. Chồng bà là người đàn ông cục mịch, không bao giờ
có một biểu hiện tình cảm đối với vợ. Ông coi bà như một người đàn bà quanh năm
ngày tháng chỉ có nghĩa vụ thỏa mãn chồng trên giường. Ngay cả việc ấy ông cũng
khô khan, chỉ chăm chăm làm cho xong nghĩa vụ bản thân. Đấy chính là nguyên
nhân dẫn đến tình trạng bà Trình phải đi tìm kiếm người đàn ông khác. Bà cần những
cử chỉ âu yếm, vuốt ve. Bà cần tình yêu thực sự. Căn bệnh mà mắc phải vì Phán
đã đẩy bà đến tình trạng chán nản cực độ. Đứng dậy ra chỗ chiếc gương lớn, bà
Trình lơ đãng nhìn mình trong đó. Khuôn mặt bà võ vàng, mắt quầng thâm, hai má
hóp lại. Bỗng dưng bà vớ chiếc cốc đáp mạnh vào tấm gương. Nhìn những mảnh vỡ
tung toé, bà Trình ôm mặt nấc lên. Ngoài trời gió hun hút thổi. Nỗi cô đơn lạnh
lẽo vây lấy bà, cào cấu, cắn xé tâm hồn bà. Lẳng lặng xuống bếp, bà Trình tìm
cuộn dây thừng cẩn thận mang lên nhà gỡ ra. Sau đó bà treo sợi dây lên xà nhà,
cuốn ba vòng cho chặt. Bà làm thoăn thoắt, thi thoảng mắt nhắm lại ánh lên những
tia đam mê say đắm.
Phán khẳng định, mặt nghiêm trọng, sau đó phủi quần đứng dậy.
Trên đường về khi đi qua chỗ mép sông, Loan bỗng túm chặt vai Phán. Cô vừa
thoáng trông thấy bóng một đứa trẻ trắng toát ủ rũ ngồi ngay đầu ghềnh đá. Phán
cũng trông thấy, cả người anh ta run bần bật, chân như muốn khuỵu xuống. Mồm
Phán há to, ú ớ câu gì đó khiến cái bóng trắng ngẩng đầu lên nhìn. Không có mặt.
Cái bóng của thằng bé không có mặt. Ở đó chỉ là một cái hốc tối được viền bằng
mớ tóc bám đầy rong rêu. Tay thằng bé mân mê chiếc cần câu. Thằng bé nhảy ùm xuống
nước biến mất. Mặt sông loang những vòng sóng đen thẫm dưới hơi nước lờ mờ đang
bốc lên. Như bừng tỉnh, Phán gạt mạnh Loan, vùng chạy bán sống bán chết, miệng
rít lên những âm thanh hoảng loạn.
Bào thở hồng hộc, thi thoảng lại rên lên một tiếng nghẹn ngào
vì bất lực. Trong giấc mơ cuối cùng lúc thiếp đi, Bào thấy thấp thoáng hình ảnh
một chiếc xe trâu lao vùn vụt qua những dải sương màu tím nhạt. TRên chiếc xe
đó có một đứa bé con và ba người đàn ông. Tay đứa bé thọc vào túi áo đại cán bạc
phếch, tuồng như nó đang mân mê vật gì đó. Nét mặt lim dim lơ đãng. Không kịp rửa
mặt, Bào khua gậy mò sang nhà lão Liêm.
Bà Liêm lò dò ôm rổ rau lợn đi qua sân. Nhìn vợ lão mới sực
nhớ đến con gái. Lâu rồi lão quên mất. Con bé hư hỏng. Mấy lần lão định bảo Hải
đi tìm nó về nhưng công việc căng thẳng, bận rộn quá. Lão tính sau này sẽ đích
thân đi giần cho nó một trận. Bây giờ lão cần phải bám sát Bào mù chờ tin tức.
Lão Liêm quay vào nhà rút con dao nhọn chọc tiết lợn ra, đem đi mài cho sắc.
Trong khi mài, quai hàm lão nhai đi nhai lại kèn kẹt. Có tiếng gọi khiến lão giật
mình ngẩng lên. Một thanh niên nhỏ con đứng trước cổng hỏi mua gạo. Đấy là Tiến
quắt. Vì hết gạo nên bọn họ phải vào làng mua. Vì hết gạo nên bọn họ phải vào
làng mua. Lão Liêm lừ lừ đi ra, hất hàm:
Lình ra lệnh. Chẳng khác gì cái máy Phán lại lầm lũi xốc Loan lên vai, chui xuống lòng quả đồi. Phán đi trước, Lình nhón gót theo sau. Đến chỗ bệ thờ trống không, Phán đặt Loan nằm vắt lên đấy rồi lẳng lặng quỳ xuống. Khói từ từ phun ra từ các ngóc ngách sau đó bao bọc lấy cơ thể Loan. Lình chắp hai tay lên ngực lầm rầm khấn, mắt loe loé sáng. Phán không tin vào mắt mình nữa khi trong đám khói kia bước ra một người giống y hệt Loan. Người con gái này nhẹ nhàng lướt đến cạnh Loan, ngồi ủ rũ nhìn cô. Im lặng một lúc. Phán thấy khát khô cổ, anh ta nuốt khan nước bọt. Người con gái ngẩng lên, lầm rầm, lầm rầm nói, Phán giỏng tai, chú ý lắm mới nghe được:
Nguyễn Bình Phương
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Lỡ một kiếp người
Lỡ một kiếp người Lỡ một kiếp người Anh ta trông thấy tôi, gọi ầm lên như người kêu cứu, làm cho những người đi ở phố đứng dừng cả lại, ...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét