Thứ Năm, 20 tháng 6, 2024

Ngày tháng qua

Ngày tháng qua

Giới thiệu tác giả - tác phẩm
Lời ngỏ
Những bài viết trong Ngày Tháng Qua là tập hợp của các đoạn bút ký, vài mảnh ghép vụn rời của một số câu chuyện, và đôi dòng cảm nghĩ dựa trên các trải nghiệm do hoàn cảnh cá nhân hay qua vài cuộc hành trình ngẫu nhiên của người viết.
Phần lớn chi tiết trong các bài viết đã được diễn giải dựa theo nội dung của đôi ba câu biên chép vắn tắt, không mang mục đích làm tư liệu, trong quyển sổ rất cũ mà người viết thường dùng để ghi lại những điều quá ấn tượng hoặc rất hiếm gặp trong cuộc sống hàng ngày. Vì một số tình tiết của vài câu chuyện cũ chỉ còn rất mờ nhạt trong trí nhớ hoặc quá mơ hồ dựa theo các lời ghi tối giản, nên đôi khi người viết phải thêm vào chút hư cấu, giúp diễn tiến của câu chuyện được mạch lạc, đầy đủ hơn. Và cũng để dòng trôi của những chiếc lá vàng trong hoài niệm ký ức vẫn thoảng chút hương ngày cũ.
Xin cảm ơn những người lạ, người quen, tình cờ vướng chút nhân duyên, rồi trở thành nhân vật trong một số bài. Tất cả đều đã mang đến nhiều xúc động, gây những thương cảm, hay để lại nỗi trăn trở khó quên; và đã thôi thúc người viết kể lại phần chuyện nhọc nhằn của đời họ hay về sự tương tác giao hòa êm ái họ đã mang cho tác giả.
Đôi khi kể lại mà có chút se lòng vì đâu đó vẫn còn dấu hiệu thiếu vắng tình nhân ái.
Vũ Thị Ngọc Thư 
Vài Dòng về
NGÀY THÁNG QUA
Ngày Tháng Qua là một tuyển tập gồm 8 bài tùy bút và 6 bài thơ của người bạn thân từ thuở Trung Học của tôi, Vũ Thị Ngọc Thư, viết trong khoảng hai, ba năm gần đây. Một số tác phẩm trong tập đã được đăng trên trang văn học nghệ thuật art2all, trang blog của nhóm cựu nữ sinh Gia Long, trang SaigonOcean, và Tạp Chí Văn Học Firmament.
Dù đã xa xứ từ tuổi niên thiếu và lưu lạc hơn nửa thế kỷ, bạn tôi luôn thích viết, đọc, nói chuyện bằng tiếng Việt và đã nhiều lần mê mải ngợi ca tiếng Việt là ngôn ngữ sâu sắc ý tưởng, giàu nhạc tính, trĩu nặng ân tình, và ẩn chứa các tố chất của một ngôn ngữ hàn lâm.
Ngày Tháng Qua gồm các câu chuyện về sinh hoạt cuộc sống của một số người Việt mà tác giả được tình cờ gặp và cùng trải nghiệm đôi khoảnh khắc tương tác hòa ái. Những mẩu chuyện bình thường, gần gũi trong cuộc sống được tác giả diễn tả chân thực, giản dị nhưng không kém vẻ sinh động, thu hút nhờ các phân tích, cảm nghĩ, hay bổ xung của đôi ba chi tiết đặc biệt hay các góp nhặt nhỏ có tính chất lịch sử, văn hóa.
Văn phong của bạn tôi nhẹ nhàng, sâu lắng, ngôn từ giàu chất thơ, đậm cảm xúc nên các bài viết của bạn đã để lại cho người đọc nhiều giao động, suy tư, khắc khoải về thân phận của những nhân vật kém may mắn được trình bày trong các câu chuyện. Những bài tùy bút mượt mà, phảng phất màu sắc văn học, được tác giả sâu sắc diễn đạt, tinh tế đan xen tâm tình, đã làm dấy động cảm xúc của người đọc, và thành công lan tỏa hiệu ứng trắc ẩn.
Đoàn Bích Vi
Cựu nữ sinh Gia Long
Tác giả Vũ Thị Ngọc Thư
Vài Dòng về Tác Giả
Vũ Thị Ngọc Thư là tên thật
Cựu nữ sinh trường Trung Học Gia Long, Sài Gòn.
Tốt nghiệp: Master of Science in Statistics.
Đã làm việc nhiều năm như data analyst hoặc research specialist tại các viện nghiên cứu:
- Alan Guttmacher Institute
- Mathematica Policy Research
- Center for Health Research of Princeton University
Xin chân thành cảm ơn:
Anh Nguyễn Trọng Thu đã khuyến khích tập hợp bài, tạo hình trang bìa, trang trí mỹ thuật, và thực hiện ebook.
Tất cả những hình ảnh sử dụng trong các bài của tập Ngày Tháng Qua chỉ có mục đích minh họa. Những hình ảnh này hoàn toàn thuộc bản quyền, theo luật quốc tế hiện hành, của các tác giả hợp pháp.
Xin trân trọng cảm ơn tất cả tác giả của các hình ảnh, tranh vẽ, và các trích đoạn thơ đã được dùng minh họa trong sách.
Cô Hàng Hoa Ngoài Phố
Từ hôm đến Hà Nội, sáng nào tôi cũng thức dậy thật sớm để đi dạo một mình quanh khu phố gần nhà trọ, khi trời vẫn còn mờ tối. Không gian hơi se lạnh, vắng vẻ của buổi sáng mùa đông ở đây mang cho tôi chút tĩnh lặng riêng. Tôi thích những khoảnh khắc được một mình âm thầm trong dòng trôi chậm bớt của thời gian như vậy. Bước đi thong dong, bồi hồi thả hồn tìm quá khứ của thế hệ gia đình đã thuộc từng vỉa hè, ngõ ngách trên khu phố vương bao nhân ảnh của nhiều thời bể dâu đã qua.
Nhiều lần tôi đã hiếu kỳ dò tìm những đường ngang, lối dọc, công viên, vườn cổ từng được ông bà, bố mẹ tôi trìu mến nhắc đến như những khung trời mang nhiều hình ảnh trữ tình, các kỷ niệm khó quên, bao xúc cảm thân ái trong tâm tư của họ. Nhưng đôi khi tôi cũng chỉ bước thật chậm để khứu giác vui thích phát hiện các mùi vị đặc trưng hay hương thơm dịu ngọt, lan tỏa từ các món ngon, đặc sản Hà Thành đang được chuẩn bị để bán mờ hàng. Và cũng có mấy lần, tôi loanh quanh không chủ đích, lơ đãng ghé vào chỗ bà cụ lọm khọm bán nước chè ở góc phố tối, nhẩn nha nhấp từng ngụm chè, nhìn làn hơi nóng nhẹ nhàng thoát bay vào các khoảng không vắng lặng giữa cảnh quan đìu hiu lạ lẫm như chưa từng biết, dù ngày nào cũng phải qua khu hàng phố đông đúc, nhộn nhịp này đề về nhà trọ. Phố Cổ giờ ấy đang mệt mỏi, cố nấn ná nốt thời khắc nghỉ ngắn ngủi còn lại, trước khi bắt đầu một ngày bận rộn mới.
Cũng có lúc tôi mơ màng thú vị với ý nghĩ được may mắn thảnh thơi đi dạo trên những góc phố xưa, qua các nhà cổ, nhìn đoàn tầu sớm vào ga, vòng lối đường cũ xem khu vườn ven hoàng thành. Thật mãn nguyện làm sao khi được lang thang những nơi mà tao nhân, mặc khách từng đi qua, từng lâng lâng dậy trào cảm hứng khi nhận biết vài sắc thái văn hóa đặc trưng hay ý thức được vẻ đẹp rất riêng của hàng phố, và đã xuất thần phóng bút thả đôi ba câu chữ, khúc nhạc, hay tranh vẽ, để lại những tác phẩm văn học độc đáo về Hà Nội như Hà Nội Băm Sáu Phố Phường, Chuyện Cũ Hà Nội, Miếng Ngon Hà Nội, Thương Nhớ Mười Hai, Vang Bóng Một Thời [1].
Và có một lần, đắm chìm trong bao bâng khuâng hoài niệm các câu chuyện về một thời đã qua của gia đình, ngay giữa đường phố nhiều sương đêm và gió lạnh, đang thong thả bước, tôi tưởng đã nghe vọng lại từ xa thẳm, tiếng những bước chân dạo phố mơ hồ của những người thân từ muôn năm cũ. Hà Nội có những giây phút bồi hồi mê ám lạ như thế.
Các ngõ đường quanh phố như vẫn còn ngủ yên. Phố vắng lặng, thỉnh thoảng mới có vài cô gái mặc áo len sậm mầu, chở đầy hoa trên những chiếc xe đạp cũ. Họ đạp xe chậm rãi, sương đêm hơi lấp loáng trên những nhánh hoa trong giỏ xe. Bóng họ nhập nhòa dưới ánh đèn yếu ớt trong không gian khô lạnh. Vẻ lam lũ tần tảo lặng lẽ của các cô hàng đã làm tôi nao lòng bâng khuâng nghĩ ngợi mãi sau khi phải từ giã Hà Nội đi thăm các nơi khác.
Những hôm Phố Cổ mờ ảo trong sương mù, lối đường dọc bờ đê sông Hồng từ ven đô vào lại càng như kỳ bí mê hoặc hơn. Vừa thoạt nghe tiếng đạp xe dè dặt, rất khẽ như ngại đánh thức hàng phố, thì thoắt cái, xe cùng giỏ hoa đã vút khỏi đoạn đường tù mù ánh đèn, chỉ để vang nhẹ lại nhịp xích khua cọc cạch khiến khách bộ hành phải hiếu kỳ ngó theo, vừa kịp thấy lẵng hoa di động biến hút vào khối sương đặc dầy phía trước. Trên đường, chỉ còn mơ hồ thấp thoáng phần sáng nhỏ trên chóp nón của cô hàng, ẩn hiện thêm vài chớp mắt, rồi mất hẳn, không còn dấu tích gì nữa. Vạn vật lại lặng lẽ chìm trong màn sương mù phủ che đặc dầy khắp nơi. 
Tôi ngẫm nghĩ, giờ này đã lên đến trung tâm phố, có lẽ các cô hàng đã phải tất tả chuẩn bị cắt, chọn, phân chia, và gói từng bó hoa từ 3, 4 giờ sáng. Hôm trước, khi nói chuyện với một cô bán hoa ven khu Hồ Tây, tôi được biết phần lớn hoa bán lẻ của các cô đều trồng ở mấy làng ngoại thành, cách phố khoảng từ 5 đến 15 cây số. Hoa thu hoạch từ vườn nhà họ, vườn hàng xóm, hay được mua lại từ chợ phân phối hoa của làng. Nghe cô nói các làng hoa ven đô, mới êm đềm thơ mộng làm sao! Đã hai hôm rồi, tôi có ý tìm cô bé để nhờ dẫn đến thăm làng cho biết mà vẫn chưa gặp được. Có lẽ chiều nay tôi sẽ bỏ chuyến đi đã xếp đặt theo tour để đến Hồ Tây chờ cô thêm một buổi nữa vì sáng ngày kia tôi dự định lên thăm vùng đồi núi Tây Bắc, gần khu biên giới.
Cô hàng hoa ấy chỉ độ mười chin, hai mươi, có thể trẻ hơn, nhưng gương mặt phảng phất nét khắc khổ nên nhìn hơi chững tuổi hơn một chút. Mắt cô vẫn lấp lánh nét tinh nghịch học trò mỗi khi cười nói, lúc tôi hỏi mua hoa. Tôi cũng chẳng biết tại sao mình lại lân la trò chuyện với cô khi các khách du lịch cùng nhóm vui đùa tíu tít chụp ảnh quanh khu đền cổ hay trầm lặng ngắm nhìn phủ Tây Hồ. Có lẽ vì hình ảnh buổi chiều hôm ấy đẹp quá. Nắng hoàng hôn nhạt vàng lênh loang trải khắp hồ làm mặt nước, loãng xanh sắc cỏ úa cả khúc quanh ở lối cong đường bờ hồ, nơi cô gái đang dựng tạm chiếc xe đạp có hai giỏ hoa gồm nhiều nhánh cúc họa mi trắng xen lẫn vài loại hoa vàng, tím khác. Mái tóc cô xõa ngang vai, đôi mắt to đen, thấp thoáng nét đẹp nhu mì dưới vành chiếc nón lá quai tím. Tôi đã bị thu hút bởi khuôn mặt nhân hậu hiền lành luôn vui vẻ dịu dàng cười nói giữa những bó cúc họa mi trắng nhụy vàng, lác đác vài nhánh cỏ bướm tím. Bóng mát vòm cây rậm lá xanh. Không gian êm đềm trong buổi chiều ngày nước lên. Nước mênh mang sóng sánh đưa các khoảng trống lênh đênh về vô định. Đôi lúc, có khoảng lại ngược dòng loay hoay tìm mùa trôi tuổi thơ còn lách tách tiếng mưa làm bong bóng vỡ.
Tay thoăn thoắt tỉa nhanh mấy cái lá đã hơi héo, tiếng cô gái đều đều như thủ thỉ với tôi “Cháu sinh ra đã thấy hoa cô ạ, hoa hôm nào bán không hết, bà hay mẹ cháu cắm vào chiếc độc bình cổ trên cái bàn duy nhất giữa nhà. Nhà sáng thêm vì có hoa. Trên trang thờ cao hơn, nơi luôn ấm hương đèn, ngày nào bà cũng bầy hoa ngâu, hoa ngọc lan hay hoa dành dành mới; mấy loại hoa thơm dịu này nhà cháu trồng riêng trên một góc vườn cao, chỉ để cúng.”  Câu chuyện của cô làm tôi nao lòng nghĩ ngợi bâng quơ. Ừ, thì tôi sẽ mua bó hoa về cắm trong phòng mình đang ở, để không gian được sáng thêm, biết đâu cũng làm nguôi ngoai bớt những u uất của nỗi buồn vẫn nổi trôi ám ảnh tôi mấy năm vừa qua.
Ngay lúc này, tôi rất muốn gặp lại cô hàng để kể mỗi khi nhìn những bông cúc họa mi trinh khôi từ vườn nhà cô, tôi có cảm tưởng không gian trong căn phòng tạm của mình đã ấm áp hơn, khác hẳn những hôm vừa đến sau chuyến đi dài từ Huế ra, tâm tư tôi đã triền miên bị buồn bã ám ảnh bởi những đoạn đường heo hút còn hằn nhiều dấu vết khổ đau của thời lửa đạn, chiến tranh.
Đôi lần, nhìn những bông hoa tươi tắn, đẹp nhu mì trong lọ, tôi còn có cảm tưởng như nhìn thấy cả đôi bàn tay cần cù, chịu thương, chịu khó của bà, của mẹ cô hàng khi họ chăm chút xới bón những bụi cúc họa mi đặc dầy nụ, lá trong vườn. Đôi chân nứt nẻ của họ cứ uyển chuyển qua lại, kĩu kịt quảy các vò nước, nhẫn nại tưới bón vun bồi các luống hoa quanh năm, suốt tháng. Họ chăm chỉ giữ vườn cho không bao giờ bị héo hon khát thèm nước hay thiếu thốn dưỡng chất cần thiết. Khắp vườn, đâu đâu cũng là những khóm hoa xanh mởn, thân cành chắc khỏe, đọt lá xum xuê, nụ biếc mọng tròn, chín mẩy như sẵn sàng bung nở hồn hậu vào ngày thu hoạch. Những ánh mắt hân hoan vui mừng của mấy người phụ nữ đứng tuổi khi dõi theo bao lẵng hoa tươi mát hương sắc, rực rỡ vẻ đẹp bội thu được cô bé và các cô bạn cùng rong ruổi chở mang thành quả mùa làng vào phố thị. Cũng có lúc, buồn làm sao, tôi chỉ thấy các đôi mắt ngơ ngác, lạc thần, đau đớn trong ngày giông bão mịt mù hay khi nước lụt trào dâng. Cây ngã, cành bay xơ xác mà họ bất lực không thể bưng hoa vào nhà hay đưa chúng lên mái sơ tán khi biển nước lênh loang lút tràn khắp nơi. Nỗi nhọc nhằn của họ khi phải buồn thảm nhổ từng bụi hoa chưa trổ nụ đã úa chết sau vài ngày tai bay, gió vạ. Những nét mặt bơ phờ, hốc hác, hằn sâu nét ưu tư lo lắng khi trực diện nguy cơ mất mùa, đói kém. Tôi cũng không ngờ những đóa cúc họa mi mong manh ấy lại khiến tôi tưởng tượng và nghĩ ngợi lan man nhiều chuyện như vậy.
Tôi ước được đến thăm khu vườn nhỏ của gia đình cô hàng để có thể xem tận mắt công đoạn gặt hái tiêu biểu của một gia đình tiểu thương trong làng nghề trồng hoa; Nhất là vào thời điểm họ đang mừng vui được bội thu cúc họa mi và cúc chi vàng. Đi thăm làng còn được xem cả những khóm cúc sao băng của mùa thu còn lác đác sót lại. Những cái tên cúc họa mi, cúc chi vàng, cúc sao băng như góp phần làm tăng thêm âm hưởng êm ái bình yên, hạnh phúc của mùa vàng chín trong thiên nhiên đất trời. Hương sắc hoa mang mùa thu, đúng hơn là những nốt nhạc thu êm ả, theo các cô hàng làm ngẩn ngơ nao lòng khắp các ngõ phố Hà Nội.
Đặc biệt, theo cô bé ấy, dạo quanh làng vào lúc này còn được miên man tận hưởng những thời khắc sảng khoái, thư giãn vì không gian ngập tràn hương thơm quyến rũ, dễ chịu của chè thuốc hoa cúc, thức uống thanh tao, đang được phơi sấy thủ công khắp làng. Chè hoa làm từ cúc chi vàng, hay gọi cao quý hơn là chè cúc tiến vua, rất được ưa chuộng bởi dân làng. Loại chè quê mộc mạc này luôn đậm ngát tinh túy hoa đã được cẩn thận, khéo léo ủ quyện cùng nắng, sương trong lành của đất trời, chỉ để dành cho gia đình dùng quanh năm. Từ lâu, người làng hoa đều biết cúc là thảo mộc quý, có nhiều dược tính đặc biệt hổ trợ sức khỏe con người, nên họ luôn chăm chút hoa vườn nhà rất cẩn thận, tránh dùng hóa chất độc hại; Vì, một phần số hoa thu hoạch sẽ được biến chế làm chè uống giải nhiệt hay được phơi khô để tinh tế trộn thêm như một dược chất trong các thang thuốc truyền thống.
Tôi còn nghĩ đi thăm làng cũng là cơ hội có thể tương tác với các nghệ nhân, người làng đã mưu sinh nhiều đời bằng cách nới rộng, phát triển kỹ nghệ trồng hoa nhà vườn, mà ban đầu chỉ là thú tiêu khiển tao nhã ươm trồng, uốn nắn cây cảnh vườn nhà. Trao đổi với họ, biết đâu sẽ có thêm gợi ý hay chút thấu suốt về quan điểm hạnh phúc, trạng thái cảm xúc trừu tượng, luôn mạnh mẽ chi phối đời sống của tha nhân... khi cố gắng giải mã những lấn cấn vì sao người làng hoa vẫn an nhiên duy trì và tiếp nối nếp sống thanh cảnh, không dư dả, của cha ông họ.
Miên man trong những suy tư, nghĩ ngợi về các câu chuyện mộc mạc, trong lành mà cô hàng đã kể đã làm tâm hồn tôi thư thái an nhiên như đang được vui thú dạo quanh làng hoa của cô. Ở đó, nhìn bất cứ hướng nào cũng ngút ngàn các thửa hoa phong phú sắc màu, không gian thanh thoảng hương thơm, nhà nhà trong xóm đầm ấm hơi ngọt dược thảo; Rất khác biệt cuộc sống công nghệ máy móc tân tiến ở các đô thị lớn mà tôi từng ngụ cư nhiều năm qua..
Tôi cũng được biết, hầu hết hoa bán trong phố đã đến từ các làng hoa truyền thống, đôi khi cũng từ những thảm hoa dại ngút ngàn vùng trung du, hay các cánh đồng hoa thương mại bất tận ở các tỉnh xa. Dù không được muôn mầu, đa sắc, hay ngoại cỡ như hoa được sản xuất đại trà trên các cánh đồng đã được cơ giới hóa, hoa đến từ các làng hoa truyền thống quanh phố như Phú Thượng, Tứ Liên, Quảng Bá,… vẫn là hoa được rất yêu chuộng và kén chọn đặt mua bởi nhiều nghệ nhân cắm hoa chuyên nghiệp.
Người Hà Nội cổ cũng thích mua hoa làng để thắp hương những ngày mùng một hay ngày rằm theo chu trình các tuần trăng. Hoa từ làng, tươi lâu và hương đậm thơm hơn, có lẽ vì được vun trồng kiểu thủ công vườn nhà, dinh dưỡng bằng tinh túy đất quê, bón xới theo các lề lối được cẩn thận truyền giữ, và được chăm chút bằng những nâng niu, thương yêu của gia đình chủ vườn. Có thể nói, mỗi đóa hoa trong làng, dù phù du mong manh hay mặn mà khuê các, lúc mãn khai, đều hiển lộ hương sắc hoàn hảo do những kết hợp hài hòa của thiên nhiên kỳ diệu và công sức cần mẫn chăm bón từ những đôi bàn tay khéo léo của người làng hoa.
Truyền thống ươm trồng, uốn nắn nhẹ nhàng để tạo các giỏ hoa cành lá tao nhã, thi vị ở các làng hoa cổ của một thời vang bóng như làng Ngọc Hà hay làng Hữu Tiệp, vẫn luôn được nhắc nhở với nhiều ngậm ngùi tiếc nuối trong tâm khảm người Hà Nội của thế hệ ông bà tôi. Thuở còn đi học, mấy ai trong nhóm nữ sinh chúng tôi không yêu thích và thương cảm Liên, cô hàng hoa đẹp nhân hậu, vị tha, tần tảo, và cũng đa đoan của làng hoa Hữu Tiệp trong tiểu thuyết “Gánh Hàng Hoa” của Khái Hưng và Nhất Linh. Và cũng thú vị làm sao, tự bao giờ, hai làng hoa truyền thống này đã ngẫu nhiên đi vào các trang sách văn học được lưu truyền mãi.
Chuyện về làng hoa còn rất nhiều mà cô hàng ấy chưa kịp nhớ hết thôi. Ở không gian luôn thoang thoảng hương thơm và tràn ngập hoa tươi, mấy ai không có lúc bị thôi thúc muốn tìm hiểu về truyền thuyết của những đóa Vô Ưu (Vàng Anh – Saraca Acosa) luôn vươn cao an nhiên thoát tục trên vòm cây xanh ánh ngọc trong sân chùa, hay của các chùm hoa Bỉ Ngạn (Lycoris Radiata) rực rỡ, chỉ kỳ bí bung tỏa trên đầu các ngọn cây trơ trụi không còn lá. Vì sao có loại hoa, khi cơ duyên thuận hợp, có thể thần bí mang đến trạng thái yên bình vô lượng cho tha nhân, giúp họ dễ thăng hoa vào cảnh giới thiền tĩnh yên bình. Dân dã hơn, các loại hoa mang ý nghĩa như Hướng Dương thủy chung hay Tử Đằng thắm thiết đều được kể lại như đã xuất phát từ các truyền thuyết đề cao tình người. Qua thời gian, truyền thuyết được chiết xuất, gạn lọc, rồi giữ lại như các trầm tích căn bản trong sự hình thành văn hóa dân gian.
Trong không gian trùng trùng sắc không mờ ảo hương khói ngày lễ ở các đình chùa, tượng đài, hay lăng miếu, thì hương hoa cúng được trân trọng như mạch nối tâm linh dẫn truyền giao cảm giữa cuộc sống hiện hữu của con người với cõi hư vô, nơi có ông bà tổ tiên, và có thể, vãng lai đến cả cõi giới tâm linh bao la, vô hình của trời đất.
Cuộc sống sẽ vô hồn loãng nhạt làm sao khi không gian lễ hội không còn nồng nàn hương thơm và lung linh sắc mầu của hoa tươi. Hoa không thể nào thiếu vắng trong tất cả các dịp hỷ, lễ, hiếu, tang của cuộc sống như Tết nhất, hội làng, đám cưới, ngày giỗ, đám tang...  Và lòng tôn trọng cội nguồn, tổ tiên đã hướng dẫn chúng ta chọn hoa có hương thơm tinh khiết và sắc mầu thanh cao làm hoa nền trong các lẵng cây hay các vòng hoa cúng lễ. Hoa nền luôn được cẩn thận cắm tỉa, đơm kết hài hòa cùng với vài loại hoa lá phụ có mầu sắc trầm nhạt hơn, mang ý nghĩa an lạc, theo phong cách trang trọng cổ điển của từng lễ hội.
Những cô hàng hoa đã đi qua. Họ luôn là những hàng bán rong đến phố sớm nhất. Bóng tối vẫn thầm lặng bao trùm mọi nơi. Tôi bước chầm chậm qua những hàng quán còn đóng cửa nằm xen kẽ giữa các ngõ hẹp hút sâu. Và, thật ngạc nhiên kỳ thú làm sao, một phụ nữ còn khá trẻ, dáng dấp như cô Liên từ trang sách Gánh Hàng Hoa đang dịu dàng bước ra; chị chít khăn len mầu hạt dẻ, gánh hai thúng hoa cải vàng đang nhịp nhàng uyến chuyển bước về hướng chợ Đồng Xuân. Lẫn trong thúng hàng của chị còn lác đác vài chùm cẩm tú cầu mầu cốm xanh và hồng cánh sen. Gánh hàng hoa đong đưa qua lại khoan thai theo từng nhịp bước của chị, đều đều, nhẹ như đang lướt trong điệu múa ngày mùa của các cô thôn nữ. Trong chốc lát, thúng hoa vàng cũng chìm tan dần vào màn sương mù trước mặt, chỉ còn thoảng lại hương hoa cải dịu nồng và chút hư thực thơm mát của vị hoa nhài.
Nhất định trong thúng hàng của chị phải có mấy gói hoa nhài! Các gánh hàng hoa, theo mùa, đôi khi còn có vài gói hoa nhài, hoa ngâu, hay hoa bưởi để người ở phố mua về ướp mía, ướp thạch, hay ướp chè. Các chùm hoa thơm ngọt ngào, ngắn cành được cuộn trong lá chuối, lá sen, hay hai, ba chiếc lá bàng chập lại, thành những gói hoa, rồi cột bằng dây lạt đan chéo, nhìn như các giỏ hoa quê xinh xắn vừa mộc mạc trang trí quang gánh, vừa góp phần cùng các cô hàng nhẹ nhàng thả hương quanh phố … Đại khái, cô bé hàng hoa bên hồ Tây đã nói với tôi như vậy. Câu nói gợi lại bao bồi hồi, xúc động về những ngày thơ êm đềm xa xưa của tôi. Cô làm tôi cay mờ mắt vì bỗng nhớ bà ngoại vô cùng.
Trong buổi chiều nhạt nắng bên hồ Tây hôm ấy, tôi tưởng như đã lại được thấy bà tôi đang cười nói, hít hà hương hoa thơm, tay nhẹ nhàng chọn mua gói hoa nhài mà cô hàng vừa kể. Tôi không sao quên được hình bóng bà nhu nhã, hiền dịu trong tấm áo dài nâu lác đác hoa văn chữ thọ, tóc vấn khăn nhung đen, chân mang đôi dép quai nỉ đơm nhiều hạt cườm ánh kim. Dáng điệu bà luôn thong thả khoan thai, từ tốn mỗi khi ra chợ chỉ để chọn mua hoa và trái cây cúng.

Đi đâu ra ngoài, chẳng bao giờ bà quên mua về một thứ quà nào đó cho đàn cháu háu ăn. Tôi nhớ rất nhiều lần bà đã mua vài gióng mía vỏ vàng hơi ánh sắc lá xanh, làm quà chợ cho chúng tôi. Khi nào mua được mía bà cũng mua thêm vài xâu hoa nhài. Người Sài Gòn gọi là hoa lài, hoa bán ở chợ thời đó được xỏ chỉ thành từng xâu, vài ba xâu thường được cột chung với nhau để treo bán. Tôi thường được bà giao cho việc tước hoa ra khỏi các vòng chỉ, rửa nhẹ bằng nước lọc, rồi hong thật khô. Trong khi ấy, bà cẩn thận róc vỏ, chi li cắt mía thành từng khúc nhỏ đều đặn, rồi lại tẩn mẩn chẻ mỗi khúc làm tư hay làm sáu thành những miếng chỉ độ bằng lóng tay trẻ con. Sau đó, tất cả những miếng mía được bà sao nhanh trong một cái nồi gang đã hơ qua lửa vừa nóng độ năm, bảy phủt. Mía hơi tươm mật, ngậy thơm thì bà thả nắm hoa nhài đã khô vào, đảo nhẹ một vòng, rồi để thêm tờ giấy bản hờ hững trên mặt mía, trước khi đậy nắp ủ một lúc.
Thường sau giấc ngủ trưa ngắn của những hôm ấy, ngay khi thức dậy, tất cả chúng tôi đều rất vui mừng khi ngửi được mùi mật mía ngào ngạt khắp không gian, vị ngọt quyến rũ ấy hòa trộn hài hòa cùng hương hoa nhài dịu thơm, luôn nhẹ nhàng lan tỏa từ những miếng mía xinh xắn trong các ly thủy tinh được xếp trên bàn. Mỗi ly còn có sẵn cái ghim bà đã khéo léo tỉa từ khúc vỏ mía cứng. Đàn cháu xúm xít quây quần quanh bà, vừa nhâm nha nhai từng miếng mía thơm ngọt, vừa say mê hóng nghe những câu chuyện bà kể. Phần lớn vẫn luôn chỉ là các chuyện về vườn cây nhà hay chuyện lễ lạc, giỗ tết thời xa xưa ở ngôi làng khoa bảng vang tiếng, Đông Ngạc [2] ở huyện Từ Liêm, quê của bà. Tôi thích nhất câu chuyện về hoa bưởi của bà.
Biết bao buổi chiều hè ở Sài Gòn, nắng ngoài hiên nhà dịu dần theo vị ngọt mát của từng miếng mía thơm, giọng bà tôi êm đềm xa vắng:
 “Bao giờ cũng vậy, qua Tết là gần đến mùa hoa bưởi. Đầu tháng 3, thỉnh thoảng có hôm trời oi nồng, ban đêm hai chị em bà thích để hé cửa sổ phòng ngủ cho thoáng. Hương hoa bưởi ngạt ngào len vào khắp phòng, thơm như đang được ngủ dưới gốc bưởi ngoài vườn, thư thái vô cùng.  Suốt hai, ba tuần trong mùa hoa, hai chị em ngày nào cũng được giao cho việc hái những chùm hoa bưởi trắng muốt, thơm lừng từ hơn mười cây bưởi trong vườn..
Những chùm đẹp nhất, nhiều hoa và đủ cành lá, sẽ để riêng thắp hương trên bàn thờ. Hoa nào nguyên vẹn nhưng không còn cành lá thì một phần nhỏ để ướp chè, ướp mía, ướp trái cây, hay rải lác đác trên lớp bột sắn trong suốt của những chén chè hạt sen, phần còn lại để chưng cất thành nước hoa hoặc ngấu với đường làm mật hoa, để dành dùng quanh năm. Hoa để ướp chè chỉ tay con gái vườn nhà được chạm vào thôi, tránh nhạt vị chè xuân. Những hoa hơi héo dập hay không còn đủ cánh thì hai bà gom lại, thả thêm môt hai trái bồ kết đã được âm ỉ vùi trấu qua đêm, để nấu nước gội đầu. Hai chị em gội đầu lẫn cho nhau. Hoa bưởi cứ thơm mãi cả tóc chị, tóc em …”
Kể đến đấy, tiếng bà luôn nghẹn lại một lúc, rồi lại thờ thẫn tiếp “chẳng biết mấy cây bưởi trong vườn bây giờ có còn không nữa?”
Chúng tôi cũng rơm rơm nước mắt thương những cây bưởi côi cút bị bỏ lại khi cả hai chị em bà lần lượt rời làng theo chồng vào hoàng thành Thăng Long định cư. Dù làng chỉ ở ngay ven thành, nhưng vào khoảng thập niên cuối của thế kỷ 19, ngoài việc đi lại phải dùng đường bộ băng rừng khó khăn, phụ nữ xuất giá thời phong kiến gần như chẳng được phép đi đâu xa khỏi nhà chồng, nên hai chị em bà cũng an phận không dám nghĩ đến việc về thăm quê nữa. Dần dà hai cậu em nhỏ của bà, như phần lớn các trượng phu khác trong làng Đông Ngạc, đều thành đạt ở trường thi rồi được bổ làm thương tá, tham tán phục vụ trong cơ sở của chính quyền thuộc khuôn viên hoàng thành. Từ đấy, tất cả bốn chị em của bà lập nghiệp luôn ở kinh đô, trở thành người Hà Nội hơn một nửa thế kỷ. Sau đó bà lại bỏ tất cả, kể cả chị và hai em, cùng bố mẹ tôi di cư vào Nam khi đất nước phải ngậm ngùi tuân theo các điều lệ quy định bởi bản hiệp định Genève được ký kết năm 1954.
Nhiều năm đã qua, bà tôi bây giờ chỉ còn là các hình bóng mông lung nhập nhòa xa vợi trong phần ký ức cũng đã đục mờ dần của tôi. Nhưng mỗi khi tình cờ nhìn thấy hoa bưởi hay bỗng chợt nghĩ đến bà, tôi vẫn tưởng như có làn hương bưởi tháng 3 ngày xưa đang quấn quít gần gũi bên tôi. Những lúc ấy, nhiều lần tôi nhắm mắt lại, từ từ hít một hơi dài, như tận hường túy hương dịu ngọt của hoa bưởi đã ngậm no sương đêm, hòa trộn thanh tao tinh tế cùng vị bồ kết nướng thơm, nhẹ nhàng thanh khiết, thoang thoảng từ suối tóc con gái óng mềm của bà thuở vừa có những bâng khuâng xao động vu vơ đầu đời.
Chú Thích:
[1] “Hà Nội Băm Sáu Phố Phường”  là tập bút ký của nhà văn Thạch Lam, xuất bản năm 1943, viết về các món ăn và sự gắn bó của nghệ thuật ẩm thực với đời sống văn hóa-xã hội của Người Hà Nội.
“Vang Bóng Một Thời” là tập truyện ngắn và các bài tùy bút của nhà văn Nguyễn Tuân, xuất bản lần đầu năm 1940. Truyên viết về nề nếp sinh hoạt thời phong kiến với những nghệ thuật cổ thanh cao, những nếp sống, sinh hoạt xã hội nho phong của một nền văn minh xưa cũ.
“Chuyện Cũ Hà Nội” là tập ký sự đặc sắc mang nhiều dư âm lịch sử của Hà Nội được sâu sắc, trân trọng kể lại qua lời văn tinh tế, chắt lọc, yêu thương của nhà văn Tô Hoài. Xuất bản lần đầu năm 1986.
“Miếng Ngon Hà Nội” là tập tùy bút của nhà văn Vũ Bằng. Xuất bản lần đầu năm 1960.
“Thương Nhớ Mười Hai” là tập tùy bút của nhà văn Vũ Bằng. Xuất bản lần đầu năm 1972.
[2] Làng Đông Ngạc làng Kẻ Vẽ, thuộc huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội từ năm 1948. Thời phong kiến làng có gần 90 người đỗ từ bảng nhãn đến cử nhân. Làng Đông Ngạc là một làng khoa bảng nhất nước về đại khoa với 9 vị hay tiến sĩ phó bảng và nhì cả nước về số đậu cử nhân (42 vị) dưới triều Nguyễn.  (theo Bùi Duy Tâm trong bài Làng Đông Ngạc Kẻ Vẽ trên  http://buiduytam.com/lang-dong-ngac-ke-ve/)
Bản Làng Vùng Cao
Xe của hãng du lịch luôn ì ạch leo đồi, chầm chậm vòng núi, rồi lại thận trọng đổ dốc đã hơn cả giờ qua. Chuyến xe mệt nhọc, lên lên, xuống xuống theo các chu trình chóng mặt như vậy nhiều lần trên tuyến đường gần 35 cây số từ nhà ga Lào Cai đến thị xã Sa Pa trong buổi sáng ngày thứ tư của đầu năm 2010. 
Nhiều đoạn đường đất lổn ngổn toàn đá vụn, rất gập ghềnh, xe bị dằn xóc mạnh và luôn bất ngờ phải rẽ ngang, bẻ trái để len lỏi tránh đá; rồi lại khật khừng chậm chạp bò từ từ về phía trước. Qua những đoạn này, xe thường thả lại các cuộn bụi tung bay mù mịt trời đất. Thỉnh thoảng xe cũng được chạy trên đoạn đường đã được dằm đá bằng phẳng, êm hơn, hành khách lại náo nức chuyện trò, cười nói. Tôi hơi nhức đầu, người ngất ngư nôn nao như bị say xe, nên chỉ im lặng nhìn bâng quơ qua cửa kính xem, ngắm quang cảnh hai bên đường. Đôi lần tôi đã nhắm mắt để kềm bớt sự hồi hộp khi cảm thấy chiếc xe quá mấp mé bờ vực. Từ đỉnh đèo cheo leo hiểm trở mà có thể nhìn khá rõ đôi ba người đàn bà váy áo nhiều sắc đỏ, tay cắp rổ hay vai mang gùi, có người địu con trên lưng, ẩn hiện thấp thoáng trên sân nhà họ ở vùng thung lũng sâu hút phía dưới.
Ở nhiều đoạn an toàn hơn, hai bên đường ngút ngàn các dẫy đồi cỏ xanh; Đồi cao, đồi thấp nối tiếp như gần xếp chồng lên nhau. Không gian mướt xanh thăm thẳm, sắc xanh huyền bí như được tinh tế pha trộn từ mầu của núi đá nhiều tuổi và ánh diệp lục muôn thuở của rừng sâu. Xanh mênh mang đến tận chân trời.  Đôi chỗ, ven đường còn lác đác các cây hoa đào dại, có cây mọc gần sát đường, mấy nhánh cao lòa xòa chạm bên ngoài kính xe hoặc vươn cao hơn cả nóc xe. Nhánh nào cũng chi chit trĩu nặng những nụ hoa mọng chín từ thân đến ngọn các cành. Nụ đỏ hồng lựu, nụ đỏ xác pháo, nụ hồng cánh sen, nụ hồng vân trắng; Tất cả đều đang chúm chím hé mầu như đã sẵn sàng cùng nhau bung rộ rực rỡ trên những cành khô khẳng khiu chưa kịp nhú lá. Nhìn đào, thoáng nhớ đã gần Tết, tôi bỗng cảm thấy con đường và cả vùng đồi sát đó như mềm mại đáng yêu hẳn lên. Thật êm đềm, quyến rũ làm sao khi hình dung vài cô gái người H’Mông, Dao, hay Thái đương thì, súng sính váy áo ngày hội, má thắm hàm tiếu, bước thơ thẩn dưới những cành đào mơn mởn sắc Xuân phố núi. Tôi chỉ mơ màng trong cảnh Tết êm ả nhẹ nhàng đó được vài phút thôi, vì xe lại vất vả bò dốc tiếp, lại dằn xóc làm ê đau khắp người. Có đoạn xe khệnh khạng như không thể chạy được nữa, chỉ nhích tới trước từng bước rất chậm, mỗi bước lại lộp cộp tiếng đá bị bánh xe chạm văng. Trong khi đó, chừng như cả bản làng dưới thung lũng vẫn còn điềm nhiên ngủ hay chỉ mới có vài phụ nữ dậy sớm chuẩn bị củi lửa nấu nướng buổi cơm đầu ngày. Lẫn trong màn sương mù lãng đãng, đã lơ lửng vài làn khói bếp, sẫm nâu hơn, đang từ từ bay lên từ các túp lều xiêu vẹo gần dưới chân núi
Xe chúng tôi đang bị khó khăn, hình như không thể vât lộn với số lượng đá quá nhiều trên đường, nên đã dừng lại ở đoạn sát vách núi nơi có nhiều dấu vạt xẻ rất mới. Mọi người hơi xôn xao. Tôi lơ đãng nhìn quanh. Đoạn đường đèo thật hoang vu. Núi non kỳ vỹ bao quanh. Địa hình hiểm trở heo hút làm dấy lên những giao động bất an. Tôi đang bâng khuâng lo lắng xe không tiếp tục chạy được nữa thì bất chợt lạ lẫm và vui mắt làm sao khi thoáng xa dưới thung lũng, giữa những mái nhà mầu tro xám buồn bã, có bóng con ngựa thồ đang lững thững bước, lưng lủng lẳng các túi vải dệt mầu sặc sỡ, túi nào cũng lỉnh kỉnh đồ hàng tạp hóa. Thì ra, con ngựa lung linh hàng họ xanh đỏ đang được người chủ chậm rãi dắt đi bán dạo các thứ lặt vặt mà ông ta đã buôn về từ phố thị hay khu chợ trời sát biên giới. Tôi đã được chú tài xế chỉ cho thấy ông nhà buôn này từ lúc nghỉ ở quán ăn gần ga Lào Cai nên rất thú vị khi nhận ra ông, vẫn chiếc mũ len tròn màu mơ chín ở chóp đỉnh có nhúm len đỏ, đang thong dong dẫn ngựa thồ hàng qua vùng đồi gần chân núi. Con ngựa hiền lành thả bước giữa bình minh đang lên. Nắng bắt đầu tràn qua màn mây mù, vàng ấm hơn, rồi lan xuống rải nhẹ trên những con dốc quanh co giữa các túp nhà lúp xúp. Không gian vô cùng yên bình. Cảnh quang đẹp hài hòa. Bản làng vẫn tĩnh lặng. Sương mù bay lãng đãng. Thời gian như đang trôi chậm hơn bình thường, hay cũng đang ngầy ngật ngủ cùng cảnh vật. Những khi vắng tiếng xe chạy, tiếng đá dội lăn ồn ào, nét trầm mặc hoang dã quen thuộc của núi đồi trở lại mênh mang khắp vùng.

Chúng tôi đều xuống xe, vài người đàn ông sôi nổi góp chuyện bàn tán với chú tài xế tìm cách giúp để xe có thể chạy tiếp. Mọi người xúm nhau nhặt các viên đá lớn đang cản giữ bánh xe và cố gom, đẩy những cục đá lởm chởm khắp đường vào sát mé núi. Một lúc sau, 4, 5 cậu thanh niên trẻ vui vẻ cười nói, xăn tay áo hợp sức đẩy xe giúp chú tài xế bắt trớn chạy qua khúc đường độ 30 mét bị vướng đầy đá. Hơn một giờ nữa trên chiếc xe lấm lem đầy bụi đó, đến lúc mặt trời đã hơi chếch bóng trên cao, xe chúng tôi đến Sa Pa. Ai cũng mệt mỏi vì cuộc hành trình thiếu ngủ suốt đêm trên xe lửa chạy từ Hà Nội lên và quá vất vả trên chuyến xe sáng nay nên mọi người chỉ còn sức kéo hành lý vào nhà trọ của hãng du lịch, ăn uống qua loa, rồi vào phòng nghỉ ngay.
Sau một đêm ngủ chưa bao giờ ngon như vậy, Nga, cô bạn từ thời còn học ở Gia Long, và tôi quyết định đi chơi riêng, không theo đoàn khách du lịch cả 3 ngày ở Sa Pa. Thật ra, đoàn này đến đây để nhập với một đoàn khách khác cùng leo núi, họ kỳ vọng chinh phục đỉnh núi Fansipan, thuộc dẫy Hoàng Liên Sơn. Chúng tôi không hợp với những chuyến đi quá đông với nhiều sắp đặt tính toán như vậy, cũng không thoải mái khi nghe nhóm khách mặc cả thuê người khiêng vác ba lô, xách ghế xếp, nước uống, thức ăn giúp họ trong hành trình leo núi. Thêm vào đó, Nga cần thời giờ quan sát để có khái niệm về địa hình và nề nếp sinh hoạt ở các bản làng, cần tư liệu bổ túc cho một dự án mở mang mà cô nàng đang làm. Chúng tôi đã nhờ một cô nhân viên khách sạn dàn xếp với ông chú bà con của cô, chú Tám, chuyên chạy xe ôm, để được chú chở đến hai bản làng Séo Mý Tỷ và Sín Chải, đều nằm trên núi. Chú Tám thường được thuê chở hàng từ Sa Pa về các bản làng lân cận nên khá thông thuộc đường lối đến các bản. Thêm vào đó, chú còn quen biết các cụ già làng và vài gia đình cư dân trong bản nên rất thích hợp với việc dẫn đường cho chúng tôi. Dự định của chúng tôi là mỗi ngày đi thăm một bản.
Ngay sáng hôm đó chúng tôi đi Séo Mý Tỷ cách thị xã Sa Pa khoảng hơn 15 cây số, theo con đường từ trung tâm Sa Pa chạy dọc thung lũng Mường Hoa. Ban đầu, cảnh hai bên đường rất đẹp, nhưng chỉ vài phút sau thì chúng tôi không ai còn tâm trí để ngắm nhìn gì nữa vì đường đi càng lúc như càng dốc hơn. Có đoạn lẫn lộn nhiều đá, hết sức nguy hiểm, Nga và tôi đã cùng xuống xe mấy lần để chú tài xế tự xoay sở đưa xe về phía trước. Dạo đó, chỉ xe gắn máy mới có thể lách lỏi được trên nhiều đoạn của con đường duy nhất chạy từ thị xã về bản làng này. Tôi nhớ có hai đoạn, cả ba chúng tôi phải cùng nhau đẩy chiếc xe qua các con suối cạn khá rộng, dưới đáy toàn đá to, đá tảng. Qua khỏi suối, đường vẫn khó đi, có nơi như lạc hẳn vào rừng. Vắng tanh, toàn cây rậm rạp và vô số dây leo nhằng nhịt, có thể nơi đó là một mảng rừng nguyên sinh chưa từng bị khai khẩn. Chỉ có ba chúng tôi và chiếc xe sang số già nua khục khặc cố băng ngang trên một lối mòn hun hút sâu. Xe đã chậm chạp chạy bừa lên các thảm cây dại cao ngang đầu gối, cố gắng dò dẫm theo vết các bánh xe cũ đã làm rạp nhiều cây cỏ. Lầm lũi gần 15-20 phút trong khu rừng thâm u, rậm đặc cây bao kín bốn bề, qua thêm vài đoạn đường đá dăm, đá cục, lên xuống đồi dốc, quanh co rồi chúng tôi cũng đến đầu bản Séo Mý Tỷ vào lúc đã gần trưa.
Đứng trên một mỏm đồi cao gần cái lán sơ sài ở đầu làng, nhìn quanh chỉ thấy trùng điệp núi đồi và thấp sâu bên dưới là bản làng nằm hoang dã giữa nhiều cây to, các khe suối, và vài thác nước. Lưa thưa rải rác quanh các triền đồi là những túp lều nhỏ lợp mái tôn cũ kỹ hoặc có mái rạ được chắp vá lộn xộn. Ngay gần trung tâm bản, sát bên một con suối [1] khá rộng, nước miên man chảy xiết, là một khoảng đất to phẳng như mới được đắp lên hay vừa được san, nén cho bằng phẳng. Trên đó la liệt rất nhiều xe ủi đất, xe câu, và vật dụng xây cất [2], có lẽ đã được tải đến qua ngã Lai Châu. Xa hơn nữa, chơi vơi giữa núi đồi xanh thẳm, là những thảm ruộng hình bậc thang trải dài trên các triền núi, nơi dân bản trồng ngô, lúa, mùa màng. Từ chỗ chúng tôi đứng, có thể nhìn thấy các bậc ruộng phân minh rõ ràng từng nấc; chỗ cong cong, nơi uốn lượn, nấc thấp, nấc cao, nối tiếp nhau thoai thoải, hẹp thuôn bớt lại, rồi cao dần lên … thảm ruộng vẫn giữ dáng núi hài hòa của thiên nhiên bao quanh. Nét đẹp của những bậc ruộng sinh động đến ngỡ ngàng. Đang mùa đông hoang vu, nên hầu hết các bậc đều xanh mầu cây lá bị úa lạnh hay mầu rơm rạ mục ướt sót lại sau vụ gặt muộn. Những bậc ruộng nhìn quá chỉn chu như chạm khắc này đã cho chúng tôi cảm tưởng như từng được hướng dẫn xây dựng theo một quy hoạch rõ ràng hay được nặn tạc bởi các điêu khắc gia nhà nghề. Nhìn từ xa, cả thửa ruông hiển lộ ngoạn mục như là kết quả của một công trình kiến trúc mỹ thuật; Và có thể công dụng như một lầu vọng cảnh lơ lửng nhiều tầng giữa bao la đồi núi trùng điệp, nơi có thể quan sát mọi sinh hoạt đời thường của bản làng bên dưới hoặc thưởng ngoạn tiên cảnh lãng đãng phù vân trên cao. Nhưng đó chỉ là tư duy tưởng tượng vẽ vời của tôi thôi, vì các thửa ruộng đẹp hoang đường ấy đều đã được vun đắp xây dựng bằng sức lao động, nước mắt, xương máu của những người sinh ra ở đây hay đã chọn nơi đồi núi hiểm trở này để định cư từ lâu. Họ đã phải khắc phục thiên nhiên để có đất đai trồng trọt mà sinh tồn. Tôi cũng đọc được trong một tài liệu về Archaeology thì, đối với dân bản, những thửa ruộng đẹp như tranh vẽ này là công trình biểu tượng của ý chí quyết tâm khai phá của tổ tiên họ, là đất đai mà họ phải trân trọng và giữ gìn, là di sản tâm linh mà họ và con cháu được thừa hưởng. Vì ruộng đất ấy đã mặn mồ hôi, thấm nước mắt, đẫm khốn khó, trĩu ân tình của cha ông họ. Nhìn các thửa ruộng uốn lượn quanh co khắp nơi quanh vùng đồi núi trắc trở địa hình mà thán phục ý chí kiên cường khai thác thiên nhiên của bao thế hệ người đi trước, nhất là ở thời điểm sơ khai khi họ chỉ có kiến thức hiểu biết thô thiển, còn vô cùng thiếu thốn phương tiện, và phải vất vả mưu sinh trong rừng núi hoang dã dưới điều kiện thời tiết thiên nhiên khắc nghiệt..
Ngày hôm trước, lúc xe bị kẹt đá trên đỉnh đèo cao, chúng tôi đã được cơ hội nhìn ngắm khá tổng thể cả vùng. Từ vị trí đó, nhìn quanh, hướng nào cũng thấp thoáng ruộng bậc thang ẩn hiện trong không gian núi đồi mịt mờ sương. Tôi đã nghe du khách cùng xe trầm trồ thưởng ngoạn vẻ đẹp huyền hoặc như không thật, không thuộc cảnh hạ giới này. Họ thán phục những thửa uốn vòng quanh các núi cao, nhiều vô số bậc, những bậc chót vót trên đỉnh như chạm cả vào mây. Những bậc phù vân dị ảo đó có còn thuộc thửa ruộng trần thế hay đã thành đường sương lối khói dẫn đến một cõi giới khác? Và trùng điệp bao thửa thoai thoải 5, 7 bậc trên các đồi thấp, nhìn như các kệ hàng cây cảnh được khéo léo trưng bầy nơi các công viên hay các vườn hoa, nhưng đẹp thiên nhiên hơn và có mức độ hoành tráng hơn; Và khắp vùng luôn se sắt âm gió rì rào huyền bí. Chúng tôi đã tìm hiểu qua loa trước khi đến đây và được biết phần lớn cả vùng địa hình đất dốc hiểm hóc này đều lẫn lộn đá, nghèo chất dinh dưỡng nên dân bản chỉ trồng được ngô, khoai, sắn, và hoa tam giác mạch [3]. Tuy thế, nhiều gia đình cũng cố gắng trồng thêm ít lúa nếp ở vài góc vườn tốt nhất; Cố gắng chăm bón, thu hoạch rồi để dành, chỉ để đồ xôi, làm bánh cúng kiến tổ tiên vào dịp Tết nhất hay các lễ hội quan trọng.
Chúng tôi đi theo các dốc đồi dẫn sâu dần vào bản, qua vài khe suối nước róc rách trong vắt, những đoạn rừng thơm hương gỗ lạ, và những túp nhà cũ kỹ rêu bám dầy trên các vách lá, nhiều cây leo bò phủ xanh kín các mái tôn được đắp thêm rạ bên trên để giữ nhiệt. Khắp nơi rậm rạp cây xanh. Không gian trong lành vô cùng. Bản làng thật đìu hiu vắng lặng trong buổi xế nhiều sương mù ẩm ướt. Ở vài nơi cao, thấp thoáng những túp nhà nhỏ đứng chơi vơi cô quạnh như chỉ tựa nhẹ vào các vách núi cheo leo. Nhà cửa nhiều nơi trong bản nằm rải rác hoang dại, nhếch nhác trên các triền đồi; phần lớn vật liệu làm nhà như chỉ được chắp vá qua loa tạm bợ. Nhìn tổng thể, xóm làng như tàn dư hoang phế còn lại của một nơi định cư thuộc một thời cổ đại đã xa.
Phần lớn cư dân Séo Mý Tỷ là người gốc dân tộc H’Mông. Chúng tôi được vào thăm nhà A Tấn, người quen của chú tài xế, gần ngay đầu lối vào bản. Năm đó, A Tấn, 27 tuổi, gia đình anh có hai sào đất của cha mẹ ở trên núi nên chỉ gieo cấy thóc ngô, trồng trọt thêm rau để sinh sống. Mây, 25 tuổi, là vợ A Tấn. Họ có bốn con nhỏ và đang sống chung với mẹ của A Tấn, bố A Tấn đã mất từ mấy năm trước.

Gia đình A Tấn còn giữ nhiều nề nếp sinh hoạt đặc thù của tổ tiên gốc H’Mông. Nhà họ không có cửa sổ, nhưng trên hai vách cao chạy dọc nhà, mỗi vách đều có hai lỗ hở hình tròn nằm gần sát nóc nhà. Một lỗ ở phần gian trước và lỗ còn lại nằm ở khu bếp phía sau, các lỗ này có công dụng như cửa sổ. Mỗi “cửa sổ” chỉ to bằng cái bánh tráng bán ở chợ vùng xuôi, và vì ở vị trí quá cao nên không đem được bao nhiêu ánh sáng vào bên trong nhà. Nhà chỉ gồm một gian duy nhất, hơi hẹp ngang, nhưng khá sâu. Phần nhà ngoài, rộng rãi hơn, để cái chõng tre xộc xệch và mấy ổ rơm. Khu bếp, nền hơi thấp xuống, nằm ở đằng sau. Trong bếp có hai cái nồi cũ, vài cái ghế con xếp quanh chiếc kiềng lò ba chân nằm cố định giữa mấy hòn đá đóng đặc bồ hóng đen. Lò nấu đang bập bùng cháy, khói cay từ mấy thanh củi còn sống bay mịt mù khắp nhà, mọi người ai cũng ràn rụa nước mắt, tay luôn xua bớt khói bay vào mặt.
Bên trong nhà, nổi bật nhất là những gióng tre dài mắc song song nhau như một cái giàn kín gần hết khoảng gần nóc của phần gian ngoài. Trên giàn treo san sát rất nhiều chùm ngô thật to, các bắp ngô trong chùm đều đã được tách lá, phơi lộ mầu hạt của mấy loại ngô khác nhau: vàng, trắng, tím, hay lẫn lộn hai, ba mầu. Tôi nhìn giàn ngô trĩu hạt mẩy căng, thoáng vui vì yên tâm khi tưởng tượng cả nhà A Tấn, nhất là bốn cháu nhỏ của họ, sẽ luôn no nê vì được ăn thật nhiều bữa mèn mén [4] dẻo thơm, những đôi má trẻ con phúng phính luôn đỏ hồng, cho dù mùa đông tàn khốc sẽ kéo dài, rải rắc toàn sương mù, gió lạnh trùm phủ hết núi đồi của bản trong nhiều tháng tới. Trên nóc bếp còn có hai gióng tre nhỏ treo một cái đùi trâu khô sẫm mầu và hai xâu cá muối được liên tục hun khói từ cái bếp củi được giữ luôn âm ỉ cháy trên nền nhà. Hai món đặc sản gác bếp này được chuẩn bị dành cho ngày Tết.
Ngay sau khu bếp, một góc nền nhà như được đào sâu xuống độ hơn một mét và rộng vừa đủ để làm chuồng cho 4 con heo đốm còn nhỏ,  dưới đó đàn heo đang chạy lung tung như sục sạo tìm thức ăn. Qua khỏi chuồng heo là khoảng nền trống, có lẽ được dùng như sân nhà, sáng sủa và thoáng đãng hơn. Trên sân có vài cái lu chứa nước, nơi chứa củi được lót nền bằng hai phiến đá phẳng, chỗ rửa chén bát có cái thau nhựa đã mẻ rách, và sau cùng là tấm phên cửa được chống cao bằng một khúc cây xù xì nhiều khấc ngang.
Tiếng heo uểnh oảng liên tục đã làm át cả câu chuyện đang rôm rả nơi chiếu rượu ngô ở gian trên, nơi A Tấn, bà cụ mẹ của anh, và chú tài xế đang tụ họp vui vẻ. Bà cụ móm mém huyên thuyên cười nói, tay thoăn thoắt tách hạt từ các bắp ngô khô vào môt cái bồ chứa đã gần đầy. Họ đang rộn ràng chén thù, chén tạc mời nhau nhấp rượu bằng tiếng H’Mông líu cha líu chíu, nghe rất vui tai.
Chúng tôi và Mây ở gian bếp. Mây đang vừa đồ mèn mén, vừa tất tả với các việc đầu ngày của cô. Dáng Mây khỏe mạnh, gọn gàng trong chiếc váy đen dài gần đến đầu gối, váy cô luôn ngộ nghĩnh xòe bồng duyên dáng khi di chuyển vì có nhiều hàng pli xếp được may tỉ mỉ khéo léo ở phần eo bụng. Áo trên của Mây là vải sọc, loại nhiều sắc đỏ đậm, nhạt xen kẽ nhau ở phần thân áo và rực rỡ các hoa văn lạ đẹp trên phần viền hai tay áo. Mầu sắc thêu trên áo nhìn năng động, tươi vui, như phản ảnh bộ điệu nhanh nhẹn, tháo vát của bà mẹ rất trẻ. Đầu Mây chit khăn sọc sặc sỡ che gần kín mái tóc búi gọn. Mây thân thiện chuyện trò bằng tiếng kinh, lối phát âm của cô hơi loãng ở những chữ có dấu hỏi, ngã và cũng bị ngắn hơi không được tròn vài chữ có âm dài, nên lúc đầu chúng tôi nghe chưa quen. Mây cho biết, hai cháu lớn đã đi học ở trường trong bản. Bố mẹ Mây đã chuyển lên Lai Châu theo gia đình người anh trai.
Mây vừa mau mắn tiếp chuyện chúng tôi, vừa thoăn thoắt đi lại trong bếp, nhanh nhẹn chu tất mọi công việc phải làm. Lưng cô địu cháu bé nhất chưa biết đi, hai tay cẩn thận bưng đổ thùng thức ăn tạp nhạp rau củ hổ lốn cho đàn heo đói, mắt vẫn luôn để ý trông chừng củi lửa cho nồi mèn mén. Phần váy sau của cô còn luôn bị một cháu bé lấm lem độ 3 tuổi túm nắm, quấn theo mẹ từng bước. Mây hoàn toàn không lộ vẻ vội vã hay căng thẳng khi luôn tất bật với công việc nội trợ. Phong thái cô hiển lộ sự điềm tĩnh nhẫn nhục chịu đựng rất an phận. Ở cô, có nết cần mẫn đảm đang thuần thục khuôn phép, và cô như còn có khả năng uyển chuyển điều hòa để mọi việc được tuần tự chu toàn như đã dự định. Có lẽ nhờ vậy mà nhìn cô rất an yên, vui vẻ như một người có cuộc sống gia đình êm ấm, hạnh phúc.
Dù chỉ vừa gặp nhau, vợ chồng A Tấn và chúng tôi đã thân mật chuyện trò suốt buổi; họ đã vồn vã cho đến lúc chúng tôi từ biệt để đi thăm loanh quanh trong bản. Thật ra, chúng tôi cũng chỉ có thể rời đi được sau khi cùng ăn bữa mèn mén thơm dẻo vị ngô với rau dại kho muối rắc vừng rang cùng cả gia đình họ. Sự chất phác, ân cần, và hiếu khách của họ làm chúng tôi vừa cảm động, vừa nặng lòng nghĩ ngợi vì tự nhận biết bản thân không thể dễ dàng gần gũi và quý mến người xa lạ hồn hậu được như họ. Nhà cửa xiêu vẹo giữa núi đồi hoang lạnh, thiếu thốn nhiều thứ mà họ đã rất hồn nhiên, vô tư giao tiếp với khách lạ. Lương thực dành dụm qua mùa đông khó khăn mà họ cũng niềm nở tha thiết mời chúng tôi cùng dùng bữa. Có lẽ, tâm tư chân chất, bản tính mộc mạc đã khiến họ nghĩ chúng tôi, cũng giản dị như họ, rất thích mèn mén ngào ngạt hương mùa được dùng nóng trong buổi ăn đầu ngày đông lạnh.
Suốt buổi, nét mặt bà cụ và vợ chồng A Tấn luôn thể hiện sự an vui, hiếu khách đặc biệt. Dáng điệu và cử chỉ của mọi người trong gia đình rất thoải mái hòa đồng, họ đã lộ vẻ ái ngại lo lắng khi biết chúng tôi gặp nhiều khó khăn trên đường tới đây. Có phải vì mùa đông, không bận rộn nương rẫy, họ có thì giờ quây quần nhiều, nên luôn chú ý quan tâm lẫn nhau và người khác nhiều hơn? Và vì có cơ hội chăm sóc nhau nhiều nên tình thân gia đình, bản làng càng thêm chặt chẽ gắn bó? Có vẻ như tình cảm trong lành đó còn giúp họ dễ nảy sinh lòng từ ái, tính thân thiện với cả người xa lạ? Hay vì địa hình khắc nghiệt, cuộc sống nhiều cam go đã khiến họ luôn có tâm thức che chở đùm bọc gia đình và chia sẻ với người chung quanh? Có lẽ đã từ lâu, người phố thị, nhất là kẻ xa xứ từ tuổi niên thiếu như Nga và tôi, không còn nhớ đến nếp sống luôn có điểm tựa căn bản là tình thân, tình người ấm áp này nữa.
Điều hơi lạ là tuy nhà của vợ chồng A Tấn chỉ là nền đất, vách tranh chắp vá lem nhem các mẩu gỗ bồi, và tấm phên sau nhà luôn được chống cao để gió lùa bớt khói bếp, mà tôi đã không cảm thấy bị lạnh khi ngồi chơi với họ suốt buổi. Thế mà, vừa từ giã bước ra ngoài, tôi đã rùng mình ngán ngẩm khi nhìn thấy màn sương mù đặc đầy ở hướng bến sông. Tôi không biết đã do dự trước khi bước đi vì hình dung phải lên xuống đường đồi khó khăn trong sương lạnh, hay vì đang quyến luyến cái ổ rơm ấm đã ngồi tâm tình với Mây cạnh bếp lửa, hay vì ý thức phải từ giã tình thân êm ái của gia đình họ nữa. Chỉ mơ hồ cảm nhận là chưa bước đi mà đã thấy nhớ nhớ giọng nói của Mây hơi nhòa nhạt ở các âm hỏi ngã, nghe đáng yêu như âm giọng ngô nghê của đứa bé nói chưa được sõi.
Đã quá trưa, vài em nhỏ đang trên đường về nhà sau giờ tan học, nhìn như vừa tung tăng bước ra từ màn sương phủ dầy ngoài bến sông. Chưa thấy bóng dáng các em nhưng đã nghe vang vang tiếng cười nói ròn rã từ lúc chúng tôi vừa rời nhà A Tấn. Trên lối đồi hẹp, dẫn đầu là hai bé gái có đôi má đỏ au, đang thi nhau hồn nhiên vừa chạy vừa nhảy dây bằng những sợi dây dại, có lẽ nhặt được đâu đó trong rừng. Tôi ngỡ ngàng, nửa thế kỷ trước khi bằng tuổi các em tôi cũng nhẩy dây suốt bao ngày thơ dại. Nhưng thuở ấy, tôi và các bạn đã có những sợi thừng hay sợi nylon được bện thắt, ép mịn, hai đầu dây có cán cầm bằng gỗ được bào chuốt láng mướt và nhỏ vừa tay để dễ cầm, dễ quay. Thế mà bây giờ, ở thời điểm tôi đang bước vào hoàng hôn của đời mình, có thể như hai em này chưa bao giờ nhìn thấy những sợi thừng, sợi dây được làm với mục đích để trẻ em nhảy dây vui đùa như vậy. Chua xót làm sao! Tôi bỗng nhớ lắm những vòng dây quay và bao bước nhảy êm ái ngày xưa, những bước bổng cao đã luôn đem lại cho tôi cảm giác vô cùng thích thú, thỏa mãn như được tung bay cùng các đam mê không bao giờ có điểm giới hạn của tuổi thơ. Biết đâu tâm trí hai em nhỏ này cũng đang ăm ắp tràn trề những khát vọng vô biên hạnh phúc như vậy? Tuy nghĩ thế, nhưng lòng tôi vẫn vẩn vơ thương xót khi nhìn lại khúc dây lòng thòng các nhánh con chỉa ngang vướng víu trong bàn tay nhỏ bé của các em. Có một cái gì đó đang nghèn nghẹn trong cổ tôi.
Để dịu bớt cảm xúc, tôi để ý quan sát các em, em nào cặp má cũng đỏ hây, đôi mắt to sáng, khuôn mặt ngời ngời sức sống. Đặc biệt đẹp nhất là những nụ cười quá đỗi hiền lành của các em, cười tròn môi căng má, cười khoe hàm răng xinh như những hạt ngô sữa, và tiếng cười trong vắt như mở hết tâm tư bé bỏng hòa đồng tương tác với người đối thoại. Những nụ cười ấy đã theo tôi nhiều năm, và lần nào hồi tưởng lại tôi cũng vừa vui vừa ưu tư ái ngại vì nhớ lại cả nét phong trần, cam chịu phảng phất trên gương mặt thơ dại của các em. Chiều hôm ấy, em nào cũng ngây ngô cười nói, không ai có nét láu lỉnh của trẻ em thành phố, tuy hơi rụt rè trước người lạ nhưng nụ cười không lúc nào kém ngời tròn, trong sáng, Các em đã nhỏ nhẹ lễ phép trả lời như thưa gửi với cô giáo trong lớp học, phát âm rất rõ bằng tiếng kinh. Đôi mắt các em trong veo, phảng phất ánh xanh kiên trung của đá núi đang lai láng trôi thả như ngao du trong giấc mơ được bay cao, vút xa để khám phá những chân trời mới lạ bên ngoài bản làng nghèo khổ.
Trên đường về, khi gần đến khu rừng thâm u cây cối, chúng tôi nhìn thấy ba cô gái H’Mông trẻ, cô nào cũng oằn lưng gập người đeo một bó củi, vừa dài vừa rất to, đang đi ra từ bờ rừng, và bắt đầu men dần theo con dốc lên ngã đường về bản. Cô nào cũng đeo ngang hông một bao da mang rựa hay dao dùng đi rừng loại to. Họ bước chậm, thận trọng như để giữ thăng bằng cho từng bước đi. Dáng các cô mảnh khảnh, gương mặt sạm nắng, hằn sâu nét tần tảo, vất vả, chịu khó. Họ nhẹ nhàng cười chào chúng tôi rồi lại lầm lũi đi. Tôi tự hỏi không biết họ có phải trèo bờ đá rất dốc mà cả Nga và tôi đã phải bò mới qua được để đến đường đi tắt ra bến sông? Nghĩ bồn chồn xót xa quá. Cả Nga và tôi đều băn khoăn nghĩ ngợi tại sao các cô gái trẻ này phải tự đi kiếm củi mà không có thêm người thân nào, có sức lực mạnh mẽ hơn, đi cùng để giúp chặt cây hay bảo vệ các cô nếu gặp chuyện nguy hiểm trong rừng. Tuy thắc mắc nhưng chúng tôi cũng không thể dừng lại hỏi han họ vì đã quá muộn. Chúng tôi cần về Sa Pa trước khi mặt trời lặn, tránh tình cảnh xe phải dò dẫm trên các đoạn đường dốc nhiều đá vào lúc trời đã tối.
Ngày hôm sau, chúng tôi đi thăm bản Sín Chải, cách Sa Pa chỉ độ 5 cây số, đường dễ đi hơn nên chúng tôi đã chủ động khởi hành thật sớm để có thể lên thăm trường học của các em trong bản. Sín Chải có diện tích lớn nhất trong các bản làng ở Sa Pa và đa số dân ở đấy là người gốc dân tộc H’Mông. Năm chúng tôi đến, Sín Chải được xếp hạng là bản làng nghèo nhất ở Sa Pa.
Sáng sớm hôm đó, trời lạnh chỉ chừng 3 hay 4 độ C, chúng tôi đã tò mò theo các em nhỏ ở khu lưng chừng giữa bản đến trường. Trời chưa sáng hẳn, chúng tôi đi trên các đoạn đường đồi núi nhấp nhô và phải băng qua một con sông nhỏ trên chiếc cầu tre được cột, nối sơ sài bằng nhiều vòng dây mây. Dù rất dè dặt bước mà chiếc cầu luôn kẽo kẹt đu đưa, tôi đã rất bối rối bất an khi nhìn xuống thấy nước dưới sông chảy khá mạnh. Qua bên kia sông, hai bên con đường đất gập ghềnh còn phủ đầy sương muối, nhiều nơi còn lấm tấm các đốm tuyết; Không gian lãng đãng mây mù, gió núi khô buốt, vậy mà các em chỉ mang dép, chân trần không vớ. Những bàn chân nhỏ bé tím tái, gót chai sần, trong đôi dép mòn đế líu ríu bước như nhảy lướt trên những sườn đồi mà đất đã đông cứng. Quanh co hơn cả giờ, có lẽ đi cũng hơn 2 cây số chúng tôi mới tới được khu trường tiểu học của bản. Suốt dọc đường các em láu táu chuyện trò vui như đàn chim đi hội ngày mùa. Dù ăn mặc không được tươm tất, không có đồng phục như học trò thành phố, nhưng mắt em nào cũng long lanh, đôi má đỏ hồng, gương mặt hồn nhiên rạng rỡ. Nhìn vừa thương vừa rất đau lòng. 
Khi đến “trường học” của các em, chúng tôi đã rơi nước mắt. “Trường” chỉ là một cái mái che cao cao, nền đất, không cửa, không vách. Ba lớp học được ngăn bới tấm bạt màu xanh giăng lưng chừng từ mấy cái cột chống mái. Ngày hôm đó chỉ có một thầy giáo dạy cả 3 lớp: 1, 2, và 3. Thầy luôn tất tả vén bạt qua lại các lớp để giảng dậy hay phân xử giữ trật tự khi các em ồn ào. Ngoài sân trường có bốn phụ huynh, hai người trong bọn họ địu em bé trên lưng, tất cả vui vẻ chuyện trò trong lúc chờ đợi đến giờ tan học để dẫn con về. Gió se lạnh, nhìn quanh đâu đâu cũng chỉ núi đồi ngút ngàn.
Theo lời mấy bà mẹ ngồi đợi con bên ngoài lớp học thì vào mùa lạnh trường thường đông học trò hơn, các em ít vắng mặt vì gia đình không bận việc nương rẫy. Nhưng khi vào mùa trồng trọt hay mùa gặt, nhiều em phải ở nhà trông chừng các em nhỏ cho bố mẹ đi rẫy hay lên nương cả ngày. Đôi khi chính các em cũng phải lên nương phụ giúp gia đình để công việc đồng áng có thể toàn tất thuận lợi theo các chuyển biến của thời tiết. Cũng có em gia cảnh neo đơn, chỉ sống với ông hay bà rất già, nên phải cáng đáng việc nương rẫy như là người lao động chính của gia đình. Vì những khó khăn như vậy, nên có vài em đã học đi, học lại một lớp hai, ba năm, mà cũng chưa đủ kiến thức để được thầy giáo phê chuẩn cho lên lớp cao hơn.
Mấy ai, tình cờ đi qua bản, có thể thấu hiểu được những em nhỏ đáng thương ở đây đã phải kiên trì lắm mới đến được trường học, cố theo bạn ê a học vài con chữ, vài cái số, để mong có thể đọc, tự giải tỏa bao hiếu kỳ về những dòng chữ nhấp nháy hay các hình ảnh lung linh màu sắc trên mấy cái tablet computers “thần kỳ”, mà các em đã thỉnh thoảng nhìn thấy và rất chú ý, khi quan sát vài người trong các tổ chức thiện nguyện hay du khách chúng tôi sử dụng. Có thể, có em đã mơ hồ cảm nhận, phải đến trường để sau này không là người quờ quạng mù chữ khi lên thị xã, nơi có muôn vàn điều khác lạ; hoặc không bỡ ngỡ nếu có dịp đến được các phố thị dập dìu xe cộ mà các em đã nghe thầy giáo diễn tả là nơi mà cuộc sống trong nhà dễ dàng, tiện nghi hơn nhờ vào sự trợ giúp của các máy gia dụng nhỏ như tủ lạnh, máy giặt, bếp điện, bếp dầu, … Và vì thế, các em đã cố gắng trải qua nhiều buổi chịu đựng rét lạnh trong lớp học trống vách, không tường. Nhưng xót xa làm sao, khi chưa kịp thuộc bài vì luôn bị những cơn đói hành hạ do ăn uống thiếu thốn, do thường xuyên thiếu tập trung vì quá mệt mỏi, mất sức dầm dãi lội sông, leo núi; Và do lề thói gia đình đã ngầm ấn định ba ngày học, bốn ngày nghỉ … thì đã đến mùa gieo cấy, lại phải gói ghém chữ nghĩa cất lại ở lớp học để lên nương lo toan vất vả cuốc trồng, kiếm hạt ngô, hạt thóc nuôi gia đình. Đến khi hết mùa, trở lại trường, những con chữ, cái số lại nhập nhằng xa lạ như chưa từng được học qua; Thêm bao tủi buồn, tự ti khi phải một mình dò dẫm lại từng trang sách mà các bạn cùng lớp đã thông thuộc. Cứ thế, khó khăn triền miên đeo đuổi các em năm này qua năm kia.
Từ lâu, việc đi học của nhiều em vẫn như được lặng lẽ sắp xếp, một cách hoàn toàn thứ yếu phụ thuộc, quanh lịch trình của mùa màng như vậy. Lối sắp xếp này gần như đã thành thông lệ ở các bản làng heo hút, nơi mà nghèo đói thiếu thốn muôn thuở quẩn quanh. Và, người dân bản đã chấp nhận thông lệ này như một điều hiển nhiên, một điều bình thường như ý tưởng trong câu nói dân gian quen thuộc của họ “nước trôi xuống núi lại mưa về nguồn”, mà tôi đã nghe bà cụ mẹ A Tấn nói hôm trước. Nhận biết các em đến trường đã là một cố gắng phi thường, nên dù mấy năm học mãi một lớp, trường cũng không nỡ đuổi em nào cả. Nghe thật nặng lòng. Những đứa trẻ như không có tuổi thơ giữa núi rừng hùng vỹ, nơi thiên nhiên vô cùng hào phóng cảnh quan kỳ mỹ, nhưng lại nghiệt ngã cô lập các em trong cuộc sống cực kỳ khó khăn, thiếu thốn.
Từ trường học về, chúng tôi đã dừng bên bến sông một lúc. Lúc này đã gần 2 giờ chiều, nhiệt độ ấm hơn, hình như gần 15OC. Trên mấy tảng đá lớn nằm rải rác giữa sông, vài cô gái đang chăm chỉ giặt quần áo hay đang vội vàng tắm rửa cho con. Thời tiết khá lạnh mà hai em nhỏ độ 4, 5 tuổi đang đứng trần truồng trên một phiến đá phẳng sát nguồn nước trên cao chảy xuống. Hai bà mẹ, tay hối hả xối nước lên đầu con, miệng líu lo hát như để hướng dẫn sự tập trung của các em vào một câu chuyện ngộ nghĩnh nào đó trong bài hát. Mặt mũi tím lạnh nhưng không em nào khóc. Tôi quay đi chỗ khác, rùng mình, cảm nhận như có luồng nước lạnh buốt vừa chảy tê sống lưng. Nhưng chỉ dăm ba phút sau, cả hai em đều đã được mặc áo quần khô ấm và bắt đầu ríu rít như chim. Trên bờ bên kia sông, lác đác vài phụ nữ trung niên đang xách thùng theo nhau xuống lấy nước. Mọi người hình như ai cũng cố nói một câu gì đó để bắt chuyên với Nga và tôi. Tiếng hỏi han, chuyện trò làm ấm vang cả bờ sông cho đến lúc chúng tôi vẫy tay chào để rời đi. Có lẽ giống như những bến sông làng quen thuộc ở miền xuôi, bến sông ở đây cũng là nơi nhiều phụ nữ và trẻ em tới lui thường xuyên trong ngày để giặt dũ, tắm rửa, xách nước, và cũng là tụ điểm để họ cùng nhau vui cười họp chuyện, truyền tin tức để luôn được kết nối, gần gũi, và vun đắp tình thân của người cùng bản. 
Qua sông, theo dốc đường cheo leo để về chỗ để xe, chúng tôi tình cờ được đi vòng qua khu đầu bản trong buổi chiều mây trời xuống thấp, đang dật dờ trên các mái nhà xanh úa mầu lá. Tôi nghe như nhà nào cũng có tiếng trẻ em chuyện trò và có vòng khói loãng vơ vẩn bay lên đâu đó từ phía sau nhà. Cuộc sống của dân bản bình thản trôi. Không gian hiu hắt, hoang vu lạ thường.
Hơn mười năm đã qua. Chuyến đi Sa Pa năm đó để lại cho chúng tôi nhiều suy tư, nhiều trăn trở; nhưng day dứt, ám ảnh nhất là những ánh mắt trong veo đầy yên bình, không chối từ, không phản kháng trên các gương mặt non nớt trẻ thơ có vướng vất nét phong trần, dầy dạn của cuộc sống vô cùng khắc nghiệt ở vùng núi non hẻo lánh cô lập. Nhớ những mái đầu tí hon, nghiêng nghiêng tập viết, ê a đọc chữ quốc ngữ trong ngôi trường không cửa, không vách. Nhớ đứa bé lấm lem trong căn nhà thiếu ánh sáng, lê la chơi trên nền đất sát gần chuồng heo. Nhớ những đôi chân rất nhỏ, gót sần chai nứt nẻ, trong đôi dép vẹt đế thoăn thoắt lội sông, leo núi đi học trong sương mù, gió lạnh. Nhớ cái lưng gầy gò trong tấm áo sờn rách, gập người tải củi qua sông. Nhớ ánh mắt cực kỳ thèm thuồng khi chờ đến phiên được nhận vài gói bánh biscuits. Những đứa trẻ bất hạnh nơi vùng đất cao có đia hình quá trắc trở này đã bị bỏ quên rất lâu rồi. Các em rất cần sự quan tâm và chia sẻ để có thể vươn lên.
Chú thích:
[1] Suối Séo Trung Hồ chảy qua các xã Tả Van và Bản Hồ, thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai, Việt Nam.
[2] Xe, máy móc, và vật liệu dùng trong công trinh xây dựng đập thủy điện Séo Trung Hồ trên suối Séo Trung Hồ. Công trình được bắt đầu lại vào năm 2008. Chúng tôi đến SMT vào thời gian vùng hồ đang được chuẩn bị đào xới. Năm 2013, công trình hoàn tất và khu này trở thành hồ Séo Mý Tỷ. Hồ Séo Mý Tỷ ở độ cao hơn 1,600 m là hồ nước nhân tạo nằm trong dãy Hoàng Liên Sơn quanh năm mây phủ, hiện nay là hồ nước nhân tạo cao nhất Việt Nam
[3] Hoa tam giác mạch nhỏ, mầu trắng, nhìn như hoa dại. Mọc rất tốt ở vùng đồi núi cao. Người dân vùng cao giã hạt của hoa tam giác mạch hay xay, lược mịn, rồi dùng như bột để làm các loại bánh quê như bánh bò, bánh dầy. Bột tam giác mạch giàu protein  và một số chất dinh dưỡng khác hơn bột gạo hay bột ngô.
[4] Mèn mén là món giống như cơm ở miền xuôi, nhưng được nấu từ hạt ngô khô đã được xay vụn hay giã nhỏ. Mèn mén thường được người miền núi hấp như đồ xôi; có nhà cũng nấu mèn mén giống như nấu cơm, nhưng thành phẩm bị nhão hơn.  
Bản Làng Vùng Cao
Xe của hãng du lịch luôn ì ạch leo đồi, chầm chậm vòng núi, rồi lại thận trọng đổ dốc đã hơn cả giờ qua. Chuyến xe mệt nhọc, lên lên, xuống xuống theo các chu trình chóng mặt như vậy nhiều lần trên tuyến đường gần 35 cây số từ nhà ga Lào Cai đến thị xã Sa Pa trong buổi sáng ngày thứ tư của đầu năm 2010. 
Nhiều đoạn đường đất lổn ngổn toàn đá vụn, rất gập ghềnh, xe bị dằn xóc mạnh và luôn bất ngờ phải rẽ ngang, bẻ trái để len lỏi tránh đá; rồi lại khật khừng chậm chạp bò từ từ về phía trước. Qua những đoạn này, xe thường thả lại các cuộn bụi tung bay mù mịt trời đất. Thỉnh thoảng xe cũng được chạy trên đoạn đường đã được dằm đá bằng phẳng, êm hơn, hành khách lại náo nức chuyện trò, cười nói. Tôi hơi nhức đầu, người ngất ngư nôn nao như bị say xe, nên chỉ im lặng nhìn bâng quơ qua cửa kính xem, ngắm quang cảnh hai bên đường. Đôi lần tôi đã nhắm mắt để kềm bớt sự hồi hộp khi cảm thấy chiếc xe quá mấp mé bờ vực. Từ đỉnh đèo cheo leo hiểm trở mà có thể nhìn khá rõ đôi ba người đàn bà váy áo nhiều sắc đỏ, tay cắp rổ hay vai mang gùi, có người địu con trên lưng, ẩn hiện thấp thoáng trên sân nhà họ ở vùng thung lũng sâu hút phía dưới.

Ở nhiều đoạn an toàn hơn, hai bên đường ngút ngàn các dẫy đồi cỏ xanh; Đồi cao, đồi thấp nối tiếp như gần xếp chồng lên nhau. Không gian mướt xanh thăm thẳm, sắc xanh huyền bí như được tinh tế pha trộn từ mầu của núi đá nhiều tuổi và ánh diệp lục muôn thuở của rừng sâu. Xanh mênh mang đến tận chân trời.  Đôi chỗ, ven đường còn lác đác các cây hoa đào dại, có cây mọc gần sát đường, mấy nhánh cao lòa xòa chạm bên ngoài kính xe hoặc vươn cao hơn cả nóc xe. Nhánh nào cũng chi chit trĩu nặng những nụ hoa mọng chín từ thân đến ngọn các cành. Nụ đỏ hồng lựu, nụ đỏ xác pháo, nụ hồng cánh sen, nụ hồng vân trắng; Tất cả đều đang chúm chím hé mầu như đã sẵn sàng cùng nhau bung rộ rực rỡ trên những cành khô khẳng khiu chưa kịp nhú lá. Nhìn đào, thoáng nhớ đã gần Tết, tôi bỗng cảm thấy con đường và cả vùng đồi sát đó như mềm mại đáng yêu hẳn lên. Thật êm đềm, quyến rũ làm sao khi hình dung vài cô gái người H’Mông, Dao, hay Thái đương thì, súng sính váy áo ngày hội, má thắm hàm tiếu, bước thơ thẩn dưới những cành đào mơn mởn sắc Xuân phố núi. Tôi chỉ mơ màng trong cảnh Tết êm ả nhẹ nhàng đó được vài phút thôi, vì xe lại vất vả bò dốc tiếp, lại dằn xóc làm ê đau khắp người. Có đoạn xe khệnh khạng như không thể chạy được nữa, chỉ nhích tới trước từng bước rất chậm, mỗi bước lại lộp cộp tiếng đá bị bánh xe chạm văng. Trong khi đó, chừng như cả bản làng dưới thung lũng vẫn còn điềm nhiên ngủ hay chỉ mới có vài phụ nữ dậy sớm chuẩn bị củi lửa nấu nướng buổi cơm đầu ngày. Lẫn trong màn sương mù lãng đãng, đã lơ lửng vài làn khói bếp, sẫm nâu hơn, đang từ từ bay lên từ các túp lều xiêu vẹo gần dưới chân núi
Xe chúng tôi đang bị khó khăn, hình như không thể vât lộn với số lượng đá quá nhiều trên đường, nên đã dừng lại ở đoạn sát vách núi nơi có nhiều dấu vạt xẻ rất mới. Mọi người hơi xôn xao. Tôi lơ đãng nhìn quanh. Đoạn đường đèo thật hoang vu. Núi non kỳ vỹ bao quanh. Địa hình hiểm trở heo hút làm dấy lên những giao động bất an. Tôi đang bâng khuâng lo lắng xe không tiếp tục chạy được nữa thì bất chợt lạ lẫm và vui mắt làm sao khi thoáng xa dưới thung lũng, giữa những mái nhà mầu tro xám buồn bã, có bóng con ngựa thồ đang lững thững bước, lưng lủng lẳng các túi vải dệt mầu sặc sỡ, túi nào cũng lỉnh kỉnh đồ hàng tạp hóa. Thì ra, con ngựa lung linh hàng họ xanh đỏ đang được người chủ chậm rãi dắt đi bán dạo các thứ lặt vặt mà ông ta đã buôn về từ phố thị hay khu chợ trời sát biên giới. Tôi đã được chú tài xế chỉ cho thấy ông nhà buôn này từ lúc nghỉ ở quán ăn gần ga Lào Cai nên rất thú vị khi nhận ra ông, vẫn chiếc mũ len tròn màu mơ chín ở chóp đỉnh có nhúm len đỏ, đang thong dong dẫn ngựa thồ hàng qua vùng đồi gần chân núi. Con ngựa hiền lành thả bước giữa bình minh đang lên. Nắng bắt đầu tràn qua màn mây mù, vàng ấm hơn, rồi lan xuống rải nhẹ trên những con dốc quanh co giữa các túp nhà lúp xúp. Không gian vô cùng yên bình. Cảnh quang đẹp hài hòa. Bản làng vẫn tĩnh lặng. Sương mù bay lãng đãng. Thời gian như đang trôi chậm hơn bình thường, hay cũng đang ngầy ngật ngủ cùng cảnh vật. Những khi vắng tiếng xe chạy, tiếng đá dội lăn ồn ào, nét trầm mặc hoang dã quen thuộc của núi đồi trở lại mênh mang khắp vùng.
Chúng tôi đều xuống xe, vài người đàn ông sôi nổi góp chuyện bàn tán với chú tài xế tìm cách giúp để xe có thể chạy tiếp. Mọi người xúm nhau nhặt các viên đá lớn đang cản giữ bánh xe và cố gom, đẩy những cục đá lởm chởm khắp đường vào sát mé núi. Một lúc sau, 4, 5 cậu thanh niên trẻ vui vẻ cười nói, xăn tay áo hợp sức đẩy xe giúp chú tài xế bắt trớn chạy qua khúc đường độ 30 mét bị vướng đầy đá. Hơn một giờ nữa trên chiếc xe lấm lem đầy bụi đó, đến lúc mặt trời đã hơi chếch bóng trên cao, xe chúng tôi đến Sa Pa. Ai cũng mệt mỏi vì cuộc hành trình thiếu ngủ suốt đêm trên xe lửa chạy từ Hà Nội lên và quá vất vả trên chuyến xe sáng nay nên mọi người chỉ còn sức kéo hành lý vào nhà trọ của hãng du lịch, ăn uống qua loa, rồi vào phòng nghỉ ngay.
Sau một đêm ngủ chưa bao giờ ngon như vậy, Nga, cô bạn từ thời còn học ở Gia Long, và tôi quyết định đi chơi riêng, không theo đoàn khách du lịch cả 3 ngày ở Sa Pa. Thật ra, đoàn này đến đây để nhập với một đoàn khách khác cùng leo núi, họ kỳ vọng chinh phục đỉnh núi Fansipan, thuộc dẫy Hoàng Liên Sơn. Chúng tôi không hợp với những chuyến đi quá đông với nhiều sắp đặt tính toán như vậy, cũng không thoải mái khi nghe nhóm khách mặc cả thuê người khiêng vác ba lô, xách ghế xếp, nước uống, thức ăn giúp họ trong hành trình leo núi. Thêm vào đó, Nga cần thời giờ quan sát để có khái niệm về địa hình và nề nếp sinh hoạt ở các bản làng, cần tư liệu bổ túc cho một dự án mở mang mà cô nàng đang làm. Chúng tôi đã nhờ một cô nhân viên khách sạn dàn xếp với ông chú bà con của cô, chú Tám, chuyên chạy xe ôm, để được chú chở đến hai bản làng Séo Mý Tỷ và Sín Chải, đều nằm trên núi. Chú Tám thường được thuê chở hàng từ Sa Pa về các bản làng lân cận nên khá thông thuộc đường lối đến các bản. Thêm vào đó, chú còn quen biết các cụ già làng và vài gia đình cư dân trong bản nên rất thích hợp với việc dẫn đường cho chúng tôi. Dự định của chúng tôi là mỗi ngày đi thăm một bản.
Ngay sáng hôm đó chúng tôi đi Séo Mý Tỷ cách thị xã Sa Pa khoảng hơn 15 cây số, theo con đường từ trung tâm Sa Pa chạy dọc thung lũng Mường Hoa. Ban đầu, cảnh hai bên đường rất đẹp, nhưng chỉ vài phút sau thì chúng tôi không ai còn tâm trí để ngắm nhìn gì nữa vì đường đi càng lúc như càng dốc hơn. Có đoạn lẫn lộn nhiều đá, hết sức nguy hiểm, Nga và tôi đã cùng xuống xe mấy lần để chú tài xế tự xoay sở đưa xe về phía trước. Dạo đó, chỉ xe gắn máy mới có thể lách lỏi được trên nhiều đoạn của con đường duy nhất chạy từ thị xã về bản làng này. Tôi nhớ có hai đoạn, cả ba chúng tôi phải cùng nhau đẩy chiếc xe qua các con suối cạn khá rộng, dưới đáy toàn đá to, đá tảng. Qua khỏi suối, đường vẫn khó đi, có nơi như lạc hẳn vào rừng. Vắng tanh, toàn cây rậm rạp và vô số dây leo nhằng nhịt, có thể nơi đó là một mảng rừng nguyên sinh chưa từng bị khai khẩn. Chỉ có ba chúng tôi và chiếc xe sang số già nua khục khặc cố băng ngang trên một lối mòn hun hút sâu. Xe đã chậm chạp chạy bừa lên các thảm cây dại cao ngang đầu gối, cố gắng dò dẫm theo vết các bánh xe cũ đã làm rạp nhiều cây cỏ. Lầm lũi gần 15-20 phút trong khu rừng thâm u, rậm đặc cây bao kín bốn bề, qua thêm vài đoạn đường đá dăm, đá cục, lên xuống đồi dốc, quanh co rồi chúng tôi cũng đến đầu bản Séo Mý Tỷ vào lúc đã gần trưa.
Đứng trên một mỏm đồi cao gần cái lán sơ sài ở đầu làng, nhìn quanh chỉ thấy trùng điệp núi đồi và thấp sâu bên dưới là bản làng nằm hoang dã giữa nhiều cây to, các khe suối, và vài thác nước. Lưa thưa rải rác quanh các triền đồi là những túp lều nhỏ lợp mái tôn cũ kỹ hoặc có mái rạ được chắp vá lộn xộn. Ngay gần trung tâm bản, sát bên một con suối [1] khá rộng, nước miên man chảy xiết, là một khoảng đất to phẳng như mới được đắp lên hay vừa được san, nén cho bằng phẳng. Trên đó la liệt rất nhiều xe ủi đất, xe câu, và vật dụng xây cất [2], có lẽ đã được tải đến qua ngã Lai Châu. Xa hơn nữa, chơi vơi giữa núi đồi xanh thẳm, là những thảm ruộng hình bậc thang trải dài trên các triền núi, nơi dân bản trồng ngô, lúa, mùa màng. Từ chỗ chúng tôi đứng, có thể nhìn thấy các bậc ruộng phân minh rõ ràng từng nấc; chỗ cong cong, nơi uốn lượn, nấc thấp, nấc cao, nối tiếp nhau thoai thoải, hẹp thuôn bớt lại, rồi cao dần lên … thảm ruộng vẫn giữ dáng núi hài hòa của thiên nhiên bao quanh. Nét đẹp của những bậc ruộng sinh động đến ngỡ ngàng. Đang mùa đông hoang vu, nên hầu hết các bậc đều xanh mầu cây lá bị úa lạnh hay mầu rơm rạ mục ướt sót lại sau vụ gặt muộn. Những bậc ruộng nhìn quá chỉn chu như chạm khắc này đã cho chúng tôi cảm tưởng như từng được hướng dẫn xây dựng theo một quy hoạch rõ ràng hay được nặn tạc bởi các điêu khắc gia nhà nghề. Nhìn từ xa, cả thửa ruông hiển lộ ngoạn mục như là kết quả của một công trình kiến trúc mỹ thuật; Và có thể công dụng như một lầu vọng cảnh lơ lửng nhiều tầng giữa bao la đồi núi trùng điệp, nơi có thể quan sát mọi sinh hoạt đời thường của bản làng bên dưới hoặc thưởng ngoạn tiên cảnh lãng đãng phù vân trên cao. Nhưng đó chỉ là tư duy tưởng tượng vẽ vời của tôi thôi, vì các thửa ruộng đẹp hoang đường ấy đều đã được vun đắp xây dựng bằng sức lao động, nước mắt, xương máu của những người sinh ra ở đây hay đã chọn nơi đồi núi hiểm trở này để định cư từ lâu. Họ đã phải khắc phục thiên nhiên để có đất đai trồng trọt mà sinh tồn. Tôi cũng đọc được trong một tài liệu về Archaeology thì, đối với dân bản, những thửa ruộng đẹp như tranh vẽ này là công trình biểu tượng của ý chí quyết tâm khai phá của tổ tiên họ, là đất đai mà họ phải trân trọng và giữ gìn, là di sản tâm linh mà họ và con cháu được thừa hưởng. Vì ruộng đất ấy đã mặn mồ hôi, thấm nước mắt, đẫm khốn khó, trĩu ân tình của cha ông họ. Nhìn các thửa ruộng uốn lượn quanh co khắp nơi quanh vùng đồi núi trắc trở địa hình mà thán phục ý chí kiên cường khai thác thiên nhiên của bao thế hệ người đi trước, nhất là ở thời điểm sơ khai khi họ chỉ có kiến thức hiểu biết thô thiển, còn vô cùng thiếu thốn phương tiện, và phải vất vả mưu sinh trong rừng núi hoang dã dưới điều kiện thời tiết thiên nhiên khắc nghiệt..
Ngày hôm trước, lúc xe bị kẹt đá trên đỉnh đèo cao, chúng tôi đã được cơ hội nhìn ngắm khá tổng thể cả vùng. Từ vị trí đó, nhìn quanh, hướng nào cũng thấp thoáng ruộng bậc thang ẩn hiện trong không gian núi đồi mịt mờ sương. Tôi đã nghe du khách cùng xe trầm trồ thưởng ngoạn vẻ đẹp huyền hoặc như không thật, không thuộc cảnh hạ giới này. Họ thán phục những thửa uốn vòng quanh các núi cao, nhiều vô số bậc, những bậc chót vót trên đỉnh như chạm cả vào mây. Những bậc phù vân dị ảo đó có còn thuộc thửa ruộng trần thế hay đã thành đường sương lối khói dẫn đến một cõi giới khác? Và trùng điệp bao thửa thoai thoải 5, 7 bậc trên các đồi thấp, nhìn như các kệ hàng cây cảnh được khéo léo trưng bầy nơi các công viên hay các vườn hoa, nhưng đẹp thiên nhiên hơn và có mức độ hoành tráng hơn; Và khắp vùng luôn se sắt âm gió rì rào huyền bí. Chúng tôi đã tìm hiểu qua loa trước khi đến đây và được biết phần lớn cả vùng địa hình đất dốc hiểm hóc này đều lẫn lộn đá, nghèo chất dinh dưỡng nên dân bản chỉ trồng được ngô, khoai, sắn, và hoa tam giác mạch [3]. Tuy thế, nhiều gia đình cũng cố gắng trồng thêm ít lúa nếp ở vài góc vườn tốt nhất; Cố gắng chăm bón, thu hoạch rồi để dành, chỉ để đồ xôi, làm bánh cúng kiến tổ tiên vào dịp Tết nhất hay các lễ hội quan trọng.

Chúng tôi đi theo các dốc đồi dẫn sâu dần vào bản, qua vài khe suối nước róc rách trong vắt, những đoạn rừng thơm hương gỗ lạ, và những túp nhà cũ kỹ rêu bám dầy trên các vách lá, nhiều cây leo bò phủ xanh kín các mái tôn được đắp thêm rạ bên trên để giữ nhiệt. Khắp nơi rậm rạp cây xanh. Không gian trong lành vô cùng. Bản làng thật đìu hiu vắng lặng trong buổi xế nhiều sương mù ẩm ướt. Ở vài nơi cao, thấp thoáng những túp nhà nhỏ đứng chơi vơi cô quạnh như chỉ tựa nhẹ vào các vách núi cheo leo. Nhà cửa nhiều nơi trong bản nằm rải rác hoang dại, nhếch nhác trên các triền đồi; phần lớn vật liệu làm nhà như chỉ được chắp vá qua loa tạm bợ. Nhìn tổng thể, xóm làng như tàn dư hoang phế còn lại của một nơi định cư thuộc một thời cổ đại đã xa.
Phần lớn cư dân Séo Mý Tỷ là người gốc dân tộc H’Mông. Chúng tôi được vào thăm nhà A Tấn, người quen của chú tài xế, gần ngay đầu lối vào bản. Năm đó, A Tấn, 27 tuổi, gia đình anh có hai sào đất của cha mẹ ở trên núi nên chỉ gieo cấy thóc ngô, trồng trọt thêm rau để sinh sống. Mây, 25 tuổi, là vợ A Tấn. Họ có bốn con nhỏ và đang sống chung với mẹ của A Tấn, bố A Tấn đã mất từ mấy năm trước.
Gia đình A Tấn còn giữ nhiều nề nếp sinh hoạt đặc thù của tổ tiên gốc H’Mông. Nhà họ không có cửa sổ, nhưng trên hai vách cao chạy dọc nhà, mỗi vách đều có hai lỗ hở hình tròn nằm gần sát nóc nhà. Một lỗ ở phần gian trước và lỗ còn lại nằm ở khu bếp phía sau, các lỗ này có công dụng như cửa sổ. Mỗi “cửa sổ” chỉ to bằng cái bánh tráng bán ở chợ vùng xuôi, và vì ở vị trí quá cao nên không đem được bao nhiêu ánh sáng vào bên trong nhà. Nhà chỉ gồm một gian duy nhất, hơi hẹp ngang, nhưng khá sâu. Phần nhà ngoài, rộng rãi hơn, để cái chõng tre xộc xệch và mấy ổ rơm. Khu bếp, nền hơi thấp xuống, nằm ở đằng sau. Trong bếp có hai cái nồi cũ, vài cái ghế con xếp quanh chiếc kiềng lò ba chân nằm cố định giữa mấy hòn đá đóng đặc bồ hóng đen. Lò nấu đang bập bùng cháy, khói cay từ mấy thanh củi còn sống bay mịt mù khắp nhà, mọi người ai cũng ràn rụa nước mắt, tay luôn xua bớt khói bay vào mặt.
Bên trong nhà, nổi bật nhất là những gióng tre dài mắc song song nhau như một cái giàn kín gần hết khoảng gần nóc của phần gian ngoài. Trên giàn treo san sát rất nhiều chùm ngô thật to, các bắp ngô trong chùm đều đã được tách lá, phơi lộ mầu hạt của mấy loại ngô khác nhau: vàng, trắng, tím, hay lẫn lộn hai, ba mầu. Tôi nhìn giàn ngô trĩu hạt mẩy căng, thoáng vui vì yên tâm khi tưởng tượng cả nhà A Tấn, nhất là bốn cháu nhỏ của họ, sẽ luôn no nê vì được ăn thật nhiều bữa mèn mén [4] dẻo thơm, những đôi má trẻ con phúng phính luôn đỏ hồng, cho dù mùa đông tàn khốc sẽ kéo dài, rải rắc toàn sương mù, gió lạnh trùm phủ hết núi đồi của bản trong nhiều tháng tới. Trên nóc bếp còn có hai gióng tre nhỏ treo một cái đùi trâu khô sẫm mầu và hai xâu cá muối được liên tục hun khói từ cái bếp củi được giữ luôn âm ỉ cháy trên nền nhà. Hai món đặc sản gác bếp này được chuẩn bị dành cho ngày Tết.
Ngay sau khu bếp, một góc nền nhà như được đào sâu xuống độ hơn một mét và rộng vừa đủ để làm chuồng cho 4 con heo đốm còn nhỏ,  dưới đó đàn heo đang chạy lung tung như sục sạo tìm thức ăn. Qua khỏi chuồng heo là khoảng nền trống, có lẽ được dùng như sân nhà, sáng sủa và thoáng đãng hơn. Trên sân có vài cái lu chứa nước, nơi chứa củi được lót nền bằng hai phiến đá phẳng, chỗ rửa chén bát có cái thau nhựa đã mẻ rách, và sau cùng là tấm phên cửa được chống cao bằng một khúc cây xù xì nhiều khấc ngang.
Tiếng heo uểnh oảng liên tục đã làm át cả câu chuyện đang rôm rả nơi chiếu rượu ngô ở gian trên, nơi A Tấn, bà cụ mẹ của anh, và chú tài xế đang tụ họp vui vẻ. Bà cụ móm mém huyên thuyên cười nói, tay thoăn thoắt tách hạt từ các bắp ngô khô vào môt cái bồ chứa đã gần đầy. Họ đang rộn ràng chén thù, chén tạc mời nhau nhấp rượu bằng tiếng H’Mông líu cha líu chíu, nghe rất vui tai.
Chúng tôi và Mây ở gian bếp. Mây đang vừa đồ mèn mén, vừa tất tả với các việc đầu ngày của cô. Dáng Mây khỏe mạnh, gọn gàng trong chiếc váy đen dài gần đến đầu gối, váy cô luôn ngộ nghĩnh xòe bồng duyên dáng khi di chuyển vì có nhiều hàng pli xếp được may tỉ mỉ khéo léo ở phần eo bụng. Áo trên của Mây là vải sọc, loại nhiều sắc đỏ đậm, nhạt xen kẽ nhau ở phần thân áo và rực rỡ các hoa văn lạ đẹp trên phần viền hai tay áo. Mầu sắc thêu trên áo nhìn năng động, tươi vui, như phản ảnh bộ điệu nhanh nhẹn, tháo vát của bà mẹ rất trẻ. Đầu Mây chit khăn sọc sặc sỡ che gần kín mái tóc búi gọn. Mây thân thiện chuyện trò bằng tiếng kinh, lối phát âm của cô hơi loãng ở những chữ có dấu hỏi, ngã và cũng bị ngắn hơi không được tròn vài chữ có âm dài, nên lúc đầu chúng tôi nghe chưa quen. Mây cho biết, hai cháu lớn đã đi học ở trường trong bản. Bố mẹ Mây đã chuyển lên Lai Châu theo gia đình người anh trai.
Mây vừa mau mắn tiếp chuyện chúng tôi, vừa thoăn thoắt đi lại trong bếp, nhanh nhẹn chu tất mọi công việc phải làm. Lưng cô địu cháu bé nhất chưa biết đi, hai tay cẩn thận bưng đổ thùng thức ăn tạp nhạp rau củ hổ lốn cho đàn heo đói, mắt vẫn luôn để ý trông chừng củi lửa cho nồi mèn mén. Phần váy sau của cô còn luôn bị một cháu bé lấm lem độ 3 tuổi túm nắm, quấn theo mẹ từng bước. Mây hoàn toàn không lộ vẻ vội vã hay căng thẳng khi luôn tất bật với công việc nội trợ. Phong thái cô hiển lộ sự điềm tĩnh nhẫn nhục chịu đựng rất an phận. Ở cô, có nết cần mẫn đảm đang thuần thục khuôn phép, và cô như còn có khả năng uyển chuyển điều hòa để mọi việc được tuần tự chu toàn như đã dự định. Có lẽ nhờ vậy mà nhìn cô rất an yên, vui vẻ như một người có cuộc sống gia đình êm ấm, hạnh phúc.
Dù chỉ vừa gặp nhau, vợ chồng A Tấn và chúng tôi đã thân mật chuyện trò suốt buổi; họ đã vồn vã cho đến lúc chúng tôi từ biệt để đi thăm loanh quanh trong bản. Thật ra, chúng tôi cũng chỉ có thể rời đi được sau khi cùng ăn bữa mèn mén thơm dẻo vị ngô với rau dại kho muối rắc vừng rang cùng cả gia đình họ. Sự chất phác, ân cần, và hiếu khách của họ làm chúng tôi vừa cảm động, vừa nặng lòng nghĩ ngợi vì tự nhận biết bản thân không thể dễ dàng gần gũi và quý mến người xa lạ hồn hậu được như họ. Nhà cửa xiêu vẹo giữa núi đồi hoang lạnh, thiếu thốn nhiều thứ mà họ đã rất hồn nhiên, vô tư giao tiếp với khách lạ. Lương thực dành dụm qua mùa đông khó khăn mà họ cũng niềm nở tha thiết mời chúng tôi cùng dùng bữa. Có lẽ, tâm tư chân chất, bản tính mộc mạc đã khiến họ nghĩ chúng tôi, cũng giản dị như họ, rất thích mèn mén ngào ngạt hương mùa được dùng nóng trong buổi ăn đầu ngày đông lạnh.
Suốt buổi, nét mặt bà cụ và vợ chồng A Tấn luôn thể hiện sự an vui, hiếu khách đặc biệt. Dáng điệu và cử chỉ của mọi người trong gia đình rất thoải mái hòa đồng, họ đã lộ vẻ ái ngại lo lắng khi biết chúng tôi gặp nhiều khó khăn trên đường tới đây. Có phải vì mùa đông, không bận rộn nương rẫy, họ có thì giờ quây quần nhiều, nên luôn chú ý quan tâm lẫn nhau và người khác nhiều hơn? Và vì có cơ hội chăm sóc nhau nhiều nên tình thân gia đình, bản làng càng thêm chặt chẽ gắn bó? Có vẻ như tình cảm trong lành đó còn giúp họ dễ nảy sinh lòng từ ái, tính thân thiện với cả người xa lạ? Hay vì địa hình khắc nghiệt, cuộc sống nhiều cam go đã khiến họ luôn có tâm thức che chở đùm bọc gia đình và chia sẻ với người chung quanh? Có lẽ đã từ lâu, người phố thị, nhất là kẻ xa xứ từ tuổi niên thiếu như Nga và tôi, không còn nhớ đến nếp sống luôn có điểm tựa căn bản là tình thân, tình người ấm áp này nữa.
Điều hơi lạ là tuy nhà của vợ chồng A Tấn chỉ là nền đất, vách tranh chắp vá lem nhem các mẩu gỗ bồi, và tấm phên sau nhà luôn được chống cao để gió lùa bớt khói bếp, mà tôi đã không cảm thấy bị lạnh khi ngồi chơi với họ suốt buổi. Thế mà, vừa từ giã bước ra ngoài, tôi đã rùng mình ngán ngẩm khi nhìn thấy màn sương mù đặc đầy ở hướng bến sông. Tôi không biết đã do dự trước khi bước đi vì hình dung phải lên xuống đường đồi khó khăn trong sương lạnh, hay vì đang quyến luyến cái ổ rơm ấm đã ngồi tâm tình với Mây cạnh bếp lửa, hay vì ý thức phải từ giã tình thân êm ái của gia đình họ nữa. Chỉ mơ hồ cảm nhận là chưa bước đi mà đã thấy nhớ nhớ giọng nói của Mây hơi nhòa nhạt ở các âm hỏi ngã, nghe đáng yêu như âm giọng ngô nghê của đứa bé nói chưa được sõi.
Đã quá trưa, vài em nhỏ đang trên đường về nhà sau giờ tan học, nhìn như vừa tung tăng bước ra từ màn sương phủ dầy ngoài bến sông. Chưa thấy bóng dáng các em nhưng đã nghe vang vang tiếng cười nói ròn rã từ lúc chúng tôi vừa rời nhà A Tấn. Trên lối đồi hẹp, dẫn đầu là hai bé gái có đôi má đỏ au, đang thi nhau hồn nhiên vừa chạy vừa nhảy dây bằng những sợi dây dại, có lẽ nhặt được đâu đó trong rừng. Tôi ngỡ ngàng, nửa thế kỷ trước khi bằng tuổi các em tôi cũng nhẩy dây suốt bao ngày thơ dại. Nhưng thuở ấy, tôi và các bạn đã có những sợi thừng hay sợi nylon được bện thắt, ép mịn, hai đầu dây có cán cầm bằng gỗ được bào chuốt láng mướt và nhỏ vừa tay để dễ cầm, dễ quay. Thế mà bây giờ, ở thời điểm tôi đang bước vào hoàng hôn của đời mình, có thể như hai em này chưa bao giờ nhìn thấy những sợi thừng, sợi dây được làm với mục đích để trẻ em nhảy dây vui đùa như vậy. Chua xót làm sao! Tôi bỗng nhớ lắm những vòng dây quay và bao bước nhảy êm ái ngày xưa, những bước bổng cao đã luôn đem lại cho tôi cảm giác vô cùng thích thú, thỏa mãn như được tung bay cùng các đam mê không bao giờ có điểm giới hạn của tuổi thơ. Biết đâu tâm trí hai em nhỏ này cũng đang ăm ắp tràn trề những khát vọng vô biên hạnh phúc như vậy? Tuy nghĩ thế, nhưng lòng tôi vẫn vẩn vơ thương xót khi nhìn lại khúc dây lòng thòng các nhánh con chỉa ngang vướng víu trong bàn tay nhỏ bé của các em. Có một cái gì đó đang nghèn nghẹn trong cổ tôi.
Để dịu bớt cảm xúc, tôi để ý quan sát các em, em nào cặp má cũng đỏ hây, đôi mắt to sáng, khuôn mặt ngời ngời sức sống. Đặc biệt đẹp nhất là những nụ cười quá đỗi hiền lành của các em, cười tròn môi căng má, cười khoe hàm răng xinh như những hạt ngô sữa, và tiếng cười trong vắt như mở hết tâm tư bé bỏng hòa đồng tương tác với người đối thoại. Những nụ cười ấy đã theo tôi nhiều năm, và lần nào hồi tưởng lại tôi cũng vừa vui vừa ưu tư ái ngại vì nhớ lại cả nét phong trần, cam chịu phảng phất trên gương mặt thơ dại của các em. Chiều hôm ấy, em nào cũng ngây ngô cười nói, không ai có nét láu lỉnh của trẻ em thành phố, tuy hơi rụt rè trước người lạ nhưng nụ cười không lúc nào kém ngời tròn, trong sáng, Các em đã nhỏ nhẹ lễ phép trả lời như thưa gửi với cô giáo trong lớp học, phát âm rất rõ bằng tiếng kinh. Đôi mắt các em trong veo, phảng phất ánh xanh kiên trung của đá núi đang lai láng trôi thả như ngao du trong giấc mơ được bay cao, vút xa để khám phá những chân trời mới lạ bên ngoài bản làng nghèo khổ.
Trên đường về, khi gần đến khu rừng thâm u cây cối, chúng tôi nhìn thấy ba cô gái H’Mông trẻ, cô nào cũng oằn lưng gập người đeo một bó củi, vừa dài vừa rất to, đang đi ra từ bờ rừng, và bắt đầu men dần theo con dốc lên ngã đường về bản. Cô nào cũng đeo ngang hông một bao da mang rựa hay dao dùng đi rừng loại to. Họ bước chậm, thận trọng như để giữ thăng bằng cho từng bước đi. Dáng các cô mảnh khảnh, gương mặt sạm nắng, hằn sâu nét tần tảo, vất vả, chịu khó. Họ nhẹ nhàng cười chào chúng tôi rồi lại lầm lũi đi. Tôi tự hỏi không biết họ có phải trèo bờ đá rất dốc mà cả Nga và tôi đã phải bò mới qua được để đến đường đi tắt ra bến sông? Nghĩ bồn chồn xót xa quá. Cả Nga và tôi đều băn khoăn nghĩ ngợi tại sao các cô gái trẻ này phải tự đi kiếm củi mà không có thêm người thân nào, có sức lực mạnh mẽ hơn, đi cùng để giúp chặt cây hay bảo vệ các cô nếu gặp chuyện nguy hiểm trong rừng. Tuy thắc mắc nhưng chúng tôi cũng không thể dừng lại hỏi han họ vì đã quá muộn. Chúng tôi cần về Sa Pa trước khi mặt trời lặn, tránh tình cảnh xe phải dò dẫm trên các đoạn đường dốc nhiều đá vào lúc trời đã tối.
Ngày hôm sau, chúng tôi đi thăm bản Sín Chải, cách Sa Pa chỉ độ 5 cây số, đường dễ đi hơn nên chúng tôi đã chủ động khởi hành thật sớm để có thể lên thăm trường học của các em trong bản. Sín Chải có diện tích lớn nhất trong các bản làng ở Sa Pa và đa số dân ở đấy là người gốc dân tộc H’Mông. Năm chúng tôi đến, Sín Chải được xếp hạng là bản làng nghèo nhất ở Sa Pa.
Sáng sớm hôm đó, trời lạnh chỉ chừng 3 hay 4 độ C, chúng tôi đã tò mò theo các em nhỏ ở khu lưng chừng giữa bản đến trường. Trời chưa sáng hẳn, chúng tôi đi trên các đoạn đường đồi núi nhấp nhô và phải băng qua một con sông nhỏ trên chiếc cầu tre được cột, nối sơ sài bằng nhiều vòng dây mây. Dù rất dè dặt bước mà chiếc cầu luôn kẽo kẹt đu đưa, tôi đã rất bối rối bất an khi nhìn xuống thấy nước dưới sông chảy khá mạnh. Qua bên kia sông, hai bên con đường đất gập ghềnh còn phủ đầy sương muối, nhiều nơi còn lấm tấm các đốm tuyết; Không gian lãng đãng mây mù, gió núi khô buốt, vậy mà các em chỉ mang dép, chân trần không vớ. Những bàn chân nhỏ bé tím tái, gót chai sần, trong đôi dép mòn đế líu ríu bước như nhảy lướt trên những sườn đồi mà đất đã đông cứng. Quanh co hơn cả giờ, có lẽ đi cũng hơn 2 cây số chúng tôi mới tới được khu trường tiểu học của bản. Suốt dọc đường các em láu táu chuyện trò vui như đàn chim đi hội ngày mùa. Dù ăn mặc không được tươm tất, không có đồng phục như học trò thành phố, nhưng mắt em nào cũng long lanh, đôi má đỏ hồng, gương mặt hồn nhiên rạng rỡ. Nhìn vừa thương vừa rất đau lòng. 
Khi đến “trường học” của các em, chúng tôi đã rơi nước mắt. “Trường” chỉ là một cái mái che cao cao, nền đất, không cửa, không vách. Ba lớp học được ngăn bới tấm bạt màu xanh giăng lưng chừng từ mấy cái cột chống mái. Ngày hôm đó chỉ có một thầy giáo dạy cả 3 lớp: 1, 2, và 3. Thầy luôn tất tả vén bạt qua lại các lớp để giảng dậy hay phân xử giữ trật tự khi các em ồn ào. Ngoài sân trường có bốn phụ huynh, hai người trong bọn họ địu em bé trên lưng, tất cả vui vẻ chuyện trò trong lúc chờ đợi đến giờ tan học để dẫn con về. Gió se lạnh, nhìn quanh đâu đâu cũng chỉ núi đồi ngút ngàn.
Theo lời mấy bà mẹ ngồi đợi con bên ngoài lớp học thì vào mùa lạnh trường thường đông học trò hơn, các em ít vắng mặt vì gia đình không bận việc nương rẫy. Nhưng khi vào mùa trồng trọt hay mùa gặt, nhiều em phải ở nhà trông chừng các em nhỏ cho bố mẹ đi rẫy hay lên nương cả ngày. Đôi khi chính các em cũng phải lên nương phụ giúp gia đình để công việc đồng áng có thể toàn tất thuận lợi theo các chuyển biến của thời tiết. Cũng có em gia cảnh neo đơn, chỉ sống với ông hay bà rất già, nên phải cáng đáng việc nương rẫy như là người lao động chính của gia đình. Vì những khó khăn như vậy, nên có vài em đã học đi, học lại một lớp hai, ba năm, mà cũng chưa đủ kiến thức để được thầy giáo phê chuẩn cho lên lớp cao hơn.

Mấy ai, tình cờ đi qua bản, có thể thấu hiểu được những em nhỏ đáng thương ở đây đã phải kiên trì lắm mới đến được trường học, cố theo bạn ê a học vài con chữ, vài cái số, để mong có thể đọc, tự giải tỏa bao hiếu kỳ về những dòng chữ nhấp nháy hay các hình ảnh lung linh màu sắc trên mấy cái tablet computers “thần kỳ”, mà các em đã thỉnh thoảng nhìn thấy và rất chú ý, khi quan sát vài người trong các tổ chức thiện nguyện hay du khách chúng tôi sử dụng. Có thể, có em đã mơ hồ cảm nhận, phải đến trường để sau này không là người quờ quạng mù chữ khi lên thị xã, nơi có muôn vàn điều khác lạ; hoặc không bỡ ngỡ nếu có dịp đến được các phố thị dập dìu xe cộ mà các em đã nghe thầy giáo diễn tả là nơi mà cuộc sống trong nhà dễ dàng, tiện nghi hơn nhờ vào sự trợ giúp của các máy gia dụng nhỏ như tủ lạnh, máy giặt, bếp điện, bếp dầu, … Và vì thế, các em đã cố gắng trải qua nhiều buổi chịu đựng rét lạnh trong lớp học trống vách, không tường. Nhưng xót xa làm sao, khi chưa kịp thuộc bài vì luôn bị những cơn đói hành hạ do ăn uống thiếu thốn, do thường xuyên thiếu tập trung vì quá mệt mỏi, mất sức dầm dãi lội sông, leo núi; Và do lề thói gia đình đã ngầm ấn định ba ngày học, bốn ngày nghỉ … thì đã đến mùa gieo cấy, lại phải gói ghém chữ nghĩa cất lại ở lớp học để lên nương lo toan vất vả cuốc trồng, kiếm hạt ngô, hạt thóc nuôi gia đình. Đến khi hết mùa, trở lại trường, những con chữ, cái số lại nhập nhằng xa lạ như chưa từng được học qua; Thêm bao tủi buồn, tự ti khi phải một mình dò dẫm lại từng trang sách mà các bạn cùng lớp đã thông thuộc. Cứ thế, khó khăn triền miên đeo đuổi các em năm này qua năm kia..
Từ lâu, việc đi học của nhiều em vẫn như được lặng lẽ sắp xếp, một cách hoàn toàn thứ yếu phụ thuộc, quanh lịch trình của mùa màng như vậy. Lối sắp xếp này gần như đã thành thông lệ ở các bản làng heo hút, nơi mà nghèo đói thiếu thốn muôn thuở quẩn quanh. Và, người dân bản đã chấp nhận thông lệ này như một điều hiển nhiên, một điều bình thường như ý tưởng trong câu nói dân gian quen thuộc của họ “nước trôi xuống núi lại mưa về nguồn”, mà tôi đã nghe bà cụ mẹ A Tấn nói hôm trước. Nhận biết các em đến trường đã là một cố gắng phi thường, nên dù mấy năm học mãi một lớp, trường cũng không nỡ đuổi em nào cả. Nghe thật nặng lòng. Những đứa trẻ như không có tuổi thơ giữa núi rừng hùng vỹ, nơi thiên nhiên vô cùng hào phóng cảnh quan kỳ mỹ, nhưng lại nghiệt ngã cô lập các em trong cuộc sống cực kỳ khó khăn, thiếu thốn.
Từ trường học về, chúng tôi đã dừng bên bến sông một lúc. Lúc này đã gần 2 giờ chiều, nhiệt độ ấm hơn, hình như gần 15OC. Trên mấy tảng đá lớn nằm rải rác giữa sông, vài cô gái đang chăm chỉ giặt quần áo hay đang vội vàng tắm rửa cho con. Thời tiết khá lạnh mà hai em nhỏ độ 4, 5 tuổi đang đứng trần truồng trên một phiến đá phẳng sát nguồn nước trên cao chảy xuống. Hai bà mẹ, tay hối hả xối nước lên đầu con, miệng líu lo hát như để hướng dẫn sự tập trung của các em vào một câu chuyện ngộ nghĩnh nào đó trong bài hát. Mặt mũi tím lạnh nhưng không em nào khóc. Tôi quay đi chỗ khác, rùng mình, cảm nhận như có luồng nước lạnh buốt vừa chảy tê sống lưng. Nhưng chỉ dăm ba phút sau, cả hai em đều đã được mặc áo quần khô ấm và bắt đầu ríu rít như chim. Trên bờ bên kia sông, lác đác vài phụ nữ trung niên đang xách thùng theo nhau xuống lấy nước. Mọi người hình như ai cũng cố nói một câu gì đó để bắt chuyên với Nga và tôi. Tiếng hỏi han, chuyện trò làm ấm vang cả bờ sông cho đến lúc chúng tôi vẫy tay chào để rời đi. Có lẽ giống như những bến sông làng quen thuộc ở miền xuôi, bến sông ở đây cũng là nơi nhiều phụ nữ và trẻ em tới lui thường xuyên trong ngày để giặt dũ, tắm rửa, xách nước, và cũng là tụ điểm để họ cùng nhau vui cười họp chuyện, truyền tin tức để luôn được kết nối, gần gũi, và vun đắp tình thân của người cùng bản. 
Qua sông, theo dốc đường cheo leo để về chỗ để xe, chúng tôi tình cờ được đi vòng qua khu đầu bản trong buổi chiều mây trời xuống thấp, đang dật dờ trên các mái nhà xanh úa mầu lá. Tôi nghe như nhà nào cũng có tiếng trẻ em chuyện trò và có vòng khói loãng vơ vẩn bay lên đâu đó từ phía sau nhà. Cuộc sống của dân bản bình thản trôi. Không gian hiu hắt, hoang vu lạ thường.
Hơn mười năm đã qua. Chuyến đi Sa Pa năm đó để lại cho chúng tôi nhiều suy tư, nhiều trăn trở; nhưng day dứt, ám ảnh nhất là những ánh mắt trong veo đầy yên bình, không chối từ, không phản kháng trên các gương mặt non nớt trẻ thơ có vướng vất nét phong trần, dầy dạn của cuộc sống vô cùng khắc nghiệt ở vùng núi non hẻo lánh cô lập. Nhớ những mái đầu tí hon, nghiêng nghiêng tập viết, ê a đọc chữ quốc ngữ trong ngôi trường không cửa, không vách. Nhớ đứa bé lấm lem trong căn nhà thiếu ánh sáng, lê la chơi trên nền đất sát gần chuồng heo. Nhớ những đôi chân rất nhỏ, gót sần chai nứt nẻ, trong đôi dép vẹt đế thoăn thoắt lội sông, leo núi đi học trong sương mù, gió lạnh. Nhớ cái lưng gầy gò trong tấm áo sờn rách, gập người tải củi qua sông. Nhớ ánh mắt cực kỳ thèm thuồng khi chờ đến phiên được nhận vài gói bánh biscuits. Những đứa trẻ bất hạnh nơi vùng đất cao có đia hình quá trắc trở này đã bị bỏ quên rất lâu rồi. Các em rất cần sự quan tâm và chia sẻ để có thể vươn lên.
Chú thích:
[1] Suối Séo Trung Hồ chảy qua các xã Tả Van và Bản Hồ, thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai, Việt Nam.
[2] Xe, máy móc, và vật liệu dùng trong công trinh xây dựng đập thủy điện Séo Trung Hồ trên suối Séo Trung Hồ. Công trình được bắt đầu lại vào năm 2008. Chúng tôi đến SMT vào thời gian vùng hồ đang được chuẩn bị đào xới. Năm 2013, công trình hoàn tất và khu này trở thành hồ Séo Mý Tỷ. Hồ Séo Mý Tỷ ở độ cao hơn 1,600 m là hồ nước nhân tạo nằm trong dãy Hoàng Liên Sơn quanh năm mây phủ, hiện nay là hồ nước nhân tạo cao nhất Việt Nam
[3] Hoa tam giác mạch nhỏ, mầu trắng, nhìn như hoa dại. Mọc rất tốt ở vùng đồi núi cao. Người dân vùng cao giã hạt của hoa tam giác mạch hay xay, lược mịn, rồi dùng như bột để làm các loại bánh quê như bánh bò, bánh dầy. Bột tam giác mạch giàu protein  và một số chất dinh dưỡng khác hơn bột gạo hay bột ngô.
[4] Mèn mén là món giống như cơm ở miền xuôi, nhưng được nấu từ hạt ngô khô đã được xay vụn hay giã nhỏ. Mèn mén thường được người miền núi hấp như đồ xôi; có nhà cũng nấu mèn mén giống như nấu cơm, nhưng thành phẩm bị nhão hơn. 
Bản Làng Vùng Cao
Xe của hãng du lịch luôn ì ạch leo đồi, chầm chậm vòng núi, rồi lại thận trọng đổ dốc đã hơn cả giờ qua. Chuyến xe mệt nhọc, lên lên, xuống xuống theo các chu trình chóng mặt như vậy nhiều lần trên tuyến đường gần 35 cây số từ nhà ga Lào Cai đến thị xã Sa Pa trong buổi sáng ngày thứ tư của đầu năm 2010. 
Nhiều đoạn đường đất lổn ngổn toàn đá vụn, rất gập ghềnh, xe bị dằn xóc mạnh và luôn bất ngờ phải rẽ ngang, bẻ trái để len lỏi tránh đá; rồi lại khật khừng chậm chạp bò từ từ về phía trước. Qua những đoạn này, xe thường thả lại các cuộn bụi tung bay mù mịt trời đất. Thỉnh thoảng xe cũng được chạy trên đoạn đường đã được dằm đá bằng phẳng, êm hơn, hành khách lại náo nức chuyện trò, cười nói. Tôi hơi nhức đầu, người ngất ngư nôn nao như bị say xe, nên chỉ im lặng nhìn bâng quơ qua cửa kính xem, ngắm quang cảnh hai bên đường. Đôi lần tôi đã nhắm mắt để kềm bớt sự hồi hộp khi cảm thấy chiếc xe quá mấp mé bờ vực. Từ đỉnh đèo cheo leo hiểm trở mà có thể nhìn khá rõ đôi ba người đàn bà váy áo nhiều sắc đỏ, tay cắp rổ hay vai mang gùi, có người địu con trên lưng, ẩn hiện thấp thoáng trên sân nhà họ ở vùng thung lũng sâu hút phía dưới.
Ở nhiều đoạn an toàn hơn, hai bên đường ngút ngàn các dẫy đồi cỏ xanh; Đồi cao, đồi thấp nối tiếp như gần xếp chồng lên nhau. Không gian mướt xanh thăm thẳm, sắc xanh huyền bí như được tinh tế pha trộn từ mầu của núi đá nhiều tuổi và ánh diệp lục muôn thuở của rừng sâu. Xanh mênh mang đến tận chân trời.  Đôi chỗ, ven đường còn lác đác các cây hoa đào dại, có cây mọc gần sát đường, mấy nhánh cao lòa xòa chạm bên ngoài kính xe hoặc vươn cao hơn cả nóc xe. Nhánh nào cũng chi chit trĩu nặng những nụ hoa mọng chín từ thân đến ngọn các cành. Nụ đỏ hồng lựu, nụ đỏ xác pháo, nụ hồng cánh sen, nụ hồng vân trắng; Tất cả đều đang chúm chím hé mầu như đã sẵn sàng cùng nhau bung rộ rực rỡ trên những cành khô khẳng khiu chưa kịp nhú lá. Nhìn đào, thoáng nhớ đã gần Tết, tôi bỗng cảm thấy con đường và cả vùng đồi sát đó như mềm mại đáng yêu hẳn lên. Thật êm đềm, quyến rũ làm sao khi hình dung vài cô gái người H’Mông, Dao, hay Thái đương thì, súng sính váy áo ngày hội, má thắm hàm tiếu, bước thơ thẩn dưới những cành đào mơn mởn sắc Xuân phố núi. Tôi chỉ mơ màng trong cảnh Tết êm ả nhẹ nhàng đó được vài phút thôi, vì xe lại vất vả bò dốc tiếp, lại dằn xóc làm ê đau khắp người. Có đoạn xe khệnh khạng như không thể chạy được nữa, chỉ nhích tới trước từng bước rất chậm, mỗi bước lại lộp cộp tiếng đá bị bánh xe chạm văng. Trong khi đó, chừng như cả bản làng dưới thung lũng vẫn còn điềm nhiên ngủ hay chỉ mới có vài phụ nữ dậy sớm chuẩn bị củi lửa nấu nướng buổi cơm đầu ngày. Lẫn trong màn sương mù lãng đãng, đã lơ lửng vài làn khói bếp, sẫm nâu hơn, đang từ từ bay lên từ các túp lều xiêu vẹo gần dưới chân núi
Xe chúng tôi đang bị khó khăn, hình như không thể vât lộn với số lượng đá quá nhiều trên đường, nên đã dừng lại ở đoạn sát vách núi nơi có nhiều dấu vạt xẻ rất mới. Mọi người hơi xôn xao. Tôi lơ đãng nhìn quanh. Đoạn đường đèo thật hoang vu. Núi non kỳ vỹ bao quanh. Địa hình hiểm trở heo hút làm dấy lên những giao động bất an. Tôi đang bâng khuâng lo lắng xe không tiếp tục chạy được nữa thì bất chợt lạ lẫm và vui mắt làm sao khi thoáng xa dưới thung lũng, giữa những mái nhà mầu tro xám buồn bã, có bóng con ngựa thồ đang lững thững bước, lưng lủng lẳng các túi vải dệt mầu sặc sỡ, túi nào cũng lỉnh kỉnh đồ hàng tạp hóa. Thì ra, con ngựa lung linh hàng họ xanh đỏ đang được người chủ chậm rãi dắt đi bán dạo các thứ lặt vặt mà ông ta đã buôn về từ phố thị hay khu chợ trời sát biên giới. Tôi đã được chú tài xế chỉ cho thấy ông nhà buôn này từ lúc nghỉ ở quán ăn gần ga Lào Cai nên rất thú vị khi nhận ra ông, vẫn chiếc mũ len tròn màu mơ chín ở chóp đỉnh có nhúm len đỏ, đang thong dong dẫn ngựa thồ hàng qua vùng đồi gần chân núi. Con ngựa hiền lành thả bước giữa bình minh đang lên. Nắng bắt đầu tràn qua màn mây mù, vàng ấm hơn, rồi lan xuống rải nhẹ trên những con dốc quanh co giữa các túp nhà lúp xúp. Không gian vô cùng yên bình. Cảnh quang đẹp hài hòa. Bản làng vẫn tĩnh lặng. Sương mù bay lãng đãng. Thời gian như đang trôi chậm hơn bình thường, hay cũng đang ngầy ngật ngủ cùng cảnh vật. Những khi vắng tiếng xe chạy, tiếng đá dội lăn ồn ào, nét trầm mặc hoang dã quen thuộc của núi đồi trở lại mênh mang khắp vùng.
Chúng tôi đều xuống xe, vài người đàn ông sôi nổi góp chuyện bàn tán với chú tài xế tìm cách giúp để xe có thể chạy tiếp. Mọi người xúm nhau nhặt các viên đá lớn đang cản giữ bánh xe và cố gom, đẩy những cục đá lởm chởm khắp đường vào sát mé núi. Một lúc sau, 4, 5 cậu thanh niên trẻ vui vẻ cười nói, xăn tay áo hợp sức đẩy xe giúp chú tài xế bắt trớn chạy qua khúc đường độ 30 mét bị vướng đầy đá. Hơn một giờ nữa trên chiếc xe lấm lem đầy bụi đó, đến lúc mặt trời đã hơi chếch bóng trên cao, xe chúng tôi đến Sa Pa. Ai cũng mệt mỏi vì cuộc hành trình thiếu ngủ suốt đêm trên xe lửa chạy từ Hà Nội lên và quá vất vả trên chuyến xe sáng nay nên mọi người chỉ còn sức kéo hành lý vào nhà trọ của hãng du lịch, ăn uống qua loa, rồi vào phòng nghỉ ngay.
Sau một đêm ngủ chưa bao giờ ngon như vậy, Nga, cô bạn từ thời còn học ở Gia Long, và tôi quyết định đi chơi riêng, không theo đoàn khách du lịch cả 3 ngày ở Sa Pa. Thật ra, đoàn này đến đây để nhập với một đoàn khách khác cùng leo núi, họ kỳ vọng chinh phục đỉnh núi Fansipan, thuộc dẫy Hoàng Liên Sơn. Chúng tôi không hợp với những chuyến đi quá đông với nhiều sắp đặt tính toán như vậy, cũng không thoải mái khi nghe nhóm khách mặc cả thuê người khiêng vác ba lô, xách ghế xếp, nước uống, thức ăn giúp họ trong hành trình leo núi. Thêm vào đó, Nga cần thời giờ quan sát để có khái niệm về địa hình và nề nếp sinh hoạt ở các bản làng, cần tư liệu bổ túc cho một dự án mở mang mà cô nàng đang làm. Chúng tôi đã nhờ một cô nhân viên khách sạn dàn xếp với ông chú bà con của cô, chú Tám, chuyên chạy xe ôm, để được chú chở đến hai bản làng Séo Mý Tỷ và Sín Chải, đều nằm trên núi. Chú Tám thường được thuê chở hàng từ Sa Pa về các bản làng lân cận nên khá thông thuộc đường lối đến các bản. Thêm vào đó, chú còn quen biết các cụ già làng và vài gia đình cư dân trong bản nên rất thích hợp với việc dẫn đường cho chúng tôi. Dự định của chúng tôi là mỗi ngày đi thăm một bản.
Ngay sáng hôm đó chúng tôi đi Séo Mý Tỷ cách thị xã Sa Pa khoảng hơn 15 cây số, theo con đường từ trung tâm Sa Pa chạy dọc thung lũng Mường Hoa. Ban đầu, cảnh hai bên đường rất đẹp, nhưng chỉ vài phút sau thì chúng tôi không ai còn tâm trí để ngắm nhìn gì nữa vì đường đi càng lúc như càng dốc hơn. Có đoạn lẫn lộn nhiều đá, hết sức nguy hiểm, Nga và tôi đã cùng xuống xe mấy lần để chú tài xế tự xoay sở đưa xe về phía trước. Dạo đó, chỉ xe gắn máy mới có thể lách lỏi được trên nhiều đoạn của con đường duy nhất chạy từ thị xã về bản làng này. Tôi nhớ có hai đoạn, cả ba chúng tôi phải cùng nhau đẩy chiếc xe qua các con suối cạn khá rộng, dưới đáy toàn đá to, đá tảng. Qua khỏi suối, đường vẫn khó đi, có nơi như lạc hẳn vào rừng. Vắng tanh, toàn cây rậm rạp và vô số dây leo nhằng nhịt, có thể nơi đó là một mảng rừng nguyên sinh chưa từng bị khai khẩn. Chỉ có ba chúng tôi và chiếc xe sang số già nua khục khặc cố băng ngang trên một lối mòn hun hút sâu. Xe đã chậm chạp chạy bừa lên các thảm cây dại cao ngang đầu gối, cố gắng dò dẫm theo vết các bánh xe cũ đã làm rạp nhiều cây cỏ. Lầm lũi gần 15-20 phút trong khu rừng thâm u, rậm đặc cây bao kín bốn bề, qua thêm vài đoạn đường đá dăm, đá cục, lên xuống đồi dốc, quanh co rồi chúng tôi cũng đến đầu bản Séo Mý Tỷ vào lúc đã gần trưa.

Đứng trên một mỏm đồi cao gần cái lán sơ sài ở đầu làng, nhìn quanh chỉ thấy trùng điệp núi đồi và thấp sâu bên dưới là bản làng nằm hoang dã giữa nhiều cây to, các khe suối, và vài thác nước. Lưa thưa rải rác quanh các triền đồi là những túp lều nhỏ lợp mái tôn cũ kỹ hoặc có mái rạ được chắp vá lộn xộn. Ngay gần trung tâm bản, sát bên một con suối [1] khá rộng, nước miên man chảy xiết, là một khoảng đất to phẳng như mới được đắp lên hay vừa được san, nén cho bằng phẳng. Trên đó la liệt rất nhiều xe ủi đất, xe câu, và vật dụng xây cất [2], có lẽ đã được tải đến qua ngã Lai Châu. Xa hơn nữa, chơi vơi giữa núi đồi xanh thẳm, là những thảm ruộng hình bậc thang trải dài trên các triền núi, nơi dân bản trồng ngô, lúa, mùa màng. Từ chỗ chúng tôi đứng, có thể nhìn thấy các bậc ruộng phân minh rõ ràng từng nấc; chỗ cong cong, nơi uốn lượn, nấc thấp, nấc cao, nối tiếp nhau thoai thoải, hẹp thuôn bớt lại, rồi cao dần lên … thảm ruộng vẫn giữ dáng núi hài hòa của thiên nhiên bao quanh. Nét đẹp của những bậc ruộng sinh động đến ngỡ ngàng. Đang mùa đông hoang vu, nên hầu hết các bậc đều xanh mầu cây lá bị úa lạnh hay mầu rơm rạ mục ướt sót lại sau vụ gặt muộn. Những bậc ruộng nhìn quá chỉn chu như chạm khắc này đã cho chúng tôi cảm tưởng như từng được hướng dẫn xây dựng theo một quy hoạch rõ ràng hay được nặn tạc bởi các điêu khắc gia nhà nghề. Nhìn từ xa, cả thửa ruông hiển lộ ngoạn mục như là kết quả của một công trình kiến trúc mỹ thuật; Và có thể công dụng như một lầu vọng cảnh lơ lửng nhiều tầng giữa bao la đồi núi trùng điệp, nơi có thể quan sát mọi sinh hoạt đời thường của bản làng bên dưới hoặc thưởng ngoạn tiên cảnh lãng đãng phù vân trên cao. Nhưng đó chỉ là tư duy tưởng tượng vẽ vời của tôi thôi, vì các thửa ruộng đẹp hoang đường ấy đều đã được vun đắp xây dựng bằng sức lao động, nước mắt, xương máu của những người sinh ra ở đây hay đã chọn nơi đồi núi hiểm trở này để định cư từ lâu. Họ đã phải khắc phục thiên nhiên để có đất đai trồng trọt mà sinh tồn. Tôi cũng đọc được trong một tài liệu về Archaeology thì, đối với dân bản, những thửa ruộng đẹp như tranh vẽ này là công trình biểu tượng của ý chí quyết tâm khai phá của tổ tiên họ, là đất đai mà họ phải trân trọng và giữ gìn, là di sản tâm linh mà họ và con cháu được thừa hưởng. Vì ruộng đất ấy đã mặn mồ hôi, thấm nước mắt, đẫm khốn khó, trĩu ân tình của cha ông họ. Nhìn các thửa ruộng uốn lượn quanh co khắp nơi quanh vùng đồi núi trắc trở địa hình mà thán phục ý chí kiên cường khai thác thiên nhiên của bao thế hệ người đi trước, nhất là ở thời điểm sơ khai khi họ chỉ có kiến thức hiểu biết thô thiển, còn vô cùng thiếu thốn phương tiện, và phải vất vả mưu sinh trong rừng núi hoang dã dưới điều kiện thời tiết thiên nhiên khắc nghiệt.
Ngày hôm trước, lúc xe bị kẹt đá trên đỉnh đèo cao, chúng tôi đã được cơ hội nhìn ngắm khá tổng thể cả vùng. Từ vị trí đó, nhìn quanh, hướng nào cũng thấp thoáng ruộng bậc thang ẩn hiện trong không gian núi đồi mịt mờ sương. Tôi đã nghe du khách cùng xe trầm trồ thưởng ngoạn vẻ đẹp huyền hoặc như không thật, không thuộc cảnh hạ giới này. Họ thán phục những thửa uốn vòng quanh các núi cao, nhiều vô số bậc, những bậc chót vót trên đỉnh như chạm cả vào mây. Những bậc phù vân dị ảo đó có còn thuộc thửa ruộng trần thế hay đã thành đường sương lối khói dẫn đến một cõi giới khác? Và trùng điệp bao thửa thoai thoải 5, 7 bậc trên các đồi thấp, nhìn như các kệ hàng cây cảnh được khéo léo trưng bầy nơi các công viên hay các vườn hoa, nhưng đẹp thiên nhiên hơn và có mức độ hoành tráng hơn; Và khắp vùng luôn se sắt âm gió rì rào huyền bí. Chúng tôi đã tìm hiểu qua loa trước khi đến đây và được biết phần lớn cả vùng địa hình đất dốc hiểm hóc này đều lẫn lộn đá, nghèo chất dinh dưỡng nên dân bản chỉ trồng được ngô, khoai, sắn, và hoa tam giác mạch [3]. Tuy thế, nhiều gia đình cũng cố gắng trồng thêm ít lúa nếp ở vài góc vườn tốt nhất; Cố gắng chăm bón, thu hoạch rồi để dành, chỉ để đồ xôi, làm bánh cúng kiến tổ tiên vào dịp Tết nhất hay các lễ hội quan trọng.
Chúng tôi đi theo các dốc đồi dẫn sâu dần vào bản, qua vài khe suối nước róc rách trong vắt, những đoạn rừng thơm hương gỗ lạ, và những túp nhà cũ kỹ rêu bám dầy trên các vách lá, nhiều cây leo bò phủ xanh kín các mái tôn được đắp thêm rạ bên trên để giữ nhiệt. Khắp nơi rậm rạp cây xanh. Không gian trong lành vô cùng. Bản làng thật đìu hiu vắng lặng trong buổi xế nhiều sương mù ẩm ướt. Ở vài nơi cao, thấp thoáng những túp nhà nhỏ đứng chơi vơi cô quạnh như chỉ tựa nhẹ vào các vách núi cheo leo. Nhà cửa nhiều nơi trong bản nằm rải rác hoang dại, nhếch nhác trên các triền đồi; phần lớn vật liệu làm nhà như chỉ được chắp vá qua loa tạm bợ. Nhìn tổng thể, xóm làng như tàn dư hoang phế còn lại của một nơi định cư thuộc một thời cổ đại đã xa.
Phần lớn cư dân Séo Mý Tỷ là người gốc dân tộc H’Mông. Chúng tôi được vào thăm nhà A Tấn, người quen của chú tài xế, gần ngay đầu lối vào bản. Năm đó, A Tấn, 27 tuổi, gia đình anh có hai sào đất của cha mẹ ở trên núi nên chỉ gieo cấy thóc ngô, trồng trọt thêm rau để sinh sống. Mây, 25 tuổi, là vợ A Tấn. Họ có bốn con nhỏ và đang sống chung với mẹ của A Tấn, bố A Tấn đã mất từ mấy năm trước.
Gia đình A Tấn còn giữ nhiều nề nếp sinh hoạt đặc thù của tổ tiên gốc H’Mông. Nhà họ không có cửa sổ, nhưng trên hai vách cao chạy dọc nhà, mỗi vách đều có hai lỗ hở hình tròn nằm gần sát nóc nhà. Một lỗ ở phần gian trước và lỗ còn lại nằm ở khu bếp phía sau, các lỗ này có công dụng như cửa sổ. Mỗi “cửa sổ” chỉ to bằng cái bánh tráng bán ở chợ vùng xuôi, và vì ở vị trí quá cao nên không đem được bao nhiêu ánh sáng vào bên trong nhà. Nhà chỉ gồm một gian duy nhất, hơi hẹp ngang, nhưng khá sâu. Phần nhà ngoài, rộng rãi hơn, để cái chõng tre xộc xệch và mấy ổ rơm. Khu bếp, nền hơi thấp xuống, nằm ở đằng sau. Trong bếp có hai cái nồi cũ, vài cái ghế con xếp quanh chiếc kiềng lò ba chân nằm cố định giữa mấy hòn đá đóng đặc bồ hóng đen. Lò nấu đang bập bùng cháy, khói cay từ mấy thanh củi còn sống bay mịt mù khắp nhà, mọi người ai cũng ràn rụa nước mắt, tay luôn xua bớt khói bay vào mặt.
Bên trong nhà, nổi bật nhất là những gióng tre dài mắc song song nhau như một cái giàn kín gần hết khoảng gần nóc của phần gian ngoài. Trên giàn treo san sát rất nhiều chùm ngô thật to, các bắp ngô trong chùm đều đã được tách lá, phơi lộ mầu hạt của mấy loại ngô khác nhau: vàng, trắng, tím, hay lẫn lộn hai, ba mầu. Tôi nhìn giàn ngô trĩu hạt mẩy căng, thoáng vui vì yên tâm khi tưởng tượng cả nhà A Tấn, nhất là bốn cháu nhỏ của họ, sẽ luôn no nê vì được ăn thật nhiều bữa mèn mén [4] dẻo thơm, những đôi má trẻ con phúng phính luôn đỏ hồng, cho dù mùa đông tàn khốc sẽ kéo dài, rải rắc toàn sương mù, gió lạnh trùm phủ hết núi đồi của bản trong nhiều tháng tới. Trên nóc bếp còn có hai gióng tre nhỏ treo một cái đùi trâu khô sẫm mầu và hai xâu cá muối được liên tục hun khói từ cái bếp củi được giữ luôn âm ỉ cháy trên nền nhà. Hai món đặc sản gác bếp này được chuẩn bị dành cho ngày Tết.
Ngay sau khu bếp, một góc nền nhà như được đào sâu xuống độ hơn một mét và rộng vừa đủ để làm chuồng cho 4 con heo đốm còn nhỏ,  dưới đó đàn heo đang chạy lung tung như sục sạo tìm thức ăn. Qua khỏi chuồng heo là khoảng nền trống, có lẽ được dùng như sân nhà, sáng sủa và thoáng đãng hơn. Trên sân có vài cái lu chứa nước, nơi chứa củi được lót nền bằng hai phiến đá phẳng, chỗ rửa chén bát có cái thau nhựa đã mẻ rách, và sau cùng là tấm phên cửa được chống cao bằng một khúc cây xù xì nhiều khấc ngang.
Tiếng heo uểnh oảng liên tục đã làm át cả câu chuyện đang rôm rả nơi chiếu rượu ngô ở gian trên, nơi A Tấn, bà cụ mẹ của anh, và chú tài xế đang tụ họp vui vẻ. Bà cụ móm mém huyên thuyên cười nói, tay thoăn thoắt tách hạt từ các bắp ngô khô vào môt cái bồ chứa đã gần đầy. Họ đang rộn ràng chén thù, chén tạc mời nhau nhấp rượu bằng tiếng H’Mông líu cha líu chíu, nghe rất vui tai.
Chúng tôi và Mây ở gian bếp. Mây đang vừa đồ mèn mén, vừa tất tả với các việc đầu ngày của cô. Dáng Mây khỏe mạnh, gọn gàng trong chiếc váy đen dài gần đến đầu gối, váy cô luôn ngộ nghĩnh xòe bồng duyên dáng khi di chuyển vì có nhiều hàng pli xếp được may tỉ mỉ khéo léo ở phần eo bụng. Áo trên của Mây là vải sọc, loại nhiều sắc đỏ đậm, nhạt xen kẽ nhau ở phần thân áo và rực rỡ các hoa văn lạ đẹp trên phần viền hai tay áo. Mầu sắc thêu trên áo nhìn năng động, tươi vui, như phản ảnh bộ điệu nhanh nhẹn, tháo vát của bà mẹ rất trẻ. Đầu Mây chit khăn sọc sặc sỡ che gần kín mái tóc búi gọn. Mây thân thiện chuyện trò bằng tiếng kinh, lối phát âm của cô hơi loãng ở những chữ có dấu hỏi, ngã và cũng bị ngắn hơi không được tròn vài chữ có âm dài, nên lúc đầu chúng tôi nghe chưa quen. Mây cho biết, hai cháu lớn đã đi học ở trường trong bản. Bố mẹ Mây đã chuyển lên Lai Châu theo gia đình người anh trai.

Mây vừa mau mắn tiếp chuyện chúng tôi, vừa thoăn thoắt đi lại trong bếp, nhanh nhẹn chu tất mọi công việc phải làm. Lưng cô địu cháu bé nhất chưa biết đi, hai tay cẩn thận bưng đổ thùng thức ăn tạp nhạp rau củ hổ lốn cho đàn heo đói, mắt vẫn luôn để ý trông chừng củi lửa cho nồi mèn mén. Phần váy sau của cô còn luôn bị một cháu bé lấm lem độ 3 tuổi túm nắm, quấn theo mẹ từng bước. Mây hoàn toàn không lộ vẻ vội vã hay căng thẳng khi luôn tất bật với công việc nội trợ. Phong thái cô hiển lộ sự điềm tĩnh nhẫn nhục chịu đựng rất an phận. Ở cô, có nết cần mẫn đảm đang thuần thục khuôn phép, và cô như còn có khả năng uyển chuyển điều hòa để mọi việc được tuần tự chu toàn như đã dự định. Có lẽ nhờ vậy mà nhìn cô rất an yên, vui vẻ như một người có cuộc sống gia đình êm ấm, hạnh phúc.
Dù chỉ vừa gặp nhau, vợ chồng A Tấn và chúng tôi đã thân mật chuyện trò suốt buổi; họ đã vồn vã cho đến lúc chúng tôi từ biệt để đi thăm loanh quanh trong bản. Thật ra, chúng tôi cũng chỉ có thể rời đi được sau khi cùng ăn bữa mèn mén thơm dẻo vị ngô với rau dại kho muối rắc vừng rang cùng cả gia đình họ. Sự chất phác, ân cần, và hiếu khách của họ làm chúng tôi vừa cảm động, vừa nặng lòng nghĩ ngợi vì tự nhận biết bản thân không thể dễ dàng gần gũi và quý mến người xa lạ hồn hậu được như họ. Nhà cửa xiêu vẹo giữa núi đồi hoang lạnh, thiếu thốn nhiều thứ mà họ đã rất hồn nhiên, vô tư giao tiếp với khách lạ. Lương thực dành dụm qua mùa đông khó khăn mà họ cũng niềm nở tha thiết mời chúng tôi cùng dùng bữa. Có lẽ, tâm tư chân chất, bản tính mộc mạc đã khiến họ nghĩ chúng tôi, cũng giản dị như họ, rất thích mèn mén ngào ngạt hương mùa được dùng nóng trong buổi ăn đầu ngày đông lạnh.
Suốt buổi, nét mặt bà cụ và vợ chồng A Tấn luôn thể hiện sự an vui, hiếu khách đặc biệt. Dáng điệu và cử chỉ của mọi người trong gia đình rất thoải mái hòa đồng, họ đã lộ vẻ ái ngại lo lắng khi biết chúng tôi gặp nhiều khó khăn trên đường tới đây. Có phải vì mùa đông, không bận rộn nương rẫy, họ có thì giờ quây quần nhiều, nên luôn chú ý quan tâm lẫn nhau và người khác nhiều hơn? Và vì có cơ hội chăm sóc nhau nhiều nên tình thân gia đình, bản làng càng thêm chặt chẽ gắn bó? Có vẻ như tình cảm trong lành đó còn giúp họ dễ nảy sinh lòng từ ái, tính thân thiện với cả người xa lạ? Hay vì địa hình khắc nghiệt, cuộc sống nhiều cam go đã khiến họ luôn có tâm thức che chở đùm bọc gia đình và chia sẻ với người chung quanh? Có lẽ đã từ lâu, người phố thị, nhất là kẻ xa xứ từ tuổi niên thiếu như Nga và tôi, không còn nhớ đến nếp sống luôn có điểm tựa căn bản là tình thân, tình người ấm áp này nữa.
Điều hơi lạ là tuy nhà của vợ chồng A Tấn chỉ là nền đất, vách tranh chắp vá lem nhem các mẩu gỗ bồi, và tấm phên sau nhà luôn được chống cao để gió lùa bớt khói bếp, mà tôi đã không cảm thấy bị lạnh khi ngồi chơi với họ suốt buổi. Thế mà, vừa từ giã bước ra ngoài, tôi đã rùng mình ngán ngẩm khi nhìn thấy màn sương mù đặc đầy ở hướng bến sông. Tôi không biết đã do dự trước khi bước đi vì hình dung phải lên xuống đường đồi khó khăn trong sương lạnh, hay vì đang quyến luyến cái ổ rơm ấm đã ngồi tâm tình với Mây cạnh bếp lửa, hay vì ý thức phải từ giã tình thân êm ái của gia đình họ nữa. Chỉ mơ hồ cảm nhận là chưa bước đi mà đã thấy nhớ nhớ giọng nói của Mây hơi nhòa nhạt ở các âm hỏi ngã, nghe đáng yêu như âm giọng ngô nghê của đứa bé nói chưa được sõi.
Đã quá trưa, vài em nhỏ đang trên đường về nhà sau giờ tan học, nhìn như vừa tung tăng bước ra từ màn sương phủ dầy ngoài bến sông. Chưa thấy bóng dáng các em nhưng đã nghe vang vang tiếng cười nói ròn rã từ lúc chúng tôi vừa rời nhà A Tấn. Trên lối đồi hẹp, dẫn đầu là hai bé gái có đôi má đỏ au, đang thi nhau hồn nhiên vừa chạy vừa nhảy dây bằng những sợi dây dại, có lẽ nhặt được đâu đó trong rừng. Tôi ngỡ ngàng, nửa thế kỷ trước khi bằng tuổi các em tôi cũng nhẩy dây suốt bao ngày thơ dại. Nhưng thuở ấy, tôi và các bạn đã có những sợi thừng hay sợi nylon được bện thắt, ép mịn, hai đầu dây có cán cầm bằng gỗ được bào chuốt láng mướt và nhỏ vừa tay để dễ cầm, dễ quay. Thế mà bây giờ, ở thời điểm tôi đang bước vào hoàng hôn của đời mình, có thể như hai em này chưa bao giờ nhìn thấy những sợi thừng, sợi dây được làm với mục đích để trẻ em nhảy dây vui đùa như vậy. Chua xót làm sao! Tôi bỗng nhớ lắm những vòng dây quay và bao bước nhảy êm ái ngày xưa, những bước bổng cao đã luôn đem lại cho tôi cảm giác vô cùng thích thú, thỏa mãn như được tung bay cùng các đam mê không bao giờ có điểm giới hạn của tuổi thơ. Biết đâu tâm trí hai em nhỏ này cũng đang ăm ắp tràn trề những khát vọng vô biên hạnh phúc như vậy? Tuy nghĩ thế, nhưng lòng tôi vẫn vẩn vơ thương xót khi nhìn lại khúc dây lòng thòng các nhánh con chỉa ngang vướng víu trong bàn tay nhỏ bé của các em. Có một cái gì đó đang nghèn nghẹn trong cổ tôi.
Để dịu bớt cảm xúc, tôi để ý quan sát các em, em nào cặp má cũng đỏ hây, đôi mắt to sáng, khuôn mặt ngời ngời sức sống. Đặc biệt đẹp nhất là những nụ cười quá đỗi hiền lành của các em, cười tròn môi căng má, cười khoe hàm răng xinh như những hạt ngô sữa, và tiếng cười trong vắt như mở hết tâm tư bé bỏng hòa đồng tương tác với người đối thoại. Những nụ cười ấy đã theo tôi nhiều năm, và lần nào hồi tưởng lại tôi cũng vừa vui vừa ưu tư ái ngại vì nhớ lại cả nét phong trần, cam chịu phảng phất trên gương mặt thơ dại của các em. Chiều hôm ấy, em nào cũng ngây ngô cười nói, không ai có nét láu lỉnh của trẻ em thành phố, tuy hơi rụt rè trước người lạ nhưng nụ cười không lúc nào kém ngời tròn, trong sáng, Các em đã nhỏ nhẹ lễ phép trả lời như thưa gửi với cô giáo trong lớp học, phát âm rất rõ bằng tiếng kinh. Đôi mắt các em trong veo, phảng phất ánh xanh kiên trung của đá núi đang lai láng trôi thả như ngao du trong giấc mơ được bay cao, vút xa để khám phá những chân trời mới lạ bên ngoài bản làng nghèo khổ.
Trên đường về, khi gần đến khu rừng thâm u cây cối, chúng tôi nhìn thấy ba cô gái H’Mông trẻ, cô nào cũng oằn lưng gập người đeo một bó củi, vừa dài vừa rất to, đang đi ra từ bờ rừng, và bắt đầu men dần theo con dốc lên ngã đường về bản. Cô nào cũng đeo ngang hông một bao da mang rựa hay dao dùng đi rừng loại to. Họ bước chậm, thận trọng như để giữ thăng bằng cho từng bước đi. Dáng các cô mảnh khảnh, gương mặt sạm nắng, hằn sâu nét tần tảo, vất vả, chịu khó. Họ nhẹ nhàng cười chào chúng tôi rồi lại lầm lũi đi. Tôi tự hỏi không biết họ có phải trèo bờ đá rất dốc mà cả Nga và tôi đã phải bò mới qua được để đến đường đi tắt ra bến sông? Nghĩ bồn chồn xót xa quá. Cả Nga và tôi đều băn khoăn nghĩ ngợi tại sao các cô gái trẻ này phải tự đi kiếm củi mà không có thêm người thân nào, có sức lực mạnh mẽ hơn, đi cùng để giúp chặt cây hay bảo vệ các cô nếu gặp chuyện nguy hiểm trong rừng. Tuy thắc mắc nhưng chúng tôi cũng không thể dừng lại hỏi han họ vì đã quá muộn. Chúng tôi cần về Sa Pa trước khi mặt trời lặn, tránh tình cảnh xe phải dò dẫm trên các đoạn đường dốc nhiều đá vào lúc trời đã tối.
Ngày hôm sau, chúng tôi đi thăm bản Sín Chải, cách Sa Pa chỉ độ 5 cây số, đường dễ đi hơn nên chúng tôi đã chủ động khởi hành thật sớm để có thể lên thăm trường học của các em trong bản. Sín Chải có diện tích lớn nhất trong các bản làng ở Sa Pa và đa số dân ở đấy là người gốc dân tộc H’Mông. Năm chúng tôi đến, Sín Chải được xếp hạng là bản làng nghèo nhất ở Sa Pa.
Sáng sớm hôm đó, trời lạnh chỉ chừng 3 hay 4 độ C, chúng tôi đã tò mò theo các em nhỏ ở khu lưng chừng giữa bản đến trường. Trời chưa sáng hẳn, chúng tôi đi trên các đoạn đường đồi núi nhấp nhô và phải băng qua một con sông nhỏ trên chiếc cầu tre được cột, nối sơ sài bằng nhiều vòng dây mây. Dù rất dè dặt bước mà chiếc cầu luôn kẽo kẹt đu đưa, tôi đã rất bối rối bất an khi nhìn xuống thấy nước dưới sông chảy khá mạnh. Qua bên kia sông, hai bên con đường đất gập ghềnh còn phủ đầy sương muối, nhiều nơi còn lấm tấm các đốm tuyết; Không gian lãng đãng mây mù, gió núi khô buốt, vậy mà các em chỉ mang dép, chân trần không vớ. Những bàn chân nhỏ bé tím tái, gót chai sần, trong đôi dép mòn đế líu ríu bước như nhảy lướt trên những sườn đồi mà đất đã đông cứng. Quanh co hơn cả giờ, có lẽ đi cũng hơn 2 cây số chúng tôi mới tới được khu trường tiểu học của bản. Suốt dọc đường các em láu táu chuyện trò vui như đàn chim đi hội ngày mùa. Dù ăn mặc không được tươm tất, không có đồng phục như học trò thành phố, nhưng mắt em nào cũng long lanh, đôi má đỏ hồng, gương mặt hồn nhiên rạng rỡ. Nhìn vừa thương vừa rất đau lòng. 
Khi đến “trường học” của các em, chúng tôi đã rơi nước mắt. “Trường” chỉ là một cái mái che cao cao, nền đất, không cửa, không vách. Ba lớp học được ngăn bới tấm bạt màu xanh giăng lưng chừng từ mấy cái cột chống mái. Ngày hôm đó chỉ có một thầy giáo dạy cả 3 lớp: 1, 2, và 3. Thầy luôn tất tả vén bạt qua lại các lớp để giảng dậy hay phân xử giữ trật tự khi các em ồn ào. Ngoài sân trường có bốn phụ huynh, hai người trong bọn họ địu em bé trên lưng, tất cả vui vẻ chuyện trò trong lúc chờ đợi đến giờ tan học để dẫn con về. Gió se lạnh, nhìn quanh đâu đâu cũng chỉ núi đồi ngút ngàn.
Theo lời mấy bà mẹ ngồi đợi con bên ngoài lớp học thì vào mùa lạnh trường thường đông học trò hơn, các em ít vắng mặt vì gia đình không bận việc nương rẫy. Nhưng khi vào mùa trồng trọt hay mùa gặt, nhiều em phải ở nhà trông chừng các em nhỏ cho bố mẹ đi rẫy hay lên nương cả ngày. Đôi khi chính các em cũng phải lên nương phụ giúp gia đình để công việc đồng áng có thể toàn tất thuận lợi theo các chuyển biến của thời tiết. Cũng có em gia cảnh neo đơn, chỉ sống với ông hay bà rất già, nên phải cáng đáng việc nương rẫy như là người lao động chính của gia đình. Vì những khó khăn như vậy, nên có vài em đã học đi, học lại một lớp hai, ba năm, mà cũng chưa đủ kiến thức để được thầy giáo phê chuẩn cho lên lớp cao hơn.

Mấy ai, tình cờ đi qua bản, có thể thấu hiểu được những em nhỏ đáng thương ở đây đã phải kiên trì lắm mới đến được trường học, cố theo bạn ê a học vài con chữ, vài cái số, để mong có thể đọc, tự giải tỏa bao hiếu kỳ về những dòng chữ nhấp nháy hay các hình ảnh lung linh màu sắc trên mấy cái tablet computers “thần kỳ”, mà các em đã thỉnh thoảng nhìn thấy và rất chú ý, khi quan sát vài người trong các tổ chức thiện nguyện hay du khách chúng tôi sử dụng. Có thể, có em đã mơ hồ cảm nhận, phải đến trường để sau này không là người quờ quạng mù chữ khi lên thị xã, nơi có muôn vàn điều khác lạ; hoặc không bỡ ngỡ nếu có dịp đến được các phố thị dập dìu xe cộ mà các em đã nghe thầy giáo diễn tả là nơi mà cuộc sống trong nhà dễ dàng, tiện nghi hơn nhờ vào sự trợ giúp của các máy gia dụng nhỏ như tủ lạnh, máy giặt, bếp điện, bếp dầu, … Và vì thế, các em đã cố gắng trải qua nhiều buổi chịu đựng rét lạnh trong lớp học trống vách, không tường. Nhưng xót xa làm sao, khi chưa kịp thuộc bài vì luôn bị những cơn đói hành hạ do ăn uống thiếu thốn, do thường xuyên thiếu tập trung vì quá mệt mỏi, mất sức dầm dãi lội sông, leo núi; Và do lề thói gia đình đã ngầm ấn định ba ngày học, bốn ngày nghỉ … thì đã đến mùa gieo cấy, lại phải gói ghém chữ nghĩa cất lại ở lớp học để lên nương lo toan vất vả cuốc trồng, kiếm hạt ngô, hạt thóc nuôi gia đình. Đến khi hết mùa, trở lại trường, những con chữ, cái số lại nhập nhằng xa lạ như chưa từng được học qua; Thêm bao tủi buồn, tự ti khi phải một mình dò dẫm lại từng trang sách mà các bạn cùng lớp đã thông thuộc. Cứ thế, khó khăn triền miên đeo đuổi các em năm này qua năm kia..
Từ lâu, việc đi học của nhiều em vẫn như được lặng lẽ sắp xếp, một cách hoàn toàn thứ yếu phụ thuộc, quanh lịch trình của mùa màng như vậy. Lối sắp xếp này gần như đã thành thông lệ ở các bản làng heo hút, nơi mà nghèo đói thiếu thốn muôn thuở quẩn quanh. Và, người dân bản đã chấp nhận thông lệ này như một điều hiển nhiên, một điều bình thường như ý tưởng trong câu nói dân gian quen thuộc của họ “nước trôi xuống núi lại mưa về nguồn”, mà tôi đã nghe bà cụ mẹ A Tấn nói hôm trước. Nhận biết các em đến trường đã là một cố gắng phi thường, nên dù mấy năm học mãi một lớp, trường cũng không nỡ đuổi em nào cả. Nghe thật nặng lòng. Những đứa trẻ như không có tuổi thơ giữa núi rừng hùng vỹ, nơi thiên nhiên vô cùng hào phóng cảnh quan kỳ mỹ, nhưng lại nghiệt ngã cô lập các em trong cuộc sống cực kỳ khó khăn, thiếu thốn.
Từ trường học về, chúng tôi đã dừng bên bến sông một lúc. Lúc này đã gần 2 giờ chiều, nhiệt độ ấm hơn, hình như gần 15OC. Trên mấy tảng đá lớn nằm rải rác giữa sông, vài cô gái đang chăm chỉ giặt quần áo hay đang vội vàng tắm rửa cho con. Thời tiết khá lạnh mà hai em nhỏ độ 4, 5 tuổi đang đứng trần truồng trên một phiến đá phẳng sát nguồn nước trên cao chảy xuống. Hai bà mẹ, tay hối hả xối nước lên đầu con, miệng líu lo hát như để hướng dẫn sự tập trung của các em vào một câu chuyện ngộ nghĩnh nào đó trong bài hát. Mặt mũi tím lạnh nhưng không em nào khóc. Tôi quay đi chỗ khác, rùng mình, cảm nhận như có luồng nước lạnh buốt vừa chảy tê sống lưng. Nhưng chỉ dăm ba phút sau, cả hai em đều đã được mặc áo quần khô ấm và bắt đầu ríu rít như chim. Trên bờ bên kia sông, lác đác vài phụ nữ trung niên đang xách thùng theo nhau xuống lấy nước. Mọi người hình như ai cũng cố nói một câu gì đó để bắt chuyên với Nga và tôi. Tiếng hỏi han, chuyện trò làm ấm vang cả bờ sông cho đến lúc chúng tôi vẫy tay chào để rời đi. Có lẽ giống như những bến sông làng quen thuộc ở miền xuôi, bến sông ở đây cũng là nơi nhiều phụ nữ và trẻ em tới lui thường xuyên trong ngày để giặt dũ, tắm rửa, xách nước, và cũng là tụ điểm để họ cùng nhau vui cười họp chuyện, truyền tin tức để luôn được kết nối, gần gũi, và vun đắp tình thân của người cùng bản. 
Qua sông, theo dốc đường cheo leo để về chỗ để xe, chúng tôi tình cờ được đi vòng qua khu đầu bản trong buổi chiều mây trời xuống thấp, đang dật dờ trên các mái nhà xanh úa mầu lá. Tôi nghe như nhà nào cũng có tiếng trẻ em chuyện trò và có vòng khói loãng vơ vẩn bay lên đâu đó từ phía sau nhà. Cuộc sống của dân bản bình thản trôi. Không gian hiu hắt, hoang vu lạ thường.
Hơn mười năm đã qua. Chuyến đi Sa Pa năm đó để lại cho chúng tôi nhiều suy tư, nhiều trăn trở; nhưng day dứt, ám ảnh nhất là những ánh mắt trong veo đầy yên bình, không chối từ, không phản kháng trên các gương mặt non nớt trẻ thơ có vướng vất nét phong trần, dầy dạn của cuộc sống vô cùng khắc nghiệt ở vùng núi non hẻo lánh cô lập. Nhớ những mái đầu tí hon, nghiêng nghiêng tập viết, ê a đọc chữ quốc ngữ trong ngôi trường không cửa, không vách. Nhớ đứa bé lấm lem trong căn nhà thiếu ánh sáng, lê la chơi trên nền đất sát gần chuồng heo. Nhớ những đôi chân rất nhỏ, gót sần chai nứt nẻ, trong đôi dép vẹt đế thoăn thoắt lội sông, leo núi đi học trong sương mù, gió lạnh. Nhớ cái lưng gầy gò trong tấm áo sờn rách, gập người tải củi qua sông. Nhớ ánh mắt cực kỳ thèm thuồng khi chờ đến phiên được nhận vài gói bánh biscuits. Những đứa trẻ bất hạnh nơi vùng đất cao có đia hình quá trắc trở này đã bị bỏ quên rất lâu rồi. Các em rất cần sự quan tâm và chia sẻ để có thể vươn lên.
Chú thích:
[1] Suối Séo Trung Hồ chảy qua các xã Tả Van và Bản Hồ, thị xã Sa Pa tỉnh Lào Cai, Việt Nam.
[2] Xe, máy móc, và vật liệu dùng trong công trinh xây dựng đập thủy điện Séo Trung Hồ trên suối Séo Trung Hồ. Công trình được bắt đầu lại vào năm 2008. Chúng tôi đến SMT vào thời gian vùng hồ đang được chuẩn bị đào xới. Năm 2013, công trình hoàn tất và khu này trở thành hồ Séo Mý Tỷ. Hồ Séo Mý Tỷ ở độ cao hơn 1,600 m là hồ nước nhân tạo nằm trong dãy Hoàng Liên Sơn quanh năm mây phủ, hiện nay là hồ nước nhân tạo cao nhất Việt Nam
[3] Hoa tam giác mạch nhỏ, mầu trắng, nhìn như hoa dại. Mọc rất tốt ở vùng đồi núi cao. Người dân vùng cao giã hạt của hoa tam giác mạch hay xay, lược mịn, rồi dùng như bột để làm các loại bánh quê như bánh bò, bánh dầy. Bột tam giác mạch giàu protein  và một số chất dinh dưỡng khác hơn bột gạo hay bột ngô.
[4] Mèn mén là món giống như cơm ở miền xuôi, nhưng được nấu từ hạt ngô khô đã được xay vụn hay giã nhỏ. Mèn mén thường được người miền núi hấp như đồ xôi; có nhà cũng nấu mèn mén giống như nấu cơm, nhưng thành phẩm bị nhão hơn. 
Hoa Nắng
Câu chuyện sắp được kể trong những trang dưới đây gồm một số ký ức nhiều yêu thương của những ngày tháng ấm êm, ngọt ngào  ở Sài Gòn của Nụ, đứa bé di cư từ Hà Nội vào Sài Gòn từ khi còn rất nhỏ. Vào Nam, Nụ đã được ở Sài Gòn suốt những năm niên thiếu nhỏ dại, trước khi lênh đênh xa xứ gần cả cuộc đời còn lại. Những năm ngắn ngủi được ở quê nhà là quãng thời gian có nhiều cánh thơ bay, hoa nắng thơm hương, và giấc mơ nguyên xuân mượt mà nhất của Nụ.  Chuyện về Nụ được bắt đầu kể từ bài Hạt Mưa Ký Ức.
Trường Tiểu Học Phan Đình Phùng
Độ một tuần sau khi định cư ở Sài Gòn vào tháng 10 năm 1954, anh Cường bắt đầu vào lớp Năm ở trường tiểu học công thuộc khu Bàn Cờ. Mấy năm sau, lúc Nụ được nhận vào học thì trường chính thức được đặt tên là Phan Đình Phùng.
Thời đó, trường là căn nhà gạch một tầng, khá lớn, sân rộng, mái ngói nâu. Cổng trường có hai trụ đá xây cao, bên trên treo bảng tên trường. Qua cổng là một lối đi tráng nhưa, rộng rãi dẫn vào khuôn viên trường thoáng mát bóng cây. Đầu cổng vào là phòng ông hiệu trưởng, rồi đến phòng họp của giáo viên. Các lớp học nằm bao quanh một sân cỏ lớn. Giữa sân có cột cờ đặt trang trọng trên một bệ ciment nhỏ, nơi học trò các lớp phải tụ tập xếp hàng chào cờ hàng ngày. Gần cột cờ là cây hoa phượng xum xuê cành lá, vòm tỏa xanh mát, che rợp cả một khoảng sân rộng. Chung quanh gốc phượng là tụ điểm chơi đùa được ưa thích nhất của học trò vào mỗi giờ ra chơi. Lần nào nhìn cây phượng, Nụ cũng nhớ cây sung ở sân nhà ngày xưa, dù quả phượng dài dẹp, mầu nâu đen nhìn giống trái bồ kết của u già, không tròn đẹp, xinh xắn, nhiều mầu sắc như những quả sung. Nhưng hoa phượng khi vào hè lại nở từng chùm, đỏ thắm, vô cùng rực rỡ.
Từ khi anh Cường đi học, ngày ngày bố mẹ dù bận rộn thế nào cũng vẫn để ý xem xét tập vở của anh, kiểm tra nhắc nhở anh học bài mỗi buổi tối, và cũng luôn nhiệt tâm theo dõi sinh hoạt ở trường, hỏi han các thông tin về thầy giáo và bạn bè cùng lớp của anh. Những ngày ấy, Nụ thơ thẩn chơi một mình trên sân thượng ở mặt sau nhà, thuộc phần cuối của tầng hai nhìn xuống ngã ba có xưởng đúc, nơi thỉnh thoảng trong ngày có tiếng động cơ khá ồn ào của máy móc. Hàng ngày, bà ngoại dẫn anh Cường đi học, và bất cứ khi nào bà chuẩn bị rời nhà mà thấy Nụ đã đội sẵn mũ ngồi chờ, bà cũng luôn dẫn cả Nụ theo. Vì thế, dường như ngày nào Nụ cũng được theo bà và anh Cường đến trường. Chiều chiều, bà thường dẫn Nụ lên chùa Linh Chưởng thắp hương, lậy Phật. Bà luôn cung kính cắm hoa, sắp lễ cúng lên bàn thờ chánh điện, giúp chăm bón vườn cây, và khi rảnh rỗi, cũng chuyện vãn với các ni sư, bà vải. Bố Nụ làm công chức, ngày hai buổi đi về, mức lương ổn định có phụ cấp và trợ giúp y tế hào phóng mỗi khi người trong gia đình phải nhập viện chữa trị. Mẹ sinh thêm các em nhỏ. Cuộc sống bình lặng trôi. Nụ lớn dần.
Mấy năm sau Nụ bắt đầu đi học. Vào khoảng thời gian này mọi người trong nhà đều cố tình không gọi tên Nụ nữa. Nụ đã thành Thi hay chị Thi theo như người lớn và các em trong nhà gọi. Và khi Thi lên lớp tư thì cả nhà như đã quên hẳn cái tên Nụ, chỉ trừ bà ngoại, những khi lẩn thẩn xa vắng chìm trong thế-giới-ngày-xưa rất riêng của bà, vẫn luôn gọi Nụ cho đến ngày bà cháu phải xa nhau vĩnh viễn. Không được nghe ai kêu là Nụ nữa cũng làm Thi man mác buồn, nuối tiếc như bị mất một thứ gì rất quý, đã từng thân thiết gắn kết không rời. 
Những năm ở trường tiểu học Phan Đình Phùng của Thi khá mờ nhạt. Đúng ra thì hơn một nửa quãng thời gian này, Thi cũng phải sống xa xứ, nên ký ức về thời tiểu học ở Sài Gòn rất ít ỏi, không có gì đặc biệt, rồi loãng phai dần, chỉ còn phảng phất mơ hồ trong tâm trí. Có lẽ những ngày đó phẳng lặng bình yên quá nên Thi chỉ loáng thoáng nhớ sân trường có cây hoa phượng to lòa xòa bóng lá, nơi Thi hay nhẩy lò cò với hai bạn cùng bàn ở lớp là Thoa và Vân. Và Thi đã được học với hai cô giáo người Sài Gòn, cô Tâm dậy lớp tư và cô Hạnh dậy lớp nhất. Cả hai cô luôn nhỏ nhẹ dịu dàng gọi học trò là con, nghe thân thương, dịu ngọt vô cùng. Cô Hạnh, nghiêm và khó hơn, có cái roi mây, bề bảng bằng đầu chiếc đũa to dùng xào nấu đồ ăn và bề dài cỡ bằng cây chổi lông gà. Trò nào không thuộc bài hay làm toán sai đều bị cô khẻ hai cái vào bàn tay trái.
Thời gian đó, Thi chưa bao giờ được nhận bảng danh dự, nhưng vẫn nhớ năm lớp nhất, Thi rất thích mỗi khi cô Hạnh cho làm “toán chạy”, một hình thức thi đua để xác định khả năng giải bài đúng và nhanh của học trò trong lớp, Thi đều đều được hạng nhì mỗi khi được thi như vậy, và thỉnh thoảng may mắn trúng tủ, cũng vơ được hạng nhất. Thi ít viết sai chính tả, nên có thể vì thế mà điểm tập làm văn của Thi cũng thường được trên trung bình. Tuy nhiên, Thi luôn bị ngắc ngứ, không thuộc hết bài, không thể đọc trôi chảy trơn tru như các bạn khác mỗi khi bị gọi lên bảng “trả” các bài Sử Ký, Địa Lý, Vệ Sinh Thường Thức, hay Công Dân Giáo Dục, nên hạng điểm tổng kết tất cả các môn học của Thi chỉ ở mức trung bình trong lớp. Sau này, Thi nhận ra có lẽ vì hơi khá toán và ít vướng lỗi chính tả khi làm luận văn nên Thi đã dễ dàng trúng tuyển kỳ thi vào đệ Thất của trường Trung hoc Gia Long, vì đề thi thời đó chỉ gồm một bài luận văn và hai bài toán đố. 
Lần cuối bố dẫn Thi vào trường Phan Đình Phùng chào từ giã thầy hiệu trưởng và các cô giáo, Thi đã rất hãnh diện khi cùng 2 bạn cùng lớp nữ và 5 bạn bên lớp nam, đều trúng tuyển vào các trường Trung Học Công Lập ở Sài Gòn niên khóa 1961-1962, được lên nhận quà từ ban giám hiệu, mỗi người một chồng sách thiếu nhi. Chồng sách của Thi gồm có những quyển truyện vô cùng đáng yêu mà Thi vẫn còn nhớ như Tâm Hồn Cao Thượng [1], Dế Mèn Phiêu Lưu Ký, O Chuột, Chim Chích Lạc Rừng [2], và Truyện Cổ Tích Việt Nam. Những câu truyện sôi động, hào hứng, thú vị trong các tập sách thiếu nhi đặc biệt này đã giúp Thi có được những ngày hết sức êm ả, vui nhộn trong suốt thời gian hè nhàn hạ còn lại của năm cuối bậc Tiểu Học. Nhưng cũng có đôi ba truyện từng làm Thi buồn bực, cáu giận vì sự vô tâm, láu lỉnh, hay ngờ nghệch của các con thú đoảng như mụ Ngan hay em Chích Bông [3]. Thi đã nghiền ngẫm đọc đi, đọc lại nhiều lần tất cả mười mấy quyển sách và đã rất yêu thích, luôn cười, khóc theo những nhân vật trẻ con, chim chóc, ngan gà, chó mèo, giun dế trong các truyện về loài vật vô cùng hài hước và giàu tình cảm của nhà văn Tô Hoài. Tất cả những con vật ngộ nghĩnh hồn nhiên trong truyện, dù thật thà chăm chỉ, đáo để gian tham, hay mưu mô xảo quyệt, đã luôn lảng vảng rất trìu mến, thân thương trong tâm trí Thi bao năm tháng đầu ở bậc Trung Học.
Vườn Mai Ngậm Sương

Thi không sao quên được những ngày đầu tiên đi học ở trường Gia Long. Trời tháng 9, nắng hanh vương nhẹ trên nhiều đoạn đường rợp bóng cây dẫn về trường; Không gian dịu mát dễ chịu hơn bao ngày oi ả nóng nực của mùa hè thành phố. Buổi trưa ngày tựu trường, Thi được bố chở đi học bằng xe đạp. Ngồi trên porte-baggage đằng sau xe, ngượng nghịu trong chiếc áo dài trắng còn phảng phất hương lụa lanh thơm mát, Thi băn khoăn nghĩ ngợi về trường, lớp mới, và vừa lúng túng ôm cặp, vừa vụng về giữ tà áo không để bị bay cuốn vào bánh xe. Tâm tư Thi hơi bất an, lo ngại không gặp được bạn bè quen ở trường và cũng vu vơ sợ bị xếp vào lớp được dậy bởi thầy, cô khó tính. Như đoán được tâm trạng của Thi, bố huyên thuyên nói chuyện, dặn dò nhiều thứ, nhưng Thi chỉ dạ, vâng qua loa vì đang tự lự với bao âu lo, nghĩ ngợi. Đôi khi Thi cũng hơi bực mình vì hai tà áo như luôn tinh ranh đùa nghịch, nhúng nhắng rong bay ngược xuôi theo gió làm Thi phải để ý nắm giữ, không thoải mái như khi mặc áo ngắn. Thi không ngờ lần đầu tiên mặc áo dài lại hơi phiền hà như vậy, nhưng vẫn cố gắng cẩn thận ngồi thật yên trên xe để không gây khó khăn cho bố..
Bố chở Thi chầm chậm qua mấy đoạn phố quen gần nhà, qua ngã tư Lê Văn Duyêt rồi vào đường Phan Thanh Giản rợp bóng hai hàng cây sao rì rào tiếng gió, trước khi ngừng lại ở ngôi trường mái đỏ, rất lớn, thanh thoát nổi bật trong vẻ đẹp cổ điển giữa bốn con đường nhiều cây cổ thụ xanh mướt. Khu phố tĩnh mịch, vắng xe qua lại. Nhìn từ bên ngoài, vẻ đẹp của trường như còn tiềm ẩn sự tự hào tiêu chuẩn, phong cách văn hóa, và vị thế uy tín của một cơ sở giáo dục công, tiêu biểu của miền Nam. Một trường học truyền thống mang trọng trách giáo dục để nâng cao trình độ văn hóa theo tiêu chí toàn mỹ các phẩm chất: thông tuệ, chính trực, đạo đức; Và chu toàn các phương châm: nhân bản, dân tộc, khai phóng [4] của đất nước. Sự khẳng định trang trọng này Thi đã đọc trên các văn bản của trường nhận được cùng tờ chứng chỉ trúng tuyển kỳ thi vào Đệ Thất. Đặc biệt hơn nữa là ngôi trường danh giá, nổi tiếng này chỉ dành cho nữ sinh; nên sự hiện diện của trường giữa trung tâm thành phố đã biểu hiệu phần nào ý thức bình đẳng giáo dục nam, nữ ở thời buổi mà nhân quyền của phụ nữ trong xã hội Việt Nam chưa được nhà nước thật sự lưu tâm.
Mặt tiền trường nằm sâu sau bờ tường rào thấp, bên trên có thêm hàng chấn song ngắn, thưa, nên nhìn từ ngoài, sân trước luôn thấp thoáng hàng hoa sứ trắng, cành dáng đài trang, dịu dàng thả hương; và xen kẽ là mấy bụi trắc bách diệp được chăm tỉa gọn gàng. Bên ngoài, các lối gạch quanh trường luôn miên man tiếng gió, thoảng bay thanh âm những tiếng cười con gái trong trẻo, hồn nhiên. Bờ rào trường được cố định bằng các trụ gạch trang trí vuông, cách quãng đều nhau, vững chắc. Những thiết kế hình học thẳng, đều, vuông, kiên cố; đặt cùng cây cảnh thanh tao sắc mầu, nhìn như kiểu mẫu một mô hình giàu tiềm năng phát triển, dành cho thiếu niên, nơi mà nguyên tắc giáo dục và căn bản đạo đức luôn được duy trì nghiêm túc. Kiến trúc tổng thể bên ngoài của trường nhìn rất hài hòa, mỹ thuật. Nét đẹp trang trọng cổ điển cũng gợi cho người qua đường đôi phút bâng khuâng hiếu kỳ về các thông điệp ẩn sau những đường nét kỷ hà được khắc họa tinh tế trên vòm cổng, khung cửa sổ, và các bờ tường ở mặt trước của trường.
Chiều hôm ấy và một số buổi chiều nắng đẹp sau này, dường như có những khoảnh khắc trên vách tường trống bên phải mặt tiền của trường đã bất chợt dấy lên một phiến nắng óng vàng trong vắt. Ở đó lung linh khúc xạ hình chiếc vòm cong bên trên cẩn hai cung ngói mầu trang trí từ cửa sổ một lớp học, thoáng nhìn như bóng một chiếc hồ bán nguyệt có bờ thành dát gốm đá xưa. Nhập nhòa hư thực trên phiến nắng, mặt nước sóng sánh của hồ còn dập dờn phản chiếu dải mây trắng lơ lửng giữa bầu trời xanh. Hình ảnh khơi gợi câu chuyện huyền thoại về cái hồ Tiên thoáng ẩn, thoáng hiện này, người nào trong nhóm bạn Thi, sau này, cũng đã được nghe, và đã bao lần những ánh mắt phượng ngây ngô của họ từng kín đáo mải mê tìm kiếm không chỉ cái hồ Tiên mà còn cả khu vườn Thúy trữ tình, được nghe kể trong giờ học thơ Kiều, khi đã lên lớp cao hơn. Nỗi tò mò càng tăng gấp bội vào những buổi trưa sân trường thấp thoáng những vạt nắng lạ, màu sắc trong hơn và hồng hơn, đẹp lạ kỳ. Mẩu chuyển hư ảo lắm nghi vấn này đã từng làm tâm trí bầy con gái lau hau tuổi 11, 12, 13 băn khoăn, mê mẩn bao năm tháng êm đẹp ở trường. Như biểu cảm sự đồng tình với câu chuyện ngộ nghĩnh trẻ con đó, những đốm nắng vàng trên lối gạch dưới chân Thi cũng đang hồn nhiên vui tươi nhảy múa. Chừng như, có làn gió lang thang lạc lối trong buổi tựu trường êm ả ngày hôm ấy, thỉnh thoảng đã la đà chậm lại, dò tìm âm hưởng khúc sáo trạng nguyên, thanh thoát mơ hồ thả từ ngày hội Chữ thuở trường thi còn dập dìu lều chõng.
Trước cổng trường đông vô kể học sính, ai cũng thướt tha tà áo trắng còn óng sắc tơ, thơm hương lụa mới. Nhìn mọi người, Thi bỗng hơi tủi thân, mắt ngân ngấn nước, tự ti quá nhỏ bé vì đang đứng trong nhóm học sinh Đệ Thất, lớp thấp nhất của trường. Hơi lạc lõng, Thi lơ đãng đưa mắt nhìn quanh, hướng nào cũng chấp chới những tà áo tung bay ngợp trắng cả hai, ba đoạn phố lân cận khuôn viên trường, nhưng nhiều và đông nhất là nhóm học trò mới đang háo hức chờ trước hai cánh cửa cao ở cổng chính của trường, vẫn còn đóng. Không gian mênh mang nắng vàng ấm áp. Tiếng chuyện trò vui tai của những người bạn cũ gặp lại nhau cứ râm ran rủ rỉ từ các nhóm học trò Đệ Lục hay Đệ Ngũ. Chẳng tìm thấy ai quen, Thi đành tiếp tục vơ vẩn nhìn quanh, bỗng nó ngỡ ngàng chú ý đến hai tà áo tơ bay quấn quít theo một chị, có mái tóc chấm vai thật đẹp, đang đi từ góc đường Đoàn Thị Điểm rực rỡ nắng về quãng nhiều bóng cây, nơi Thi đứng. Lạ vô cùng vì tà áo chị chơi vơi kỳ ảo như không thật, đang vừa như dải voan trong suốt, óng ả loáng ánh bạc chao lượn giữa nắng vàng, bất chợt lúc đến dưới bóng mát, đã như thành chiếc khăn san trắng, nhu mì dịu dàng buông lơi trong heo may của một mùa thu nào đã vời vợi xa. Cây lá lao xao, lối đường như còn vương nhẹ hương hoàng lan dịu quen từ tà áo lụa hay dải khăn san đang ngập ngừng bối rối trên bờ vai cô nữ sinh Sài Gòn. Đẹp đến nỗi, trong thoáng chốc Thi quên cả việc dấm dẳng với hai tà áo bay lượn phiền hà của nó.
Đang vẩn vơ tìm thêm mây, gió trong các tà áo bên cạnh thì bố xoa đầu Thi, vẫy tay dặn dò lúc về phải đứng chờ bố đón ở góc đường bên chùa. Hồi trống mở cổng trường bắt đầu năm học mới vừa trang trọng vang lên. Thi nao nao ngơ ngẩn nhìn theo dáng bố dắt xe đi, rưng rưng nhớ đoạn thơ có câu thỉnh thoảng bố hay ngâm nga ở nhà,  partir c'est mourir un peu,[5], lòng bâng khuâng ngổn ngang tâm trạng của ngày đầu tiên bước vào ngôi trường trung học quá lớn.
Nhóm học trò Đệ Thất được cô giám thị hướng dẫn đến xếp hàng ở khu dành riêng cho từng lớp trong nhóm. Niên khóa 1961-1962 có 14 lớp Đệ Thất, các lớp Thất 1 đến Thất 7 thuộc ban Anh Văn; Thất 8 đến Thất 14 thuộc ban Pháp văn. Thi vào hàng với các bạn cùng đệ Thất 6 năm ấy. Mọi người đều có chút e dè, ngỡ ngàng khi được cô giáo hướng dẫn chỉ định một ai đó vào xếp hàng cùng, nhưng đều thân thiện chúm chím cười làm quen ngay với người bạn mới. Thi được xếp hàng với Thủy, cả hai ngập ngừng cười chào nhau và tự giới thiệu tên. Như định mệnh, từ hôm đầu tiên ấy cho đến hết bốn năm trung học đệ nhất cấp, Thi đã luôn ngồi cạnh Thủy và từ tuần lễ thứ nhì năm Đệ Thất, cả hai và các bạn Thìn, Vinh ngồi bàn bên trái, ngày nào cũng đi học với nhau vì tất cả đều ở quanh quẩn xóm trên hay xóm dưới trong khu Bàn Cờ, và nhà này cách nhà kia chỉ vài blocks đường. Trong xóm còn có vài chị lớn hơn học cùng trường, bọn Thi thường đi theo họ, cả đoàn sáu, bẩy cô bé tung tăng như đàn bướm trắng, ríu rít chuyện trò cười nói. Bao đốm nắng vàng đã theo hóng chuyện đàn bướm khắp các hè phố quen dẫn về cổng trường những năm tháng vô tư êm đềm ấy.
Từ buổi học đầu tiên, các cô học trò Đệ Thất đã được nghe hướng dẫn về ý nghĩa hoa mai vàng, biểu tượng của trường. Tất cả đều được phát huy hiệu màu xanh trên có đóa mai vàng rất xinh, đặc biệt dành cài lên áo dài mầu xanh vào các ngày lễ phải tham dự diễn hành; thêm hai phù hiệu bằng vải nền trắng có thêu đóa mai xinh xắn cạnh tên trường bằng chỉ mầu đỏ và được dạy cặn kẽ cách đơm phù hiệu lên gò áo dài trắng, đồng phục mặc hàng ngày. Cô Huỳnh Thị Nữ, giáo sư hướng dẫn lớp Thi và cũng phụ trách môn Việt Văn, đã dạy hoa mai vàng là hình tượng cao quý ẩn dụ cho khả năng tiếp nhận chân lý của con người. Hoa mai còn tượng trưng cho đức trung thực, tính can đảm, lòng kiên trì, và sự phú quý nên học trò của trường sẽ được đào tạo thành những người có tâm, tài, đức, hữu ích cho đất nước, dân tộc.
Năm Đệ Lục, cô Thân Thị Tố Tâm, giáo sư Việt Văn người Huế, còn thỉnh thoảng trìu mến gọi học trò của cô là những nụ mai nhỏ trong vườn Hạnh, vườn Xuân. Và Cô đã giải thích vườn Hạnh là nơi chỉ có hạnh phúc, bình yên, thương yêu dành để ươm dạy, chăm chút những búp mai xinh đẹp. Hoặc diễn tả như cô Hiếu Hạnh, giáo sư hội họa khi nghe bọn Thi thú vị kể lại lời cô Tố Tâm, thì vườn Hạnh được cô họa sĩ phác họa là nơi rất bình yên, muôn thuở thì thào gió nhẹ, nắng hồng, lá rơi, mai chúm chím, tươi mát trong cõi vàng lừng vang tiếng chim hót. Những câu nói ân cần ngọt ngào mang ý hướng xác định và đề cao năng lực học trò của các thầy cô giáo đã là các khích lệ lớn lao, tích cực giúp các cô gái nhỏ nảy nở sự tự tin, cố gắng hành xử theo khuôn phép, quan tâm trau dồi đức hạnh, và phát triển tinh thần nhân ái để trở thành người hiểu biết, trân trọng lễ nghĩa, chuyên chú học tập, và thương quý thầy bạn.
Những nguyên tắc căn bản về sinh hoạt học đường được nghiêm túc chỉ dạy từ những ngày vừa vào trường và thường xuyên được nhắc nhở bởi các thầy, cô hướng dẫn lớp, vào mỗi đầu năm học mới hay sau khi tổng kết thành quả kỳ thi lục cá nguyệt của cả lớp. Thời ấy, học trò rất thương quý, nể trọng, vâng lời thầy cô, và rất chăm chỉ học hành, luôn tích cực giúp đỡ bạn bè và tham dự những hoạt động từ thiện do trường tổ chức. Thêm vào đó, còn được huấn luyện để có ý thức trách nhiệm, tinh thần đồng đội nên học trò rất đoàn kết, nâng đỡ nhau tận tình mỗi khi được trường tuyển hay chỉ định tham dự các cuộc thi đua liên trường hay toàn quốc, như Văn Chương Phụ Nữ hay Nữ Công Gia Chánh. Học trò của trường thường xuyên đạt được những thành quả danh giá trong nhiều cuộc thi đua nổi tiếng của thành phố Sài Gòn thời bấy giờ.
Nhắc về trường mà không kể đến các gánh me, mâm cóc; các mẹt mía ghim, keo chùm ruột; hay các xe cóc có tủ kính bán đu đủ bò khô, bò bía, đậu đỏ bánh lọt, và bao gánh rong quà vặt quanh trường là một thiếu sót khi diễn tả nếp sinh hoạt của những cô nữ sinh Sài Gòn tuổi 13, 17 lúc đó. Con đường nhỏ sát chùa Xá Lợi ở đối diện trường bên ngã đường Bà Huyện Thanh Quan là nơi tụ tập của các hàng quà vặt đáng yêu này. Các cô học trò  thích từ vợ chồng chú thím xẩm lai bán đậu đỏ, đậu xanh bánh lọt với tiếng đá bào loạt xoạt liên tục vừa vui tai, vừa tung rải bao hạt đá trong veo mát rượi như những hạt cườm thủy tinh lóng lánh lên tà áo của đàn bướm xúm xít ăn hàng; Thêm chú Ba lắc cắc tiếng múa kéo cắt bò khô thoăn thoắt thả vun lên mấy đĩa đu đủ sợi giòn thơm vị ớt, kích thước mỗi đĩa chỉ cỡ lòng bàn tay người lớn; Nào bà Bẩy có thẫu me ngào óng lịm màu mật ong và những chiếc bánh phồng giòn rụm; Có chị Hai bán những xâu chùm ruột vàng ươm ngâm chua ngọt thơm lựng vị cam thảo, nhìn rất quyến rũ trong cái keo thủy tinh kềnh càng trong suốt mà có lẽ cả nhóm con gái ngồi quanh xúm lại cũng không thể xê dịch nổi. Nhưng trội nổi hơn cả là mâm cóc phủ phê đầy vun của thím Mười; Tất cả các quả cóc thơm, ửng hườm trên mâm đã được cẩn thận tỉa thành những búp hoa có cánh múp míp, và quanh mâm còn­ có những mảnh lá chuối rất nhỏ đã xếp sẵn thành hình phễu xinh xinh để đựng mắm ruốc hay muối ớt phụ kèm từng đóa cóc xanh giòn. Mâm luôn ăm ắp những búp hoa cóc mẩy căng năm, sáu cánh xanh mướt… Nhưng chỉ gần cuối năm, giữa mùa cóc, mới được thưởng thức những đóa cóc tươi giòn mê ly như thế thôi, lúc trái mùa thì thi thoảng lắm mới thấy thím Mười đến với hai keo cóc ngâm chua ngọt, nhưng toàn trái nhỏ, không thoảng hương the chua rất riêng, rất đặc biệt trong không gian dịu mát, hơi se lạnh của những ngày cuối năm.

Thi không hiểu tại sao chỉ những năm học buổi chiều, thời còn thuộc ba cấp lớp nhỏ nhất của bậc Trung học: Thất, Lục, Ngũ, thì những món quà vặt mới có vị ngon đặc biệt như thế. Khi lớn hơn, học buổi sáng, tự nhiên cả bọn ít dám thường xuyên ngồi lê ăn quà quanh trường nữa, chỉ thỉnh thoảng góp tiền, bốc thăm chỉ định một, hai bạn trong nhóm mua đem vào sân trường, rồi cùng chia nhau nhâm nhi trên mấy băng ghế đá hay nơi gốc phượng ở sân thể thao góc sau trường. Nhiều lần trong những lúc đó, cả bọn đều ngơ ngẩn nhớ những buổi chiều nắng mật vàng ong, vừa ngậm me hay nhai cóc, vừa quan sát mầu sắc của mấy loại mận trong thúng này hay các nhánh chùm ruột tươi vàng ở mẹt kia, và bên tai luôn vang vang nhiều tiếng nói, đằm thắm nhỏ nhẹ của người bán, kẻ mua, rất quen. Bao giờ những âm thanh rộn rã trong trẻo đó cũng hòa trộn nhiều tiếng cười vui nhộn và lấp lánh những giọt nắng hồng của ký ức ăm ắp hạnh phúc. Trải nghiệm yên bình, dễ chịu như khoảnh khắc được nhìn muôn vàn mảnh kim tuyến lung linh theo nhau rơi phủ khắp không gian, lay tỉnh toàn cảnh vật đã êm ái ngủ yên trong quả cầu trang trí bằng pha lê. Những ngày thơ dại đẹp như trong truyện cổ tích; Và ở đó, bạn bè, thầy cô, trường lớp, hàng hoa sứ, lối gạch quanh trường, vòm phượng rực rỡ vào hè … dù không còn là một thực thể để được trở về trải nghiệm thêm nữa, nhưng vẫn âm thầm quyến luyến, nhẹ nhàng ru êm, bâng quơ ẩn hiện; lúc rộn rã vang động, khi nhẹ nhàng bông bênh, trong bầu sáng ấm áp bao dung, che chở, rất yên bình.
Năm lên đệ Tứ, để chuẩn bị thi bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, Thi theo Thủy, Thìn, Vinh và vài bạn nữa ghi danh học luyện thi về Toán, Lý, Hóa. Từ đó, buổi sáng học ở Gia Long, và ba buổi chiều trong tuần, phải đi học thêm, mỗi buổi khoảng 2 giờ, ở trường Nguyễn Huệ, một trường tư ở trên đường Công Lý. Trường luyện thi này được dạy bởi giáo sư Bùi Hữu Đột và con trai của thầy là giáo sư Bùi Hữu Chỉnh. Nhiều học sinh trung học ở Sài Gòn thời đó đều biết thầy Bùi Hữu Đột là giáo sư dậy toán rất nổi tiếng. Trường Nguyễn Huệ ở khá gần phố Lê Lợi thuộc khu trung tâm Sài Gòn, gần chợ Bến Thành. Cả bọn Thi đều rất thích các buổi học thêm này, vì không khí lớp học không bị nhiều áp lực, không phải cố gắng để đạt điểm trung bình hoặc khá hơn trong các bài tập, không phải thi lục cá nguyệt. Và có lẽ vì tinh thần được thoải mái, nên bài vở ở lớp học thêm của bọn Thi lại luôn có kết quả khá hơn so với điểm số ở lớp học chính, nơi luôn phải cố gắng để giữ được thứ hạng cao trong lớp. Những buổi học này còn tạo cơ hội được rong chơi vui nhộn cùng bạn bè, rất thú vị. Lớp học thêm tan vào 4 giờ chiều, nắng vẫn lưa thưa vàng dưới hai hàng cây nhiều bóng mát. Cả nhóm nhẩn nha rủ nhau đi bộ từ trường Nguyễn Huệ về trung tâm phố và hay ngừng lại khá lâu ở ngã tư rẽ vào đường Lê Lợi, nơi có nhiều sạp bình dân nhỏ bán báo và những kiosque đẹp bán sách, trưng bày mỹ thuật thu hút hơn.
Các bạn của Thi thích la cà ở khu này để xem bìa những quyển sách bầy trên kệ và những tờ nhạc nhiều mầu sắc. Ngắm nhìn những khuông nhạc với bao nốt dặt dìu bay nhẩy lên xuống, mà tưởng như được nghe âm điệu thánh thót của những bài tình ca đã được nhà văn Nguyễn đình Toàn trau chuốt diễn giải trên chương trình Nhạc Chủ Đề vào những tối Thứ Năm. Đại khái, theo nhà văn, dó là những khúc hát bao gồm sự phối hợp tuyệt diệu của lời (thơ) thể hiện xúc cảm trữ tình và nốt nhạc đan lượn thanh âm trầm bổng.
Những bản nhạc dịu êm, lời ca mượt mà đã tích cực giúp đời sống tinh thần của những cô gái nhỏ được phong phú, thi vị hơn.  Bìa các tờ nhạc luôn có tranh minh họa mỹ thuật vừa lạ mắt, vừa sắc sảo, màu sắc đẹp trang nhã. Bấy giờ, dù rất thích, nhưng chẳng ai có tiền để tiêu pha cho món hàng xa xỉ đáng yêu này, bọn Thi chỉ có vài đồng mẹ cho vừa đủ mua me, mua cóc nên chưa bao giờ có khả năng mua bán bất cứ thứ gì mỗi khi lên phố rong chơi như vậy. Nhưng các dì, các chú chủ gian hàng luôn ân cần chào đón bầy thiếu nữ có những đôi mắt sáng như sao này, có lẽ vì nghe họ láu táu phê bình hay đành hanh so sánh tờ này, tờ kia cũng vui tai; Và rồi thể nào cũng có vài khách tre trẻ, bộ điệu nghiêm trang người lớn hơn họ cùng dừng chân chọn nhạc, báo, sách và lân la bắt chuyện với Thủy vì cô nàng xinh như một nàng thơ nhỏ. Tà áo mảnh mai nối cao chiếc cổ thanh như cuống hoa mềm mại nâng gương mặt búp sen tươi mát của Thủy vừa tinh khôi hé nở dưới vầng nắng hồng. Nhánh sen đẹp thanh thoát, nhẹ nhàng tỏa hương làm những con sóng hồn phiêu bồng ngơ ngẩn không biết đang ngao du vườn sen hay lạc trôi trong bóng rằm ngày hội mùa trăng.
Thi cũng phải sững sờ ngạc nhiên vô cùng, vì tuy luôn rất thân thiết, ngày ngày cùng đi học với Thủy, mà không hề biết, từ bao giờ, Thủy đã thần kỳ hóa thân thành nàng thơ quá yêu kiều, xinh đẹp như vậy nữa. Quả là thiên nga của vườn mai ngậm sương.
Mùa chớm sen hồng
Em chớm nguyệt
Tình chớm quỳnh hương
Em chớm rằm
Con chim nào múa trên cành phượng
Lá chớp hàng mi mắt lá răm
(Trích từ “Phượng Hồng”, thơ Lê Văn Trung)
Thi chỉ mê mẩn các tờ nhạc, nhất là bài hát nào đã từng yêu thích khi nghe qua chương trình ca nhac của đài phát thanh. Thi tẩn mẩn xem những bức tranh lạ và đẹp trên bìa tờ nhạc, cố gắng tìm hiểu ý nghĩa họa sĩ muốn gửi cùng bài hát; Nếu nghĩ không ra, Thi tưởng tượng một mẩu chuyện nào đó để liên kết bức vẽ với nội dung bài hát hay lời một, hai câu trong bài mà Thi thích nhất, rồi vòng vo kể lại câu chuyện hư cấu đầu ngô, mình sở cho Thủy, Thìn, Vinh để thích thú thấy mắt mấy cô bạn tròn xoe thán phục. Nhớ làm sao những góc phố cũ, bao ngã đường hoa thơm nắng Sài Gòn, phố nhộn nhịp tiếng xe, những quầy hoa lung linh màu sắc, tiếng cười đùa như không bao giờ dứt của những ngày tháng thơ dại.
Một xế trưa gần vào hè, trong lần cuối đến lớp học thêm trước khi nghỉ chờ ngày thi Trung Học Đệ Nhất Cấp, cả bọn đã khám phá ra một cây muồng hoàng yến, cổ thụ, hoa vàng rũ từng chùm sáng rực như những lồng đèn treo lơ lửng đong đưa ở các ngày hội. Cây ở trước một biệt thự trên đường Phan Thanh Giản, đoạn gần rẽ vào Công Lý. Thật ra, ở con ngõ gần chùa Xá Lợi cũng có một cây như thế, nhưng vẫn còn nhỏ, chưa bao giờ trổ hoa, nên cả bọn không ai biết hoa hoàng yến khi vào mùa lại quá đỗi rực rỡ mỹ miều như vây. Các bạn và Thi đã thay phiên nhau đứng dưới những chùm hoa hoàng yến, nghiêng bóng nắng đợi gió lay, chờ dây hoa vàng vơ vẩn sa nhẹ lên tóc, rải vương tà áo, để tưởng tượng như đang cùng những nụ hoa vàng ngày Xuân chơi vơi trong khúc nhạc múa nhẹ êm. Từng dây hoa dịu dàng lướt quay theo tà áo óng ngà sắc tơ, chấp chới quyện vòng các dải nắng thủy tinh trong veo. Buổi chiều êm ả nhịp luân vũ tuổi chanh, tuổi hồng vẫn thỉnh thoảng nhẹ nhàng, vơ vẩn trong tâm trí Thi.
Ở những năm đệ nhất cấp, Thi và các bạn không những được dậy dỗ để mở mang, phát triển kiến thức khoa học, văn chương mà còn được các cô giáo chuyên về âm nhac, hội họa, nữ công, gia chánh, hướng dẫn các nguyên lý đọc viết nốt nhạc, giữ tiết nhịp khi ca hát, cách phác họa hình thể, tô vẽ màu sắc, và may vá thêu thùa, nấu nướng. Những hiểu biết thực dụng về nữ công, gia chánh giúp cả bọn tháo vát hơn khi phải đỡ đần công việc nhà cho bố mẹ; Và những khái niệm về nghệ thuật đã góp phần khơi mở làm tươi mát tâm hồn, giúp các cô nữ sinh nhỏ thêm dịu dàng, đằm thắm.
Thú vị hơn tất cả là những giờ Việt Văn, môn học đặc biệt luôn được sự tập trung lắng nghe hết sức say mê của các cô học trò. Trong những buổi học nhẹ nhàng thoải mái đó, cả bọn chỉ phải để ý nhớ một số quy luật căn bản về cú pháp, viết văn, làm thơ, hoặc phương cách nhận định giá trị của một số tác phẩm văn học. Phần lớn thời giờ còn lại, học trò được nghe những lời giảng giải hay phân tích thiết thực, hào hứng, và cặn kẽ về nội dung nhiều trích đoạn nổi bật trong các tác phẩm văn học; Và cũng không ít lần, họ được thưởng thức giọng diễn ngâm chan chứa tình cảm khi các cô giáo ngẫu hứng nhấn nhá những đoạn thơ trữ tình hay nỉ non các khúc ngâm da diết nỗi niềm. Văn chương, thi phú bình luận trong giờ học bao giờ cũng phong phú ý tưởng cao đẹp, cảm xúc chân thật, ngôn ngữ sáng tạo, nhịp điệu dịu êm, và những câu chuyện về các điển tích cổ hay lời khai mở bao ẩn dụ từ vựng thâm thúy. Nội dung của phần lớn những tác phẩm trong chương trình học đều sâu sắc đề cao các giá trị chân, thiện, mỹ của cuộc sống. Và những thông điệp tích cực này đã được các thầy cô tinh tế chuyển tải, hướng dẫn để học trò dễ dàng thấm nhuần mọi tư tưởng đạo đức, nhân văn tiềm ẩn, ngoài các lý thuyết căn bản về ngữ văn.
Ngẫm nghĩ lại, Thi không sao quên được cảm giác bồi hồi, tự hào khi được học về những bài thơ Nôm chọn lọc từ Quỳnh Uyển Cửu Ca Thi Tập của vua Lê Thánh Tông và các thi nhân trong hội Tao Đàn do vua lập ra từ thế kỷ thứ 15. Nhớ vô cùng những lời ca tụng của cô Phạm Quỵ [6], giáo sư dậy Việt Văn năm đệ Ngũ, đã ví von hội tao đàn của vua là một bức phá văn học lịch sử quan trọng của đất nước. Còn hình ảnh nào cao đẹp, yên bình, và diễm lệ hơn cảnh vua quan, quần thần hài hòa thù tạc thanh tao trong các buổi xướng họa thi phú, diễn giải lịch sử, thảo luận về đạo học, về chính sự của đất nước. Những chương trình luận bàn quốc sự hay nhã nhạc tiêu khiển đậm sắc văn hóa nghê thuật đã được thường xuyên tổ chức gần như suốt khoảng thời gian trị vì của đức vua tài ba; Người cũng được xưng tụng là bậc nguyên súy của trào lưu văn học cung đình cao quý.
Trên tất cả, đất nước ta thời đó đã phát triển vượt bực nhờ tài năng và đức độ lớn lao của vị minh quân, Lê Thánh Tông. Chẳng thế mà Sử Việt - 12 Khúc Tráng Ca đã ghi về Ngài như sau “Vua là đại diện của sự ấm no và an lành, của thái bình và thịnh trị. Nhắc đến Ngài là nhắc đến một dòng suối mát phủ lấy trang sử xanh của dân tộc.”. Và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư bầy tỏ sự tôn kính công đức của Ngài qua dòng "Triệu dân vỗ yên, trăm việc chấn chỉnh, văn giáo rộng ban, vũ công đại định". Vua Lê Thánh Tông là một bậc anh tài và là một vị vua suốt đời vì dân.
Ngoài các đề mục chính của môn học, các bạn và Thi còn rất yêu thích mỗi khi được nghe kể thêm những giai thoại kỳ thú về tác giả hay những nhân vật trong tác phẩm, về nếp sống xã hội của thời đã qua, về các tư duy, định kiến hay thành kiến, của con người trong bối cảnh cuộc sống của họ từ các tác phẩm cùng thời hay các nguồn thông tin văn nghệ khác. Những câu chuyện hư thực trong phần phụ bản, hoặc ngoại truyện, đã giúp môn học thêm thú vị, đa sắc, gần gũi với cuộc sống hiện thực của xã hội hơn. Trong các buổi học, không gian lớp học thường rất cởi mở sống động, luôn phảng phất hình bóng của một quá khứ tuy đã lùi xa, nhưng vẫn có tình thân ái kết nối trong dòng chảy xuôi an bình từ thế hệ tiền bối, và lãng đãng tiếng đồng vọng tha thiết tình tự quê hương. Những năm trung học nhỏ dại đó, nhất là những giờ được hoc văn chương thâm thúy, nghiền ngẫm tư tưởng về đạo đức làm người, và tiếp cận với nghệ thuật của ngôn từ có lẽ là trạm dừng an nhiên kỳ thú nhất của chuyến tầu cuộc đời mà sau này các bạn và Thi đều phải qua rất nhiều bến gập ghềnh, gian nan, mệt mỏi.
Hoa Nắng
Mùa hè sau năm Đệ Tứ, tất cả các cô học trò trong nhóm Thi đều đỗ bằng trung học Đệ Nhất Cấp một cách dễ dàng. Điều này cũng không có gì ngạc nhiên vì tỉ lệ học sinh của trường thi đỗ các kỳ thi căn bản ấn định bởi bộ Giáo Dục đều luôn rất cao. Hãnh diện hơn nữa là gần phân nửa số người đỗ đạt đã trúng tuyển có hạng như Ưu, Bình, hay Bình Thứ. Thi nhớ trong năm cuối ở trường, có một bạn đã đỗ hạng Tối Ưu kỳ thi Tú Tài 2. Hình như năm đó toàn quốc chỉ ba học sinh đạt được số điểm để được xếp vào hạng bậc danh giá này. Ngày đó, nhiều bạn của Thi học rất chăm, rất giỏi, nhưng cũng mơ mộng thả thơ, viết văn, gọi mây, vơ nắng, suốt những năm dưới mái trường yêu đấu. Vài nụ thơ học trò mà Thi còn nhớ:
Hoa sao lấm tấm trên bờ tóc
Cỏ biếc nằm nghe tiếng guốc khua
Hồ điệp theo vào trong lớp học
Mơ màng nhìn giọt nắng đong đưa
(Trích từ “Đường Phan Thanh Giản”, Quỳnh Châu, GL 1965)
Xin trả cho tôi nắng Sài Gòn
Thênh thang đường phố lụa Hà Đông
Xin trả cho tôi mưa ngày ấy
Và trả cho tôi cả cuộc tình…
Hoàng Lan Chi (GL 67)
Chiều rơi nhẹ vào mắt
Trời chớm đông lạnh ngắt
Gió lay nhẹ hàng cây
Dáng em mờ trên mây
(Trên tờ bích báo đệ Nhất A1 năm 1968, không có tên tác giả)
Những nụ thơ mềm mại trên có thể đã hình thành từ bao buổi chiều trời xanh mây trắng lãng đãng trên sân trường ngày nào. Thời đó, đã biết bao lần các bạn và Thi tranh nhau đuổi nhặt những bông hoa nắng được gió miên man rải từng vạt vương vãi dưới các bóng cây trong khuôn viên trường. Vui nhất là những bước nhảy chân sáo dưới hàng cây lòa xòa bóng lá dẫn từ vòm cổng chính đến khu có phòng Hiệu Đoàn ríu rít tiếng học trò ăn quà. Những giờ ra chơi mải mê tìm đếm từng cánh hoa pha lê nhấp nháy ẩn, hiện trên các lối đi nhiều bóng nắng, đăc biệt là trên lối đường có hai hàng cây luôn rì rào tiếng lá reo được rất yêu thích bởi các cô học trò. Lối đường đó bao giờ cũng vang tiếng nhiều bước guốc nhỏ qua lại, và đôi khi để ý kỹ, còn như có cả những âm guốc mơ hồ vọng về từ một thời xa vắng nào đó.

Bao giờ vào cuộc chơi, những cánh hoa trên đường cũng lao xao như sợ bị guốc các cô đùa dẫm lên. Vì thế, chúng thường nhanh chóng bay lên tà áo của một ai đó trong nhóm, nhấp nháy vài giây, rồi nhanh nhẹn chuyền qua mái tóc hay bờ vai một bạn khác. Cứ thế, hoa như theo mọi người chạy quanh, áo và tóc người nào cũng lấp lánh vài cánh hoa nắng, kẻ nhiều người ít, ai cũng thích thú vì được tha hồ ngắm những nụ hoa như bướm pha lê hay đom đóm lập lòe trên áo nhau. Cao điểm cuộc chơi là những so đo, lý sự, chí chóe, khen chê các mẫu hoa được cài trên từng tà áo; Nhất là lúc tranh nhau hối hả đếm những cánh hoa, vốn có hiện hữu chẳng bao giờ phân minh, còn luôn tinh quái chập chờn: lúc sáng, lúc mất. Những tiếng đếm 1, 2, 3, … dứt khoát vội vàng. Rồi bỗng bất chợt, ai đó bật ra một, hai tiếng khúc khích nhỏ, rồi vài tiếng cười bắt chước, dần dần nhiều tiếng cười theo nhau ồn ã hơn, và chẳng mấy lúc đã òa vỡ thành từng chuỗi cười liên tục, không dứt được..
Đôi khi đang tập trung kiểm số hoa để quyết định ai nhặt được nhiều, thì nắng bỗng dưng nhạt hẳn, và chỉ trong chớp mắt, áo ai cũng trơn trắng bình thường, hệt nhau, không còn hoa lá nữa. Cả bọn đều ngớ ra ngẩn ngơ vì ngần ấy cánh hoa đang nháy chớp như múa, đã đột ngột tan mất hết. Nhưng chỉ một thoáng sau, nắng bừng lên, đám hoa nghịch ngợm lại bất ngờ xuất hiện, nhưng chấp chờn sáng như các đốm đèn trang trí trên thân cây, không đậu trên bất cứ tà áo ai.
Cũng nhiều lần, trưa đổ vàng như tô, như vẽ trên vòm cây xanh thẳm, trời vắng gió, hoa nắng trên lối đi nằm lặng yên không chớp, tựa như đã được in tạc vào mặt đường nhựa và càng lúc càng nổi rõ nét, óng đẹp hơn dưới vạt nắng say nồng. Thế mà bọn Thi cũng vẫn bị lạc mất vài bông đã đếm, cáu bực đến nỗi phải ngẩng mặt lườm đe hai con nỡm sáo [7] phá đám đã khua lá làm bay hết hoa, còn nhăn nhở huýt gió nhạo đùa khi vút bay trốn về tháp chuông bên chùa. Thật chẳng ngoa khi bọn sáo đoảng này đã luôn bị mắng trong mấy bài học về ca dao thành ngữ:
Con chim sáo sậu
Ăn cơm nhà cậu
Uống nước nhà cô
Đánh vỡ bát ngô
Bà cô phải đền
Những ngày gần đến hè năm đó mọi người trong lớp Thi đều bận rộn lo lắng, không còn nhởn nhơ chào đón phượng nở, ve vang như các mùa hè trước. Ai cũng nghiêm túc chăm chỉ học bài chuẩn bị cho kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp. Bộn bề, nhưng lòng họ cũng ngổn ngang  nhiều ưu tư khi biết hai chị bạn lớn tuổi ngồi bàn cuối lớp, sẽ thôi học luôn để lấy chồng. Nhưng hoang mang chạnh lòng nhất là chuyện ba cô bạn hiền lành, không bao giờ nghich ngợm hay to tiếng, cũng rời trường sau khi thi xong, tìm việc làm để phụ giúp gia đình. Những giờ học cuối của năm 1965 trôi qua thật buồn.
Không gian lớp học càng lúc càng căng thẳng bất an hơn, gương mặt mọi người đều lộ vẻ lo lắng bồn chồn khi ngày thi cận kề. Những bạn sắp phải rời xa trường luôn thẫn thờ, buồn bã, đôi khi còn tủi thân thút thít ở một góc nào đó ngoài sân trường. Lưu bút chuyền tay nhau như bươm bướm. Tự nhiên, các cô nhỏ như dạt dào xúc cảm và phong phú thơ văn hơn hẳn những năm học trước. Tuy Thi cũng áy náy, buồn xót thương mấy bạn phải thôi học, nhưng vô tâm mải chơi, nên không nghĩ ngợi nhiều, có lẽ vì quanh Thi vẫn luôn còn đông đủ Thủy, Thìn, và Vinh. Sau này, khi đã lên lớp trên và phải học cùng vài người bạn mới quen từ các trường khác chuyển đến, Thi đã rất nhớ ba cô bạn kém may mắn trong lớp học xưa, cũng đã không ít lần ân hận tự trách quá thờ ơ vô tình, không quan tâm nhiều đến hoàn cảnh các bạn.
Hôm liên hoan bãi trường, mọi người đều mải miết viết lưu bút. Thi cũng bắt chước các bạn nắn nót 4 câu thơ con cóc, ngụ ý tả hoa nắng, gửi vào lưu bút tặng Thủy. Thơ dở quá nên Thủy suy nghĩ mãi mà vẫn ngơ ngác, bối rối không hiểu Thi định ba hoa chuyện gì khi viết mấy câu như bài vè bán thuốc rong đó. Ngu ngơ hiền lành như chim chích lạc rừng, [8] thì làm sao Thủy biết được:
Người về hoa nắng trên tay
Cầm câu thơ thấy nắng đầy trong thơ
(Trích từ “Hoa Nắng” – thơ Lê Văn Trung)
Qua mùa thi, các bạn và Thi đều vui mừng háo hức chờ ngày khai giảng năm học mới. Đôi lúc cả bọn cũng ngậm ngùi nhắc đến các bạn bị hoàn cảnh đẩy đưa, bắt buộc phải lớn lên, bước vào đời quá sớm. Chạnh lòng làm sao mỗi khi nghĩ đến lúc trở lại trường, sân vẫn ngập hoa nắng, nhiều tiếng cười; Nhưng không bao giờ còn được gặp những gương mặt thân quen, hiền hòa đã cùng là bạn học từ những ngày đầu tiên vào trường. Có những ngày cả bọn Thi nhớ 3 cô bạn nhỏ vô cùng.
Em không đến trường mùa thu năm ấy nữa
Em cũng không đến trường cả mùa thu năm sau
Chiếc lá rụng xuống hoàng hôn xẹt lửa
Nghe mùa thu tiếc nuối chảy qua cầu.
(Trích từ “Xa Lắc Mùa Thu”, thơ Trương Nam Hương)
Thú đam mê tìm nhặt hoa nắng trong sân trường có lẽ đã làm nảy sinh ý hướng cố gắng tìm kiếm những điểm sáng trên các lối đi, ngã rẽ của đường đời sau này. Trò chơi thơ dại ngày ấy cũng giúp các bạn và Thi mơ hồ cảm nhận những gì được định giá là hào quang rực rỡ của cuộc sống, cũng chỉ hiện hữu rất mong manh vô thường, dễ có dễ mất; nhưng có thể giúp làm một phân đoạn cuộc sống thêm sinh động, nhiều sắc màu.
Chú thích:
[1] Tâm Hồn Cao Thượng, được chuyển ngữ từ bản dịch qua tiếng Pháp: Les Grands Coeurs by Edmond De Amicis, bởi nhà văn  Hà Mai Anh).
Tâm hồn cao thượng (tiếng Ý: Cuore) là một cuốn tiểu thuyết về trẻ em của nhà văn người Ý Edmondo De Amicis. Truyện dùng bối cảnh lúc nước Ý được thống nhất, nội dung đề cao tinh thần yêu nước. Tiểu thuyết được xuất bản đầu tiên vào ngày 18 tháng 10, năm 1886, ngày khai trường ở Ý, và ngay lập tức trở thành một hiện tượng sách được nhiều người ái mộ, liên tuc tái xuất bản rất nhiều lần.
[2] Dế Mèn Phiêu Lưu Ký, Tô Hoài (1955); O chuột, Tô Hoài (1937); Chim Chích Lạc Rừng, Tô Hoài (1949) là những truyện ngắn về loài vật đã được phát hành trong các thập niên 1950, 1960 ở Sài Gòn như những tập truyện nhỏ. Mỗi truyện được in thành một tập chỉ độ 5-10, trang. Nhiều năm sau, một số truyện về loài vât, trẻ em được tập hợp thành các tuyển tập truyện ngắn như tập truyên “Chim Chích Lạc Rừng” hay tập truyện “O Chuột”.
[3] Mụ Ngan là một truyện ngắn của Tô Hoài, sau này được in trong tâp truyện ngắn Chim Chích Lạc Rừng. Chích Bông là một trong hai nhân vật chính trong truyện ngắn Chim Chích Lạc Rừng của Tô Hoài (1949)
[4] Phương châm, chỉ tiêu của nền Giáo Dục Miền Nam  nhân bản, dân tộc, khai phóng được viết trong bài “Nhìn lại nền Giáo dục VNCH: Sự tiếc nuối vô bờ bến”, Huỳnh Minh Tú. Nguồn: https://sites.google.com/.
[5] Partir c’est mourir un peu là câu đầu của bài thơ Rondel de l’adieu (Vĩnh Biệt Ca ) của Edmond Haraucourt, dựa theo tài liệu trên:
https://www.thivien.net/.
[6] Giáo sư Phạm Quỵ, khuê danh Trần Thị Thương Thương, day Việt Văn Trung Học Đệ Nhất Cấp ở trường Gia Long thập niên 1960, 1970. Bà được nhiều học sinh biết đến như một nàng thơ nhó trong mộng của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Huyền thoại này cũng được kể trong bài “Thương Thương, Nàng Là Ai?”, được đăng tại: https://phanxipang.wordpress.com/.
[7] Đôi sáo chùa Xá Lợi. Khoảng năm 1963-1964 có vài con sáo hay đến đậu, hót trên mấy cây cổ thụ trong sân trường Gia Long. Học trò đồn có một gia đình sáo làm tổ trên cây bên chùa Xá Lơi, chiều chiều chúng thường bay sang sân trường chơi.
[8] “Ngớ ngẩn như chim chích lạc rừng” là câu thành ngữ trêu chọc, bỡn cợt những người khờ dại, dễ tin.
Hoa Nắng
Câu chuyện sắp được kể trong những trang dưới đây gồm một số ký ức nhiều yêu thương của những ngày tháng ấm êm, ngọt ngào  ở Sài Gòn của Nụ, đứa bé di cư từ Hà Nội vào Sài Gòn từ khi còn rất nhỏ. Vào Nam, Nụ đã được ở Sài Gòn suốt những năm niên thiếu nhỏ dại, trước khi lênh đênh xa xứ gần cả cuộc đời còn lại. Những năm ngắn ngủi được ở quê nhà là quãng thời gian có nhiều cánh thơ bay, hoa nắng thơm hương, và giấc mơ nguyên xuân mượt mà nhất của Nụ.  Chuyện về Nụ được bắt đầu kể từ bài Hạt Mưa Ký Ức.
Trường Tiểu Học Phan Đình Phùng
Độ một tuần sau khi định cư ở Sài Gòn vào tháng 10 năm 1954, anh Cường bắt đầu vào lớp Năm ở trường tiểu học công thuộc khu Bàn Cờ. Mấy năm sau, lúc Nụ được nhận vào học thì trường chính thức được đặt tên là Phan Đình Phùng.
Thời đó, trường là căn nhà gạch một tầng, khá lớn, sân rộng, mái ngói nâu. Cổng trường có hai trụ đá xây cao, bên trên treo bảng tên trường. Qua cổng là một lối đi tráng nhưa, rộng rãi dẫn vào khuôn viên trường thoáng mát bóng cây. Đầu cổng vào là phòng ông hiệu trưởng, rồi đến phòng họp của giáo viên. Các lớp học nằm bao quanh một sân cỏ lớn. Giữa sân có cột cờ đặt trang trọng trên một bệ ciment nhỏ, nơi học trò các lớp phải tụ tập xếp hàng chào cờ hàng ngày. Gần cột cờ là cây hoa phượng xum xuê cành lá, vòm tỏa xanh mát, che rợp cả một khoảng sân rộng. Chung quanh gốc phượng là tụ điểm chơi đùa được ưa thích nhất của học trò vào mỗi giờ ra chơi. Lần nào nhìn cây phượng, Nụ cũng nhớ cây sung ở sân nhà ngày xưa, dù quả phượng dài dẹp, mầu nâu đen nhìn giống trái bồ kết của u già, không tròn đẹp, xinh xắn, nhiều mầu sắc như những quả sung. Nhưng hoa phượng khi vào hè lại nở từng chùm, đỏ thắm, vô cùng rực rỡ.
Từ khi anh Cường đi học, ngày ngày bố mẹ dù bận rộn thế nào cũng vẫn để ý xem xét tập vở của anh, kiểm tra nhắc nhở anh học bài mỗi buổi tối, và cũng luôn nhiệt tâm theo dõi sinh hoạt ở trường, hỏi han các thông tin về thầy giáo và bạn bè cùng lớp của anh. Những ngày ấy, Nụ thơ thẩn chơi một mình trên sân thượng ở mặt sau nhà, thuộc phần cuối của tầng hai nhìn xuống ngã ba có xưởng đúc, nơi thỉnh thoảng trong ngày có tiếng động cơ khá ồn ào của máy móc. Hàng ngày, bà ngoại dẫn anh Cường đi học, và bất cứ khi nào bà chuẩn bị rời nhà mà thấy Nụ đã đội sẵn mũ ngồi chờ, bà cũng luôn dẫn cả Nụ theo. Vì thế, dường như ngày nào Nụ cũng được theo bà và anh Cường đến trường. Chiều chiều, bà thường dẫn Nụ lên chùa Linh Chưởng thắp hương, lậy Phật. Bà luôn cung kính cắm hoa, sắp lễ cúng lên bàn thờ chánh điện, giúp chăm bón vườn cây, và khi rảnh rỗi, cũng chuyện vãn với các ni sư, bà vải. Bố Nụ làm công chức, ngày hai buổi đi về, mức lương ổn định có phụ cấp và trợ giúp y tế hào phóng mỗi khi người trong gia đình phải nhập viện chữa trị. Mẹ sinh thêm các em nhỏ. Cuộc sống bình lặng trôi. Nụ lớn dần.
Mấy năm sau Nụ bắt đầu đi học. Vào khoảng thời gian này mọi người trong nhà đều cố tình không gọi tên Nụ nữa. Nụ đã thành Thi hay chị Thi theo như người lớn và các em trong nhà gọi. Và khi Thi lên lớp tư thì cả nhà như đã quên hẳn cái tên Nụ, chỉ trừ bà ngoại, những khi lẩn thẩn xa vắng chìm trong thế-giới-ngày-xưa rất riêng của bà, vẫn luôn gọi Nụ cho đến ngày bà cháu phải xa nhau vĩnh viễn. Không được nghe ai kêu là Nụ nữa cũng làm Thi man mác buồn, nuối tiếc như bị mất một thứ gì rất quý, đã từng thân thiết gắn kết không rời. 
Những năm ở trường tiểu học Phan Đình Phùng của Thi khá mờ nhạt. Đúng ra thì hơn một nửa quãng thời gian này, Thi cũng phải sống xa xứ, nên ký ức về thời tiểu học ở Sài Gòn rất ít ỏi, không có gì đặc biệt, rồi loãng phai dần, chỉ còn phảng phất mơ hồ trong tâm trí. Có lẽ những ngày đó phẳng lặng bình yên quá nên Thi chỉ loáng thoáng nhớ sân trường có cây hoa phượng to lòa xòa bóng lá, nơi Thi hay nhẩy lò cò với hai bạn cùng bàn ở lớp là Thoa và Vân. Và Thi đã được học với hai cô giáo người Sài Gòn, cô Tâm dậy lớp tư và cô Hạnh dậy lớp nhất. Cả hai cô luôn nhỏ nhẹ dịu dàng gọi học trò là con, nghe thân thương, dịu ngọt vô cùng. Cô Hạnh, nghiêm và khó hơn, có cái roi mây, bề bảng bằng đầu chiếc đũa to dùng xào nấu đồ ăn và bề dài cỡ bằng cây chổi lông gà. Trò nào không thuộc bài hay làm toán sai đều bị cô khẻ hai cái vào bàn tay trái.

Thời gian đó, Thi chưa bao giờ được nhận bảng danh dự, nhưng vẫn nhớ năm lớp nhất, Thi rất thích mỗi khi cô Hạnh cho làm “toán chạy”, một hình thức thi đua để xác định khả năng giải bài đúng và nhanh của học trò trong lớp, Thi đều đều được hạng nhì mỗi khi được thi như vậy, và thỉnh thoảng may mắn trúng tủ, cũng vơ được hạng nhất. Thi ít viết sai chính tả, nên có thể vì thế mà điểm tập làm văn của Thi cũng thường được trên trung bình. Tuy nhiên, Thi luôn bị ngắc ngứ, không thuộc hết bài, không thể đọc trôi chảy trơn tru như các bạn khác mỗi khi bị gọi lên bảng “trả” các bài Sử Ký, Địa Lý, Vệ Sinh Thường Thức, hay Công Dân Giáo Dục, nên hạng điểm tổng kết tất cả các môn học của Thi chỉ ở mức trung bình trong lớp. Sau này, Thi nhận ra có lẽ vì hơi khá toán và ít vướng lỗi chính tả khi làm luận văn nên Thi đã dễ dàng trúng tuyển kỳ thi vào đệ Thất của trường Trung hoc Gia Long, vì đề thi thời đó chỉ gồm một bài luận văn và hai bài toán đố. 
Lần cuối bố dẫn Thi vào trường Phan Đình Phùng chào từ giã thầy hiệu trưởng và các cô giáo, Thi đã rất hãnh diện khi cùng 2 bạn cùng lớp nữ và 5 bạn bên lớp nam, đều trúng tuyển vào các trường Trung Học Công Lập ở Sài Gòn niên khóa 1961-1962, được lên nhận quà từ ban giám hiệu, mỗi người một chồng sách thiếu nhi. Chồng sách của Thi gồm có những quyển truyện vô cùng đáng yêu mà Thi vẫn còn nhớ như Tâm Hồn Cao Thượng [1], Dế Mèn Phiêu Lưu Ký, O Chuột, Chim Chích Lạc Rừng [2], và Truyện Cổ Tích Việt Nam. Những câu truyện sôi động, hào hứng, thú vị trong các tập sách thiếu nhi đặc biệt này đã giúp Thi có được những ngày hết sức êm ả, vui nhộn trong suốt thời gian hè nhàn hạ còn lại của năm cuối bậc Tiểu Học. Nhưng cũng có đôi ba truyện từng làm Thi buồn bực, cáu giận vì sự vô tâm, láu lỉnh, hay ngờ nghệch của các con thú đoảng như mụ Ngan hay em Chích Bông [3]. Thi đã nghiền ngẫm đọc đi, đọc lại nhiều lần tất cả mười mấy quyển sách và đã rất yêu thích, luôn cười, khóc theo những nhân vật trẻ con, chim chóc, ngan gà, chó mèo, giun dế trong các truyện về loài vật vô cùng hài hước và giàu tình cảm của nhà văn Tô Hoài. Tất cả những con vật ngộ nghĩnh hồn nhiên trong truyện, dù thật thà chăm chỉ, đáo để gian tham, hay mưu mô xảo quyệt, đã luôn lảng vảng rất trìu mến, thân thương trong tâm trí Thi bao năm tháng đầu ở bậc Trung Học. 
Vườn Mai Ngậm Sương
Thi không sao quên được những ngày đầu tiên đi học ở trường Gia Long. Trời tháng 9, nắng hanh vương nhẹ trên nhiều đoạn đường rợp bóng cây dẫn về trường; Không gian dịu mát dễ chịu hơn bao ngày oi ả nóng nực của mùa hè thành phố. Buổi trưa ngày tựu trường, Thi được bố chở đi học bằng xe đạp. Ngồi trên porte-baggage đằng sau xe, ngượng nghịu trong chiếc áo dài trắng còn phảng phất hương lụa lanh thơm mát, Thi băn khoăn nghĩ ngợi về trường, lớp mới, và vừa lúng túng ôm cặp, vừa vụng về giữ tà áo không để bị bay cuốn vào bánh xe. Tâm tư Thi hơi bất an, lo ngại không gặp được bạn bè quen ở trường và cũng vu vơ sợ bị xếp vào lớp được dậy bởi thầy, cô khó tính. Như đoán được tâm trạng của Thi, bố huyên thuyên nói chuyện, dặn dò nhiều thứ, nhưng Thi chỉ dạ, vâng qua loa vì đang tự lự với bao âu lo, nghĩ ngợi. Đôi khi Thi cũng hơi bực mình vì hai tà áo như luôn tinh ranh đùa nghịch, nhúng nhắng rong bay ngược xuôi theo gió làm Thi phải để ý nắm giữ, không thoải mái như khi mặc áo ngắn. Thi không ngờ lần đầu tiên mặc áo dài lại hơi phiền hà như vậy, nhưng vẫn cố gắng cẩn thận ngồi thật yên trên xe để không gây khó khăn cho bố.
Bố chở Thi chầm chậm qua mấy đoạn phố quen gần nhà, qua ngã tư Lê Văn Duyêt rồi vào đường Phan Thanh Giản rợp bóng hai hàng cây sao rì rào tiếng gió, trước khi ngừng lại ở ngôi trường mái đỏ, rất lớn, thanh thoát nổi bật trong vẻ đẹp cổ điển giữa bốn con đường nhiều cây cổ thụ xanh mướt. Khu phố tĩnh mịch, vắng xe qua lại. Nhìn từ bên ngoài, vẻ đẹp của trường như còn tiềm ẩn sự tự hào tiêu chuẩn, phong cách văn hóa, và vị thế uy tín của một cơ sở giáo dục công, tiêu biểu của miền Nam. Một trường học truyền thống mang trọng trách giáo dục để nâng cao trình độ văn hóa theo tiêu chí toàn mỹ các phẩm chất: thông tuệ, chính trực, đạo đức; Và chu toàn các phương châm: nhân bản, dân tộc, khai phóng [4] của đất nước. Sự khẳng định trang trọng này Thi đã đọc trên các văn bản của trường nhận được cùng tờ chứng chỉ trúng tuyển kỳ thi vào Đệ Thất. Đặc biệt hơn nữa là ngôi trường danh giá, nổi tiếng này chỉ dành cho nữ sinh; nên sự hiện diện của trường giữa trung tâm thành phố đã biểu hiệu phần nào ý thức bình đẳng giáo dục nam, nữ ở thời buổi mà nhân quyền của phụ nữ trong xã hội Việt Nam chưa được nhà nước thật sự lưu tâm.
Mặt tiền trường nằm sâu sau bờ tường rào thấp, bên trên có thêm hàng chấn song ngắn, thưa, nên nhìn từ ngoài, sân trước luôn thấp thoáng hàng hoa sứ trắng, cành dáng đài trang, dịu dàng thả hương; và xen kẽ là mấy bụi trắc bách diệp được chăm tỉa gọn gàng. Bên ngoài, các lối gạch quanh trường luôn miên man tiếng gió, thoảng bay thanh âm những tiếng cười con gái trong trẻo, hồn nhiên. Bờ rào trường được cố định bằng các trụ gạch trang trí vuông, cách quãng đều nhau, vững chắc. Những thiết kế hình học thẳng, đều, vuông, kiên cố; đặt cùng cây cảnh thanh tao sắc mầu, nhìn như kiểu mẫu một mô hình giàu tiềm năng phát triển, dành cho thiếu niên, nơi mà nguyên tắc giáo dục và căn bản đạo đức luôn được duy trì nghiêm túc. Kiến trúc tổng thể bên ngoài của trường nhìn rất hài hòa, mỹ thuật. Nét đẹp trang trọng cổ điển cũng gợi cho người qua đường đôi phút bâng khuâng hiếu kỳ về các thông điệp ẩn sau những đường nét kỷ hà được khắc họa tinh tế trên vòm cổng, khung cửa sổ, và các bờ tường ở mặt trước của trường.
Chiều hôm ấy và một số buổi chiều nắng đẹp sau này, dường như có những khoảnh khắc trên vách tường trống bên phải mặt tiền của trường đã bất chợt dấy lên một phiến nắng óng vàng trong vắt. Ở đó lung linh khúc xạ hình chiếc vòm cong bên trên cẩn hai cung ngói mầu trang trí từ cửa sổ một lớp học, thoáng nhìn như bóng một chiếc hồ bán nguyệt có bờ thành dát gốm đá xưa. Nhập nhòa hư thực trên phiến nắng, mặt nước sóng sánh của hồ còn dập dờn phản chiếu dải mây trắng lơ lửng giữa bầu trời xanh. Hình ảnh khơi gợi câu chuyện huyền thoại về cái hồ Tiên thoáng ẩn, thoáng hiện này, người nào trong nhóm bạn Thi, sau này, cũng đã được nghe, và đã bao lần những ánh mắt phượng ngây ngô của họ từng kín đáo mải mê tìm kiếm không chỉ cái hồ Tiên mà còn cả khu vườn Thúy trữ tình, được nghe kể trong giờ học thơ Kiều, khi đã lên lớp cao hơn. Nỗi tò mò càng tăng gấp bội vào những buổi trưa sân trường thấp thoáng những vạt nắng lạ, màu sắc trong hơn và hồng hơn, đẹp lạ kỳ. Mẩu chuyển hư ảo lắm nghi vấn này đã từng làm tâm trí bầy con gái lau hau tuổi 11, 12, 13 băn khoăn, mê mẩn bao năm tháng êm đẹp ở trường. Như biểu cảm sự đồng tình với câu chuyện ngộ nghĩnh trẻ con đó, những đốm nắng vàng trên lối gạch dưới chân Thi cũng đang hồn nhiên vui tươi nhảy múa. Chừng như, có làn gió lang thang lạc lối trong buổi tựu trường êm ả ngày hôm ấy, thỉnh thoảng đã la đà chậm lại, dò tìm âm hưởng khúc sáo trạng nguyên, thanh thoát mơ hồ thả từ ngày hội Chữ thuở trường thi còn dập dìu lều chõng.
Trước cổng trường đông vô kể học sính, ai cũng thướt tha tà áo trắng còn óng sắc tơ, thơm hương lụa mới. Nhìn mọi người, Thi bỗng hơi tủi thân, mắt ngân ngấn nước, tự ti quá nhỏ bé vì đang đứng trong nhóm học sinh Đệ Thất, lớp thấp nhất của trường. Hơi lạc lõng, Thi lơ đãng đưa mắt nhìn quanh, hướng nào cũng chấp chới những tà áo tung bay ngợp trắng cả hai, ba đoạn phố lân cận khuôn viên trường, nhưng nhiều và đông nhất là nhóm học trò mới đang háo hức chờ trước hai cánh cửa cao ở cổng chính của trường, vẫn còn đóng. Không gian mênh mang nắng vàng ấm áp. Tiếng chuyện trò vui tai của những người bạn cũ gặp lại nhau cứ râm ran rủ rỉ từ các nhóm học trò Đệ Lục hay Đệ Ngũ. Chẳng tìm thấy ai quen, Thi đành tiếp tục vơ vẩn nhìn quanh, bỗng nó ngỡ ngàng chú ý đến hai tà áo tơ bay quấn quít theo một chị, có mái tóc chấm vai thật đẹp, đang đi từ góc đường Đoàn Thị Điểm rực rỡ nắng về quãng nhiều bóng cây, nơi Thi đứng. Lạ vô cùng vì tà áo chị chơi vơi kỳ ảo như không thật, đang vừa như dải voan trong suốt, óng ả loáng ánh bạc chao lượn giữa nắng vàng, bất chợt lúc đến dưới bóng mát, đã như thành chiếc khăn san trắng, nhu mì dịu dàng buông lơi trong heo may của một mùa thu nào đã vời vợi xa. Cây lá lao xao, lối đường như còn vương nhẹ hương hoàng lan dịu quen từ tà áo lụa hay dải khăn san đang ngập ngừng bối rối trên bờ vai cô nữ sinh Sài Gòn. Đẹp đến nỗi, trong thoáng chốc Thi quên cả việc dấm dẳng với hai tà áo bay lượn phiền hà của nó.
Đang vẩn vơ tìm thêm mây, gió trong các tà áo bên cạnh thì bố xoa đầu Thi, vẫy tay dặn dò lúc về phải đứng chờ bố đón ở góc đường bên chùa. Hồi trống mở cổng trường bắt đầu năm học mới vừa trang trọng vang lên. Thi nao nao ngơ ngẩn nhìn theo dáng bố dắt xe đi, rưng rưng nhớ đoạn thơ có câu thỉnh thoảng bố hay ngâm nga ở nhà,  partir c'est mourir un peu,[5], lòng bâng khuâng ngổn ngang tâm trạng của ngày đầu tiên bước vào ngôi trường trung học quá lớn.
Nhóm học trò Đệ Thất được cô giám thị hướng dẫn đến xếp hàng ở khu dành riêng cho từng lớp trong nhóm. Niên khóa 1961-1962 có 14 lớp Đệ Thất, các lớp Thất 1 đến Thất 7 thuộc ban Anh Văn; Thất 8 đến Thất 14 thuộc ban Pháp văn. Thi vào hàng với các bạn cùng đệ Thất 6 năm ấy. Mọi người đều có chút e dè, ngỡ ngàng khi được cô giáo hướng dẫn chỉ định một ai đó vào xếp hàng cùng, nhưng đều thân thiện chúm chím cười làm quen ngay với người bạn mới. Thi được xếp hàng với Thủy, cả hai ngập ngừng cười chào nhau và tự giới thiệu tên. Như định mệnh, từ hôm đầu tiên ấy cho đến hết bốn năm trung học đệ nhất cấp, Thi đã luôn ngồi cạnh Thủy và từ tuần lễ thứ nhì năm Đệ Thất, cả hai và các bạn Thìn, Vinh ngồi bàn bên trái, ngày nào cũng đi học với nhau vì tất cả đều ở quanh quẩn xóm trên hay xóm dưới trong khu Bàn Cờ, và nhà này cách nhà kia chỉ vài blocks đường. Trong xóm còn có vài chị lớn hơn học cùng trường, bọn Thi thường đi theo họ, cả đoàn sáu, bẩy cô bé tung tăng như đàn bướm trắng, ríu rít chuyện trò cười nói. Bao đốm nắng vàng đã theo hóng chuyện đàn bướm khắp các hè phố quen dẫn về cổng trường những năm tháng vô tư êm đềm ấy.
Từ buổi học đầu tiên, các cô học trò Đệ Thất đã được nghe hướng dẫn về ý nghĩa hoa mai vàng, biểu tượng của trường. Tất cả đều được phát huy hiệu màu xanh trên có đóa mai vàng rất xinh, đặc biệt dành cài lên áo dài mầu xanh vào các ngày lễ phải tham dự diễn hành; thêm hai phù hiệu bằng vải nền trắng có thêu đóa mai xinh xắn cạnh tên trường bằng chỉ mầu đỏ và được dạy cặn kẽ cách đơm phù hiệu lên gò áo dài trắng, đồng phục mặc hàng ngày. Cô Huỳnh Thị Nữ, giáo sư hướng dẫn lớp Thi và cũng phụ trách môn Việt Văn, đã dạy hoa mai vàng là hình tượng cao quý ẩn dụ cho khả năng tiếp nhận chân lý của con người. Hoa mai còn tượng trưng cho đức trung thực, tính can đảm, lòng kiên trì, và sự phú quý nên học trò của trường sẽ được đào tạo thành những người có tâm, tài, đức, hữu ích cho đất nước, dân tộc.

Năm Đệ Lục, cô Thân Thị Tố Tâm, giáo sư Việt Văn người Huế, còn thỉnh thoảng trìu mến gọi học trò của cô là những nụ mai nhỏ trong vườn Hạnh, vườn Xuân. Và Cô đã giải thích vườn Hạnh là nơi chỉ có hạnh phúc, bình yên, thương yêu dành để ươm dạy, chăm chút những búp mai xinh đẹp. Hoặc diễn tả như cô Hiếu Hạnh, giáo sư hội họa khi nghe bọn Thi thú vị kể lại lời cô Tố Tâm, thì vườn Hạnh được cô họa sĩ phác họa là nơi rất bình yên, muôn thuở thì thào gió nhẹ, nắng hồng, lá rơi, mai chúm chím, tươi mát trong cõi vàng lừng vang tiếng chim hót. Những câu nói ân cần ngọt ngào mang ý hướng xác định và đề cao năng lực học trò của các thầy cô giáo đã là các khích lệ lớn lao, tích cực giúp các cô gái nhỏ nảy nở sự tự tin, cố gắng hành xử theo khuôn phép, quan tâm trau dồi đức hạnh, và phát triển tinh thần nhân ái để trở thành người hiểu biết, trân trọng lễ nghĩa, chuyên chú học tập, và thương quý thầy bạn.
Những nguyên tắc căn bản về sinh hoạt học đường được nghiêm túc chỉ dạy từ những ngày vừa vào trường và thường xuyên được nhắc nhở bởi các thầy, cô hướng dẫn lớp, vào mỗi đầu năm học mới hay sau khi tổng kết thành quả kỳ thi lục cá nguyệt của cả lớp. Thời ấy, học trò rất thương quý, nể trọng, vâng lời thầy cô, và rất chăm chỉ học hành, luôn tích cực giúp đỡ bạn bè và tham dự những hoạt động từ thiện do trường tổ chức. Thêm vào đó, còn được huấn luyện để có ý thức trách nhiệm, tinh thần đồng đội nên học trò rất đoàn kết, nâng đỡ nhau tận tình mỗi khi được trường tuyển hay chỉ định tham dự các cuộc thi đua liên trường hay toàn quốc, như Văn Chương Phụ Nữ hay Nữ Công Gia Chánh. Học trò của trường thường xuyên đạt được những thành quả danh giá trong nhiều cuộc thi đua nổi tiếng của thành phố Sài Gòn thời bấy giờ.
Nhắc về trường mà không kể đến các gánh me, mâm cóc; các mẹt mía ghim, keo chùm ruột; hay các xe cóc có tủ kính bán đu đủ bò khô, bò bía, đậu đỏ bánh lọt, và bao gánh rong quà vặt quanh trường là một thiếu sót khi diễn tả nếp sinh hoạt của những cô nữ sinh Sài Gòn tuổi 13, 17 lúc đó. Con đường nhỏ sát chùa Xá Lợi ở đối diện trường bên ngã đường Bà Huyện Thanh Quan là nơi tụ tập của các hàng quà vặt đáng yêu này. Các cô học trò  thích từ vợ chồng chú thím xẩm lai bán đậu đỏ, đậu xanh bánh lọt với tiếng đá bào loạt xoạt liên tục vừa vui tai, vừa tung rải bao hạt đá trong veo mát rượi như những hạt cườm thủy tinh lóng lánh lên tà áo của đàn bướm xúm xít ăn hàng; Thêm chú Ba lắc cắc tiếng múa kéo cắt bò khô thoăn thoắt thả vun lên mấy đĩa đu đủ sợi giòn thơm vị ớt, kích thước mỗi đĩa chỉ cỡ lòng bàn tay người lớn; Nào bà Bẩy có thẫu me ngào óng lịm màu mật ong và những chiếc bánh phồng giòn rụm; Có chị Hai bán những xâu chùm ruột vàng ươm ngâm chua ngọt thơm lựng vị cam thảo, nhìn rất quyến rũ trong cái keo thủy tinh kềnh càng trong suốt mà có lẽ cả nhóm con gái ngồi quanh xúm lại cũng không thể xê dịch nổi. Nhưng trội nổi hơn cả là mâm cóc phủ phê đầy vun của thím Mười; Tất cả các quả cóc thơm, ửng hườm trên mâm đã được cẩn thận tỉa thành những búp hoa có cánh múp míp, và quanh mâm còn­ có những mảnh lá chuối rất nhỏ đã xếp sẵn thành hình phễu xinh xinh để đựng mắm ruốc hay muối ớt phụ kèm từng đóa cóc xanh giòn. Mâm luôn ăm ắp những búp hoa cóc mẩy căng năm, sáu cánh xanh mướt… Nhưng chỉ gần cuối năm, giữa mùa cóc, mới được thưởng thức những đóa cóc tươi giòn mê ly như thế thôi, lúc trái mùa thì thi thoảng lắm mới thấy thím Mười đến với hai keo cóc ngâm chua ngọt, nhưng toàn trái nhỏ, không thoảng hương the chua rất riêng, rất đặc biệt trong không gian dịu mát, hơi se lạnh của những ngày cuối năm.
Thi không hiểu tại sao chỉ những năm học buổi chiều, thời còn thuộc ba cấp lớp nhỏ nhất của bậc Trung học: Thất, Lục, Ngũ, thì những món quà vặt mới có vị ngon đặc biệt như thế. Khi lớn hơn, học buổi sáng, tự nhiên cả bọn ít dám thường xuyên ngồi lê ăn quà quanh trường nữa, chỉ thỉnh thoảng góp tiền, bốc thăm chỉ định một, hai bạn trong nhóm mua đem vào sân trường, rồi cùng chia nhau nhâm nhi trên mấy băng ghế đá hay nơi gốc phượng ở sân thể thao góc sau trường. Nhiều lần trong những lúc đó, cả bọn đều ngơ ngẩn nhớ những buổi chiều nắng mật vàng ong, vừa ngậm me hay nhai cóc, vừa quan sát mầu sắc của mấy loại mận trong thúng này hay các nhánh chùm ruột tươi vàng ở mẹt kia, và bên tai luôn vang vang nhiều tiếng nói, đằm thắm nhỏ nhẹ của người bán, kẻ mua, rất quen. Bao giờ những âm thanh rộn rã trong trẻo đó cũng hòa trộn nhiều tiếng cười vui nhộn và lấp lánh những giọt nắng hồng của ký ức ăm ắp hạnh phúc. Trải nghiệm yên bình, dễ chịu như khoảnh khắc được nhìn muôn vàn mảnh kim tuyến lung linh theo nhau rơi phủ khắp không gian, lay tỉnh toàn cảnh vật đã êm ái ngủ yên trong quả cầu trang trí bằng pha lê. Những ngày thơ dại đẹp như trong truyện cổ tích; Và ở đó, bạn bè, thầy cô, trường lớp, hàng hoa sứ, lối gạch quanh trường, vòm phượng rực rỡ vào hè … dù không còn là một thực thể để được trở về trải nghiệm thêm nữa, nhưng vẫn âm thầm quyến luyến, nhẹ nhàng ru êm, bâng quơ ẩn hiện; lúc rộn rã vang động, khi nhẹ nhàng bông bênh, trong bầu sáng ấm áp bao dung, che chở, rất yên bình.
Năm lên đệ Tứ, để chuẩn bị thi bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, Thi theo Thủy, Thìn, Vinh và vài bạn nữa ghi danh học luyện thi về Toán, Lý, Hóa. Từ đó, buổi sáng học ở Gia Long, và ba buổi chiều trong tuần, phải đi học thêm, mỗi buổi khoảng 2 giờ, ở trường Nguyễn Huệ, một trường tư ở trên đường Công Lý. Trường luyện thi này được dạy bởi giáo sư Bùi Hữu Đột và con trai của thầy là giáo sư Bùi Hữu Chỉnh. Nhiều học sinh trung học ở Sài Gòn thời đó đều biết thầy Bùi Hữu Đột là giáo sư dậy toán rất nổi tiếng. Trường Nguyễn Huệ ở khá gần phố Lê Lợi thuộc khu trung tâm Sài Gòn, gần chợ Bến Thành. Cả bọn Thi đều rất thích các buổi học thêm này, vì không khí lớp học không bị nhiều áp lực, không phải cố gắng để đạt điểm trung bình hoặc khá hơn trong các bài tập, không phải thi lục cá nguyệt. Và có lẽ vì tinh thần được thoải mái, nên bài vở ở lớp học thêm của bọn Thi lại luôn có kết quả khá hơn so với điểm số ở lớp học chính, nơi luôn phải cố gắng để giữ được thứ hạng cao trong lớp. Những buổi học này còn tạo cơ hội được rong chơi vui nhộn cùng bạn bè, rất thú vị. Lớp học thêm tan vào 4 giờ chiều, nắng vẫn lưa thưa vàng dưới hai hàng cây nhiều bóng mát. Cả nhóm nhẩn nha rủ nhau đi bộ từ trường Nguyễn Huệ về trung tâm phố và hay ngừng lại khá lâu ở ngã tư rẽ vào đường Lê Lợi, nơi có nhiều sạp bình dân nhỏ bán báo và những kiosque đẹp bán sách, trưng bày mỹ thuật thu hút hơn.
Các bạn của Thi thích la cà ở khu này để xem bìa những quyển sách bầy trên kệ và những tờ nhạc nhiều mầu sắc. Ngắm nhìn những khuông nhạc với bao nốt dặt dìu bay nhẩy lên xuống, mà tưởng như được nghe âm điệu thánh thót của những bài tình ca đã được nhà văn Nguyễn đình Toàn trau chuốt diễn giải trên chương trình Nhạc Chủ Đề vào những tối Thứ Năm. Đại khái, theo nhà văn, dó là những khúc hát bao gồm sự phối hợp tuyệt diệu của lời (thơ) thể hiện xúc cảm trữ tình và nốt nhạc đan lượn thanh âm trầm bổng.
Những bản nhạc dịu êm, lời ca mượt mà đã tích cực giúp đời sống tinh thần của những cô gái nhỏ được phong phú, thi vị hơn.  Bìa các tờ nhạc luôn có tranh minh họa mỹ thuật vừa lạ mắt, vừa sắc sảo, màu sắc đẹp trang nhã. Bấy giờ, dù rất thích, nhưng chẳng ai có tiền để tiêu pha cho món hàng xa xỉ đáng yêu này, bọn Thi chỉ có vài đồng mẹ cho vừa đủ mua me, mua cóc nên chưa bao giờ có khả năng mua bán bất cứ thứ gì mỗi khi lên phố rong chơi như vậy. Nhưng các dì, các chú chủ gian hàng luôn ân cần chào đón bầy thiếu nữ có những đôi mắt sáng như sao này, có lẽ vì nghe họ láu táu phê bình hay đành hanh so sánh tờ này, tờ kia cũng vui tai; Và rồi thể nào cũng có vài khách tre trẻ, bộ điệu nghiêm trang người lớn hơn họ cùng dừng chân chọn nhạc, báo, sách và lân la bắt chuyện với Thủy vì cô nàng xinh như một nàng thơ nhỏ. Tà áo mảnh mai nối cao chiếc cổ thanh như cuống hoa mềm mại nâng gương mặt búp sen tươi mát của Thủy vừa tinh khôi hé nở dưới vầng nắng hồng. Nhánh sen đẹp thanh thoát, nhẹ nhàng tỏa hương làm những con sóng hồn phiêu bồng ngơ ngẩn không biết đang ngao du vườn sen hay lạc trôi trong bóng rằm ngày hội mùa trăng.
Thi cũng phải sững sờ ngạc nhiên vô cùng, vì tuy luôn rất thân thiết, ngày ngày cùng đi học với Thủy, mà không hề biết, từ bao giờ, Thủy đã thần kỳ hóa thân thành nàng thơ quá yêu kiều, xinh đẹp như vậy nữa. Quả là thiên nga của vườn mai ngậm sương.
Mùa chớm sen hồng
Em chớm nguyệt
Tình chớm quỳnh hương
Em chớm rằm
Con chim nào múa trên cành phượng
Lá chớp hàng mi mắt lá răm
(Trích từ “Phượng Hồng”, thơ Lê Văn Trung)
Thi chỉ mê mẩn các tờ nhạc, nhất là bài hát nào đã từng yêu thích khi nghe qua chương trình ca nhac của đài phát thanh. Thi tẩn mẩn xem những bức tranh lạ và đẹp trên bìa tờ nhạc, cố gắng tìm hiểu ý nghĩa họa sĩ muốn gửi cùng bài hát; Nếu nghĩ không ra, Thi tưởng tượng một mẩu chuyện nào đó để liên kết bức vẽ với nội dung bài hát hay lời một, hai câu trong bài mà Thi thích nhất, rồi vòng vo kể lại câu chuyện hư cấu đầu ngô, mình sở cho Thủy, Thìn, Vinh để thích thú thấy mắt mấy cô bạn tròn xoe thán phục. Nhớ làm sao những góc phố cũ, bao ngã đường hoa thơm nắng Sài Gòn, phố nhộn nhịp tiếng xe, những quầy hoa lung linh màu sắc, tiếng cười đùa như không bao giờ dứt của những ngày tháng thơ dại.
Một xế trưa gần vào hè, trong lần cuối đến lớp học thêm trước khi nghỉ chờ ngày thi Trung Học Đệ Nhất Cấp, cả bọn đã khám phá ra một cây muồng hoàng yến, cổ thụ, hoa vàng rũ từng chùm sáng rực như những lồng đèn treo lơ lửng đong đưa ở các ngày hội. Cây ở trước một biệt thự trên đường Phan Thanh Giản, đoạn gần rẽ vào Công Lý. Thật ra, ở con ngõ gần chùa Xá Lợi cũng có một cây như thế, nhưng vẫn còn nhỏ, chưa bao giờ trổ hoa, nên cả bọn không ai biết hoa hoàng yến khi vào mùa lại quá đỗi rực rỡ mỹ miều như vây. Các bạn và Thi đã thay phiên nhau đứng dưới những chùm hoa hoàng yến, nghiêng bóng nắng đợi gió lay, chờ dây hoa vàng vơ vẩn sa nhẹ lên tóc, rải vương tà áo, để tưởng tượng như đang cùng những nụ hoa vàng ngày Xuân chơi vơi trong khúc nhạc múa nhẹ êm. Từng dây hoa dịu dàng lướt quay theo tà áo óng ngà sắc tơ, chấp chới quyện vòng các dải nắng thủy tinh trong veo. Buổi chiều êm ả nhịp luân vũ tuổi chanh, tuổi hồng vẫn thỉnh thoảng nhẹ nhàng, vơ vẩn trong tâm trí Thi.
Ở những năm đệ nhất cấp, Thi và các bạn không những được dậy dỗ để mở mang, phát triển kiến thức khoa học, văn chương mà còn được các cô giáo chuyên về âm nhac, hội họa, nữ công, gia chánh, hướng dẫn các nguyên lý đọc viết nốt nhạc, giữ tiết nhịp khi ca hát, cách phác họa hình thể, tô vẽ màu sắc, và may vá thêu thùa, nấu nướng. Những hiểu biết thực dụng về nữ công, gia chánh giúp cả bọn tháo vát hơn khi phải đỡ đần công việc nhà cho bố mẹ; Và những khái niệm về nghệ thuật đã góp phần khơi mở làm tươi mát tâm hồn, giúp các cô nữ sinh nhỏ thêm dịu dàng, đằm thắm.
Thú vị hơn tất cả là những giờ Việt Văn, môn học đặc biệt luôn được sự tập trung lắng nghe hết sức say mê của các cô học trò. Trong những buổi học nhẹ nhàng thoải mái đó, cả bọn chỉ phải để ý nhớ một số quy luật căn bản về cú pháp, viết văn, làm thơ, hoặc phương cách nhận định giá trị của một số tác phẩm văn học. Phần lớn thời giờ còn lại, học trò được nghe những lời giảng giải hay phân tích thiết thực, hào hứng, và cặn kẽ về nội dung nhiều trích đoạn nổi bật trong các tác phẩm văn học; Và cũng không ít lần, họ được thưởng thức giọng diễn ngâm chan chứa tình cảm khi các cô giáo ngẫu hứng nhấn nhá những đoạn thơ trữ tình hay nỉ non các khúc ngâm da diết nỗi niềm. Văn chương, thi phú bình luận trong giờ học bao giờ cũng phong phú ý tưởng cao đẹp, cảm xúc chân thật, ngôn ngữ sáng tạo, nhịp điệu dịu êm, và những câu chuyện về các điển tích cổ hay lời khai mở bao ẩn dụ từ vựng thâm thúy. Nội dung của phần lớn những tác phẩm trong chương trình học đều sâu sắc đề cao các giá trị chân, thiện, mỹ của cuộc sống. Và những thông điệp tích cực này đã được các thầy cô tinh tế chuyển tải, hướng dẫn để học trò dễ dàng thấm nhuần mọi tư tưởng đạo đức, nhân văn tiềm ẩn, ngoài các lý thuyết căn bản về ngữ văn.
Ngẫm nghĩ lại, Thi không sao quên được cảm giác bồi hồi, tự hào khi được học về những bài thơ Nôm chọn lọc từ Quỳnh Uyển Cửu Ca Thi Tập của vua Lê Thánh Tông và các thi nhân trong hội Tao Đàn do vua lập ra từ thế kỷ thứ 15. Nhớ vô cùng những lời ca tụng của cô Phạm Quỵ [6], giáo sư dậy Việt Văn năm đệ Ngũ, đã ví von hội tao đàn của vua là một bức phá văn học lịch sử quan trọng của đất nước. Còn hình ảnh nào cao đẹp, yên bình, và diễm lệ hơn cảnh vua quan, quần thần hài hòa thù tạc thanh tao trong các buổi xướng họa thi phú, diễn giải lịch sử, thảo luận về đạo học, về chính sự của đất nước. Những chương trình luận bàn quốc sự hay nhã nhạc tiêu khiển đậm sắc văn hóa nghê thuật đã được thường xuyên tổ chức gần như suốt khoảng thời gian trị vì của đức vua tài ba; Người cũng được xưng tụng là bậc nguyên súy của trào lưu văn học cung đình cao quý.
Trên tất cả, đất nước ta thời đó đã phát triển vượt bực nhờ tài năng và đức độ lớn lao của vị minh quân, Lê Thánh Tông. Chẳng thế mà Sử Việt - 12 Khúc Tráng Ca đã ghi về Ngài như sau “Vua là đại diện của sự ấm no và an lành, của thái bình và thịnh trị. Nhắc đến Ngài là nhắc đến một dòng suối mát phủ lấy trang sử xanh của dân tộc.”. Và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư bầy tỏ sự tôn kính công đức của Ngài qua dòng "Triệu dân vỗ yên, trăm việc chấn chỉnh, văn giáo rộng ban, vũ công đại định". Vua Lê Thánh Tông là một bậc anh tài và là một vị vua suốt đời vì dân..
Ngoài các đề mục chính của môn học, các bạn và Thi còn rất yêu thích mỗi khi được nghe kể thêm những giai thoại kỳ thú về tác giả hay những nhân vật trong tác phẩm, về nếp sống xã hội của thời đã qua, về các tư duy, định kiến hay thành kiến, của con người trong bối cảnh cuộc sống của họ từ các tác phẩm cùng thời hay các nguồn thông tin văn nghệ khác. Những câu chuyện hư thực trong phần phụ bản, hoặc ngoại truyện, đã giúp môn học thêm thú vị, đa sắc, gần gũi với cuộc sống hiện thực của xã hội hơn. Trong các buổi học, không gian lớp học thường rất cởi mở sống động, luôn phảng phất hình bóng của một quá khứ tuy đã lùi xa, nhưng vẫn có tình thân ái kết nối trong dòng chảy xuôi an bình từ thế hệ tiền bối, và lãng đãng tiếng đồng vọng tha thiết tình tự quê hương. Những năm trung học nhỏ dại đó, nhất là những giờ được hoc văn chương thâm thúy, nghiền ngẫm tư tưởng về đạo đức làm người, và tiếp cận với nghệ thuật của ngôn từ có lẽ là trạm dừng an nhiên kỳ thú nhất của chuyến tầu cuộc đời mà sau này các bạn và Thi đều phải qua rất nhiều bến gập ghềnh, gian nan, mệt mỏi.
Hoa Nắng
Mùa hè sau năm Đệ Tứ, tất cả các cô học trò trong nhóm Thi đều đỗ bằng trung học Đệ Nhất Cấp một cách dễ dàng. Điều này cũng không có gì ngạc nhiên vì tỉ lệ học sinh của trường thi đỗ các kỳ thi căn bản ấn định bởi bộ Giáo Dục đều luôn rất cao. Hãnh diện hơn nữa là gần phân nửa số người đỗ đạt đã trúng tuyển có hạng như Ưu, Bình, hay Bình Thứ. Thi nhớ trong năm cuối ở trường, có một bạn đã đỗ hạng Tối Ưu kỳ thi Tú Tài 2. Hình như năm đó toàn quốc chỉ ba học sinh đạt được số điểm để được xếp vào hạng bậc danh giá này. Ngày đó, nhiều bạn của Thi học rất chăm, rất giỏi, nhưng cũng mơ mộng thả thơ, viết văn, gọi mây, vơ nắng, suốt những năm dưới mái trường yêu đấu. Vài nụ thơ học trò mà Thi còn nhớ:
Hoa sao lấm tấm trên bờ tóc
Cỏ biếc nằm nghe tiếng guốc khua
Hồ điệp theo vào trong lớp học
Mơ màng nhìn giọt nắng đong đưa
(Trích từ “Đường Phan Thanh Giản”, Quỳnh Châu, GL 1965)
Xin trả cho tôi nắng Sài Gòn
Thênh thang đường phố lụa Hà Đông
Xin trả cho tôi mưa ngày ấy
Và trả cho tôi cả cuộc tình…
Hoàng Lan Chi (GL 67)
Chiều rơi nhẹ vào mắt
Trời chớm đông lạnh ngắt
Gió lay nhẹ hàng cây
Dáng em mờ trên mây
(Trên tờ bích báo đệ Nhất A1 năm 1968, không có tên tác giả)

Những nụ thơ mềm mại trên có thể đã hình thành từ bao buổi chiều trời xanh mây trắng lãng đãng trên sân trường ngày nào. Thời đó, đã biết bao lần các bạn và Thi tranh nhau đuổi nhặt những bông hoa nắng được gió miên man rải từng vạt vương vãi dưới các bóng cây trong khuôn viên trường. Vui nhất là những bước nhảy chân sáo dưới hàng cây lòa xòa bóng lá dẫn từ vòm cổng chính đến khu có phòng Hiệu Đoàn ríu rít tiếng học trò ăn quà. Những giờ ra chơi mải mê tìm đếm từng cánh hoa pha lê nhấp nháy ẩn, hiện trên các lối đi nhiều bóng nắng, đăc biệt là trên lối đường có hai hàng cây luôn rì rào tiếng lá reo được rất yêu thích bởi các cô học trò. Lối đường đó bao giờ cũng vang tiếng nhiều bước guốc nhỏ qua lại, và đôi khi để ý kỹ, còn như có cả những âm guốc mơ hồ vọng về từ một thời xa vắng nào đó.
Bao giờ vào cuộc chơi, những cánh hoa trên đường cũng lao xao như sợ bị guốc các cô đùa dẫm lên. Vì thế, chúng thường nhanh chóng bay lên tà áo của một ai đó trong nhóm, nhấp nháy vài giây, rồi nhanh nhẹn chuyền qua mái tóc hay bờ vai một bạn khác. Cứ thế, hoa như theo mọi người chạy quanh, áo và tóc người nào cũng lấp lánh vài cánh hoa nắng, kẻ nhiều người ít, ai cũng thích thú vì được tha hồ ngắm những nụ hoa như bướm pha lê hay đom đóm lập lòe trên áo nhau. Cao điểm cuộc chơi là những so đo, lý sự, chí chóe, khen chê các mẫu hoa được cài trên từng tà áo; Nhất là lúc tranh nhau hối hả đếm những cánh hoa, vốn có hiện hữu chẳng bao giờ phân minh, còn luôn tinh quái chập chờn: lúc sáng, lúc mất. Những tiếng đếm 1, 2, 3, … dứt khoát vội vàng. Rồi bỗng bất chợt, ai đó bật ra một, hai tiếng khúc khích nhỏ, rồi vài tiếng cười bắt chước, dần dần nhiều tiếng cười theo nhau ồn ã hơn, và chẳng mấy lúc đã òa vỡ thành từng chuỗi cười liên tục, không dứt được..
Đôi khi đang tập trung kiểm số hoa để quyết định ai nhặt được nhiều, thì nắng bỗng dưng nhạt hẳn, và chỉ trong chớp mắt, áo ai cũng trơn trắng bình thường, hệt nhau, không còn hoa lá nữa. Cả bọn đều ngớ ra ngẩn ngơ vì ngần ấy cánh hoa đang nháy chớp như múa, đã đột ngột tan mất hết. Nhưng chỉ một thoáng sau, nắng bừng lên, đám hoa nghịch ngợm lại bất ngờ xuất hiện, nhưng chấp chờn sáng như các đốm đèn trang trí trên thân cây, không đậu trên bất cứ tà áo ai.
Cũng nhiều lần, trưa đổ vàng như tô, như vẽ trên vòm cây xanh thẳm, trời vắng gió, hoa nắng trên lối đi nằm lặng yên không chớp, tựa như đã được in tạc vào mặt đường nhựa và càng lúc càng nổi rõ nét, óng đẹp hơn dưới vạt nắng say nồng. Thế mà bọn Thi cũng vẫn bị lạc mất vài bông đã đếm, cáu bực đến nỗi phải ngẩng mặt lườm đe hai con nỡm sáo [7] phá đám đã khua lá làm bay hết hoa, còn nhăn nhở huýt gió nhạo đùa khi vút bay trốn về tháp chuông bên chùa. Thật chẳng ngoa khi bọn sáo đoảng này đã luôn bị mắng trong mấy bài học về ca dao thành ngữ:
Con chim sáo sậu
Ăn cơm nhà cậu
Uống nước nhà cô
Đánh vỡ bát ngô
Bà cô phải đền
Những ngày gần đến hè năm đó mọi người trong lớp Thi đều bận rộn lo lắng, không còn nhởn nhơ chào đón phượng nở, ve vang như các mùa hè trước. Ai cũng nghiêm túc chăm chỉ học bài chuẩn bị cho kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp. Bộn bề, nhưng lòng họ cũng ngổn ngang  nhiều ưu tư khi biết hai chị bạn lớn tuổi ngồi bàn cuối lớp, sẽ thôi học luôn để lấy chồng. Nhưng hoang mang chạnh lòng nhất là chuyện ba cô bạn hiền lành, không bao giờ nghich ngợm hay to tiếng, cũng rời trường sau khi thi xong, tìm việc làm để phụ giúp gia đình. Những giờ học cuối của năm 1965 trôi qua thật buồn.
Không gian lớp học càng lúc càng căng thẳng bất an hơn, gương mặt mọi người đều lộ vẻ lo lắng bồn chồn khi ngày thi cận kề. Những bạn sắp phải rời xa trường luôn thẫn thờ, buồn bã, đôi khi còn tủi thân thút thít ở một góc nào đó ngoài sân trường. Lưu bút chuyền tay nhau như bươm bướm. Tự nhiên, các cô nhỏ như dạt dào xúc cảm và phong phú thơ văn hơn hẳn những năm học trước. Tuy Thi cũng áy náy, buồn xót thương mấy bạn phải thôi học, nhưng vô tâm mải chơi, nên không nghĩ ngợi nhiều, có lẽ vì quanh Thi vẫn luôn còn đông đủ Thủy, Thìn, và Vinh. Sau này, khi đã lên lớp trên và phải học cùng vài người bạn mới quen từ các trường khác chuyển đến, Thi đã rất nhớ ba cô bạn kém may mắn trong lớp học xưa, cũng đã không ít lần ân hận tự trách quá thờ ơ vô tình, không quan tâm nhiều đến hoàn cảnh các bạn.
Hôm liên hoan bãi trường, mọi người đều mải miết viết lưu bút. Thi cũng bắt chước các bạn nắn nót 4 câu thơ con cóc, ngụ ý tả hoa nắng, gửi vào lưu bút tặng Thủy. Thơ dở quá nên Thủy suy nghĩ mãi mà vẫn ngơ ngác, bối rối không hiểu Thi định ba hoa chuyện gì khi viết mấy câu như bài vè bán thuốc rong đó. Ngu ngơ hiền lành như chim chích lạc rừng, [8] thì làm sao Thủy biết được:
Người về hoa nắng trên tay
Cầm câu thơ thấy nắng đầy trong thơ
(Trích từ “Hoa Nắng” – thơ Lê Văn Trung)
Qua mùa thi, các bạn và Thi đều vui mừng háo hức chờ ngày khai giảng năm học mới. Đôi lúc cả bọn cũng ngậm ngùi nhắc đến các bạn bị hoàn cảnh đẩy đưa, bắt buộc phải lớn lên, bước vào đời quá sớm. Chạnh lòng làm sao mỗi khi nghĩ đến lúc trở lại trường, sân vẫn ngập hoa nắng, nhiều tiếng cười; Nhưng không bao giờ còn được gặp những gương mặt thân quen, hiền hòa đã cùng là bạn học từ những ngày đầu tiên vào trường. Có những ngày cả bọn Thi nhớ 3 cô bạn nhỏ vô cùng.
Em không đến trường mùa thu năm ấy nữa
Em cũng không đến trường cả mùa thu năm sau
Chiếc lá rụng xuống hoàng hôn xẹt lửa
Nghe mùa thu tiếc nuối chảy qua cầu.
(Trích từ “Xa Lắc Mùa Thu”, thơ Trương Nam Hương)
Thú đam mê tìm nhặt hoa nắng trong sân trường có lẽ đã làm nảy sinh ý hướng cố gắng tìm kiếm những điểm sáng trên các lối đi, ngã rẽ của đường đời sau này. Trò chơi thơ dại ngày ấy cũng giúp các bạn và Thi mơ hồ cảm nhận những gì được định giá là hào quang rực rỡ của cuộc sống, cũng chỉ hiện hữu rất mong manh vô thường, dễ có dễ mất; nhưng có thể giúp làm một phân đoạn cuộc sống thêm sinh động, nhiều sắc màu.
Chú thích:
[1] Tâm Hồn Cao Thượng, được chuyển ngữ từ bản dịch qua tiếng Pháp: Les Grands Coeurs by Edmond De Amicis, bởi nhà văn  Hà Mai Anh).
Tâm hồn cao thượng (tiếng Ý: Cuore) là một cuốn tiểu thuyết về trẻ em của nhà văn người Ý Edmondo De Amicis. Truyện dùng bối cảnh lúc nước Ý được thống nhất, nội dung đề cao tinh thần yêu nước. Tiểu thuyết được xuất bản đầu tiên vào ngày 18 tháng 10, năm 1886, ngày khai trường ở Ý, và ngay lập tức trở thành một hiện tượng sách được nhiều người ái mộ, liên tuc tái xuất bản rất nhiều lần.
[2] Dế Mèn Phiêu Lưu Ký, Tô Hoài (1955); O chuột, Tô Hoài (1937); Chim Chích Lạc Rừng, Tô Hoài (1949) là những truyện ngắn về loài vật đã được phát hành trong các thập niên 1950, 1960 ở Sài Gòn như những tập truyện nhỏ. Mỗi truyện được in thành một tập chỉ độ 5-10, trang. Nhiều năm sau, một số truyện về loài vât, trẻ em được tập hợp thành các tuyển tập truyện ngắn như tập truyên “Chim Chích Lạc Rừng” hay tập truyện “O Chuột”.
[3] Mụ Ngan là một truyện ngắn của Tô Hoài, sau này được in trong tâp truyện ngắn Chim Chích Lạc Rừng. Chích Bông là một trong hai nhân vật chính trong truyện ngắn Chim Chích Lạc Rừng của Tô Hoài (1949)
[4] Phương châm, chỉ tiêu của nền Giáo Dục Miền Nam  nhân bản, dân tộc, khai phóng được viết trong bài “Nhìn lại nền Giáo dục VNCH: Sự tiếc nuối vô bờ bến”, Huỳnh Minh Tú. Nguồn: https://sites.google.com/site/namkyluctinhorg/tac-gia-tac-pham/e-f-g-h/huynh-minh-tu/nhin-lai-nen-giao-duc-vnch-su-tiec-nuoi-vo-bo-ben
[5] Partir c’est mourir un peu là câu đầu của bài thơ Rondel de l’adieu (Vĩnh Biệt Ca ) của Edmond Haraucourt, dựa theo tài liệu trên:
https://www.thivien.net/.
[6] Giáo sư Phạm Quỵ, khuê danh Trần Thị Thương Thương, day Việt Văn Trung Học Đệ Nhất Cấp ở trường Gia Long thập niên 1960, 1970. Bà được nhiều học sinh biết đến như một nàng thơ nhó trong mộng của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Huyền thoại này cũng được kể trong bài “Thương Thương, Nàng Là Ai?”, được đăng tại: https://phanxipang.wordpress.com/
[7] Đôi sáo chùa Xá Lợi. Khoảng năm 1963-1964 có vài con sáo hay đến đậu, hót trên mấy cây cổ thụ trong sân trường Gia Long. Học trò đồn có một gia đình sáo làm tổ trên cây bên chùa Xá Lơi, chiều chiều chúng thường bay sang sân trường chơi.
[8] “Ngớ ngẩn như chim chích lạc rừng” là câu thành ngữ trêu chọc, bỡn cợt những người khờ dại, dễ tin.
Hoa Nắng
Câu chuyện sắp được kể trong những trang dưới đây gồm một số ký ức nhiều yêu thương của những ngày tháng ấm êm, ngọt ngào  ở Sài Gòn của Nụ, đứa bé di cư từ Hà Nội vào Sài Gòn từ khi còn rất nhỏ. Vào Nam, Nụ đã được ở Sài Gòn suốt những năm niên thiếu nhỏ dại, trước khi lênh đênh xa xứ gần cả cuộc đời còn lại. Những năm ngắn ngủi được ở quê nhà là quãng thời gian có nhiều cánh thơ bay, hoa nắng thơm hương, và giấc mơ nguyên xuân mượt mà nhất của Nụ.  Chuyện về Nụ được bắt đầu kể từ bài Hạt Mưa Ký Ức.
Trường Tiểu Học Phan Đình Phùng
Độ một tuần sau khi định cư ở Sài Gòn vào tháng 10 năm 1954, anh Cường bắt đầu vào lớp Năm ở trường tiểu học công thuộc khu Bàn Cờ. Mấy năm sau, lúc Nụ được nhận vào học thì trường chính thức được đặt tên là Phan Đình Phùng.
Thời đó, trường là căn nhà gạch một tầng, khá lớn, sân rộng, mái ngói nâu. Cổng trường có hai trụ đá xây cao, bên trên treo bảng tên trường. Qua cổng là một lối đi tráng nhưa, rộng rãi dẫn vào khuôn viên trường thoáng mát bóng cây. Đầu cổng vào là phòng ông hiệu trưởng, rồi đến phòng họp của giáo viên. Các lớp học nằm bao quanh một sân cỏ lớn. Giữa sân có cột cờ đặt trang trọng trên một bệ ciment nhỏ, nơi học trò các lớp phải tụ tập xếp hàng chào cờ hàng ngày. Gần cột cờ là cây hoa phượng xum xuê cành lá, vòm tỏa xanh mát, che rợp cả một khoảng sân rộng. Chung quanh gốc phượng là tụ điểm chơi đùa được ưa thích nhất của học trò vào mỗi giờ ra chơi. Lần nào nhìn cây phượng, Nụ cũng nhớ cây sung ở sân nhà ngày xưa, dù quả phượng dài dẹp, mầu nâu đen nhìn giống trái bồ kết của u già, không tròn đẹp, xinh xắn, nhiều mầu sắc như những quả sung. Nhưng hoa phượng khi vào hè lại nở từng chùm, đỏ thắm, vô cùng rực rỡ.
Từ khi anh Cường đi học, ngày ngày bố mẹ dù bận rộn thế nào cũng vẫn để ý xem xét tập vở của anh, kiểm tra nhắc nhở anh học bài mỗi buổi tối, và cũng luôn nhiệt tâm theo dõi sinh hoạt ở trường, hỏi han các thông tin về thầy giáo và bạn bè cùng lớp của anh. Những ngày ấy, Nụ thơ thẩn chơi một mình trên sân thượng ở mặt sau nhà, thuộc phần cuối của tầng hai nhìn xuống ngã ba có xưởng đúc, nơi thỉnh thoảng trong ngày có tiếng động cơ khá ồn ào của máy móc. Hàng ngày, bà ngoại dẫn anh Cường đi học, và bất cứ khi nào bà chuẩn bị rời nhà mà thấy Nụ đã đội sẵn mũ ngồi chờ, bà cũng luôn dẫn cả Nụ theo. Vì thế, dường như ngày nào Nụ cũng được theo bà và anh Cường đến trường. Chiều chiều, bà thường dẫn Nụ lên chùa Linh Chưởng thắp hương, lậy Phật. Bà luôn cung kính cắm hoa, sắp lễ cúng lên bàn thờ chánh điện, giúp chăm bón vườn cây, và khi rảnh rỗi, cũng chuyện vãn với các ni sư, bà vải. Bố Nụ làm công chức, ngày hai buổi đi về, mức lương ổn định có phụ cấp và trợ giúp y tế hào phóng mỗi khi người trong gia đình phải nhập viện chữa trị. Mẹ sinh thêm các em nhỏ. Cuộc sống bình lặng trôi. Nụ lớn dần.
Mấy năm sau Nụ bắt đầu đi học. Vào khoảng thời gian này mọi người trong nhà đều cố tình không gọi tên Nụ nữa. Nụ đã thành Thi hay chị Thi theo như người lớn và các em trong nhà gọi. Và khi Thi lên lớp tư thì cả nhà như đã quên hẳn cái tên Nụ, chỉ trừ bà ngoại, những khi lẩn thẩn xa vắng chìm trong thế-giới-ngày-xưa rất riêng của bà, vẫn luôn gọi Nụ cho đến ngày bà cháu phải xa nhau vĩnh viễn. Không được nghe ai kêu là Nụ nữa cũng làm Thi man mác buồn, nuối tiếc như bị mất một thứ gì rất quý, đã từng thân thiết gắn kết không rời. 
Những năm ở trường tiểu học Phan Đình Phùng của Thi khá mờ nhạt. Đúng ra thì hơn một nửa quãng thời gian này, Thi cũng phải sống xa xứ, nên ký ức về thời tiểu học ở Sài Gòn rất ít ỏi, không có gì đặc biệt, rồi loãng phai dần, chỉ còn phảng phất mơ hồ trong tâm trí. Có lẽ những ngày đó phẳng lặng bình yên quá nên Thi chỉ loáng thoáng nhớ sân trường có cây hoa phượng to lòa xòa bóng lá, nơi Thi hay nhẩy lò cò với hai bạn cùng bàn ở lớp là Thoa và Vân. Và Thi đã được học với hai cô giáo người Sài Gòn, cô Tâm dậy lớp tư và cô Hạnh dậy lớp nhất. Cả hai cô luôn nhỏ nhẹ dịu dàng gọi học trò là con, nghe thân thương, dịu ngọt vô cùng. Cô Hạnh, nghiêm và khó hơn, có cái roi mây, bề bảng bằng đầu chiếc đũa to dùng xào nấu đồ ăn và bề dài cỡ bằng cây chổi lông gà. Trò nào không thuộc bài hay làm toán sai đều bị cô khẻ hai cái vào bàn tay trái.
Thời gian đó, Thi chưa bao giờ được nhận bảng danh dự, nhưng vẫn nhớ năm lớp nhất, Thi rất thích mỗi khi cô Hạnh cho làm “toán chạy”, một hình thức thi đua để xác định khả năng giải bài đúng và nhanh của học trò trong lớp, Thi đều đều được hạng nhì mỗi khi được thi như vậy, và thỉnh thoảng may mắn trúng tủ, cũng vơ được hạng nhất. Thi ít viết sai chính tả, nên có thể vì thế mà điểm tập làm văn của Thi cũng thường được trên trung bình. Tuy nhiên, Thi luôn bị ngắc ngứ, không thuộc hết bài, không thể đọc trôi chảy trơn tru như các bạn khác mỗi khi bị gọi lên bảng “trả” các bài Sử Ký, Địa Lý, Vệ Sinh Thường Thức, hay Công Dân Giáo Dục, nên hạng điểm tổng kết tất cả các môn học của Thi chỉ ở mức trung bình trong lớp. Sau này, Thi nhận ra có lẽ vì hơi khá toán và ít vướng lỗi chính tả khi làm luận văn nên Thi đã dễ dàng trúng tuyển kỳ thi vào đệ Thất của trường Trung hoc Gia Long, vì đề thi thời đó chỉ gồm một bài luận văn và hai bài toán đố. 
Lần cuối bố dẫn Thi vào trường Phan Đình Phùng chào từ giã thầy hiệu trưởng và các cô giáo, Thi đã rất hãnh diện khi cùng 2 bạn cùng lớp nữ và 5 bạn bên lớp nam, đều trúng tuyển vào các trường Trung Học Công Lập ở Sài Gòn niên khóa 1961-1962, được lên nhận quà từ ban giám hiệu, mỗi người một chồng sách thiếu nhi. Chồng sách của Thi gồm có những quyển truyện vô cùng đáng yêu mà Thi vẫn còn nhớ như Tâm Hồn Cao Thượng [1], Dế Mèn Phiêu Lưu Ký, O Chuột, Chim Chích Lạc Rừng [2], và Truyện Cổ Tích Việt Nam. Những câu truyện sôi động, hào hứng, thú vị trong các tập sách thiếu nhi đặc biệt này đã giúp Thi có được những ngày hết sức êm ả, vui nhộn trong suốt thời gian hè nhàn hạ còn lại của năm cuối bậc Tiểu Học. Nhưng cũng có đôi ba truyện từng làm Thi buồn bực, cáu giận vì sự vô tâm, láu lỉnh, hay ngờ nghệch của các con thú đoảng như mụ Ngan hay em Chích Bông [3]. Thi đã nghiền ngẫm đọc đi, đọc lại nhiều lần tất cả mười mấy quyển sách và đã rất yêu thích, luôn cười, khóc theo những nhân vật trẻ con, chim chóc, ngan gà, chó mèo, giun dế trong các truyện về loài vật vô cùng hài hước và giàu tình cảm của nhà văn Tô Hoài. Tất cả những con vật ngộ nghĩnh hồn nhiên trong truyện, dù thật thà chăm chỉ, đáo để gian tham, hay mưu mô xảo quyệt, đã luôn lảng vảng rất trìu mến, thân thương trong tâm trí Thi bao năm tháng đầu ở bậc Trung Học. .
Vườn Mai Ngậm Sương
Thi không sao quên được những ngày đầu tiên đi học ở trường Gia Long. Trời tháng 9, nắng hanh vương nhẹ trên nhiều đoạn đường rợp bóng cây dẫn về trường; Không gian dịu mát dễ chịu hơn bao ngày oi ả nóng nực của mùa hè thành phố. Buổi trưa ngày tựu trường, Thi được bố chở đi học bằng xe đạp. Ngồi trên porte-baggage đằng sau xe, ngượng nghịu trong chiếc áo dài trắng còn phảng phất hương lụa lanh thơm mát, Thi băn khoăn nghĩ ngợi về trường, lớp mới, và vừa lúng túng ôm cặp, vừa vụng về giữ tà áo không để bị bay cuốn vào bánh xe. Tâm tư Thi hơi bất an, lo ngại không gặp được bạn bè quen ở trường và cũng vu vơ sợ bị xếp vào lớp được dậy bởi thầy, cô khó tính. Như đoán được tâm trạng của Thi, bố huyên thuyên nói chuyện, dặn dò nhiều thứ, nhưng Thi chỉ dạ, vâng qua loa vì đang tự lự với bao âu lo, nghĩ ngợi. Đôi khi Thi cũng hơi bực mình vì hai tà áo như luôn tinh ranh đùa nghịch, nhúng nhắng rong bay ngược xuôi theo gió làm Thi phải để ý nắm giữ, không thoải mái như khi mặc áo ngắn. Thi không ngờ lần đầu tiên mặc áo dài lại hơi phiền hà như vậy, nhưng vẫn cố gắng cẩn thận ngồi thật yên trên xe để không gây khó khăn cho bố.
Bố chở Thi chầm chậm qua mấy đoạn phố quen gần nhà, qua ngã tư Lê Văn Duyêt rồi vào đường Phan Thanh Giản rợp bóng hai hàng cây sao rì rào tiếng gió, trước khi ngừng lại ở ngôi trường mái đỏ, rất lớn, thanh thoát nổi bật trong vẻ đẹp cổ điển giữa bốn con đường nhiều cây cổ thụ xanh mướt. Khu phố tĩnh mịch, vắng xe qua lại. Nhìn từ bên ngoài, vẻ đẹp của trường như còn tiềm ẩn sự tự hào tiêu chuẩn, phong cách văn hóa, và vị thế uy tín của một cơ sở giáo dục công, tiêu biểu của miền Nam. Một trường học truyền thống mang trọng trách giáo dục để nâng cao trình độ văn hóa theo tiêu chí toàn mỹ các phẩm chất: thông tuệ, chính trực, đạo đức; Và chu toàn các phương châm: nhân bản, dân tộc, khai phóng [4] của đất nước. Sự khẳng định trang trọng này Thi đã đọc trên các văn bản của trường nhận được cùng tờ chứng chỉ trúng tuyển kỳ thi vào Đệ Thất. Đặc biệt hơn nữa là ngôi trường danh giá, nổi tiếng này chỉ dành cho nữ sinh; nên sự hiện diện của trường giữa trung tâm thành phố đã biểu hiệu phần nào ý thức bình đẳng giáo dục nam, nữ ở thời buổi mà nhân quyền của phụ nữ trong xã hội Việt Nam chưa được nhà nước thật sự lưu tâm.
Mặt tiền trường nằm sâu sau bờ tường rào thấp, bên trên có thêm hàng chấn song ngắn, thưa, nên nhìn từ ngoài, sân trước luôn thấp thoáng hàng hoa sứ trắng, cành dáng đài trang, dịu dàng thả hương; và xen kẽ là mấy bụi trắc bách diệp được chăm tỉa gọn gàng. Bên ngoài, các lối gạch quanh trường luôn miên man tiếng gió, thoảng bay thanh âm những tiếng cười con gái trong trẻo, hồn nhiên. Bờ rào trường được cố định bằng các trụ gạch trang trí vuông, cách quãng đều nhau, vững chắc. Những thiết kế hình học thẳng, đều, vuông, kiên cố; đặt cùng cây cảnh thanh tao sắc mầu, nhìn như kiểu mẫu một mô hình giàu tiềm năng phát triển, dành cho thiếu niên, nơi mà nguyên tắc giáo dục và căn bản đạo đức luôn được duy trì nghiêm túc. Kiến trúc tổng thể bên ngoài của trường nhìn rất hài hòa, mỹ thuật. Nét đẹp trang trọng cổ điển cũng gợi cho người qua đường đôi phút bâng khuâng hiếu kỳ về các thông điệp ẩn sau những đường nét kỷ hà được khắc họa tinh tế trên vòm cổng, khung cửa sổ, và các bờ tường ở mặt trước của trường.
Chiều hôm ấy và một số buổi chiều nắng đẹp sau này, dường như có những khoảnh khắc trên vách tường trống bên phải mặt tiền của trường đã bất chợt dấy lên một phiến nắng óng vàng trong vắt. Ở đó lung linh khúc xạ hình chiếc vòm cong bên trên cẩn hai cung ngói mầu trang trí từ cửa sổ một lớp học, thoáng nhìn như bóng một chiếc hồ bán nguyệt có bờ thành dát gốm đá xưa. Nhập nhòa hư thực trên phiến nắng, mặt nước sóng sánh của hồ còn dập dờn phản chiếu dải mây trắng lơ lửng giữa bầu trời xanh. Hình ảnh khơi gợi câu chuyện huyền thoại về cái hồ Tiên thoáng ẩn, thoáng hiện này, người nào trong nhóm bạn Thi, sau này, cũng đã được nghe, và đã bao lần những ánh mắt phượng ngây ngô của họ từng kín đáo mải mê tìm kiếm không chỉ cái hồ Tiên mà còn cả khu vườn Thúy trữ tình, được nghe kể trong giờ học thơ Kiều, khi đã lên lớp cao hơn. Nỗi tò mò càng tăng gấp bội vào những buổi trưa sân trường thấp thoáng những vạt nắng lạ, màu sắc trong hơn và hồng hơn, đẹp lạ kỳ. Mẩu chuyển hư ảo lắm nghi vấn này đã từng làm tâm trí bầy con gái lau hau tuổi 11, 12, 13 băn khoăn, mê mẩn bao năm tháng êm đẹp ở trường. Như biểu cảm sự đồng tình với câu chuyện ngộ nghĩnh trẻ con đó, những đốm nắng vàng trên lối gạch dưới chân Thi cũng đang hồn nhiên vui tươi nhảy múa. Chừng như, có làn gió lang thang lạc lối trong buổi tựu trường êm ả ngày hôm ấy, thỉnh thoảng đã la đà chậm lại, dò tìm âm hưởng khúc sáo trạng nguyên, thanh thoát mơ hồ thả từ ngày hội Chữ thuở trường thi còn dập dìu lều chõng.
Trước cổng trường đông vô kể học sính, ai cũng thướt tha tà áo trắng còn óng sắc tơ, thơm hương lụa mới. Nhìn mọi người, Thi bỗng hơi tủi thân, mắt ngân ngấn nước, tự ti quá nhỏ bé vì đang đứng trong nhóm học sinh Đệ Thất, lớp thấp nhất của trường. Hơi lạc lõng, Thi lơ đãng đưa mắt nhìn quanh, hướng nào cũng chấp chới những tà áo tung bay ngợp trắng cả hai, ba đoạn phố lân cận khuôn viên trường, nhưng nhiều và đông nhất là nhóm học trò mới đang háo hức chờ trước hai cánh cửa cao ở cổng chính của trường, vẫn còn đóng. Không gian mênh mang nắng vàng ấm áp. Tiếng chuyện trò vui tai của những người bạn cũ gặp lại nhau cứ râm ran rủ rỉ từ các nhóm học trò Đệ Lục hay Đệ Ngũ. Chẳng tìm thấy ai quen, Thi đành tiếp tục vơ vẩn nhìn quanh, bỗng nó ngỡ ngàng chú ý đến hai tà áo tơ bay quấn quít theo một chị, có mái tóc chấm vai thật đẹp, đang đi từ góc đường Đoàn Thị Điểm rực rỡ nắng về quãng nhiều bóng cây, nơi Thi đứng. Lạ vô cùng vì tà áo chị chơi vơi kỳ ảo như không thật, đang vừa như dải voan trong suốt, óng ả loáng ánh bạc chao lượn giữa nắng vàng, bất chợt lúc đến dưới bóng mát, đã như thành chiếc khăn san trắng, nhu mì dịu dàng buông lơi trong heo may của một mùa thu nào đã vời vợi xa. Cây lá lao xao, lối đường như còn vương nhẹ hương hoàng lan dịu quen từ tà áo lụa hay dải khăn san đang ngập ngừng bối rối trên bờ vai cô nữ sinh Sài Gòn. Đẹp đến nỗi, trong thoáng chốc Thi quên cả việc dấm dẳng với hai tà áo bay lượn phiền hà của nó.
Đang vẩn vơ tìm thêm mây, gió trong các tà áo bên cạnh thì bố xoa đầu Thi, vẫy tay dặn dò lúc về phải đứng chờ bố đón ở góc đường bên chùa. Hồi trống mở cổng trường bắt đầu năm học mới vừa trang trọng vang lên. Thi nao nao ngơ ngẩn nhìn theo dáng bố dắt xe đi, rưng rưng nhớ đoạn thơ có câu thỉnh thoảng bố hay ngâm nga ở nhà,  partir c'est mourir un peu,[5], lòng bâng khuâng ngổn ngang tâm trạng của ngày đầu tiên bước vào ngôi trường trung học quá lớn.
Nhóm học trò Đệ Thất được cô giám thị hướng dẫn đến xếp hàng ở khu dành riêng cho từng lớp trong nhóm. Niên khóa 1961-1962 có 14 lớp Đệ Thất, các lớp Thất 1 đến Thất 7 thuộc ban Anh Văn; Thất 8 đến Thất 14 thuộc ban Pháp văn. Thi vào hàng với các bạn cùng đệ Thất 6 năm ấy. Mọi người đều có chút e dè, ngỡ ngàng khi được cô giáo hướng dẫn chỉ định một ai đó vào xếp hàng cùng, nhưng đều thân thiện chúm chím cười làm quen ngay với người bạn mới. Thi được xếp hàng với Thủy, cả hai ngập ngừng cười chào nhau và tự giới thiệu tên. Như định mệnh, từ hôm đầu tiên ấy cho đến hết bốn năm trung học đệ nhất cấp, Thi đã luôn ngồi cạnh Thủy và từ tuần lễ thứ nhì năm Đệ Thất, cả hai và các bạn Thìn, Vinh ngồi bàn bên trái, ngày nào cũng đi học với nhau vì tất cả đều ở quanh quẩn xóm trên hay xóm dưới trong khu Bàn Cờ, và nhà này cách nhà kia chỉ vài blocks đường. Trong xóm còn có vài chị lớn hơn học cùng trường, bọn Thi thường đi theo họ, cả đoàn sáu, bẩy cô bé tung tăng như đàn bướm trắng, ríu rít chuyện trò cười nói. Bao đốm nắng vàng đã theo hóng chuyện đàn bướm khắp các hè phố quen dẫn về cổng trường những năm tháng vô tư êm đềm ấy.
Từ buổi học đầu tiên, các cô học trò Đệ Thất đã được nghe hướng dẫn về ý nghĩa hoa mai vàng, biểu tượng của trường. Tất cả đều được phát huy hiệu màu xanh trên có đóa mai vàng rất xinh, đặc biệt dành cài lên áo dài mầu xanh vào các ngày lễ phải tham dự diễn hành; thêm hai phù hiệu bằng vải nền trắng có thêu đóa mai xinh xắn cạnh tên trường bằng chỉ mầu đỏ và được dạy cặn kẽ cách đơm phù hiệu lên gò áo dài trắng, đồng phục mặc hàng ngày. Cô Huỳnh Thị Nữ, giáo sư hướng dẫn lớp Thi và cũng phụ trách môn Việt Văn, đã dạy hoa mai vàng là hình tượng cao quý ẩn dụ cho khả năng tiếp nhận chân lý của con người. Hoa mai còn tượng trưng cho đức trung thực, tính can đảm, lòng kiên trì, và sự phú quý nên học trò của trường sẽ được đào tạo thành những người có tâm, tài, đức, hữu ích cho đất nước, dân tộc.
Năm Đệ Lục, cô Thân Thị Tố Tâm, giáo sư Việt Văn người Huế, còn thỉnh thoảng trìu mến gọi học trò của cô là những nụ mai nhỏ trong vườn Hạnh, vườn Xuân. Và Cô đã giải thích vườn Hạnh là nơi chỉ có hạnh phúc, bình yên, thương yêu dành để ươm dạy, chăm chút những búp mai xinh đẹp. Hoặc diễn tả như cô Hiếu Hạnh, giáo sư hội họa khi nghe bọn Thi thú vị kể lại lời cô Tố Tâm, thì vườn Hạnh được cô họa sĩ phác họa là nơi rất bình yên, muôn thuở thì thào gió nhẹ, nắng hồng, lá rơi, mai chúm chím, tươi mát trong cõi vàng lừng vang tiếng chim hót. Những câu nói ân cần ngọt ngào mang ý hướng xác định và đề cao năng lực học trò của các thầy cô giáo đã là các khích lệ lớn lao, tích cực giúp các cô gái nhỏ nảy nở sự tự tin, cố gắng hành xử theo khuôn phép, quan tâm trau dồi đức hạnh, và phát triển tinh thần nhân ái để trở thành người hiểu biết, trân trọng lễ nghĩa, chuyên chú học tập, và thương quý thầy bạn.
Những nguyên tắc căn bản về sinh hoạt học đường được nghiêm túc chỉ dạy từ những ngày vừa vào trường và thường xuyên được nhắc nhở bởi các thầy, cô hướng dẫn lớp, vào mỗi đầu năm học mới hay sau khi tổng kết thành quả kỳ thi lục cá nguyệt của cả lớp. Thời ấy, học trò rất thương quý, nể trọng, vâng lời thầy cô, và rất chăm chỉ học hành, luôn tích cực giúp đỡ bạn bè và tham dự những hoạt động từ thiện do trường tổ chức. Thêm vào đó, còn được huấn luyện để có ý thức trách nhiệm, tinh thần đồng đội nên học trò rất đoàn kết, nâng đỡ nhau tận tình mỗi khi được trường tuyển hay chỉ định tham dự các cuộc thi đua liên trường hay toàn quốc, như Văn Chương Phụ Nữ hay Nữ Công Gia Chánh. Học trò của trường thường xuyên đạt được những thành quả danh giá trong nhiều cuộc thi đua nổi tiếng của thành phố Sài Gòn thời bấy giờ.

Nhắc về trường mà không kể đến các gánh me, mâm cóc; các mẹt mía ghim, keo chùm ruột; hay các xe cóc có tủ kính bán đu đủ bò khô, bò bía, đậu đỏ bánh lọt, và bao gánh rong quà vặt quanh trường là một thiếu sót khi diễn tả nếp sinh hoạt của những cô nữ sinh Sài Gòn tuổi 13, 17 lúc đó. Con đường nhỏ sát chùa Xá Lợi ở đối diện trường bên ngã đường Bà Huyện Thanh Quan là nơi tụ tập của các hàng quà vặt đáng yêu này. Các cô học trò  thích từ vợ chồng chú thím xẩm lai bán đậu đỏ, đậu xanh bánh lọt với tiếng đá bào loạt xoạt liên tục vừa vui tai, vừa tung rải bao hạt đá trong veo mát rượi như những hạt cườm thủy tinh lóng lánh lên tà áo của đàn bướm xúm xít ăn hàng; Thêm chú Ba lắc cắc tiếng múa kéo cắt bò khô thoăn thoắt thả vun lên mấy đĩa đu đủ sợi giòn thơm vị ớt, kích thước mỗi đĩa chỉ cỡ lòng bàn tay người lớn; Nào bà Bẩy có thẫu me ngào óng lịm màu mật ong và những chiếc bánh phồng giòn rụm; Có chị Hai bán những xâu chùm ruột vàng ươm ngâm chua ngọt thơm lựng vị cam thảo, nhìn rất quyến rũ trong cái keo thủy tinh kềnh càng trong suốt mà có lẽ cả nhóm con gái ngồi quanh xúm lại cũng không thể xê dịch nổi. Nhưng trội nổi hơn cả là mâm cóc phủ phê đầy vun của thím Mười; Tất cả các quả cóc thơm, ửng hườm trên mâm đã được cẩn thận tỉa thành những búp hoa có cánh múp míp, và quanh mâm còn­ có những mảnh lá chuối rất nhỏ đã xếp sẵn thành hình phễu xinh xinh để đựng mắm ruốc hay muối ớt phụ kèm từng đóa cóc xanh giòn. Mâm luôn ăm ắp những búp hoa cóc mẩy căng năm, sáu cánh xanh mướt… Nhưng chỉ gần cuối năm, giữa mùa cóc, mới được thưởng thức những đóa cóc tươi giòn mê ly như thế thôi, lúc trái mùa thì thi thoảng lắm mới thấy thím Mười đến với hai keo cóc ngâm chua ngọt, nhưng toàn trái nhỏ, không thoảng hương the chua rất riêng, rất đặc biệt trong không gian dịu mát, hơi se lạnh của những ngày cuối năm..
Thi không hiểu tại sao chỉ những năm học buổi chiều, thời còn thuộc ba cấp lớp nhỏ nhất của bậc Trung học: Thất, Lục, Ngũ, thì những món quà vặt mới có vị ngon đặc biệt như thế. Khi lớn hơn, học buổi sáng, tự nhiên cả bọn ít dám thường xuyên ngồi lê ăn quà quanh trường nữa, chỉ thỉnh thoảng góp tiền, bốc thăm chỉ định một, hai bạn trong nhóm mua đem vào sân trường, rồi cùng chia nhau nhâm nhi trên mấy băng ghế đá hay nơi gốc phượng ở sân thể thao góc sau trường. Nhiều lần trong những lúc đó, cả bọn đều ngơ ngẩn nhớ những buổi chiều nắng mật vàng ong, vừa ngậm me hay nhai cóc, vừa quan sát mầu sắc của mấy loại mận trong thúng này hay các nhánh chùm ruột tươi vàng ở mẹt kia, và bên tai luôn vang vang nhiều tiếng nói, đằm thắm nhỏ nhẹ của người bán, kẻ mua, rất quen. Bao giờ những âm thanh rộn rã trong trẻo đó cũng hòa trộn nhiều tiếng cười vui nhộn và lấp lánh những giọt nắng hồng của ký ức ăm ắp hạnh phúc. Trải nghiệm yên bình, dễ chịu như khoảnh khắc được nhìn muôn vàn mảnh kim tuyến lung linh theo nhau rơi phủ khắp không gian, lay tỉnh toàn cảnh vật đã êm ái ngủ yên trong quả cầu trang trí bằng pha lê. Những ngày thơ dại đẹp như trong truyện cổ tích; Và ở đó, bạn bè, thầy cô, trường lớp, hàng hoa sứ, lối gạch quanh trường, vòm phượng rực rỡ vào hè … dù không còn là một thực thể để được trở về trải nghiệm thêm nữa, nhưng vẫn âm thầm quyến luyến, nhẹ nhàng ru êm, bâng quơ ẩn hiện; lúc rộn rã vang động, khi nhẹ nhàng bông bênh, trong bầu sáng ấm áp bao dung, che chở, rất yên bình.
Năm lên đệ Tứ, để chuẩn bị thi bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, Thi theo Thủy, Thìn, Vinh và vài bạn nữa ghi danh học luyện thi về Toán, Lý, Hóa. Từ đó, buổi sáng học ở Gia Long, và ba buổi chiều trong tuần, phải đi học thêm, mỗi buổi khoảng 2 giờ, ở trường Nguyễn Huệ, một trường tư ở trên đường Công Lý. Trường luyện thi này được dạy bởi giáo sư Bùi Hữu Đột và con trai của thầy là giáo sư Bùi Hữu Chỉnh. Nhiều học sinh trung học ở Sài Gòn thời đó đều biết thầy Bùi Hữu Đột là giáo sư dậy toán rất nổi tiếng. Trường Nguyễn Huệ ở khá gần phố Lê Lợi thuộc khu trung tâm Sài Gòn, gần chợ Bến Thành. Cả bọn Thi đều rất thích các buổi học thêm này, vì không khí lớp học không bị nhiều áp lực, không phải cố gắng để đạt điểm trung bình hoặc khá hơn trong các bài tập, không phải thi lục cá nguyệt. Và có lẽ vì tinh thần được thoải mái, nên bài vở ở lớp học thêm của bọn Thi lại luôn có kết quả khá hơn so với điểm số ở lớp học chính, nơi luôn phải cố gắng để giữ được thứ hạng cao trong lớp. Những buổi học này còn tạo cơ hội được rong chơi vui nhộn cùng bạn bè, rất thú vị. Lớp học thêm tan vào 4 giờ chiều, nắng vẫn lưa thưa vàng dưới hai hàng cây nhiều bóng mát. Cả nhóm nhẩn nha rủ nhau đi bộ từ trường Nguyễn Huệ về trung tâm phố và hay ngừng lại khá lâu ở ngã tư rẽ vào đường Lê Lợi, nơi có nhiều sạp bình dân nhỏ bán báo và những kiosque đẹp bán sách, trưng bày mỹ thuật thu hút hơn.
Các bạn của Thi thích la cà ở khu này để xem bìa những quyển sách bầy trên kệ và những tờ nhạc nhiều mầu sắc. Ngắm nhìn những khuông nhạc với bao nốt dặt dìu bay nhẩy lên xuống, mà tưởng như được nghe âm điệu thánh thót của những bài tình ca đã được nhà văn Nguyễn đình Toàn trau chuốt diễn giải trên chương trình Nhạc Chủ Đề vào những tối Thứ Năm. Đại khái, theo nhà văn, dó là những khúc hát bao gồm sự phối hợp tuyệt diệu của lời (thơ) thể hiện xúc cảm trữ tình và nốt nhạc đan lượn thanh âm trầm bổng.
Những bản nhạc dịu êm, lời ca mượt mà đã tích cực giúp đời sống tinh thần của những cô gái nhỏ được phong phú, thi vị hơn.  Bìa các tờ nhạc luôn có tranh minh họa mỹ thuật vừa lạ mắt, vừa sắc sảo, màu sắc đẹp trang nhã. Bấy giờ, dù rất thích, nhưng chẳng ai có tiền để tiêu pha cho món hàng xa xỉ đáng yêu này, bọn Thi chỉ có vài đồng mẹ cho vừa đủ mua me, mua cóc nên chưa bao giờ có khả năng mua bán bất cứ thứ gì mỗi khi lên phố rong chơi như vậy. Nhưng các dì, các chú chủ gian hàng luôn ân cần chào đón bầy thiếu nữ có những đôi mắt sáng như sao này, có lẽ vì nghe họ láu táu phê bình hay đành hanh so sánh tờ này, tờ kia cũng vui tai; Và rồi thể nào cũng có vài khách tre trẻ, bộ điệu nghiêm trang người lớn hơn họ cùng dừng chân chọn nhạc, báo, sách và lân la bắt chuyện với Thủy vì cô nàng xinh như một nàng thơ nhỏ. Tà áo mảnh mai nối cao chiếc cổ thanh như cuống hoa mềm mại nâng gương mặt búp sen tươi mát của Thủy vừa tinh khôi hé nở dưới vầng nắng hồng. Nhánh sen đẹp thanh thoát, nhẹ nhàng tỏa hương làm những con sóng hồn phiêu bồng ngơ ngẩn không biết đang ngao du vườn sen hay lạc trôi trong bóng rằm ngày hội mùa trăng.
Thi cũng phải sững sờ ngạc nhiên vô cùng, vì tuy luôn rất thân thiết, ngày ngày cùng đi học với Thủy, mà không hề biết, từ bao giờ, Thủy đã thần kỳ hóa thân thành nàng thơ quá yêu kiều, xinh đẹp như vậy nữa. Quả là thiên nga của vườn mai ngậm sương.
Mùa chớm sen hồng
Em chớm nguyệt
Tình chớm quỳnh hương
Em chớm rằm
Con chim nào múa trên cành phượng
Lá chớp hàng mi mắt lá răm
(Trích từ “Phượng Hồng”, thơ Lê Văn Trung)
Thi chỉ mê mẩn các tờ nhạc, nhất là bài hát nào đã từng yêu thích khi nghe qua chương trình ca nhac của đài phát thanh. Thi tẩn mẩn xem những bức tranh lạ và đẹp trên bìa tờ nhạc, cố gắng tìm hiểu ý nghĩa họa sĩ muốn gửi cùng bài hát; Nếu nghĩ không ra, Thi tưởng tượng một mẩu chuyện nào đó để liên kết bức vẽ với nội dung bài hát hay lời một, hai câu trong bài mà Thi thích nhất, rồi vòng vo kể lại câu chuyện hư cấu đầu ngô, mình sở cho Thủy, Thìn, Vinh để thích thú thấy mắt mấy cô bạn tròn xoe thán phục. Nhớ làm sao những góc phố cũ, bao ngã đường hoa thơm nắng Sài Gòn, phố nhộn nhịp tiếng xe, những quầy hoa lung linh màu sắc, tiếng cười đùa như không bao giờ dứt của những ngày tháng thơ dại.
Một xế trưa gần vào hè, trong lần cuối đến lớp học thêm trước khi nghỉ chờ ngày thi Trung Học Đệ Nhất Cấp, cả bọn đã khám phá ra một cây muồng hoàng yến, cổ thụ, hoa vàng rũ từng chùm sáng rực như những lồng đèn treo lơ lửng đong đưa ở các ngày hội. Cây ở trước một biệt thự trên đường Phan Thanh Giản, đoạn gần rẽ vào Công Lý. Thật ra, ở con ngõ gần chùa Xá Lợi cũng có một cây như thế, nhưng vẫn còn nhỏ, chưa bao giờ trổ hoa, nên cả bọn không ai biết hoa hoàng yến khi vào mùa lại quá đỗi rực rỡ mỹ miều như vây. Các bạn và Thi đã thay phiên nhau đứng dưới những chùm hoa hoàng yến, nghiêng bóng nắng đợi gió lay, chờ dây hoa vàng vơ vẩn sa nhẹ lên tóc, rải vương tà áo, để tưởng tượng như đang cùng những nụ hoa vàng ngày Xuân chơi vơi trong khúc nhạc múa nhẹ êm. Từng dây hoa dịu dàng lướt quay theo tà áo óng ngà sắc tơ, chấp chới quyện vòng các dải nắng thủy tinh trong veo. Buổi chiều êm ả nhịp luân vũ tuổi chanh, tuổi hồng vẫn thỉnh thoảng nhẹ nhàng, vơ vẩn trong tâm trí Thi.
Ở những năm đệ nhất cấp, Thi và các bạn không những được dậy dỗ để mở mang, phát triển kiến thức khoa học, văn chương mà còn được các cô giáo chuyên về âm nhac, hội họa, nữ công, gia chánh, hướng dẫn các nguyên lý đọc viết nốt nhạc, giữ tiết nhịp khi ca hát, cách phác họa hình thể, tô vẽ màu sắc, và may vá thêu thùa, nấu nướng. Những hiểu biết thực dụng về nữ công, gia chánh giúp cả bọn tháo vát hơn khi phải đỡ đần công việc nhà cho bố mẹ; Và những khái niệm về nghệ thuật đã góp phần khơi mở làm tươi mát tâm hồn, giúp các cô nữ sinh nhỏ thêm dịu dàng, đằm thắm.
Thú vị hơn tất cả là những giờ Việt Văn, môn học đặc biệt luôn được sự tập trung lắng nghe hết sức say mê của các cô học trò. Trong những buổi học nhẹ nhàng thoải mái đó, cả bọn chỉ phải để ý nhớ một số quy luật căn bản về cú pháp, viết văn, làm thơ, hoặc phương cách nhận định giá trị của một số tác phẩm văn học. Phần lớn thời giờ còn lại, học trò được nghe những lời giảng giải hay phân tích thiết thực, hào hứng, và cặn kẽ về nội dung nhiều trích đoạn nổi bật trong các tác phẩm văn học; Và cũng không ít lần, họ được thưởng thức giọng diễn ngâm chan chứa tình cảm khi các cô giáo ngẫu hứng nhấn nhá những đoạn thơ trữ tình hay nỉ non các khúc ngâm da diết nỗi niềm. Văn chương, thi phú bình luận trong giờ học bao giờ cũng phong phú ý tưởng cao đẹp, cảm xúc chân thật, ngôn ngữ sáng tạo, nhịp điệu dịu êm, và những câu chuyện về các điển tích cổ hay lời khai mở bao ẩn dụ từ vựng thâm thúy. Nội dung của phần lớn những tác phẩm trong chương trình học đều sâu sắc đề cao các giá trị chân, thiện, mỹ của cuộc sống. Và những thông điệp tích cực này đã được các thầy cô tinh tế chuyển tải, hướng dẫn để học trò dễ dàng thấm nhuần mọi tư tưởng đạo đức, nhân văn tiềm ẩn, ngoài các lý thuyết căn bản về ngữ văn.
Ngẫm nghĩ lại, Thi không sao quên được cảm giác bồi hồi, tự hào khi được học về những bài thơ Nôm chọn lọc từ Quỳnh Uyển Cửu Ca Thi Tập của vua Lê Thánh Tông và các thi nhân trong hội Tao Đàn do vua lập ra từ thế kỷ thứ 15. Nhớ vô cùng những lời ca tụng của cô Phạm Quỵ [6], giáo sư dậy Việt Văn năm đệ Ngũ, đã ví von hội tao đàn của vua là một bức phá văn học lịch sử quan trọng của đất nước. Còn hình ảnh nào cao đẹp, yên bình, và diễm lệ hơn cảnh vua quan, quần thần hài hòa thù tạc thanh tao trong các buổi xướng họa thi phú, diễn giải lịch sử, thảo luận về đạo học, về chính sự của đất nước. Những chương trình luận bàn quốc sự hay nhã nhạc tiêu khiển đậm sắc văn hóa nghê thuật đã được thường xuyên tổ chức gần như suốt khoảng thời gian trị vì của đức vua tài ba; Người cũng được xưng tụng là bậc nguyên súy của trào lưu văn học cung đình cao quý.
Trên tất cả, đất nước ta thời đó đã phát triển vượt bực nhờ tài năng và đức độ lớn lao của vị minh quân, Lê Thánh Tông. Chẳng thế mà Sử Việt - 12 Khúc Tráng Ca đã ghi về Ngài như sau “Vua là đại diện của sự ấm no và an lành, của thái bình và thịnh trị. Nhắc đến Ngài là nhắc đến một dòng suối mát phủ lấy trang sử xanh của dân tộc.”. Và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư bầy tỏ sự tôn kính công đức của Ngài qua dòng "Triệu dân vỗ yên, trăm việc chấn chỉnh, văn giáo rộng ban, vũ công đại định". Vua Lê Thánh Tông là một bậc anh tài và là một vị vua suốt đời vì dân..
Ngoài các đề mục chính của môn học, các bạn và Thi còn rất yêu thích mỗi khi được nghe kể thêm những giai thoại kỳ thú về tác giả hay những nhân vật trong tác phẩm, về nếp sống xã hội của thời đã qua, về các tư duy, định kiến hay thành kiến, của con người trong bối cảnh cuộc sống của họ từ các tác phẩm cùng thời hay các nguồn thông tin văn nghệ khác. Những câu chuyện hư thực trong phần phụ bản, hoặc ngoại truyện, đã giúp môn học thêm thú vị, đa sắc, gần gũi với cuộc sống hiện thực của xã hội hơn. Trong các buổi học, không gian lớp học thường rất cởi mở sống động, luôn phảng phất hình bóng của một quá khứ tuy đã lùi xa, nhưng vẫn có tình thân ái kết nối trong dòng chảy xuôi an bình từ thế hệ tiền bối, và lãng đãng tiếng đồng vọng tha thiết tình tự quê hương. Những năm trung học nhỏ dại đó, nhất là những giờ được hoc văn chương thâm thúy, nghiền ngẫm tư tưởng về đạo đức làm người, và tiếp cận với nghệ thuật của ngôn từ có lẽ là trạm dừng an nhiên kỳ thú nhất của chuyến tầu cuộc đời mà sau này các bạn và Thi đều phải qua rất nhiều bến gập ghềnh, gian nan, mệt mỏi.
Hoa Nắng
Mùa hè sau năm Đệ Tứ, tất cả các cô học trò trong nhóm Thi đều đỗ bằng trung học Đệ Nhất Cấp một cách dễ dàng. Điều này cũng không có gì ngạc nhiên vì tỉ lệ học sinh của trường thi đỗ các kỳ thi căn bản ấn định bởi bộ Giáo Dục đều luôn rất cao. Hãnh diện hơn nữa là gần phân nửa số người đỗ đạt đã trúng tuyển có hạng như Ưu, Bình, hay Bình Thứ. Thi nhớ trong năm cuối ở trường, có một bạn đã đỗ hạng Tối Ưu kỳ thi Tú Tài 2. Hình như năm đó toàn quốc chỉ ba học sinh đạt được số điểm để được xếp vào hạng bậc danh giá này. Ngày đó, nhiều bạn của Thi học rất chăm, rất giỏi, nhưng cũng mơ mộng thả thơ, viết văn, gọi mây, vơ nắng, suốt những năm dưới mái trường yêu đấu. Vài nụ thơ học trò mà Thi còn nhớ:
Hoa sao lấm tấm trên bờ tóc
Cỏ biếc nằm nghe tiếng guốc khua
Hồ điệp theo vào trong lớp học
Mơ màng nhìn giọt nắng đong đưa
(Trích từ “Đường Phan Thanh Giản”, Quỳnh Châu, GL 1965)
Xin trả cho tôi nắng Sài Gòn
Thênh thang đường phố lụa Hà Đông
Xin trả cho tôi mưa ngày ấy
Và trả cho tôi cả cuộc tình…
Hoàng Lan Chi (GL 67)
Chiều rơi nhẹ vào mắt
Trời chớm đông lạnh ngắt
Gió lay nhẹ hàng cây
Dáng em mờ trên mây
(Trên tờ bích báo đệ Nhất A1 năm 1968, không có tên tác giả)
Những nụ thơ mềm mại trên có thể đã hình thành từ bao buổi chiều trời xanh mây trắng lãng đãng trên sân trường ngày nào. Thời đó, đã biết bao lần các bạn và Thi tranh nhau đuổi nhặt những bông hoa nắng được gió miên man rải từng vạt vương vãi dưới các bóng cây trong khuôn viên trường. Vui nhất là những bước nhảy chân sáo dưới hàng cây lòa xòa bóng lá dẫn từ vòm cổng chính đến khu có phòng Hiệu Đoàn ríu rít tiếng học trò ăn quà. Những giờ ra chơi mải mê tìm đếm từng cánh hoa pha lê nhấp nháy ẩn, hiện trên các lối đi nhiều bóng nắng, đăc biệt là trên lối đường có hai hàng cây luôn rì rào tiếng lá reo được rất yêu thích bởi các cô học trò. Lối đường đó bao giờ cũng vang tiếng nhiều bước guốc nhỏ qua lại, và đôi khi để ý kỹ, còn như có cả những âm guốc mơ hồ vọng về từ một thời xa vắng nào đó.
Bao giờ vào cuộc chơi, những cánh hoa trên đường cũng lao xao như sợ bị guốc các cô đùa dẫm lên. Vì thế, chúng thường nhanh chóng bay lên tà áo của một ai đó trong nhóm, nhấp nháy vài giây, rồi nhanh nhẹn chuyền qua mái tóc hay bờ vai một bạn khác. Cứ thế, hoa như theo mọi người chạy quanh, áo và tóc người nào cũng lấp lánh vài cánh hoa nắng, kẻ nhiều người ít, ai cũng thích thú vì được tha hồ ngắm những nụ hoa như bướm pha lê hay đom đóm lập lòe trên áo nhau. Cao điểm cuộc chơi là những so đo, lý sự, chí chóe, khen chê các mẫu hoa được cài trên từng tà áo; Nhất là lúc tranh nhau hối hả đếm những cánh hoa, vốn có hiện hữu chẳng bao giờ phân minh, còn luôn tinh quái chập chờn: lúc sáng, lúc mất. Những tiếng đếm 1, 2, 3, … dứt khoát vội vàng. Rồi bỗng bất chợt, ai đó bật ra một, hai tiếng khúc khích nhỏ, rồi vài tiếng cười bắt chước, dần dần nhiều tiếng cười theo nhau ồn ã hơn, và chẳng mấy lúc đã òa vỡ thành từng chuỗi cười liên tục, không dứt được.
Đôi khi đang tập trung kiểm số hoa để quyết định ai nhặt được nhiều, thì nắng bỗng dưng nhạt hẳn, và chỉ trong chớp mắt, áo ai cũng trơn trắng bình thường, hệt nhau, không còn hoa lá nữa. Cả bọn đều ngớ ra ngẩn ngơ vì ngần ấy cánh hoa đang nháy chớp như múa, đã đột ngột tan mất hết. Nhưng chỉ một thoáng sau, nắng bừng lên, đám hoa nghịch ngợm lại bất ngờ xuất hiện, nhưng chấp chờn sáng như các đốm đèn trang trí trên thân cây, không đậu trên bất cứ tà áo ai.
Cũng nhiều lần, trưa đổ vàng như tô, như vẽ trên vòm cây xanh thẳm, trời vắng gió, hoa nắng trên lối đi nằm lặng yên không chớp, tựa như đã được in tạc vào mặt đường nhựa và càng lúc càng nổi rõ nét, óng đẹp hơn dưới vạt nắng say nồng. Thế mà bọn Thi cũng vẫn bị lạc mất vài bông đã đếm, cáu bực đến nỗi phải ngẩng mặt lườm đe hai con nỡm sáo [7] phá đám đã khua lá làm bay hết hoa, còn nhăn nhở huýt gió nhạo đùa khi vút bay trốn về tháp chuông bên chùa. Thật chẳng ngoa khi bọn sáo đoảng này đã luôn bị mắng trong mấy bài học về ca dao thành ngữ:
Con chim sáo sậu
Ăn cơm nhà cậu
Uống nước nhà cô
Đánh vỡ bát ngô
Bà cô phải đền
Những ngày gần đến hè năm đó mọi người trong lớp Thi đều bận rộn lo lắng, không còn nhởn nhơ chào đón phượng nở, ve vang như các mùa hè trước. Ai cũng nghiêm túc chăm chỉ học bài chuẩn bị cho kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp. Bộn bề, nhưng lòng họ cũng ngổn ngang  nhiều ưu tư khi biết hai chị bạn lớn tuổi ngồi bàn cuối lớp, sẽ thôi học luôn để lấy chồng. Nhưng hoang mang chạnh lòng nhất là chuyện ba cô bạn hiền lành, không bao giờ nghich ngợm hay to tiếng, cũng rời trường sau khi thi xong, tìm việc làm để phụ giúp gia đình. Những giờ học cuối của năm 1965 trôi qua thật buồn.
Không gian lớp học càng lúc càng căng thẳng bất an hơn, gương mặt mọi người đều lộ vẻ lo lắng bồn chồn khi ngày thi cận kề. Những bạn sắp phải rời xa trường luôn thẫn thờ, buồn bã, đôi khi còn tủi thân thút thít ở một góc nào đó ngoài sân trường. Lưu bút chuyền tay nhau như bươm bướm. Tự nhiên, các cô nhỏ như dạt dào xúc cảm và phong phú thơ văn hơn hẳn những năm học trước. Tuy Thi cũng áy náy, buồn xót thương mấy bạn phải thôi học, nhưng vô tâm mải chơi, nên không nghĩ ngợi nhiều, có lẽ vì quanh Thi vẫn luôn còn đông đủ Thủy, Thìn, và Vinh. Sau này, khi đã lên lớp trên và phải học cùng vài người bạn mới quen từ các trường khác chuyển đến, Thi đã rất nhớ ba cô bạn kém may mắn trong lớp học xưa, cũng đã không ít lần ân hận tự trách quá thờ ơ vô tình, không quan tâm nhiều đến hoàn cảnh các bạn.
Hôm liên hoan bãi trường, mọi người đều mải miết viết lưu bút. Thi cũng bắt chước các bạn nắn nót 4 câu thơ con cóc, ngụ ý tả hoa nắng, gửi vào lưu bút tặng Thủy. Thơ dở quá nên Thủy suy nghĩ mãi mà vẫn ngơ ngác, bối rối không hiểu Thi định ba hoa chuyện gì khi viết mấy câu như bài vè bán thuốc rong đó. Ngu ngơ hiền lành như chim chích lạc rừng, [8] thì làm sao Thủy biết được:
Người về hoa nắng trên tay
Cầm câu thơ thấy nắng đầy trong thơ
(Trích từ “Hoa Nắng” – thơ Lê Văn Trung)

Qua mùa thi, các bạn và Thi đều vui mừng háo hức chờ ngày khai giảng năm học mới. Đôi lúc cả bọn cũng ngậm ngùi nhắc đến các bạn bị hoàn cảnh đẩy đưa, bắt buộc phải lớn lên, bước vào đời quá sớm. Chạnh lòng làm sao mỗi khi nghĩ đến lúc trở lại trường, sân vẫn ngập hoa nắng, nhiều tiếng cười; Nhưng không bao giờ còn được gặp những gương mặt thân quen, hiền hòa đã cùng là bạn học từ những ngày đầu tiên vào trường. Có những ngày cả bọn Thi nhớ 3 cô bạn nhỏ vô cùng.
Em không đến trường mùa thu năm ấy nữa
Em cũng không đến trường cả mùa thu năm sau
Chiếc lá rụng xuống hoàng hôn xẹt lửa
Nghe mùa thu tiếc nuối chảy qua cầu.
(Trích từ “Xa Lắc Mùa Thu”, thơ Trương Nam Hương)
Thú đam mê tìm nhặt hoa nắng trong sân trường có lẽ đã làm nảy sinh ý hướng cố gắng tìm kiếm những điểm sáng trên các lối đi, ngã rẽ của đường đời sau này. Trò chơi thơ dại ngày ấy cũng giúp các bạn và Thi mơ hồ cảm nhận những gì được định giá là hào quang rực rỡ của cuộc sống, cũng chỉ hiện hữu rất mong manh vô thường, dễ có dễ mất; nhưng có thể giúp làm một phân đoạn cuộc sống thêm sinh động, nhiều sắc màu.
Chú thích:
[1] Tâm Hồn Cao Thượng, được chuyển ngữ từ bản dịch qua tiếng Pháp: Les Grands Coeurs by Edmond De Amicis, bởi nhà văn  Hà Mai Anh).
Tâm hồn cao thượng (tiếng Ý: Cuore) là một cuốn tiểu thuyết về trẻ em của nhà văn người Ý Edmondo De Amicis. Truyện dùng bối cảnh lúc nước Ý được thống nhất, nội dung đề cao tinh thần yêu nước. Tiểu thuyết được xuất bản đầu tiên vào ngày 18 tháng 10, năm 1886, ngày khai trường ở Ý, và ngay lập tức trở thành một hiện tượng sách được nhiều người ái mộ, liên tuc tái xuất bản rất nhiều lần.
[2] Dế Mèn Phiêu Lưu Ký, Tô Hoài (1955); O chuột, Tô Hoài (1937); Chim Chích Lạc Rừng, Tô Hoài (1949) là những truyện ngắn về loài vật đã được phát hành trong các thập niên 1950, 1960 ở Sài Gòn như những tập truyện nhỏ. Mỗi truyện được in thành một tập chỉ độ 5-10, trang. Nhiều năm sau, một số truyện về loài vât, trẻ em được tập hợp thành các tuyển tập truyện ngắn như tập truyên “Chim Chích Lạc Rừng” hay tập truyện “O Chuột”.
[3] Mụ Ngan là một truyện ngắn của Tô Hoài, sau này được in trong tâp truyện ngắn Chim Chích Lạc Rừng. Chích Bông là một trong hai nhân vật chính trong truyện ngắn Chim Chích Lạc Rừng của Tô Hoài (1949)
[4] Phương châm, chỉ tiêu của nền Giáo Dục Miền Nam  nhân bản, dân tộc, khai phóng được viết trong bài “Nhìn lại nền Giáo dục VNCH: Sự tiếc nuối vô bờ bến”, Huỳnh Minh Tú. Nguồn: https://sites.google.com/site/namkyluctinhorg/tac-gia-tac-pham/e-f-g-h/huynh-minh-tu/nhin-lai-nen-giao-duc-vnch-su-tiec-nuoi-vo-bo-ben
[5] Partir c’est mourir un peu là câu đầu của bài thơ Rondel de l’adieu (Vĩnh Biệt Ca ) của Edmond Haraucourt, dựa theo tài liệu trên:
https://www.thivien.net/
[6] Giáo sư Phạm Quỵ, khuê danh Trần Thị Thương Thương, day Việt Văn Trung Học Đệ Nhất Cấp ở trường Gia Long thập niên 1960, 1970. Bà được nhiều học sinh biết đến như một nàng thơ nhó trong mộng của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Huyền thoại này cũng được kể trong bài “Thương Thương, Nàng Là Ai?”, được đăng tại: https://phanxipang.wordpress.com/
[7] Đôi sáo chùa Xá Lợi. Khoảng năm 1963-1964 có vài con sáo hay đến đậu, hót trên mấy cây cổ thụ trong sân trường Gia Long. Học trò đồn có một gia đình sáo làm tổ trên cây bên chùa Xá Lơi, chiều chiều chúng thường bay sang sân trường chơi.
[8] “Ngớ ngẩn như chim chích lạc rừng” là câu thành ngữ trêu chọc, bỡn cợt những người khờ dại, dễ tin.
Trang Thơ
NGƯỜI ĐI RỒI
Bao đêm thâu tĩnh lặng,
Lòng chạnh nhớ mênh mang,
Góc quán quen mùa trăng,
Thủ thỉ cà phê đắng.
Ngõ hẹn bao lần qua,
Bâng khuâng hương sứ dại.
Ngọt thơm vị bạc hà,
Mê ám lạ như ngải.
Nhớ đêm rừng, đếm sao,
Giọng nẫu trầm hơi muối,
Đưa âm biển dạt dào,
Khua sâu nghìn bối rối.
Sân trường hương hạ bay
Tình yêu đầu vụng dại.
Bồi hồi, tóc chạm vai,
Thơ biếc hồn ai mãi.
Ươm tơ hồng, sêu cốm,
Ta soãi cánh rừng son,
Ngỡ thiên thu đắm đuối,
Thoảng âm sóng lạc nguồn.
Người xuôi tận bến ngang,
Đường lãng du mê mải.
Quên lối cũ hoe vàng,
Thổn thức, đời nghiêng ngả
Đêm muộn phiền cô đơn
Từng canh dài rạn vỡ
Nghe mưa sa tủi hờn
Nghe quạnh hiu than thở.
Người đi, nhà lặng tiếng,
Bàn ghế trống chơ vơ,
Bếp lạnh màu tang liệm,
Ngoài hiên vàng sứ rơi.
Đưa người, nước mắt cạn,
Sao dưng đại dương trào.
Sóng tận đáy tiềm thức,
Vẫn miên man dội gào.
Xa người, tâm trĩu nặng
Day dứt vạn băn khoăn.
Sóng vùi, ký ức lắng,
Chậm rãi giọt đời lăn.
Em nhìn nắng một mình,
làm bạn với cô đơn*,
thả trôi ngày lặng thinh
tìm mãi cửa phù vân.
Những đêm mưa khắc khoải,
đuổi giấc khuya canh dài,
em cùng bóng dọn mãi,
nỗi ngổn ngang vơi đầy.
Cuộn sâu từng mảng buồn,
chuỗi thở dài lênh đênh,
sẩy bay mất cánh chuồn,
đêm rạn, mảnh trăng chênh.
Vàng mùa lá cuốn phố,
thê thiết vạc kêu đêm,
chòng chành lòng bão tố,
dâu bể ngợp oan khiên.
Em theo bóng một mình,
rong mộng du mù sương,
dò vòng quay tử sinh,
vụng phận số, quờ đường.
Thả buông mầm hạt đắng,
du mục búi bèo rong,
nổi, chìm đời chạng vạng,
giạt ký ức long đong.
Gói mùa đông đơn lẻ.
cạn chuyện cùng trăng đêm,
ngược ngày dài lặng lẽ.
se sắt gió qua thềm.
* Lời bài hát “Mãi Một Mình” của nhạc sĩ Đức Huy.
phố ngơ ngẩn sắc thu
lá rực vàng, cây đỏ
khô hanh hơi gió mù
sóc theo hạt oak rơi
gió quyện hương mùa chín
mênh mang một khắc đời.
bồi hồi…
ngõ vắng, hiên nhà xưa
tiếng rao trưa ngọt dịu
gió nhẹ cuối mùa mưa,
thổi dồn …
hiu quạnh những chìm nổi
giạt trôi cuộc thiên di
máu lệ đọng hoen lối
nhọc nhằn cuộc chiến qua
nắng không xanh thành cổ
lận đận bao tương tàn
hoa hòa bình không nở
nhạt nhòa bóng cửa ô
sóng tràn ga Hàng Cỏ
đường ray mỏi mệt khua
quờ quạng vào vô định
khói tầu loang ngạt ga
luân lạc hồn điên tỉnh
héo hắt đoàn du thủ
gió, đường tầu giật lui
chao đảo trăng côi nhú
chạm đen, đắng dập vùi.
lững lờ…
dề lục bình trôi hoang,
đồng chiêm bừng nắng lạ
ngấm cay cực, muộn màng
u hoài, hà bám đá
thời gian…
mờ khói tầu ga cũ
vàng ngày tháng bỏ lại
mái phố nhòa rêu phủ
giã từ Hà Nội
dứt bỏ ngày trong
thả rơi nguồn cội
khôn xiết nhớ mong
thuở nao mưa bụi cửa ô
lối xưa mờ bạc sương hồ chiều thu
nét cười ngấn lúm đồng xu
thắm duyên vành nón lưu tù đời ai
người đi, kẻ ở, đoạn hai
mắt sao, hương sấu bờ vai đêm rằm
vạt trăng ngày ấy lặn tăm
người về cùng bóng se chằm tuổi xuân.
heo may tan tác
ai hẹn mùa ngâu
người đi hồn lạc
tình lụn bóng câu
mùa thu dạ thảo
trời xanh trứng sáo
ràn rụa suối hương
lỗi kiếp, mù sương.
loay hoay…
lại lửa binh bùng lan
mẹ đưa con, bến sững,
mắt lặng nhìn vườn hoang,
dấu chân thuở lẫm chẫm.
gió thổi chiều mông lung
tỏa tung vòng khói bếp
u uẩn tràn vành nong
mùa rơi chạm mái liếp,
đơn lẻ.
đìu hiu …
xóm làng mòn mõi đợi
gió rợn, vạc kêu đêm
bóng liêu xiêu lướt vội
thăm mẹ trên đường về
đại ngàn…
dòng sông đêm hội xưa
lóng lánh trăng mười sáu
hương dành man mác đưa
rẽ khuya, cá láu táu
nhớ phượng rơi sân trường
bừng hoe thềm gạch cũ
hoa nắng bay, vàng thương
hồn nhiên tiếng bạn rủ
se sắt …
lênh đênh dòng ký ức
tiếng nổ toang chiều hôm
rã rơi đời mộng, thực
cát bụi xuôi huyễn, không
những mùa thu quá buồn
loang lổ sắc trầm luân
trống vắng, rỗng không, cạn.
duềnh dâu bể đoạn trường.
Em đã nghe tiếng Xuân
khi dừng, đón âm nhặt hồi chuông mai đầu ngày
nhìn nhánh lan, thì thầm, nào ta lắng đọng
thả buông, em tĩnh lạc hòa cùng dòng trôi vạn vật
tiếng ngân chuyển hóa tâm linh, âm khoan tiếp nối bao nguyện lành
hương từ ái tuôn, tâm hành vô hận, lấp lánh hạt Nguyên Xuân..
GIÔNG BÃO CHIỀU CUỐI NĂM
mưa tràn lửng ngõ, xiêu quang gánh
vai cô hàng đẫm nước, u uẩn mùa khốn khó
gốc bàng nghiêng ngả, hiu hắt tán xanh héo non
nhọc nhằn dâu bể, bước trần vực thẳm gánh đa đoan
vần vũ gió dồn, se sắt dề rong mục. Chiều hoang tàn.
lạc giữa thiên hà, ánh lửa tâm thức rừng rực hồng
thoảng hơi gió, từ vạn dặm phiêu bồng lời thiên cổ
vang âm chuông thức tỉnh, vằng vặc cõi vô cùng
tay trong tay, ta thấm hiểu tương tức duyên sinh bất tử
nước mắt rơi, chan hòa hạnh truyền giao chớp sáng.
Vài Dòng về Thể Thơ 1-2-3
Những năm gần đây, thể thơ 1-2-3 khá thịnh hành trên thi đàn ở Việt Nam. Thể thơ này khá đơn giản. Bài thơ chỉ gồm 6 câu, với 3 đoạn được trình bày như sau:
Đoạn 1 chỉ có 1 câu, tối đa 11 chữ hoặc ít hơn. Câu này cũng là nhan đề bài thơ, được đặt như vậy để tránh trùng tên với những bài thơ, cùng thể loại, đã được lưu hành.
Đoạn 2 có 2 câu, mỗi câu tối đa 12 chữ hoặc ít hơn.
Đoạn 3 có 3 câu, mỗi câu tối đa 13 chữ hoặc ít hơn.
Đề tài của Thơ 1-2-3 hoàn toàn tự do. Nội dung thể hiện cảm xúc của người viết. Thể thơ này không bị ràng buộc bởi các phép tắc tu từ, hài thanh, ngắt nhịp hay hiệp vần chặt chẽ như các thể thơ truyền thống. Chữ dùng càng tinh lọc, đa nghĩa thì bài thơ càng giá trị. Nội dung chủ yếu diễn bày từ ngoại cảnh, rồi đi dần vào chiều sâu nội tâm tác giả muốn thể hiện.
Thể thơ 1-2-3 khuyến khích tính độc lập của từng câu thơ trong mối tương quan toàn bài; Và tính hộ ứng giữa câu 1 và câu 6 để giúp sự chặt chẽ của nội dung bài thơ.
Thể thơ 1-2-3 không khuyến khích sự biến thể các loại thơ truyền thống: lục bát, song thất lục bát, tứ tuyệt, ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn… để viết thành bài thơ 1-2-3.
(Sưu Tầm).
Xin Gửi Lời Cảm Ơn đến:
Nhà thơ Đặng Lệ Khánh, chủ biên trang Art2All, đã gửi những lời ân cần khích lệ từ bài đầu tiên tôi viết năm 2019 và các bài viết sau này.
Các anh chị trong nhóm bạn NLS, UPLB: Trung-Mai, Hiệp-Mai, Sam-Hoàn, Duyên, Thu, Tịnh-Sâm, Trung-Mily, và chị Lynn, chị Hằng, các bạn: Thủy, Thìn, Vinh, Châu, Vi, nhóm Gia Long Yêu Thương, những người thân trong gia đình đã đọc một số bài và chia sẻ lời khuyến khích ưu ái, thân tình.
14/6/2023
Vũ Thị Ngọc Thư
 Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đi tìm một vì sao: Quê nhà, đất nước, tình người! – Kỳ 1 Suốt hành trình tham gia kháng chiến, mỗi nơi từng sống và chiến đấu đều lưu lạ...