Thứ Năm, 20 tháng 6, 2024
Ngày tháng qua
Giới thiệu tác giả - tác phẩm
Đi đâu ra ngoài, chẳng bao giờ bà quên mua về một thứ quà nào
đó cho đàn cháu háu ăn. Tôi nhớ rất nhiều lần bà đã mua vài gióng mía vỏ vàng
hơi ánh sắc lá xanh, làm quà chợ cho chúng tôi. Khi nào mua được mía bà cũng
mua thêm vài xâu hoa nhài. Người Sài Gòn gọi là hoa lài, hoa bán ở chợ thời
đó được xỏ chỉ thành từng xâu, vài ba xâu thường được cột chung với nhau để
treo bán. Tôi thường được bà giao cho việc tước hoa ra khỏi các vòng chỉ, rửa
nhẹ bằng nước lọc, rồi hong thật khô. Trong khi ấy, bà cẩn thận róc vỏ,
chi li cắt mía thành từng khúc nhỏ đều đặn, rồi lại tẩn mẩn chẻ mỗi khúc làm tư
hay làm sáu thành những miếng chỉ độ bằng lóng tay trẻ con. Sau đó, tất cả những
miếng mía được bà sao nhanh trong một cái nồi gang đã hơ qua lửa vừa nóng độ
năm, bảy phủt. Mía hơi tươm mật, ngậy thơm thì bà thả nắm hoa nhài đã khô vào,
đảo nhẹ một vòng, rồi để thêm tờ giấy bản hờ hững trên mặt mía, trước khi đậy nắp
ủ một lúc.
Chúng tôi đều xuống xe, vài người đàn ông sôi nổi góp chuyện
bàn tán với chú tài xế tìm cách giúp để xe có thể chạy tiếp. Mọi người xúm nhau
nhặt các viên đá lớn đang cản giữ bánh xe và cố gom, đẩy những cục đá lởm chởm
khắp đường vào sát mé núi. Một lúc sau, 4, 5 cậu thanh niên trẻ vui vẻ cười
nói, xăn tay áo hợp sức đẩy xe giúp chú tài xế bắt trớn chạy qua khúc đường độ
30 mét bị vướng đầy đá. Hơn một giờ nữa trên chiếc xe lấm lem đầy bụi đó, đến
lúc mặt trời đã hơi chếch bóng trên cao, xe chúng tôi đến Sa Pa. Ai cũng mệt mỏi
vì cuộc hành trình thiếu ngủ suốt đêm trên xe lửa chạy từ Hà Nội lên và quá vất
vả trên chuyến xe sáng nay nên mọi người chỉ còn sức kéo hành lý vào nhà trọ của
hãng du lịch, ăn uống qua loa, rồi vào phòng nghỉ ngay.
Gia đình A Tấn còn giữ nhiều nề nếp sinh hoạt đặc thù của tổ
tiên gốc H’Mông. Nhà họ không có cửa sổ, nhưng trên hai vách cao chạy dọc nhà,
mỗi vách đều có hai lỗ hở hình tròn nằm gần sát nóc nhà. Một lỗ ở phần gian trước
và lỗ còn lại nằm ở khu bếp phía sau, các lỗ này có công dụng như cửa sổ. Mỗi
“cửa sổ” chỉ to bằng cái bánh tráng bán ở chợ vùng xuôi, và vì ở vị trí quá cao
nên không đem được bao nhiêu ánh sáng vào bên trong nhà. Nhà chỉ gồm một gian
duy nhất, hơi hẹp ngang, nhưng khá sâu. Phần nhà ngoài, rộng rãi hơn, để cái
chõng tre xộc xệch và mấy ổ rơm. Khu bếp, nền hơi thấp xuống, nằm ở đằng sau.
Trong bếp có hai cái nồi cũ, vài cái ghế con xếp quanh chiếc kiềng lò ba chân nằm
cố định giữa mấy hòn đá đóng đặc bồ hóng đen. Lò nấu đang bập bùng cháy, khói
cay từ mấy thanh củi còn sống bay mịt mù khắp nhà, mọi người ai cũng ràn rụa nước
mắt, tay luôn xua bớt khói bay vào mặt.
Ở nhiều đoạn an toàn hơn, hai bên đường ngút ngàn các dẫy đồi
cỏ xanh; Đồi cao, đồi thấp nối tiếp như gần xếp chồng lên nhau. Không gian mướt
xanh thăm thẳm, sắc xanh huyền bí như được tinh tế pha trộn từ mầu của núi đá
nhiều tuổi và ánh diệp lục muôn thuở của rừng sâu. Xanh mênh mang đến tận chân
trời. Đôi chỗ, ven đường còn lác đác các cây hoa đào dại, có cây mọc gần
sát đường, mấy nhánh cao lòa xòa chạm bên ngoài kính xe hoặc vươn cao hơn cả
nóc xe. Nhánh nào cũng chi chit trĩu nặng những nụ hoa mọng chín từ thân đến ngọn
các cành. Nụ đỏ hồng lựu, nụ đỏ xác pháo, nụ hồng cánh sen, nụ hồng vân trắng;
Tất cả đều đang chúm chím hé mầu như đã sẵn sàng cùng nhau bung rộ rực rỡ trên
những cành khô khẳng khiu chưa kịp nhú lá. Nhìn đào, thoáng nhớ đã gần Tết, tôi
bỗng cảm thấy con đường và cả vùng đồi sát đó như mềm mại đáng yêu hẳn lên. Thật
êm đềm, quyến rũ làm sao khi hình dung vài cô gái người H’Mông, Dao, hay Thái
đương thì, súng sính váy áo ngày hội, má thắm hàm tiếu, bước thơ thẩn dưới những
cành đào mơn mởn sắc Xuân phố núi. Tôi chỉ mơ màng trong cảnh Tết êm ả nhẹ
nhàng đó được vài phút thôi, vì xe lại vất vả bò dốc tiếp, lại dằn xóc làm ê
đau khắp người. Có đoạn xe khệnh khạng như không thể chạy được nữa, chỉ nhích tới
trước từng bước rất chậm, mỗi bước lại lộp cộp tiếng đá bị bánh xe chạm văng.
Trong khi đó, chừng như cả bản làng dưới thung lũng vẫn còn điềm nhiên ngủ hay
chỉ mới có vài phụ nữ dậy sớm chuẩn bị củi lửa nấu nướng buổi cơm đầu ngày. Lẫn
trong màn sương mù lãng đãng, đã lơ lửng vài làn khói bếp, sẫm nâu hơn, đang từ
từ bay lên từ các túp lều xiêu vẹo gần dưới chân núi
Chúng tôi đi theo các dốc đồi dẫn sâu dần vào bản, qua vài
khe suối nước róc rách trong vắt, những đoạn rừng thơm hương gỗ lạ, và những
túp nhà cũ kỹ rêu bám dầy trên các vách lá, nhiều cây leo bò phủ xanh kín các
mái tôn được đắp thêm rạ bên trên để giữ nhiệt. Khắp nơi rậm rạp cây xanh.
Không gian trong lành vô cùng. Bản làng thật đìu hiu vắng lặng trong buổi xế
nhiều sương mù ẩm ướt. Ở vài nơi cao, thấp thoáng những túp nhà nhỏ đứng chơi
vơi cô quạnh như chỉ tựa nhẹ vào các vách núi cheo leo. Nhà cửa nhiều nơi trong
bản nằm rải rác hoang dại, nhếch nhác trên các triền đồi; phần lớn vật liệu làm
nhà như chỉ được chắp vá qua loa tạm bợ. Nhìn tổng thể, xóm làng như tàn dư
hoang phế còn lại của một nơi định cư thuộc một thời cổ đại đã xa.
Mấy ai, tình cờ đi qua bản, có thể thấu hiểu được những em nhỏ
đáng thương ở đây đã phải kiên trì lắm mới đến được trường học, cố theo bạn ê a
học vài con chữ, vài cái số, để mong có thể đọc, tự giải tỏa bao hiếu kỳ về những
dòng chữ nhấp nháy hay các hình ảnh lung linh màu sắc trên mấy cái tablet
computers “thần kỳ”, mà các em đã thỉnh thoảng nhìn thấy và rất chú ý, khi quan
sát vài người trong các tổ chức thiện nguyện hay du khách chúng tôi sử dụng. Có
thể, có em đã mơ hồ cảm nhận, phải đến trường để sau này không là người quờ quạng
mù chữ khi lên thị xã, nơi có muôn vàn điều khác lạ; hoặc không bỡ ngỡ nếu có dịp
đến được các phố thị dập dìu xe cộ mà các em đã nghe thầy giáo diễn tả là nơi
mà cuộc sống trong nhà dễ dàng, tiện nghi hơn nhờ vào sự trợ giúp của các máy
gia dụng nhỏ như tủ lạnh, máy giặt, bếp điện, bếp dầu, … Và vì thế, các em đã cố
gắng trải qua nhiều buổi chịu đựng rét lạnh trong lớp học trống vách, không tường.
Nhưng xót xa làm sao, khi chưa kịp thuộc bài vì luôn bị những cơn đói hành hạ
do ăn uống thiếu thốn, do thường xuyên thiếu tập trung vì quá mệt mỏi, mất sức
dầm dãi lội sông, leo núi; Và do lề thói gia đình đã ngầm ấn định ba ngày học,
bốn ngày nghỉ … thì đã đến mùa gieo cấy, lại phải gói ghém chữ nghĩa cất lại ở
lớp học để lên nương lo toan vất vả cuốc trồng, kiếm hạt ngô, hạt thóc nuôi gia
đình. Đến khi hết mùa, trở lại trường, những con chữ, cái số lại nhập nhằng xa
lạ như chưa từng được học qua; Thêm bao tủi buồn, tự ti khi phải một mình dò dẫm
lại từng trang sách mà các bạn cùng lớp đã thông thuộc. Cứ thế, khó khăn triền
miên đeo đuổi các em năm này qua năm kia..
Đứng trên một mỏm đồi cao gần cái lán sơ sài ở đầu làng, nhìn
quanh chỉ thấy trùng điệp núi đồi và thấp sâu bên dưới là bản làng nằm hoang dã
giữa nhiều cây to, các khe suối, và vài thác nước. Lưa thưa rải rác quanh các
triền đồi là những túp lều nhỏ lợp mái tôn cũ kỹ hoặc có mái rạ được chắp vá lộn
xộn. Ngay gần trung tâm bản, sát bên một con suối [1] khá rộng, nước miên man
chảy xiết, là một khoảng đất to phẳng như mới được đắp lên hay vừa được san,
nén cho bằng phẳng. Trên đó la liệt rất nhiều xe ủi đất, xe câu, và vật dụng
xây cất [2], có lẽ đã được tải đến qua ngã Lai Châu. Xa hơn nữa, chơi vơi giữa
núi đồi xanh thẳm, là những thảm ruộng hình bậc thang trải dài trên các triền
núi, nơi dân bản trồng ngô, lúa, mùa màng. Từ chỗ chúng tôi đứng, có thể nhìn
thấy các bậc ruộng phân minh rõ ràng từng nấc; chỗ cong cong, nơi uốn lượn, nấc
thấp, nấc cao, nối tiếp nhau thoai thoải, hẹp thuôn bớt lại, rồi cao dần lên …
thảm ruộng vẫn giữ dáng núi hài hòa của thiên nhiên bao quanh. Nét đẹp của những
bậc ruộng sinh động đến ngỡ ngàng. Đang mùa đông hoang vu, nên hầu hết các bậc
đều xanh mầu cây lá bị úa lạnh hay mầu rơm rạ mục ướt sót lại sau vụ gặt muộn.
Những bậc ruộng nhìn quá chỉn chu như chạm khắc này đã cho chúng tôi cảm tưởng
như từng được hướng dẫn xây dựng theo một quy hoạch rõ ràng hay được nặn tạc bởi
các điêu khắc gia nhà nghề. Nhìn từ xa, cả thửa ruông hiển lộ ngoạn mục như là
kết quả của một công trình kiến trúc mỹ thuật; Và có thể công dụng như một lầu
vọng cảnh lơ lửng nhiều tầng giữa bao la đồi núi trùng điệp, nơi có thể quan
sát mọi sinh hoạt đời thường của bản làng bên dưới hoặc thưởng ngoạn tiên cảnh
lãng đãng phù vân trên cao. Nhưng đó chỉ là tư duy tưởng tượng vẽ vời của tôi
thôi, vì các thửa ruộng đẹp hoang đường ấy đều đã được vun đắp xây dựng bằng sức
lao động, nước mắt, xương máu của những người sinh ra ở đây hay đã chọn nơi đồi
núi hiểm trở này để định cư từ lâu. Họ đã phải khắc phục thiên nhiên để có đất
đai trồng trọt mà sinh tồn. Tôi cũng đọc được trong một tài liệu về Archaeology
thì, đối với dân bản, những thửa ruộng đẹp như tranh vẽ này là công trình biểu
tượng của ý chí quyết tâm khai phá của tổ tiên họ, là đất đai mà họ phải trân
trọng và giữ gìn, là di sản tâm linh mà họ và con cháu được thừa hưởng. Vì ruộng
đất ấy đã mặn mồ hôi, thấm nước mắt, đẫm khốn khó, trĩu ân tình của cha ông họ.
Nhìn các thửa ruộng uốn lượn quanh co khắp nơi quanh vùng đồi núi trắc trở địa
hình mà thán phục ý chí kiên cường khai thác thiên nhiên của bao thế hệ người
đi trước, nhất là ở thời điểm sơ khai khi họ chỉ có kiến thức hiểu biết thô thiển,
còn vô cùng thiếu thốn phương tiện, và phải vất vả mưu sinh trong rừng núi
hoang dã dưới điều kiện thời tiết thiên nhiên khắc nghiệt.
Mây vừa mau mắn tiếp chuyện chúng tôi, vừa thoăn thoắt đi lại
trong bếp, nhanh nhẹn chu tất mọi công việc phải làm. Lưng cô địu cháu bé nhất
chưa biết đi, hai tay cẩn thận bưng đổ thùng thức ăn tạp nhạp rau củ hổ lốn cho
đàn heo đói, mắt vẫn luôn để ý trông chừng củi lửa cho nồi mèn mén. Phần váy
sau của cô còn luôn bị một cháu bé lấm lem độ 3 tuổi túm nắm, quấn theo mẹ từng
bước. Mây hoàn toàn không lộ vẻ vội vã hay căng thẳng khi luôn tất bật với công
việc nội trợ. Phong thái cô hiển lộ sự điềm tĩnh nhẫn nhục chịu đựng rất an phận.
Ở cô, có nết cần mẫn đảm đang thuần thục khuôn phép, và cô như còn có khả năng
uyển chuyển điều hòa để mọi việc được tuần tự chu toàn như đã dự định. Có lẽ nhờ
vậy mà nhìn cô rất an yên, vui vẻ như một người có cuộc sống gia đình êm ấm, hạnh
phúc.
Mấy ai, tình cờ đi qua bản, có thể thấu hiểu được những em nhỏ
đáng thương ở đây đã phải kiên trì lắm mới đến được trường học, cố theo bạn ê a
học vài con chữ, vài cái số, để mong có thể đọc, tự giải tỏa bao hiếu kỳ về những
dòng chữ nhấp nháy hay các hình ảnh lung linh màu sắc trên mấy cái tablet
computers “thần kỳ”, mà các em đã thỉnh thoảng nhìn thấy và rất chú ý, khi quan
sát vài người trong các tổ chức thiện nguyện hay du khách chúng tôi sử dụng. Có
thể, có em đã mơ hồ cảm nhận, phải đến trường để sau này không là người quờ quạng
mù chữ khi lên thị xã, nơi có muôn vàn điều khác lạ; hoặc không bỡ ngỡ nếu có dịp
đến được các phố thị dập dìu xe cộ mà các em đã nghe thầy giáo diễn tả là nơi
mà cuộc sống trong nhà dễ dàng, tiện nghi hơn nhờ vào sự trợ giúp của các máy
gia dụng nhỏ như tủ lạnh, máy giặt, bếp điện, bếp dầu, … Và vì thế, các em đã cố
gắng trải qua nhiều buổi chịu đựng rét lạnh trong lớp học trống vách, không tường.
Nhưng xót xa làm sao, khi chưa kịp thuộc bài vì luôn bị những cơn đói hành hạ
do ăn uống thiếu thốn, do thường xuyên thiếu tập trung vì quá mệt mỏi, mất sức
dầm dãi lội sông, leo núi; Và do lề thói gia đình đã ngầm ấn định ba ngày học,
bốn ngày nghỉ … thì đã đến mùa gieo cấy, lại phải gói ghém chữ nghĩa cất lại ở
lớp học để lên nương lo toan vất vả cuốc trồng, kiếm hạt ngô, hạt thóc nuôi gia
đình. Đến khi hết mùa, trở lại trường, những con chữ, cái số lại nhập nhằng xa
lạ như chưa từng được học qua; Thêm bao tủi buồn, tự ti khi phải một mình dò dẫm
lại từng trang sách mà các bạn cùng lớp đã thông thuộc. Cứ thế, khó khăn triền
miên đeo đuổi các em năm này qua năm kia..
Thi không sao quên được những ngày đầu tiên đi học ở trường
Gia Long. Trời tháng 9, nắng hanh vương nhẹ trên nhiều đoạn đường rợp bóng cây
dẫn về trường; Không gian dịu mát dễ chịu hơn bao ngày oi ả nóng nực của mùa hè
thành phố. Buổi trưa ngày tựu trường, Thi được bố chở đi học bằng xe đạp. Ngồi
trên porte-baggage đằng sau xe, ngượng nghịu trong chiếc áo dài trắng còn phảng
phất hương lụa lanh thơm mát, Thi băn khoăn nghĩ ngợi về trường, lớp mới, và vừa
lúng túng ôm cặp, vừa vụng về giữ tà áo không để bị bay cuốn vào bánh xe. Tâm
tư Thi hơi bất an, lo ngại không gặp được bạn bè quen ở trường và cũng vu vơ sợ
bị xếp vào lớp được dậy bởi thầy, cô khó tính. Như đoán được tâm trạng của Thi,
bố huyên thuyên nói chuyện, dặn dò nhiều thứ, nhưng Thi chỉ dạ, vâng qua loa vì
đang tự lự với bao âu lo, nghĩ ngợi. Đôi khi Thi cũng hơi bực mình vì hai tà áo
như luôn tinh ranh đùa nghịch, nhúng nhắng rong bay ngược xuôi theo gió làm Thi
phải để ý nắm giữ, không thoải mái như khi mặc áo ngắn. Thi không ngờ lần đầu
tiên mặc áo dài lại hơi phiền hà như vậy, nhưng vẫn cố gắng cẩn thận ngồi thật
yên trên xe để không gây khó khăn cho bố..
Thi không hiểu tại sao chỉ những năm học buổi chiều, thời còn
thuộc ba cấp lớp nhỏ nhất của bậc Trung học: Thất, Lục, Ngũ, thì những món quà
vặt mới có vị ngon đặc biệt như thế. Khi lớn hơn, học buổi sáng, tự nhiên cả bọn
ít dám thường xuyên ngồi lê ăn quà quanh trường nữa, chỉ thỉnh thoảng góp tiền,
bốc thăm chỉ định một, hai bạn trong nhóm mua đem vào sân trường, rồi cùng chia
nhau nhâm nhi trên mấy băng ghế đá hay nơi gốc phượng ở sân thể thao góc sau
trường. Nhiều lần trong những lúc đó, cả bọn đều ngơ ngẩn nhớ những buổi chiều
nắng mật vàng ong, vừa ngậm me hay nhai cóc, vừa quan sát mầu sắc của mấy loại
mận trong thúng này hay các nhánh chùm ruột tươi vàng ở mẹt kia, và bên tai
luôn vang vang nhiều tiếng nói, đằm thắm nhỏ nhẹ của người bán, kẻ mua, rất
quen. Bao giờ những âm thanh rộn rã trong trẻo đó cũng hòa trộn nhiều tiếng cười
vui nhộn và lấp lánh những giọt nắng hồng của ký ức ăm ắp hạnh phúc. Trải nghiệm
yên bình, dễ chịu như khoảnh khắc được nhìn muôn vàn mảnh kim tuyến lung linh
theo nhau rơi phủ khắp không gian, lay tỉnh toàn cảnh vật đã êm ái ngủ yên
trong quả cầu trang trí bằng pha lê. Những ngày thơ dại đẹp như trong truyện cổ
tích; Và ở đó, bạn bè, thầy cô, trường lớp, hàng hoa sứ, lối gạch quanh trường,
vòm phượng rực rỡ vào hè … dù không còn là một thực thể để được trở về trải
nghiệm thêm nữa, nhưng vẫn âm thầm quyến luyến, nhẹ nhàng ru êm, bâng quơ ẩn hiện;
lúc rộn rã vang động, khi nhẹ nhàng bông bênh, trong bầu sáng ấm áp bao dung,
che chở, rất yên bình.
Bao giờ vào cuộc chơi, những cánh hoa trên đường cũng lao xao
như sợ bị guốc các cô đùa dẫm lên. Vì thế, chúng thường nhanh chóng bay lên tà
áo của một ai đó trong nhóm, nhấp nháy vài giây, rồi nhanh nhẹn chuyền qua mái
tóc hay bờ vai một bạn khác. Cứ thế, hoa như theo mọi người chạy quanh, áo và
tóc người nào cũng lấp lánh vài cánh hoa nắng, kẻ nhiều người ít, ai cũng thích
thú vì được tha hồ ngắm những nụ hoa như bướm pha lê hay đom đóm lập lòe trên
áo nhau. Cao điểm cuộc chơi là những so đo, lý sự, chí chóe, khen chê các mẫu
hoa được cài trên từng tà áo; Nhất là lúc tranh nhau hối hả đếm những cánh hoa,
vốn có hiện hữu chẳng bao giờ phân minh, còn luôn tinh quái chập chờn: lúc
sáng, lúc mất. Những tiếng đếm 1, 2, 3, … dứt khoát vội vàng. Rồi bỗng bất chợt,
ai đó bật ra một, hai tiếng khúc khích nhỏ, rồi vài tiếng cười bắt chước, dần dần
nhiều tiếng cười theo nhau ồn ã hơn, và chẳng mấy lúc đã òa vỡ thành từng chuỗi
cười liên tục, không dứt được..
Thời gian đó, Thi chưa bao giờ được nhận bảng danh dự, nhưng
vẫn nhớ năm lớp nhất, Thi rất thích mỗi khi cô Hạnh cho làm “toán chạy”, một
hình thức thi đua để xác định khả năng giải bài đúng và nhanh của học trò trong
lớp, Thi đều đều được hạng nhì mỗi khi được thi như vậy, và thỉnh thoảng may mắn
trúng tủ, cũng vơ được hạng nhất. Thi ít viết sai chính tả, nên có thể vì thế
mà điểm tập làm văn của Thi cũng thường được trên trung bình. Tuy nhiên, Thi
luôn bị ngắc ngứ, không thuộc hết bài, không thể đọc trôi chảy trơn tru như các
bạn khác mỗi khi bị gọi lên bảng “trả” các bài Sử Ký, Địa Lý, Vệ Sinh Thường Thức,
hay Công Dân Giáo Dục, nên hạng điểm tổng kết tất cả các môn học của Thi chỉ ở
mức trung bình trong lớp. Sau này, Thi nhận ra có lẽ vì hơi khá toán và ít vướng
lỗi chính tả khi làm luận văn nên Thi đã dễ dàng trúng tuyển kỳ thi vào đệ Thất
của trường Trung hoc Gia Long, vì đề thi thời đó chỉ gồm một bài luận văn và
hai bài toán đố.
Năm Đệ Lục, cô Thân Thị Tố Tâm, giáo sư Việt Văn người Huế,
còn thỉnh thoảng trìu mến gọi học trò của cô là những nụ mai nhỏ trong vườn Hạnh,
vườn Xuân. Và Cô đã giải thích vườn Hạnh là nơi chỉ có hạnh phúc, bình yên,
thương yêu dành để ươm dạy, chăm chút những búp mai xinh đẹp. Hoặc diễn tả như
cô Hiếu Hạnh, giáo sư hội họa khi nghe bọn Thi thú vị kể lại lời cô Tố Tâm, thì
vườn Hạnh được cô họa sĩ phác họa là nơi rất bình yên, muôn thuở thì thào gió
nhẹ, nắng hồng, lá rơi, mai chúm chím, tươi mát trong cõi vàng lừng vang tiếng
chim hót. Những câu nói ân cần ngọt ngào mang ý hướng xác định và đề cao năng lực
học trò của các thầy cô giáo đã là các khích lệ lớn lao, tích cực giúp các cô
gái nhỏ nảy nở sự tự tin, cố gắng hành xử theo khuôn phép, quan tâm trau dồi đức
hạnh, và phát triển tinh thần nhân ái để trở thành người hiểu biết, trân trọng
lễ nghĩa, chuyên chú học tập, và thương quý thầy bạn.
Những nụ thơ mềm mại trên có thể đã hình thành từ bao buổi
chiều trời xanh mây trắng lãng đãng trên sân trường ngày nào. Thời đó, đã biết
bao lần các bạn và Thi tranh nhau đuổi nhặt những bông hoa nắng được gió miên
man rải từng vạt vương vãi dưới các bóng cây trong khuôn viên trường. Vui nhất
là những bước nhảy chân sáo dưới hàng cây lòa xòa bóng lá dẫn từ vòm cổng chính
đến khu có phòng Hiệu Đoàn ríu rít tiếng học trò ăn quà. Những giờ ra chơi mải
mê tìm đếm từng cánh hoa pha lê nhấp nháy ẩn, hiện trên các lối đi nhiều bóng nắng,
đăc biệt là trên lối đường có hai hàng cây luôn rì rào tiếng lá reo được rất
yêu thích bởi các cô học trò. Lối đường đó bao giờ cũng vang tiếng nhiều bước
guốc nhỏ qua lại, và đôi khi để ý kỹ, còn như có cả những âm guốc mơ hồ vọng về
từ một thời xa vắng nào đó.
Nhắc về trường mà không kể đến các gánh me, mâm cóc; các mẹt
mía ghim, keo chùm ruột; hay các xe cóc có tủ kính bán đu đủ bò khô, bò bía, đậu
đỏ bánh lọt, và bao gánh rong quà vặt quanh trường là một thiếu sót khi diễn tả
nếp sinh hoạt của những cô nữ sinh Sài Gòn tuổi 13, 17 lúc đó. Con đường nhỏ
sát chùa Xá Lợi ở đối diện trường bên ngã đường Bà Huyện Thanh Quan là nơi tụ tập
của các hàng quà vặt đáng yêu này. Các cô học trò thích từ vợ chồng chú
thím xẩm lai bán đậu đỏ, đậu xanh bánh lọt với tiếng đá bào loạt xoạt liên tục
vừa vui tai, vừa tung rải bao hạt đá trong veo mát rượi như những hạt cườm thủy
tinh lóng lánh lên tà áo của đàn bướm xúm xít ăn hàng; Thêm chú Ba lắc cắc tiếng
múa kéo cắt bò khô thoăn thoắt thả vun lên mấy đĩa đu đủ sợi giòn thơm vị ớt,
kích thước mỗi đĩa chỉ cỡ lòng bàn tay người lớn; Nào bà Bẩy có thẫu me ngào
óng lịm màu mật ong và những chiếc bánh phồng giòn rụm; Có chị Hai bán những
xâu chùm ruột vàng ươm ngâm chua ngọt thơm lựng vị cam thảo, nhìn rất quyến rũ
trong cái keo thủy tinh kềnh càng trong suốt mà có lẽ cả nhóm con gái ngồi
quanh xúm lại cũng không thể xê dịch nổi. Nhưng trội nổi hơn cả là mâm cóc phủ
phê đầy vun của thím Mười; Tất cả các quả cóc thơm, ửng hườm trên mâm đã được cẩn
thận tỉa thành những búp hoa có cánh múp míp, và quanh mâm còn có những mảnh
lá chuối rất nhỏ đã xếp sẵn thành hình phễu xinh xinh để đựng mắm ruốc hay muối
ớt phụ kèm từng đóa cóc xanh giòn. Mâm luôn ăm ắp những búp hoa cóc mẩy căng
năm, sáu cánh xanh mướt… Nhưng chỉ gần cuối năm, giữa mùa cóc, mới được thưởng
thức những đóa cóc tươi giòn mê ly như thế thôi, lúc trái mùa thì thi thoảng lắm
mới thấy thím Mười đến với hai keo cóc ngâm chua ngọt, nhưng toàn trái nhỏ,
không thoảng hương the chua rất riêng, rất đặc biệt trong không gian dịu mát,
hơi se lạnh của những ngày cuối năm..
Qua mùa thi, các bạn và Thi đều vui mừng háo hức chờ ngày
khai giảng năm học mới. Đôi lúc cả bọn cũng ngậm ngùi nhắc đến các bạn bị hoàn
cảnh đẩy đưa, bắt buộc phải lớn lên, bước vào đời quá sớm. Chạnh lòng làm sao mỗi
khi nghĩ đến lúc trở lại trường, sân vẫn ngập hoa nắng, nhiều tiếng cười; Nhưng
không bao giờ còn được gặp những gương mặt thân quen, hiền hòa đã cùng là bạn học
từ những ngày đầu tiên vào trường. Có những ngày cả bọn Thi nhớ 3 cô bạn nhỏ vô
cùng.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Đi tìm một vì sao: Quê nhà, đất nước, tình người! – Kỳ 1 Suốt hành trình tham gia kháng chiến, mỗi nơi từng sống và chiến đấu đều lưu lạ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét