Thứ Năm, 20 tháng 6, 2024

Người chồng muôn thuở 2

Người chồng muôn thuở 2

CHƯƠNG X
Nghĩa Trang
NHỮNG nỗi lo ngại của bác sĩ đã trở thành sự thực: bỗng dưng Lisa ốm nặng, nặng hơn là Veltchaninov và Clavdia Pétrovna hôm qua đã tưởng. Buổi sáng khi Veltchaninov đến thăm, cơn sốt làm nó tiều tụy, nhưng nó hãy còn tỉnh táo. Về sau, ông quả quyết là lúc đó, nó cười với ông và còn đưa cả bàn tay nhỏ nhắn và nóng bỏng về phía ông nữa. Sự việc đã xảy ra đúng như thế, hay đó chỉ là do trí tưởng tượng của ông cố ý dựng lên để tự an ủi? Dù sao, ông không thể nào kiểm chứng được việc đó: ngay tối đó con bệnh mê man và không tỉnh lại nữa. Mười ngày sau khi đến trú ngụ tại nhà Pogoréltzev, con bé qua đời. Đó là thời kỳ đau buồn nhất của Veltchaninov ; một phần lớn thời giờ trong những ngày buồn rầu đó, ông đã ở lại nhà Pogoreltzev và chính hai ông bà cũng đã lo ngại cho sức khoẻ của ông. Suốt trong những ngày cuối cùng của Lisa, ông đã ngồi hằng giờ trong một góc nào đó, không nghĩ đến một chuyện nào cả. Clavdia Pétrovna cố tìm cách giải khuây cho ông, nhưng vừa mới bắt chuyện thì cuộc đàm thoại đó, đối với ông, đôi khi hình như trở nên khó chịu. Dĩ nhiên, Clavdia Pétrovna không ngờ ‘‘tất cả việc đó lại có thể khiến ông xúc động mãnh liệt đến thế’’. Lũ trẻ dễ làm ông khuây khoả hơn; có đôi lúc ông đã cười cả với chúng nó; nhưng thường thường thì ông rời cái xó ông ngồi và rón rén đến thăm qua con bệnh. Đôi khi hình như con bé nhận ra ông. Cũng như mọi người trong nhà, ông không có một chút hy vọng nào về bệnh tình của con nhỏ, nhưng ông không lìa xa căn phòng bệnh và luôn luôn có mặt ở phòng bên cạnh.
Tuy nhiên, một hai lần gì đó trong khoảng thời gian này, ông ta có những hành động quá sốt sắng; ông vội vã quay về Pétersbourg, chạy tìm những vị bác sĩ tăm tiếng để nhờ họ đến chữa cho con bệnh; lần thăm bệnh cuối cùng là vào đêm trước ngày con bé qua đời. Ba ngày trước, Clavdia Pétrovna đã nài nĩ Veltchahinov đi tìm và dẫn Troussotzky đến: ‘‘Nếu Lisa có mệnh hệ nào mà không có cha nó, chúng ta không thể nào mai táng nó được’’. Với giọng mập mờ và lơ là, Veltchaninov trả lời là ông sẽ viết thư cho ông kia. Pogoréltzev tuyên bố là ông sẽ nhờ cảnh sát tìm hộ. Cuối cùng Veltchaninov quyết định viết dăm chữ và chính ông sẽ mang đến tận khách sạn Pokrovsky cho Pavel Pavlovitch. Ông này, như thường lệ, không có đó và Veltchaninov để bức thư lại cho Maria Syssoievna.
Lisa chết vào một buổi chiều hè đẹp trời, trong khi vừng ô đang lặn; chỉ đến lúc bấy giờ, hình như Véltchaninov mới tỉnh. Khi xác con bé, choàng một chiếc ‘‘robe’’ (áo đầm) trắng của một trong những cô con của Clavdia Pétrovna, được đặt trên bàn trong phòng khách với những cành hoa trong đôi bàn tay nhỏ chắp lại, ông đến gần Clavdia Pétrovna và, đôi mắt rực lửa, ông nói với bà ta là ông sẽ đi liền bây giờ để xách cổ ‘‘tên sát nhân’’ đó lại. Ông đi tức khắc dù cả nhà đã khuyên ông nên dời đến ngày mai rồi hẳn lên đường.
Ông biết chỗ tìm Pavel Pavlovitch; không phải chỉ vì muốn mời các bác sĩ mà mấy ngày sau này, ông mới quay về Pétersbourg: trước kia, ông cũng đã có ý nghĩ là nếu dẫn được Pavel Pavlovitch đến thăm Lisa thì có lẽ nó hồi tỉnh khi nghe giọng cha nó; cho nên lúc đó, ông đã chạy khắp Pétersbourg như một thằng điên để tìm ông kia. Pavel Pavlovitch vẫn ở căn phòng cũ, nhưng không ích gì nếu hỏi thăm ông ta ở khách sạn: ‘‘Ba ngày liền ông ấy không ngủ nhà mà cũng không hề tạt qua một lần nào, Maria Syssoievna thuật lại, và nếu tình cờ ông ấy có ghé về thì cũng đã say nhừ và chỉ ở lại vài ba phút rồi đi liền; ông ấy sa đọa quá rồi’’. Người giúp việc của khách sạn Pékovsky còn cho ông biết thêm là mấy lâu nay Pavel Pavlovitch hay lui tới ‘‘xóm chị em’’ ở khu Voznessenki, Veltchaninov tìm thấy chỗ này không mấy khó khăn. Được hậu đãi và được trả tiền nhiều, mấy cô nhớ ngay đến cái ông khách đó, ông khách mà cái nón có băng tang đã đặc biệt làm họ chú ý đến, và cũng nhân dịp này họ nhiếc mắng Pavel Pavlovitch vì ông ta không đến với họ nữa. Một cô trong bọn tên là Katia nhận đi tìm Pavel Pavlovitch ngay tức khắc, ‘‘vì lão ấy không bao giờ rời Machka Prostakova. Chưa có gì chứng tỏ lão ta cạn tiền. Còn Machka, thì nó không phải là Prostakova mà thật ra là Prokhvostova; nó đã từng nằm trị bệnh ở nhà thương, và nếu muốn, chỉ cần một tiếng, một tiếng thôi là nó bị đưa đi Sibérie ngay.’’
Tuy nhiên, ngày hôm đó, Katia không tìm ra Pavel Pavlovitch, nhưng cô ta hứa chắc là lần sau sẽ tìm thấy ông này. Veltchaninov đặt hết tin tưởng vào cô ta.
Đến tỉnh vào lúc mười giờ, ông cho người gọi Katia đến ngay và sau khi đã chi tiền cho chủ chứa về thời gian vắng mặt của cô này, ông lên đường với cô. Chính ông, ông cũng chưa biết mình sẽ hành động ra sao. Sẽ giết chết Pavel Pavlovitch, hay chỉ báo cho hắn biết là con gái hắn đã chết và giải thích cho hắn rõ là nếu không có sự can thiệp của hắn thì sẽ không mai táng con bé được? Lúc đầu sự tìm kiếm không mấy khả quan; ông và Katia được biết là ba ngày trước, giữa Machka Prokhvostova và Pavel Pavlovitch đã xảy ra một trận đụng độ, và một ông thâu ngân viên nào đó ‘‘đã quất cả một chiếc ghế đẩu vào đầu Pavel Pavlovitch đến gần lũng sọ’’. Việc lùng kiếm rất lâu lắc và cho đến hai giờ sáng, khi Veltchaninov, vừa từ trong một ‘‘động’’ mà người ta đã chỉ cho, bước ra thì liền chạm trán với Pavel Pavlovitch.
Ông này say đứ đừ: hai bà đang dìu ông vào cái ‘‘động’’ nói trên; một người đàn ông khoẻ mạnh, chắc chắn là một tình địch, đuổi theo họ và đang giơ tay hăm he đồng thời hét lớn những lời dọa nạt khả ố nhất về phía Pavel Pavlovitch. Trong những lời đó có câu cho là ‘‘Pavel Pavlovitch đã lợi dụng ông ta và đầu độc cuộc sống của ông’’. Hình như chuyện có dính dáng đến một số tiền nào đó. Mấy bà, rất hoảng hốt, vội rão bước. Khi nhận ra Veltclianinov, Pavel Pavlovitch chạy xô về phía ông này, tay dang rộng, và hét tướng lên như là bị ai cắt cổ...
— Anh ! Cứu tôi với!
Thoáng thấy dáng lực lưỡng của Veltchaninov, tên địch thủ vội lẩn mất. Pavel Pavlovitch, hể hả, quay vung nắm tay và hét lên một tiếng kêu đắc thắng; nhưng Veltchaninov, không hiểu vì sao, nắm lấy vai ông kia và lay mạnh đến độ hai hàm răng của ông đó chạm cồm cộp vào nhau. Pavel Pavlovitch ngừng la tức thì và ném về phía ‘‘kẻ tàn bạo’’ một cái nhìn của người say rượu, sợ sệt và ngây ngô. Còn chưa chắc chắn biết mình sắp làm gì, Veltcbaninov, với một cử chỉ phũ phàng, đẩy ông kia ngồi xuống một cái trụ bên đường.
— Lisa chết rồi! ông nói.
Pavel Pavlovitch, mắt vẫn không rời Veltchaninov, ngồi yên trên trụ; một trong hai bà đi theo đỡ ông. Cuối cùng, ông hiểu và khuôn mặt ông hình như dãn ra.
— Chết à..., ông lẩm bẩm với một giọng khác lạ. Vẫn còn nụ cười hiểm ác của tên say hay khuôn mặt hắn ta khẽ nhăn lại? Veltchaninov, không thế nào biết rõ; nhưng một lát sau, Pavel Pavlovitch nhấc một cách vất và bàn tay mặt đang run rẩy để làm dấu thập; nhưng cử chỉ nầy không trọn vẹn và bàn tay ông lại buông xuống. Một lát, ông ta chậm chạp đứng dậy, nắm lấy cánh tay người đàn bà đã đỡ mình và, dựa vào bà ta, ông bước đi như một người mất hồn và hình như quên hẳn Veltchaninov. Nhưng ông này lại một lần nữa nắm lấy vai ông.
— Biết không đồ say! đồ quái vật! là không thể nào chôn con bé nếu không có mặt mầy? Veltchaninov la lớn với một giọng hổn hển.
Ông kia quay mặt lại.
— Anh có nhớ đến... ông Trung úy Pháo binh không? Ông lắp bắp với một giọng lè nhè.
— Sao? Veltchaninov vừa hét vừa giật thót người một cách đau đớn.
— Cha nó đó!... Tìm hắn ta cho việc mai táng đi...
— Nói dối! Veltchaninov không nén nổi cơn giận. Mày nói thế là vì ác khẩu... Tao biết rõ là mầy sẽ đem việc đó ra ‘‘chơi’’  tao!
Nổi giận, ông giơ quả đấm dữ tợn trên đầu Pavel Pavlovitch. Thiếu một chút nữa là có lẽ ông đã đấm chết tươi ông kia rồi. Hai người đàn bà vội dang ra và hét lên những tiếng chói tai, nhưng Pavel Pavlovitch không nhúc nhích: một nét căm hờn man dại, một vẻ phẫn nộ hằn lên khuôn mặt.
— Mầy có biết, — và giọng ông ta vang lên một cách quyết liệt như là không còn say nữa — mầy biết một từ ngữ của nước Nga chúng ta chứ? (và ông thốt lên một tiếng chửi thề không thể nào ghi lại). Đó, nuốt nó đi… — Ông ta gạt một cách dữ dằn hai bàn tay của Veltchaninov, đụng phải ông này và suýt ngã. Hai người đàn bà xốc nách Pavel Pavlovitch và, gần như kéo lê ông này, họ chạy trốn với tiếng la inh ỏi. Veltchaninov không đuổi theo họ.
Ngày hôm sau, vào khoảng một giờ trưa, có một ông công chức đúng tuổi, quần áo chỉnh tề, thái độ nghiêm trang, đến tận nhà ông bà Pogoréltzev và trao cho Clavdia Pétrovna một phong thư niêm kín của Pavel Pavlovitch Troussotzky gởi đến. Trong phong bì, ngoài những giấy tờ cần
 thiết cho công việc chôn cất Lisa, còn có một bức thư và ba trăm rouble. Bức thư ngắn ngủi, hoàn toàn nghiêm chỉnh và rất kính cẩn. Trong thư, Pavel Pavlovitch bày tỏ sự biết ơn của ông đối với lòng nhân từ của Đức Bà Clavdia Pétrovna đã ban bố cho đứa bé mồ côi và chỉ có Thượng Đế mới có thể tưởng thưởng xứng đáng công ơn ấy mà thôi, ông giải thích một cách rất mơ hồ, là vì không được khỏe trong người nên ông không thể đến dự đám tang đứa con khốn khổ và thân yêu của ông được, và ông chỉ còn biết nhờ cậy vào lòng thánh thiện của Đức Bà mà thôi. Còn về số tiền ba trăm rouble, ông giải thích thêm, là để lo việc ma chay và những tổn phí do bệnh tình con bé gây nên. Nếu còn dư, ông cung kính nghiêng mình khẩn nài bà tổ chức cho Lisa một lễ cầu hồn. Người đưa thư không cho biết thêm một điều gì khác; tuy nhiên qua lời ông, người ta cũng thoáng hiểu là sở dĩ ông nhận lời mang thư đến cho Đức Bà là vì Pavel Pavlovitch nài nỉ. Pogoréltzev cảm thấy như bị sỉ nhục khi đọc câu: ‘‘những tổn phí do bệnh tình con bé gây nên, và ông tuyên bố là chỉ nên giữ lại năm mươi rouble cho việc tống táng mà thôi (dĩ nhiên là không thể nào cấm một ông cha trả tiền đám ma cho con), và trả lại tức thì số tiền dư, hai trăm rưỡi rouble, cho ông Troussotzky. Nhưng cuối cùng, Clavdia Pétrovna quyết định cúng số tiền đó cho ngôi nhà thờ ở nghĩa địa để cho linh hồn của ‘‘đồng trinh Elizabeth’’ được an nghỉ. Giấy biên lai trao cho Veltchaninov để ông gởi liền bằng đường bưu điện đến cho Pavel Pavlovitch ở khách sạn.
Sau lễ tống táng, Veltchaninov rời biệt thự và biệt tăm. Trong suốt hai tuần, ông lang thang trong thành phố, không mục đích, cô đơn, suy nghĩ những đâu đâu đến độ tông cả vào khách bộ hành. Lại cũng có đôi khi ông ở nhà suốt ngày, nằm dài trên đi - văng và quên cả những điều sơ đẳng nhất, ông bà Pogoréltzev đã nhiều lần cho người đến tìm, ông hứa sẽ đến, nhưng rồi lại quên ngay. Chính Clavdia Pétrovna đã có lần đến thăm, nhưng ông lại vắng nhà. Đó cũng là trường hợp mà luật sư của ông đã gặp phải; ông này có một tin quan trọng cần cho ông biết: ông ta đã khéo léo thu xếp mọi chuyện và đối phương đã sẵn lòng chấp nhận một thoả hiệp mà theo đó, Vetchaninov sẽ có một phần đáng kể trong cái gia sản hiện đang tranh tụng. Chỉ còn thiếu sự chấp thuận của Veltchaninov mà thôi. Đến khi tìm gặp được ông này rồi, viên luật sư vô cùng kinh ngạc trước sự hững hờ và lãnh đạm của thân chủ mình đối với cái tin này, vị thân chủ mà xưa kia đã rất nôn nóng về vụ kiện.
Chúng ta đang ở vào những ngày nóng nhất của tháng bảy, nhưng Veltchaninov thì lại mất hẳn ý niệm về thời gian. Như là một cái nhọt đã đến độ chín muồi, nỗi đau đớn đã đầu độc tâm hồn ông và không ngừng hiện diện, ngự trị cả tư tưởng ông. Ông đau khố nhất khi nghĩ rằng Lisa chưa đủ thời giờ để hiểu ông, và nó đã chết mà không biết được ông đã yêu nó đến mức nào. Cái mục đích mà trước kia, đối với ông, đã thực hiện trong ánh sáng chói lọi, giờ đã vụt tắt và tiêu tan trong đêm vô tận. Giờ đây, ông không ngừng nghĩ tới cái mục đích ấy, cái mục đích cố làm cho Lisa cảm thấy tình thương của ông luôn luôn có mặt trong cuộc sống của nó. ‘‘Không, đôi khi bị khích động, ông đã nghĩ như thế, không ai có và có thể có một mục đích cao cả như của mình. Nếu còn có những mục đich khác, vẫn không có mục đích nào thiêng liêng hơn.’’  ‘‘Tình thương yêu Lisa, ông nghĩ vơ vẫn, lẽ ra đã thanh khiết hóa và giúp mình chuộc lại chuỗi ngày vô dụng và xấu xa đã qua, và mình, một thằng vô tích sự, phóng đãng, chán đời, lẽ ra đã phải nâng niu, nuôi nấng một sinh vật thanh khiết và đẹp đẽ mà nhân danh nó, mình có thể được tha thứ về tất cả mọi sự, mà nhân danh nó, chính mình, mình sẽ tự tha thứ cho mình.’’
Tất cả những ý nghĩ đó, hoàn toàn có ý thức, đã kết chặt một cách mật thiết với những kỷ niệm trong sáng về đứa bé đã chết, những kỷ niệm luôn luôn có mặt, luôn luôn khuấy động sự đau đớn.
 Ông ta thấy lại cái khuôn mặt nhỏ nhắn nhợt nhạt của nó, ông nhớ lại từng nét mặt; ông thấy lại nó đúng như lúc nó đã nằm trong áo quan, được hoa bao phủ, hay lúc nó đang bị cơn sốt dằn vặt, bất tỉnh, mắt mở rộng và bất động. Ông bỗng nhớ lại khi nó đã chết rồi, ông có nhận thấy một trong những ngón tay xinh xinh của nó, có Trời mới biết tại sao, đen bầm; việc đó làm ông xúc động đến độ thương hại cho ngón tay nhỏ nhoi đó, lần đầu tiên ông bỗng có quyết định sẽ tìm ngay Pavel Pavlovitch và giết chết hắn ta tại chỗ; ông bỗng nhớ lại cho mãi đến lúc ấy  hình như ông vẫn hoàn toàn vô tình’’.
Phải chăng sự nhục nhã mà tính tự kiêu của đứa bé đã phải chịu đựng, đã bóp nát con tim thơ dại ấy? Hay là những nỗi thống khổ mà cha nó đã bắt nó hứng chịu suốt ba tháng nay, người cha đã bỗng nhiên đem hận thù thay thế tình thương, đã mắng nhiếc nó, đã chế nhạo sự sợ hãi của nó và cuối cùng đã bỏ rơi nó cho những người xa lạ? Ông không ngừng suy nghĩ về tất cả những chuyện đó, và còn suy đi nghĩ lại những ý tưởng ấy cho đến vô cùng tận. Bỗng nhiên, ông chợt nhớ lại lời tán thán của Troussotzky: ‘‘Anh có biết trước kia Lisa như thế nào đối với tôi không?’’ và ông hiểu đó không phải là lời nói của một kẻ say mà là tiếng nói chân thành, tiếng nói của tình thương. Tại sao tên đó lại có thể tàn nhẫn đến như thế đối với một đứa bé mà nó rất thương yêu, Có lẽ nào ?... Nhưng mỗi lần nghĩ đến, ông lại bỏ tức khắc câu hỏi đó và xua đuổi nó đi liền. Trong câu hỏi đó, có cái gì khủng khiếp, quá đỗi đau đớn và bất định.
Một ngày nọ, gần như vô ý thức, ông đến nghĩa trang, nơi mai táng Lisa và đến thẳng mộ nó. Từ khi chôn nó đến giờ, ông chưa đến đây lần nào. Hình như sự đau đớn sẽ mãnh liệt hơn nên ông không dám đến. Nhưng, chuyện lạ lùng ! khi ông cúi xuống mộ và đặt một chiếc hôn dài trên nấm mồ, bỗng nhiên ông cảm thấy lòng thơ thới. Buổi chiều, khí trời thanh khiết, mặt trời đã lặn ; một thảm cỏ rậm rạp và tươi mát vây quanh những nấm mồ, một con ong vo ve bên bụi sơn- trà ; những cánh hoa, những vòng hoa mà con của Clavdia Pétrovna đã đặt trên mộ vẫn còn đó nhưng đã tàn héo dần. Và đã lâu lắm rồi, đây là lần thứ nhất, một niềm hy vọng nào đó tưới mát tâm can ông. ‘‘Êm ả làm sao !’’, ông nghĩ thế khi trước sự yên tỉnh của nghĩa trang, đôi mắt ông lạc hẳn trong bầu trời êm đềm và trong suốt. Một niềm tin tưởng kỳ lạ, an lạc và thuần khiết dâng lên và tràn ngập tâm hồn. ‘‘Đúng là Lisa gởi tặng mình, chính nó nói với mình’’, ông tự nhủ.
Khi ông quay về, trời đã xẫm tối. Không xa nghĩa trang bao lăm, dọc theođường cái, ông đi ngang một căn nhà nhỏ bằng gỗ. Đó là một lữ quán và qua những cánh cửa sổ mở rộng, ông thấy nhiều khách hàng đang ngồi ăn uống. Bỗng nhiên, hình như một trong những thực khách đó, cái ông ngồi gần cửa sổ, cũng thấy ông và hình như nhìn ông với một sự hiếu kỳ nào đó: đó là Pavel Pavlovitch. Ông tiếp tục đi và nghe có tiếng chân người đuổi theo; thật thế, Pavel Pavlovitch đang chạy theo ông. có lẽ nét mặt thanh thản của ông đã giúp ông ấy bạo dạn và đã lôi cuốn ông ta. Khi đến gần Veltchaninov, ông ta cười một cách e dè, nhưng không còn là nụ cười của một kẻ say. Ông ta không say một chút nào cả.
— Chào anh, Pavel Pavlovitch hỏi.
— Chào anh, Veltchaninov trả lời 
CHƯƠNG XI
Pavel Pavlovitch Tục Huyền
VỪA thốt xong lời trên, Veitchaninov ngạc nhiên về chính mình. Đối với ông thật là lạ lùng. Gặp lại tên ấy, ông không còn thấy giận dữ một chút nào, mà trong lòng lại dấy lên những cảm tình khác hẳn, hay đúng hơn là sự ao ước, sự manh nha của những cảm tình mới mẽ.
— Tối nay trời đẹp đấy chứ! Pavel Pavlovitch nói với một giọng ân cần.
— Anh vẫn chưa đi à? Veltchaninov vẫn tiếp tục bước và có vẻ như là suy nghĩ thành lời, chứ không phải đặt câu hỏi.
— Vâng, có chậm trễ đôi chút, nhưng tôi
đã được bổ dụng và được giữ một chức vụ cao hơn. Chắc chắn là ngày mốt tôi sẽ đi.
— Anh đã được bổ dụng rồi à? Lần này
Veltchaninov hỏi thực sự.
— Tại sao lại không? Pavel Pavlovitch bĩu
môi trả lời.
— Ồ ! Tôi nói thế mà... Veltchaninov đáp.
 Và nhíu mắt, ông ta nhìn trộm Pavel Pavlovitch. Ngạc nhiên biết bao: áo quần, mũ nón và cả hình dáng lão Troussotzky xem có vẻ đàng hoàng hơn hai tuần trước nhiều. ‘‘Hắn ta làm gì trong quán này nhỉ?’’  Ông tự hỏi thế.
— Này Aléxéi Ivanovitch, tôi xin báo anh biết một tin vui.
— Một tin vui?
— Tôi tục huyền.
— Sao?
— Sau cơn bi cực đến hồi thái lai, thường thường cuộc đời là như thế chứ anh. Aléxéi Ivanovitch, tôi rất mong muốn... nhưng tôi không biết có nên... có lẽ anh đang gấp...; dáng điệu của anh...
— Vâng, vâng, tôi có chuyện gấp... và... tôi cảm thấy không được khoẻ lắm.

Bỗng nhiên ông có ý muốn tống khứ tên bạn đồng hành này đi cho rồi. Những cảm tình tốt đẹp vừa chớm nở trong lòng ông đã vội tàn tạ ngay.
— Và tôi, tôi lại ước ao là sẽ...
Pavel Pavlovitch không nói ông ước ao điều gì và Veltchaninov cũng không đỡ lời ông ta.
— Thôi hẳn để chuyện đó lại sau nếu chúng ta còn gặp nhau.
— Vâng, vâng, sau này sẽ hay; Veltchaninov vội đáp, không nhìn ông kia và tiếp tục bước.
Một phút im lặng trôi qua. Pavel Pavlovitch vẫn đi bên cạnh.
— Thôi, chào anh ; cuối cùng Pavel Pavlovitch lên tiếng
— Chào anh, chúc anh...
Veltchaninov quay về nhà, lòng lại một lần nữa dao động. Gặp lại ‘‘tên đó’’ quả thật là ngoài sức tưởng tượng. Khi đi nằm, ông còn tự hỏi thêm một lần nữa: ‘‘Hắn làm gì gần nghĩa trang vậy nhỉ ’’?
Sáng hôm sau, ông quyết định trở lại thăm gia đình Pogoréltzev, một quyết định mà ông chẳng thích chút nào. Được người khác lo lắng, dù người khác đó là ông bà Pogoréltzev chăng nữa, đối với ông là một cực hình; nhưng họ đang quá lo ngại về tâm trạng của ông nên dù muốn, dù không, ông nhất định phải đến thăm họ. Ông bỗng tưởng tượng là chắc mình sẽ ngượng ngùng lắm nếu gặp lại họ. ‘‘Đi hay không?’’  ông tự hỏi thế trong khi đang ăn vội, ăn vàng bữa ăn sáng, thì ngạc nhiên làm sao, ông thấy Pavel Pavlovitch bước vào nhà.
Mặc dù hôm qua đã gặp nhau, Veltchaninov vẫn không thể nào ngờ là tên đó lại dám bước qua ngưỡng cửa nhà ông; ông kinh ngạc đến độ nhìn sửng ông kia mà không hỏi một lời nào. Nhưng Pavel Pavlovitch, trái lại, không chút bối rối. Ông ta chào hỏi chủ nhà rồi ngồi vào chính cái ghế mà ba tuần trước ông đã ngồi, khi ông đến thăm Veltchaninov lần chót, cái lần mà giờ đây, Veitchaninov bỗng nhiên nhớ lại với đầy đủ chi tiết.
Ông nhìn người khách với một nỗi lo âu xen lẫn nhờm tởm.
— Anh ngạc nhiên à? Pavel Pavlovitch hỏi thế khi đã đoán ra được ý nghĩa của cái nhìn.
Nhìn chung, thái độ của ông ta có vẻ ung dung hơn tối qua, nhưng đồng thời người ta cảm thấy ông ta ngại ngùng hơn. Bộ dạng của ông thật là kỳ lạ. Hôm nay, ông Troussotzky không những ăn mặc đàng hoàng mà còn đúng điệu nữa: áo vét mỏng mùa hè, quần màu nhạt may bó, gi-lê cũng màu nhạt; bao tay, áo sơ - mi mới giặt và, có Trời mới hiểu nỗi! thêm cái kính độc nhản bịt vàng; tất cả đều không thể chê vào đâu được. Ông lại còn xức cả nước hoa nữa. Trong nét mặt và dáng điệu của lão có cái gì khôi hài nhưng đồng thời khơi cho ta một ý nghĩ kỳ lạ, khó chịu.
— Anh Aléxéi Ivanovitch, ông ta nói tiếp với một sự cố gắng trông thấy, rõ ràng là cuộc viếng thăm của tôi làm anh ngạc nhiên; tôi cảm thấy thế, nhưng tôi cho là luôn luôn có, luôn luôn phải có giữa người với người một cái gì cao cả hơn, phải thế không anh? Một cái gì vượt qua tất cả mọi sự ngẫu nhiên, kể cả những đều khó chịu nữa có thể xảy ra... có phải như thế không?
— Nè Pavel Pavlovitch, anh muốn nói gì thì nói phứt ra đi, đừng có loanh quanh kiểu đó nữa.
Veltchaninov nhíu đôi lông mày lại.
— Sự việc tóm tắt như sau, Pavlovitch vội vàng nói. Tôi sắp tục huyền và tôi sẽ thăm vị hôn thê của tôi bây giờ đây. Cô ta cũng ở miền quê. Và tôi mong có được cái hân hạnh lớn lao là giới thiệu anh với gia đình đó, và tôi mạo muội thỉnh cầu anh, kính cẩn mong anh đi với tôi. (Pavel Pavlovitch cúi thấp đầu xuống).
Veltchaninov trợn tròn đôi mắt.
— Đi đâu với anh?
— Đi đến biệt thự của họ. Ồ! Anh tha lỗi cho, tôi hơi sốt ruột nên có thể tôi trở nên lúng túng, nhưng vì tôi quá sợ anh từ chối.
Ông nhìn Vetlchaninov với một vẻ khẩn cầu.
— Anh muốn tôi đi với anh đến nhà vợ chưa cưới của anh ngay bây giờ? Veltchaninov vừa nói, vừa nhìn nhanh ông kia và không tin những gì mắt thấy tai nghe.
— Vâng, Pavel Pavlovitch trả lời với một sự sợ hãi quá đáng. Anh Aléxéi Ivanovitch, anh không giận đó chứ? Về phần tôi, đây không phải là một lời xấc láo mà là một lời thỉnh nguyện, một lời khẩn cầu vô cùng thiết tha. Tôi mong anh không từ chối tôi việc đó...
— Trước hết là chuyện này không thể được. Veltchaninov bắt đàu loay hoay trên ghế.
— Đây chỉ là một ước muốn quá đáng của tôi chứ không có gì khác đâu, Pavel Pavlovitch tiếp tục. Tôi cũng không giấu anh là tôi cũng có lý do, nhưng về sau tôi sẽ nói anh rõ, còn bây giờ thi tôi khẩn cầu anh...
Ông ta đứng dậy, dáng điệu đầy vẻ trịnh trọng.
— Nhưng mà không thể được ; dầu gì đi nữa, anh phải công nhận điều đó... Veltchaninov cũng đứng đậy theo.
— Không, việc này có thế làm được, anh Alẻ- xéi Ivanovitch ạ. Tôi xin đề nghị là tôi sẽ giới thiệu anh như là người bạn thân. Vả lại, ở đó người ta đã biết anh kia mà. Đó là gia đình ông Zakhlebi- nine đó.
— Anh nói sao? Veltchaninov la lớn.
Thì ra chính là cái ông ủy Viên trong Tham Chính viện mà ông đã cố tìm đến nhà và là người, theo ông, đã ủng hộ đối phương trong vụ kiện về vấn đề kế thừa gia sản.
— Vâng, đúng thế, Pavel Pavlovitch vừa cười vừa nói, như là ông được sự ngạc nhiên vượt mức của Veltchaninov khuyến khích. Đúng ông đó ; anh còn nhớ chứ? Anh với ông ta đi cạnh nhau, và tôi, ở bên này lề đường, tôi nhìn anh và tôi chờ anh từ giầ đế đến gần ông ta. Cách đây vài chục năm, tôi với ông cùng làm chung một sở, nhưng khi tôi định đến gặp ông ta thi tôi lại chưa có một dự định nào cả. Ý nghĩ này mới chợt đến với tôi khoảng một tuần lễ nay.
— Nhưng, nè anh, hinh như đó là một gia đình đàng hoàng lắm cơ mà? Veltchaninov hỏi với một sự ngạc nhiên ngây ngô.
— Đàng hoàng lắm. Và rồi thì sao?...
Khuôn mặt Pavel Pavlovitch khẽ cau lại.
— Ồ! Không có gì. Không phải tôi muốn nói thế... nhưng mà, theo chỗ tôi có thể nhận xét gì được...
— Họ còn nhớ, họ còn nhớ rõ lắm buổi viếng thăm của anh, Pavel Pavlovitch cắt lời với lên một sự sốt sắng tươi vui. Nhưng, hôm đó, anh không thể gặp gia đình họ được. Về phần người cha, ông ta còn nhớ anh và quý mến anh lắm. Tôi rất tán tụng anh với ổng.
— Nhưng chị mất mới có ba tháng !
— Ồ! Việc cưới xin chưa có liền đâu; phải trong vòng chín hay mười tháng nữa kia, và lúc đó, tôi để tang cho nhà tôi đã được năm rồi. Anh tin tôi đi, mọi việc đều êm đẹp. Trước hết, Fédosséi Pétrovitch biết tôi lúc còn bé; ông ta cũng biết nhà tôi; ông biết tôi sống như thế nào; ông lại biết rõ về sự nghiệp tôi. Hơn nữa, tôi cũng có một gia sản đáng kể và tôi vừa được cất nhắc lên một chức vụ quan trọng hơn. Tất cả những sự việc đó có một tầm quan trọng đó chứ.
— Vậy thì ra con gái của ông ta?
— Tôi sẽ kể anh nghe rõ chi tiết hơn.
Pavel Pavlovitch xoa hai bàn tay vào nhau với vẻ thích thú.
— Nhưng anh cho phép tôi châm một điếu thuốc đã. Vả lại, hôm nay, chính anh, anh gặp ông đó. Ở Pétersbourg, người ta rất quý trọng những nhà doanh nghiệp như Fédosséi Pétrovitch, nhất là khi họ lại nổi bật trong địa hạt của họ. Nhưng, ngoài số tiền lương và bổng lộc linh tinh, tiền phụ cấp, tiền thưởng, tiền trợ cấp về nhà cửa, về phần thực phẩm thì ông ta không còn có gì nữa hết ; ông không có căn : ông không có vốn liếng. Với một gia đình như thế, người ta sống đầy đủ nhu6ng không để dành được gì ráo. Anh tưởng tượng xem ; Fédosséi Bétrovitch cá tám gái và một trai còn nhỏ. Nếu ông ta chết, lũ con sẽ chỉ được một số tiền cấp dưỡng ít oi. Tám đứa con gái! Anh nghĩ xem! Chỉ mỗi đứa một đôi giày thôi cũng đã là một số tiền quan trọng rồi. Năm cô đã đến tuổi lập gia đình. Cô cả đã hai mươi bốn tuổi (một thiếu nữ dễ thương, rồi anh sẽ gặp) : cô thứ sáu, mười lăm tuổi, hãy còn đi học. Phải tìm chồng cho năm cô chị và tính trước được cô nào hay cô đó, do đó, ông cha phải dẫn dắt họ làm quen với giới thượng lưu. Anh tưởng tượng thử việc đó tốn kém đến mức nào? Và đúng lúc đó tôi có mặt, tôi, người cầu hôn đầu tiên đến với gia đình đó, và họ, họ biết rõ tôi ; họ biết tôi có của. Đó chỉ có thế thôi.
Pavel Pavlovitch thuật lại với niềm hứng khởi.
— Anh xin cưới cô cả?
— Không... tôi... không phải cô cả. Tôi đính hôn với cô thứ sáu, cái cô còn đi học đó.
— Anh nói sao! Veltchaninov thốt lên với một nụ cười ngoài ý muốn. Nhưng anh nói cô ta chỉ mới có mười lăm tuổi mà.
— Bây giờ thì nàng mới có mười lăm tuổi,  nhưng trong chín tháng nữa, nàng sẽ đến tuổi đôi tám; mười sáu tuổi và ba tháng. Vả lại, tại sao không được?... Và vì hiện giờ chưa thuận tiện nên họ chưa cho ai hay tin; tôi đã giao ước với song thân nàng như thế... Anh tin tôi đi, mọi sự đều êm đẹp !
— Như vậy nghĩa là chưa có gì dứt khoát cả?
— Dứt khoát chứ. Mọi việc đều đã định đoạt xong. Mọi sự đều êm đẹp, anh tin tôi đi.
— Và cô ta, cô ta có biết không?
— Người ta chưa nói để giữ lễ nghi; nhưng, mà làm sao nàng lại không biết được? — Pavel Pavlovitch nheo mắt. — Vậy anh Aléxéi Ivanovitch nè, anh mừng dùm tôi chứ? Ông rụt rè hỏi như là một lời kết luận.
— Nhưng mà tôi, tôi sẽ làm gì ở đằng nhà ấy? Vả lại, ông vội vàng nói thêm, tôi sẽ chẳng đi trong bất cứ trường hợp nào, anh đừng nên viện thêm lý do.
— Aléxéi Ivanovitch...
— Nhưng mà làm sao tôi có thể ngồi cạnh anh trong xe được? Anh nghĩ lại xem !
Sự mất cảm tình, sự nhờm chán đã tan đi trong chốc lát, bây giờ với cuộc đối thoại trên, lại sống dậy mãnh liệt hơn. Nán thêm một khoảnh khắc nào nữa, có lẽ, hình như thế, ông sẽ tống cổ Pavel Pavlovitch ra khỏi cửa ngay; ông giận cả mình mà không hiểu tại sao.
— Anh sẽ ngồi cạnh tôi, Aléxéi Ivanovitch ạ, anh sẽ ngồi và anh không hối tiếc đâu, Pavel Pavlovitch nói với một giọng cam động. — Đừng, đừng, ông ta vội đưa bàn tay ra dấu như để ngăn chặn một cử chỉ  ‘‘sốt ruột’’ của Veltchaninov. Aléxéi Ivanovitch, anh Aléxér Ivanovitch này ! Hãy chờ thêm một chút nữa đã trước khi chọn một thái độ dứt khoát! Tôi thấy có lẽ anh hiểu lầm tôi. Tôi biết là chúng ta khó có thể là bạn tri kỷ; tôi không đến nỗi quá ngu đần để không biết điều đó, nhưng việc tôi nhờ anh bây giờ đây không có gì trói buộc anh về sau cả. Vả lại, ngày mốt tôi sẽ rời hẳn nơi đây. Chúng ta có thể xem như không có chuyện gì xảy ra cả. Đây là một ngày duy nhất. Khi đi đến nhà anh, tôi đã đặt tất cả hy vọng nơi sự cao quý của những tình cảm của anh, anh Aléxéi Ivanovitch ạ, đặt nơi những tình cảm đã có thể, trong mấy lúc gần đây, thúc đẩy trong tâm hồn anh... Tôi mong là tôi đã trình bày khá rõ ràng; hay là như thế vẫn còn chưa đủ?
Sự giao động của Pavel Pavlovitch trở nên tột độ. Veltchaninov ngạc nhiên nhìn lão ta.
— Anh nhờ tôi giúp anh một việc, ông nói, dáng trầm ngâm, và anh đã nài nỉ đến độ tôi đâm ra nghi ngại; tôi muốn biết rõ hơn nữa kia.
— Việc tôi nhờ là anh đi cùng với tôi. Chỉ có thế thôi. Sau này, khi trở về, tôi sẽ kể hết anh nghe, như một con chiên thú tội với cha sở vậy. Aléxéi Ivanovitch, anh hãy tin tôi đi.
Nhưng Veltchaninov vẫn khư khư chối từ, và càng lúc ông càng cảm thấy một ý nghĩ đen tối, bất chính ló dạng. Cái ý nghĩ đó đã mơ hồ có từ lúc Pavel Pavlovitch nói về vị hôn thê của hắn ta; phải chăng đó chỉ là một sự tò mò hay một sự ham muốn nào khác chưa thành hình? Có một cái gì thúc đẩy ông hãy nhận lời đi, nhưng sự cám dỗ mạnh chừng nào thì sự đối kháng cũng mãnh liệt chừng đó. Ông ngồi yên, chống cùi tay và nghĩ ngợi. Pavel Pavlovitch đi quanh và kèo nài ông.
— Thôi được, tôi sẽ đi, ông đột ngột chấp thuận nhưng hơi dao động và gần như là lo lắng. Pavel Pavlovitch thì tỏ ra rất vui sướng.
— Aléxéi Ivanovitch nè! Ông vừa nói vừa xun xoe quanh Veltchaninov đang mặc áo quần, anh đã từng sành sỏi về vấn đề ăn diện, vậy anh hãy ăn mặc cho thật bảnh bao đi.
‘‘Thằng dị hợm, Veltchaninov nghĩ thầm, tại sao nó lại dính vào chuyện này nhỉ?’’

— Tôi lại còn nhờ thêm anh một việc nữa, Aléxéi Ivanovitch ạ. Anh đã thương mà nhận lời rồi thì bây giờ phiền anh làm cố vấn hộ tôi.
— Cố vấn chuyện gì thế?
— Một chuyện rất quan trọng: cái băng tang. Bây giờ nên giữ lại hay nên vất đi? Cách nào thích hợp hơn?
— Tùy anh.
— Không, tôi chờ một quyết định của anh; Nếu anh có băng tang trên nón thì anh sẽ làm gì? Theo tôi thì nên giữ nó lại vì như thế chứng tỏ sự thủy chung của mình và dễ gây cảm tình cho mình hơn.
— Đành phải vất đi vậy.
— Có cần thiết đến như thế không? Pavel Pavlovitch trầm ngâm trong giây lát-
—Không, tôi thích giữ nó lại.
— Tùy anh.
 ‘‘Nó có tin tưởng gì mình đâu, Veltchaninov tự nhủ, càng tốt’’.
Họ cùng bước ra. Pavel Pavlovitch chăm chú nhìn Veltchaninov một cách sửng sốt, ông này ăn mặc rất bảnh bao và khuôn mặt ông ta dường như biểu lộ một cái gì rất là kính cẩn và nghiêm trọng. Thái độ của Pavel Pavlovitch làm Veltchaninov ngạc nhiên trong khi chính thái độ của mình lại càng làm cho ông ta ngạc nhiên hơn nữa. Một xe tứ mã mui trần sang trọng đang chờ họ trước cửa.
— Anh đã thuê xe rồi à? Vậy là anh tin chắc tôi bằng lòng đi cùng anh?
— Không, tôi thuê xe cho tôi; nhưng tôi hầu như tin là thế nào anh cũng đến đó, Pavel Pavlovitch trả lời, vẻ sung sướng hoàn toàn.
— Anh Pavel Pavlovitch này, Veltchaninov nói với một giọng cười có phần nào bực tức, khi họ đã an tọa và xe bắt đầu chạy,... anh không tin chắc vào tôi lắm đãy chứ?
— Nhưng mà không phải là bổn phận của anh, Aléxéi Ivanovitch ạ, không phải là bổn phận của anh nói với tôi rằng đó là một điều ngu dại của tôi, Pavel Pavlovitch trả lời rất nghiêm trang và lớn tiếng.
‘‘Và Lisa’’ Veltchaninov thầm nghĩ; nhưng ông bác bỏ tức khắc ý nghĩ đó như là sợ phạm phải một điều cấm kỵ. Và bổng nhiên, ông cảm thấy mình trở nên ti tiện, nhỏ nhen, và cái ý nghĩ đã cám dỗ ông, cái ý nghĩ đó đổi với ông có vẻ quá hèn hạ, quá xấu xa đến độ thêm một lần nữa ông có một ý muốn mãnh liệt là bỏ tất cả và thoát ra khỏi xe dù phải dùng vũ lực để đối phó với Pavel Pavlovitch. Nhưng ông này lại bắt đầu nói và sự cám dỗ lại một lần nữa xâm chiếm tâm hồn Veltchaninov.
— Này Aléxéi Ivanovitch, anh có rành về đá quý không?
— Loại nào?
— Kim cương.
— Có, tôi có biết.
— Tôi muốn mang đến một món quà nhỏ. Theo ý anh có nên làm như thế không?
— Theo tôi thì không, không nên như thế.
— Còn tôi thì tôi lại muốn làm chuyện đó, Pavel Pavlovitch nài nỉ. Nhưng mà mua thứ gì đây? Mua đủ cả một bộ với trâm cài, hoa tai và vòng tay hay là chỉ mua một món thôi?
— Anh định mua vào khoảng bao nhiêu?
.— Vào khoảng bốn hay năm trăm rouble gì đó.
— Ồ!
— Quá nhiều? Pavel Pavlovítch hỏi với vẻ lo lắng.
— Mua một chiếc vòng độ một trăm rouble là được rồi.
Pavel Pavlovitch có vẻ phiền muộn. Ông ta muốn chi tiền nhiều hơn và mua cho đủ bộ trang sức kia. Ông cố gắng thuyết phục. Họ cùng dừng lại trước một cửa hàng. Cuối cùng rồi họ cũng mua một chiếc vòng, nhưng không phải chiếc Pavel Pavlovitch thích mà là chiếc Veltchaninov chỉ định, Pavel Pavlovitch thì lại muốn lấy cả hai chiếc, và khi người chủ hiệu kim hoàn chịu để chiếc vòng với giá một trăm năm mươi rouble sau khi đã đòi đến một trăm bảy mươi lăm rouble, ông lại cảm thấy có phần nào không bằng lòng; ông có thể vui vẻ trả hai trăm nếu người ta cứ nói thách, dường như ông muốn vung tiền.
— Ngay giờ đây tôi có biếu xén chăng nữa cũng chẳng có gì bậy cả, ông giải thích với sự phấn khởi khi họ tiếp tục lên đường. Đằng đó không kiểu cách đâu, họ rất bình dị. Cô ả ngây thơ thích những món quà nhỏ, ông nói với một nụ cười vui tươi và láu lĩnh. Chốc nữa, cái tuổi trăng tròn đó sẽ làm anh mỉm cười, Aléxéi Iva-novitch ạ; nhưng chính chuyện này đã đập mạnh vào trí tưởng tượng của tôi; cái sự kiện cô ả còn đi đến trường với một cái cặp sách trên tay... Hì, hì ! Chính cái cặp sách đó đã quyến rủ tôi. Tôi thích cái tính ngây thơ, Aléxéi Ivanovitch ạ. Theo nhãn quan của tôi thì chuyện quan hệ không phải là sắc đẹp mà chính là sự ngây thơ. Trời, những tiếng cười của cô ta với một cô bạn trong góc nhà ! Tiếng cười ngây thơ làm sao ! Họ cười chuyện gì? Về chuyện một con mèo nhảy từ tủ xuống và cuộn tròn trên giường. Chuyện đó thoang thoảng mùi lê chín !... Tốt hơn, có lẽ tôi vất cái băng tang này đi.
— Tùy anh.
— Tôi vất ! Ông giở nón, giựt cái băng tang ra và vất xuống đường. Veltchaninov thấy mặt của ông ta rạng rỡ hy vọng khi ông đội lại chiếc mũ trên cái đầu sói.
 ‘‘Nhưng mà, ông ta suy nghĩ với sự giận dữ, có thật là như thế không? Sự nài nỉ của hắn không che giấu một cạm bẫy nào chứ? Có thật nó tin cậy vào lòng độ lượng của mình không?  Cái giả thiết cuối cùng này chừng như xúc phạm đến ông. Vậy thì nó là thứ gì? Một thằng hề, một thằng ngu, một người chồng muôn thuở? Nhưng cuối cùng rồi thì đó lại là chuyện bất khả!...’’
CHƯƠNG XII
Đằng Nhà Zakhlébinine
GIA đình Zakhlebinine quả đúng như lời Veltchaninov phát biểu là ‘‘một gia đình rất đàng hoàng’’: ông Zakhlébinine giữ một địa vị then chốt và rất được quý trọng. Những gì mà Pavel Pavlovitch đã nói về nguồn lợi của ông ta cũng đúng nốt. ‘‘Hình như họ đang sống một cuộc sông dư dã, nhưng nếu người cha qua đời thì gia đình này chẳng còn gì nốt.’’
Zakhlébinine tiếp đón Veltchaninov rất niềm nở; địch thủ ngày qua bây giờ đã trở thành một người bạn.
— Như thế này thật là quý hóa, xin có lời ngợi khen, chủ nhà tỏ ngay thái độ trong những lời nói đầu, những lời nói với một giọng nhu hòa nhưng trịnh trọng. Chính tôi đã cố nài nỉ hai bên cùng bải nại và điều đình với nhau, và ông Piotr Karlovitch (luật sư của Veltchaninov) thật là một người hiếm có về mặt này. Ông sẽ lãnh sáu mươi ngàn rouble mà khỏi phải cãi cọ, dây dưa ! Mà vụ kiện này có thể kéo dài đến ba mươi năm đó!
Veltchaninov được giới thiệu ngay với bà Zakhlébinine, một người đàn bà có tuổi, phốp pháp với một khuôn mặt mệt mỏi và tầm thường. Tiếp đến, mấy cô con lần lượt ra mắt. Đông lắm: mười, hay mười hai lận. Veltchaninov không tài nào đếm được, cô này bước vào, cô kia bước ra; nhưng trong số đó cũng có cả mấy cô ở nhà bên cạnh, những cô bạn của gia đình này. Biệt thự của ông bà Zakhlébinine là một ngôi nhà đồ sộ bằng gỗ, kiến trúc theo một kiểu chưa từng có và kỳ quái với rất nhiều dãy nhà ngang được cất trong nhiều thời kỳ khác nhau. Ngôi nhà lại có một khu vườn rộng, rất rộng ăn lan đến những ba hay bốn biệt thự khác nữa, khu vườn này là của chung và việc đó đã tự nhiên giúp cho các cô Zakhlébinine với các cô bạn láng giềng dễ gần gũi nhau hơn nữa.
 Ngay trong những lời nói đầu, Veltchaninov nhận thấy là cả nhà đang chờ đợi mình và cuộc viếng thăm này đã được Pavel Pavlovitch trịnh trọng báo trước như là một buổi ra mắt của một người bạn thân muốn làm quen với gia đình Zakhlébinine. Cái nhìn sắc bén của ông đã khám phá ra ngay cái hậu ý của cuộc tiếp đón này, một cuoc-5 tiếp đón dành riêng cho ông, bằng vào sự tiếp đãi ân cần có phần nào thái quá của ông bà, bằng vào một vài dáng điệu có vẻ sửa soạn, bằng vào những y phục và đồ trang sức chau chuốt của các cô (dĩ nhiên đây là một buổi lễ), ông ngờ là Pavel Pavlovitch đã mưu mô làm nẩy nở một vài một vài hy vọng nào đó trong gia đình này bằng cách nói bóng nói gió về ông, dĩ nhiên là như vậy, như là một người thuộc ‘‘thành phần thượng lưu’’, giàu có, chán cuộc sống độc thân và có thể sẵn sàng ‘‘cắm neo’’ và yên phận, ‘‘nhất là ông lại vừa hưởng gia tài’’. Hình như cô cả, cô Katérina Fédosséivna, người con gái hai mươi bốn tuổi rất dễ thương mà Pavel Pavlovitch đã nói đến, có vẻ hợp với hoàn cảnh. Cô ta nổi bật giữa mấy chị em với trang phục cầu kỳ, với mái tóc chải bới một cách độc đáo. Mấy người em và mấy cô kia có vẻ hoàn toàn tin chắc Veltchaninov đến là ‘‘vì Katia, là để xem mặt cô này’’. Suốt trong ngày hôm đó, những tia nhìn và ngay cả trong những lời nói không kềm giữ nổi của họ, khiến ông tin thêm giả thuyết trên. Katérina Fédosséievna là một cô gái tóc vàng, cao to, gần như là đẩy đà, với một khuôn mặt xinh xinh, với tánh tình rõ ràng là hiền lành, thụ động, có phần nào nhu nhược. ‘‘Cô ta vẫn còn là con gái thì lạ thật, dù không muốn Vechaninov vẫn thầm nghĩ như thế, khi nhìn cô ấy với một niềm vui sướng; cô ta không có của hồi môn, đành thế, và rồi đây cô ta sẽ trở nên phốp pháp một cách thái quá, nhưng hiện giờ thì cũng vẫn có thể có người yêu chuộng...’’  Mấy cô em cũng không đến nỗi tệ lắm, và trong số các cô láng giềng, ông nhận thấy có một vài khuôn mặt dễ thương và đẹp nữa là đằng khác. Chuyện này làm cho ông thích thú; vả lại, ông cũng có ý riêng khi mới bước vào.
Nadièjna Fédosséievna, người thứ sáu, cái cô còn đi học, người con gái đã được Pavel Pavlovitch xem như là vị hôn thê, bắt mọi người chờ đợi. Veltchaninov đợi cô bé với một sự nôn nóng làm cho chính ông cũng phải ngạc nhiên nhưng trong thâm tâm thì ông lại xem thường. Cuối cùng, cô nàng bước vào với một người bạn gái, Maria Nikitichna, một cô gái tóc nâu có khuôn mặt lanh lợi và láu lĩnh; mà về sau chúng ta rõ thêm là Pavel Pavtovitch có vẻ ngán cô ả này lắm. Sự xuất hiện này không phải là không có tác dụng. Cái cô Maria Nikitichna đó, khoảng hai mươi ba tuổi, vui vẻ và thông minh, là cô giáo kiêm quản gia của lũ trẻ nhà quen bên cạnh; xưa nay ông bà Zakhlébinine, vẫn xem cô như người trong gia đình và mấy cô con gái cũng quý mến cô ta lắm. Rõ ràng là giờ đây, nhất là Nadia không thể nào chịu thiếu sự có mặt của cô ta được. Thoáng nhìn, Veltchaninov nhận thấy ngay là các cô ấy, ngay cả những cò bạn láng giềng nữa, đều đồng lòng chống lại Pavel Pavlovitch, và, một phút sau khi Nadia bước vào, ông thấy là cô này cũng ghét ông kia nốt. Ông cũng nhận thấy Pavel Pavlovitch không hay biết gì việc đó hay là lão ta không muốn hay biết. Phải công nhận Nadia đẹp nhất trong đám: đó là một cô bé tóc nâu với vẻ man dại, liều lĩnh như một tên cảm tử, một nữ quái với đôi mắt sáng ngời, với nụ cười dịu dàng, dù rằng đôi khi có vẻ tàn nhẫn, với đôi môi chín mọng, với hàm răng đều đặn, với dáng người mảnh mai, dong dỏng; khuôn mặt tuy còn trẻ thơ nhưng đã ánh lên những ý nghĩ đầy dẫy nhiệt tình. Tuổi trăng tròn của cô ta được nhận thấy trong từng cử chỉ, trong từng lời nói mà thôi. Về sau này, ông thấy quả thật cô bé có mang một cái cặp sách bằng vải dầu như Payel Pavlovitch đã thấy trong lần đầu, nhưng hiện giờ thì cô ta không mang gì cả.
Cái vòng không có tác dụng nào cả mà lại gây một ấn tượng khó chịu. Khi thấy vị hôn thê, Pavel Pavlovitch đến gần với nụ cười, ông trao món quà và viện cớ là ‘‘trong lần trước ông cảm thấy vô cùng vui sướng khi được nghe Nadia Fédosséievna vừa hát vừa đệm dương cầm bản tình ca tuyệt diệu đó...’’ Ông lúng túng, không biết kết luận như thế nào và ngây người ra. Ông cố dúi món quà vào tay Nadia nhưng cô này không muốn nhận và, mặt đỏ bừng vì hổ thẹn và tức giận, cô thu tay ra đằng sau. Cuối cùng, cô ta xoay mình một cách xấc xược về phía mẹ, bà này có vẻ ngượng nghịu, và nói lớn:
— Má, con không nhận đâu.

 — Cầm lấy và cám ơn đi con, ông cha phán với giọng cương quyết và nghiêm khắc; nhưng chính ông, ông cũng không bằng lòng. ‘‘ Vô ích, vô ích’’, ông khẽ nói cho Pavel Pavlovitch nghe với một vẻ đầy ý nghĩa. Không thể làm cách nào hơn, Nadia đành nhận hộp quà và, mặt cúi gầm xuống, cô cúi chào theo kiểu các con bé: cô vội gập người xuống rồi đứng thẳng dậy tức thì như một chiếc lò so bung ra. Một cô chị đến gần để xem chiếc vòng, và Nadia đưa cho cô đó cái hộp còn đậy kín như muốn nói rõ là cô ta không thèm cả đến chuyện nhìn món trang sức đó. Người ta lấy chiếc vòng ra khỏi hộp và chuyền cho nhau xem, nhưng tất cả đều ngắm nghía trong im lặng và một vài cô còn điểm cả một nụ cười mỉa mai nữa. Chỉ một mình bà mẹ, với một giọng uể oải khen chiếc vòng rất đẹp. Pavel Palovitch có lẽ muốn độn thổ. Veltchaninov vội đỡ lời. Ông bắt đầu nói lớn tiếng và nghĩ gì thì ứng khẩu ngay tức thì; chưa đầy năm phút sau, ông đã làm cho mọi người có mặt phải chú ý đến mình, ông có cả nghệ thuật nói chuyện với giới thượng lưu, nghệ thuật này nằm ở chỗ tỏ ra vẻ giản dị và thành thật, và đồng thời, với sắc mặt, mình cũng tỏ cho kẻ đối thoại biết là mình xem họ là những người hoàn toàn giản dị và thành thật. Khi cần, ông cũng biết cách đóng vai một người vui vẻ và sung sướng. Ông cũng biết cách thốt ra đúng lúc một danh từ tế nhị, một lời nói bóng thú vị, một lộng ngữ thông minh như là do tình cờ mà nói ra và không có vẻ gì là suy nghĩ, tìm tòi cả, dù rằng những chữ đó, những lời bóng gió đó và cả câu chuyện ông nói ra đó đã được sửa soạn từ lâu, đã được thuộc nằm lòng và đã được nhiều lần xử dụng đến. Hôm nay, khí sắc của ông lại trợ lực thêm cho nghệ thuật kia; có cái gì lôi cuốn ông, ông cảm thấy cao hứng; ông quả quyết tin là vào khoảng vài phút, tất cả những cặp mắt kia sẽ hướng về phía mình, tất cả những người đó chỉ nghe một mình ông, sẽ chỉ nói chuyện với ông, sẽ chỉ cười những gì ông thốt ra mà thôi. Mà thật thế, đây đó đã có vài tiếng cười vọng lên; dần dần mọi người đều góp chuyện; tài nói chuyện của ông tinh vi đến độ lái mọi người trong cuộc đàm thoại; người ta đã nghe ba, bốn giọng cùng nói một lúc. Sự hài lòng, gần như là sự vui sướng, rạng rỡ trên khuôn mặt ủ ê và mệt mỏi của bà Zakhlébinine; người ta cũng thấy thế trên nét mặt của Katérina Fédosséievna đang ngồi nghe và nhìn ông với vẻ say mê. Nadia trộm nhìn Veltchaninov và nhìn rất chăm chú; người ta thấy là lúc đầu cô ta có ý đề phòng ông; việc này chỉ làm cho Veltchaninov càng thêm phấn khởi. Tuy nhiên Maria Nikitichna, ‘‘cái ả chanh chua’’, cũng xen được vào câu chuyện một lời cay độc: nàng kể là tối qua Pavel Pavlovitch có cho biết Veltchaninov là một người bạn thủa nhỏ; như thế cô ả thêm cho Veltchaninov đúng bảy tuổi và còn nhấn mạnh vào điểm này nữa. Nhưng rồi, Veltchaninov cũng thành công trong việc làm vừa lòng cái ả Maria Nikitichna chanh chua đó. Pavel Pavlovitch hoàn toàn kinh ngạc. Dĩ nhiên, ông biết tài ăn nói của bạn, và lúc đầu ông rất sung sướng khi thấy bạn thành công, ông đã cười một cách khiêm tốn cùng với những người khác và đã góp nhiều chuyện, nhưng rồi dần dần ông trở nên trầm ngâm, buồn là khác, và nét mặt đăm chiêu đã tố cáo những tình cảm thầm kín đang dày vò ông.
— Tôi thấy ông là một người khách mà người kia khỏi phải mất công toi, ông Zakhlébinine vui vẻ tuyên bố và đứng dậy để về phòng trên lầu hai mà ở đó, dù hôm nay là ngày lễ, ông còn nhiều giấy tờ cần phải ký.
— Ông thử nghĩ xem, tôi đã từng coi ông như là người bẵn gắt nhất của giới trẻ. Thật không có gì lầm lẫn hơn !
Trong phòng khách có một cây dương cầm: Veltchaninov muốn biết người nào chơi nhạc, và ông chợt hỏi Nadia:
— Cô hát được chứ?
— Ai nói với ông thế? Cô ta đáp với giọng lãnh đạm.
— Chính Pavel Pavlovitch đấy.
 — Không đúng đâu. Tôi hát chỉ để mà làm trò cười; tôi không có giọng.
— Tôi cũng thế, tôi không có giọng nhưng mà tôi vẫn hát.
— Ông biết hát kia à? Nếu vậy, tôi sẽ hát, Nadia trả lời, mắt rực sáng; nhưng để thong thả đã, sau cơm chiều hẵn hay, cô ta thêm. Tôi chán ngấy cái đàn này rồi: ở nhà tất cả mọi người đều đàn và hát suốt ngày. Chỉ một mình Katia thôi cũng đã quá đủ rồi.
Veltchaninov bắt ngay lấy lời nói đó; ông nhận thấy Katérina là người độc nhất trong đám chơi được âm nhạc một cách đàng hoàng. Ông vội vã yêu cầu cô ta ngồi vào đàn. Tất cả đều có vẻ bằng lòng khi thấy ông nói chuyện với Katia, và má cũng đỏ mặt vì sung sướng, Katérina Fédosséviena tươi cười đứng dậy, và tiến về phía cây đàn; mặt chợt đỏ bừng và nàng cảm thấy vô cùng bối rối như một đứa bé gái nhỏ, nàng, một cô gái đã hai mươi bốn xuân xanh, cao to như thế, mạnh khỏe như thế; và tất cả những cảm tình đó đã hiện trên khuôn mặt nàng khi nàng bắt đầu dạo nhạc. Nàng đàn rất rõ ràng, gẫy gọn một khúc nhạc của Haydn nhưng không có hồn mấy vì nàng bị ép buộc. Khi nàng dứt tiếng đàn, Veltchaninov ngợi khen nồng nhiệt, nhưng không phải khen ngợi ngón đàn mà là khen ngợi Haydn, đặc biệt là bản nhạc mà nàng vừa trình tấu; việc đó làm cho
 nàng vui thích ra mặt và nàng cũng có vẻ biết ơn và sung sướng về những lời khen tặng không phải cho nàng mà là cho Haydn đó đến nổi Veltchaninov, ngoài ý muồn, ném về phía nàng một cái nhìn chăm chú, trìu mến hơn như có ý nói ‘‘Cô quả thật là một cô gái trung hậu’’, và tất cả mọi người hình như hiểu ngay ánh nhìn đó, nhất là chính Katérina Fédosséievna.  
— Khu vườn nhà đẹp làm sao, ông đột ngột lên tiếng, không nói riêng với một ai và vừa quay mình về phía cửa gương lớn ngoài bao lan. Ra vườn đi nào !
— Phải đó, đi nào! Rồi là những tiếng reo vui như ông đoán trúng được sở thích của tất cả mọi người.
Họ rong chơi trong vườn cho đến bữa cơm. Bà Zakhlébinine, đã muốn đi nghỉ từ lâu cũng không thể không theo mọi người ra vườn, nhưng bà thận trọng ngồi lại, ngoài sân thượng và rồi thiu thỉu ngủ tức thì. Ở ngfoài vườn, Veltchaninov và các cô chóng trở nên thân thiết. Có ba thanh niên từ những biệt thự bên cạnh đến góp mặt: người thứ nhất là một sinh viên, người thứ hai là một học sinh ; hai người này chạy vội đến phía các ‘‘cô bồ’’của họ ; và họ cũng cho thấy là họ qua đây cũng chỉ vì mấy cô đó ; riêng người thứ ba là một gã thanh niên khoảng đôi mươi, mặt mày cú tráu, vẻ bí mật và tráo trở, mang một cặp kính xanh khổng lồ. Hắn ta thấp giọng nói một chuyện gì đó rất ngắn ngủi với Maria Nikitichna và Nadia; lông mày nhíu lại, hắn ném về phía Veltchaninov những cái nhìn nghiêm khắc và hình như có vẻ khinh miệt thậm tệ ông này. Một vài cô đề nghị bày trò chơi tức khắc; và trả lời cho câu Veltchaninov hỏi thường thường các cô chơi trò gì, họ đáp là họ có rất nhiều trò, những buổi chiều thì thường chơi trò đoán các câu tục ngữ: tất cả mọi người đều ngồi lại trong khi người bị đố ra xa trong chốc lát; người ta sẽ chọn câu tục ngữ nào đó, thí dụ như câu: Ai đi chậm sẽ đi xa ; rồi gọi người kia vào và tuần tự mỗi người phải nói cho người đó nghe một câu đã được nghĩ sẵn; người thứ nhất nói một câu có chữ ai; người thứ nhì, một câu có chứa chữ đi, và lần lượt như thế. Người kia phải đoán ra những chữ đó và dựng lại câu tục ngữ kia.
— Như vậy chắc hẳn là vui lắm, Veltchaninov nhận xét.
— Ồ ! Không! Chán lắm, nhiều giọng cùng cất lên một lượt.
— Chúng tôi cũng chơi diễn kịch nữa, Nadia xen vào. Ông có thấy cái cây cổ thụ có ghế dài bao quanh ở đằng kia không? Đó là hậu trường sân khấu, nơi các diễn viên đứng chờ; vua, hoàng hậu, công chúa, kép chánh; mỗi vai sẽ xuất hiện khi nào họ thích và nói những gì chợt đến trong đầu; đôi khi trò này cũng thành công.
— Thế thì tuyệt đấy chứ? Lại một lần nữa, Veltchaninov tán thành.
— Ồ! Không ! Chán lắm, chán không thể tả. Lúc đầu. trò này không đến nỗi nào, nhưng vào hồi chung cuộc, tất cả đều rối beng vì không ai biết kết luận ra sao cả; Có ông, có lẽ sẽ khá hơn. Vậy mà chúng tôi lại hình dung ông là bạn của Pavel Pavlovitch! ông ấy đã khoác lác, thế thôi. Tôi rất lấy làm sung sướng được ông đến chơi vì một chuyện nào đó.
Cô ta nhìn Veltchaninov một cách đầy ý vị. rất nghiêm trọng và vội chạy đến nhập bọn cùng Maria Nikitichna.
— Buổi chiều, chúng ta sẽ chơi trò đoán tục ngữ, một cô gái mà Veltchaninov vừa mới diện kiến và chưa nói với ông một lời nào, thì thầm một cách bí mật bên tai ông. — Chiều nay, tất cả chúng tôi sẽ cho lão Pavel Pavlovitch ''leo cây''; và ông, ông sẽ dự phần.
— Ồ! Thật là sung sướng cho chúng tôi được ông đến chơi! Ở đây, buồn muốn chết được! Một cô gái khác mà ông không hề để ý đến, không biết từ đâu xuất hiện, thân mật bảo ông thế. Cô bé này, tóc hung và mặt đỏ đến độ buồn cười vì chạy mệt và vì hơi nóng.
Pavel Pavlovitch càng lúc càng trở nên nghi ngại. Còn Veltchaninov và Nadia, cuối cùng, trở nên đôi bạn thân; cô ta hết nhìn trộm Veltchaninov và không nghĩ đến chuyện dò xét ông này nữa; cô ta cười, nhảy, hò hét và đã hai lần nắm cả tay ông nữa. Cô ta sung sướng lắm và tiếp tục không để ý gì đến Pavel Pavlovitch, coi như là không có mặt ông ta. Veltchaninov tin chắc là thực có một âm mưu nào đây để phá Pavel Pavlovitch; trong khi Nadia và một nhóm các cô kéo Veltchaninov về phía mình, các cô kia, viện những lý do nào đó, dẫn Pavel Pavlovitch về phía họ ; nhưng ông này thoát khỏi, chạy hốc tốc về phía Veltchaninov và Nadia và đột nhiên thò chiếc đầu sói với vẻ lo ngại giữa hai người để mong nghe lóm được câu nào chăng. Cuối cùng, lão không cần thận trọng nữa: đôi lúc thái độ ngớ ngẩn của lão thật kỳ quái. Veltchaninov không thể không chăm chú quan sát thêm Katérina Fédosséievna: bây giờ cô ta đã hiểu rõ là ông đến không phải vì cô, cô cũng hiểu thêm là ông chú ý nhiều đến Nadia; nhưng gương mặt cô vẫn phản chiếu sự dịu dàng, sự bằng lòng như trước kia. Chỉ được ngồi gần những kẻ khác và được nghe ông khách nói chuyện là hình như cô cảm thấy sung sướng rồi; chính cô, cô gái đáng thương đó, cô không tài nào bắt chuyện một cách khéo léo được.
— Chị Katérina Fédosséievna của cô dễ thương đó chứ! bỗng nhiên Veltchaninov thì thầm như thế với Nadia.
 — Katia? Nhưng mà ai có thể tốt hơn chị ấy được? Chị là vị thiên thần của tất cả chúng tôi, và tôi, tôi rất mến chị ấy, cô ta trả lời, giọng tán tụng.
Đến năm giờ, người ta dọn cơm chiều. Rõ ràng đây không phải là một bữa cơm thường và chủ nhà đã bỏ khá tiền vì người khách mới. Hai hay ba món cầu kỳ được thêm vào thực đơn thường nhật; một trong mấy món đó đặc biệt đến độ không ai có thể nói là món gì. Ngoài những thứ rượu vang thường dùng, còn có thêm một chai tokay —thứ rượu vang ngọt của Hung Gia Lợi,— hiển nhiên là mua cho dịp này, và, về cuối bữa ăn, người ta còn thết cả rượu sâm-banh nữa. Ông Zakhlébinine, có hơi quá chén rồi, sắc mặt vui vẻ và nghe Veltchaninov nói bất cứ điều gì, ông cũng cười được cả. Cuối cùng, Pavel Pavlovitch, không thể nhịn được nữa: bị lòng ganh đua lôi kéo, ông cố gắng xen vào câu chuyện một lời lộng ngữ; ở đầu bàn bên kia, chỗ ông ngồi gần bà Zakhlébinine, bỗng nhiên vang lên tiếng cười ròn rã của các cô.
— Ba ! Ba! Ông Pavel Pavlovitch cũng biết cách chơi chữ đây nè! Hai cô con Zakhlébinine cùng la lên một lượt.
— À! Cả ông ta mà cũng chơi chữ nữa à? Ông nói gì vậy? Zakhlébinine hỏi với một giọng trịnh trọng pha đôi chút bao dung và đã cười sẵn cho câu nói mà ông đang chờ nghe.
— Dạ, ông ấy bảo tụi con là ''những cô gái đáng chiêm ngưởng''.
— Ừ, nhưng mà?...— Ông ta vẫn chưa hiểu chơi chữ ở chỗ nào, tuy nhiên nụ cười của ông càng lúc càng khả ái ân cần.
— Nhưng thưa ba, tại sao ba lại chưa hiểu được?
Cuối cùng mấy cô giảng cho cha nghe.
— À, à! ông hơi ngượng ngùng, Hừm...! Được rồi... Một lần khác, ông ta sẽ nói khá hơn... Và ông cười rộ.
— Người ta không thể nào có cùng một lúc nhiều tài được, có phải thế không, thưa ông Pavel Pavlovitch? Maria Nikitichna hỏi với giọng diễu cợt. Trời! Ông ta bị hóc xương cá ! Cô ta la lên và vội vàng đứng dậy.
Mọi người đều xôn xao và đó là điều mà Maria Nikitichna mong muốn, Thật ra Pavel Pavlovitch chỉ bị sặc rượu khi ông cố uống để che giấu sự bối rối mà thôi; nhưng Maria Nikitichna thề có Trời Đất rằng  ‘‘chính mắt cô trông thấy ông ấy nuốt một cái xương cá lớn có thể nguy đến tính mạng’’.
— Đập vào lưng ông ta đi ! Có người nào đó la lên.
— Đúng đó, cách đó là hay nhất, ông Zakhlébinine lên tiếng.— Có người thực hành ngay. Maria Nikitichna, cô bé tóc hung (cũng được mời dự tiệc), và chính cả bà Zakhlébinine đang lo sợ nữa. Tất cả đều muốn đấm vào lưng Pavel Pavlovitch. Ông này rời bàn ăn và vừa cố tránh tầm tay của mấy người kia vừa giải thích cho mọi người yên lòng là ông chỉ bị sặc và cơn ho sẽ dứt ngay. Lúc đó mọi người mới vỡ lẽ là Maria Nikitichna ‘‘đùa dai’’.
— Cô nghịch quá mức rồi đấy nhé... Bà Zakhlébinine cố nói với một giọng nghiêm khắc nhưng chính bà, bà lại không thế nào tiếp tục la mà lại cười rủ lên, một tràng cười không hề có lúc bình thường, làm mọi người đều cười theo.
Sau bữa cơm, mọi người dùng cà phê ngoài sân thượng.
— Năm nay, trời tốt thật, Zakhlébinine vừa nghiêm trang nói vừa ngắm khu vườn với vẻ hài lòng.— Tuy nhiên, lối rày cũng cần phải có trận mưa mới được. Thôi; tôi đi nghỉ đây. Hãy vui đùa thỏa thích đi ! Cả anh nữa nhé! Ông vỗ vai Pavel Pavlovitch nói thêm rồi bước đi.
Khi tất cả mọi người đều xuống vườn, Pavel Pavlovitch vội phóng đến phía Veltchaninov và nắm lấy tay áo ông này.
— Xin anh một phút, ông thì thầm, vẻ nóng nảy.
Họ cùng đi vào một con đường nhỏ xa khuất.
— Anh thứ lỗi cho, nhưng mà lần này, tôi không thể nào để cho anh..., ông trầm giọng uất nghẹn vì tức giận, và bóp chặt cánh, tay Veltehaninov.
 — Sao! Có chuyện gì thế? Veltchaninov hỏi, mắt mở tròn.
Pavel Pavlovitch nhìn ông này mà không thể nói được gì; đôi môi máy máy, nụ cười giận dữ.
— Các ông đi đâu vậy? Các ông ở đâu đó? Tất cả đều sẵn sàng rồi đây ! Các cô gọi với giọng nôn nóng.
Veltchaninov nhún vai và đi tìm họ. Pavel Pavlovitch gấp bước đi theo.
— Tôi cá là ông ta mượn ông một chiếc khăn tay, Maria Nikitichna nói với Veltchaninov; lần trước, ông ta đã một lần quên khăn..
—  Ông ấy thì luôn luôn quên, một cô trong số các chị em nhà Zakalebinine vội vàng nói thêm.
—  Ông ta quên khăntay ! — Ông Pavel Pavlovitch quên mang theo khăn tay ! Má ơi, ông Pavel Pavlovitch quên đem khăn tay!— Má ơi! ông Pavel Pavlovich lại bị sổ mũi ! Họ la cùng tứ phía.
— Nhưng tại sao ông không bảo ! Ông thì cứ luôn luôn khách sáo, ông Pavel Pavlovitch ạ! Bà Zakhlébinine nói với một giọng nhừa nhựa. Đừng coi thường cảm cúm đấy. Để tôi cho người mang khăn ra cho. Nhưng mà tại sao ông ta lại cứ luôn luôn bị cảm thế nhỉ? bà ta nói thêm khi bước xa họ; bà sung sướng vì có cớ để vào nhà.
— Tôi có hai chiếc đây, Pavel Pavlovitch la
 với theo, và tôi chẳng cảm cúm chút nào cả.— Nhưng có lẽ bà ta vẫn không hiểu; và lát sau, trong khi Pavel Pavlovitch đi theo mọi người và cố gắng theo sát Nadia và Veltchaninov, thi một cô hầu phòng hồng hộc chạy đến đưa cho ông một chiếc khăn tay.
— Nào ! Mình chơi trò đoán tục ngữ đi! Mình chơi trò đoán tục ngữ đi! Tứ phía đều có người la lên như hy vọng trò chơi này chỉ có Trời biết được sẽ thú vị ra sao.
Họ chọn một chỗ và ngồi xuống những chiếc ghế dài. Maria Nikitichna được chọn làm người đoán đầu tiên; họ buộc cô này đi ra xa và không được nghe lóm. Chọn xong câu tục ngữ, họ phân phối các chữ trong câu. Maria Nikitichna trở lại và đoán ra ngay. Câu tục ngữ như sau: Hiểm nguy tuy lớn nhưng Thượng Đế lại khoan dung.
Rồi đến lượt người thanh niên mặt quạu với cặp kính màu xanh. Họ ngăn ngừa anh này còn gắt hơn nữa; họ bắt anh ta đứng gần ngôi nhà hóng mát, mặt quay vào tường. Gã thanh niên có vẻ bí mật và tráo trở thi hành nhiệm vụ với một vẻ cao ngạo và khinh miệt; hình như gã cảm thấy bị lăng nhục. Khi người ta gọi lại, anh ta không tài nào đoản được ; anh ta đi quanh mọi người hai lần, bắt từng người nhắc lại mỗi câu hai lần rồi anh đứng suy nghĩ rất lâu, mặt đăm chiêu, nhưng không kết quả. Họ làm cho gã xấu hổ. Câu tục ngữ được đem đố như sau: Lời cầu nguyện dâng lên Chúa, việc làm hiến cho Vua, không bao giờ uổng phí.
— Câu tục ngữ gì mà ngây ngô thế, gã càu nhàu, vẻ giận dỗi khi ngồi lại xuống ghế.
— Ồ! Chán quá! Có vài ba giọng phàn nàn nổi lên.
Rồi đến lượt Veltchaninov. Họ bắt ông ta ra xa hơn nữa. Ông cũng không thể nào đoán đúng.
— Chán quá! Chán quá! Giọng phàn nàn nhiều hơn lúc nãy.
— Bây giờ đến phiên tôi, Nadia nói.
— Chưa đâu, chưa đâu, ông Pavel Pavlovitch đoán đã chứ! Phiên của ông Pavel Pavlovitch kia mà ! các cô đồng la lên, vẻ ồn ào.
Họ dẫn Pavel Pavlovitch ra tận vòng tường và bắt ông ta đứng đó, dán mũi vào một góc, dưới sự kiểm soát của cô bé tóc hung. Pavel Pavlovitch đã lấy lại bình tĩnh và vẻ vui tươi nên sẵn sàng thi hành nhiệm vụ một cách chu đáo; bất động như một khúc củi, không dám quay lại, ông ta chăm chú nhìn bức tường. Cô bé tóc hung, dáng điệu bồn chồn, vừa đứng canh chừng ông ta khoảng vài mươi bước vừa ra ám hiệu cho các cô kia; chắc chắn là họ âm mưu gì đấy, họ sửa soạn một chuyện trọng đại mà họ đã nóng nảy chờ đợi nãy giờ. Đột nhiên, cô bé tóc hung quơ tay, và tất cả bọn túa chạy thục mạng.
— Chạy đi! Chạy đi nào, cả chục giọng thì thào và lo lắng thúc giục Veltchaninov, khi thấy ông này vẫn đứng nguyên tại chỗ.
— Có chuyện gì thế? Chuyện gì xảy ra thế? Ông vừa chạy theo vừa hỏi.
— Im nào! Đừng la nữa ! Lão ta chỉ việc đứng đó, mũi dán vào tường trong khi tụi mình chuồn gấp. Coi kìa, Nadia cũng lủi rồi.

Nastia (cô bé tóc hung) chạy như điên, tay vẫy rối rít; người ta tưởng chừng có chuyện gì chỉ có Trời biết được, đang xảy ra. Cuối cùng mọi người chạy đến cuối vườn, bên kia đằng sau cái ao. Khi Veltchaninov nhập bọn, ông thấy Katerina Fédosséievna đang cãi lẫy sôi nổi với các cô, đặc biệt là với Nadia và Maria Nikitichna.
— Katia, xin chị bớt giận! Nadia vừa nói vừa ôm hôn chị.
— Được rồi, chị sẽ không mách má; nhưng chị, chị không chơi nữa đâu vì mấy em tệ lắm. Đứng bên cạnh tường đằng kia, ông ta sẽ nghĩ sao, cái ông đáng thương đó?
Cô ta bỏ đi, nhưng mấy cô còn lại thì không tỏ vẻ gì trắc ẩn. Họ yêu cầu Veltchaninov đừng để ý đến Payel Pavlovitch và cứ xem như là không có chuyện gì xảy ra cả khi lão tìm đến họ. ‘‘Và bây giờ, mình chơi đuổi bắt đi!’’ cô bé tóc hung la lên, vẻ hớn hở.
Khoảng mười lăm phút sau mà chắc là đã mất hết mươi phút bất động bên cạnh bức tường, Pavel Pavlovitch tìm ra họ. Mọi người đang hăng say chơi đùa; tất cả đều la hét và cười giỡn. Giận điên, Pavel Pavlovitch chạy thẳng đến phía Veltchaninov và một lần nữa, nắm lấy tay áo ông này.
— Ngừng chơi một chốc.
— Trời ! Thật là chán cho những cái ‘‘một chốc’’ của ông ấy.
— Ông ta lại cầm khăn tay ! vài người lên tiếng.
— Lần này thì anh, chính anh và chỉ mình anh là người đã gây ra chuyện này! Pavel Pavlovitch nói với giọng đay nghiến.
Veltchaniuov ngắt lời và ôn tồn khuyên nhủ bạn nên vui vẻ hơn lên: ‘‘Trong lúc mọi người đều vui đùa thì anh lại có vẻ không vui; và chính vì vậy họ chọc anh đó’’. Trước sự ngạc nhiên của ông, những lời nói đó lại ảnh hưởng nhiều đến Pavel Pavlovitclì; ông nầy bỗng nhiên trở nên im lặng, rất từ tốn nữa là khác, trở lại nhập cuộc chơi với dáng điệu mềm mỏng. Họ để ông yên trong một thời gian, họ chơi đùa với ông như với tất cả những người khác, và, trong khoảng hơn kém nửa giờ, ông ta hầu như lấy lại được sự vui vẻ. Khi nào phải chọn cặp thì gần như là luôn luôn ông ta chọn có bé tóc hung, con bé ‘‘phản bội’’, hay là một trong những chị em Zakhlébinine. Và, càng ngạc nhiên hơn nữa, Veltchaninov nhận thấy chưa lần nào Pavel Pavlovitch dám nói chuyện với Nadia, dù ông có mặt thường xuyên cạnh cô này. Dầu sao mặc lòng, hình như ông chấp nhận việc người ta xem thường ông như là một điều đương nhiên. Nhưng, gần cuối cuộc chơi, người ta lại chơi ông thêm một vố khác nữa.
Lúc đó, họ đang chơi trốn bắt và cho phép muốn trốn đâu thi trốn. Pavel Pavlovitch, đang ẩn trong một bụi rậm, bỗng nảy ý vào trốn trong nhà ; người ta thấy ông chạy, nhiều tiếng la hét nổi lên; ông leo nhanh lên cầu thang và phóng nhanh về phía gác lửng; ông biết ở đó có một cái xó nằm phía sau tủ áo, và ông muốn núp ở đó. Nhưng cô bé tóc hung đã đuổi theo; rón rén trên đầu ngón chân, nó chạy đến tận cửa phòng, đóng lại và khóa trái cửa. Rồi như lúc nãy, mọi người ngừng chơi và cùng nhau chạy trốn. Vào khoảng mười phút sau, cảm thấy hình như không ai tìm mình, Pavel Pavlovitch ló đầu ra ngoài cửa sổ. Không có ai cả. Ông ta không dám kêu, sợ đánh thức ông bà Zakhlébinine dậy; còn cô hầu phòng và bà bếp thì đã được lệnh rất nghiêm nhặt là không được ra mặt và cũng không được lên tiếng nếu Pavel Pavlovitch có kêu. Chỉ còn có một mình Katérina Fédosséievna là có thế giải cứu ông; nhưng, từ khi quay về phòng, cô ta nằm thiu thiu và ngủ lúc nào không hay. Ông bị nhốt gần một tiếng. Cuối cùng, mấy cô lần lượt xuất đầu lộ diện.
— Pavel Pavlovitch! Tại sao ông không ra chơi ! Đằng kia vui lắm! Tụi tôi chơi trò diễn kịch: Aléxéi Ivanovitch thủ vai kép mùi.
— Pavel Pavlovitch! ông làm gì trên đó? Chúng tôi ngạc nhiên lắm, ngạc nhiên thật đấy !
— Chuyện gì thế? bà Zakhlébinine đột nhiên cất tiếng hỏi; bị đánh thức, bà quyết định xuống vườn và tham dự cuộc chơi của  sắp nhỏ  trong khi chờ trà.
— Má hãy nhìn ông Pavel Pavlovitch một chút đã nào !
Họ chỉ cho bà khuôn mặt tái vì tức giận và nhăn nhó một nụ cười của Pavel Pavlovitch ló ra trong khung cửa sổ.
— Trong khi mọi người đều nô đùa, vui gì mà ông lại đứng một mình ở đó nhỉ? Bà ta vừa lắc đầu vừa nói.
Trước đó, Veltchaninov đã lấy được lòng tin của Nadia, cô nàng giải thích cho ông biết vì sao cô đã ‘‘rất sung sướng về cuộc viếng thăm của ông’’. Sự giải thích này đã được cô thổ lộ trên lối đi nhỏ khuất nẻo. Maria Nikitichna ra hiệu cho Veltchaninov, lúc đó đang tham dự cuộc chơi nhưng đã bắt đầu cảm thấy một nỗi buồn sâu xa; rồi dẫn ông đến gần Nadia và để riêng hai người đứng đó.
— Bây giờ, tôi tin rồi, Nadia mở lời một cách bạo dạn với giọng nhanh, gấp, tôi tin chắc là ông chẳng thân thiết chút nào với Pavel Pavlovitch cả, như lão ta đã khoe. Tôi nghĩ ông là người duy nhất có thể giúp tôi một việc hệ trọng. Đây là chiếc vòng khả ố của lão, — cô ta rút cái hộp trong túi ra.— Van ông, nhờ ông hoàn lại cho lão tức thì, vì tôi, suốt đời tôi sẽ chẳng bao giờ nói với lão một lời nào nữa. Ông có thể nói với lão là tôi nhờ ông trả lại, và nhờ ông thêm là lão ta đừng nên bao giờ dám cả gan mang quà tặng đến nữa. Chuyện còn lại, tôi sẽ nhờ những người khác nói cho lão biết. Ông có thể vui lòng giúp tôi việc đó chăng?
— Trời đất! Xin cô miễn cho tôi việc này ! Veltchaninov la lên và đẩy lui cái hộp.
— Vì sao? Tại sao lại miễn cho ông việc đó? Rất ngạc nhiên vì sự khước từ ấy, Nadia trợn tròn đôi mắt. Cô ta đâm ra hốt hoảng và gần khóc. Veltchaninov bật cười.
— Không phải là …tôi rất sung sướng … nhưng mà tôi và ông ấy còn nhiều chuyện cần thanh toán...
— Tôi đã biết chắc ông không phải là bạn của lão ấy và lão đã nói dối, cô ta ngắt lời, giọng liến thoắng. Không khi nào tôi lấy lão ta, lão nên biết thế, không khi nào! Tôi cũng không hiểu nổi tại sao lão lại dám tặng quà!... Nhưng dù sao đi nữa, ông cũng nên phải trả lại lão cái vòng nhơ nhuốc này, vì tôi, tôi có thể làm gì khác hơn? Tôi mong muốn, chiếc vòng được trả lại cho lão ngay trong hôm nay, và lão lãnh nhận điều sĩ nhục này. Nếu lão dám phàn nàn với ba tôi, lão sẽ thấy chuyện gì xảy ra cho lão.
Ngay lúc đó, từ một bụi rậm, gã thanh niên mặt mày cú tráu với cặp kính màu xanh, nhô người ra.
— Ông phải trả cái vòng đó lại, hắn ta cộc cằn nói với Veltchaninov. Đó là nhân danh quyền lợi của phái yếu, nếu như ít nữa, ông đủ trình độ hiểu nổi điều đó...
Nhưng hắn không thể nói trọn câu. Nadia nắm mạnh tay hắn và đẩy ra.
— Trời! Sao anh lỗ mãng thế, Prédpossylov, cô ta hét lên. Đi đi! Anh đi đi ! Và anh không được theo dõi chúng tôi nữa đấy. Tôi đã bảo anh đừng lại gần rồi kia mà!— Cô ta vùng vằng; tên kia vội phóng mình vào bụi rậm nhưng nàng vẫn tiếp tục bước tới bước lui trên lối đi, vẻ tức giận, mắt rực sáng và hai bàn tay chắp lại trên ngực.
— Ông không thể nào tưởng tượng họ lỗ mãng đến bực nào! — Cô ta chợt dừng lại trước mặt Veltchaninov. — Vâng, ông thì ông buồn cười, nhưng hãy nghĩ đến những gì tôi cảm thấy, tôi đây nè!.
CHƯƠNG XII (tt)
LÚC đó, họ đang chơi trốn bắt và cho phép muốn trốn đâu thi trốn. Pavel Pavlovitch, đang ẩn trong một bụi rậm, bỗng nảy ý vào trốn trong nhà ; người ta thấy ông chạy, nhiều tiếng la hét nổi lên; ông leo nhanh lên cầu thang và phóng nhanh về phía gác lửng; ông biết ở đó có một cái xó nằm phía sau tủ áo, và ông muốn núp ở đó. Nhưng cô bé tóc hung đã đuổi theo; rón rén trên đầu ngón chân, nó chạy đến tận cửa phòng, đóng lại và khóa trái cửa. Rồi như lúc nãy, mọi người ngừng chơi và cùng nhau chạy trốn. Vào khoảng mười phút sau, cảm thấy hình như không ai tìm mình, Pavel Pavlovitch ló đầu ra ngoài cửa sổ. Không có ai cả. Ông ta không dám kêu, sợ đánh thức ông bà Zakhlébinine dậy; còn cô hầu phòng và bà bếp thì đã được lệnh rất nghiêm nhặt là không được ra mặt và cũng không được lên tiếng nếu Pavel Pavlovitch có kêu. Chỉ còn có một mình Katérina Fédosséievna là có thế giải cứu ông; nhưng, từ khi quay về phòng, cô ta nằm thiu thiu và ngủ lúc nào không hay. Ông bị nhốt gần một tiếng. Cuối cùng, mấy cô lần lượt xuất đầu lộ diện.
— Pavel Pavlovitch! Tại sao ông không ra chơi ! Đằng kia vui lắm! Tụi tôi chơi trò diễn kịch: Aléxéi Ivanovitch thủ vai kép mùi.
— Pavel Pavlovitch! ông làm gì trên đó? Chúng tôi ngạc nhiên lắm, ngạc nhiên thật đấy !

— Chuyện gì thế? bà Zakhlébinine đột nhiên cất tiếng hỏi; bị đánh thức, bà quyết định xuống vườn và tham dự cuộc chơi của  sắp nhỏ  trong khi chờ trà.
— Má hãy nhìn ông Pavel Pavlovitch một chút đã nào !
Họ chỉ cho bà khuôn mặt tái vì tức giận và nhăn nhó một nụ cười của Pavel Pavlovitch ló ra trong khung cửa sổ.
— Trong khi mọi người đều nô đùa, vui gì mà ông lại đứng một mình ở đó nhỉ? Bà ta vừa lắc đầu vừa nói.
Trước đó, Veltchaninov đã lấy được lòng tin của Nadia, cô nàng giải thích cho ông biết vì sao cô đã ‘‘rất sung sướng về cuộc viếng thăm của ông’’. Sự giải thích này đã được cô thổ lộ trên lối đi nhỏ khuất nẻo. Maria Nikitichna ra hiệu cho Veltchaninov, lúc đó đang tham dự cuộc chơi nhưng đã bắt đầu cảm thấy một nỗi buồn sâu xa; rồi dẫn ông đến gần Nadia và để riêng hai người đứng đó.
— Bây giờ, tôi tin rồi, Nadia mở lời một cách bạo dạn với giọng nhanh, gấp, tôi tin chắc là ông chẳng thân thiết chút nào với Pavel Pavlovitch cả, như lão ta đã khoe. Tôi nghĩ ông là người duy nhất có thể giúp tôi một việc hệ trọng. Đây là chiếc vòng khả ố của lão, — cô ta rút cái hộp trong túi ra.— Van ông, nhờ ông hoàn lại cho lão tức thì, vì tôi, suốt đời tôi sẽ chẳng bao giờ nói với lão một lời nào nữa. Ông có thể nói với lão là tôi nhờ ông trả lại, và nhờ ông thêm là lão ta đừng nên bao giờ dám cả gan mang quà tặng đến nữa. Chuyện còn lại, tôi sẽ nhờ những người khác nói cho lão biết. Ông có thể vui lòng giúp tôi việc đó chăng?
— Trời đất! Xin cô miễn cho tôi việc này ! Veltchaninov la lên và đẩy lui cái hộp.
— Vì sao? Tại sao lại miễn cho ông việc đó? Rất ngạc nhiên vì sự khước từ ấy, Nadia trợn tròn đôi mắt. Cô ta đâm ra hốt hoảng và gần khóc. Veltchaninov bật cười.
— Không phải là …tôi rất sung sướng … nhưng mà tôi và ông ấy còn nhiều chuyện cần thanh toán...
— Tôi đã biết chắc ông không phải là bạn của lão ấy và lão đã nói dối, cô ta ngắt lời, giọng liến thoắng. Không khi nào tôi lấy lão ta, lão nên biết thế, không khi nào! Tôi cũng không hiểu nổi tại sao lão lại dám tặng quà!... Nhưng dù sao đi nữa, ông cũng nên phải trả lại lão cái vòng nhơ nhuốc này, vì tôi, tôi có thể làm gì khác hơn? Tôi mong muốn, chiếc vòng được trả lại cho lão ngay trong hôm nay, và lão lãnh nhận điều sĩ nhục này. Nếu lão dám phàn nàn với ba tôi, lão sẽ thấy chuyện gì xảy ra cho lão.
Ngay lúc đó, từ một bụi rậm, gã thanh niên mặt mày cú tráu với cặp kính màu xanh, nhô người ra.
— Ông phải trả cái vòng đó lại, hắn ta cộc cằn nói với Veltchaninov. Đó là nhân danh quyền lợi của phái yếu, nếu như ít nữa, ông đủ trình độ hiểu nổi điều đó...
Nhưng hắn không thể nói trọn câu. Nadia nắm mạnh tay hắn và đẩy ra.
— Trời! Sao anh lỗ mãng thế, Prédpossylov, cô ta hét lên. Đi đi! Anh đi đi ! Và anh không được theo dõi chúng tôi nữa đấy. Tôi đã bảo anh đừng lại gần rồi kia mà!— Cô ta vùng vằng; tên kia vội phóng mình vào bụi rậm nhưng nàng vẫn tiếp tục bước tới bước lui trên lối đi, vẻ tức giận, mắt rực sáng và hai bàn tay chắp lại trên ngực.
— Ông không thể nào tưởng tượng họ lỗ mãng đến bực nào! — Cô ta chợt dừng lại trước mặt Veltchaninov. — Vâng, ông thì ông buồn cười, nhưng hãy nghĩ đến những gì tôi cảm thấy, tôi đây nè!
— Không phải chàng, phải không? Không phải chàng đó chứ? Veltchaninov vừa cười vừa hỏi.
— Dĩ nhiên là không phải, không phải chàng đâu. Tại sao, ngay cả ông mà cũng có thể nghĩ như thế? — Nadia cười và đỏ mặt. — Đó là bạn của anh ta. Nhưng tại sao ảnh lại chọn loại bạn như thế? Tôi không hiểu nổi; mọi người đều nói hắn là một người có tương lai xán lạn, nhưng mà tôi, tôi không hiểu nỗi hắn... ông Aléxéi Ivanovitch này, tôi không có ai để nhờ cậy nữa cả. Vậy một lời cuối cùng: ông có trả giùm tôi chiếc vòng không?
— Vậy thì vâng, cô hãy đưa cho tôi.
— Ồ! Ông tử tế quá; ông tốt quá ! cô ta nói với vẻ hớn hở khi trao ông chiếc hộp. Để đền đáp công ơn, tối nay, tôi sẽ hát cho riêng ông nghe, vì ông nên biết là tôi hát khá lắm đấy nhé; lúc nãy tôi bảo tôi không thích âm nhạc là tôi nói dối đó. À ! Tôi sẽ sung sướng biết bao nếu ông có thể trở lại đây một lần nữa, một lần ngắn ngủi cũng được. Tôi sẽ kể ông nghe tất cả, tất cả mọi chuyện, và còn nhiều chuyện khác nữa vì ông tốt quá, quá tốt như chị Katia.
Thật thế, khi mọi người trở vào nhà để dùng trà, cô ta hát cho ông nghe hai bản tình ca với một giọng chưa điêu luyện lắm, nhưng khá dễ thương và vững chắc. Họ đã thấy Pavel Pavlovitch ngồi bệ vệ bên cạnh hai ông bà Zakhlébinine quanh chiếc bàn trà, trên bàn ấm nước bằng bạc lớn đang sôi và người ta đã sắp sẵn một bộ ấm tách bằng sứ Sèvres. Pavel Pavlovitch có lẽ đang bàn tính chuyện gì quan trọng lắm với hai ông bà, vì ngày kia ông sẽ đi xa gần chín tháng. Ông làm như không để ý gì đến đám trẻ vừa từ ngoài vườn bước vào, đặc biệt là đối với Veltchaninov; cho đến lúc đó ông vẫn chưa lên tiếng phàn nàn điều gì, và mọi việc đều êm thắm.
Nhưng khi Nadia sắp sửa hát, ông có mặt ngay.
Nadia giã vờ không trả lời một câu ông hỏi thẳng cô ta, nhưng ông vẫn không tỏ vẻ gì bối rối cả. Ông ngồi sau ghế của cô ta và với thái độ đó, ông tỏ cho mọi người biết rằng đó là chỗ của ông và ông không nhường cho một ai.
— Đến lượt Aléxéi Ivanovitch hát. Má, Aléxéi Ivanovitch muốn hát ! Các cô la lên và xúm quanh cây dương cầm, nơi Veltchaninov, rất tự tin, đang ngồi và đang sửa soạn tự đệm đàn.— Hai ông bà cùng với Katérina Fédosséievna vừa pha trà xong từ phòng ăn bước sang phòng khách.
Veltchaninov chọn một bản tình ca của Glinka, một bài hát mà bây giờ hầu như đã chìm vào quên lãng.  
Em hé môi, giờ hân hoan đã đến,
Và dịu dàng em thỏ thẻ bên tôi...

Ông hát những lời đó như riêng gởi cho Nadia, lúc đó đang đứng cạnh ông. Đã lâu lắm rồi, hầu như ông không còn giọng, nhưng người ta cũng đoán được là xưa kia có lẽ giọng ông tốt lắm. Cách đây khoảng hai mươi năm, lúc còn là một sinh viên, lần đầu tiên ông được nghe chính Glinka trình bày tình khúc nói trên trong một đêm văn nghệ được tổ chức tại nhà người bạn của nhạc sĩ. Đang cơn hứng, trong đêm đó, Glinka đàn và hát những sáng tác ông ưa thích và, trong những sáng tác đó của ông, có bản tình ca kia. Chính lúc đó Glinka cũng không có giọng, nhưng Veltchaninov vẫn giữ mãi cái ấn tượng sâu xa mà bản nhạc kia đã lưu lại : chưa có một nghệ sĩ lành nghề hay một ca sĩ thính phòng nào đạt nổi độ diễn tả nồng nhiệt như thế. Sự say mê lớn dần theo từng câu hát, và chính vì trạng thá ngày càng căng thẳng đó mà chỉ cần trình bày lố một chút, diễn tả nhạc thể sai một chút, những điều được mọi người bỏ qua trong một vỡ nhạc kịch, là bản nhạc mất hẳn ý nghĩa và tầm giá trị của nó cũng kém bớt đi, đã đòi hỏi một nguồn cảm hứng chân thành, một sự đam mê sống động, hay ít ra là một sự tái tạo đầy thi vị nếu muốn cho nhạc phẩm được trình bày đứng đắn. Nói một cách khác, bản tình ca đó hình như chỉ là một bài ca tầm thường, khó có thể diễn tả mối đam mê nồng nhiệt này với một cường độ nào đó mà không gây ra sự nhàm chán, nếu không xen vào việc trình bày sự thành thực, sự giản dị và sự chân chất. Veltchaninov nhớ lại xưa kia ông trình bày bản nhạc đó rất thành công.Ông diễn tả gần giống như lối trình diễn của Glinka. Cho nên lần này, ngay trong những âm thanh mở đầu, ngay trong câu thơ đầu tiên, nhạc hứng đã sôi sục trong huyết quản và khiến giọng ca ông rung động. Từ mỗi chữ, những tình cảm được diễn tả với nhiệt tình, được bóc trần một cách táo tợn; những câu thơ cuối vang lên như những tiếng kèn của đam mê, và, khi hát, đôi mắt long lanh của ông đã nhìn đắm đuối Nadia:
Tôi kề môi, tai nào lắng tiếng em,
Không ngại ngùng, nhìn sâu đôi mắt biếc, Tôi muốn hôn, muốn quá nụ hôn mềm...
Nadia rùng mình vì sợ, và cô ta khẽ thụt lùi; máu dồn lên má, và, ngay lúc đó, Veltchaninov thoáng thấy trên khuôn mặt thẹn thùng và lo sự đó một vẻ gì biểu lộ sự tán đồng. Tất cả thính giả đều như bị mê hoặc, nhưng đồng thời có vẻ ngượng ngùng; đối với họ, hình như hát như thế là không nên, là đáng xấu hổ; nhưng dù vậy, những khuôn mặt trẻ đỏ au vì thẹn, những cặp mắt rực sáng đó vẫn như chờ đợi ông tiếp tục hát nữa. Veltchaninov nhận thấy đặc biệt là khuôn mặt của Katérina Fédosséievna hầu như trở nên đẹp đẽ.
— Hì, hì; đó mới thật là một bài ca ái tình!
Ông Zakhlébinine lẩm bẩm, hơi bối rối. Nhưng mà, phải chăng có phần nào táo bạo?... Rất hay... nhưng táo bạo...
— Vâng, đúng là táo bạo, bà vợ xen vào.
Nhưng Pavel Pavlovitch không để cho ông hát dứt câu; như một thằng điên, ông nhào đến và quên cả giữ gìn, đến độ gần nắm cả tay Nadia và hung dữ kéo cô này ra xa Veltchaninov; mắt nẩy lửa, môi run run, ông gằn giọng nói:
— Tôi có chuyện muốn nói với anh.
Veltchaninov nhận thấy, với tình trạng của Pavel Pavlovitch lúc đó, ông này có thể làm bất cứ chuyện điên rồ nào; nên ông vội nắm lấy tay và, không để ý đến sự ngạc nhiên của toàn thể mọi người, ông dẫn Pavel Pavlovitch ra hiên và sóng bước với ông ấy ngoài khu vườn đã gần như tối hẳn.
— Anh có biết là ngay bây giờ, anh phải rời ngay nhà này với tôi không? Pavel Pavlovitch nói.
— Không, tôi không biết.
— Anh còn nhớ không, Pavel Pavlovitch tiếp tục với một giọng hăng hái nhưng nghẹn ngào, anh có nhớ là đã có lần anh yêu cầu tôi, một ngày nào đó, nói cho anh nghe tất cả, vâng, tất cả, một cách thành thật, và chắc anh cũng còn nhớ, anh lại yêu cầu tôi nói một ‘‘lời cuối cùng’’... đó chứ? Vậy thì, đây là dịp để nói lên lời đó... Đi nào !
Veltchaninov ngẩm nghĩ, ông nhìn Pavel Pavlovitch một lần nữa rồi bằng lòng ra về.
Việc thông báo đột ngột về sự cáo từ của hai người đã làm cho ông bà ngạc nhiên và mấy cô tức giận.
— Ít nữa cũng dùng thêm một tách trà nữa đã...bà Zakhlébinine cố mời với giọng rầu rĩ.
— Chuyện gì mà anh có vẻ dao động thế? Ông Zakhlébinine hỏi Pavel Pavlovitch với một giọng bất bình và nghiêm nghị, ông này ráng cười và im tiếng.
— Pavel Pavlovitch nè, vậy thì ông dẫn Aléxéi Ivanovitch đến làm gì? Các cô vừa than van vừa thở dài và tất cả nhìn lão ta với đôi mắt giận dữ. Về phần Nadia thì cô ta ném một cái nhìn nẩy lửa đến đỗi khiến lão ngượng nghịu; nhưng lão vẫn không chịu nhượng bộ.
— Pavel Pavlovitch vừa nhắc một chuyện rất quan trọng mà tôi đã quên khuấy, Veltchaninov nói khi siết chặt tay chủ nhà và khi từ giã bà Zakhlébinine và các cô gái; ông đặc biệt nghiêng mình trước Katérina, và hành động này được mọi người để ý.
— Cám ơn ông đã đến viếng thăm, và chúng tôi, tất cả chúng tôi, sẽ rất sung sướng được gặp lại ông, Zakhlebinine kết luận bằng một giọng quả quyết.
— Ồ ! Chúng tôi sẽ sung sướng lắm!... Bà cụ nồng nhiệt nói thêm vào.
— Trở lại nhé, Aléxéi Ivanovitch, trở lại nhé! từ bao lơn, các cô la lớn lên, trong khi ông vừa an tọa trong xe bên cạnh Pavel Pavlovitch. — Ông nghe chừng như có một giọng trầm hơn những giọng khác: ‘‘Trở lại nhé, Aléxéi Ivanovitch thân mến, rất thân mến!
 ‘‘Đó là giọng con bé tóc hung’’, ông nhủ thầm.
CHƯƠNG XIII
Cán Cân Nghiêng Về Phía Nào?
CÓ lẽ ông còn nghĩ đến cô bé tóc hung, nhưng ông, ông bất bình với chính mình, và sự hối hận đã dày vò tâm trí ông. Vả lại, suốt trong ngày hôm đó, một ngày qua rất êm đẹp, vui vẻ, nỗi buồn vẫn không rời ông, và trước khi bắt đầu hát, ông không biết làm thế nào để thoát khỏi. Có lẽ đó là lý do chính khiến ông trình bày bản tình ca kia với tất cả niềm say mê.
‘‘ Vì sao mình lại có thể tự hạ mình đến mức đó... và quên hết mọi chuyện !’’ ông chua chát nghĩ; nhưng ông vội vàng nghĩ sang chuyện khác.
Đối với ông, hình như than van là một chuyện nhục; dễ chịu nhất là trút gấp sự bực tức cho một người nào đó.
‘‘ Đồ ngu!’’  ông giận dữ sỉ vã, vừa nhìn xéo về phía Pavel Pavlovitch đang im lặng ngồi bên cạnh.
Pavel Pavlovitch vẫn im lặng một cách gan lì; có lẽ ông ta đang sửa soạn và đang kiểm điểm ý tưởng. Với dáng điệu nóng nảy, thỉnh thoảng ông trật mũ ra và dùng khăn tay lau trán.
 ‘‘Nó xuất hạn mồ hôi đây !’’, Veltchaninov tự nhủ với vẻ tức giận.
Pavel Pavlovitch chỉ mở miệng có một lần mà thôi, nhưng là để hỏi thăm bác xà ích có giông hay không.
— Hừ ! Sao lại thế được ! Chắc chắn là có chứ. Trời hôm nay nóng nực quá mà! — Thật thế, trời đã trở nên âm u. Phía chân trời, chớp sáng vằn vèo. Họ đến tỉnh vào lúc mười một giờ.
— Tôi ghé anh, Pavel Pavolvitch vồn vã nói khi họ đến gần nhà Veltchaninov.
— Tôi biết rồi, nhưng tôi báo trước là tôi cảm thấy trong người không được khỏe lắm đấy nhé.
— Ồ! Tôi ghé không lâu đâu.
Khi họ bước vào cổng, Pavel Pavlovitch tạt vội vào nhà gác dan, nhà bà Mavra.
— Anh vào đó làm gì thế? Veltchaninov hỏi với một giọng nghiêm khắc khi ông kia bước ra; và họ cùng vào nhà.
— Không có gì cả... đó là... về chiếc xe thuê đó mà.
— Tôi không để anh nhậu nữa đâu nhé.
Ông không nghe câu trả lời. Veltchaninov thắp nến lên, và Pavel Pavlovitch ngồi ngay vào ghế bành. Veltchaninov đứng sửng trước mặt ông ta, vẻ trầm mặc.
— Riêng tôi, tôi cũng đã có hứa sẽ nói lời ‘‘cuối cùng’’ với anh, ông nhập đề với sự tức giận còn sót lại. Đây nè: tôi thành thật tin là tất cả những thắc mắc đều đã được giải quyết một cách dứt khoát giữa chúng ta và chúng ta chẳng còn gì để nói cho nhau nghe nữa. Anh nghe chứ? Không có gì cả ! Cho nên, chuyện tốt nhứt phải chăng là anh đi ngay bây giờ và tôi, tôi đóng chặt cửa lại?
— Hãy thanh toán những món nợ, anh Aléxéi Ivanovitch ạ; cuối cùng, Pavel Pavlovitch lên tiếng và vừa nhìn thẳng vào mắt với một sự dịu dàng đặc biệt.
— Thanh toán những món nợ? Veltchaninov rất ngạc nhiên. Anh dùng danh từ gì mà lạ thế! Mà những món nợ nào? Phải chăng đó là lời  ‘‘cuối cùng’’ mà lúc nãy anh hứa nói?
— Đúng như vậy.
— Chúng ta không còn món nợ nào để thanh toán cả; chuyện thanh toán này đã xong xuôi từ lâu rồi, Veltchaninov nói với niềm kiêu hãnh.
— Thật sao, anh tin như thế sao? Pavel Pavlovitch hỏi với một giọng đầy tin tưởng và ông chắp tay lại trước ngực trong một dáng điệu kỳ quái.— Vetchaninov không trả lời và bắt đầu dạo loanh quanh. ‘‘Lisa?’’, tim ông đau nhói.
— Anh muốn tôi trả nợ bằng cách nào khác ? Ông nói sau một khoảng dài im lặng.—Lão kia vẫn không ngừng đưa mắt theo dõi, hai tay vẫn luôn luôn chắp lại.
— Anh đừng tới đằng nhà đó nữa, Pavel Pavlovitch thì thầm, giọng van vỉ, và đột nhiên lão ta đứng đậy.
— Sao? Chỉ có thế thôi à? — Veltchaninov cười tàn nhẫn. — Hôm nay, anh làm tôi ngạc nhiên nhiều lắm, ông nói, giọng khinh miệt.— Nhưng bỗng nhiên nét mặt ông thay đổi.— Anh nghe đây, ông buồn bã nói với một tình cảm sâu xa, tôi tin rằng chưa bao giờ, và chưa hề có khi nào mà tôi lại đỗ đốn như hôm nay: trước hết là chịu đi cùng anh, tiếp đến là xử sự như thế... Thật là quá đê tiện, rất đáng khinh. Tôi đã tự bôi nhọ, đã tự hạ mình khi nhận lời..., và tôi đã quên... Nhưng mà, này! Ông chợt trấn tĩnh. — Nghe đây! Hôm nay, anh đã bắt chợp được tôi, tôi đã giận dữ, bệnh hoạn... Vả lại, tôi biện bạch làm gì! Tôi sẽ không đến đằng ấy nữa và tôi đoan chắc với anh là không có gì lôi cuốn tôi đến đó nổi, ông quả quyết kết luận.
— Thật chứ? thật chứ? Pavel Pavlovitch, không giấu được nỗi mừng vui, la lên. Veltchaninov ngắm nghía lão ta với vẻ khinh bỉ và lại tiếp tục tản bước,
— Hình như anh nhất quyết muốn được hạnh phúc với bất cứ giá nào?— Cuối cùng, ông không thế nào không nhận xét như thế.
— Phải, Pavel Pavlovitch xác nhận một cách ngây ngô với một giọng dịu dàng.
‘‘Can hệ gì đến mình khi chung quy nó chỉ là mặt thằng hề và tính hung ác của nó cũng chỉ là việc làm vô ý thức? Veltchaninov ngẩm nghĩ. Mình không thể ngăn cản sự thù ghét dù nó không xứng cho mình oán ghét.’’
— Tôi là một ‘‘người chồng muôn thuở’’, Pavel Pavlovitch nói với nụ cười khiêm nhường và cam chịu. Từ lâu, tôi đã học được của anh thành ngữ đó, Aléxéi Ivanovitch ạ, khi anh còn hay lui tới với chúng tôi. Trong năm đó, tôi đã lãnh hội được rất nhiều những danh từ của anh. Trong lần trước, ngay khi anh bảo tại chỗ này nè, danh từ: ‘‘Người chồng muôn thuở’’, là tôi hiểu ngay.
Mavra bước vào, mang theo một chai sâm- banh và hai cái cốc.
— Anh thứ lỗi cho, Aléxéi Ivanovitch, anh quá biết là tôi không thể nào nhịn nổi rượu. Anh đừng xem đây là một chuyện làm xấc xược của tôi và xin anh cứ xem tôi như là người xa lạ, một người hoàn toàn không xứng đáng với anh.
— Thôi được rồi, Veltchaninov ra lệnh với sự nhờm chán. Nhưng tôi nhắc lại anh, đoan chắc với anh là tôi không được khỏe trong người đó.
— Vâng, ngay bây giờ, ngay bây giờ, Paveh Pavlovitch vội vã nói. Chỉ một ly nhỏ thôi vì cổ họng tôi...
Ông ta nốc một hơi cạn ly, vẻ thèm khát rồi lấy lại bình tĩnh, ông nhìn Veltchaninov một cách trìu mến. Mavra ra khỏi phòng.
— Đê tiện thật! Veitchaninov lẩm bẩm.
— Đó là lỗi của mấy cô bạn ! Vả lại, nàng còn quá trẻ, còn quá điệu !... Họ vui đùa, nghịch ngợm. Khả ải đó chứ. Và anh hiểu cho, ở đàng ấy, tôi sẽ là tên nô lệ của nàng; nàng sẽ thấy là xã hội thượng lưu săn sóc, nể vì nàng... rồi nàng sẽ thay đổi hoàn toàn.
 ‘‘Mình phải trả chiếc vòng lại cho hắn’’, Veltchaninov ngẩm nghĩ khi nắm chiếc hộp trong túi.
— Hồi nãy, anh có nói là tôi nhất quyết muốn được hạnh phúc. Tôi phải tục huyền, anh ạ, Pavel Pavlovitch nói tiếp với một giọng tâm sự gần như cảm động. Vì nếu không như thế, chuyện gì sẽ xảy đến cho tôi? Chính anh, anh đã thấy đó! Ông ta chỉ vào chai rượu. — Và đó chỉ là tật xấu nhỏ nhất của tôi mà thôi. Tôi không thế nào sống được nếu tôi không tục huyền, nếu tôi không tìm lại được niềm tin trước kia; nếu tôi có lòng tin, tôi sẽ hồi sinh.
— Nhưng tại sao anh kể nghe tôi những chuyện đó?— Veltchaninov gần bật cười. Đối với ông, tất cả chuyện đó có vẻ hoàn toàn ngớ ngẩn.— Anh hãy giải thich tôi rõ vì sao anh dẫn tôi đến đằng nhà đó? Anh cần tôi chuyện gì?
— Để tôi có dịp hiểu rõ thêm.
Pavel Pavlovitch bỗng nhiên có vẻ ngượng ngùng.
— Hiểu rõ thêm việc gì?
— Về kết quả... Aléxéi Ivanovitch, anh biết đó chứ: một tuần nay, tôi đã thử... ở đằng ấy... (lão ta càng lúc càng trở nên ngượng ngập). Hôm qua tôi gặp anh và tôi tự nhủ: ‘‘Mình chưa bao giờ thấy nàng ta giữa những người xa lạ, với những người khác mình.’’  Bây giờ tôi mới cảm thấy đó là một ý tưởng điên rồ và vô ích. Nhưng sự cám dỗ quá mạnh mẽ. Đó là tánh xấu của tôi.
 Ông ta ngửng đầu lên, thẹn thùng.
 ‘‘Có thật nó nói hết sự thật không?’’  Veltchaninov tự hỏi, dáng kinh ngạc.
— Rồi thì sao...? ông hỏi.
Pavel Pavlovitch cười với sự hài lòng quỷ quyệt.
— Chỉ là những trò trẻ con đáng mến. Vả lại đó là lỗi của mấy cô bạn, Aléxéi Ivanovitch ạ. Anh thứ lỗi cho cách cư xử không phải của tôi hôm nay. Tôi sẽ không làm như thế nữa đâu. Chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra.

— Nhưng mà tôi, tôi sẽ không đến đó nữa mà, Veltchaninov vừa mỉm cười vừa nói.
— Tôi tin anh.
Veltchaninov cảm thấy bực tức.
— Nhưng mà tôi không phải là con người, độc nhất trên cõi đời này, ông bực bội nhận xét.
Pavel Pavlovitch, lại đỏ mặt.
— Thật là khổ tâm khi nghe anh nói thế, Aléxéi Ivanovitch ạ ; anh tin tôi đi, tôi quá kính mến Nadièjda Fédosséievna.
— Anh thứ lỗi cho, tôi không bao giờ có ý thế, tuy nhiên, trong khi đánh giá quá cao những phương tiện hành động của tôi, anh lại đã...hoàn toàn...tin cậy tôi.
— Chính là chuyện đã qua đã khiến tôi tin cậy anh...sau tất cả những gì đã xảy ra...
— Anh vẫn còn xem tôi là một người hoàn toàn đáng trọng chứ?
Veltchaninov chợt dừng lại. Trong lúc khác, câu hỏi ngây ngô đó có lẽ đã làm cho chính ông kinh ngạc.
— Tôi vẫn luôn luôn xem anh như thế, Pavel Pavlovitch nhìn xuống đất.
— Vâng, vâng, dĩ nhiên là thế rồi... không phải chuyện đó, không phải Iheo nghĩa đó... Tôi nói là, cho đến cả những... thành kiến đã có...
— Vâng, dù cho đến cả những thành kiến đã có...
— Cả khi anh đã đến Pétersbourg? Veltchaninov không ngăn nổi câu hỏi, dù ông nhận thấy sự tò mò thật là quái đản.
— Khi tôi đi Pétersbourg, tôi cũng vẫn còn xem anh như là một người lương thiện. Này Aléxéi Ivanovitch, tôi luôn luôn quý trọng anh.
Pavel Pavlovitch ngước mắt lên nhìn thẳng địch thủ, không một chút bối rối. Đột nhiên, Veltchaninov cũng thấy sợ hãi; ông tuyệt nhiên không muốn gây tai tiếng và cũng không muốn sự việc vượt quá một giới hạn nào đó, nhất là do lỗi của mình.
— Tôi rất mến anh, Aléxéi Inovitch ạ, Pavel Pavlovitch lên tiếng như đột nhiên ông có một quyết định. Suốt một năm trời ở T..., tôi rất có cảm tình với anh. Anh không nhận thấy đó thôi, lão nói với một giọng run run, nói trong sự kinh hãi của Veltchaninov. So với anh, tôi chẳng đáng cho anh phải để ý đến cảm tình đó. Vả lại, như thế có lẽ lại là hay. Và suốt trong chín năm trời dài đằng đẳng, tôi luôn luôn nhớ đến anh bởi vì không có năm nào có thể sánh được với năm đó (đôi mắt của Pavel Pavlovitch sáng lên một cách dị thường). Và tôi đã học được vô số những thành ngữ, những ý tưởng của anh. Tôi luôn luôn nhớ đến anh như nhớ đến một người hăng say và có những tình cảm tốt, học rộng, rất là uyên bác và, có những tư tưởng như: ‘‘Những ý tưởng cao xa là kết quả của một tâm hồn cao thượng hơn là của một trí thông minh siêu việt’’. Chính anh, anh đã nói ra câu đó, nhưng có lẽ anh không còn nhớ đến, trong khi tôi, tôi lại thuộc lòng. Tôi luôn luôn nhận thấy anh là một người cao thượng. Vì vậy tôi trông cậy vào anh và tin tưởng vào anh... dù cho...
Bỗng nhiên cằm lão khẽ rung lên. Veltchaninov kinh hoảng; ông phải cắt đứt ngay giọng điệu bất ngờ này.
— Thôi, tôi xin anh, Pavel Pavlovitch ạ, ông nói lúng búng, mặt ửng hồng, vẻ khó chịu và nôn nóng. Nhưng mà tại sao, đột nhiên ông la lớn, tại sao anh lại đeo đuổi theo một người bệnh hoạn, hay nổi giận, gần như là điên, và tại sao anh lại kéo nó xuống vực thẳm... trong khi... trong khi tất cả những chuyện ấy chỉ là chuyện ‘‘ma’’, là ảo ảnh, là những lời nói dối đáng phi nhổ, và hơn nữa, chuyện đó hoàn toàn không có chừng mực ; vâng, đó là điều chính, đó là điều khó chịu nhất: sự thiếu chừng mực. Tất cả điều đó có vẻ lố bịch; hai đứa chúng ta đều là những người phóng đãng đê tiện, loại người mưu mô xảo quyệt. Và anh có muốn, có muốn tôi dẫn chứng ngay bây giờ là không những anh không mến thương tôi, mà anh còn ghét cay ghét đắng tôi và anh đã nói dối mà không hay? Anh đã lôi kéo tôi, đã dẫn tôi đến đó, chẳng hề phải với mục đích lố lăng là để thử lòng vị hôn thê của anh (ý kiến đần độn) ; nhưng mà hôm qua khi thấy tôi, cơn giận đã lôi cuốn anh, giản dị như thế đó, và anh đã dẫn tôi đến để cho tôi thấy vợ chưa cưới của anh và để có thể nói với tôi: ‘‘Mày có thấy nàng không ! Nàng sẽ là của tao! Đó, thử tán xem nào !’’ Anh đã thách thức tôi. Có lẽ anh không nhận thấy thế, nhưng sự việc nó như thế. Phải thù ghét thì mới thách thức kiểu đó, vậy anh đã thù ghét tôi.
Ông rão bước quanh phòng vừa thốt những lời trên với một giọng hổn hển, ông cảm thấy nhục nhã, bị lương tâm dày vò vì mình đã đốn mạt ngang hàng với Pavel Pavlovitch.
— Anh Aléxéi Ivanovitch này, tôi muốn giảng hòa với anh. Lão chợt nói với một giọng trầm trầm vội vã và cằm lão lại một lần nữa run run.
Một sự tức giận điên cuồng xâm chiến tâm hồn Veltchaninov, hình như và chưa hề bao giờ ông bị ai sỉ nhục đến như thế.
— Tôi nhắc lại anh hay một lần nữa là anh đang theo đuổi một người bệnh hoạn, dễ giận..., ông hét lớn. Anh theo đuổi nó để mong nó nói một lời mà anh đã hoài công trông chờ ! Nhưng mà chúng ta... phải, chúng ta thuộc hai thế giới khác hẳn nhau... anh nên hiểu như thế... Và rồi thì... lại còn có cả một nấm mộ ngăn cách chúng ta..., ông nói với một giọng phẫn uất; và bỗng nhiên ông tỉnh lại.
— Nhưng mà làm sao anh có thể hiểu được... (khuôn mặt của Pavel Pavlovitch chợt tái xanh vì nhăn nhó), làm sao anh có thể hiểu được cái nấm mộ đó như thế nào đối với tôi... ở chỗ này không? Ông hét lên vừa xấn tới phía Veltchaninov; và với một dáng điệu kỳ cục nhưng hung bạo, ông đấm vào ngực mình. Tôi biết nó là gì, cái nấm mộ nhỏ bé đó; nó ở đây nè, giữa hai chúng ta, và anh và tôi, chúng ta đứng mỗi người mỗi bên. Nhưng mà bên phía tôi thì nhiều hơn...nhiều hơn...nhiều hơn..., ông lắp bắp như người nói sảng và vẫn tiếp tục đấm vào ngực,...nhiều hơn... nhiều hơn...
Đột nhiên, một tiếng chuông inh ỏi thức tỉnh họ. Người nào đó kéo chuông như muốn đứt luôn giây.
— Không có ai quen mà lại kéo chuông như thế ở nhà tôi cả, Veltchaninov rất bối rối.
— Đằng tôi cũng không ai làm như thế cả, Pavel Pavlovitch ấp úng một cách rụt rè. Ông tỉnh trí ngay và trở lại là ông Pavel Pavlovìtch lúc nãy. Veltchaninov dáng bất bình, đi ra mở cửa.
— Nếu tôi không lầm thì ông là ông Veltchaninov? một giọng trẻ, khỏe và dạn dĩ cất lên trong căn buồng xép.
—  Ông muốn gì?
— Tôi biết một cách chắc chắn là cái ông Troussotzky u đó hiện có mặt tại đây, cái giọng quả quyết và vang dội đó tiếp tục. Tôi cần phải gặp cái ông đó.
 Hẳn nhiên Veltchaninov chỉ thích tống cho cái tên đầy tự tin đó một đạp rớt xuống cầu thang, nhưng rồi ông ngẩm nghĩ trong giây lát, tránh sang một bên và nhường chỗ cho ông khách bước vào.
—  Ông Troussotzky có đây, mời vào.
CHƯƠNG XIV
Sachenka Và Nadenka (1)
ĐÓ là một gã thanh niên trẻ măng khoảng mười chín tuổi, hay ít hơn là đằng khác, vì khuôn mặt đẹp kiêu hãnh và tự tin của gã có vẻ trẻ con biết chừng nào. Gã biết cách ăn mặc, hay dù sao đi nữa, quần áo của gã cũng rất vừa vặn; tầm vóc trên trung bình chút đỉnh; tóc đen và rậm phủ lòa xòa, mắt u ẩn và gan lì đã tạo cho khuôn mặt đó một vẻ đặc biệt. Mũi gã hơi rộng và hếch ; nếu đừng có cái mũi ấy, rõ ràng gã là một thanh niên đẹp trai. Gã bước vào, vẻ quan trọng.
— Tôi thiển nghĩ đây là một dịp tốt tôi được thưa chuyện với ông Troussotzkv, gã gằn từng chữ và nhấn mạnh chữ  ‘‘dịp’’ với một vẻ thích thú đặc biệt, chứng tỏ rằng chẳng danh dự gì, chẳng thú vị gì cho gã khi phải đối thoại với cái ông Troussotzky đó.
Veltchaninov bắt đầu hiểu. Pavel Pavlovitch  thì hình như cũng linh cảm một điều gì. Một vẻ e ngại phảng phất trên khuôn mặt; nhưng ông vẫn cố gắng kềm giữ.
— Tôi không được hân hạnh, lão trả lời với một dáng điệu đứng đắn. Theo tôi nghĩ thì cậu và tôi không hề có một liên hệ nào cả.
— Hãy nghe tôi nói đã rồi sau ông hẵng cho biết ý kiến, gã nói với một giọng cả quyết và nghiêm trang. — Gã đeo cặp kính gọng đồi mồi, cột bằng một sợi chỉ tơ và chăm chú quan sát chai sâm- banh trên bàn. Cuộc khám nghiệm xong xuôi, gã bình tĩnh gấp kính lại và hướng về Pavel Pavlovitch mà nói:
— Alexandre Lobov.
— Alexandre Lobov là cái gì vậy?
— Đó là tên tôi. ông không biết tôi sao?
— Không.
— Vả lại làm sao ông biết được tôi đã chứ? Tôi đến đây vì một chuyện quan trọng có liên quan đến ông. Nhưng ông cho phép tôi ngồi đã, tôi mệt nhoài...
— Mời ông ngồi, Veltchaninov nói; nhưng gã trai trẻ đó đã ngồi xuống trước khi có lời mời.
Dù lồng ngực càng lúc càng đau ran, Veltchaninov vẫn cảm thấy bị thu hút khá nhiều bởi chàng trai trẻ khinh mạn kia. Hình như ông nhận ra giữa khuôn mặt hồng hào đẹp đẽ và trẻ thơ đó với khuôn mặt của Nadia có phần phảng phất giống nhau.
 — Mời ông ngồi luôn thể ! Gã nói với Pavel Pavlovitch, vừa hờ hững hất đầu về phía chiếc ghế đối diện.
— Được rồi, tôi đứng.
— Ông sẽ mệt. Còn ông, ông Veltchaninov, theo tôi nghĩ, ông có thể ngồi lại.
— Tôi không có lý do gì để đi ra ngoài cả, đây là nhà tôi.
— Vâng, tùy ông. Thú thật với ông là chính tôi, tôi mong muốn ông dự thính buổi nói chuyện này. Nadia Fédosséievna có nói với tôi về ông với những lời khen ngợi nồng nhiệt nhất.
— Thật vậy sao? Làm sao cô ta có đủ thời giờ?
— Ngay sau khi ông đi. Cả tôi nữa, tôi cũng vừa từ đằng ấy đến đây, sự việc như thế này. Ông Troussotzky,— gã quay về phía Pavel Pavlovitch vẫn đang đứng sửng— Nadia Fédosséievna và tôi đã yêu nhau từ lâu và chúng tôi đã giao ước cùng nhau rồi. Ông đã sẵn sàng nghe theo tôi chứ? Gã thong thả nói, giọng rít lên giữa kẻ răng.
Pavel Pavlovitch gần muốn xỉu; lão tái người, nhưng một nụ cười hiếm ác xuất hiện trên đôi môi.
— Không, tuyệt nhiên là không ! Ông ta trả lời một cách rành rẽ.
— Này ông..., gã trai trẻ vừa nói, vừa chểm chệ trong ghế và tréo chân lại.
— Tôi không biết là tôi đang được tiếp chuyện với ai đây, Pavel Pavlovitch nói thêm, và tôi thiết nghĩ chúng ta chẳng có gì để nói chuyện với nhau hết.
Sau khi nói xong, ông cũng nhận thấy ngồi xuống ghế là tốt nhất.

— Tôi đã báo trước là ông sẽ mệt kia mà, gã trai trẻ nhận xét một cách hững hờ. Tôi đã có dịp thưa với ông tôi tên Lobov, và Nadia Fédosséievna với tôi, chúng tôi đã hứa hôn. Vậy thì, ông cũng không thể nào nghĩ ông như vừa bảo là chúng ta chả có gì để nói với nhau; việc này không chỉ dính dáng đến mình tôi, mà còn liên hệ đến cả Nadia Fédosséievna, người con gái mà ông đã lì lợm theo đuổi. Chỉ chuyện đó không thôi cũng đủ là đề tài cho chúng ta trò chuyện rồi.
Gã nói lua lua, không hở môi, với một giọng xấc xược ; gã lại lấy kính ra và vừa nói vừa ra vẻ quan sát một cái gì.
— Khoan đã, ông bạn trẻ ! Pavel Pavlovitch, vẻ bực tức, thử ngắt lời. Nhưng, ‘‘ông bạn trẻ’’ chận lại ngay.
— Lúc khác, có lẽ tôi đã cấm ông gọi tôi là  ‘‘ông bạn trẻ’’. Nhưng hiện giờ chúng ta có thể thỏa thuận điểm này: chính cái tuổi trẻ đó là điều tôi hơn ông; và thí dụ như ngay cả hôm nay đây khi tặng chiếc vòng có lẽ ông cũng đã muốn được hơn đôi chút.
‘‘Ồ !Ồ ! Thằng ác khẩu !’’, Veltchaninov lẩm bẩm.
— Này cậu, dù sao chăng nữa, Pavel Pavlovitch quật lại với vẻ trang nghiêm, tôi không hề xem những lý do cậu đưa ra, những lý do đáng nghi ngờ và không thích đáng, đủ để cho chúng ta có thể tiếp tục đối thoại. Tôi chỉ thấy tất cả việc đó chỉ là chuyện trẻ con, không có gì quan trọng cả. Ngay ngày mai, tôi sẽ trình việc này lại cho Ngài Fédosséi Simionovitch hay, còn bây giờ, mong cậu để cho tôi yên.
— Ông xem đó! Gã thanh niên, không còn giữ nỗi giọng lơ là nữa, hướng về phía Veltchaninov mà la lớn. Bị đằng ấy tống khứ bằng những lời chế giễu cũng vẫn chưa đủ cho ông ta. Ông ta lại còn muốn mách mọi việc cho người cha biết nữa kia! Phải chăng ông, con người ngoan cố, muốn chứng tỏ là ông dùng quyền lực để cưỡng đoạt cô bé, là đã trao tiền bạc cho cha mẹ cô ta, những người đã trở nên lẩm cẩm mà sự man rợ của xã hội vẫn còn cho nắm giữ quyền binh, để mua đứt cô ấy? Cô ta khinh bỉ ông đến như thế chưa đủ sao? Không phải là cô ta đã trả lại ông cái món quà không thích đáng, cái vòng của ông đó sao? Còn cần phải thêm cho ông những gì nữa?
— Không ai hoàn lại tôi chiếc vòng cả, vả lại việc đó cũng không thể nào có được. — Pavel Pavlovitch rùng mình.
— Ông nói là việc đó không thể nào có được à? Ông Veltchaninov há chưa đưa cho ông chiếc vòng đó sao?
‘‘Ma bắt nó đi!’’ Veltchaninov ngẩm nghĩ.
— Đúng thế, ông nói với vẻ bực tức, khi chiều Nadia Fédosséievna có nhờ tôi giao lại cho anh cái hộp, Pavel Pavlovitch ạ, Tôi không muốn nhận nhưng cô ta nài nỉ quá ! Tôi thật thấy lấy làm khó chịu.
Ông rút cái hộp trong túi ra, và, vô cùng bối rối, ông đặt trước mặt Pavel Pavlovitch đang sửng sốt,
— Tại sao ông lại không đưa ngay cho ông ấy? Gã thanh niên hỏi ông Veltchaninov với một giọng nghiêm khắc.
— Tôi không có thì giờ, Veltchaninov trả lời, vẻ bực tức.
— Lạ nhỉ!
— Sao?
— Ông hãy thú nhận là ít ra cũng lạ đấy chứ. Vả lại, tôi sẵn sàng chấp nhận là có một sự hiểu lầm.
Veltchaninov hầm hầm, chỉ muốn đứng dậy béo tai thằng nhóc, nhưng rồi ông không thể nào giữ được sự nghiêm trọng và ông rộ lên cười nhạo gã ta. Gã cũng cười theo. Còn Pavel Pavlovitch thì ông ta chẳng cười. Nếu lúc đó, Veltchaninov có thể bắt chợt được cái nhìn dễ sợ của Pavel Pavlovitch đang nhìn mình thì có lẽ ông sẽ hiểu ông này đã đạt đến một độ nguy hiểm nào đó... Nhưng dù không để ý đến cái nhìn đó, Veltchaninov vẫn cảm thấy là mình cần phải ủng hộ Pavel Pavlovitch.
— Hãy nghe đây cậu Lobov, ông mở đầu với một giọng thân mật. Không đi sâu vào những lý do khác mà tôi muốn gạt sang một bên, tôi chỉ muốn cậu lưu ý đến một điều là khi đi hỏi Nadia Fédosséievna, trước hết ông Pavel Pdvlovitch có lợi điểm là người rất quen biết của gia đình khả kính đó; tiếp theo phải kể đến địa vị tốt và cuối cùng là gia sản của ông ta. Do đó tự nhiên là ông ta kinh ngạc khi gặp một kẻ tình địch như cậu có những đức tính cao quý nhứt nhưng cậu hãy còn quá trẻ để cho ông ta có thể xem cận là một địch thủ đứng đắn...Như vậy, ông ta rất có lý khi yêu cầu cậu chấm dứt câu chuyện.
— Ông hiểu sao về hai chữ ‘‘quá trẻ’’? Hơn một tháng nay, tôi đã được mười chín tuổi. Theo luật, tôi đã có thể cưới vợ từ lâu. Chỉ có thế!
— Nhưng mà có người cha nào lại chấp thuận giao con gái mình cho cậu bây giờ dù sao này cậu có thể là tỷ phú, hay trở nên một vị ân nhân nào đó của nhân loại? Một thanh niên mười chín tuổi chưa thể nào ý thức được trách nhiệm về chính những hành động của mình. Thế mà cậu lại còn muốn bảo đảm tương lai cho một người khác cũng trẻ như cậu nữa ! Cậu không nhận như thấy như thế là chẳng có chút nào lương thiện cả sao? Nếu tôi tự cho phép nói thẳng với cậu như thế vì mới đây, chính cậu đã viện dẫn tôi ra để chống lại ông Pavel Pavlovitch.
 — À! phải! Ông ta tên là Pavel Pavlovitch! Lobov nhận xét. Tại sao tôi lại cứ tưởng ông la tên Vassili Pétrovitch nhỉ? Này ông, gã tiếp tục ngỏ lời cùng Veltchaninov, những lời của ông không làm tôi ngạc nhiên chút nào hết, tôi biết là các ông đều như nhau cả! Tuy nhiên, cũng lạ thật! Người ta đã nói cho tôi biết ông là con người khá tân tiến. Vả lại tất cả việc đó cũng chẳng có gì quan trọng. Không những tôi chưa hề phạm phải một việc gì gọi là bất lương, như ông đã tự mình cho phép nói lên, mà tất cả đều trái lại như tôi cố gắng chứng minh ông rõ sau đây. Trước hết, chúng tôi đã giao ước cùng nhau và tiếp đó, trước hai nhân chứng, tôi đã hứa một cách rõ ràng là nếu có bao giờ nàng yêu một ai khác, hay nếu nàng chỉ ân hận là đã lấy tôi và muốn đoạn tuyệt với tôi thì tôi sẽ tự nhận ngay tức thì, bằng giấy tờ, tôi đã phạm tội ngoại tình và sẽ cung cấp cho nàng những lý do cần thiết để được ly dị. Nhưng không phải chỉ thế thôi. Về sau, đề phòng trường họp tôi khất lần và từ chối cấp cho nàng những giấy tờ nói trên, ngay trong ngày cưới, tôi sẽ trao cho nàng một hối phiếu là một trăm ngàn đồng rouble làm bảo đảm. Như vậy, nếu tôi bướng bỉnh và không chịu ly dị, nàng sẽ đem trình hối phiếu đó và tôi sẽ bị bắt giam. Tất cả đều được tiên liệu, vậy thì tôi không làm hỏng tương lai của ai cả! Đó là điểm thứ nhất.
— Tôi cá là cậu kia... anh ta tên gì nào...à, Predpossylov! chính cậu ấy đã tưởng tượng ra cái kế hoạch phi thường đó chứ gì?
— Hi... hi... hi! Pavel Pavlovitch cười ngạo một cách độc ác.
— Cái ông đó cười chế nhạo chuyện gì thế? Ông đã đoán đúng: ý kiến là của Predpossylov; và ông hãy công nhận là khéo đặt đấy chứ. Cái luật pháp ngu đần đã hoàn toàn trở thành vô hiệu. Dĩ nhiên là tôi nhất quyết yêu nàng mãi mãi và tất cả những sự đề phòng đó đã làm cho nàng cười ngất; nhưng dù sao kế hoạch đó cũng thực là vô cùng khéo léo. Phải công nhận là rất cao thượng và không phải tay mơ nào cùng có thể nghĩ ra như thế.
— Theo ý tôi, chuyện đó không cao thượng chút nào mà còn khá hiểm ác nữa là khác.
Gã trai trẻ nhún vai.
— Tôi xin nhắc lại là ông chẳng làm tôi ngạc nhiên chút nào, hắn ta nói sau một giây im lặng ! Đã từ lâu lắm rồi, những việc đó không làm tôi ngạc nhiên nữa. Nếu gặp Predpossylov thì anh ta sẽ nói trắng cho ông rõ là việc ông không hiểu nổi những sự kiện tự nhiên nhất đó là do những tình cảm và những ý tưởng đã bị đọa lạc của ông, bị suy đồi trước hết vì cuộc sống phi lý từ lâu nay, và tiếp đến là sự ăn không ngồi rồi quá kéo dài... Vả lại, có thể là chúng ta chưa hiểu nhau: người ta đã rất tán tụng ông... Ông đã đến năm mươi rồi chứ?
— Xin cậu hãy trở lại câu chuyện.
— Ông thứ lỗi cho những lời thô lỗ của tôi và xin ông chớ giận; tôi nói thể chẳng có ý gì đâu. Tôi xin tiếp tục: Tôi chẳng hề là một triệu phú tương lai như lúc nãy ông đã tưởng tượng (ý kiến khôi hài thật !). Tôi như thế này như ông thấy đây; nhưng tôi hoàn toàn tin chắc vào tương lai tôi. Tôi sẽ không phải là ân nhân của nhân loại, nhưng tôi sẽ bảo đảm được cuộc sống của vợ tôi và của tôi. Hiện giờ, thật ra tôi chẳng có gì cả; tôi lại còn được gia đình nàng nuôi nấng cả từ thuở ấu thơ nữa...
— Sao?

— Vâng, tôi có họ hàng xa với bà Zakhlébianne. Cha mẹ tôi qua đời khi tôi mới tám tuổi; ông cụ đã đem tôi về nuôi và sau này còn cho tôi đi học nữa. Nếu ông muốn biết rõ ông ta thì đó là một người trung hậu.
— Tôi biết.
— Vâng, nhưng trí óc ông ta thì lại đầy dẫy những ý tưởng cổ hủ. Ngoài ra, ông ta rất tốt. Đã lâu rồi, tôi không còn thuộc quyền giám hộ của ông ta nữa vì tôi muốn tự lập và tôi chỉ trông nhờ vào chính mình.
— Từ bao giờ vậy? Veltchaninov hỏi với vẻ tọc mạch.
— Đã bốn tháng nay rồi.
— À! Như vậy là rõ ràng rồi: những người bạn thuở nhỏ! Và hiện giờ cậu có chỗ làm chứ?
— Vâng, tôi giúp việc cho một ông chưỡng khế được hai mươi lăm rouble mỗi tháng. Chỉ là tạm bợ; nhưng khi đính ước với nàng, tôi còn chưa được như thế nữa kia. Lúc đó tôi đang làm trong ngành hành chánh của sở Hỏa Xa được mười ‘’rouble’’. Nhưng tất cả chuyện đó đều chỉ là tạm bợ.
— Cậu đã đến ngỏ lời cùng song thân của nàng?
— Vâng, cách đây đã ba tuần, một lời cầu hôn chính thức.
— Rồi sao?
— Lúc đầu ông cụ cười ngất, tiếp đến, ông giận dữ kinh khủng và nhốt con gái lại. Nhưng Nadia rất can đảm. Vả lại, nếu tôi không thành công là vì từ lâu ông cụ đã  ‘‘chơi’’ tôi: tôi thôi làm ở sở mà trước đó bốn tháng ông đã đem tôi vào ; chỗ này còn trước chỗ Sở Hỏa Xa nữa kìa. Tôi xin nhắc lại ông ta là một ông già rất tốt, ở nhà, ông rất giản dị và vui vẻ; nhưng nếu ông có thế thấy ông ta ở bàn giấy ! Thật là khác hẳn: đúng là một ông Trời con ! Dĩ nhiên tôi làm cho ông ta hiểu rằng lề lối làm việc của ông không thích hợp với tôi. Nhưng tên chính phạm là viên phụ tá: cái lão này đã tìm được cách thưa tôi về tội  ăn nói thô bỉ; tôi đã ngay thực nói cho lão biết là lão còn rất thiếu giáo dục. Tôi đã đếch cần cả bọn và vì thế, hiện nay tôi làm cho ông chưỡng khế.
— Lúc cậu còn làm sở cũ, lương có khá không?
— Tôi chỉ là nhân viên ngoại ngạch. Ông cụ trả lương cho tôi. Tôi nhắc lại ông hay: ông cụ rất tốt. Nhưng chúng tôi sẽ không nhượng bộ! Hai mươi lăm đồng rouble quả thật là không đủ. Vì thế, tôi mong sớm được dự phần vào việc quản trị tài sản Bá Tước Zaviléisky mà tình thế khá lộn xộn, và lúc đó tôi sẽ bắt đầu với ba ngàn đồng rouble: nếu không, tôi trở thành luật sư. Hiện giờ, người ta đang cần đến những người hoạt động!... Ồ! Sấm lớn quá nhỉ ! Sắp có cơn giông rồi đây. May cho tôi là đã tới trước. Tôi đi bộ từ đằng ấy lại đây, hầu như là chạy suốt buổi.
— Nhưng xin lỗi cậu, làm sao cậu có đủ thì giờ để trò chuyện với Nadièjda Fédosséievna, nếu đúng như thấ, nhất là khi người ta không tiếp cậu?
— Người ta có thể nói chuyện qua hàng rào chứ. Hồi chiều ông có chú ý đến cô bé tóc hung không? Chàng ta vừa cười vừa hỏi. Vậy thì cô ta cũng như Maria Nikitichna đã tận lực giúp chúng tôi nhưng mà ông làm sao vậy? Ông sợ giông à?
— Không, nhưng tôi cảm thấy mệt, mệt lắm...
 Cơn đau đột nhiên nơi lòng ngực quá thật khiến cho Veltchaninov chịu hết nổi, ông rời khỏi ghế bành và cố gắng dạo quanh phòng.
— Như thế này, tôi làm phiền ông quá... Ông cứ tự nhiên, tôi sẽ đi ngay —Gã trai trẻ đột ngột đứng dậy.
— Không có gì, không có gì phiền cả đâu, Veltchaninov lịch sự đáp lại.
— Sao lại không có gì?... ‘‘ Khi Kobylnikov đau ở bụng...’’  Trong tác phẩm của Chtchédrine, ông nhớ chứ? Ông có thích Chtchédrine không?
— Vâng, có.
— Tôi cũng thế. Này ông Vassili... ấy chết ! Xin lỗi ! Ông Pavel Pavlovitch này ! Chúng ta kết thúc câu chuyện đi chứ, gã tiếp tục nói với Pavel Pavlovitch với vẻ gần như tươi cười. Tôi nói rõ thêm một lần nữa câu hỏi để ông có thể hiếu thấu đáo: Ngày mai, trước mặt tôi, ông có bằng lòng chính thức tuyên bố với song thân nàng là ông từ bỏ mọi toan tính về Nadiejda Fédosséievna không?
— Không, tôi không bằng lòng!— Pavel Pavlovitch đứng dậy, vẻ nóng nảy và tức giận. Và một lần nữa, tôi van cậu hãy để cho tôi yên... vì tất cả chuyện đó chỉ là chuyện trẻ con và ngu đần !
— Ông hãy coi chừng! Gã trai trẻ nói với một nụ cười và chỉ tay hăm dọa. Ông sắp lầm trong bài toán của ông rồi đó. Ông có biết là một sự sai lầm tính toán như thế sẽ đưa ông đi đến đâu không? Riêng phần tôi, tôi báo trước là trong mười tháng nữa, sau khi ông đã vung khá nhiều tiền và lãnh lắm phiền lụy, ông sẽ quay trở về, ông sẽ buộc lòng phải từ bỏ Nadièjda Fédosséievna; và nếu ông không từ bỏ, việc đó sẽ không hay cho ông đâu. Đó là chỗ mà ông sẽ đi đến! Tôi phải nói cho ông biết, ông thứ lỗi cho việc so sánh sau đây, là ông giống như một con chó nằm trên đống rơm: nó không thể nào ăn được, nhưng nó không cho ai đến gần cả. Vì lòng nhân ái, tôi xin nhắc lại: ông hãy suy nghĩ đi, ít ra là thử suy nghĩ với tấm lòng nhân ái một lần trong đời.
— Nhờ cậu tí, đừng giảng luân lý với tôi nữa, Pavel Pavlovitch hét lớn một cách giận dữ. Còn về những lời bóng gió hèn hạ của cậu... thì ngay ngày mai tôi sẽ có biện pháp, những biện pháp thích ứng đó, thưa cậ !
— Những lời bóng gió hèn hạ? Ông muốn nói cái gì? Chính ông mới là người hèn hạ nếu ông có những ý nghĩ như thế trong đầu. Vả lại, tôi bằng lòng chờ đến ngày mai, nhưng nếu... Thôi được ! Lại sấm ! Chào ông! Rất hân hạnh được quen ông, Gã vừa chào vừa nói với Veltchaninov, và gã vội vã chuồn nhanh để về trước cơn giông và tránh gặp mưa.
Chú thích :
[1]SACHENKA và NADENKA là những tiếng gọi giảm thiểu thân mật, theo lối Nga, của những tên Alexandre và Nadièjda. Lối gọi giảm thiểu thường được dùng đối với những người thân hoặc còn nhỏ tuổi.
CHƯƠNG XV
Nợ Nần Trang Trải
ANH đã thấy đó chứ? Anh đã thấy đó chứ?
Pavel Pavlovitch la lên và xông đến Veltchaninov khi gã trẻ tuổi vừa bước ra khỏi.
— Vâng, anh không gặp may, Veltchaninov nói mà không suy nghĩ.— Nếu không vì sự nhức nhối do cơn đau ngày càng tăng gia gây nên nơi lòng ngực, có lẽ ông không nói những lời trên.
Pavel Pavlovitch giật bắn người như bị phỏng.
— Thế còn phần anh thì sao? Vì thương hại tôi, có lẽ vậy mà anh không giao tôi cái vòng phải không?
— Tôi chưa có thì giờ...
— Anh ái ngại giùm tôi với tất cả tấm lòng của một người bạn chân thành đó chứ?
— Vâng, tôi ái ngại cho anh.
Veltchaninov nổi giận.
Tuy nhiên, rất vắn tắt, ông kể lại cho ông ta nghe chuyện cô bé đã trao cho ông chiếc vòng như thế nào và Nadièjda Fédosséievna đã gần như cưỡng bách, bắt ông phải lo vụ này ra sao.,.
 — Anh biết cho, tôi không muốn nhận chiếc vòng đó; không có chuyện này tôi cũng bị lắm điều khó chịu rồi.
— Anh đã bị lôi cuốn, và anh đã nhận, Pavel Pavlovitch cười ngạo.
— Những gì anh nói thẫt đáng buồn cười; tuy nhiên tôi cũng phải bỏ lỗi cho anh. Vừa rồi, chính anh đã tự thuyết phục là trong câu chuyện này, tôi không phải là vai chính, còn có những người khác nữa kia mà.
— Tuy nhiên, anh đã để cho bị lôi cuốn.
Pavel Pavlovitch ngồi xuống và rót rượu.
— Anh tuởng tôi sẽ chịu thua thằng nhóc đó sao? Tôi sẽ nghiền nát nó ra, đó tôi sẽ làm như thế! Ngày mai tôi sẽ đến đằng ấỵ và thu xếp lại cái chuyện trẻ con này....
Ông ta nốc một hơi cạn ly nữa. Ông hành động với một sự trơ trẽn mà trước kia ông không hề có.
— Anh xem đó! Nadenka và Sachenka! Những đứa trẻ dễ thương nhỉ ! Hi !hi !hi !  
Ông không nén nổi cơn tức giận.
Một lằn chớp lóa mắt lóe lên chiếu sáng họ, tiếp liền theo là một tiếng sấm kinh hồn; mưa bắt đầu trút xuống như thác lũ, Pavel Pavlovitch đứng dậy và đóng cửa sổ lại.
— Dường như anh định ở lại đây... Veltchaninov nhận xét và ông chỉ có thể nói được từng ấy, vì nỗi đau đớn của ông quá ư mãnh liệt. Tôi đi ngủ đây và anh muốn làm gì thì làm.
— Thời tiết như thế này, người ta cũng chẳng để cả chó ra ngoài đường nữa là, Pavel Pavlovitch trả lời với vẻ bị hạ nhục, nhưng lại gần như sung sướng vì được cái quyền giận dỗi.
— Vậy thì, ở lại đi, uống thêm rượu... và nghỉ đêm cả ở đây cũng được, Veltchaninov nói với một giọng mệt mỏi. Ông ta nằm dài trên đi-văng và khẽ rên.
— Ở lại đêm? Và... anh không sợ sao?
— Sợ cái gì?— Veltchaninov chợt ngửng đầu lên.
— Ồ ! Không có gì... Tôi nói thế thôi... Lần trước anh có vẻ sợ một chuyện gì, hay là hình như tôi thấy thế.
— Anh thật là kỳ cục! Không dằn lòng nổi, ông thốt lên, và ông giận dữ quay mặt vào tường.
— Ồ ! Có gì đâu, Pavel Pavlovitch trả lời.
Người bệnh ngủ tức thì. Trạng thái căng thẳng giả tạo đã giúp sức cho ông suốt ngày hôm nay đột ngột hạ xuống, và, với sức khoẻ đã khá suy nhược, ông cảm thấy yếu ớt như một đứa bé.

Nhưng nỗi đau đớn lấn át sự mệt mỏi và giấc ngủ. Khoảng một tiếng sau, ông thức giấc và sự đau đớn khiến ông phải nhổm dậy. Mưa đã tạnh; phòng đầy khói thuốc: chai rưựu đã cạn. Pavel Pavlovitch ngủ trên chiếc đi -văng kia ; người ngã dài, đầu ngửa ra, áo quần giầy vớ còn y nguyên. Cặp mắt kiếng, vuột ra khỏi túi áo, lòng thòng trên đầu sợi chỉ tơ, gần chấm sàn.  Chiếc nón lăn dưới đất. Veltchaninov nhìn ông ta với một vẻ ủ ê, nhưng không đánh thức ông ta dậy. Không có can đảm nằm hoài mà không ngủ được, ông dạo quanh phòng, lưng khòm xuống, vừa rên rỉ vừa lo âu nghĩ về nỗi đau đớnncủa mình.
Ông sợ và không phải là không có lý do. Từ lâu nay, ông đã lên cơn như thế, n hưng lâu lắm ông mới bị lại : một hay hai năm kia. Ông biết việc đó là do gan mà ra; nó bắt đầu đau âm ỉ, dù lâm râm nhưng đã khó chịu, ở bên trong dạ dày hay ở một chỗ nào cao hơn, một điểm nào đó của lồng ngực. Rồi thì, có khi suốt cả mười tiếng đồng hồ, cơn đau kéo dài và đang tăng dần đến độ người bệnh tưởng chết đến nơi. Một năm trước đây, trong lần đau cuối, sau mười giờ vật vã đến khi cơn đau dịu xuống, nằm trên giường, ông cảm thấy rã rời đến độ không giở nổi tay, và bác sĩ chỉ cho phép ông, trong ngày hôm đó, như một đứa trẻ, uống vài ngụm trà thật lạt với ít bánh mì dầm trong nước xúp. Nỗi đau đớn chợt đến một cách vô cớ nhưng hầu như luôn luôn xảy ra sau một sự kích thích thần kinh quá độ, nỗi đau đớn đó cũng tan biến một cách kỳ quặc : đôi khi người ta có thể ngăn chận cơn đau từ lúc mới phát, ngay trong nửa giờ đầu, bằng cách háp nước nóng vào chỗ đau, nhưng khi khác, như trong lần đau trước, không gì chữa được, và sự đau đớn chỉ dịu bớt khi dùng thuốc nôn nhiều lần. Liền sau đó, vị bác sĩ thú nhận ông tưởng đó là một vụ ngộ độc.
Hiện giờ, còn lâu trời mới sáng, và Veltchaninov không muốn gọi bác sĩ trong đêm. Vả lại, ông ta cũng không thích những viên y sĩ. Nhưng cuối cùng chịu hết nổi, ông bắt đầu rên lớn tiếng. Tiếng rên đánh thức Pavel Pavlovitch dậy; ông này ngồi nhổm trên đi-văng như thế trong chốc lát, kinh hoàng lắng nghe tiếng rên rỉ của Veltchaninov. Ông sợ hãi nhìn ông kia chạy băng qua các phòng. Chai rượu ông nốc cạn đã làm ông say hơn thường lệ, và rất lâu ông mới tỉnh; nhưng cuối cùng ông cũng rõ chuyện, và vội vã chạy đến Veltchaninov, lúc đó gần như không còn đủ sức để trả lời nữa.
— Tôi biết bệnh đó là gì rồi, do gan mà ra đấy ! Pavel Pavlovitch la lên, dáng lăng xăng. Piotr Kouzmitch Polossoukhine mà anh có quen đó cũng bị giống hệt như anh vậy, và đó chính là gan. Phải háp bằng khăn nóng vào. Piotr Kouzmitch luôn luôn làm như thế: vì cơn đau có thể làm cho chết đấy! Tôi chạy đi gọi Mavra nhé?
— Không nên, không nên gọi... — Bực tức, Veltchaninov gạt ngang.— Tôi không cần gì cả.
Nhưng có Trời biết tại sao, Pavel Pavlovitch đã phát điên lên như là chính con mình đang hấp hối. Ông ta không muốn nghe gì cả và đã nài ép Veltchaninov chịu để cho háp khăn nóng và chịu uống một hơi hai hay ba tách trà lạt, những tách trà ‘‘không những nóng mà còn sôi nữa kia’’. Không chờ Veltchaninov cho phép, ông chạy đi đánh thức Mavra dậy, giúp bà này nhen lửa trong cái bếp đã thôi nấu nướng từ lâu, và đun sôi nước. Trong khi chờ đợi, ông đặt người bệnh nằm xuống, cởi áo quần ra và trùm mền lại. Hai mươi phút sau, trà cũng như đồ háp đã sẵn sàng.
— Đây là những cái dĩa nóng, nóng bỏng, ông nói với một giọng phấn khởi và vừa háp vào ngực Veltchaninov một cái dĩa nung nóng có khăn bọc ngoài.
— Chúng ta không có thứ gì khác; vả lại, tôi đoan chắc với anh dùng dĩa là cách tốt nhất đấy; chính tôi, tôi đã thử thí nghiệm cho Piotr Kouzmitch. Có thể chết vì cơn đau đấy nhé. Anh hớp trà đi, uống nhanh vào! Nếu rủi anh có bị phỏng cũng thây kệ. Được cứu sống mà bị vài ba vết phỏng, thì kể ra cũng đáng lắm.
Ông xô hối Mavra, còn ngái ngủ, và cứ khoảng hai hay ba phút, họ lại thay dĩa. Sau dĩa thứ ba và chén trà nóng thứ hai, chén trà được nốc cạn một hơi, Veltchaninov bỗng nhiên cảm thấy dễ chịu.
— Nếu chận đứng và trấn áp được cơn đau là có dấu hiệu tốt rồi đó, nên cám ơn Thượng Để đi! Pavel Pavlovitch la lên; ông vui vẻ chạy đi pha một chén trà khác và nung thêm một cái dĩa nữa.
— Tất cả vấn đề là chận đứng cơn đau; việc chính là ngăn nó lại đừng cho đau thêm, ông luôn miệng nhắc đi nhắc lại.
Khoảng nửa giờ sau, cơn đau hầu như dứt hẳn, nhưng người bệnh đã quá suy yếu đến độ từ chối không cho ‘‘háp thêm lấy một dĩa nho nhỏ nào nữa’’, mặc cho Pavel Pavlovitch nài nỉ. Mắt ông nhắm lại trong mệt nhọc.
— Ngủ, ngủ, ông lập lại với một giọng yếu ớt.
— Đó là việc hay nhất, Payel Pavlovitch đồng ý.
— Anh hãy ngủ lại đây... Mấy giờ rồi nhỉ?
— Hai giờ thiếu mười lăm.
— Anh đi nằm đi.
— Vâng.
Một phút sau, người bệnh lại gọi Pavel Pavlovitch.
— Anh, anh... anh tốt hơn tôi nhiều, ông thì thầm trong khi ông kia cúi mình xuống. Tôi hiểu tất cả, tất cả... Cám ơn anh.
— Thôi, ngủ đi ! Pavel Pavlovitch trầm giọng nói, và ông ta rón rén quay trở về giường ngủ.
Khi gần ngủ say, người bệnh còn nghe ông bạn làm giường rất nhanh, thay áo quần, tắt nến và nhè nhẹ đi nằm để đừng đánh thức ông dậy.
Có lẽ Veltchaninov ngủ ngay khi đèn vừa tắt; về sau, ông nhớ lại rõ ràng như thế. Nhưng trong giấc ngủ và cho đến lúc ông thức dậy, ông thấy trong mộng là mình không ngủ và dù trong người yếu mệt, ông vẫn không thể nào ngủ được, ông mơ thấy mình đã thức giấc và đang nói sảng, và ông không thể xóa tan được những ảo tưởng trùng trùng bủa vây ông, dù rằng ông ý thức rất rõ ràng đó chỉ là những ảo tưởng. Vả lại, ông nhận ra tất cả những ảo tượng đó: phòng ông đầy ứ người; cửa ra vào mở toang, người đi lại nườm nượp và chen chúc nhau trong cầu thang. Một người ngồi trước một cái bàn đặt ở giữa phòng, y hệt như trong giấc mộng tháng trước. Cũng như trong lần trước, người đó chống khuỷu tay trên bàn và nín thinh; nhưng trong lần này, ông ta lại đội một cái nón tròn có băng tang. ‘‘Thì ra là vậy! Trong lần trước cũng là Pavel Pavlovitch hay sao?’’  Veltchaninõv ngẫm nghĩ. Nhưng khi nhìn cái con người đó kỹ càng hơn, ông nhận thấy đó là một người nào khác.  Vậy thì tại sao hắn ta lại để tang? Veltchaninov tự hỏi. Những người vây quanh bàn nói la,- và sự ồn ào thật là quá cỡ. Đám đông có vẻ giận dữ Veltchaninov hơn là trong giấc mộng thứ nhất; họ nắm tay hăm dọa và hét lên điều gì đó nhưng ông không hiểu được là họ trách ông chuyện chi. ‘‘Mình biết là mình mê sảng, ông ngẩm nghĩ, mình biết là mình không thể nào ngủ được, cũng không thế nào nằm được, và mình đã thức dậy, bởi vì mình đau đớn biết chừng nào !’’ Tuy nhiên, những con người đó, những tiếng la hét, những dáng điệu của họ, tất cả những điều đó có vẻ quá rõ ràng, quá chân thực khiến ông đôi lúc phải nghi hoặc: ‘‘Có thật đó là một ảo giác? Bọn người đó muốn gì mình? Trời ! Nhưng... nếu không phải là một ảo giác thì có lẽ nào những tiếng la hét đó lại không đánh thức Pavel Pavlovitch dậy? Anh ta vẫn nằm ngủ trên đi-văng đó mà!’’ Cuối cùng, có một cái gì xảy đến, y hệt như trong giấc mơ trước kia: tất cả xô nhau chạy về phía cầu thang và họ chen chúc trước cửa vì có một đám đông khác đang leo lên thang gác để vào phòng. Những người này mang một vật gì to lớn vào nặng nề; người ta nghe vang lên trong thang gác những tiếng chân chậm chạp, khó nhọc của những người phu khuân vác và giọng họ gọi nhau hụt hơi. Trong phòng vang dậy những tiếng la:  ‘‘Mang vào đây! Mang vào đây !’’  — Tất cả những cặp mắt đều rực sáng và đều hướng về Veltchaninov. Với vẻ hăm dọa và đắc ý, tất cả chỉ cho ông chiếc cầu thang. Không thể nghi ngờ gì về sự hư ảo của tất cả chuyện đó, ông kiểng chân nhìn vội qua đầu mọi người xem họ mang cái gì đến. Tim ông đập mạnh, đập mạnh, đập mạnh, và bỗng nhiên, y hệt như trong giấc mộng trứớc, vang lên inh ỏi ba tiếng chuông. Và lần này cũng thế, những tiếng chuông đó quá trong trẻo, quá rõ ràng đến nỗi hiển nhiên không thể nào có được trong một giấc mơ. Ông la lên một tiếng và choàng thức giấc.

Nhưng không như lần trước, ông không phóng mình về phía cửa. Ý tưởng nào đã quyết định hành động đầu tiên của ông, và có chắc là trong lúc đó ông có một ý tưởng nào không? Tuy nhiên, chuyện xảy ra như là có ai nhắc ông ta chuyện phải làm; ông ngồi nhổm dậy, và, tay dang thẳng ra trước như để tự vệ hay ngăn đỡ một sự tấn công, ông phóng mình về phía Pavel Pavlovitch nằm ngủ. Đôi bàn tay ông liền chạm phải ngay đôi bàn tay khác đang ở phía trên ông, và ông nắm chắc lấy: có một ai đó đã đứng sẵn ở đấy rồi, hắn ta đang khom mình xuống. Các bức màn đều bỏ xuống, nhưng phòng không tối hẳn, vì một luồng ánh sáng lờ mờ từ căn phòng không có màn bên cạnh chiếu sang. Bỗng nhiên, ông cảm thấy lòng bàn tay và những ngón tay trái đau kinh khủng, và ông chợt hiểu là mình đã nắm phải và siết chặt lưỡi của một con dao hay của một chiếc dao cạo... Ngay lúc đó, có vật gì rơi xuống đất, tiếng rơi nặng nề và sắc gọn.
Veltchaninov mạnh gấp ba lần Pavel Pavlovitch, nhưng cuộc giao đấu giữa hai người cũng kéo dài khá lâu, ít nhất cũng phải ba phút. Cuối cùng ông cũng vật ngã tên kia xuống đất và bé ngược tay hắn ra sau lưng, nhưng ông còn nhất quyết muốn trói tay hắn ta nữa kia. Nắm chặt tên sát nhân bằng bàn tay trái bị thương, ông dùng tay mặt sờ soạng để kiếm sợi dây kéo màn, việc này hơi lâu, nhưng rồi ông cũng tìm ra sợi dây và giựt đứt. Về sau, chính ông cũng phải ngạc nhiên về sự cố gắng phi thường cần thiết này. Suốt trong ba phút giằng co đó, không ai thốt một lời nào. Người ta chỉ nghe thấy hơi thở dồn nén của họ và tiếng động huỳnh hụych của cuộc giao đấu. Sau khi đã trói quặt tay Pavel Pavlovitch ra sau lưng, Veltchaninov ném hắn ta xuống đất, rồi đứng dậy đến vén màn và kéo bức mành mành lên. Trời đã bắt đầu sáng ngoài con đường vắng vẻ. Ông mở cửa sổ và đứng hít khí trời mát mẻ trong chốc lát. Đã bốn giờ hơn. Đóng cửa sổ lại, ông thong thả bước đến tủ áo, lấy một cái khăn sạch và quấn bàn tay trái lại, ông nắm tay thật chặt cho máu ngưng chảy. Chân ông chạm phải con dao cạo mở sẵn. Ông lượm lên, xếp lại và bỏ vào chiếc bao đã nằm sẵn từ buổi sáng trên chiếc bàn gần đi-văng, chỗ Pavel Pavlovitch ngủ. Ông mang dao bỏ vào hộc bàn giấy và khóa lại. Chỉ đến lúc đó, ông mới trở lại gần Pavel Pavlovitch và ngắm nghía ông này.
Trong khi đó, ông kia đã gắng gượng đứng dậy và ngồi vào chiếc ghế bành. Lão ta chẳng ‘‘thắng bộ’’ mà cũng chẳng mang giày. Chiếc áo sơ-mi đẫm máu ở lưng và hai cánh tay, nhưng đó là máu nơi bàn tay bị thương của Veltchaninov thấm vào. Đúng là Pavel Pavlovitch, nhưng nếu chợt trông thấy ông lúc đó, người sẽ không tài nào nhận ra ngay được bởi vì khuôn mặt ông quá ư thay đổi. Ông ngồi cứng đơ trên ghế với đôi tay bị trói ké ra sau lưng, mặt xanh dờn, nhăn nhó và tiều tụy. Thỉnh thoảng, ông lại rùng mình, ông nhìn sửng Veltchaninov nhưng ánh mắt đã tắt, như là ông không còn phân biệt được gì nữa cả, Bỗng nhiên, ông mỉm cười gượng gạo và hất đầu về phía chai nước ở trên bàn, thều thào:
— Nước...
Veltchaninov rót nước ra ly và cầm cho ông ta uống. Pavel Pavlovitch chìa môi ra với vẻ thèm thuồng. Hớp xong ba ngụm nước, ông ngửng lên nhìn chăm chú vào mặt Veltchaninov lúc ấy đang đứng trước mặt, tay cầm ly nước; nhưng ông không nói gì cả và rồi lại tiếp tục uống, uống xong, ông hít vào một hơi thật dài. Veltchaninov ôm gối, thu thập quần áo và bước sang phòng bên cạnh sau khi đã khóa trái cửa giam Pavel Pavlovitch lại.
Cơn đau lúc nẩy đã hết hẳn, nhưng ông lại cảm thấy mệt mỏi quá độ sau sự gắng sức cấp thời vừa rồi, mà chỉ có Trời mới hiểu được là ông đã làm cách nào để thể hiện nổi! Ông thử nhớ lại sự việc đã xảy ra, nhưng ông không làm sao sắp đặt nổi ý tưởng; sự kích động đã quá mạnh. Nhắm mắt lại vào khoảng mươi giây, rồi thì bỗng nhiên rùng mình, ông choàng dậy, nhớ lại tất cả, ông giở bàn tay bị đứt bọc trong chiếc khăn đẫm máu và đang làm ông đau nhức, ông bắt đầu suy nghĩ với một sự khát khao nôn nã. Ông nhận ra độc nhất mỗi một điều: Pavel Pavlovitch muốn cắt cổ ông, nhưng có lẽ một khắc trước khi hành động, lão vẫn còn chưa biết mình sắp làm gì. Có thể tối hôm trước, ông ấy đã thấy chiếc dao cạo nhưng chưa có một ý tưởng nào rõ rệt, song hình ảnh con dao đã nằm sâu trong tiềm thức. (Thường ông khóa cất dao trong hộc bàn, và chỉ có tối qua ông mới lấy ra để tỉa gọt lại bộ râu).
— Nếu nó quyết định giết mình từ lâu thì chắc chắn nó đã sắp sẵn trước dao hay súng, chứ không thể nào nó trông nhờ vào mấy con dao cạo của mình mà nó chỉ mới thấy tối qua, ông ngẩm nghĩ như thế, giữa những ý tưởng khác.
Mãi rồi đồng hò mới gõ sáu giờ. Veltchaninov chợt tỉnh, ông mặc áo quần và bước sang phòng Pavel Pavlovitch. Khi mở cửa, ông tự hỏi mà không sao tự giải thích được là tại sao mình lại nhốt Pavel Pavlovitch thay vì tống cổ hắn ra ngoài tức khắc.
Ông rất đỗi ngạc nhiên khi thấy tên tù đã quần áo chỉnh tề và đang ngồi trong ghế; hắn ta đã tự mở được trói. Khi Veltchaninov bước vào, hắn đứng dậy; tay đã cầm sẵn nón. Cái nhìn lo ngại mà hắn ném nhanh về phía Veltchaninov như nói rằng:
 ‘‘Đừng bắt đầu nữa, đừng nên nói gì hết...’’
 — Ra ngay! Veltchaninov nói. Cầm lấy hộp nữ trang, ông nói thêm.
Pavel Pavlovitch quay gót trở lại, cầm chiếc hộp, bỏ vào túi và bước ra. Veltchaninov đi theo đến ngưỡng cửa để đóng cửa lại. Họ nhìn nhau lần cuối cùng. Pavel Pavlovitch chợt dừng lại; họ nhìn thẳng vào mắt nhau khoảng năm giây, vẻ ngập ngừng. Cuối cùng, Veltchaninov khoát nhẹ tay:
— Thôi, đi đi! ông khẽ nói và khóa cửa lại
CHƯƠNG XVI
Phân Tích Tâm Trạng
MỘT niềm vui bao la, kỳ lạ tràn ngập lòng ông: một chuyện gì đó đã kết thúc, một chuyện gì đây đang mở mối; sự khổ não khốc liệt đeo đẳng ông từ bấy lâu nay, giờ đây đã xa dần, đã tiêu tan. Theo ông, hình như thế. Sự buồn rầu đó đã kéo dài năm tuần lễ. Ồng giở tay lên, ngắm nghía chiếc khăn thấm máu và lẩm bẩm:
 '‘Lần này thì mọi việc đều xong hẳn. Và suốt buổi sáng hôm đó, lần đầu tiên trong ba tuần nay, hầu như ông không còn nghĩ gì đến Lisa, làm như giòng máu từ những ngón tay bị cắt chảy ra kia cũng đã có thể trang trải xong món nợ đó.
Ông biết là mình vừa thoát khỏi một nguy cơ tày trời. Ông nghĩ: ‘‘Những người thuộc loại đó, trong phút trước còn chưa biết là mình có giết người hay không, một khi cầm trong đôi bàn tay run rẫy con dao và cảm thấy trên đầu ngón tay giòng máu mới trào nóng hổi, thì không những họ chỉ bằng lòng giết chết người thôi mà họ còn
phải chặt đầu anh thật ‘‘gọn bân’’  như các tù tội thường nói, họ mới chịu cho’’.
Ông không tài nào ở nhà được, và khi ra đi, ông tin chắc là ông phải làm ngay tức thì một việc gì đó, hay là một việc gì đó nhất dịnh phải xảy đến cho ông. Ông hết sức mong muốn được gặp một người nào đó, được hàn huyên với bất cứ ai, ngay cả với một kẻ xxa lạ, và chỉ đến lúc đó, ông mới chợt nghĩ đến chuyện tìm bác sĩ để nhờ băng bó bàn tay một cách đàng hoàng. Sau khi khám vết thương, bác sĩ, một người ông quen đã tứ lâu, tò mò muốn biết ‘‘tại sao có thể bị như thế’’.
Để tránh câu trả lới, Veltchaninov vờ đùa cợt, cười như nắc nẻ và thiếu chút nữa là kể hết cho ông ấy nghe; nhưng ông kịp giữ miệng. Vị bác sĩ bắt mạch và sau khi nghe kể qua cơn đau tối qua, đã bắt ông uống ngay một liều thuốc an thần có sẵn đó. Về hậu quả vết thương, bác sĩ đã nói cho ông vững lòng: ‘‘ Kết quả chuyện này không có gì đáng ngại đâu’’. Veltchaninov cười và cam đoan rằng kết quả chuyện đó, trái lại rất tốt. Suốt trong ngày hôm đó, thêm hai lần nữa, ông lại muốn, một sự ham muốn khó cưỡng, kể lại tất cả, và đã một lần, trong một tiệm bánh, ông đã khơi chuyện với cả một ông khách hoàn toàn xa lạ, dù rằng ông vẫn thường ghét bắt chuyện nơi công cộng với những người không quen.
Ông tạt vào nhiều cửa hàng, tiệm buôn, mua một tờ báo, ghé bác phó may quen đặt một bộ áo quần. Ý nghĩ sẽ đến thăm gia đình Pogoréltzev vẫn tiếp tục làm ông khó chịu, và ông cố sức không nghĩ đến họ nữa ; Vả lại, ông không thể về nhà quê: ông đang chờ một chuyện gì đây phải xảy ra tại đây, trong thành phố này. Ông dùng cơm rất ngon miệng, trò chuyện với anh bồi bàn và người khách bàn bên và uống hết nửa chai rượu vang, ông không nghĩ là cơn đau hôm qua có thế tái phát và ông tin rằng bệnh mình đã hết hẳn từ cái lúc, sau một tiếng rưởi đồng hồ ngủ mê mệt, mình nhảy ra khỏi giường và xô ngã tên sát nhân xuống. Tuy nhiên, buổi chiều ông chóng mặt và đôi lúc cảm thấy bị những tư tưởng giống như trong giấc mộng đêm qua dày vò. Lúc về đến nhà, trời đã sẫm tối, và khi bước vào, quang cảnh căn phòng hầu như làm cho ông e sợ. Đối với ông, căn nhà có vẻ ảm đạm, ghê rợn ; ông đi vòng vòng nhiều lần và ghé cả xuống bếp, nơi ông không hề bao giờ bước chân vào. Ông ngẫm nghĩ: ‘‘Họ nung nóng dĩa ở đây’’. Ông cẩn thận đóng cửa lại và thắp nến sớm hơn thường lệ. Khi kéo cửa, ông chợt nhớ là lúc nẩy khi đi ngang qua nhà người giữ cổng, ông đã hỏi thăm Mavra là lúc ông vắng nhà, Pavel Pavlovitch có đến không, xem như ông ấy đến thăm ông là chuyện tất nhiên vậy.
Khóa chặt cửa xong, ông mở hộc bàn giấy, lấy hộp dao cạo ra và chăm chú ngắm nghía con dao ‘‘hôm qua’’. Trên cán dao bằng ngà trắng, người ta nhận thấy lờ mờ vài vết máu. Ông xếp dao vào bao và khóa hộp dao lại trong hộc bàn. Ông buồn ngủ và cảm thấy cần phải đi ngủ tức thì, vì, nếu không, ‘‘ ngày mai, ông sẽ chẳng làm được gì cả’’. Vậy đối với ông, cái ngày mai đó, không hiểu vì sao, là một ngày không tránh được, một ngày ‘‘quyết định’’. Suốt ngày, ngoài đường, những ý tưởng tương tự đã không ngớt đeo đẳng ông, giờ đây, lại ồ ạt kéo đến bủa vây bộ óc bệnh hoạn của ông, không cho ông một phút nghỉ ngơi nào; ông nghĩ ngợi, nghĩ ngợi, và rất lâu, ông vẫn không thể nào ngủ được.
 ‘‘Nếu xác định rằng hắn ta không định trước việc cắt cổ mình, ông ngẩm nghĩ, thì phải chăng cái ý nghĩ đó cũng đã đến trong đầu hắn, dù chỉ một lần thôi? Ít nữa nó cũng đã một lần mơ đến chuyện đó trong những lúc khốn đốn của cuộc đời?’’
Ông giải quyết vấn đề đó một cách khá kỳ lạ. ‘‘Phải, Pavel Pavlovitch muốn giết mình, nhưng ý nghĩ giết người chưa hề đến trong đầu hắn.’’ Hay nói cách khác:  ‘‘Pavel Pavlovitch muốn giết.’’  Câu nầy không có nghĩa, nhưng mà nó như thế, Veltchaninov ngẩm nghĩ. Hắn ta đến Pétersbourg không phải vì Bagaoutov, cũng chẳng phải vì việc bổ nhiệm, dù rằng nó có ra vô các bộ và có đến thăm Bagaoutov thật đấy; cái chết của anh chàng này làm nó nổi giận. Nhưng nó coi khinh Bagaoutov như rác. Vì mình mà nó đến Pétersbourg và vì mình mà nó dẫn Lisa theo’’.
‘‘Còn mình, mình có chờ nó... tìm cách giết mình không?’’  Ông kết luận là ông có chờ đợi và việc đó bắt đầu đúng ngay từ phút mà ông thấy hắn đi theo đám táng Bagaoutov.  ‘‘Từ đó, mình ngong ngóng một chuyện gì, nhưng chắc chắn là không phải chuyện đó ; dĩ nhiên mình không chờ nó cắt cổ mình !’’
 ‘‘Và có thể nào, ông la lớn vừa nhổm đầu khỏi gối và mở mắt ra, có thể nào... cái thằng điên đó lại thành thật khi tối qua nó đóan chắc vì lòng thương mến của nó đối với mình, khi cằm nó run lên và khi nó tự đấm vào ngực?
‘‘Ừ, nó thành thật, ông tự nhủ và phân tích kỹ càng hơn nữa. Cái thằng gù Quasimodo của tỉnhT... đó vừa đủ bao dung và đần độn để say mê gã tình nhân của vợ mình, người vợ mà suốt hai mươi năm trời dưới mắt nó, tính nết không có điều gì đáng chê trách. Trong chín năm, nó đã kính trọng mình, đã tôn thờ những kỷ niệm về mình và còn nhớ cả những ‘‘lời nói’’ của mình nữa. Trời ! Thế mà mình, mình chẳng nghi ngờ gì cả ! Hôm qua, nó không thể nào nói dối được. Nhưng, hôm qua, khi tỏ lòng cảm mến và nói với mình câu: ‘‘Hãy trang trải nợ nần’’, có thật nó thương mình không? Có, nó vừa thương mình lại vừa thù ghét mình, và đó chính là tình thương mãnh liệt nhất.
 ‘‘Có thể là, và chắc chắn như thế, lúc còn ở T...,mình đã tạo cho nó một ấn tượng phi thường và ‘‘tốt lành’’. Đó là chuyện phải xảy đến với nhà thơ Schiller kiêm tên gù Quasimodo đó. Nó đã thổi phồng mình lên cả trăm lần vì mình đã làm cho nó đảo loạn trong cảnh cô đơn suy gẫm của nó... Nó tò mò muốn biết đích xác cái gì đã đảo lộn nó. Có lẽ là đôi bao tay mới mua và cách thức mình mang chăng? Những tên Quasimodo thường rất ham chuộng thẩm mỹ !Ồ ! Chúng ái mộ cái đẹp biết là chừng nào ! Đối với những tâm hồn quảng đại, nhất là đối với những ‘‘đấng ông chồng muôn thuở’’, nội những cặp bao tay kể ra cũng đã là quá đũ rồi. Ngoài ra, họ phóng đại chuyện đó lên cả trăm lần và nếu cần, họ sẽ đánh nhau vì bạn, nếu như bạn muốn. Và nó đã ngưỡng mộ đến bực nào những phương pháp quyến rủ của mình. Có thể chính ngay những phương pháp đó, hơn tất cả những điểm khác, đã chinh phục họ. Và tiếng hét hôm nọ của nó: ‘‘Nếu cả anh đó nữa thì biết tin ai bây giờ?’’  Sau tiếng hét như vậy, người ta trở thành một loài dã thú’’.
 ‘‘Hừ...! Nó đến đây  ‘‘để hôn mình và để khóc !...’’  như chính nó đã từng nói một cách quái gỡ như thế, nghĩa là nó đến Pétersbourg để cắt cổ mình, nhưng nó lại tưởng tượng là đến chỉ để hôn mình và để khóc...  Và nó dẫn Lisa theo. Nhưng nếu mình cùng khóc với nó, có lẽ nó sẽ tha thứ cho mình, vì nó đang khao khát muốn tha thứ. Thế mà ngay trong lần gặp đầu tiên, tất cả chuyện đó lại hóa thành những nét mặt nhăn nhó của thằng say, thành những cử chỉ thô bạo, thành những tiếng than van hèn yếu của người đàn bà mang nhục (và cặp sừng, cặp sừng mà nó tự hào!). Chính vì chuyện đó mà nó đã đến nhà mình trong trạng thái say sưa để có thể trút tất cả những ẩn ức trong lòng dù là chỉ bằng cách nhăn nhó. Không say, có lẽ nó không dám thô lỗ... Nó vừa đủ thích những trò khỉ và những trò hề đó ! À! Nó thích những trò đó biết là chừng nào ! Và nó sung sướng biết bao khi làm đủ mọi cách để cuối cùng được hôn ! Nhưng nó vẫn còn chưa biết chuyện đó sẽ kết thúc ra sao: bằng những nụ hôn hay bằng những nhát dao? Cuối cũng, nó tìm được cách hay nhất, dĩ nhiên là như thế, là vừa hôn và vừa đâm chết. Đó là giải pháp đương nhiên. Phải, cuộc đời không thích những quái nhân và đã tiêu diệt chúng bằng  ‘‘những giải pháp đương nhiên’’. Tên quái nhân quái đản nhất là cái tên có những tình cảm cao thượng. Mình biết được điều này là nhờ chính kinh nghiêm bản thân, tên Pavel Pavloyitch đó ! Đối với lũ quái vật, Tạo hóa đâu phải là một bà mẹ hiền dịu mà chính là một mụ dì ghẻ cay nghiệt. Tạo ra một quái nhân và đáng lý phải thương hại nó thì hóa công lại đày ải nó. Và sự đời nó phải như thế. Ở thời đại chúng ta, những cái ôm choàng và những giòng lệ tha thứ không thích hợp với cả những người lương thiện: vậy thì kể gì đến bọn chúng mình, hở Pavel Pavlovitch?
‘‘Phải, nó vừa đủ ngu đần khi dẫn mình đến nhà vợ chưa cưới của nó. Trời! Một vị hôn thê! Chỉ có cái thứ gù Quasimodo đó mới có ý nghĩ là nhờ sự ngây thơ của cô nàng Zakhlébinine để xây lại cuộc đời mới mà thôi. Nhưng mà Pavel Pavlovitch ạ, mầy không phải là thủ phạm, không hề là thủ phạm! Mầy là một con quái vật thì tất cả những gì thuộc về mầy, những giấc mơ và cả những hy vọng tất nhiên đều phải là quái đản. Nhưng, dù là quái nhân chăng nữa, nó vẫn nghi ngờ giấc mơ của nó, cần có sự thừa nhận của ông Veltchaninov đáng kinh, đáng trọng này. Nó cần phải có sự tán thành của ông Veltchaninov; sự đoan chắc của ông Veltchaninov là giác mơ đó không phải là một giấc mơ mà chính là thực tế. Đúng là vì kính trọng mình mà nó đã dẫn mình đến đó, nó đặt tin tưởng vào nhũng tình cảm cao thượng của mình, và có lẽ nó còn tin là mình với nó sẽ ôm nhau vừa hôn, vừa khóc, sau một bụi rậm, không xa cô bé ngây thơ kia là bao. Phải! cuối cùng rồi một ngày nào đó, tên chồng muôn thuở kia phải dứt khoát tự trừng phạt mình và, để tự trừng phạt, nó đã cầm lấy con dao cạo, hẳn nhiên là không toan tinh trước, nhưng dù sao thì nó cũng đã cầm dao!  ‘‘Tuy nhiên, trước mặt quan Thống Đốc, nó đã tặng cho ông kia một nhát dao’’. Hừ, khi kể mình nghe câu chuyện anh chàng phù rễ đó, nó có nghĩ đến điều, gì giống như thế không nhỉ? Và đêm nọ, khi ra khỏi giường và đứng giữa phòng, nó có một ý nghĩ nào đó trong đầu chăng? Hừ… ! Không, đó chỉ là một trò đùa. Nó dậy là vì một chuyện khác, nhưng thấy mình sợ, nó đã lặng thinh không trả lời trong mươi phút vì nó thích thú khi thấy mình sợ nó... Rồi có lẽ lần đầu tiên, ý nghĩ kia đã nẩy nở trong đầu khi nó đứng im trong bóng tối.

 ‘‘Tuy nhiên, nếu đêm đó mình đừng bỏ quên dao trên bàn, có lẽ sẽ không có chuyện gì xảy ra. Có phải như thế không nhỉ? Có phải thật như thế không? Vả lại, nó đã tránh mình và nó đã chờ đến hai tuần mới đến thăm mình. Nó trốn mình vì nó thương hại mình. Lúc đầu, nó chọn Bagaoutov chứ không phải là mình. Và trong đêm đó khi mang dĩa đi nung, nó hy vọng làm như thế để khuây lãng tâm trí: từ con dao bước qua lòng trắc ẩn!... Nó muốn cứu mình và đồng thời tự cứu bằng cái dĩa nung nóng.’’
Và cứ thế, cái đầu óc bệnh hoạn của con người từng thuộc ‘‘giới thượng lưu’’ đó suy nghĩ mông lung cho đến khi ông lấy lại bình tĩnh. Sáng hôm sau, ông thức dậy, đầu vẫn còn nhức nhối, và ông cảm thấy một sự kinh hãi mới mẽ, hoàn toàn bất ngờ dày vò mình.
Sự kinh hãi mới mẽ đó bắt nguồn từ chỗ ông đột nhiên đinh ninh tin rằng mình, Veltchaninov, con người của giới thượng lưu, lại hoàn toàn tự ý đến thăm Pavel Pavlovitch ngay trong ngày hôm nay. Tại sao? Vì mục đích nào? Ông ta không biết gì và lòng đầy ghê tởm, ông không muốn biết gì cả; ông chỉ biết có một điều là ông sẽ lết đến đó mà không hiểu vì sao.
Tuy nhiên, cái ý nghĩ điên rồ đó — Ông không thể gọi khác được — rõ ràng đến độ trở nên khá hợp lý và có một cái cớ khả dĩ chấp nhận được: hôm qua, ông tưởng tượng là khi về phòng, Pavel Pavlovitch khóa cửa lại tự ải như cái ông thâu ngân viên mà Maria Syssoievna đã nói với ông. Cái ý nghĩ đó dần dần biến thành một niềm tin phi lý nhưng khó lay chuyển. ‘‘Nhưng trời đất quỷ thần! Tại sao cái thằng đó lại treo cổ?’’ ông tự nhủ như cắt đứt giòng tư tưởng. Ông nhớ lại những lời của Lisa... ‘‘Vả lại, mình mà ở địa vị nó, có lẽ mình cũng tự ải...’’ ông thầm nghĩ thế.
Cuối cùng, đáng lý đi ăn, ông lại rẽ về phía nhà Pavel Pavlovitch. Ông tự bảo: ‘‘Mình đến hỏi thăm Maria Syssoievna thôi.’’  Nhưng vừa bước xuống thang gác, ông dừng lại dưới vòm cổng.
 ‘‘Sao đây ! Ông la lên và đỏ mặt vì xấu hổ có thật là mình sẽ lết đến tận đằng ấy để hôn nó và khóc lóc? Ngoài sự xấu hổ này ra, lại còn phải thêm vào một việc làm đê tiện ngu ngốc này nữa sao?’’
Nhưng, nhờ ơn trên luôn luôn chăm nom những người đàng hoàng đứng đắn, ông đã thoát khỏi ‘‘cái việc làm đê tiện ngu ngốc đó’’. Vừa ra đến đường, ông đụng đầu ngay Alexandre Lobov. Gã trẻ trai này thở hồng hộc và rất bồn chồn.
— Tôi vừa mới đến ông! À này! Ông nghĩ sao về ông bạn Pavel Pavlovitch của chúng ta?
— Anh ta tự ải rồi à? Veltchaninov lẩm bẩm với vẻ thất thần.
— Tự ải? Tại sao? Lobov trợn tròn đôi mắt.
— Không có gì... Cậu tiếp tục đi...
— Trời! Ông có những ý nghĩ thật lạ lùng! Giả đâu có treo cổ (tại sao lão lại treo cổ đã chứ?). Trái lại, giả đi rồi. Tôi vừa đưa giả đến tận toa xe và tống khứ giả đi rồi. Nhưng giả nhậu quá sá ! Chúng tôi nốc cạn những ba chai. Có cả Predpossylov nữa. Giả nhậu quá sá! Giả nhậu quá cỡ! Giả hát om sòm trong toa xe; Giả có nhớ đến ông giả giơ tay vẫy chúng tôi và nhờ chúng tôi chào ông giùm giả nữa. Nhưng mà giả là một thằng bất lương! Ông nghĩ sao về chuyện này, hở ông?
Giả đã say: khuôn mặt đỏ nhừ, cặp mắt sáng rực và giọng nói lè nhè đã đủ chứng minh chuyện đó. Veltchaninov hả họng cười.
— À! Rốt cục rồi các ông cũng dùng rượu để kết thân ! Ha ha ha! Họ ôm nhau và cùng khóc với nhau. Ồ ! Thi sĩ nhà các anh! Schiller!
— Xin ông đừng sỉ nhục ! Ông nên biết là ở đằng ấy, giả đã chối từ mọi chuyện. Hôm qua và ngày hôm nay, giả ở lại đẳng. Giả tố cáo chúng tôi và người ta đã nhốt Nadia trong một căn phòng trên gác xép. Có cả tiếng khóc nhưng chúng tôi không nhượng bộ ! Nhưng nếu ông biết được lão đã nốc rượu như thế nào ! Và còn cái thứ ngôn ngữ của lão ! Giả nói liên miên về ông, nhưng làm sao có thể so sánh giả với ông được? Dù sao đi nữa, ông là một người đàng hoàng, và quả thật đã từng thuộc giới thượng lưu; giờ đây, vì thiếu phương tiện nên bắt buộc ông phải tránh xa giới này mà thôi, tôi tin là như vậy... Ồ! Mặc xác giả! Tôi chưa hoàn toàn hiểu...
— Vậy thì ra chính ông ta đã nói về tôi như thế?
— Vâng, chính lão, nhưng xin ông chớ giận. Làm một công dân lương thiện tốt hơn là thuộc vào giới thượng lưu. Tôi nói thế là vì trong thời đại này, ở nước Nga chúng ta, người ta không biết nên tôn kính ai. Đó là một điều bất hạnh cho một thời đại mà người ta không còn biết được ai là người đáng tôn kính, ông đồng ý chứ? Đúng thế chứ?
— Vâng, đúng, đúng ! Nhưng mà ông ấy?
— Ông ấy? Ồng nào nhỉ? À, vâng, tại sao lão nói luôn miệng câu: ‘‘Cái anh Veltchaninov đã ngũ tuần rồi, nhưng ảnh lại sa sút. Tại sao ‘‘nhưng sa sút’’, mà không là ‘‘và sa sút’’? Lão cười và lập đi lập lại câu đó cả ngàn lần. Khi ở trên toa, lão bắt đầu hát rồi khóc. Thật là phát tởm! Đáng thương cho tên say đó!Ồ ! Tôi không thích mấy đứa ngu. Rồi thì giả phát tiền cho kẻ nghèo để linh hồn Élisabeth được yên nghỉ. Vợ của giả?
— Không, con gái ông ta.
— Tay ông bị gì thế?
— Bị dao phạm phải. Không hề gì, rồi sẽ lành.
— Ông biết chứ, lão rời khỏi đây là tốt đó. Mặc xác lão ! Nhưng tôi dám cá là vừa mới đến chỗ mới, lão sẽ cưới vợ liền. Ông không tin sao?
— Nhưng, cả anh nữa, anh cũng muốn cưới vợ đó chứ?
— Tôi?... À, tôi thì lại là chuyện khác... Ông thật là kỳ cục. Nếu ông đã năm mươi thì lão cũng đến sáu chục. Phải biết lý luận chứ, cụ ạ. Ông biết chứ, trước kia, đã lâu lắm rồi, tôi là một người thuần túy duy Slave, nhưng hiện giờ tôi lại chờ bình minh từ Phương Tây đến... Thôi, xin tạm biệt! Rất sung sướng được gặp ông mà khỏi phải ghé ông; xin ông chớ nài nỉ, tôi không thể nào vào nhà được, tôi không có thì giờ... !
Gã tiếp tục dạo bước, nhưng gần như quay gót tức thì.
— Chết thật, trí ớc tôi ở đâu thế này! Ông ấy có nhờ tôi đưa lại ông một lá thư. Thư đây. Tại sao ông không ra ga tiễn lão?
Veltchaninov trở lên phòng và xé phong thư mang tên ông. Phong thư không có lấy một giòng chữ nào của Pavel Pavlovitch, nhưng lại đựng một lá thư khác. Veltchaninov nhận ra nét chữ. Giấy đã ngã vàng, mực đã nhạt. Bức thư viết cách đây mười năm, hai tháng sau khi ông rời khỏi T... Nhưng người ta đã không gởi nó đến cho ông mà thay thế bằng một lá thư khác; chuyện này thấy rõ trong nội dung lá thư trên. Trong lá thư này, Natalia Vassilievna gởi lời vĩnh biệt, giống như trong lá thư ông đã nhận được, và nàng thủ thật với ông là nàng đã yêu một người khác rồi, nàng cũng không giấu việc mình có thai. Trái lại, để an ủi ông, nàng hứa sẽ tìm dịp trả lại đứa con, đoan chắc với ông là từ nay trở về sau, hai người sẽ có những nghĩa vụ mới và như thế tình bạn sẽ mãi mãi keo sơn gắn bó. Tóm lại, tuy không hợp lý mấy nhưng mục đích vẫn là một; gạt bỏ mối tình của Veltchaninov. Nàng cũng còn cho phép ông, trong vòng một năm nữa, trở lại T …để thăm đứa bé. Có Trời mới hiểu nổi vì sao, sau khi suy nghĩ, nàng lại gởi một lá thư khác thế cho lá này!

Đọc xong những giòng thư đó, Veltchaninov tái mặt, ông tưởng tượng Pavel Pavlovitch khi tìm được lá thư này và đọc nó lần đầu tiên trước chiếc hộp gỗ mun có cẩn xà cừ của ông bà để lại.
 ‘‘Chắc chắn cả lão ta cũng tái nhợt như một thầy ma, ông thầm nghĩ khi thấy chính bóng mình trong gương. Nó đọc, có lẽ khép kín mắt lại, rồi thì mở ra với hy vọng rằng lá thư sẽ chỉ là một tờ giấy trắng... Nó làm như thế ít ra cũng phải ba lần!...’’.
CHƯƠNG XVII
Người Chồng Muôn Thuở
HAI năm trôi qua sau những biến cố mà chúng ta vừa kể trên. Một ngày hè kia, chúng ta gặp lại ông Veltchaninov đang ngồi trong một toa xe trên một đường hỏa xa tân lập. Ông đi thăm một người bạn ở Odessa, nhưhg đồng thời cũng có một mục đích khác không kém phần thích thú là nhờ sự giới thiệu của anh bạn, ông hy vọng sẽ gặp một người đàn bà dễ thương, duyên dáng mà từ lâu, ông vẫn muốn được quen thân. Không đi sâu vào chi tiết, chúng ta chỉ biết là suốt trong hai năm gần đây, Veltchaninov đã thay đổi nhiều lắm,
hay nói đúng hơn là đã sửa tính. Chứng bệnh ưu uất cũ đã biến mất, hầu như không còn để lại một dấu vết nào.
Những ‘‘kỷ niệm’’  và những lo âu (do trạng
thái bệnh hoạn của ông mà ra) hai năm về trước đã từng dày vò ông lúc còn ở Pétersbourg để lo vụ kiện khốn nạn đó, giờ đây chỉ làm cho ông cảm thấy hổ thẹn, một sự hổ thẹn thầm kín về sự bạc nhược cũ của mình. Sự tin chắc là chuyện kia sẽ không lấy ra nữa và không hề một ai hay biết đã an ủi ông phần nào. Quả thật là trong thời kỳ đó, ông đã hoàn toàn hờ hững với mọi sự giao thiệp trong giới thượng lưu; ông ăn mặc xốc xếch, lánh mặt mọi người, và chuyện đó, chắc chắn là tất cả mọi người điều đã để ý đến. Nhưng rồi chẳng bao lâu, ông lại nhập bọn và tỏ ý ăn năn với nhiều tự tin và hoàn toàn thay đổi đến độ ‘‘tất cả’’ đều tha thứ ngay cho sự bỏ cuộc tạm thời đó của ông.
Ngay đến cả những người mà ông đã từng lơ là với họ là những người đầu tiên tay bắt mặt mừng và không hề hỏi ông một câu nào sỗ sàng, coi như suốt thời gian ông vắng mặt là vì chuyện gia đình, không dính dáng gì đến ai cả, và ông vừa mới trở về. Nguyên do của sự thay đổi đầy hạnh phúc này hiển nhiên là từ sự thuận lợi của vụ kiện kia mà ra. Veltchaninov được chia sáu mươi ngàn đồng rouble, số tiền thật ra không nhiều lắm nhưng đối với ông rất quan trọng; trước hết ông có một chỗ đứng vững vàng; như thế ống rất hài lòng về phương diện tinh thần; tiếp đến, ông biết rằng mình sẽ không phung phí đến đồng bạc cuối cùng như một thằng ngu, cũng như trước kia mình đã từng tiêu sạch hai gia sản, và số tiền đó đủ cho ông sống đến xế chiều. ‘‘Cho dù xã hội có sụp đổ, cho dù bọn chúng muốn nói trăng, nói cuội gì với chúng ta, cho dù con người và ý nghĩ có thay đổi tùy ý thích; riêng mình, mình luôn luôn chắc chắn có bữa cơm ngon như mình đang ăn bây giờ và như vậy, mình đã chuẩn bị trước tất cả mọi chuyện’’, ông đã từng suy nghĩ như thế khi quan sát về những sự việc phi thường kỳ diệu đang xảy ra quanh ông, trên nước Nga này.
Cái ý nghĩ đó, dịu dàng đến độ khoái trá, đã dần dần xâm chiếm tâm hồn ông và thay đổi đến cả thể chất ông, đó là không nói đến phương diện tinh thần. So sánh với ‘‘con người càu nhàu, gắt gỏng’’ mà biết bao chuyện không hay đã xảy đến cho y như chúng ta đã mô tả từ đầu, thì giờ đây ông hoàn toàn là một con người khác. Dáng mặt vui vẻ, cởi mở, ung dung. Và ngay cả vết nhăn lo lắng trước kia hiện ra xung quanh viền mắt và trên trán, giờ đây cũng đã biến mất hẳn. Nước da trở nên trắng hơn và hồng hơn.
Ông đang ngồi thong dong trong một toa xe hạng nhất, và một ý nghĩ khá thích thú vừa nẩy ra trong trí. Đến ga sau, có một ngã ba; một con đường vừa làm xong rẽ về hướng tay mặt:  ‘‘Nếu lát nữa, mình bỏ đường chính mà đi theo phía tay mặt thì chỉ đi qua hai ga nữa, mình đã có thể đến thăm một nàng từ ngoại quốc về và hiện đang sống cô đơn ở đồng quê, việc này khá lợi cho mình nhưng lại bực bội cho cô ả; ở đó, mình có thể sẽ hưởng những giây phút thú vị như ở Odessa vậy, vả lại, mình cũng có thể đến Odessa sau’’.
 Nhưng ông vẫn còn ngần ngừ và chưa thể quyết định sự lựa chọn của mình. Khi đến trạm hỏa xa;  biến cố  đó đã không để ông chờ đợi lâu.
Thời gian ngừng lại ở ga đó là bốn mươi phút, hành khách có thể đi dùng bữa. Như thường lệ, thiên hạ nôn nóng và vội vã chen lấn nhau nơi cửa ra vào phòng đợi; và cũng như thường lệ, có thể sẽ có một chuyện không đẹp, một ‘‘xì căng đan’’ xảy ra. Một bà khá đẹp nhưng ăn mặc hơi diêm dúa từ trên toa hạng nhì bước xuống, hai tay gần như kéo lê một viên sĩ quan thương kỵ binh trẻ và đẹp trai, đang tìm cách vùng thoát. Viên sĩ quan trẻ này say mèm, và bà kia, có thể là một người bà con lớn tuổi, không buông tay ra, cố lẽ sợ chàng ta chạy đến quầy rượu. Trong đám đông, viên sĩ quan đụng phải một anh lái buôn trẻ đang rượu chè cờ bạc và đã thua hết vốn: từ hai hôm nay, anh ta ở lại ga này nhậu nhẹt với vô số bè bạn và phung phí tiền của mà vẫn chưa tìm được dịp tiếp tục cuộc hành trình. Một cuộc gây gổ xảy ra: viên sĩ quan la lối, anh lái buôn chửi thề; bà nọ thì quá tuyệt vọng, vừa cố lôi anh chàng quân nhân ra, vừa hét với một giọng cầu khẩn ‘‘Miténka, Miténka’’. Việc này đối với anh lái buôn có tính cách bêu xấu: thật thế tất cả mọi người đều cười nhưng mà có Trời biết vì sao, anh lái buôn lại cảm thấy tình cảm đạo đức của mình bị tổn thương.
— Các ông bà xem đấy ! ‘‘Miténka!’’, anh lái buôn nói với một giọng trách móc và nhái lại cái giọng dịu dàng của bà nọ. Họ chẳng biết xấu hổ là gì, ngay cả giữa bá quan thiên hạ !
Và chệnh choạng tiến đến gần bà kia vừa ngồi phịch xuống ghế, vừa kéo viên sĩ quan thương kỵ binh ngồi xuống bên cạnh bà, anh ta ném một cái nhìn khinh bỉ và lè nhè nói với bà ta:
— Mầy chỉ là một con dâm ô, một con dâm ô!
Bà nọ thét lớn lên và nước mắt lưng tròng, nhìn quanh cầu cứu. Bà ta xấu hổ và sợ hãi. Rủi thêm nữa là viên sĩ quan vừa chửi mắng om sòm, vừa dợm mình khỏi ghế và có vẻ nhào đến anh lái buôn, nhưng anh ta trượt chân và lại lăn đùng ra ghế. Tiếng cười xung quanh càng rộ thêm và không ai nghĩ đến chuyện can gián cả. Veltchaninov nhảy vào cứu giúp; ông đột nhiên nắm lấy cổ anh lái buôn, lắc qua lắc lại và đẩy anh ta ra xa năm bước cách bà kia đang kinh hãi. Việc này làm yên câu chuyện không đẹp kia; sợ hãi trước sức lắc và vóc dáng của Veltchaninov, anh lái buôn trẻ để các bạn dìu đi ngay tức thì. Bộ gió dềnh dàng của một ông ăn mặc sang trọng cũng có một ảnh hưởng lớn đến cả các người đang cười xung quanh; tiếng cười ngừng bặt. Bà nọ, mặt đỏ bừng, mắt đẫm lệ, bày tỏ. lòng chan chứa biết ơn của bà. Viên sĩ quan lẩm bẩm ; ‘‘C’ ơn, C’ ơn…’’, và muốn đưa tay ra bắt tay Veltchaninov; nhưng rồi thay đổi ý kiến, anh ta quay ra nằm dài trên ghế.
— Miténka! Bà nọ rên rỉ với một giọng phiền trách, vừa xoắn hai tay.
Veltchaninov bằng lòng về việc ngẫu nhiên này và về sự can thiệp đúng lúc của mình. Bà nọ khiến ông chú ý: hiển nhiên đó là một bà giàu có ở tỉnh, ăn mặc đắc tiền nhưng không có vẻ mỹ quan, cử chỉ có phần nào lố bịch; bà ta đã quy tụ được tất cả những điều kiện có thế bảo đảm sự thành công cho một gã hợm hĩnh nào ở thủ đô ngắm nghé một người đàn bà. Họ nói chuyện: bà đó hăng hái nói và phàn nàn về chồng mình ‘‘đã đột nhiên biến đâu mất khỏi toa xe, là nguyên nhân của mọi chuyện... vì anh ta luôn luôn bỏ đi đúng vào lúc người ta cần’’.
— Ông ta có chuyện cần..., viên sĩ quan lắp bắp.
— Ồ ! Miténka!— Và bà ta lại xoắn đôi tay.
 ‘‘Ông chồng tội nghiệp! Ông ta sắp bị chuyện gì nữa đây!’’  Veltchaninov thầm nghĩ.
— Ông nhà tên gì vậy? Tôi đi tìm cho, Vetchaninov đề nghị.
— Pa... ! Pa...litch, viên sĩ quan nói.
— Chồng bà tên Pavel Pavlovitch? Veltchaninov hỏi với đôi chút tọc mạch; và bỗng nhiên cái đầu sói mà ông đã từng biết rõ ràng, nhô ra giữa bà nọ và ông. Trong một khoảnh khắc, ông thấy lại khu vườn nhà Zakhlébinine, những trò chơi vô hại và cái đầu sói hay quấy rầy thường xuyên xen vào giữa ông với Nadia Fédosséievna.
— Bây giờ mới thấy ông! bà vợ la lớn với một giọng tức giận.
Đúng là Pavel Pavlovitch. Ngạc nhiên và sợ hãi, ông ta nhìn Veltchaninov đang sửng sốt như thấy ma hiện về... Pavel Pavlovitch sửng sờ đến độ lúc đầu ông không hiểu vợ ông, với một giọng tức giận và liến thoắng, đã kể lại những gì. Cuối cùng, ông khẽ rùng mình và chợt nhận ra tất cả cái gớm ghiếc của sự tình; cái lỗi của ông, Miténka đã làm những gì và cái ông đó (không hiểu vì sao, bà nọ lại gọi Veltchaninov như thế) là vị thần hộ mệnh, là kẻ cứu giúp của chúng ta, trong khi anh, luôn luôn đi khỏi những lúc mà đáng lý anh phải có mặt tại đó !
Veltchaninov phát cười.
— Nhưng mà chúng tôi là bạn cũ, bạn thuở nhỏ kia mà ! Ông nói với bà kia đang quá kinh ngạc và với một dáng điệu che chở, ông thân mật đặt bàn tay mặt lên vai Pavel Pavlovitch đang mỉm cười một cách mơ hồ. Anh không bao giờ nói đến tên Veltchaninov sao?
— Không, chưa bao giờ, bà nọ đáp với vẻ cuống quýt.
— Vậy thì, hãy giới thiệu tôi với chị nhà đi, anh bạn không chung thủy !
 — Đây là anh Veltchaninov, Lipotchka. Hừm... Ông ta bắt đầu, nhưng vô cùng bối rối, ông đâm ra lúng túng. Bà vợ thẹn đỏ mặt và giận dữ nhìn chồng vì ông đã gọi bà là Lipotchka.
— Chị thử nghĩ xem, anh nhà không bảo cho tôi biết là anh cưới vợ và cũng chẳng mời dự lễ cưới; nhưng chị, Olympiada...
— Sémionovna, Pavel Pavlovitch khẽ nhắc.
— Sémionovna ! viên sĩ quan sực thức giấc, chợt chen vào.
— Hãy thứ lỗi cho anh ấy, chị Olympiada Sémionovna ạ, hãy nể tôi và để mừng cuộc trùng phùng của chúng ta... Anh là một người chồng tốt !
Và Veltchaninov thân mật vỗ vai Pavel Pavlovitch.
— Em nè, anh vừa mới đi có một chốc..., Pavel Pavlovitch cố phân bua.
Lipotchka vội cắt lời:
— Và anh để cho người ta nhục mạ một cách hèn nhát vợ anh. Khi cần đến thì không thấy anh đâu, khi không cần thì anh lại có đó.
— Chỗ ông không nên có mặt, ông lại có... chỗ ông không nên có mặt... chỗ ông không nên có mặt... viên sĩ quan nói riết vào.
Lipotchka giận gần uất cả người, chính bà, bà hiểu rằng câu chuyện đó không thích hợp chút nào khi có Veltchaninov ở đây; bà đỏ mặt và không thể nào dằn lòng nổi. Bà thốt:
— Anh quá cẩn thận ở chỗ đáng lý ra không nên... quá cẩn thận.
Miténka cũng nói gắt theo.
— Ở dưới gầm giường... ông ta tìm kiếm những gã nhân tình..., ở dưới giường... cái chỗ mà ông ta không nên... mà ông ta không nên...
Nhưng không thể nào ngăn nổi Miténka. Vả lại, mọi việc đều kết thúc êm đẹp. Người ta quen thân nhau nhiều hơn. Họ phái Pavel Pavlovitch đi mua cà-phê và mì. Olympiada Sémionovna thuật cho Veltchaninov biết rằng họ từ tỉnh 0..., nơi chồng bà làm việc, đến đây và họ ở lại hai tháng trong căn nhà xinh xinh với một khu vườn của họ cách nhà ga khoảng bốn mươi dặm; rằng họ đang chờ rất nhiều bè bạn đến thăm, rằng ngoài ra, họ còn có rất đông bạn láng giềng, và rằng nếu Aléxéi Ivanovitch không quản khó nhọc đến thăm bà ‘‘trong cảnh tịch liêu’’, bà sẽ tiếp đón  ‘‘như là một vị thần hộ mệnh’’, vì bà không thể nào không sợ hãi khi nghĩ lại những gì đã xảy ra nếu... và cứ thế tiếp tục, tóm lại là  ‘‘như một vị thần hộ mệnh’’.
— Một hiệp sĩ, một hiệp sĩ! viên sĩ quan nói riết vào với nhiệt tình.
Veltchaninov lịch sự cám ơn và trả lời rằng ông vui mừng vì chuyện đó, rằng ông là một người rỗi rãnh, một người ăn không ngồi rồi, và lời mời của Olympiada Sémionovna làm ông vui thích lắm. Tiếp liền theo, ông mở đầu một câu chuyện vui vẻ và ông đã tìm được dịp xen vào câu chuyện vài ba lời khen tặng. Lipotchka đỏ mặt vì sung sướng. Và khi Pavel Pavlovitch vừa về tới, bà ta đã hân hoan bảo cho chồng biết là Veltchaninov đã nhận lời đến ở cùng họ một tháng ở thôn quê, và ông bạn đã hứa trong một tuần nữa sẽ đến. Pavel Pavlovitch cười gượng gạo và không nói gì cả. Olympiada Sémionovna nhún vai, đôi vai xinh xắn, và ngước mắt nhìn trời. Cuối cùng, họ chia tay; lại những lời bày tỏ sự biết ơn và lại những chữ  ‘‘thần hộ mệnh’’, ‘‘Miténka’’, vân vân. Pavel Pavlovitch đưa vợ và viên sĩ quan ra toa xe. Veltchaninov châm một điếu thuốc và đi dạo trên sân ga. Ông biết là trước khi xe chuyển bánh, thế nào Pavel Pavlovitch cũng chạy đến ông để phân trần vài ba điều. Chuyện đã xảy ra đúng như thế: Pavel Pavlovitch xuất hiện; khuôn mặt và đôi mắt lão biểu lộ một sự dò hỏi lo lắng, — Veltchaninov bật cười, ông ‘‘thân mật’’  nắm tay ông kia, dìu đến tận một chiếc ghế dài gần đó, ngồi xuống và kéo ông kia ngồi bên. Ông im lặng, muốn để cho Pavel Pavlovitch nói trước.
— Vậy ra anh đến thăm chúng tôi? ông này ấp úng và nói thẳng vào chuyện.
— Tôi biết mà! Anh chẳng thay đổi chút nào cả.— Veltchaninov cười rộ lên.— Nhưng mà anh?—Ông lại vỗ lên vai bạn.— Anh mà cũng có thể tin thực là tôi sẽ đến nhà anh, và lại ở lại những một tháng nữa kia à? Ha! ha!
Pavel Pavlovitch đứng dậy, vui vẻ ra mặt.
— Vậy là anh không đến chứ? Ông la lớn, không hề nghĩ đến chuyện giấu diếm sự sung sướng.
— Vâng, tôi sẽ không đến, tôi sẽ không bao giờ đến! —Veltchaninov cười thoải mái ; Vả lại, không hiểu tại sao tất cả câu chuyện này đối với ông có vẻ rất khôi hài, và càng nghĩ, ông càng thật thấy là tức cười.
— Thật chứ? Anh không nói đùa đấy chứ?— Thốt xong câu này, Pavel Pavlovitch giật nẩy mình và nôn nóng chờ đợi.
— Tôi nói với anh là tôi sẽ không đến... Anh thật là một người lạ lùng !
— Nhưng nếu như thế, thì... tôi sẽ phải nói với Olympiada Sémionovna như thế nào đây khi trong một tuần nữa chờ anh mà không thấy anh đến?
— Việc hay quá nhỉ? Anh nói với chị là tôi bị gãy cẳng hay là một chuyện gì đại loại như thế.
— Nàng sẽ không tin lời tôi, Pavel Pavlovitch đáp lại với một giọng khe khẽ than van.
— Và anh ‘‘lãnh đủ’’  phải không?—Veltchaninov cười giòn hơn nữa.— Này anh, tôi nhận thấy là trước mặt chị nhà, bà vợ khả ái của anh đó, anh không được bình tĩnh lắm đó! Thế nào?
 Pavel Pavlovitch cố cười nhưng không được. Veltchaninov từ chối không đến thì cho được đi; nhưng mà hắn ta lại dám suồng sã nói về bà Troussotzky thì thật!à không đẹp lòng chút nào cả. Pavel Pavlovitch sa sầm mặt xuống. Veltchaninov nhận thấy. Giữa lúc đó, còi tàu huýt lần thứ hai. Từ xa vọng lại một giọng nhỏ và lo ngại gọi Pavel Pavlovitch. Ông này dợm đi nhưng còn chưa chịu tuân theo lời gọi; hiển nhiên là lão chờ Veltchaninov hứa một lời cuối cùng là không đến nhà lão.
— Chị tên gì thế nhỉ? Veltchaninov hỏi, làm như không để ý gì đến sự lo lắng của Pavel Pavlovitch.
— Nhà tôi là con vị mục sư của chúng ta đó, ông kia trả lời, lắng tai nghe và lo âu nhìn về phía toa xe của mình.
— Vâng, tôi hiểu rồi, anh bị sắc đẹp của chị chinh phục chứ gì?
Pavel Pavlovitch lại nhăn nhó.
— Còn Miténka là ai đó?
— À, không có gì... Hắn ta có họ xa, một người bà con xa với tôi... hắn là con của Goloubtchikov; người chị họ quá cố của tôi; vì một chuyện nào đó, nó đã phải giãi ngũ, nhưng hiện giờ thì nó đã trở về lại quân đội. Chúng tôi đã trang bị hoàn toàn cho nó... thằng nhỏ đáng thương!
 Veltchaninov thầm nghĩ: ‘‘ À thì ra thế! mọi chuyện lại như cũ, đủ bộ rồi đây’’.
— Pavel Pavlovitch ! lại một làn nữa, một giọng kêu có vẻ tức giận hơn từ toa xe vọng đến.
— Pa...l Pal...vitch, một giọng khác lè nhè lập lại.
Pavel Pavlovitch lại dợm bước nhưng Veltchaninov nắm chặt lấy cùi tay và giữ lại.
— Anh có muốn tôi kể cho chị nhà nghe ngay bây giờ anh đã thử cắt cổ tôi như thế nào không? Anh nghĩ sao?
— Sao? Anh còn nhớ đến chuyện đó à? Pavel Pavlovitch la lên, kinh hãi. Cầu Trời phù hộ cho anh.
Lại những tiếng gọi vang lên.
— Pavel Pavlovitch ! Pavel Pavlovitch !
— Thôi, anh đi đi I
Veltchaninov buông tay ông kia ra, vừa cười hả hê.
—Vậy là anh sẽ không đến chứ? Pavel Pavlovitch ấp úng hỏi lần chót, vẻ tuyệt vọng; và ông lại chắp hai tay trước ngực như trước kia.
— Tôi thề chắc với anh! Nhưng anh hãy nhanh chân lên, không thôi, lại sẽ có chuyện rầy rà nữa đó !
Với một cử chỉ rộng rãi, ông chìa tay cho ông kia, ông giơ bàn tay ra và rùng mình: Pavel Pavlovitch không bắt tay; ông rút tay về.
 Người ta ra hiệu lần cuối cho tàu chạy.
Thế rồi, thoáng chốc có một sự thay đổi: Cả hai như thay hình đổi dạng. Mới phút trước, Veltchaninov còn cười nói vui vẻ, nhưng bây giờ ông như cảm thấy có cái gì dao động và gãy đổ trong ông. Ông phũ phàng nắm vai Pavel Pavlovitch.
— Nếu tôi, tôi đây nè, tôi đưa bàn tay này cho anh — Ông đưa ông kia xem lòng bàn tay trái có vết sẹo dài—, có lẽ anh sẽ bắt chứ !  ông ta thì thầm, đôi môi tái nhợt và run rẩy.
Pavel Pavlovitch cũng tái mặt và đôi môi run run. Gân mặt ông thoáng giật vài cái.
— Còn Lisa? Ông ấp úng và bỗng nhiên, môi ông, má ông, cằm ông rung lên và những giòng lệ trào ra khoé mắt.
Veltchaninov đứng trước mặt ông, sững sờ.
— Pavel Pavlovitch! Pavel Pavlovitch ! Từ toa xe người ta gào tên ông như bị ai thọc tiết.
Một tiếng còi vang lên.
Pavel Pavlovitch sực tỉnh, ông phác một cử chỉ thất vọng và vội vã chạy; tàu đã chuyển bánh ; nhưng ông chụp kịp cánh cửa xe và nhảy thóc vào toa. Veltchaninov ở lại trên sân ga cho đến chiều; ông lên chuyến tàu kế và đi thẳng. Ông không rẽ về hướng tay mặt và không đến thăm người đẹp sống cô đơn ở thôn quê: ông không còn thích chuyện đó nữa. Nhưng về sau, ông sẽ hối tiếc biết là chừng nào.
BẠT

NGƯỜI chồng muôn thuở xuất hiện năm 1870.  Lúc đó, Dostoïevski 49 tuổi. Đối với một tác giả sống nhờ ngòi bút, mà văn nghiệp khởi sự từ năm 23 tuổi và gần như không bị gián đoạn cho tới khi chết, cái số tuổi 49 quả là một con số giá trị. Tứ thập nhi bất hoặc ; Ngũ thập nhi tri Thiên mạng. Đó là thời kỳ vững vàng của tài năng, chín chắn của tư tưởng — buổi đứng bóng của mặt trời. Hơn nữa, đến năm 49 tuổi, Dostoïevski đã viếf xong Crime et Châtiment, L'Idiot và chưa viết Les Frères Karamazov. Nói một cách khác, tác phẩm Người chồng muôn thuở đã được Dostoïevski hoàn thành ở giữa những đại danh tác của ông. Và một tác phẩm mang chữ ký của một thiên tài hùng vĩ như Dostoïevski, và lại được sáng tác trong giai đoạn sung mãn của thiên tài này, nếu không phải là một kiệt tác phẩm đi chăng nữa, ít ra cũng không thể nào là một tác phẩm lép. Có lẽ nòi thiên tài không bao giờ hạ sanh những tác phẩm đực và những tác phẩm cái. Đành rằng trong lịch sử văn học thế giới, cũng đã xuất hiện khá nhiều những thiên tài xuất chúng với một tác phẩm duy nhất. (Tôi nghĩ đến những tiểu thuyết gia siêu hạng của Trung Hoa thời xưa: La Quán Trung, Thi Nại Am, Tào Tuyết Cần, Vương Nguyên Mỹ...) Nhưng dường như không hề có thiên tài nào với những tác phẩm bất đồng đều theo một tỷ lệ quá đáng.
Thật ra, tác phẩm Người chồng muôn thuở, mặc dù mang phải cái tội, cái tội duy nhất là ít trang nên bị che khuất oan uổng bởi những tác phẩm đồ sộ khác của Dostoïevski, cũng có thể được kể như là một kiệt tác phẩm trong hạng loại của nó. Trên mọi phương diện, nó hoàn toàn xứng đáng với cái vinh quang chói lọi của Dostoïevski. Nhưng khổ nỗi người đọc vốn thân thuộc với những tác phẩm hàng ngàn trang của Dostoïevski — và của những tác giả Nga cùng thời — nên thường đã tỏ ra hờ hững một cách bất công và phụ bạc đối với những công trình hàng trăm trang khác của ông. Đổi với đại đa số người đọc, hình như số lượng trang giấy của tác phẩm quyết định phần lớn kích thước tinh thần của tác phẩm, và cứ như thế suy diễn, số lượng tác phẩm quyết định phần lớn tầm vóc của nhà văn trong khung cảnh văn học. Nhất là ngày nay. Một tác giả lớn dường như trước tiên phải là tác giả có một mức độ sản xuất hết sức trù phú. Kỷ nguyên của Pavlov và thuyết phản ứng có điều kiện: ai nói nhiều thì dễ được nghe hơn! Cái thời của Lão Tử, của Socrate có lẽ đã chấm dứt từ lâu rồi. Tôi dám thách ngày nay, tác giả nào chỉ viết ra một cuốn sách mỏng như Đạo Đức Kinh, hay chỉ phát biểu một ít châm ngôn thôi mà thành danh được như hai nhà hiền triết đó. Có lẽ La Rochefoucauld đã kết thúc cho cái giòng giõi ít lời đó của nhân loại. Và nhà đạo đức học này cũng đã là người của thế kỷ XVII xa xôi. Ngày nay, dường như người đọc không còn đọc kỹ nữa và nhất là không còn suy nghĩ thấu đáo về những điều mình đã đọc, và người viết dường như không còn trọng người đọc nữa, người viết dường như ngờ vực khả năng tư tưởng và thâu thập của người đọc, nên nhất nhất điều gì cũng phải dẫn giảng khúc chiết, lê thê. Nói như vậy tức là tôi chẳng hề tin rằng tư tưởng nhân loại có thể gia tăng theo thời gian, nên sách của người thời nay phải dầy hơn sách của cổ nhân.
Trở lại với Người chồng muôn thuở. Nếu tôi được phép ví von những bộ tiểu thuyết tràng giang đại hải khác của Dostoievski như những Đế Thiên Đế Thích, và cuốn tiểu thuyết Người chồng muôn thuở như cái Tháp-Chàm, thì dưới mắt nhà khảo sát chuyện môn, Đế Thiên Đế Thích và Tháp Chàm cũng đều là hai công trình đáng kể như nhau. Lẽ dĩ nhiên là hai công trình có thể gợi lên trong trí não người ta một sự liên tưởng, nhưng chẳng phải vì vậy mà người ta có thể đi đến cái kết luận hàm hồ rằng Tháp Chàm chỉ là một mô hình thâu hẹp của Đế Thiên Đế Thích. Tác phẩm Người chồng muôn thuở gọn gàng, vén khéo, với một bố cục cân bằng, chặt chẽ, một diễn tiến bình thản, trơn tru, một lối viết mực thước, đầy đủ. Nó tuyệt nhiên không phải cưu mang những khúc mắc, những xô giạt, những bề bộn thường thấy trong những tác phẩm khổng lồ khác của Dostoïevski. Tất cả sự việc ở đây, đến không thiếu và cũng không thừa. Người chồng muôn thuở là một trong số những tác phẩm hết sức hiếm hoi, nếu không nói là duy nhất, mà khi viết, Dostoïevski đã kềm hãm được mình — tôi muốn hiểu sự kềm hãm này như một điều kiện tối thượng của nghệ thuật : nghệ thuật, sau rốt, lại là kết quả nỗ lực tự chủ, nỗ lực bôi mờ cá tính của người nghệ sĩ. Người chồng muôn thuở là một tác phẩm hoàn hảo, một tác phẩm cổ điên đúng nghĩa.
Cả cái cốt chuyện của Người chồng muôn thuở cũng chẳng có gì là phức tạp, rối rắm: Một anh chồng bị cắm sừng, sau khi người vợ đã chết, tìm gặp lại gã tình địch để trang trải món nợ tinh thần của chín năm về trước... Đối với tiểu thuyết gia và cả người đọc có một trình độ am hiểu tường tận về tiểu thuyết, cốt chuyện không phải là một điều quan trọng; nó chỉ là một cái cớ của tiểu thuyết, cũng y như đề tài đối với họa sĩ vậy. Với một mối tình loạn luân mẹ ghẻ con chồng, Racine tạo thành kiệt tác phẩm Phèdre, trong khi một tác giả nào khác cũng chỉ có thể viết được một cuốn truyện nhảm nhí, hạ đẳng mà thôi. Ta cứ lấy trường hợp của Đoạn Trường Tân Thanh làm thí dụ. Thành thử, vấn đề chính yếu cho tiểu thuyết gia là viết những cái gì, viết như thế nào dọc theo cốt chuyện. Tiểu thuyết gia và nhà kể chuyện hoàn toàn khác biệt nhau, dù rằng hai người này cùng phải xử dụng cốt chuyện để đưa người đọc đi vào một thế giới của tưởng tượng. Sở dĩ, ở đây, tôi phải nêu ra vấn đề cốt chuyện của Người chồng muôn thuở, nhấn mạnh tính cách đơn giản của nó, là cốt để trình bày một hiện tượng hết sức trái ngược và có vẻ nghịch lý trong tiểu thuyết: cốt chuyện của một cuốn tiểu thuyết càng đơn giản bao nhiêu thì nội dung của nó càng phức tạp bấy nhiêu. Và một cuổn tiểu thuyết giá trị không bao giờ để cho người ta tóm lược được nó. Do đó, hoặc người ta phải đọc trọn vẹn Người chồng muôn thuở, hoặc người ta coi như chẳng hề biết gì về nó cả. Sẵn đây nói luôn: xem một cuốn phim thực hiện theo một cuốn tiểu thuyết, cho dầu là thực hiện trung thành một trăm phần trăm đi nữa, vẫn chưa thể nói là đã hiểu cuốn tiểu thuyết đó. Sách viết ra là cốt để đọc, chớ không phải để được nghe kể lại.
Mặt khác, với một cốt chuyện sơ sài như cốt chuyện của Người chồng muôn thuở, mà xây dựng nổi một tác phẩm hấp dẫn dày ngót 300 trang, quả là một công khó phi thường của tác giả. Làm thế nào cuốn hút người đọc băng qua từ trang đầu đến trang cuối một cuốn tiểu thuyết thiếu vắng hoàn toàn những tình tiết éo le, gay cấn? (Dostoïevski để lại một kinh nghiệm: cách sắp xếp tinh vi, khoa học về chi tiết và sự phân lượng chi li, hợp lý về ngôn từ. Mỗi chương phải mở ra một cái nút thắt và đồng thời buộc lại một cái nút thắt khác nữa. Chúng ta không quên là Người chồng muôn thuở, đầu tiên, đã xuất hiện từng phần trên một tờ báo. (Hầu hết những tác phẩm của Dostoïevski đều được viết ra để đăng báo dài hạn. Dostoïevski là một ông tổ của cái nghề viết tiểu thuyết feuilleton.) Trước hết, câu mở đầu của cuốn sách đã khêu gợi ngay nơi người đọc một sự tò mò nào đó. ‘‘Mùa hè đến, và trái với mọi sự chờ đợi, Veltchaninov vẫn ở lại Pétersbourg.’’ Có nhà phê bình văn học đã nhận xét rằng với vế chữ ‘‘trái với mọi sự chờ đợi’’, Dostoïevski đã đặt ngay nhân vật vào một tình thế khác thường — một tình thế tiểu thuyết. Người đọc đã để mắt đến câu mở đầu rồi, khó lòng mà không theo dõi nữa. Và rồi mỗi chương tạo ra đều đều nơi người đọc ít nhất một thắc mắc nào đó và ở mỗi chương kế tiếp, người đọc sẽ à lên khoái trá. Người đọc, mặc dù sự lười biếng cố hữu đối với việc đọc, lại mất đi lần lần sức đối kháng, để mặc cho câu chuyện dẫn dắt mình đi tới, đi tới mãi. Khi cuốn sách chấm dứt, câu cuối cùng: ‘‘Nhưng về sau này, ông hối tiếc chuyện đó biết chừng nào’’.  Cũng còn khuyến dụ người đọc phải tưởng tượng thêm nữa, người đọc gần như phải tự mình xây dựng lấy một cuốn tiểu thuyết tiếp nối không thành hình. Cho đến câu cuối cùng, người đọc vẫn còn bàng hoàng, chưa tỉnh thức hẳn khỏi cái thế giới của tác phẩm, người đọc vẫn chưa chận đứng được cái đà lao tới của mình trong vùng tưởng tượng. Tôi vẫn quả quyết rằng tác phẩm hay vẫn không phải là một tác phẩm xong xuôi, toàn vẹn, mà phải là một tác phẩm còn có thể tiếp tục được nữa.
Trái với nhân vật Bovary của Flaubert, nhân vật này cũng là một đức ông chồng bị cắm sừng, một con người quê mùa, thô kệch, cù lần hao hao với mọi đức ông chồng bị cắm sừng khác của những với hài kịch bình dân, thì người chồng muôn thuở Pavel Pavlovilch Troussotzky lại thuộc thành phần thượng lưu, có học thức và biết suy nghĩ. Hơn thế nữa, gã còn là con người thủ đoạn. Những cơn say khật khưởng, những lời lẽ lèm bèm của gã dường như cũng được dự liệu trong kế hoạch mờ ám, tinh vi của gã. Nói cách khác, gã là con người có cá tinh. Nhưng khi vợ gã còn sanh tiền, gã lại cam chịu làm cái bóng mờ bên cạnh người đàn bà hư thân trắc nết đã lấn lướt chế ngự gã, làm con ngựa ngoan ngoản chỉ biết chạy đường thẳng với cặp da che mắt. Một cách an nhiên, gã đã xóa bỏ cá tính và giảm thiểu sự có mặt của mình trong một thế giới hạnh phúc lừa dối.
Tại sao không? Nếu ở đời, có hạng người chỉ tìm thấy được hạnh phúc trong sự bành trướng cá tính của họ mà chẳng chút đếm xỉa gì đến việc có thể làm tổn thương cá tính của người khác, thì cũng có một hạng người chỉ tìm thấy được hạnh phúc khi làm một tùy tinh mờ nhạt sau lưng người mà họ say mê sùng thượng và muốn được trùng lẫn. Troussotzky đã đặt trọn niềm tin nơi người vợ mà gã đinh ninh là hiền thục, chung thủy. Đã thế, gã lại còn yêu mến chân thành cả những tên đàn ông vây quanh vợ gã, không chút đắn đo ngờ vực, yêu mến họ xuyên qua cái tình yêu tuyệt vời mà gã dành cho vợ.
Nhưng đến khi vợ gã chết đi, gã mới chợt khám phá ra rằng vợ gã đã bao nhiêu lần lừa dối gã, và cả đứa con gái nhỏ của hai vợ chồng thật ra cũng chẳng phải là hòn máu của gã. Từ đó, bắt đầu cho gã tấn thảm kịch về sự sa sút của tinh thần. Như một cái lò xo bị dồn nén, bây giờ được dịp bung lên, gã thâu hồi cá tính của mình và trở thành một ‘‘con người hung tợn’’. Gã đi tìm trên các ngã đường của kinh đô Saint-Pétersbourg nóng bỏng hai kẻ tình địch của gã. Để làm gì? Giết chết họ ư? Lúc đầu, rõ ràng Troussotzky không dự tính hành động đó. Tâm lý của Troussotzky thật là phức tạp và rất dễ gây ngộ nhận, Dostoïevski để trọn một chương dành cho việc phân tách tâm trạng của Troussotzky, nhưng chung quy, chương này chỉ làm nổi bật thêm tính cách phức tạp của tâm trạng đó, hơn là soi sáng nó. Thật ra, người đọc khó thể thấu hiểu những ngoắt ngoéo trong tâm trạng của Troussotzky, nếu như người đọc chưa có một khái niệm nào về tâm lý thông thường của dân tộc Nga. Troussotzky cũng như phần đông những nhân vật khác của Dostoïevski (Raskolnikov Kirilov...) đều mang một tâm lý đầy Nga tính: tâm lý cực đoan và mâu thuẫn. Troussotzky đã chẳng ngớt đong đưa giữa hai cực đoan là sự thù ghét và tình thương mến. Nhưng sự thù ghét thì gần như vô lý ( câu chuyện ngoại tình đã kết thúc những chín năm về trước, và hơn nữa, ngườì vợ cũng đã quá vãng ), và tình thương mến thì lại bất lực trước thái độ hắt hủi của Veltchaninov, kẻ tình địch của gã. Những thủ đoạn ác hiểm của Troussotzky nhằm mục đích tra tấn kẻ tội phạm, bắt buộc nó phải nhìn nhận, cung khai tội lỗi, phải diễn lại tội lỗi — dù là chỉ diễn lại trong trí não của chính nó. Nhưng những thủ đoạn đó vẫn không gạt bỏ những biểu lộ trái ngược của tình thương mến mà tự bao giờ gã vẫn dành sẵn cho kẻ tội phạm. Troussotzky mong mỏi từ phía Veltchaninov một sự thống hối công khai, một lời van xin tha thứ, và trong trường hợp đó, gã sẽ ôm hôn người tình địch, khóc òa lên và xí xóa hết mọi chuyện. Tâm hồn của Troussotzky, dưới đáy cùng, có thể là một tâm hồn tràn đầy thánh hạnh. Tha thứ cho kẻ khác tức cứu rỗi được chính mình. Tấn thảm kịch của Troussotzky tự ý và có thật — tấn thẳm kịch của một tâm hồn thèm khát nỗi thống khổ, săn đuổi nỗi thống khổ. Đây cũng là một đặc điểm trong tâm tính thông thường của người Nga. Dostoievski viết: ‘‘Tên quái nhân quái đản nhất là một tên có những tình cảm cao thượng. Con người đã 49 tuổi đó có lẽ có thừa điều kiện để thấu hiểu chỗ tồi tệ mà sự sa sút của những tình cảm cao thượng đưa xuống.
Trong khi đó, Veltchaninov cũng tự giằng xé quyết liệt giữa cái tà tâm và lòng thành khẩn. Kỷ niệm câu chuyện ngoại tình chín năm về trước ở tinhT..., đối với Veltchaninov, đã trở thành ‘‘một sự ô nhục, và niềm hối lỗi đã dày vò hắn.’’ Nhưng Veltchaninov đã tránh né niềm hối lỗi, không dám gọi đích danh nó, không dám nhìn thẳng sự thật của chính mình. Hắn chạy tội trước chính mình trong những ngõ ngách quanh co của tâm hồn. Mọi việc tưởng chừng đã được thời gian thanh toán xong, cũng như cái tên của người đàn ông đội nón có băng tang thường gặp trên hè phố đã rơi chìm trong lãng quên mù mịt. Thời gian thường là một yếu tố mà người ta ỷ lại vào đó để tự tha thứ những lầm lỗi của mình. Câu chuyện ngoại tình đã được giấu nhẹm trong một góc tiềm thức khuất lấp nhất, đã được xếp bỏ lại một tỉnh lẻ đã mơ hồ. Nhưng người chồng muôn thuở đột ngột xuất hiện, khơi lại câu chuyện cũ, và Veltchaninov hứng chịu một cuộc tra tấn tinh thần muộn màng những chín năm sau. Veltchaninov, cũng như người đọc, bị cuốn hút trong nỗi thắc mắc là Troussotzky biết được những gì, biết được tới đâu về mối tình vụng trộm giữa Veltchaninov và người đàn bà có chồng kia. Và cũng vì thắc mắc như vậy, Veltchaninov đã kháng cự dằng dai trước những thủ đoạn tra tấn của Troussotzky. Niềm hối lỗi của Veltchaninov, cho đến lúc này, vẫn còn được che đậy, ngụy trang bên dưới sự bực dọc cùng lòng khinh nhờm đối với kẻ khác của Veltchaninov. Hắn không thiếu thành khẩn, nhưng thiếu can đảm. Thường khi, niềm hối lỗi của chúng ta, dường như vẫn cứ vướng mắc một sự gian lận vô ý thức: chúng ta sẵn sàng bẻ quặt niềm hối lỗi chiều theo những lý do thứ yếu. (Và lẽ hẳn nhiên, chúng ta chẳng bao giờ cạn những lý do thứ yếu đó.)
Trong tác phẩm Người chồng muôn thuở, Dostoïevski đã pha trộn lòng thương lâm và nỗi hung ác đối với sự bất hoàn hảo của loài người. Mọi phản tính thành khẩn, lương thiện của chúng ta bao giờ cũng phải là một công trình không toàn vẹn, một công trình bị bỏ dở bởi chính chúng ta. Điều đó, chúng ta không chối, nhưng cũng không nhận. Tác phẩm Người chồng muôn thuở mô tả cái đêm tối của lương tâm. Với họa phẩm La Ronde de Nuit, Rembrandt sáng tạo một thế giới của ánh sáng huyền diệu. Với Người chồng muôn thuở, Dostoïevski cũng soi chiếu vào cái đêm tối của lương tâm, một nguồn ánh sáng siêu phàm khiến cho người đọc bần thần, thao thức. Tôi nghĩ nên xếp loại Người chồng muôn thuở bên cạnh những tác phẩm khó hiểu và ít được biết đến khác của Dostoïevski: Les Nuits Blanches, Sous-Sol... - những tác phẩm của sự tự hỏi và không thể trả lời.
11 - 1969
TÔ THÙY YÊN 
Fyodor Dostoevsky
Dịch giả: Đỗ Kim Bàng
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đi tìm một vì sao: Quê nhà, đất nước, tình người! – Kỳ 1 Suốt hành trình tham gia kháng chiến, mỗi nơi từng sống và chiến đấu đều lưu lạ...