Thời thơ ấu 1
Chương 1
Gần cửa sổ, trong một gian phòng chật hẹp tranh tối tranh
sáng, bố tôi mặc quần áo trắng toát nằm trên sàn. Thân hình bố tôi dài lạ thường,
ngón chân xòe ra nom rất kỳ quái; hai bàn tay dịu dàng đặt yên trên ngực, nhưng
ngón tay thì co quắp. Hai đồng xu đen tròn bằng đồng che kín cặp mắt tươi vui của
bố tôi: khuôn mặt vẫn hiền từ nay tối sầm lại. Hai hàm răng nhe ra làm tôi sợ
hãi. Mẹ tôi mặc chiếc váy đỏ, chiếc áo hở ngực, quỳ bên cạnh và lấy chiếc lược
đen, mà tôi vẫn thích dùng để cứa vỏ dưa hấu, chải mái tóc dài và mềm mại của bố
tôi từ phía trán ra sau gáy. Mẹ tôi nói liên tục, giọng trầm trầm khàn khàn. Cặp
mắt xám của mẹ tôi sưng húp và như tan ra thành những giọt nước mắt lớn chảy
ròng ròng. Bà tôi giữ lấy tay tôi. Bà tôi người béo tròn có cái đầu lớn, cặp mắt
rất to và chiếc mũi xôm xốp nom rất buồn cười; bà tôi mặc toàn đồ đen trông mềm
dịu đến hay. Bà tôi cũng khóc, tiếng khóc nức nở lạ lùng, trầm bổng hình như
hòa theo những lời than vãn của mẹ tôi. Toàn thân run run, bà tôi kéo tôi và đẩy
lại gần chỗ bố tôi. Nhưng tôi cưỡng lại và nấp sau lưng bà; tôi vừa sợ hãi vừa
lúng túng. Chưa bao giờ tôi trông thấy người lớn khóc và tôi không sao hiểu được
những lời bà tôi nhắc đi nhắc lại:
- Cháu từ biệt bố cháu đi, không bao giờ cháu được thấy bố
cháu nữa đâu, tội nghiệp, bố cháu chết sớm quá, chưa phải lúc... Tôi bị ốm nặng,
vừa mới dậy. Trong lúc tôi ốm
- Tôi còn nhớ rất rõ
- Bố tôi nô đùa với tôi rất vui vẻ, sau đó bỗng nhiên bố tôi
biến đâu mất, và bà ngoại tôi, con người kỳ lạ ấy, đã thay thế bố tôi.
- Bà đi từ đâu đến thế?
-Tôi hỏi bà tôi. Bà đáp:
-Từ phía trên, từ Nijni đến.
Bà không đi bộ, mà đi tàu thủy đến! Người ta không thể đi bộ
trên mặt nước được, ông mãnh ạ! Câu trả lời đó thật là buồn cười và khó hiểu. ở
trên nhà này chỉ có mấy người Ba-tư rậm râu và tóc nhuộm; còn ở dưới hầm nhà
thì có một ông lão da vàng người Kanmưc làm nghề bán da cừu. Từ trên có thể cưỡi
tay vịn cầu thang trượt xuống, hoặc nếu có ngã thì lộn nhào ở cầu thang,
-điều đó tôi biết rất rõ. Nhưng sao lại có chuyện đi trên mặt
nước kia chứ? Tất cả câu chuyện của bà tôi đều vô lý, đều lầm lẫn một cách ngộ
nghĩnh.
-Thế tại sao cháu lại là ông mãnh?
-Tại cháu hay làm ồn lắm,
-bà tôi vừa nói vừa cười. Tiếng bà tôi nói rất dịu dàng, vui
vẻ và trầm bổng. Ngay từ ngày đầu tiên tôi đã thân với bà tôi, và ngay lúc này
tôi cũng muốn bà tôi mau mau đưa tôi rời khỏi căn phòng này. Tiếng khóc than và
kêu gào của mẹ tôi làm tôi nôn nao và gây cho tôi một cảm giác lo âu mới. Lần đầu
tiên tôi trông thấy mẹ tôi như thế. Mẹ tôi vốn rất nghiêm nghị, ít nói, người sạch
sẽ, gọn gàng và to lớn như một con ngựa, mẹ tôi có thân hình rắn chắc và đôi
cánh tay rất khỏe. Thế mà bây giờ không hiểu sao khắp người mẹ tôi đều sưng phồng
lên nom đến khó coi, đầu tóc rối bù, áo quần tơi tả. Mớ tóc thường vẫn vấn gọn
trên đầu như một cái mũ lớn vàng óng thì nay xổ xuống một bên vai trần, xõa xuống
mặt, còn nửa kia tết thành bím thì cứ lúc la lúc lắc chạm vào khuôn mặt ngủ say
của bố tôi. Tôi đứng trong phòng đã lâu, nhưng mẹ tôi không hề nhìn tôi; và vẫn
vừa chải đầu cho bố tôi vừa rên rỉ nức nở. Mấy người mujich mặc toàn đồ đen và
một tên cảnh sát ló đầu vào cửa phòng. Tên cảnh sát quát tháo, giọng giận dữ:
-Thu dọn nhanh lên! Chiếc khăn san màu đen che cửa sổ phồng
lên như một cánh buồm. Tôi bỗng nhớ tới một hôm bố tôi dẫn tôi đi bơi thuyền buồm.
Chợt một tiếng sấm nổ vang. Bố tôi cười, kẹp chặt tôi vào hai đầu gối và kêu:
-Không sao cả, đừng sợ, Luc ạ! Đột nhiên mẹ tôi nặng nề đứng
lên, rồi lại khuỵu xuống, ngã vật ra; tóc xõa tung ra cả sàn. Khuôn mặt trắng
trẻo, mờ lệ tái xanh đi và cũng nhe răng ra như bố tôi, mẹ tôi nói, giọng khiếp
sợ:
-Đóng cửa lại... Dẫn thằng Alêcxây ra ngay! Bà tôi đẩy tôi ra
rồi nhảy bổ ra cửa, mồm kêu to:
-Bà con thân mến, đừng sợ, cứ để mặc chúng tôi, bà con hãy đi
đi, Lạy Chúa tôi! Không phải dịch tả đâu, cháu nó sắp ở cữ đấy. Xin bà con hãy
làm phúc làm đức cho! Tôi nấp sau một góc tối, sau cái hòm và nhìn mẹ tôi lăn lộn
trên sàn rên siết và nghiến răng ken két. Bà tôi lê vòng quanh, cất giọng dịu
dàng và vui vẻ nói:
-Nhân danh Cha và Con! Variusa con hãy cố chịu khó một tí!...
Lạy Đức Mẹ Rất Thánh che chở chúng con...
Tôi sợ quá. Mẹ tôi và bà tôi bò lê trên sàn ngay bên cạnh bố
tôi, đụng cả vào người bố tôi và rên rỉ, gào thét, còn bố tôi vẫn nằm im không
động đậy và dường như đang cười gằn. Cảnh lồng lộn trên sàn ấy Tức Alêcxây,
cách gọi tắt thân mật. Tức Vacvara, cách gọi thân mật. kéo dài khá lâu. Mấy lần
mẹ tôi gượng đứng dậy, nhưng lại ngã quỵ xuống. Bà tôi lăn ra khỏi phòng giống
như một quả bóng lớn màu đen và mềm nhũn. Sau đó đột nhiên trong bóng tối có tiếng
trẻ con khóc thét lên.
-Sáng danh Chúa!
-Bà tôi nói.
-Con trai rồi! Và bà châm một ngọn nến. Sau đó chắc tôi ngủ
thiếp đi ở góc nhà nên không nhớ gì nữa. ấn tượng thứ hai còn ghi lại trong trí
nhớ tôi là một ngày mưa, tại một góc nghĩa địa hoang vắng. Tôi đứng ở một gò đất
trơn, nhớp nháp và nhìn xuống cái huyệt trong đó người ta vừa hạ quan tài bố
tôi xuống. Dưới đáy huyệt có nhiều nước và có cả ếch nhái nữa; hai con đã leo
lên được chiếc nắp quan tài màu vàng. Đứng bên cạnh huyệt có tôi, bà tôi, tên cảnh
sát quần áo ướt sũng và hai người mujich vẻ mặt bực tức, tay cầm xẻng. Những hạt
mưa ấm và li ti như những hạt thủy tinh nhỏ rắc lên tất cả mọi người.
-Lấp huyệt lại!
-Tên cảnh sát vừa ra lệnh vừa bỏ đi. Bà tôi khóc òa lên, giấu
mặt vào một góc khăn vuông. Hai người mujich gò lưng trên chiếc xẻng bắt đầu vội
vã hất đất vào huyệt, nước dưới huyệt kêu lõm bõm. Hai con nhái nhảy khỏi nắp
quan tài và lao lên thành huyệt, nhưng những hòn đất lại gạt chúng ngã xuống dưới
đáy.
-Đi thôi, Liônáa,
-bà tôi vừa nói vừa nắm lấy vai tôi. Tôi vùng ra khỏi tay bà
và không muốn rời khỏi nơi đây.
-Lạy Chúa, rõ thật là...
-Bà tôi rền rĩ, không hiểu nói với tôi hay với Chúa. Bà tôi đứng
im lặng rất lâu, đầu cúi gằm. Huyệt đã đầy đất, song bà tôi vẫn còn đứng đó.
Hai người mujich lấy xẻng đập thình thình vào mặt đất. Một luồng gió thổi tới
xua tan và cuốn mưa đi. Bà tôi cầm tay tôi và dẫn tôi đến ngôi nhà thờ ở phía
xa giữa vô số thánh giá đen sẫm.
-Tại sao cháu không khóc?
-Bà tôi hỏi, khi chúng tôi bước ra khỏi bờ rào.
-Giá cháu khóc một chút mới phải!
-Cháu không muốn khóc.- Tôi đáp.
-Thôi được, không muốn thì thôi cháu ạ,
-bà tôi khẽ nói. Tất cả chuyện đó thật kỳ lạ: tôi rất ít khóc
và chỉ khóc khi nào bực tức, chứ không bao giờ vì đau. Bố tôi luôn luôn chế nhạo
những giọt nước mắt của tôi, và mẹ tôi thường quát:
-Cấm không được khóc! Sau cùng bà cháu tôi ngồi trên một chiếc
xe ngựa nhỏ và đi dọc theo một đường phố rộng, nhưng rất bẩn, hai bên toàn những
ngôi nhà đỏ sẫm. Tôi hỏi bà tôi:
-Thế lũ nhái ấy có bò ra được không hở bà?
-Không, bây giờ thì chúng không bò ra được,
-bà tôi đáp.
-Chúa khắc phù hộ chúng nó! Cả bố tôi lẫn mẹ tôi đều không
hay nhắc đến tên Chúa một cách tin tưởng thân mật như vậy.
° ° °
Mấy ngày sau, tôi, bà tôi và mẹ tôi đi tàu thủy, chúng tôi ngồi
trong một buồng nhỏ. Đứa em mới đẻ của tôi là Macxim đã chết, nằm trên chiếc
bàn trong góc phòng, xác bọc trong một mảnh vải trắng có thắt dây băng đỏ. Tôi
ngồi chót vót trên đống tay nải và hòm xiểng, nhìn qua chiếc cửa sổ lồi và tròn
như mắt ngựa. ở phía ngoài cửa kính ướt đẫm dòng nước sùi bọt đục ngầu chảy cuồn
cuộn không ngớt. Thỉnh thoảng, một làn sóng lại chồm lên và liếm vào mặt kính.
Tôi bất giác nhảy xuống sàn tàu.
-Đừng sợ,
-bà tôi nói và đưa đôi cánh tay mềm mại khẽ nhấc tôi lên đống
tay nải như cũ. Làn sương mù màu xám và ẩm ướt bao phủ mặt nước. Xa xa, dải đất
sẫm hiện ra rồi lại biến mất trong đám sương mù và nước. Mọi vật xung quanh tôi
đều rung chuyển. Chỉ có mẹ tôi đứng yên không động đậy, hai tay để sau gáy,
lưng tựa vào thành tàu. Khuôn mặt mẹ tôi sa sầm và đanh lại, cặp mắt nhắm nghiền.
Mẹ tôi cứ đứng yên như vậy, không nói không rằng, dường như đã thay đổi hẳn,
ngay cả chiếc áo dài mẹ tôi đang mặc cũng xa lạ đối với tôi. Bà tôi nhiều lần
khẽ bảo mẹ tôi:
-Varya, con cố ăn một chút gì đi chứ? Mẹ tôi không trả lời và
vẫn đứng yên không nhúc nhích. Bà tôi chỉ nói thì thầm với tôi; họa hoằn nói với
mẹ tôi thì to hơn, nhưng có phần nào thận trọng, dụt dè. Tôi thấy hình như bà
tôi sợ mẹ tôi. Tôi hiểu điều đó, nhờ thế mà hai bà cháu càng gần gũi nhau hơn.
-Xaratôp kia rồi!
-Đột nhiên mẹ tôi nói to, giọng bực tức.
-Thủy thủ đâu rồi? Đấy, những lời nói của mẹ tôi cũng kỳ lạ
khó hiểu thế đấy: Xaratôp, thủy thủ. Một người đàn ông to lớn, tóc bạc, mặc quần
áo xanh, bước vào, tay bưng một chiếc hòm con. Bà tôi đỡ lấy chiếc hòm và đặt
xác em tôi vào đó. Rồi bà tôi giơ thẳng tay bê chiếc hòm ra cửa, nhưng người bà
to béo quá, chỉ lách nghiêng mới có thể lọt qua được chiếc cửa hẹp của căn buồng
nhỏ bé, nên bà cứ lúng ta lúng túng mãi trước cửa nom đến buồn cười.
-ôi, mẹ,
-mẹ tôi kêu lên, đỡ lấy chiếc quan tài ở tay bà tôi, rồi cả
hai người cùng biến mất. Tôi ở lại trong buồng một mình, chăm chú nhìn người
đàn ông mặc quần áo xanh. Tức Vacvara, cách gọi tắt.
-Thế nào, em cháu đi mất rồi ư?
-Người mặc quần áo xanh cúi xuống nhìn tôi và nói.
-Bác là ai?
-Thủy thủ.
-Còn Xaratôp là ai?
-Là một thành phố. Nhìn qua cửa sổ mà xem, nó kia kìa! Qua tấm
cửa kính tôi nhìn thấy một dải đất dường như đang di động. Dải đất màu sẫm và dốc
tuột. Làn sương nhẹ tỏa lên, giống một khoanh bánh mì lớn vừa mới cắt từ một ổ
bánh ra.
-Bà cháu đi đâu thế bác?
-Đi chôn em cháu.
-Đem chôn nó xuống đất hở bác?
-Chứ sao? Phải chôn đi. Tôi kể cho bác thủy thủ nghe câu chuyện
người ta đã chôn sống lũ nhái như thế nào lúc chôn cất bố tôi. Bác bế xốc tôi
lên, ghì chặt vào người và hôn tôi:
-Chà, cháu chưa hiểu gì cả!
-Bác nói.
-Không nên thương hại lũ nhái ấy làm gì. Chúa khắc phù hộ
chúng! Cháu hãy thương lấy mẹ cháu. Cháu thấy đấy, đau khổ đã làm cho mẹ cháu
héo hon đi như thế đấy! Tiếng còi tàu rúc, rít lên trên đầu chúng tôi. Tôi đã
biết đây là chiếc tàu thủy nên không sợ. Bác thủy thủ vội đặt tôi xuống sàn và
vừa chạy ra ngoài vừa nói:
-Bác phải chạy đi đằng này một tí! Tôi cũng muốn chạy theo.
Tôi bước ra ngoài cửa. Ngoài hành lang hẹp tranh tối tranh sáng không có qua một
bóng người. Gần cửa buồng có những bậc cầu thang nẹp đồng bóng nhoáng. Nhìn lên
trên, tôi thấy một đám người xách bị và tay nải. Rõ ràng là tất cả mọi người sắp
lên bờ, tôi cũng phải lên thôi. Nhưng khi tôi len vào giữa đám đông ở cạnh
thành tàu trước chiếc cầu bắc lên bờ, mọi người đều nhìn tôi kêu lên:
-Con cái nhà ai thế này? Mày con ai?
-Cháu không biết. Người ta xô đẩy tôi, lay tôi, sờ mó tôi hồi
lâu. Cuối cùng bác thủy thủ tóc bạc chạy đến, túm lấy tôi và phân trần:
-Thằng bé này ở Axtrakhan, nó ở trong buồng tàu chạy ra...
Bác bế tôi bước nhanh vào buồng, đặt tôi vào giữa đống tay nải rồi vừa đi ra, vừa
giơ ngón tay ra dọa tôi:
-Liệu hồn đấy! Tiếng ồn ào trên đầu mỗi lúc một nhỏ dần, chiếc
tàu không lắc lư mạnh và không khuấy động trên mắt nước nữa. Cửa sổ căn buồng bị
một bức thành ướt chắn lấp. Trong buồng tối om, ngột ngạt, đống tay nải như phồng
ra, ép lấy người tôi. Tất cả đều làm cho tôi khó chịu. Có lẽ người ta sẽ để một
mình tôi ở lại vĩnh viễn trong chiếc tàu vắng ngắt này chăng? Tôi lại gần cửa
buồng. Cửa không mở được, tôi không làm cách nào xoay được quả đấm bằng đồng.
Tôi cầm chai sữa đập thật mạnh vào quả đấm. Chiếc chai vỡ
toang, sữa đổ tung tóe xuống chân tôi chảy đầy cả vào đôi ủng. Buồn rầu vì thất
bại, tôi lên nằm trên đống tay nải, khóc ti tỉ và ngủ thiếp đi, mắt vẫn ướt lệ.
Khi tôi tỉnh dậy, chiếc tàu thủy lại khuấy động và lắc lư mạnh, cửa sổ căn buồng
sáng rực như mặt trời. Bà tôi ngồi cạnh tôi, chải đầu và nhăn nhó, nói thì thầm
cái gì nghe không rõ. Tóc bà tôi đen nhánh, ánh xanh, dày kỳ lạ, phủ kín cả hai
vai, xõa xuống ngực, xuống đầu gối và rải cả ra sàn. Một tay khẽ nâng mớ tóc
trên sàn lên và ướm trên tay, bà tôi đưa một cách khó khăn chiếc lược thưa bằng
gỗ vào mớ tóc dày. Bà tôi bĩu môi, cặp mắt đen long lên đầy tức giận, và trong
mớ tóc dày ấy khuôn mặt bà tôi trở nên bé nhỏ và buồn cười lạ. Hôm nay bà tôi
có vẻ dữ tợn, nhưng khi tôi hỏi tại sao tóc bà lại dày như vậy, bà tôi trả lời,
giọng cũng dịu dàng ấm áp như hôm qua:
-Có lẽ Chúa trừng phạt bà đấy. Tóc với tai chết tiệt ở đâu ấy,
cứ thử chải nó mà xem! Hồi còn trẻ bà thích khoe khoang về cái bờm này, nhưng
nay về già bà lại nguyền rủa nó! Cháu ngủ đi! Hãy còn sớm, mặt trời vừa mới mọc
thôi...
-Cháu không buồn ngủ nữa!
-Thì thôi vậy,
-bà tôi bằng lòng ngay; và vừa tết tóc vừa nhìn về phía chiếc
đi-văng, nơi mẹ tôi đang nằm ngủ, ngửa mặt lên, người duỗi thẳng.
-Hôm qua cháu đập vỡ chai sữa như thế nào? Kể khẽ cho bà
nghe! Lời nói của bà tôi đặc biệt trầm bổng nghe như tiếng hát, nó khắc sâu vào
trí nhớ tôi dễ dàng, như những đóa hoa, và cũng dịu dàng, rực rỡ đầy nhựa sống.
Khi bà tôi mỉm cười, hai con ngươi đen sẫm như quả anh đào, nở ra, long lanh
tia sáng dịu hiền khôn tả. Nụ cười để lộ ra hai hàm răng trắng ngần chắc chắn,
và mặc dù trên đôi má ngăm ngăm đen đã có vô số nếp nhăn, khuôn mặt của bà tôi
hình như vẫn tươi trẻ. Nhưng cái mũi xôm xốp có hai lỗ mũi phồng lên và cái
chóp mũi đỏ đã làm cho khuôn mặt xấu đi khá nhiều. Bà tôi hít thuốc lá đựng
trong cái hộp đen khảm bạc. Toàn thân bà tôi đen sẫm, nhưng từ bên trong -qua
đôi mắt -ánh lên những tia sáng ấm áp, tươi vui và không bao giờ tắt. Tuy lưng
còng, gần như gù, và thân hình rất to béo, nhưng bà tôi đi lại nhẹ nhàng, nhanh
nhẹn như một con mèo to, và cũng có vẻ dịu dàng mềm mại giống hệt như con vật dễ
thương ấy. Trước kia gặp bà tôi; tôi như người ngủ say, đắm chìm trong bóng tối;
nhưng bà tôi xuất hiện, đã đánh thức tôi dậy và đưa tôi ra ngoài ánh sáng. Với
một sợi dây vô tận bà tôi nối tất cả mọi vật xung quanh tôi lại, đan thành một
tấm đăng-ten nhiều màu sắc, và lập tức trở thành người bạn thân thiết suốt đời
tôi, một người gần gũi nhất với lòng tôi, một con người dễ hiểu nhất và yêu quý
nhất. Tấm lòng yêu mến vô tư của bà tôi đối với mọi người đã làm cho tâm hồn
tôi thêm phong phú, đã truyền sức mạnh không gì khuất phục nổi để đương đầu với
những ngày tháng gieo neo.
° ° °
Bốn mươi năm về trước tàu thủy chạy rất chậm, chúng tôi phải
đi khá lâu mới tới Nijni. Tôi còn nhớ rất rõ những ngày đầu tiên vô cùng đẹp đẽ
ấy. Trời rất đẹp, suốt từ sáng đến tối, tôi với bà tôi đứng trên boong tàu dưới
bầu trời trong sáng, giữa đôi bờ sông Vonga được mùa thu thêu lên một màu vàng
óng, trông như hai dải lụa. Con tàu màu gạch tươi đi ngược dòng sông, bánh lái
uể oải khuấy động mặt nước xanh sẫm. Con tàu kéo theo ở đầu sợi dây cáp dài một
chiếc sà-lan xám trông giống như con bọ đất. Mặt trời lững lờ di chuyển trên
sông Vonga; cảnh vật xung quanh đổi mới từng giờ từng phút. Những ngọn đồi xanh
giống như những nếp gấp lộng lẫy trên bộ y phục sang trọng của mặt đất; hai bên
bờ sông, các thành phố và làng mạc nom xa xa như những chiếc bánh; thỉnh thoảng
có chiếc lá thu vàng bập bềnh trên mặt nước.
-Cháu nhìn xem, đẹp chưa kìa!
-Chốc chốc bà tôi lại nhắc lại và đi từ thành tàu bên này
sang thành bên kia. Bà tôi rạng rỡ hẳn lên, đôi mắt mở to vì vui sướng. Bà tôi
mải nhìn lên bờ, nhiều lúc quên cả tôi. Bà tôi đứng cạnh thành tàu, khoanh tay
trước ngực, mỉm cười, im lặng, nước mắt rưng rưng. Tôi giật giật chiếc váy sẫm
màu có thêu hoa của bà tôi.
-Gì thế? -Bà tôi giật mình.
-Bà tưởng như đang thiu thiu ngủ và nằm mơ ấy.
-Sao bà lại khóc?
-Bà vui sướng đấy cháu ạ, mà cũng vì tuổi già nữa! -Bà tôi vừa
nói vừa mỉm cười.
-Bà đã già rồi, bà đã trải qua sáu mươi xuân rồi còn gì nữa!
Sau khi hít thuốc lá, bà tôi bắt đầu kể cho tôi nghe những câu chuyện kỳ quái về
bọn cướp phúc đức, về các vị thánh, về những loài dã thú và lũ ác quỷ.
Những chuyện thần thoại được bà tôi kể bằng một giọng khe khẽ,
đầy bí ẩn. Bà tôi cúi xuống, nhìn thẳng vào mắt tôi, hai con ngươi mở rộng như
muốn truyền vào lòng tôi một sức mạnh lôi cuốn tôi lên. Bà tôi nói y như hát,
và càng nói lời bà tôi càng vang lên nhịp nhàng. Nghe bà tôi nói thật thú vị
không thể tả được. Tôi lắng nghe và vòi thêm:
-Kể nữa đi bà!
-ừ, thì kể nữa: ngày xưa có một vị gia thần ngồi ở phía dưới
lò sưởi, bị mì ống cắm vào chân. Lão vừa lắc la lắc lư vừa rên rỉ và khóc tỉ
ti: "ôi, chuột con ơi, đau quá, ôi chuột con ơi, ta không thể chịu nổi!"
Bà tôi nhấc một chân lên, hai tay ôm lấy và nhăn mặt lại giãy giãy nom đến buồn
cười, y như chính bà tôi đau vậy. Các bác thuỷ thủ rậm râu và hiền lành đứng
xung quanh lắng nghe, cười khúc khích, khen ngợi bà tôi và cũng yêu cầu:
-Bà kể chuyện nữa đi! Sau đó họ bảo:
-Mời bà cùng đi ăn tối với chúng tôi! Khi ăn, họ mời bà tôi uống
rượu vôtka, còn tôi thì được ăn dưa hấu, dưa bở. Việc này phải làm giấu, vì
trên tàu có một người cấm ăn hoa quả, lão ta tịch thu tất cả hoa quả và đem quẳng
xuống sông.
Lão ăn mặc giống hệt một viên cảnh sát, cũng có những cúc áo
bằng đồng, và lúc nào cũng say mềm. Mọi người thấy lão đều lẩn tránh. Mẹ tôi rất
ít khi ra boong tàu và thường đứng lặng lẽ một mình, riêng ra một chỗ. Thân
hình mẹ tôi to lớn, cân đối, khuôn mặt tối sầm và đanh lại, mái tóc vàng hoe, tết
bím, vấn trên đầu thành một vòng nặng trĩu -toàn thân mẹ tôi trông thật lực lưỡng
và rắn chắc. Giờ đây hình ảnh mẹ tôi hiện lên trong óc tôi như qua một lớp
sương mù hoặc qua một đám mây trong vắt, trong đó lộ ra đôi mắt xám xa lạ và lạnh
lùng cũng to như đôi mắt bà tôi. Có một lần mẹ tôi nói, giọng nghiêm nghị:
-Người ta cười mẹ đấy, mẹ ạ!
-Mặc họ!
-Bà tôi đáp vẻ vô tư.
-Cho họ cười, kệ họ. Tôi còn nhớ vẻ vui mừng như trẻ con của
bà tôi khi nhìn thấy Nijni. Bà tôi kéo tay tôi, đẩy tôi về phía thành tàu và
kêu lên:
-Cháu trông kìa, cháu trông kìa, đẹp không! Nijni đấy, cháu ạ!
Nhờ ơn Chúa, thành phố mới đẹp làm sao! Cháu trông kìa, nhà thờ như bay là là
trên mặt đất ấy! Rồi bà tôi yêu cầu mẹ tôi, giọng gần như khóc:
-Variusa, con nhìn đi chứ! Có lẽ con quên cả rồi cũng nên!
Hãy vui lên con! Mẹ tôi mỉm cười, ủ rũ. Con tàu dừng lại trước một thành phố mỹ
lệ, giữa dòng sông chật ních thuyền bè, tua tủa hàng trăm cột buồm nhọn hoắt. Một
chiếc thuyền lớn đầy ắp người bơi lại gần thành tàu và ngoắc cái sào có móc vào
chiếc thang người ta thả xuống. Những người trên thuyền lần lượt leo lên boong
tàu. Một ông già bé nhỏ, gầy đét, leo lên rất nhanh, trước tất cả mọi người.
ông cụ mặc bộ quần áo dài đen, râu màu hung và óng ánh như kim tuyến, mũi giống
như mỏ chim và có đôi mắt xanh lục. Vì dịch tả đang hoành hành lúc bấy giờ nên
phải làm như vậy.
-Bố!
-Mẹ tôi kêu tướng lên, giọng khàn khàn. Mẹ tôi nghiêng người
về phía ông cụ. ông ôm lấy đầu mẹ tôi và đưa đôi bàn tay bé nhỏ, đỏ tía, vuốt
nhanh vào má mẹ tôi. Rồi ông kêu lên, giọng the thé:
-Thế nào! Cô ả ngốc? A, a! Con thấy đấy... Chao ôi, lũ chúng
bay... y... y thật là... Bà tôi hình như ôm hôn tất cả mọi người một lúc, cứ
xoay tít như một chiếc chong chóng. Bà tôi vừa đẩy tôi đến trước mặt mọi người
vừa nói vội vã với tôi:
-Nào, nhanh nhanh lên! Đây là cậu Mikhailô, đây là cậu
Iakôp... mợ Nataláa, đây là các em cháu, cả hai cùng tên là Xasa, em gái
Katêrina, tất cả đều là họ hàng nhà ta đấy. Cháu xem có đông không! ông tôi hỏi
bà tôi:
-Bà nó có khỏe không? ông bà tôi ôm nhau ba lần. Rồi ông tôi
kéo tôi ra khỏi đám người chen chúc, ôm lấy đầu và hỏi:
-Còn thằng này, mày là con cái nhà ai hả?
-Một thằng bé ở Axtrakhan, từ trong buồng tàu chạy ra...
-Nó nói cái gì thế?
-ông tôi hỏi mẹ tôi, và không chờ trả lời, đẩy tôi ra và nói:
-Đôi gò má giống bố như đúc... Thôi xuống thuyền đi! Tới bờ,
chúng tôi cả tốp leo lên dốc, theo con đường rải đá cuội to, giữa hai bờ dốc
cao phủ một lớp cỏ vàng hoe đã bị xéo nát. ông tôi và mẹ tôi đi đầu. ông tôi chỉ
thấp đến ngang vai mẹ tôi, bước ngắn, nhưng đi rất nhanh. Mẹ tôi nhìn ông tôi từ
trên xuống và bước đi như không chấm đất. Hai cậu tôi lặng lẽ bước theo sau: cậu
Mikhain tóc đen mượt, người gầy đét giống ông tôi; cậu Iakôp tóc quăn và vàng
hoe; có cả mấy người đàn bà to béo mặc áo dài lòe loẹt và năm sáu đứa trẻ con,
đứa nào cũng lớn hơn tôi và đứa nào cũng im lặng. Tôi đi cùng với bà tôi và mợ
Nataláa thấp nhỏ. Sắc mặt xanh xao, cặp mắt xanh biếc, bụng to tướng, mợ tôi
thường phải dừng lại luôn và nói thì thầm hổn hển:
-ối, tôi không sao đi được nữa!
-Chúng nó bắt tội mày đi làm gì cơ chứ!
-Bà tôi càu nhàu vẻ tức giận.
-Cả nòi cả ổ đều ngu ngốc! Cả người lớn lẫn trẻ con, tôi
không thích một ai cả. Tôi cảm thấy mình xa lạ giữa họ, ngay cả bà tôi hình như
cũng mờ nhạt đi và trở nên xa cách đối với tôi. Đặc biệt tôi không thích ông
tôi tí nào. Tôi cảm thấy ngay ông tôi là kẻ thù, ông làm cho tôi phải đặc biệt
chú ý tới ông và gây cho tôi một mối hiếu kỳ lo sợ. Chúng tôi đi đến đỉnh dốc. ở
tít trên cao, dựa lưng vào bờ dốc bên phải, bắt đầu phố, có một ngôi nhà thấp một
tầng, sơn màu hồng nhem nhuốc, mái lụp sụp và cửa sổ nhô ra ngoài. Đứng ngoài
đường nhìn vào, tôi tưởng ngôi nhà cũng khá rộng rãi, nhưng bên trong lại phân
thành những buồng nhỏ, tranh tối tranh sáng, rất chật chội. Chỗ nào cũng thấy
những người bực tức chạy ngược chạy xuôi như trên một con tàu cập bến và một lũ
trẻ con lồng lộn như đàn chim sẻ hay cướp phá. Chỗ nào cũng có mùi hăng hăng là
lạ. Tôi đi ra sân. Cái sân cũng đáng ghét: khắp sân treo đầy những tấm vải lớn
ướt đẫm, để ngổn ngang những thùng nước đặc nhiều màu. Trong thùng cũng ngâm vải.
ở một góc tường, trong trái nhà thấp lè tè đã xiêu vẹo, củi cháy rừng rực trong
bếp lò. Có cái gì sôi lên sùng sục, và một người mà tôi không trông thấy nói to
những tiếng kỳ lạ:
-Xantan
-fucxin
-cupơrôx...
Chương 2
Một cuộc sống sôi nổi nhiều màu sắc, kỳ quặc đến khó tả bắt đầu
và trôi qua nhanh chóng lạ thường. Tôi nhớ lại cuộc sống đó như nhớ lại một
chuyện cổ tích hãi hùng do một thiên tài tốt bụng nhưng chân thật một cách tàn
nhẫn đã khéo kể lại. Giờ đây khi hồi tưởng lại quá khứ, chính tôi đôi khi cũng
khó tin được rằng tất cả thực sự là như vậy. Có nhiều điều tôi muốn tranh cãi,
muốn phủ nhận, chính vì cuộc sống tối tăm của "cái nòi ngu ngốc" ấy
có quá nhiều những điều tàn nhẫn. Nhưng sự thật vẫn hơn lòng thương hại, vả lại
câu chuyện tôi kể đây đâu có phải nói về bản thân tôi, mà nói về cuộc sống chật
hẹp, ngột ngạt, đầy những ấn tượng khủng khiếp mà người thường dân Nga đã sống
và hiện đang sống. Nhà ông tôi đầy một không khí thù hằn giữa người nọ với người
kia như đám sương mù dày đặc; sự thù hằn đó đã đầu độc người lớn, và thậm chí đến
cả trẻ con cũng góp phần tích cực vào đó. Sau này, qua những câu chuyện bà tôi
kể, tôi được biết rằng mẹ tôi trở về đúng vào lúc các cậu tôi đang nằng nặc đòi
ông tôi phải chia gia tài. Việc mẹ tôi đột nhiên trở về càng làm tăng thêm ý muốn
ra ở riêng của họ. Họ sợ rằng mẹ tôi sẽ đòi lại số của hồi môn thuộc phần mẹ
tôi nhưng bị ông tôi giữ lại vì mẹ tôi đã "tự ý" đi lấy chồng, không
được ông tôi ưng thuận. Các cậu tôi cho rằng số của hồi môn đó phải được đem
chia cho họ. Từ lâu họ cũng đã cãi nhau kịch liệt xem ai là người được mở xưởng
ở trong thành phố và ai sẽ ở khu ngoại ô Kunavinô, bên kia sông ska. ít ngày
sau, khi chúng tôi tới, một vụ cãi cọ đã nổ ra ở nhà bếp giữa bữa ăn trưa: các
cậu tôi đột nhiên chồm dậy, nhoài người qua mặt bà và bắt đầu gầm rít, la hét
vào mặt ông tôi, răng nhe ra, gầm gừ nhau như một bầy chó. ông tôi đỏ mặt tía
tai, lấy chiếc thìa nện xuống mặt bàn và thét váng lên như tiếng gà trống:
-ông sẽ cho chúng mày đi ăn mày cả nút! Bà tôi mặt nhăn nhó một
cách đau đớn, nói:
-Cứ đem chia tuốt cho chúng nó, ông ơi! ông sẽ được yên thân.
Cho tất chúng nó đi!
-Xì, bà lại định về hùa với chúng nó phải không? ông tôi thét
lên, hai mắt long lanh. Và thật là lạ, một người bé nhỏ như ông tôi mà lại có
thể thét to đến thế. Mẹ tôi rời khỏi bàn, đứng dậy và từ từ đi lại phía cửa sổ,
đứng xoay lưng về phía mọi người. Bỗng cậu Mikhain vung tay đấm vào mặt người
em, cậu này thét lên, lăn xả vào anh và cả hai người lăn trên sàn, vừa thở, vừa
rên, vừa chửi rủa.
Lũ trẻ con òa lên khóc. Mợ Nataláa đang có mang kêu than một
cách tuyệt vọng. Mẹ tôi kéo mợ đi ra chỗ khác. Epgênáa, mụ vú nuôi mặt rỗ, vui
tính, đuổi lũ trẻ ra khỏi nhà bếp. Ghế đổ lổng chổng; anh thợ học nghề
Txưganôc, một thanh niên có đôi vai rộng, cưỡi lên lưng cậu Mikhain, còn bác thợ
cả Grigôri Ivanôvitạ hói đầu, rậm râu và đeo kính râm thì bình tĩnh lấy một chiếc
khăn mặt trói hai tay cậu ấy lại. Cậu Mikhain vươn cổ về phía sau, bộ râu đen
và thưa cọ xuống mặt sàn, miệng thở khò khè một cách khủng khiếp. ông tôi thì vừa
chạy xung quanh bàn vừa kêu la thảm thiết:
-Anh em, máu mủ với nhau mà thế đấy! Chao ôi, lũ chúng bay...
y... y thật là... Ngay từ đầu cuộc cãi nhau, tôi sợ quá, đã leo phóc lên lò sưởi.
Từ trên đó tôi kinh ngạc nhìn Bà tôi đang lấy nước ở chậu thau bằng đồng và rửa
những vết máu trên mặt cậu Iakôp. Cậu vừa khóc vừa giậm chân xuống mặt sàn, còn
bà tôi thì nói bằng một giọng khó nhọc:
-Quân đáng nguyền rủa, đồ mọi rợ, phải tu tỉnh lại chứ! ông
tôi vắt chiếc áo bị rách toạc lên vai và thét bà tôi:
-Này, mụ phù thủy! Mụ đã đẻ ra một lũ súc sinh đấy! Khi cậu
Iakôp đã đi khỏi, bà tôi chạy lại góc nhà, kêu gào thảm thiết:
-Lạy Đức Bà Marya, Mẹ của Chúa Lời, xin Đức Bà đừng để con
cái chúng con sa vào sự dữ. ông tôi đứng lên, ngoảnh về phía bà tôi, đưa mắt
nhìn chiếc bàn trên đó mọi thứ còn đổ ngổn ngang, lênh láng và nói nhỏ:
-Bà liệu mà theo dõi chúng nó, kẻo chúng nó sẽ hành tội con
Vacvara cho mà xem, chưa biết chừng...
-Thôi đi, đừng nghĩ nhảm nữa! Cởi áo ra, đưa đây tôi vá
cho... Rồi bà tôi ôm lấy đầu ông tôi hôn vào trán. ông tôi trông thật bé nhỏ
bên cạnh bà tôi và cứ úp mặt vào vai bà tôi:
-Có lẽ phải chia thôi, bà nó ạ...
-Phải, phải chia đi, ông ạ! Hai người nói chuyện với nhau hồi
lâu, lúc đầu còn thân mật, sau ông tôi giậm chân xuống sàn như con gà trống trước
lúc chọi nhau, giơ ngón tay ra dọa bà tôi và thều thào nói to:
-Tôi biết bà lắm, bà chiều chúng nó lắm! Thằng Miska của bà
chỉ là đứa gian giảo, còn thằng Iaska thì là một tên vô lại! Rồi chúng nó sẽ nốc
đến hết nhẵn của cải của tôi cho mà xem, chúng sẽ đem phung phí hết. Ngồi trên
mặt lò sưởi, tôi trở mình không khéo, làm rơi chiếc bàn là. Chiếc bàn là lăn ầm
ầm trên bậc lò sưởi rồi rơi tõm vào thùng nước rác. ông tôi nhảy lên bậc, kéo cổ
tôi xuống, nhìn chằm chằm vào mặt tôi, dường như mới trông thấy tôi lần đầu.
-Ai đặt mày ngồi lên lò sưởi? Mẹ mày phải không?
-Cháu tự leo lên lấy.
-Nói láo.
-Không, cháu tự leo lên một mình thật mà. Vì cháu sợ. ông tôi
đẩy tôi sang bên và khẽ bớp vào trán tôi.
-Y hệt như cái thằng bố mày! Thôi, cút đi! Được chuồn khỏi bếp,
tôi mừng quýnh.
° ° °
Tôi thấy rõ ông tôi thường đưa cặp mắt xanh thông minh và
tinh nhanh theo dõi tôi, và tôi sợ ông tôi lắm. Tôi còn nhớ là tôi luôn luôn muốn
lẩn tránh cặp mắt nẩy lửa đó. Tôi cảm thấy ông tôi là một người độc ác, nói với
ai cũng bằng một giọng giễu cợt, châm chọc để gây sự và chọc tức mọi người.
-Chao ôi, lũ chúng bay... y... y thật là!
-ông thường la như vậy; tiếng "y" kéo dài của ông
luôn gây cho tôi một cảm giác buồn rầu hoặc sợ hãi. Vào giờ nghỉ, lúc uống trà
buổi tối, khi ông tôi, các cậu tôi và những người làm từ xưởng bước vào bếp, vẻ
mệt mỏi, tay đầy xantan và cháy sém vì cupơrôx, tóc buộc băng vải, tất cả nom
giống như những bức tượng thánh đen sạm đặt ở góc bếp. Vào giờ phút hãi hùng
đó, ông tôi thường ngồi đối diện với tôi và chuyện trò với tôi nhiều hơn những
đứa cháu khác, khiến chúng phải ghen tị. ông tôi dáng người cân đối, mảnh khảnh,
tư thế ung dung. Chiếc gi-lê bằng vải xa-tanh thêu đã cũ sờn, áo sơ-mi vải hoa
thì nhàu nát và trên hai đầu gối quần lộ ra những miếng vá lớn. Tuy vậy trông
ông tôi ăn mặc vẫn có vẻ sạch sẽ và chỉnh tề hơn các cậu tôi mặc vét-tông,
sơ-mi ngực hồ cứng và quàng khăn lụa.
Tôi đến được vài hôm thì ông tôi bắt tôi học cầu kinh. Tất cả
những đứa trẻ khác ở trong nhà đều lớn tuổi hơn tôi và chúng đã học đọc, học viết
do một thầy phụ lễ của nhà thờ Đức Mẹ lên Trời dạy; qua cửa sổ của ngôi nhà có
thể nhìn thấy những nóc nhà thờ tròn vàng chói. Mợ Nataláa dạy tôi học. Mợ là một
người trầm lặng, sợ sệt, mặt trông rất trẻ con và có cặp mắt trong suốt khiến
tôi có cảm tưởng rằng qua cặp mắt đó có thể nhìn thấy tất cả những gì ở phía
sau mợ. Tôi thích nhìn vào mắt mợ thật lâu, không chớp. Mợ lim dim mắt, quay đầu
tứ phía và khe khẽ năn nỉ tôi, giọng gần như thì thầm:
-Nào, cháu nói đi: "Lạy Cha chúng tôi ở trên trời..."
Và nếu tôi có hỏi "Iakô jê là cái gì?" thì mợ sợ hãi nhìn xung quanh
khuyên tôi:
-Cháu đừng hỏi, như thế không tốt! Cháu chỉ việc nói theo mợ:
"Lạy Cha chúng tôi..." Nghe không? Tôi băn khoăn: tại sao hỏi lại
không tốt? Tiếng "Iakô jê" như có nghĩa gì bí ẩn, và tôi cố tình tìm
mọi cách xuyên tạc đi:
-"Iakôp jê", "Ia vơ kôjê"... Nhưng mợ tôi
cứ kiên nhẫn chữa lại. Mặt mợ nhợt nhạt như sắp tan ra thành nước, giọng nói
luôn luôn đứt quãng:
-Đừng, cháu chỉ việc nói: "Iakô jê" thôi... Nhưng bản
thân mợ và cả những lời nói đều không tự nhiên. Điều đó khiến tôi bực mình và
làm cho tôi không thể nào thuộc được bài kinh. Một hôm ông tôi hỏi:
-Thế nào, Aliôska, hôm nay mày làm gì? Lại đi chơi rồi! Cứ
nhìn thấy cái bướu trên trán mày là đủ biết. Chơi mà bươu đầu bươu trán lên như
thế thì không phải là khôn đâu! Thế còn bài kinh "Lạy Cha" đã thuộc
chưa? Mợ tôi đáp khẽ:
-Nó tối dạ lắm. ông tôi cười khẩy, cặp lông mày màu hung khẽ
rướn lên:
-Nếu vậy thì phải nện cho nó một trận! Và ông lại hỏi tôi:
-Bố mày đã nện cho mày bao giờ chưa? Không hiểu ông tôi nói
gì, tôi lặng im. Mẹ tôi nói:
-Không, Macxim không đánh nó bao giờ, còn cấm cả con nữa.
-Sao vậy?
-Bố nó bảo không thể dạy bằng roi vọt được.
-Rõ đồ ngốc, khốn khổ mồ ma cái thằng Macxim ấy. Lạy Chúa tha
thứ cho con!
-ông tôi nói rành rọt, giọng giận dữ.
Những lời nói đó làm tôi bực mình. ông tôi nhận ra điều đó.
-Mày làm gì mà bĩu môi bĩu mỏ thế? Thật là thằng... Rồi, vuốt
mái tóc hung bạc trên đầu, ông tôi nói thêm:
-Được, đến thứ bảy này tao sẽ tẩn cho thằng Xasa một mẻ về
chuyện chiếc đê cho mà xem!
-Tẩn là thế nào?
-Tôi hỏi. Tất cả mọi người cười phá lên, ông tôi nói:
-Được, rồi khắc biết... Tôi nấp vào một chỗ và tưởng tượng:
"tẩn" tức là thêu viền những áo dài người ta đưa nhuộm, còn "nện"
và "đánh" thì chỉ là một, có lẽ thế. Người ta thường đánh ngựa, đánh
chó, đánh mèo. ở Axtrakhan bọn cảnh sát đánh người Ba-tư, cảnh đó tôi đã thấy.
Nhưng tôi chưa thấy người ta đánh trẻ con như vậy bao giờ, và ở đây tuy các cậu
tôi cũng có khi cốc vào trán, khi thì bợp vào gáy lũ em họ tôi, nhưng lũ trẻ đối
với việc đó có vẻ xem thường. Bị đánh, chúng chỉ xoa qua loa chỗ đau rồi thôi.
Nhiều lần tôi hỏi chúng:
-Có đau không? Và bao giờ chúng cũng trả lời một cách can đảm:
-Không, chẳng đau gì cả! Câu chuyện lôi thôi về chiếc đê tôi
có được biết. Chiều chiều, khoảng từ lúc uống trà cho đến bữa ăn tối, các cậu
tôi và bác thợ cả thường can những mảnh vải nhuộm lại với nhau thành một
"tấm" và gắn vào đó những cái nhãn bằng bìa. Để đùa bác Grigôri mắt
đã gần mù, cậu Mikhain sai một đứa cháu lên chín tuổi lấy chiếc đê của bác
Grigôri hơ lên ngọn nến. Thằng Xasa lấy chiếc kẹp vẫn dùng để gạt tàn nến cặp
chiếc đê, hơ thật nóng, rồi lừa đặt xuống phía dưới tay bác Grigôri, và nấp đằng
sau lò sưởi. Vừa lúc đó, ông tôi đi vào, ngồi xuống làm việc và đút ngay ngón
tay vào chiếc đê nóng bỏng. Tôi còn nhớ, khi tôi nghe tiếng ồn ào chạy vào bếp
thì ông tôi đang giơ những ngón tay bị bỏng lên nắm lấy tai, nhảy choi choi và
la lớn:
-Đứa nào nghịch thế này? Đồ dã man! Cậu Mikhain cúi xuống
bàn, lấy ngón tay búng chiếc đê thổi cho nguội. Bác thợ cả vẫn điềm nhiên ngồi
khâu, những hình bóng nhảy nhót trên chiếc đầu hói lớn của bác. Cậu Iakôp chạy
vào, nấp sau góc lò sưởi và cười khúc khích. Bà tôi thì đang xát khoai sống bằng
một chiếc bàn xát.
-Thằng Xaska Iakôvôp nghịch đấy!- Cậu Mikhain bỗng nhiên nói.
-Nói láo!
-Cậu Iakôp từ phía sau lò sưởi nhảy ra, la lên. Trong một góc
bếp, thằng con cậu Iakôp vừa khóc mếu vừa kêu:
-Không phải đâu bố ạ! Chính bác ấy xui con đấy! Bao ngón tay
dùng khi khâu vá.
Hai cậu tôi bắt đầu cãi nhau. Còn ông tôi thì bỗng nguôi
ngay. ông tôi lấy bột khoai đắp vào ngón tay rồi im lặng bước ra, kéo theo cả
tôi ra ngoài. Tất cả mọi người đều nói rằng cậu Mikhain có lỗi. Cho nên đến lúc
uống trà tôi hỏi xem cậu ấy có bị "tẩn" và bị "nện" không?
-Đáng lắm.
-ông tôi vừa càu nhàu vừa liếc nhìn tôi. Cậu Mikhain đấm tay
xuống mặt bàn, thét mẹ tôi:
-Chị Vacvara, có bảo thằng chó con ấy câm đi không! Tôi thì vặn
cổ nó đi bây giờ! Mẹ tôi nói:
-Cứ thử đụng vào nó mà xem... Thế là tất cả mọi người đều im
lặng. Mẹ tôi có lối nói cộc lốc, những lời nói ấy như có sức mạnh đánh lui địch
thủ, và làm cho họ phải hạ mình. Tôi thấy rõ là tất cả mọi người đều sợ mẹ tôi.
Ngay cả ông tôi cũng nói với mẹ tôi nhẹ nhàng, không giống như nói với những
người khác. Thấy vậy tôi rất thích thú, và thường khoe với lũ em họ với vẻ tự
hào:
-Mẹ tớ mạnh nhất! Chúng cũng chẳng phản đối. Nhưng rồi câu
chuyện xảy ra hôm thứ bảy sau đã làm lay chuyển lòng tin của tôi đối với mẹ
tôi.
° ° °
Trước hôm thứ bảy, tôi cũng phạm phải một lỗi nặng. Tôi rất
thích xem người lớn làm thay đổi màu vải, thật là tài tình: chẳng hạn người ta
lấy vải vàng nhúng vào nước màu đen, thế là vải hóa thành màu xanh thẫm,
"màu chàm"; cho màu xám vào nước màu gạch thì trở thành đo đỏ, màu
"boócđô". Thật là dễ dàng, nhưng khó hiểu. Tôi cũng muốn tự mình nhuộm
một vật gì, tôi liền nói chuyện đó với thằng Xasa Iakôvôp. Nó là một thằng bé rất
đứng đắn, muốn được người lớn không coi thường, đối với ai cũng dịu dàng, sẵn
sàng giúp đỡ tất cả mọi người trong mọi trường hợp. Người lớn khen nó dễ bảo,
thông minh, nhưng ông tôi thường lườm nó và nói:
-Đồ nịnh hót! Thằng Xasa Iakôvôp người gầy khẳng, đen thui,
hai mắt lồi như hai mắt tôm. Nó thường nói vội vã, lí nhí, hay nuốt tiếng và
lúc nào cũng lấm lét nhìn quanh như định chạy trốn đi đâu. Hai con ngươi màu
nâu sẫm của nó thường không động đậy, nhưng mỗi khi nó bị kích động lại rung
lên cùng với lòng trắng. Tôi không ưa nó. Tôi thích thằng Xasa Mikhailôp hơn.
Nó là một thằng bé chẳng có gì đáng để ý, thầm lặng, chậm chạp, có cặp mắt buồn
và nụ cười hiền lành, rất giống người mẹ dịu dàng của nó. Bộ răng nó không được
đẹp, chìa cả ra ngoài miệng và ở hàm trên lại mọc thành hai hàng. Bộ răng này
làm nó bận tâm lắm; lúc nào nó cũng cho tay vào mồm lay những chiếc răng mọc ở
hàng sau để định nhổ đi và ai muốn sờ vào hàm răng của nó cũng được. Ngoài ra,
tôi không thấy nó có cái gì hay hơn. Trong nhà chật ních người nhưng nó sống lẻ
loi. Nó thích ngồi trong những xó tranh tối tranh sáng, và buổi chiều thì ngồi
bên cửa sổ. Thật thú vị khi cùng ngồi với nó im lặng bên cửa sổ, và cứ ngồi sát
bên nhau im lặng như thế hàng tiếng đồng hồ, nhìn những con quạ đen bay lượn
trên bầu trời đỏ ối trong buổi hoàng hôn, quanh những chiếc tháp tròn vàng rực
của ngôi nhà thờ Đức Mẹ lên Trời. Chúng bay tít lên cao, rồi lao vút xuống. Và
bỗng như một tấm lưới đen, chúng phủ kín bầu trời đang tắt, rồi chúng biến đi
đâu mất, để lại sau chúng một khoảng không trống rỗng. Nhìn cảnh tượng đó người
ta không muốn nói gì nữa, và một nỗi buồn man mác xâm chiếm lấy tâm hồn.
Thằng Xasa, con cậu Iakôp, thì chuyện gì cũng có thể nói thao
thao bất tuyệt, và chững chạc như người lớn. Biết tôi muốn học nhuộm, nó khuyên
tôi vào trong tủ lấy ra chiếc khăn trải bàn màu trắng tinh vẫn dùng trong những
ngày lễ và đem nhuộm thành màu xanh.
-Màu trắng là dễ nhuộm nhất, tớ biết!
-Nó nói giọng rất nghiêm trang. Tôi lôi ra chiếc khăn trải
bàn lớn và chạy ra sân. Nhưng khi tôi vừa nhúng một đầu khăn vào thùng nước
"chàm" thì anh Txưganôc bỗng từ đâu lao tới. Anh giật lấy chiếc khăn,
rồi dùng hai bàn tay to lớn vắt nước và thét thằng em họ tôi đang nấp ở phòng
ngoài để theo dõi việc làm của tôi:
-Gọi bà ra mau lên! Rồi anh lắc cái đầu tóc đen bù xù như cáo
trước điềm chẳng lành, và bảo tôi:
-Hừ, chuyến này thế nào mày cũng bị một trận đòn nên thân! Bà
tôi chạy tới, vừa rên rỉ và khóc lóc, vừa chửi tôi bằng những câu nghe đến buồn
cười:
-ôi, thằng trời đánh thánh vật kia, sao quỉ thần không đem mà
quật chết mày đi! Rồi bà tôi nói với anh Txưganôc:
-Này, Vanáa, đừng nói gì với ông nhé! Tao sẽ giấu kín chuyện
này, may ra có thể thoát được... Anh Vanka chùi hai tay ướt vào chiếc tạp-dề
nhem nhuốc, nói với vẻ lo lắng:
-Cái đó thì việc gì đến con? Con không nói đâu, song coi chừng
thằng Xasa nó mách đấy!
-Tao sẽ cho nó hai kôpêch,
-bà tôi nói và dẫn tôi vào trong nhà. Đến thứ bảy, trước giờ
cầu nguyện, có người dẫn tôi vào bếp. Trong bếp tối om om và im lặng. Tôi còn
nhớ cửa vào phòng ngoài và các phòng lúc đó đều đóng chặt, và bên ngoài cửa sổ
là ánh sáng u ám của một buổi chiều thu, tiếng mưa rơi tí tách vào cửa kính.
Trước cửa lò sưởi đen kịt, anh Txưganôc đang ngồi trên một chiếc ghế dài lớn.
Trông anh giận dữ, Tức Ivan, cách gọi tắt, Ivan là tên. Txưganốc là biệt hiệu.
Tức Ivan, cách gọi tắt thân mật. khác hẳn ngày thường. ông tôi đứng trong góc cạnh
một thùng gỗ, chọn ở trong thùng ra những chiếc roi dài, lấy tay đo từng chiếc
rồi xếp lại với nhau và quất vun vút vào không khí. Bà tôi đứng ở một chỗ tối
hít thuốc rít lên và càu nhàu:
-Sướng lắm đấy... đồ tàn bạo!... Thằng Xasa Iakôvôp ngồi trên
chiếc ghế ở giữa bếp hai tay dụi mắt, nói giọng kéo dài nghe rất lạ, giống như
một ông lão hành khất:
-Xin ông hãy vì Chúa mà tha cho cháu. Đằng sau chiếc ghế, hai
đứa con cậu Mikhain, một trai một gái, đứng tựa vai vào nhau, im thin thít như
những khúc gỗ.
-Tao quật xong rồi tao tha,
-ông tôi nói, tay vuốt một chiếc roi dài và ướt,
-nào, tụt quần ra!... ông tôi nói rất thản nhiên. Và cả tiếng
nói của ông, của tiếng thằng bé giãy giụa trên chiếc ghế ken két, cả tiếng giậm
chân của bà tôi
-tất cả đều không thể nào làm khuấy động được cái không khí
trầm lặng đang bao trùm lên căn bếp nhá nhem tối, dưới chiếc mái thấp lè tè đầy
bồ hóng. Thằng Xasa đứng lên, cởi quần, tụt xuống đến đầu gối và hai tay giữ quần,
nó cúi lom khom, lập cập bước đến chiếc ghế dài. Nhìn nó thật là thương tâm,
hai chân tôi cũng run lên. Tệ hơn nữa là khi thấy nó ngoan ngoãn nằm úp mặt xuống
chiếc ghế dài, còn anh Vanka thì lấy một chiếc khăn lớn trói nó vào ghế qua
nách và cổ. Anh cúi xuống và dùng hai cánh tay đen thui giữ chặt lấy cổ chân
nó.
-Lêcxây,
-ông tôi gọi,
-lại gần đây!... Kìa, có nghe tao nói gì không?... Đây, hãy
trông tao quật nó đây này... Một! ông vung tay lên không cao và vụt chiếc roi
vào tấm thân trần truồng. Xasa kêu thét lên.
-Nói láo,
-ông tôi nói,
-có đau đâu! Cái này mới đau hơn này! ông tôi đánh đến nỗi da
giộp ngay lên, trên lưng hằn những vệt đỏ. Thằng em họ tôi rú lên một tiếng
dài.
-Không dễ chịu à?
-ông tôi hỏi, tay vẫn đều đặn đưa lên đưa xuống.
-Không thích hả? Roi này là về tội chiếc đê này! Mỗi khi ông
tôi vung tay lên, tất cả mọi thứ trong ngực tôi đều dâng lên theo, và khi cánh
tay hạ xuống thì dường như cả người tôi cũng rơi xuống. Xasa rít lên the thé,
nghe thật khó chịu:
-Cháu chừa rồi... ì... ì... Cháu chẳng mách chuyện chiếc khăn
bàn là gì... Cháu đã mách... ông tôi nói giọng bình thản như đọc Thánh thi:
-Tố cáo không phải là đã hết tội! Đứa tố cáo phải được ăn đòn
trước tiên. Này đây, về chiếc khăn bàn! Tức Alêcxây.
Bà tôi lao về phía tôi, nắm lấy tay tôi và thét lên:
-Tôi không đưa thằng Lêcxây cho ông đâu! Không đưa đâu! Đồ quỷ
sứ! Bà lấy chân đạp vào cửa và gọi:
-Varáa, Vacvara!... ông tôi bổ nhào về phía bà tôi, đẩy bà
tôi ngã, giằng lấy tôi và đem lại chiếc ghế dài. Tôi giãy giụa trong tay ông
tôi, giật bộ râu màu hung và cắn vào ngón tay ông. ông tôi kêu thét lên, ghì chặt
lấy tôi và cuối cùng ném tôi xuống chiếc ghế dài, làm tôi sây sát cả mặt mũi.
Tôi còn nhớ tiếng thét man rợ của ông tôi.
-Trói nó lại! Tao sẽ giết nó! Tôi còn nhớ bộ mặt trắng bệch
và cặp mắt mở to của mẹ tôi. Mẹ tôi vừa chạy dọc theo chiếc ghế vừa thở hổn hển:
-Đừng, bố ơi!... Trả nó cho con...
° ° °
ông tôi đánh cho đến khi tôi ngất đi. Mấy ngày liền tôi ốm,
phải nằm sấp trên một chiếc giường rộng nóng bức, trong một căn phòng nhỏ chỉ
có một cửa sổ với một ngọn đèn đỏ tù mù suốt ngày đêm ở góc phòng, trước mặt
chiếc tủ có bày rất nhiều tượng thánh. Những ngày đau ốm là những ngày đáng ghi
nhớ của đời tôi. Trong những ngày đó chắc tôi đã lớn lên rất nhiều và cảm thấy
như có cái gì khác thường. Từ đó trở đi, tôi đâm ra quan tâm lo lắng đối với mọi
người; và hệt như người ta đã lột mất lớp da ở trái tim tôi đi nên nó trở nên hết
sức nhạY bén đối với mọi nỗi đau đớn và sỉ nhục, dù là tôi hay người khác phải
chịu. Trước hết, cuộc cãi nhau giữa bà tôi và mẹ tôi đã làm cho tôi hết sức ngạc
nhiên: trong căn phòng chật hẹp, bà tôi, người to lớn và vận đồ đen, tiến về
phía mẹ tôi, dồn mẹ tôi vào góc phòng, chỗ để các tượng thánh, và rít lên:
-Sao mày không lại mà giằng nó ra, hả?
-Con sợ.
-ôi, mày khỏe như vâm mà còn sợ! Thật xấu hổ, Vacvara! Tao
già thế này mà tao không sợ! Thật xấu hổ!...
-Để cho con yên mẹ ơi, con đau lòng lắm...
-Không, mày không yêu nó, mày không thương thằng bé mồ côi! Mẹ
tôi nói lớn, giọng mệt nhọc:
-Chính tôi cũng như một đứa mồ côi suốt đời! Rồi cả hai người
ngồi trên chiếc hòm ở góc phòng khóc rất lâu. Mẹ tôi nói:
-Nếu không có thằng Alêcxây thì tôi đã đi khỏi nơi này rồi!
Tôi không thể sống trong cái địa ngục này được nữa, không thể sống được, mẹ ơi!
Không còn hơi sức nữa...
-Con là dòng máu của mẹ, trái tim của mẹ!
-Bà tôi thì thào nói. Tôi hiểu ra mẹ tôi không phải là kẻ mạnh,
mẹ tôi cũng sợ ông tôi như mọi người. Tôi đã cản trở mẹ tôi đi khỏi cái nhà
này, nơi mẹ tôi không thể sống nổi. Điều đó thật đáng buồn. ít lâu sau mẹ tôi
biến khỏi nhà thật, không hiểu là đi đâu, thăm ai. Một hôm ông tôi bỗng xuất hiện,
hệt như từ trần nhà rơi xuống. ông tôi ngồi xuống giường, đưa bàn tay lạnh như
băng sờ vào đầu tôi:
-Chào cậu cả... Cháu trả lời đi, đừng giận ông!... thế nào?
Tôi chỉ muốn đá cho ông tôi một cái, nhưng tôi đau không cựa
quậy được. Tóc ông tôi trông càng đỏ hơn mọi khi, đầu luôn luôn lắc lư, hai con
mắt long lanh như đang tìm kiếm vật gì trên tường. ông tôi lấy trong túi ra một
chiếc bánh bích qui hình con dê, hai chiếc kẹo bọc đường hình chiếc kèn, một quả
táo và một chùm nho khô màu xanh rồi đặt tất cả lên trên gối, ngay trước mặt
tôi.
-Cháu thấy không, ông đem quà cho cháu đấy! ông tôi cúi xuống
và hôn vào trán tôi. Sau đó ông tôi bắt đầu vừa nói vừa khe khẽ xoa đầu tôi với
bàn tay bé nhỏ, cứng quèo và vàng khè, nhất là những móng tay cong như móng
chim.
-Hôm trước ông đánh cháu đau quá phải không? ông nóng quá! Tại
cháu cào và cắn ông nên ông giận. Nhưng không sao, cháu có bị đòn quá mức thì rồi
đâu cũng vào đấy cả! Cháu phải biết, mỗi khi người thân thích đánh cháu thì đó
không phải là điều sỉ nhục, mà là một bài học! Không nên để cho người ngoài
đánh mình, nhưng đối với người trong nhà thì chẳng sao. Cháu tưởng trước kia
ông không bị đánh ư? Aliôsa, ông bị đánh đến nỗi ngay cả trong giấc mơ khủng
khiếp cháu cũng không thấy được. ông bị sỉ nhục đến nỗi giá Chúa trông thấy chắc
Chúa cũng phải khóc! Kết quả là thế nào? Từ một đứa trẻ mồ côi, con một người
đàn bà nghèo, ông đã có địa vị như bây giờ. ông đứng đầu một phường nhuộm, ông
điều khiển mọi người. Với thân hình gầy và cân đối nằm xuống bên cạnh tôi, ông
tôi bắt đầu kể về những ngày thơ ấu của mình bằng những lời lẽ rắn rỏi và mạnh
mẽ, lời nọ nối tiếp lời kia một cách dễ dàng và khéo léo. Hai con mắt xanh của
ông tôi rực sáng lên. ông tôi vui vẻ vò rối bù mớ tóc vàng óng, rồi cất giọng
the thé như quát vào mặt tôi:
-Cháu đến đây bằng tàu thủy phải không? Hơi nước đưa cháu đến
đấy! Còn ông, khi còn trẻ, chính ông đã phải dùng sức kéo các sà-lan đi ngược
sông Vonga. Sà-lan thì ở dưới nước, ông thì đi trên bờ. ông đi chân đất trên đá
nhọn, trên những chỗ đất sụt, và cứ đi như thế suốt từ lúc mặt trời mọc cho đến
tối mịt. Nắng xiên vào gáy, đầu nóng bỏng như than, người cúi gập thành ba
khúc, xương kêu răng rắc... Vậy mà vẫn phải đi, đến đường đi cũng không trông
thấy, hai mắt nhòa lệ và mồ hôi, lòng đau đớn ê chề...
ôi chà, Aliôsa, cháu cứ im ông kể cho mà nghe! Cứ thế đi, đi
mãi, cho đến lúc tuột khỏi dây, ngã giúi xuống đất. ấy thế nhưng lại mừng, bởi
vì tất cả sức lực đã cạn rồi: miễn sao được nghỉ ngơi, hay chết quách! Đó, người
ta đã sống dưới mắt Chúa Giêsu nhân từ như thế đó!... Đã ba lần ông đếm bước
trên dòng sông Cái Vonga: từ Ximbiêc đến Rưbinxkơ, từ Xaratôp đến đây và từ
Axtrakhan đến hội chợ Makariep. Hàng bao nhiêu nghìn dặm đường! Cho đến năm thứ
tư thì ông trở thành phu trưởng của anh em phu kéo thuyền, vì ông đã cho lão chủ
biết được tài của ông!... ông tôi nói, và bỗng vụt lớn lên trước mắt tôi như một
đám mây, từ một ông già bé nhỏ và quắt queo biến thành một người có sức mạnh
phi thường, một mình kéo cả một chiếc sà-lan khổng lồ đi ngược dòng sông... Thỉnh
thoảng ông tôi lại nhảy từ trên giường xuống đất và vung tay làm điệu bộ cho
tôi thấy những người kéo thuyền đi như thế nào, tát nước ở trên thuyền ra sao.
ông tôi hát giọng trầm những bài gì đó, xong lại nhảy lên giường, nhanh nhẹn
như một thanh niên, trông thật kỳ lạ. Rồi ông lại nói, giọng càng say sưa hơn:
-Nhưng Aliôsa ạ, những lúc nghỉ, vào những buổi chiều hè ở
Jiguli, dưới chân ngọn đồi xanh rì có khi bọn ông đốt lửa lên rồi nấu cháo. Và
khi một người kéo thuyền đáng thương cất tiếng hát một bài hát thoát ra từ đáy
lòng thì lập tức cả đoàn phu ầm ầm cất giọng hòa theo. Người như sởn gai ốc
lên, và sông Vonga dường như lại càng chảy xiết. Nó lồng lộn như con ngựa bất
kham, như muốn cất mình lên tận mây xanh! Lúc đó mọi nỗi đau khổ đều tiêu tan
như làn bụi trước gió. Mọi người hát đến nỗi có khi để cháo trào cả ra ngoài;
khi ấy cần phải nện cho anh chàng đầu bếp một muôi vào trán: "Chơi nhưng
chớ bỏ lơi công việc!" Đã mấy lần có người ngó vào cửa gọi ông tôi, nhưng
tôi van nài:
-ông đừng đi ông ạ! ông tôi mỉm cười và giơ tay đuổi mọi người:
-Đợi tí đã... ông tôi kể chuyện mãi cho đến tận chiều tối. Và
khi đi ra còn âu yếm từ biệt tôi. Tôi biết ông tôi không phải là người dữ tợn
và đáng sợ. Tôi ứa nước mắt khi nhớ lại rằng chính ông tôi đã đánh tôi tàn nhẫn
như vậy. Tuy nhiên tôi vẫn không thể nào quên được chuyện đó. Việc ông tôi đến
thăm đã mở rộng cửa cho tất cả mọi người, và từ sáng đến tối luôn luôn có người
ngồi bên giường tôi, cố tìm mọi cách làm cho tôi khuây khỏa. Tôi còn nhớ điều
đó không phải lúc nào cũng vui vẻ và thú vị. Bà tôi thường đến với tôi hơn Những
tên cũ của thành phố Ulianôp và Tsecbakôp trên sông Vonga. Những ngọn núi rất đẹp
ở khúc giữa sông Vonga. cả và cùng ngủ với tôi một giường nữa. Nhưng trong những
ngày đó, người đã để lại cho tôi ấn tượng tươi sáng nhất là anh Txưganôc. Vai
anh vuông, ngực nở, đầu rất to với bộ tóc xoăn tít. Anh đến vào lúc chiều tối
và ăn vận như ngày hội: áo lụa vàng, quần nhung bông và đi đôi ủng gập nếp kêu
ken két. Tóc anh bóng láng, cặp mắt lấp lánh dưới đôi lông mày rậm, hàm răng trắng
ẩn dưới bộ ria mép đen mới mọc. Chiếc áo vàng rực phản chiếu ánh lửa đỏ của ngọn
đèn thờ không bao giờ tắt
-Này em, trông đây này,
-anh nói và vén tay áo lên, chìa cho tôi xem cánh tay trần đầy
những vết đỏ đến tận khuỷu.
-Em xem nó sưng thế đấy! Mấy hôm nọ còn tệ hơn nữa, hôm nay
đã bắt đầu bớt nhiều rồi! Em có biết không, thấy ông nổi giận và bắt đầu đánh
em, anh liền giơ ngay cánh tay này ra đỡ. Anh định chờ khi nào roi gẫy, ông đi
lấy chiếc khác thì bà hoặc mẹ sẽ bế em chạy đi! Nhưng chiếc roi lại không gẫy,
vì ngâm nước nên dẻo quá! Nhưng dù sao em cũng đỡ bị đòn có phải không? Đấy em
xem, anh cũng láu cá đấy chứ... Anh cười vẻ âu yếm, dịu dàng và lại ngắm nghía
cánh tay sưng phồng, rồi vừa cười vừa nói:
-Anh thương em quá, đến nỗi cổ họng anh cứ nghẹn lại. Tội
nghiệp! Thế mà ông cứ vụt mãi... Anh thở phì phì như ngựa và lắc đầu, rồi anh bắt
đầu nói chuyện về ông tôi. Trong chốc lát anh đã trở nên gần gũi đối với tôi và
giản dị như một đứa trẻ. Tôi bảo anh rằng tôi yêu anh lắm. Anh trả lời thật chất
phác khó mà quên được:
-Anh cũng yêu em lắm, chính vì yêu em nên anh mới chịu đau
thay cho em! Đứa khác thì đừng hòng, mặc xác chúng nó... Sau đó anh bắt đầu
khuyên bảo tôi, anh nói khẽ, thỉnh thoảng lại nhìn ra cửa:
-Lần sau nếu em có bị đánh thì phải cẩn thận đấy, đừng có co
rúm người lại hiểu không? Co dúm như thế sẽ đau gấp đôi; em cứ thả người cho
thoải mái, sao cho người thật mềm, mềm nhũn ra ấy! Và đừng có nhịn thở, cứ thở
thật mạnh và kêu tướng lên, nhớ đấy! Như thế rất tốt. Tôi hỏi:
-Thế ra còn bị đánh nữa à?
-Chứ sao?
-Anh Txưganôc nói vẻ thản nhiên.
-Tất nhiên, còn bị đánh nữa chứ! Rồi xem, em sẽ bị đánh luôn
đấy...
-Vì sao?
-ông mà đã muốn kiếm cớ thì... Và anh lại lo lắng khuyên tôi:
-Nếu ông đánh từ trên cao, chỉ quất roi từ trên xuống thôi
thì em cứ việc nằm yên, người thật mềm; còn nếu ông đánh giật
-quất xuống rồi lại giật về để rứt thịt ra
-thì em phải rướn người theo chiều chiếc roi, hiểu không? Như
thế đỡ đau hơn! Anh nháy một bên mắt đen láy rồi nói:
-Về mặt này anh còn giỏi hơn cả cảnh sát đấy! Da của anh có lẽ
đem khâu được bao tay em ạ! Tôi ngắm nét mặt vui tươi của anh và nhớ lại những
chuyện cổ tích mà bà tôi đã kể về Hoàng tử Ivan và chàng ngốc Ivanuska.
Chương 3
ốm dậy, tôi thấy rõ anh Txưganôc giữ một địa vị đặc biệt
trong nhà. ông tôi không mắng anh luôn miệng và bực tức như đối với các cậu
tôi. Khi vắng mặt anh, ông tôi lim dim và gật gù nói về anh:
-Thằng Ivanka rất khéo tay! Chúng bay cứ nhớ lời tao nói: lớn
lên nó sẽ khá cho xem! Các cậu tôi cũng đối xử với anh Txưganôc rất trìu mến,
thân mật và không khi nào đùa cợt trêu anh như đối với bác thợ cả Grigôri mà hầu
như chiều nào họ cũng kiếm một trò tinh nghịch gì để trêu. Khi thì họ nung nóng
chuôi kéo, khi thì cắm ngược cái đinh nhọn hoắt vào ghế của bác, hoặc thấy bác
lòa dở, họ để ngay bên tầm tay của bác những mảnh vải màu sắc khác nhau để bác
đính thành một "tấm", thế là bác lại bị ông tôi chửi cho một mẻ. Một
hôm, sau bữa ăn trưa, khi bác đang ngủ trên gác xép, họ lấy thuốc nhuộm đỏ bôi
lên mặt bác. Bác cứ thế vác bộ mặt ngộ nghĩnh và đáng sợ ấy đi đi lại lại khá
lâu: giữa bộ râu bạc lộ ra hai vết kính tròn mờ mờ và một cái mũi dài đỏ chót
buông thõng xuống vẻ thiểu não nom giống như cái lưỡi. Các cậu tôi nghĩ ra
không biết bao nhiêu những trò tinh nghịch như vậy. Nhưng bác thợ cả vẫn ngậm đắng
nuốt cay chịu đựng, bác chỉ khẽ càu nhàu và trước khi sờ vào cái bàn là, cái
kéo, cái kim hoặc cái đê, bác thường nhấp nước bọt đầy đầu ngón tay. Cái đó đã
trở thành thói quen đối với bác; ngay cả khi ngồi vào bàn ăn trưa, trước khi cầm
con dao hoặc cái dĩa, bác cũng nhấp nước bọt như vậy làm bọn trẻ con cười ồ cả
lên. Khi nào bác đau khổ, trên khuôn mặt to của bác nổi lên vô số nếp nhăn. Những
nếp nhăn này trườn trên trán bác một cách kỳ quái, khẽ kéo cặp lông mày lên, rồi
biến mất vào cái đầu trọc lốc của bác. Tôi không nhớ ông tôi đối với những trò
đùa của các cậu tôi ra sao, nhưng bà tôi thì giơ nắm đấm đe các cậu tôi và
quát:
-Chúng mày không biết ngượng mặt à, quân vô lại!
Nhưng khi vắng mặt anh Txưganôc, các cậu tôi lại nói về anh với
vẻ bực tức và châm biếm. Họ giễu cợt, chê bai việc làm của anh, nhiếc anh là thằng
ăn cắp và lười biếng. Tức Ivan, cách gọi thân mật. Tôi hỏi bà tôi tại sao lại
có chuyện ấy. Cũng như mọi lần, bà tôi vui lòng giảng giải cho tôi bằng những lời
dễ hiểu:
-Cháu không biết, cả hai cậu cùng muốn tranh Vaniuska về phần
mình, khi nào họ mở xưởng nhuộm riêng; thế là trước mặt nhau họ gièm pha nó,
nói nó là một tay thợ tồi. Họ nói láo, họ lừa miếng nhau đấy. Họ còn sợ
Vaniuska không đi với họ, sẽ ở lại với ông. Mà ông lại là người trái tính trái
nết, ông có thể sẽ cùng với Ivanka mở một xưởng nhuộm thứ ba, như thế sẽ không
lợi cho các cậu, cháu hiểu chưa? Bà cười khe khẽ:
-Họ dùng đủ mánh khóe, đến thánh cũng phải buồn cười! Nhưng
ông lại biết tỏng những mưu mẹo đó và cố ý trêu hai cậu Iasa và Misa. ông bảo:
"Tao sẽ mua cho thằng Ivan một tấm thẻ miễn đi lính để nó khỏi bị gọi đi
lính, vì tao cần đến nó!" Các cậu bực tức, họ không thích thế và tiếc tiền,
vì mua một tấm thẻ như vậy rất đắt! Tôi lại ở với bà tôi như khi ở trên tàu thủy.
Tối nào trước khi đi ngủ bà tôi cũng kể cho tôi nghe những chuyện thần thoại hoặc
kể về cuộc đời mình, cũng từa tựa như một chuyện thần thoại vậy. Bà tôi kể chuyện
làm ăn của gia đình: chuyện phân chia gia tài cho con cái, chuyện ông tôi tậu
nhà mới cho mình. Bà tôi vừa nói vừa khẽ cười, dửng dưng như người dưng nước lã
hay một người hàng xóm láng giềng, chứ không phải là người chủ nhân thứ hai
trong ngôi nhà này. Nhờ thế tôi mới biết anh Txưganôc là đứa con hoang nhặt được
trên chiếc ghế dài ở cạnh cổng trong một đêm mưa đầu xuân.
-Nó nằm ở đấy, cuộn trong chiếc tạp-dề rộng,
-bà tôi kể, giọng trầm ngâm và có vẻ huyền bí,
-nó khẽ kêu oe oe và đã bắt đầu rét cóng.
-Tại sao người ta lại bỏ rơi trẻ con thế?
-Vì mẹ nó không có sữa, không có gì nuôi; thế là mẹ nó dò xem
ở đâu có trẻ con mới đẻ bị chết liền đặt giấu nó ở đó. Sau một lát yên lặng, bà
tôi gãi đầu, thở dài rồi nhìn lên trần nhà, nói tiếp:
-Tất cả đều là do nghèo túng, Aliôsa ạ, có cảnh khổ cực quá đến
nỗi không thể nói ra được!
Người ta cho rằng con gái chưa chồng không có quyền đẻ, rằng
đó là một điều hổ thẹn! ông định đưa Vaniuska tới sở cảnh sát, nhưng bà can
ngăn: giữ lấy mà nuôi; đó là trời cho chúng ta để thay vào những đứa đã chết.
Vì bà đẻ cả thảy mười tám bận; nếu tất cả đều sống thì chúng sẽ chiếm cả một
dãy phố, tới mười tám ngôi nhà! Cháu không biết chứ, bà lấy chồng từ năm mười bốn
tuổi, năm mười lăm bà đã đẻ, nhưng Chúa thích Tức Ivan, cách gọi thân mật. Tức
Iakôp, cách gọi tắt. Tức Mikhain, cách gọi tắt. Ai có tấm thẻ này thì người đó
khỏi phải đi lính. Muốn có nó, người ta trả một số tiền để đảm bảo việc nhập
ngũ của một người tình nguyện. dòng máu nhà bà nên đã lần lượt bắt chúng về làm
thiên thần. Bà vừa tiếc vừa mừng! Ngồi trên thành giường, mình mặc độc có chiếc
áo cánh, mái tóc đen xõa xuống cả người, bà tôi to xù như một con gấu mà trước
đây người tiều phu rậm râu vùng Xecgat đã đem về sân. Bà tôi làm dấu trên bộ ngực
trắng phau như tuyết, cười khẽ và đung đưa toàn thân:
-Chúa đã bắt đi những đứa tốt, còn lũ chả ra gì thì để lại
cho bà. Bà rất vui mừng được thằng Ivanka, bà rất yêu các cháu, các cháu ạ! Thế
là bà nhận nó, rửa tội cho nó, và nó trở nên một thằng con trai ngoan ngoãn.
Lúc đầu bà gọi nó là Bọ Dừa, vì nó hay vè vè chẳng khác gì con bọ dừa, suốt
ngày nó bò và vè vè ở khắp các phòng. Cháu hãy yêu mến nó, nó là một người rất
giản dị! Tôi yêu mến anh Ivan và nhiều khi ngạc nhiên đến ngây người về anh. Nhất
là vào ngày thứ bảy, lúc ông tôi đi lễ nhà thờ, sau khi đã đánh lũ trẻ có lỗi
trong tuần, thì trong nhà bếp lại diễn ra đủ mọi thứ trò vui khôn kể. Anh
Txưganôc bắt những con gián đen ở sau lò sưởi, làm rất nhanh bộ dây cương bằng
chỉ và cắt chiếc xe trượt tuyết bằng giấy. Sau đó anh dùng thanh đóm điều khiển
bốn con ngựa ô đi du ngoạn trên chiếc bàn màu vàng đã cọ sạch. Anh kêu lên, giọng
phấn khởi:
-Chúng nó đi tìm giám mục đấy! Anh gắn mảnh giấy nhỏ vào lưng
một con gián, thúc nó chạy theo sau chiếc xe trượt tuyết và giải thích:
-Chúng nó bỏ quên cái bao. ông tu sĩ chạy theo đưa cho chúng
đấy! Anh lấy chỉ trói chân một con gián; con vật bò lê, đầu đụng tứ tung. Anh
Vanka vỗ tay reo lên:
-Lão phụ lễ đang từ quán rượu đi ra. Lão đi dự lễ chiều đấy!
Anh lôi đàn chuột ra. Theo lệnh anh, chúng đứng và đi bằng hai chân sau, kéo lê
chiếc đuôi dài lòng thòng theo sau và chớp chớp cặp mắt linh lợi như những hạt
cườm đen nhánh trông đến buồn cười. Anh nâng niu đàn chuột, ôm chúng vào ngực,
mớm đường, hôn hít và nói với giọng đầy tin tưởng:
-Chuột là giống vật thông minh, dịu dàng. Gia thần rất thích
chuột. Ai mà nuôi chuột thì sẽ được gia thần ban ân cho... Anh biết làm các trò
quỉ thuật với quân bài và đồng tiền. Anh kêu to hơn cả bọn trẻ con và hầu như
không khác chúng mấy. Một hôm bọn trẻ chơi bài với anh, chúng thắng anh mấy ván
liền. Anh rất buồn, tức giận bĩu môi bỏ cuộc, sau đó anh khịt khịt mũi và phàn
nàn với tôi:
-Anh biết rõ, tụi chúng nó thông đồng với nhau trước! Chúng
nó nháy nhau, giúi bài cho nhau dưới gầm bàn. Ai lại chơi như thế? Chính anh
cũng biết chơi gian lận không kém... Người ta coi trẻ con chết ngay từ tuổi còn
thơ là vô tội và gọi là "những thiên thần", họ tin rằng sau khi chết
chúng trở thành thiên thần. Xecgat ở phía đông nam Nijni
-Nôpgôrôt chừng 130 cây số.
Anh đã mười chín tuổi, lớn hơn cả bốn đứa chúng tôi cộng lại.
Nhưng đáng ghi nhớ nhất đối với tôi là hình ảnh của anh trong những tối vui
ngày hội. Khi ông tôi và cậu Mikhain đi thăm bà con thì cậu Iakôp có bộ tóc
quăn rối bù liền xách cây đàn ghi-ta xuống bếp. Bà tôi soạn một bữa tiệc trà có
nhiều món ăn nhẹ và rượu vôtka đựng trong chiếc chai xanh có hoa đỏ bằng thủy
tinh ở đáy. Anh Txưganôc mặc quần áo ngày hội quay tít như con quay. Bác thợ cả
lặng lẽ len vào, cặp kính của bác lấp lánh. Có cả mụ vú nuôi Epgênáa mặt rỗ, hồng
hào và béo tròn trùng trục như một cái chum; mụ có cặp mắt láu lỉnh và giọng
nói oang oang. Thỉnh thoảng lão phụ lễ giữ đồ thánh rậm râu của nhà thờ Đức Mẹ
lên Trời và những người có nước da đen nhẫy như những con cá măng và cá chuối,
cũng tới dự. Mọi người vừa ăn uống lu bù, vừa thở dài thườn thượt. Họ chia quà
bánh cho bọn trẻ con và cho mỗi đứa một cốc rượu ngọt. Dần dần cuộc vui trở nên
náo nhiệt và sôi nổi kỳ lạ. Cậu Iakôp lên dây đàn say mê, và sau khi lên dây
xong bao giờ cậu cũng nói câu này:
-Nào, tôi xin bắt đầu! Cậu hất mớ tóc quăn ra sau và cúi xuống
cây đàn ghi-ta, vươn cổ dài như cổ ngỗng. Khuôn mặt tròn vô tư của cậu có vẻ mơ
màng; cặp mắt linh lợi xa xăm của cậu trở nên lờ đờ. Cậu bấm nhẹ dây dàn, bài cậu
chơi thu hút mọi người và làm cho mọi người ngây ngất. Điệu nhạc của cậu đòi hỏi
sự im lặng hoàn toàn. Nó như dòng suối chảy xiết từ xa đổ về, lọt qua sân nhà
và những bức tường. Nó làm cho trái tim mọi người xao xuyến và gợi lên cảm giác
khó hiểu, vừa buồn bã vừa lo âu. Điệu nhạc làm cho người nghe cảm thấy thương
mình và thương mọi người. Người lớn hình như cũng trở lại tuổi trẻ con, và mọi
người ngồi yên, đắm mình trong bầu không khí im lặng, mơ mộng đăm chiêu.
Xasa Mikhailôp chăm chú nghe hơn cả. Nó cứ vươn dài người ra
về phía cậu Iakôp, nhìn chằm chằm cây đàn ghi-ta, miệng há hốc, nước rãi chảy
ròng ròng. Đôi khi nó mơ màng đến nỗi ngã từ trên ghế xuống, tay đập xuống sàn
nhà; và lúc đó nó ngồi bệt luôn xuống sàn, cặp mắt đờ ra, tròn xoe. Mọi người
cũng thế, ai cũng say mê đờ đẫn. Chỉ có chiếc ấm xamôva là khẽ reo reo, nhưng vẫn
không át nổi tiếng than vãn của cây đàn ghi-ta. Hai chiếc cửa sổ vuông nhìn ra
cảnh đêm thu tối mò. Đôi khi dường như nghe có người khẽ gõ vào cửa kính. Trên
bàn ngọn lửa vàng khè của hai cây nến khẽ rung rinh, nhọn hoắt như những ngọn
giáo. Cậu Iakôp mỗi lúc một thêm đờ người ra; cậu như ngủ say, hàm răng cắn chặt,
chỉ có đôi bàn tay của cậu là còn hoạt động. Những ngón tay phải uốn cong, rung
tít trên dây đàn giống như những con chim đang vỗ cánh sắp bay, những ngón tay
trái lướt thoăn thoắt trên phím đàn.
Ngà ngà say, cậu khe khẽ hát một bài dài vô tận, giọng rít
qua kẽ răng nghe rất khó chịu: Nếu Iakôp là chó
-Y sủa rống từ sáng đến tối; ôi, ta buồn ghê! ôi, ta chán
ghê! Ngoài phố một cô mụ đi qua, Trên hàng rào một con quạ đậu. ôi, ta buồn
ghê! ôi, ta chán ghê! Sau lò dế gáy, Đàn gián lao xao. ôi ta buồn ghê! Một gã
ăn mày phơi đôi xà-cạp, Gã khác xoáy mất lúc nào! ôi, ta buồn ghê! ôi, ta chán
ghê! Tôi không sao chịu nổi điệu hát này, và khi cậu bắt đầu hát tới đoạn gã ăn
mày tôi liền khóc nức nở, lòng buồn rười rượi. Anh Txưganôc nghe nhạc cũng chăm
chú như mọi người. Anh đan tay vào mớ tóc đen, nhìn chằm chằm vào góc nhà và thỉnh
thoảng lại khịt mũi. Đôi khi anh thốt lên bất ngờ, giọng rầu rĩ:
-Chà, nếu ta tốt giọng, thì Lạy Chúa, ta hát phải biết! Bà
tôi thở dài, nói:
-Thôi, Iasa, thật mày làm nẫu ruột nẫu gan mọi người! Còn
mày, Vaniatka, nhảy đi một tí nào... Họ không bao giờ thực hiện ngay lời yêu cầu
của bà tôi. Tuy nhiên đôi khi cậu Iakôp bỗng đặt bàn tay lên dây đàn một lát, rồi
cậu nắm tay lại, ném mạnh xuống sàn một cái gì không ai trông thấy và không ai
nghe thấy. Cậu kêu lên, giọng vui nhộn:
-Buồn với chả sầu, hãy vứt đi cho rảnh! Nào Vanka, đứng dậy!
Anh Txưganôc sửa sang lại tư thế cho tề chỉnh, kéo chiếc áo sơ-mi vàng cho phẳng
và rón rén bước ra giữa nhà bếp như bước trên đầu đinh vậy. Cặp má rám nắng của
anh đỏ ửng lên. Anh mỉm cười có vẻ thẹn thùng và yêu cầu:
-Chơi nhanh lên một chút, Iakôp Vaxilits! Cây đàn ghi-ta vang
lên điên cuồng, gót giày nện xuống sàn dồn dập. Trên bàn và trong tủ bát đĩa
kêu lanh canh. ở giữa nhà bếp, anh Txưganôc quay tròn như ánh lửa, bay lượn như
con diều hâu, vung vẩy tay như cánh chim, chân di chuyển hầu như không rõ. Anh
bỗng thét lên một tiếng, rồi ngồi xổm xuống sàn và quay liệng như con chim én
vàng óng. Chiếc áo lụa rọi ánh ra khắp xung quanh, rung rung lên, trông như
dòng suối đang đổ ra hoặc như vàng nung đang chảy. Anh Txưganôc nhảy múa không
biết mệt, quên tất cả. Tôi có cảm tưởng nếu mở toang cửa ra thì anh sẽ vừa đi vừa
nhảy múa tung tăng khắp phố, khắp thành phố và không rõ anh sẽ đi những đâu nữa...
-Cắt ngang đi!
-Cậu Iakôp kêu lên và giậm chân xuống sàn đánh nhịp. Cậu huýt
sáo rít lên và hát vang những điệp khúc khôi hài, giọng nghe đến bực mình: Chà!
Nếu không sợ mòn đôi giày gai Thì ta đã bỏ rơi cả vợ cùng con! Những người ngồi
sau chiếc bàn cũng thấy ngứa ngáy chân, thỉnh thoảng họ lại kêu rít lên như bị
bỏng. Bác thợ cả rậm râu đập đập tay vào cái trán hói của mình và nói lắp bắp.
Một hôm, cúi xuống người tôi, bộ râu mềm mại phủ cả lên vai tôi, bác ghé vào
tai tôi nói như nói với người lớn:
-Lêcxây Macximitô ạ, giá có bố cháu ở đây thì có lẽ đã khác hẳn!
Bố cháu rất vui tính. Cháu có nhớ thế không?
-Không.
-Thật à? Thường thường bố cháu hay nhảy với bà cháu, lát nữa
rồi cháu coi! Bác đứng dậy, người cao lớn, hốc hác, trông như một bức tượng
thánh, cúi mình trước bà tôi và mời bà, giọng trầm trầm khác thường:
-Bà Akulina Ivanôpna, xin bà làm ơn cho chúng tôi thưởng thức
điệu nhảy trước đây bà thường nhảy với Macxim Xapvatêep ấy! Bà vui lòng chứ?
-Grigôri Ivanưts, lão rõ lạ chửa, rõ lạ chửa!
-Bà tôi vừa nói vừa cười và co dúm người lại. Vào tuổi tôi
còn nhảy với nhót gì! Chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ...
Nhưng tất cả mọi người đều yêu cầu bà tôi nhảy. Thế là bỗng
nhiên bà tôi đứng dậy nhanh nhẹn như một thiếu nữ, sửa lại váy, thẳng người ra,
chiếc đầu nặng nề ngả ra sau, bà đi dọc theo gian bếp và nói to:
-Thôi được, các người cứ việc cười! Nào Iasa, chơi bài khác
đi! Cậu tôi ngẩng đầu lên, vươn người ra, lim dim cặp mắt và bắt đầu chơi chậm
lại. Anh Txưganôc dừng lại một lát, rồi lao tới chỗ bà tôi, nhảy ngồi xoay
quanh. Còn bà tôi thì lướt nhẹ trên sàn như đi trên không, tay dang ra, lông
mày rướn lên, cặp mắt đen chăm chăm nhìn về phía xa xa. Trông bà tôi đến hay và
tôi phì cười. Bác thợ cả giơ ngón tay nghiêm mặt dọa tôi, tất cả người lớn đều
nhìn về phía tôi với vẻ không tán thành.
-Thôi đừng nhảy nữa, Ivan!
-Bác thợ cả vừa nói vừa mỉm cười. Anh Txưganôc ngoan ngoãn
vâng lời nhảy sang một bên và ngồi lên ngưỡng cửa, còn mụ Epgênáa thì vươn cổ
ra và bắt đầu hát, giọng trầm trầm, êm êm: Suốt tuần cho đến ngày thứ bảy, Cô
gái thêu đăng-ten cả ngày, Cô mệt rũ người vì bận rộn, ôi, khác nào cái xác
không hồn! Hình như bà tôi không nhảy, mà đang kể một câu chuyện gì. Bà tôi lướt
nhẹ nhàng, tư lự, người lắc lư, mắt nhìn khắp xung quanh, toàn thân to lớn rung
chuyển ngập ngừng, đôi bàn chân như dò đường, bước đi thận trọng.
Bỗng nhiên bà tôi dừng lại như sợ hãi điều gì, khuôn mặt rung
rung, nhăn nhó, rồi lập tức một nụ cười hiền hậu, cởi mở nở ra. Bà tôi đi
nghiêng người như nhường lối cho ai và lấy tay mời họ đi. Bà cúi xuống, im lặng,
lắng nghe và mỉm cười tươi tắn hơn. Rồi đột nhiên bà tôi rời khỏi chỗ, xoáy
tròn như một cơn gió lốc. Toàn thân bà tôi như lớn thêm, lúc này không ai có thể
rời cặp mắt được vì bà tôi trở nên đẹp đẽ và đáng yêu làm sao trong giây phút
diệu kỳ trở lại tuổi thanh xuân ngày trước. Mụ Epgênáa rúc lên như kèn: Ngày chủ
nhật cô gái nhảy múa Suốt từ lúc lễ sáng cho đến nửa đêm. Cô là người cuối cùng
về ngõ, Tiếc thay -ngày lễ chẳng dài thêm! Nhảy xong bà tôi trở về chỗ cũ ngồi
gần ấm xamôva. Mọi người khen ngợi. Bà tôi vừa sửa lại mái tóc vừa nói:
-Thôi đi, các người chưa được thấy những vũ nữ thật sự đấy. Tại
quê tôi, ở Balakhơna, trước đây có một cô gái mà tôi không nhớ là con cái nhà
ai, tên gì, khi cô ấy nhảy mọi người vui sướng đến phát khóc lên được! Chỉ cần
được nhìn thấy cô ấy nhảy cũng đủ vui rồi. Của đáng tội, tôi cứ thèm được như
cô ta!
-Những người ca hát và nhảy múa là những người sướng nhất đời!
-Mụ Epgênáa nghiêm nghị nói và bắt đầu hát một bài về vua
Đavit. Còn cậu Iakôp thì ôm lấy anh Txưganôc và bảo anh:
-Mày mà nhảy trong các tiệm rượu thì có lẽ làm cho mọi người
mê mẩn đi mất!...
-Tôi chỉ muốn có giọng tốt!
-Anh Txưganôc than vãn.
-Giá mà trời cho tôi tốt giọng thì tôi có thể hát hàng chục
năm liền, rồi sau đó dù cho có đi tu chăng nữa cũng cam! Tất cả mọi người đều uống
rượu vôtka, đặc biệt là bác Grigôri uống nhiều nhất. Bà tôi rót cho bác hết cốc
này đến cốc khác, và dặn bác:
-Coi chừng đấy, bác Grisa ạ, không khéo thì mù hẳn đấy! Bác
trả lời đường hoàng:
-Mặc kệ! Tôi không cần đến cặp mắt này nữa, tôi đã nhìn thấy
đủ mọi thứ trên đời rồi... Bác uống không bao giờ say, nhưng càng uống bác càng
hay nói và hầu như bác luôn mồm nói về bố tôi:
Vua của nước Israen cổ đại được nhắc đến nhiều trong các bài
hát của tôn giáo, trong các thánh ca của tập Thánh thi. Sống khoảng năm 1010
-970 trước Công nguyên. Tức Grigôri, cách gọi tắt.
-ừ, thật là một đứa con của Chúa đấy... Tất cả những lời nói
đó làm cho tôi rất thích, khiến tôi chăm chú nghe. Mỗi lời như thấm vào lòng
tôi một nỗi buồn man mác và dễ chịu. Sự vui buồn gắn chặt với nhau đã xâm chiếm
mọi người, và mọi người chuyển từ vui sang buồn, từ buồn sang vui không rõ vào
lúc nào, thật nhanh chóng lạ thường. Một hôm cậu Iakôp ngà ngà say, cậu xé chiếc
áo sơ-mi đang mặc, giật mớ tóc quăn, bộ ria trăng trắng lưa thưa, cái mũi và
cái môi thưỡi:
-Thế là nghĩa lý gì, hả?
-Cậu rít lên, nước mắt giàn giụa
-Tại sao lại thế? Cậu đấm vào má, vào trán, vào ngực mình và
khóc nức nở.
-Ta là một thằng vô lại, một thằng đê tiện, một kẻ đau khổ!
Bác Grigôri gầm lên:
-A! Đúng như vậy!... Bà tôi cũng đang say rượu, nắm lấy tay cậu
tôi và khuyên nhủ:
-Thôi mà, Iasa, Chúa biết rõ những điều Chúa trừng phạt! Uống
rượu vào, bà tôi lại càng đẹp hơn: cặp mắt đen nhánh, vui tươi tỏa ra một luồng
ánh sáng sưởi ấm lòng người. Bà tôi vừa lấy mùi soa phe phẩy khuôn mặt đỏ bừng
vừa nói thánh thót:
-Chúa tôi, Chúa tôi! Tất cả mọi thứ sao mà tốt đẹp thế! Các
người hãy nhìn xem, tất cả mọi thứ sao mà tốt đẹp thế! Đó là tiếng nói tự đáy
lòng bà tôi, khẩu hiệu của suốt đời bà tôi. Những giọt nước mắt và tiếng kêu của
người cậu thường vẫn vô tư làm cho tôi hết sức ngạc nhiên. Tôi hỏi bà tôi tại
sao cậu ấy lại khóc, lại chửi rủa và tự đánh mình như vậy.
-Cái gì cháu cũng muốn biết!
-Bà tôi nói có vẻ miễn cưỡng, trái với lệ thường.
-Hãy chờ đã, cháu hãy còn bé chưa nên nhúng vào những chuyện
đó vội... Cái đó càng khêu gợi lòng tò mò của tôi. Tôi đến xưởng quấy rầy anh
Ivan, nhưng anh cũng không muốn trả lời. Anh chỉ khẽ cười, liếc nhìn bác thợ cả,
rồi đẩy tôi ra khỏi xưởng và kêu:
-Thôi để yên cho anh làm, đi ra! Không anh lại thả em vào chảo
nhuộm luôn một thể bây giờ! Bác thợ cả đứng trước bếp lò rộng và thấp, trên đó
có ba chiếc chảo lớn gắn liền vào đó. Bác dùng chiếc gậy dài màu đen khuấy các
chảo, rồi rút ra, nhìn những giọt nước màu nhỏ giọt. Lửa cháy nóng rực, phản
chiếu lên vạt tạp-dề bằng da trông sặc sỡ như áo lễ của cố đạo. Các chảo nước
nhuộm bắt đầu réo, hơi hăng hăng bốc lên nghi ngút, chạy về phía cửa như một
đám mây dày đặc. Ngoài sân gió hanh hanh thổi vù vù sát đất. Bác thợ cả ngước
đôi mắt đỏ ngầu nhìn tôi qua vành kính. Bác quát tháo anh Ivan giọng thô lỗ:
-Lấy củi! Mày không nhìn thấy gì à? Khi anh Txưganôc chạy ra
sân, bác Grigôri ngồi xuống bao thuốc nhuộm và vẫy gọi tôi:
-Lại đây! Bác đặt tôi lên đầu gối, chùi bộ râu ấm và mềm vào
má tôi, rồi kể mẩu chuyện mà tôi ghi nhớ mãi:
-Cậu cháu đã đánh vợ, đã hành hạ đến chết, và bây giờ bị
lương tâm cắn rứt, hiểu không? Cháu cần phải hiểu tất cả, kẻo có ngày vạ vào
thân! Bác Grigôri ăn nói cũng giản dị như bà tôi, nhưng nghe bác người ta thấy
rợn hơn và hình như qua cặp kính bác nhìn thấu hết mọi vật trên đời.
-Đánh chết như thế nào à?
-Bác thong thả nói
-Thế này nhé: lúc hắn ngủ với vợ, hắn lấy chăn trùm kín đầu vợ,
rồi đè lên, đánh túi bụi. Để làm gì? Có lẽ chính hắn cũng không biết nữa. Không
để ý tới anh Ivan đã ôm một bó củi trở vào và ngồi xổm trước bếp lửa hơ tay,
bác thợ cả vẫn tiếp tục nói, giọng nghiêm trang:
-Có lẽ hắn đánh là vì vợ hắn hơn hắn, làm hắn ghen tỵ. Họ nhà
Kasirin không thích cái gì tốt đẹp đâu cháu ạ, họ ghen ghét, và nếu không được
ăn, thì họ tìm cách đạp đổ! Cháu thử hỏi bà cháu xem họ đã hại bố cháu như thế
nào. Bà cháu sẽ nói hết, vì bà cháu không thích và không biết nói dối ai bao giờ.
Bà cháu giống như một vị thánh, có thể nói là một người có phúc, mặc dù bà cháu
cũng uống rượu và hít thuốc. Cháu phải bám chắc lấy bà cháu mới được... Bác đẩy
tôi ra. Tôi bước ra sân, đầu óc nặng trình trịch, lòng đầy sợ hãi. ở phòng
ngoài, anh Vaniuska đuổi kịp tôi, ôm lấy đầu tôi và khẽ nói thầm:
-Em đừng sợ bác ấy, bác ấy rất tốt. Em cứ nhìn thẳng vào mắt,
bác ấy thích như thế. Tất cả cái đó đều kỳ lạ và làm cho tôi thấy băn khoăn.
Tôi chưa biết cuộc sống khác ra sao cả, nhưng tôi nhớ lờ mờ là cha mẹ tôi không
sống như vậy: cha mẹ tôi ăn nói khác hẳn, vui đùa cũng khác, thường đi với
nhau, ngồi gần nhau. Tối tối cha mẹ tôi thường hay cười rất lâu, hoặc ngồi hát
oang oang bên cạnh cửa sổ. Những người đi ngoài phố hay xúm lại xem cha mẹ tôi
hát. Khuôn mặt của những người này ngẩng lên giống như những chiếc đĩa bẩn sau
bữa ăn trưa trông đến là buồn cười. ở đây người ta ít cười, đôi khi không rõ
người ta cười cái gì. Thường thường họ mắng nhau, người này dọa người kia một
điều gì đấy, họ thì thầm bí mật với nhau trong các xó xỉnh. Bọn trẻ con thì lặng
lẽ, lén lút, chúng nó dường như bị ép xuống mặt đất như những hạt bụi bị trận
mưa làm gí xuống. Tôi tự cảm thấy xa lạ trong ngôi nhà này; toàn bộ lối sống ấy
đã kích động tôi như vô vàn vết chàm, gây cho tôi sự hoài nghi, bắt buộc tôi phải
hết sức chú ý quan sát mọi thứ.
Tình bạn giữa tôi với anh Ivan ngày càng tăng. Từ lúc mặt trời
mọc cho đến tận khuya, bà tôi bận việc nhà nên hầu như suốt ngày tôi cứ quấn
quít lấy anh Txưganôc. Mỗi khi ông tôi quật tôi là anh lại giơ cánh tay đỡ đòn
cho tôi và hôm sau anh giơ những ngón tay sưng vù, phàn nàn với tôi:
-Không, làm thế này chả ích lợi gì cả! Em chẳng đỡ hơn, còn
anh thì em trông đây này! Anh sẽ không làm như thế nữa, mặc em đấy! Nhưng lần
sau anh lại chuốc lấy cái đau vô ích ấy vào mình.
-Sao anh bảo không muốn nữa kia mà!
-Không muốn, thế mà anh vẫn cứ giơ ra... không hiểu tại sao ấy...
Chẳng bao lâu tôi nhận thấy anh Txưganôc có một cái gì đó làm cho tôi càng chú
ý và yêu mến anh hơn. Thứ sáu nào anh Txưganôc cũng thắng con ngựa hồng thiến
Sarap vào chiếc xe trượt tuyết lớn, đó là một con vật quí của bà tôi, một con vật
tinh ranh, tham ăn. Anh mặc chiếc áo lông ngắn đến đầu gối, đội chiếc mũ lông nặng
nề và thắt chiếc đai bằng vải xanh. Rồi anh đi chợ mua thức ăn. Đôi khi anh đi
mãi không về. Cả nhà đều lo lắng. Mọi người tiến lại gần cửa sổ, thổi mạnh cho
tan lớp băng trên cửa kính và nhìn ra phố.
-Nó chưa về à?
-Chưa. Bà tôi lo sợ hơn cả.
-ôi thôi,
-bà tôi nói với ông tôi và các cậu tôi,
-các người làm tôi mất cả người lẫn ngựa rồi! Các người thật
không biết xấu hổ à, những đồ vô lương tâm kia? Của mình đã có vẫn chưa đủ hay
sao. ôi! Cả lũ ngu ngốc và tham lam này,
-Chúa sẽ trừng phạt các người! ông tôi sa sầm, càu nhàu:
-Thôi được. Đây là lần cuối cùng... Đôi khi mãi đến trưa anh
Txưganôc mới về. Các cậu và ông tôi vội vàng ra sân đón, theo sau họ là bà tôi
vừa đi vừa hít thuốc, dáng đi như một con gấu. Không hiểu sao vào lúc này nom
bà có vẻ vụng về lạ. Lũ trẻ con cũng chạy ùa ra. Mọi người vui vẻ dỡ hàng. Chiếc
xe chở đầy lợn sữa, gà vịt làm sẵn, cá và đủ các thứ thịt.
-Mày có mua đủ các thứ đã dặn không đấy?
-ông tôi vừa hỏi vừa liếc nhìn chiếc xe bằng cặp mắt sắc sảo.
-Đủ những thứ cần ạ,
-anh Ivan vui vẻ đáp. Anh nhảy nhảy trên sân để cho nóng người
lên và vỗ bao tay kêu đôm đốp.
-Đừng vỗ bao tay! Mua mất khối tiền ra đấy,
-ông tôi nghiêm nghị quát.
-Có còn thừa tiền không?
-Không. ông tôi đi thong thả quanh chiếc xe và khẽ nói:
-Mày lại tha về những gì mà lắm thế này. Hãy coi chừng đấy,
chắc là mày lại mua không mất tiền chứ gì? Tao không muốn mày làm cái trò ấy
đâu! Rồi ông tôi nhăn mặt bỏ đi rất nhanh. Các cậu tôi vui vẻ lao tới chiếc xe
và cân ướm trên tay nào gà, vịt, cá, thịt ngỗng, nào chân bò non và những miếng
thịt to tướng. Họ huýt sáo và khen rối rít:
-Mày khéo chọn đấy! Cậu Mikhain đặc biệt mê thích: như có chiếc
lò-xo điều khiển, cậu nhún nhảy xung quanh chiếc xe, gí mũi như mỏ con chim gõ
mõ hít hít mọi thứ, chép chép môi có vẻ ngon lành và nheo cặp mắt xoi mói vẻ
khoái chá. Cậu hao hao giống ông tôi, cũng xương xương, nhưng tầm vóc cao hơn
và đen thui như một thanh củi bị cháy sém. Cậu giấu bàn tay lạnh buốt vào ống
tay áo và hỏi anh Txưganôc:
-ông đưa cho mày bao nhiêu tiền?
-Năm rúp.
-Chỗ này đáng giá mười lăm rúp đấy! Thế mày tiêu hết bao
nhiêu?
-Bốn rúp mười kôpêch.
-Nghĩa là mày đã đút túi chín mươi kôpêch. Này Iakôp, nó kiếm
tiền bở đấy chứ? Cậu Iakôp mặc phong phanh chiếc áo sơ-mi đứng ngoài trời rét.
Cậu khẽ cười và chớp mắt ngắm bầu trời xanh lạnh giá.
-Vanka, mày có thể khao chúng tao nửa chai rượu vôtka được đấy,
-cậu nói giọng lè nhè. Bà tôi tháo ngựa ra và nói với nó:
-Sao thế chú bé? Sao thế chú mèo con? Thích nghịch à? ừ, thì
cứ nghịch đi một tí cũng chẳng sao! Con Sarap to lớn lắc lắc cái bờm rậm, nhe bộ
răng trắng đớp vào vai bà tôi, giật chiếc khăn lụa quấn tóc xuống. Nó nhìn vào
mặt bà tôi bằng con mắt tinh nghịch rồi giũ những hạt tuyết khỏi lông mi và khẽ
hí.
-Mày đòi ăn bánh mì à? Bà tôi bẻ một mẩu bánh mì lớn có rắc
muối, nhét vào hàm răng nó và đặt tạp-dề dưới mõm ngựa làm thành một cái bao.
Bà nhìn nó ăn, vẻ đăm chiêu. Anh Txưganôc cũng đùa như con ngựa non, anh lồng
lên về phía bà tôi:
-Bà ơi, con ngựa thiến này ngoan lắm, lại thông minh nữa.
-Cút đi, đừng có dở trò như thế!
-Bà tôi vừa mắng vừa giậm chân.
-Mày phải biết là những hôm như hôm nay tao không ưa mày đâu!
Bà tôi giải thích cho tôi là anh Txưganôc mua ở chợ thì ít, mà ăn cắp thì nhiều.
-ông cho nó năm rúp, nó mua mất ba rúp, còn ăn cắp thêm mười
rúp nữa.
-Bà buồn rầu nói.
-Thích ăn cắp, thằng hư đốn! Có lần nó thử, không việc gì. Về
nhà người ta cười, khen nó tài giỏi, thế là nó đâm quen cái thói ăn cắp ấy. Còn
ông thì vì hồi trẻ phải nếm nhiều cảnh nghèo khổ nên về già đâm ra keo kiệt.
ông quí tiền hơn con đẻ, ông thích được cái gì mà không mất tiền! Còn cậu
Mikhain và Iakôp thì... Bà phẩy tay, im lặng một lát, rồi nhìn chiếc hộp đựng
thuốc lá bỏ ngỏ và càu nhàu nói thêm:
-Liônáa, những việc ấy thật là rắc rối chẳng khác gì những tấm
đăng-ten do một mụ mù thêu, mò thế nào cho ra được những đường thêu ấy! Nếu người
ta bắt được thằng Ivanka ăn cắp thì người ta sẽ đánh cho nhừ tử... Bà tôi lại
im lặng và khẽ nói:
-Chà! Nhà ta phép tắc thì nhiều, nhưng thật thà thì ít. Hôm
sau tôi yêu cầu anh Txưganôc đừng ăn cắp nữa.
-Họ sẽ đánh anh chết mất...
-Họ đừng hòng bắt được anh, anh sẽ tẩu thoát, vì anh khéo
léo, ngựa anh lại nhanh!
-Anh vừa nói vừa cười. Nhưng bỗng anh cau mày lại, vẻ buồn rầu.
-Anh cũng biết ăn cắp là xấu và nguy hiểm. Sở dĩ anh làm thế
là vì anh buồn chán. Anh có để dành được đồng xu nào đâu, các cậu em suốt tuần
bòn hết của anh. Anh cũng chẳng tiếc, lấy thì lấy! Anh ăn đủ no rồi. Bỗng anh nắm
lấy tay tôi, khẽ lắc lắc:
-Em nhẹ, mảnh dẻ, nhưng xương cốt chắc chắn, em sẽ trở thành
một tay lực sĩ đấy. Này Aliôsa ạ, em bảo cậu Iakôp dạy cho mà đánh đàn ghi-ta.
Em đang còn bé, thật đáng tiếc! Nhưng em có bản lĩnh. Em có yêu ông không?
-Không biết!
-Còn anh thì không yêu tất cả họ nhà Kasirin, trừ bà ra, chỉ
có ma quỉ mới yêu được họ mà thôi!
-Thế còn em?
-Em không phải họ Kasirin, em thuộc họ Pêskôp, dòng máu khác,
nòi giống khác... Bỗng anh ôm chặt lấy tôi, gần như rên rỉ:
-Chà, trời ơi, nếu anh có giọng hát du dương thì anh sẽ làm
cho thiên hạ phải đảo điên mất... Đi thôi em, anh phải làm việc đây... Anh đặt
tôi xuống sàn, mồm ngậm một vốc đinh nhỏ rồi căng một tấm vải đen ướt và đóng
lên tấm gỗ vuông lớn. ít lâu sau anh chết. Câu chuyện xảy ra như sau: ở sân, gần
cổng có một cây thánh giá lớn bằng gỗ sồi để tựa vào hàng rào, thân là một cành
cây to xù xì. Cây thánh giá nằm ở đó lâu rồi. Tôi trông thấy nó ngay từ những
ngày đầu mới tới ngôi nhà này. Khi đó nó còn mới và vàng hơn, nhưng qua mùa thu
bị nước mưa ngấm vào nên nó trở nên đen sạm. Mùi gỗ sồi hun hăng hắc tỏa ra, và
cây thánh giá nằm vất vưởng trên cái sân chật hẹp, bẩn thỉu. Cậu Iakôp mua cây
thánh giá này về để đặt lên mộ vợ và hứa đến ngày giỗ vợ sẽ tự mình vác ra
nghĩa địa.
Ngày ấy đã đến vào hôm thứ bảy, đầu mùa đông. Trời giá lạnh
và có gió, tuyết lả tả rơi từ mái nhà xuống. Cả nhà bước ra sân. ông bà tôi
cùng ba đứa bé đã đi ra nghĩa địa trước để làm lễ cầu hồn, còn tôi bị phạt ở
nhà vị tội gì không rõ. Các cậu tôi đều mặc áo lông đen ngắn. Các cậu nâng cây
thánh giá lên và đứng dưới mái hiên. Bác Grigôri và một người lạ nào đấy cố nhấc
cây thánh giá nặng nề đặt lên vai rộng của anh Txưganôc, anh bước loạng choạng,
dạng chân ra.
-Có vác nổi không?
-Bác Grigôri hỏi.
-Không biết. Hình như nặng... Cậu Mikhain tức giận quát tháo:
-Mở cổng ra, lão quỉ mù! Cậu Iakôp nói:
-Mày không biết xấu hổ à, Vanka, nên nhớ là hai đứa chúng tao
đều yếu hơn mày! Nhưng bác Grigôri khi mở cổng đã cất giọng nghiêm nghị khuyên
anh Ivan:
-Coi chừng, không khéo thì gẫy lưng đấy! Cầu Chúa phù hộ cho
mày!
-Lão ngốc hói đầu!
-Cậu Mikhain quát tháo từ ngoài đường vào. Tất cả những người
đứng ở sân cười nói oang oang, hình như họ đều lấy làm vừa lòng thấy cây thánh
giá được mang đi. Bác Grigôri Ivannôvitạ dắt tôi vào xưởng và nói:
-Có lẽ hôm nay ông không đánh cháu đâu, nom ông có vẻ vui
tính... Vào xưởng bác đặt tôi ngồi lên đống len sắp đem nhuộm và lấy len quấn
quanh người tôi đến tận vai hết sức chu đáo. Bác ngửi hơi nước bốc lên trên các
chảo và nói, giọng trầm ngâm:
-Cháu ạ, bác biết ông cháu cách đây ba mươi bảy năm. Bác đã
được chứng kiến mọi việc trong cái nhà này từ đầu chí cuối. Trước đây bác và
ông cháu là đôi bạn thân, hai người cùng nhau mở ra cái xưởng này. ông cháu
khôn ngoan lắm! ông đã trở thành chủ xưởng, còn bác thì chẳng làm nên trò trống
gì cả. Nhưng Chúa sáng suốt hơn tất cả chúng ta: Chúa chỉ mỉm cười một cái là
người thông minh nhất trong nháy mắt cũng sẽ trở thành kẻ ngu đần. Cháu còn
chưa hiểu nổi những lời nói và những việc làm, nhưng cháu cần phải hiểu hết tất
cả. Cuộc sống của trẻ mồ côi kể cũng có khó khăn. Bố cháu, Macxim Xapvatêep, là
một con người tài ba, cái gì bố cháu cũng biết. Vì thế ông cháu không thích bố
cháu, không nhận bố cháu... Tôi rất thích nghe những lời dịu dàng ấy và nhìn ngọn
lửa đỏ, vàng nhảy nhót trong lò, nhìn những đám hơi nước màu sữa bốc lên nghi
ngút trên các chảo rồi biến thành những hạt băng màu xám xanh đọng trên những tấm
ván của mái nhà nghiêng. Qua những kẽ ván lờm xờm có thể trông thấy những dải
trời xanh biếc. Gió thổi dịu đi, mặt trời ló sáng, khắp sân tựa như rắc một lớp
bụi thủy tinh. Ngoài phố có tiếng xe trượt tuyết kêu rít lên, một làn khói xanh
bay cuộn tròn từ ống khói của ngôi nhà; những bóng nhẹ lướt trên tuyết và hình
như cũng muốn kể lể điều gì... Bác Grigôri xương xẩu, rậm râu, người dài ngoẵng,
đầu không đội mũ, tai to, giống như một lão phù thủy hiền lành. Bác khuấy thuốc
nhuộm đang sôi sùng sục, miệng vẫn dạy bảo tôi:
-Cháu phải nhìn thẳng vào mắt mọi người, nếu có con chó nào
xông đến cắn cháu, cháu cứ nhìn thẳng vào mắt nó, nó sẽ bỏ chạy ngay... Cặp
kính nặng nề đè lên sống mũi bác, chóp mũi đầy những tia máu tím bầm cũng giống
như mũi bà tôi.
-Cái gì thế?
Bỗng bác dỏng tai nói lớn, rồi lấy chân đóng sập cửa lò, nhảy
từng bước dài ra sân. Tôi cũng chạy theo sau. ở nhà bếp, anh Txưganôc nằm ngửa
trên sàn nhà. Những vạch sáng rộng từ các cửa sổ chiếu vào đầu, vào ngực, vào
chân anh. Trán anh sáng lên kỳ lạ, lông mày rướn cao, cặp mắt lác nhìn chằm chặp
lên trần nhà đen sẫm, cặp môi thâm run run, sùi ra lớp bọt màu hồng; máu chảy từ
góc môi, theo má xuống cổ và đổ xuống sàn, máu chảy ròng ròng từ dưới lưng anh.
Chân anh duỗi thẳng một cách vụng về và chiếc quần rộng ướt đẫm dính bệt xuống
sàn nhà đánh bằng thứ cát to sáng bóng như ánh mặt trời. Những dòng máu chảy
qua những vạch ánh sáng và chạy dài về phía ngưỡng cửa, sáng rực lên. Anh
Txưganôc không cử động, hai cánh tay buông thõng dọc người, chỉ có những ngón
tay là còn động đậy và cào cào xuống đất. Móng tay nhuộm đỏ lấp lánh dưới ánh nắng.
Mụ Epgênáa ngồi xổm gần anh cố đặt một cây nến nhỏ vào tay anh. Nhưng anh Ivan
không nắm lấy, cây nến đổ nhào, ngọn lửa nhỏ như đầu bút lông bị chìm trong
vũng máu. Mụ liền nhặt cây nến lên, lấy đầu tạp-dề lau sạch, rồi lại cố cắm vào
những ngón tay co quắp của anh. Tiếng thì thầm nổi lên trong nhà bếp và lẽ ra
đã đẩy tôi ra khỏi ngưỡng cửa như một luồng gió nếu tôi không cố nắm chặt lấy
quả đấm cánh cửa.
-Nó bị trượt chân,
-cậu Iakôp kể, giọng rầu rĩ, mình run run và lắc đầu. Toàn
thân cậu xám ngắt, ủ rũ, cặp mắt cậu nhợt nhạt và chớp luôn.
-Nó ngã và bị cây thánh giá đè phải lưng. Giá chúng tôi không
kịp buông cây thánh giá ra thì cũng bị què rồi.
-Chính các anh đã đè chết nó,
-bác Grigôri nói, giọng khàn khàn.
-ô hay, làm thế nào...
-Chính các anh! Máu vẫn chảy. Máu đã đọng lại thành vũng ở gần
ngưỡng cửa, đen sẫm và hình như cứ lan mãi ra. Miệng sùi bọt hồng, anh Txưganôc
kêu rống lên như khi nằm mơ và rộc hẳn đi, càng ngày càng bẹp gí xuống sàn như
chìm xuống đó.
-Mikhailô đã phóng ngựa tới nhà thờ gọi ông rồi,
-cậu Iakôp thì thào,
-còn tôi thì đặt nó lên xe trượt tuyết và trở vội về đây...
May mà tôi không đứng dưới cây thánh giá, không thì cũng... Mụ vú nuôi lại ấn
cây nến vào tay anh Txưganôc, sáp nến và nước mắt nhỏ giọt xuống bàn tay anh.
Bác Grigôri nói tướng lên, giọng thô lỗ:
-Gắn nến vào sàn, gần đầu Ivan ấy, đồ ngốc!
-Vâng.
-Tháo mũ của nó ra! Mụ vú nuôi tháo chiếc mũ khỏi đầu anh
Ivan, gáy anh va xuống sàn đánh bịch một cái. Bây giờ đầu anh nghiêng nghiêng
và máu chảy nhiều hơn, nhưng chỉ chảy từ một bên mồm. Cảnh này kéo dài một cách
khủng khiếp. Lúc đầu tôi cứ đợi anh Txưganôc nằm nghỉ rồi sẽ dậy, ngồi trên sàn
nhổ nước bọt và nói:
-Chà, bức quá... Anh thường hay nói câu ấy khi anh ngủ dậy
sau bữa ăn trưa ngày chủ nhật. Nhưng anh không đứng dậy nữa, mỗi lúc mỗi lép kẹp
đi. ánh nắng đã rời khỏi chỗ anh, những vạch sáng đã co ngắn lại và chỉ còn rơi
rớt trên những bệ cửa sổ. Toàn thân anh trở nên đen sẫm, ngón tay anh không động
đậy và bọt mép không sùi ra nữa. Trên đầu anh và gần tai anh sừng sững ba ngọn
nến. Những ngọn lửa vàng khe khẽ lung lay và chiếu vào mớ tóc đen nhánh rối bù.
Những đốm sáng vàng vàng rung rung trên cặp má rám nắng, chóp mũi nhọn hoắt và
cặp môi hồng hồng của anh như sáng hẳn lên. Người vú nuôi quỳ khóc và thì thầm:
-Cháu yêu quý của bác ơi, con chim ưng của bác, niềm an ủi của
bác... Lạnh lẽo đến ghê sợ. Tôi chui xuống gầm bàn và nấp ở đấy. Một lát sau,
ông tôi mặc chiếc áo lông gấu chuột nặng nề bước vào nhà bếp, theo sau là bà
tôi mặc chiếc áo khoác, cổ áo đính lông đuôi, rồi đến cậu Mikhain, bọn trẻ con
và nhiều người lạ mặt khác. ông tôi quẳng chiếc áo lông xuống sàn và mắng:
-Đồ chó chết! Chúng mày đã giết uổng mất một thằng trai trẻ
như vậy! Khoảng năm năm nữa thì nó thật quý giá vô cùng... Chiếc áo vứt xuống
sàn làm tôi không nhìn thấy anh Ivan. Tôi liền bò ra, đụng ngay phải chân ông
tôi. ông tôi vừa đẩy tôi ra vừa giơ nắm tay nhỏ đỏ lên đe dọa các cậu tôi:
-Đồ chó sói! Rồi ông tôi ngồi xuống chiếc ghế dài, hai tay chống
xuống ghế, nức nở, nhưng mắt vẫn ráo hoảnh, giọng rít lên:
-Tao biết
-vì nó như cái gai trước mắt chúng mày... ôi, Vaniusetka...
ngốc ơi là ngốc! Làm thế nào bây giờ, hả? Làm thế nào? Ngựa đã bất kham, dây
cương đã mục nát. Bà nó ơi, Chúa căm giận chúng ta từ mấy năm nay rồi phải
không?
Bà tôi nằm xoài trên sàn, lấy tay sờ vào mặt, vào đầu, vào ngực
anh Ivan. Bà tôi khẽ thổi vào mắt anh, nắm lấy tay anh vuốt ve, làm đổ tất cả
ba cây nến. Sau đó bà tôi đứng dậy có vẻ nặng nề, toàn thân đen sẫm trong chiếc
áo dài thâm bóng nhoáng. Mắt trợn tròn xoe trông thật khủng khiếp, bà tôi khẽ
nói:
-Cút ngay, lũ đáng nguyền rủa kia! Tất cả mọi người, trừ ông
tôi, vội lũ lượt kéo ra khỏi bếp.... Anh Txưganôc được chôn cất một cách kín
đáo, không có lễ lạc gì cả.
Chương 4
Tôi nằm trên chiếc giường rộng, quấn bốn vòng trong chiếc
chăn to xù, nghe bà tôi cầu nguyện. Bà tôi quỳ, một tay áp vào ngực, còn tay
kia thỉnh thoảng từ từ làm dấu. Ngoài trời lạnh xé da xé thịt. ánh trăng xanh
nhạt chiếu qua lớp băng đóng trên cửa kính thành những đường thêu. ánh trăng
soi sáng khuôn mặt hiền từ có chiếc mũi to và rọi vào cặp mắt đen nhánh của bà
tôi như hai cục lân tinh. Chiếc khăn vuông lụa che mái tóc bà tôi óng ánh như bạc;
chiếc áo dài đen rung rinh, chảy từ đôi vai xuống và rải rộng trên sàn. Mỗi lần
cầu nguyện xong, bà tôi lại lặng lẽ cởi áo, xếp cẩn thận vào hòm ở góc nhà rồi
đi về phía giường. Tôi giả vờ ngủ say.
-Chỉ vờ vịt thôi, ông mãnh, chắc là lại chưa ngủ chứ gì?
-Bà tôi khẽ nói.
-Chưa ngủ à, cậu ấm? Nào, cho bà đắp chăn với! Tôi cảm thấy
thích thú với câu chuyện sắp xảy ra nên tôi không thể nhịn cười được. Lúc ấy bà
tôi reo lên:
-A
-a, thế là cháu cố tình trêu bà lão nhé! Bà tôi cầm một đầu
chăn, kéo về phía mình khéo léo và mạnh đến nỗi tôi bị bắn tung lên trên không
và, sau khi quay lộn mấy vòng, tôi lại rơi đánh bịch xuống chiếc đệm mềm nhũn.
Bà tôi cười rộ:
-Thế nào, thằng quỷ sứ? Mày hớp muỗi đấy à? Nhưng đôi khi bà
tôi cầu nguyện rất lâu. Tôi ngủ thiếp đi thật và không nghe thấy bà tôi vào nằm.
Những lần cầu nguyện lâu thường là sau những ngày có chuyện buồn rầu, tranh
giành cãi cọ nhau. Tôi lắng nghe những lời cầu nguyện ấy. Bà tôi kể tỉ mỉ với
Chúa tất cả những việc xảy ra trong nhà. Khi quỳ, bà tôi to béo nặng nề như một
cái gò lớn. Lúc đầu tiếng thì thầm rất nhanh không rõ, sau đó mới trầm trầm cất
cao lên:
-Lạy Chúa, Chúa biết rõ là ai cũng muốn mình được lợi hơn. Thằng
Mikhailô là con cả, nó cần phải ở lại thành phố.
Nó bực mình phải sang bên kia sông, ở một nơi lạ nước lạ cái;
không hiểu làm ăn sẽ ra sao. Nhưng bố nó lại thích thằng Iakôp hơn. Lão yêu con
cái không như nhau, như thế có đúng không? Lão ngang bướng lắm. Lạy Chúa, Chúa
hãy làm cho lão hiểu. Bà tôi đưa cặp mắt to trong sáng nhìn lên những bức tượng
thánh đen sẫm và gợi ý Chúa:
-Lạy Chúa, Chúa hãy cho lão một giấc mơ tốt lành để lão hiểu
cần phải chia gia tài cho con cái như thế nào! Bà tôi làm dấu và cúi rạp mình
xuống đất, cái trán to chạm vào tấm ván của sàn nhà. Rồi bà tôi lại ngẩng lên
nói, giọng khẩn khoản:
-Xin Chúa cho Vacvara được vui sướng! Nó có làm gì đáng để
Chúa giận đâu? Nó có tội tình gì nặng hơn những kẻ khác đâu? Một người đàn bà
trẻ, khỏe mạnh, thế mà lại phải sống buồn phiền là thế nào! Lạy Chúa, Chúa cũng
không nên quên lão Grigôri, mắt lão ngày càng kém. Nếu mù lão sẽ đi ăn xin, thật
là tội nghiệp! Lão đã làm tận lực cho ông nhà tôi, nhưng liệu ông nhà tôi có
giúp lão không!... ôi, Lạy Chúa, Lạy Chúa... Bà tôi im lặng hồi lâu, cúi đầu một
cách nhẫn nhục và buông tay xuống, tựa như đã ngủ say và bị rét cóng.
-Còn gì nữa?
-Bà tôi cau mày, nhớ lại và tự hỏi to.
-Xin Chúa hãy cứu vớt, ân xá cho tất cả những tín đồ chính
giáo chúng con. Chúa tha thứ cho cái mụ già đần độn đáng chết này. Chúa rõ cho
là nếu con có phạm tội thì không phải vì độc ác, mà là do dại dột thôi. Bà tôi
thở dài rồi lại nói, giọng dịu dàng và có vẻ mãn nguyện:
-Chúa biết hết, Chúa hiểu hết, Lạy Chúa tôi. Tôi rất thích
Chúa của bà tôi, vì Chúa gần gũi với bà tôi. Tôi thường yêu cầu:
-Bà kể về Chúa cho cháu nghe đi! Bà tôi nói về Chúa rất đặc
biệt, giọng khe khẽ, kéo dài một cách kỳ lạ, mắt lim dim, và bao giờ cũng ngồi
một chỗ. Bà tôi nhổm dậy, ngồi xuống, quàng khăn lên đầu và nói rất lâu cho đến
khi tôi ngủ thiếp đi:
-Chúa ở trên ngọn đồi, giữa cánh đồng cỏ trên thiên đường,
Chúa ngự trên ngai vàng có chạm ngọc xanh, dưới những cây bồ đề bằng bạc quanh
năm nở hoa; ở thiên đường không có mùa đông và mùa thu, hoa không bao giờ héo,
luôn luôn nở làm cho các thánh cảm thấy tươi vui. Xung quanh Chúa có vô số
thiên thần. Họ giống như những bông tuyết hoặc như những đàn ong. Họ như đàn
chim bồ câu trắng bay từ trên trời xuống hạ giới rồi lại bay lên và kể cho Chúa
nghe tất cả mọi chuyện về chúng ta, về mọi người. Trong số các thiên thần đó có
thiên thần của cháu, của bà, của ông. Mỗi người đều có một thiên thần. Chúa đối
với mọi người rất công minh. Chẳng hạn thiên thần của cháu tâu với Chúa rằng:
"Lêcxây dám lè lưỡi với ông nó!" Thế là Chúa liền ra lệnh:
"Được, vậy thì để ông lão quật cho nó một trận!" Đối
với ai cũng thế, Chúa ban cho mỗi người tùy theo họ xứng đáng được hưởng
-có người thì khổ, có người thì sướng, ở đất Chúa mọi cái đều
tốt đẹp cả, cho nên các thiên thần vui mừng, vỗ cánh và luôn miệng hát:
"Sáng danh Chúa, sáng danh Chúa!" Còn Chúa nhân từ mỉm cười như muốn
nói với các thiên thần: "Thôi đi, được rồi!" Bà tôi mỉm cười, lúc lắc
đầu.
-Bà đã trông thấy thế à?
-Không trông thấy, nhưng bà biết!
-Bà tôi đáp, giọng trầm ngâm. Khi nói về Chúa, về thiên đường,
về các thiên thần, người bà tôi như bé lại và dịu hiền. Mặt bà tôi trẻ ra, cặp
mắt ươn ướt tỏa ra một luồng ánh sáng vô cùng ấm áp. Tôi cầm những bím tóc dày
mịn màng quấn vào cổ mình rồi ngồi yên lắng nghe những câu chuyện của bà tôi,
không bao giờ biết chán.
-Người trần không thể nhìn thấy Chúa
-nếu nhìn thì sẽ mù mắt. Chỉ có các thánh mới có thể nhìn
Chúa tận mắt. Còn các thiên thần thì bà đã được thấy. Thiên thần chỉ hiện ra
cho những người nào có linh hồn trong sạch.
Một hôm, lúc bà đứng trong nhà thờ dự lễ, bà nom thấy hai vị
đi đi lại lại ở chỗ bàn thờ như những đám sương mù trong suốt, sáng rực, đôi
cánh dài trông như đăng-ten hoặc vải sa chấm tận sàn. Các vị đi vòng quanh bàn
thờ và giúp đỡ cha Iláa, một người đã có tuổi. Khi cha giơ hai cánh tay yếu đuối
lên cầu nguyện Chúa, hai vị thiên thần liền đỡ hai khuỷu tay cho cha. ít lâu
sau cha mất vì cha già quá, lại mù lòa, ra đụng vào chạm. Khi nhìn thấy các
thiên thần bà vui mừng tê tái cả người, lòng bà như se lại, nước mắt giàn giụa,
chà, thật là sung sướng! ôi, Liônka, cháu yêu quí của bà, đối với Chúa tất cả mọi
cái trên thiên đàng và dưới hạ giới này đều tốt đẹp cả, thật là tốt đẹp...
-Thế ở nhà ta cái gì cũng tốt đẹp cả hở bà? Bà tôi làm dấu rồi
trả lời:
-Lạy Đức Mẹ Rất Thánh,
-mọi cái đều tốt đẹp cả! Câu trả lời đó làm tôi bối rối. Thật
khó mà thừa nhận rằng mọi cái ở nhà này đều tốt đẹp. Tôi cảm thấy trong nhà
càng ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Một hôm, đi qua cửa phòng cậu Mikhain, tôi
thấy mợ Nataláa mặc quần áo trắng toát, hai tay ôm ngực, đang vừa chạy ngược chạy
xuôi khắp phòng vừa kêu khẽ nhưng giọng khủng khiếp:
-Lạy Chúa, hãy đem con đi thoát khỏi nơi này... Tôi hiểu rõ lời
cầu nguyện ấy của mợ cũng như tôi hiểu bác Grigôri khi bác rên rỉ:
-Khi nào lão mù hẳn, lão đi ăn xin còn sung sướng hơn... Tôi
muốn cho bác mù sớm để tôi sẽ xin phép bác được dắt bác đi, và chúng tôi sẽ
cùng đi ăn xin Tức Alêcxây, cách gọi tắt thân mật. với nhau. Tôi đã nói với bác
điều đó. Bác thợ cả mỉm cười trong bộ râu của bác và đáp:
-Được, chúng ta sẽ đi ăn xin! Bác sẽ rêu rao khắp thành phố:
đây là cháu ngoại lão Vaxili Kasirin, chủ phường nhuộm! Như thế thì thú vị lắm...
Nhiều lần tôi trông thấy dưới cặp mắt đờ đẫn của mợ Nataláa những cái u xanh
xanh và cặp môi sưng phồng trên khuôn mặt vàng ệch của mợ. Tôi hỏi bà tôi:
-Có phải cậu đánh mợ không, hở bà? Bà tôi thở dài đáp:
-Nó đánh vụng đấy, cái thằng khốn kiếp ấy! ông cấm nó đánh vợ,
thế là nó đánh trộm ban đêm. Nó là thằng độc ác, còn vợ nó thì lại hiền như cục
đất ấy... Bà tôi kể tiếp, giọng phấn chấn hẳn lên:
-Dù sao bây giờ người ta đánh đập cũng không như hồi trước!
Bây giờ họ chỉ đánh vào miệng, vào tai, túm tóc một lúc thôi, còn trước đây người
ta hành hạ hàng giờ liền! Có lần ông đã đánh bà vào ngày đầu lễ Phục sinh suốt
từ lúc lễ sáng cho đến tối. ông đánh đến nỗi mệt lử, sau khi nghỉ ngơi lại đánh
tiếp. ông đánh bà bằng dây cương ngựa và bằng đủ mọi thứ vớ được.
-Vì sao ông đánh, hở bà?
-Bà không nhớ nữa. Có lần ông đánh bà chết đi sống lại. Năm
ngày năm đêm liền ông không cho ăn uống gì cả. Lần ấy may mà bà thoát chết. Rồi
lại một lần nữa... Cái đó làm cho tôi hết sức ngạc nhiên. Bà tôi to lớn gấp đôi
ông tôi, thật khó tin rằng ông tôi có thể thắng nổi bà tôi.
-Chẳng lẽ ông khỏe hơn bà à?
-Không khỏe hơn, nhưng nhiều tuổi hơn! Hơn nữa ông là chồng
bà! ông phải chịu trách nhiệm về bà trước Chúa, nên bổn phận của bà là phải chịu
đựng... Tôi rất thích xem bà tôi phủi bụi trên các tượng thánh và lau chùi những
chỗ bịt bằng kim loại. Các bức tượng đều lộng lẫy, các vừng hào quang trên đầu
đều cẩn ngọc, bạc và các loại đá màu sặc sỡ. Bà tôi dùng đôi bàn tay khéo léo
nâng niu một bức. Bà tôi mỉm cười nhìn bức tượng thánh và nói, vẻ xúc động:
-ôi, khuôn mặt của Người mới dịu hiền làm sao!... Bà tôi vừa
hôn bức tượng vừa làm dấu.
-Bức tượng bị phủ bụi và ám khói. ôi, Người là Đức Mẹ vạn
năng, Người là niềm vui vô tận của con! Liônáa, cháu yêu quý của bà, cháu hãy
nhìn xem những đường nét tinh vi biết là dường nào.
Những bộ mặt nhỏ tí mà trông vẫn rõ mồn một. Bức này gọi là
"Mười hai ngày lễ", ở giữa là Đức Mẹ đồng trinh Phêôđôrôvô. Còn đây
là bức: "Lạy Đức Mẹ, khi trông thấy con nằm trong quan tài, xin Mẹ đừng
khóc"... Đôi lúc tôi cảm thấy bà tôi chơi với các bức tượng thánh một cách
nghiêm trang và chân thành như em gái Katêrina nhút nhát chơi với búp bê vậy.
Kim loại bít trên các bức tượng thánh chỉ còn để lộ ra mặt và tay của các vị
thánh. Nhiều lần bà tôi cũng gặp ma quỷ hoặc đi một mình hoặc từng đàn từng lũ.
-Có lần vào tuần chay, ban đêm bà đi qua nhà Ruđônphơ. Trời
sáng trăng suông. Bỗng nhiên bà thấy có một con quỷ lớn, mình đầy lông lá đen
sì, ngồi dạng hai chân trên đỉnh mái nhà, cạnh ống khói. Cái đầu có sừng cúi xuống
ống khói ngửi ngửi và thở phì phì. Nó ngửi và kéo lê chiếc đuôi trên mái nhà.
Bà làm dấu ngay và nói: "Cầu Chúa hãy sống lại và kẻ thù của Người hãy biến
đi!" Nó liền khẽ kêu rít lên và tụt từ mái nhà xuống sân rồi biến mất! Có
lẽ hôm ấy nhà Ruđônphơ nấu món ăn mặn nên quỷ đến ngửi và lấy làm vui sướng...
Tôi cười và tưởng tượng đến con quỷ đang tụt từ mái nhà xuống. Bà tôi cũng cười
và nói tiếp:
-Bọn quỷ rất tinh nghịch, giống hệt như lũ trẻ con vậy! Có lần
bà giặt quần áo ở nhà tắm.
Lúc đó vào nửa đêm. Tự nhiên cửa lò mở tung! Và lũ quỷ ở
trong nhảy ra, con nào cũng bé nhỏ, con thì đỏ, con thì xanh, con thì đen như
gián ấy. Bà vội chạy ra phía cửa, nhưng không ra được, lúng túng giữa đàn quỷ.
Chúng kín cả nhà tắm làm bà không cựa được, chúng chui xuống chân bà, lôi kéo
và ép chặt bà đến nỗi bà thở không ra hơi! Mình chúng nó đầy lông lá, mềm nhũn,
nóng như lũ mèo con, chúng toàn đi bằng hai chân sau. Chúng chạy vòng quanh, nô
đùa. Răng chúng nhe như răng chuột, cặp mắt nhỏ xanh lè long lanh, cặp sừng sắp
mọc nhô ra như những cái bướu con, những cái đuôi nhỏ ve vẩy như đuôi lợn sữa. ối,
trời đất ơi! Bà sợ quá ngất đi! Khi bà tỉnh lại thì ngọn nến đang leo lét, chậu
nước giặt đã nguội lạnh, quần áo giặt vất ngổn ngang trên sàn. Bà nghĩ:
"Chao ôi, đồ quỷ sứ, sao chúng bay không chết đi!" Tôi nhắm mắt lại
và thấy từ miệng lò xây bằng đá tuôn ra một dòng dày đặc những con vật đầy lông
lá có đủ màu sắc. Chúng tràn vào đầy cả cái nhà tắm nhỏ bé, thổi vào ngọn nến
và thè lè cái lưỡi đỏ hồng một cách tinh nghịch. Trông vừa buồn cười, vừa đáng
sợ. Bà tôi lắc đầu, im lặng một lát rồi bỗng lại sôi nổi hẳn lên:
-Một lần khác bà lại gặp lũ đáng nguyền rủa ấy. Cũng vào một
đêm đông, bão tuyết thổi mạnh. Bà đi qua cái khe Điukôp, chỗ các cậu Iakôp và
Mikhailô định dìm chết bố cháu trong cái hố băng ở đầm ấy. Cháu có nhớ không,
bà đã kể cho cháu nghe rồi đấy? Thế là bà đi về phía đó; vừa mới đặt chân trên
con đường hẻm, ở dưới khe núi, thì bà nghe thấy tiếng huýt sáo và tiếng hú ở
khe. Bà trông lên thì thấy chiếc xe có ba con ngựa ô kéo đang phóng về phía bà.
Một con quỷ to lớn đội chiếc mũ đỏ không vành đứng sừng sững như cái cọc. Nó đứng
ở chỗ ngồi của người đánh xe, dang tay giữ dây cương bằng xích sắt. ở khe không
có đường đi nên chiếc xe lao thẳng xuống đầm, có đám tuyết phủ kín cả xe. Trên
xe trượt tuyết cũng toàn là lũ quỷ ngồi; chúng huýt sáo, gào thét và vẫy mũ;
khoảng bảy chiếc xe như vậy phóng nhanh như đoàn xe chữa cháy. Ngựa toàn một
màu đen tuyền. Tất cả lũ ngựa đều là những kẻ bị bố mẹ nguyền rủa, bị lũ quỷ lấy
làm trò giải trí, dùng làm ngựa để kéo xe, bắt họ rong ruổi ban đêm trong những
ngày hội vui của chúng. Lần đó có lẽ bà đã trông thấy một đám cưới quỷ... Không
thể nào không tin bà tôi được
-bà tôi nói rất giản dị và chắc chắn! Nhưng khéo nhất là bà
tôi đọc những đoạn thơ kể về Đức Bà Đồng trinh đi chu du khắp trái đất để biết
nỗi khổ cực của người trần và khuyên bảo nữ tặc "công nương" Engalưtạêva
không nên đánh đập và cướp bóc người Nga; những đoạn thơ về thánh Alêcxây, về
dũng sĩ Ivan. Bà tôi kể những chuyện thần thoại về thánh nữ Vaxilixa vô cùng đức
độ, về giáo sĩ Dê và con đỡ đầu của Chúa; có những chuyện khủng khiếp về Macfa
Pôxatnitxavề nữ tướng cướp Baba Uxtavề Marya, một người có nhiều tội lỗi của Ai
Cập, về nỗi buồn phiền của người mẹ tên cướp. Bà tôi biết không biết bao nhiêu
chuyện thần thoại, chuyện có thật và những câu thơ. Bà tôi không sợ một ai,
không sợ ông tôi, không sợ quỷ, và mọi thứ tà ma nào, nhưng bà tôi lại rất sợ
những con gián đen. Bà tôi có thể nhận ra chúng ngay từ xa. Bà tôi thường đánh
thức tôi ban đêm và thì thào:
-Aliôsa, cháu yêu của bà, có một con gián đang bò đấy; vì
Chúa, cháu hãy giết nó đi! Đang ngái ngủ, tôi châm nến và bò trên sàn tìm kẻ địch.
Nhưng không phải lần nào tôi cũng tìm thấy ngay và cũng có lần tôi không bắt được.
-Không thấy đâu, bà ạ.
-Tôi nói. Nhưng bà tôi vẫn nằm im, đầu trùm chăn kín mít, và
khẽ nói:
-ôi, có một con đấy! Cháu cố tìm đi, bà van cháu đấy! Nó kia
kìa, bà biết... Bà tôi không nhầm bao giờ cả
-cuối cùng tôi tìm thấy con gián ở một chỗ rất xa giường.
-Cháu giết nó chưa? ừ, sáng danh Chúa! Cảm ơn cháu nhé!... Nếu
tôi chưa tìm thấy con gián thì bà tôi không sao ngủ được. Tôi thấy bà tôi giật
mình mỗi khi khẽ có tiếng sột soạt trong đêm tối im lặng như tờ. Tôi nghe bà
tôi nín thở và thì thào:
-Nó ở gần ngưỡng cửa... nó chui xuống dưới cái hòm...
-Tại sao bà sợ gián thế? Bà trịnh trọng trả lời:
-Vì bà không hiểu chúng nó dùng để làm gì? Chúng nó bò lổm ngổm
và đen sì sì. Chúa đã giao cho mỗi loài một nhiệm vụ: có bọ đất tức là trong
nhà ẩm thấp; có rệp tức là tường bẩn; có rận tức là người sắp ốm. Tất cả mọi thứ
đều có ý nghĩa! Còn loài gián thì không ai rõ ma quỷ nào nhập vào, chúng sinh
ra để làm gì?
° ° °
Một hôm bà tôi đang quỳ tâm sự với Chúa thì ông tôi mở toang
cửa ra, nói với giọng khàn khàn:
-Bà nó ơi, Chúa phạt chúng ta rồi, nhà cháy!
-ông nói gì đấy!
-Bà tôi hét lên và vùng đứng dậy. Cả hai người thình thịch chạy
bổ vào gian phòng chính tối om.
-Epgênsa, hạ tượng thánh xuống! Nataláa, mặc áo cho lũ trẻ!
-Bà tôi ra lệnh, giọng nghiêm nghị cứng rắn, còn ông tôi thì
khẽ rên rỉ:
-Hi, hi, hi... Tôi chạy vào bếp. Cái cửa sổ nhìn ra sân đang
cháy rực lên như vàng. Trên sàn nhà những vật vàng vàng chạy nhảy. Cậu Iakôp vội
đi ủng rồi nhảy lên những vệt cháy ấy y như đế giày của cậu bị cháy vậy. Cậu
kêu lên:
-Chính Miska đốt nhà, hắn đốt và chuồn rồi, đúng thế!
-Im đi, đồ chó má,
-bà tôi vừa nói vừa đẩy cậu ra cửa mạnh đến nỗi suýt nữa thì
cậu ngã. Nhìn qua cửa kính đóng băng thấy rõ mái xưởng bùng cháy và ngọn lửa
như cơn lốc xoắn xuýt cuồn cuộn qua cánh cửa ngỏ. Trong đêm tối yên lặng ngọn lửa
nở thành những bông hoa đỏ, không có khói. ở trên cao tít thấy lơ lửng một đám
mây sẫm, nhưng nhìn qua vẫn thấy giải Ngân Hà bàng bạc. Tuyết rực lên màu đỏ thắm.
Tường nhà rung lên, lảo đảo như muốn hướng về phía góc sân, nơi ngọn lửa đang
nhảy nhót vui vẻ, đang nhuộm đỏ những kẽ ngách rộng trong vách xưởng và từ đó
thoát ra như những chiếc đinh cong queo. Trên những tấm gỗ đen sẫm và khô của
mái nhà những dải lửa vàng, đỏ lượn khúc quấn quanh lấy mái nhà. ở giữa nhô lên
một ống khói mảnh dẻ bằng đất nung còn bốc khói. Những tiếng nổ lách tách, những
tiếng soàn soạt như tiếng lụa xé đập vào cửa kính. Ngọn lửa lan ra mãi. Xưởng
thợ sáng rực giống như bức thánh-tượng-bình ở trong nhà thờ và như có một sức
gì không cưỡng lại được vẫy gọi mọi người tới gần hơn. Tôi trùm chiếc áo lông
ngắn to xù lên đầu và xỏ chân vào đôi ủng không biết của ai. Tôi lê ra nhà
ngoài, ra chỗ bậc tam cấp và đứng lặng đi vì kinh khủng trước ánh lửa chói lòa
làm tôi lóa cả mắt. Tai tôi ù đặc vì tiếng kêu của ông tôi, của bác Grigôri, của
cậu tôi và vì tiếng đám cháy nổ. Tôi khiếp sợ trước cử chỉ của bà tôi; trùm chiếc
bao không lên đầu, quấn vào người miếng vải phủ mình ngựa, bà tôi vừa lao vào lửa
vừa la lên:
-Cupơrôx, lũ ngốc! Cupơrôx làm nổ tung cả bây giờ...
-Grigôri, giữ lấy bà lão!
-ông tôi rít lên.
-Trời ơi, bà ấy chết mất... Nhưng bà tôi đã trở ra, toàn thân
bốc khói, lắc đầu, lom khom, tay giơ thẳng bưng một vò lớn đầy cupơrôx.
-ông cho tháo ngựa ra!
-Bà tôi vừa kêu vừa ho và thở khò khè.
-Lột miếng vải khoác ngoài cho tôi, tôi đang bị cháy, ông
không trông thấy à?... Bác Grigôri giật miếng vải khoác ngoài đang âm ỉ cháy khỏi
vai bà tôi. Bác gập đôi người lại, bắt đầu lấy xẻng hắt những cục tuyết lớn vào
cửa xưởng. Cậu tôi nhảy nhót bên cạnh bác, cầm cái rìu trong tay. ông tôi chạy
quanh, ném tuyết vào người bà tôi. Bà tôi nhét cái vò xuống đống tuyết rồi chạy
ra cổng, mở toang ra và cúi chào những người đang kéo đến:
-Bà con ơi, phải bảo vệ lấy cái nhà kho! Nếu lửa lan sang nhà
kho, chuyền sang vựa chứa cỏ khô thì tất cả nhà tôi sẽ cháy hết ra tro và cả
nhà bà con cũng sẽ bị cháy lây! Giật mái xuống và vứt cỏ khô ra vườn! Grigôri,
hắt tuyết cao lên, sao lão cứ ném mãi xuống đất thế! Iakôp, đừng có xun xoe,
đưa rìu và xẻng cho mọi người! Bà con hãy cùng nhau giúp chúng tôi một tay,
Chúa sẽ phù hộ các người. Bà tôi cũng lôi cuốn tôi như đám cháy vậy. Ngọn lửa rọi
vào người bà tôi đen thẫm, như muốn đuổi bắt. Bà tôi tất tả ở khắp sân, chỗ nào
cũng đến đúng lúc, và điều khiển mọi việc chẳng sót việc nào. Con Sarap chạy ra
sân. Nó chồm lên và làm ông tôi suýt ngã lộn. Ngọn lửa làm đỏ rực cặp mắt to của
nó. Con ngựa hí ầm, đứng bằng hai chân trước. ông tôi buông dây cương ra, nhảy
tránh sang một bên và kêu:
-Bà nó ơi, giữ lấy nó! Bà tôi nhảy xổ vào dưới chân con ngựa
đang lại chồm lên và dang hai tay ra. Con ngựa khẽ hí một tiếng rầu rĩ, vươn cổ
về phía bà và liếc nhìn ngọn lửa.
-Mày đừng sợ!
-Bà tôi nói, giọng trầm trầm. Bà vỗ vỗ vào cổ nó và cầm dây
cương.
-Mày tưởng tao bỏ mày trong cái địa ngục đó à, con chuột nhắt
của tao?... Và con chuột nhắt to gấp ba bà ngoan ngoãn đi theo ra cổng. Nó thở
phì phì và nhìn khuôn mặt đỏ rực của bà. Mụ Epgênáa dẫn lũ trẻ mếu máo và quấn
đầy quần áo ra khỏi nhà, mụ kêu:
-Vaxili Vaxilits, không thấy thằng Lêcxây đâu cả...
-Đi đi!
-ông tôi vẫy tay đáp, trong khi đó tôi nấp dưới bậc tam cấp để
khỏi bị mụ vú lôi đi. Mái xưởng đã sập. Những thanh xà nhà mảnh dẻ bốc khói, lấp
lánh ánh than vàng, nhô lên trời. Trong xưởng những ngọn lửa xanh đỏ cuồn cuộn
như những cơn gió lốc, phát ra tiếng nổ giòn và tiếng rít. Từng bó lửa bắn ra
sân, xuống những người tụ tập trước đống lửa khổng lồ và đang dùng xẻng hắt tuyết
vào đám cháy. Trong đống lửa mấy cái chảo lớn sôi sùng sục, hơi nước và khói bốc
lên như một đám mây dày đặc. Những mùi là lạ tỏa ra ngoài sân làm chảy nước mắt.
Tôi chui ra khỏi bậc tam cấp và đụng luôn phải chân bà tôi.
-Đi ra!
-Bà tôi quát.
-Đi ra, không có chết bẹp bây giờ... Một người cưỡi ngựa đội
mũ đồng có chóp xộc vào sân. Con ngựa màu hung sùi bọt mép, còn gã kia tay giơ
ngọn roi lên cao, thét lên với vẻ hăm dọa:
-Tránh ra! Tiếng chuông reo vui rộn rã. Quang cảnh thật tưng
bừng và đẹp như ngày hội. Bà tôi đẩy tôi lên bậc tam cấp:
-Có nghe tao bảo gì không! Đi ra! Lúc này không thể không
vâng lời bà tôi được. Tôi xuống bếp và lại dán mũi vào cửa kính, nhưng bị đám
người đen ngòm che lấp nên không nhìn thấy ngọn lửa nữa.
Tôi chỉ thấy những chiếc mũ đồng sáng loáng giữa những chiếc
mũ lưỡi trai và mũ lông mùa đông đen sì. Ngọn lửa bị chế ngự mau chóng. Người
ta tưới nước vào lửa, và dập tắt nó. Cảnh sát giải tán đám đông. Bà tôi trở vào
bếp.
-Ai đấy? Cháu đấy à? Tại sao cháu không ngủ, cháu sợ à? Đừng
sợ, mọi việc đều xong xuôi rồi... Bà ngồi im lặng bên cạnh tôi và lắc lư trên
chiếc ghế. Tôi lấy làm sung sướng thấy đêm tối lại lặng lẽ như cũ, nhưng tôi vẫn
nhớ tiếc ngọn lửa. ông tôi bước vào, dừng lại bên ngưỡng cửa và hỏi:
-Bà nó đấy à?
-Hở?
-Bà bị bỏng phải không?
-Không sao cả. ông tôi đánh một que diêm; ánh lửa xanh chiếu
sáng khuôn mặt chồn hôi, đầy bồ hóng. ông tôi tìm thấy cây nến trên bàn rồi chậm
chạp ngồi xuống cạnh bà tôi.
-ông nên rửa mặt mũi đi thì hơn,
-bà tôi nói, mặc dù người cũng đầy bồ hóng và sực mùi khói
khét lẹt. ông tôi thở dài:
-Chúa thật là nhân từ đối với bà. Chúa ban cho bà lắm thông
minh thế... ông tôi xoa vai bà tôi và nhe răng nói thêm:
-Tất nhiên là trong chốc lát thôi, nhưng cũng là có ban!...
Bà tôi cũng mỉm cười, muốn nói điều gì, nhưng ông tôi đã cau mày lại.
-Cần phải tống cổ lão Grigôri đi, việc này cũng là do sự sơ
suất của lão ta! Lão già yếu rồi, không dùng được việc nữa! Thằng Iaska đang ngồi
ở bậc thềm khóc lóc, thằng ngốc... Bà thử đi ra xem nó làm sao... Bà tôi đứng dậy,
một tay giơ trước mặt, vừa đi vừa thổi những ngón tay, còn ông tôi không nhìn
tôi, khẽ hỏi:
-Cháu nhìn thấy đám cháy suốt từ đầu đến cuối chứ? Vậy cháu
thấy bà thế nào, hả? ấy là bà đã già... bị suy yếu rồi... Cháu thấy không? ôi
chao, lũ chúng bay... y... y thật là... ông tôi khom lưng, yên lặng hồi lâu,
sau đó đứng dậy lấy ngón tay gạt tàn nến rồi lại hỏi tôi:
-Cháu có sợ không?
-Không ạ.
-Thật ra cũng không có gì đáng sợ cả... ông tôi giật chiếc áo
sơ-mi khỏi vai với vẻ tức giận rồi đi tới góc nhà có chậu rửa mặt. ở đó, trong
bóng tối, ông tôi giậm chân, nói to:
-Cháy nhà là một sự ngu ngốc! Đứa nào làm cháy nhà cần phải
lôi ra quảng trường đánh cho một trận; nó là thằng ngốc, không thì cũng là thằng
kẻ trộm! Cứ làm như vậy thì chẳng bao giờ cháy nhà nữa!... Cháu đi ngủ đi. Còn
ngồi đấy làm gì? Tôi đi nằm, nhưng đêm hôm ấy không tài nào ngủ được: tôi vừa mới
nằm lên giường thì một tiếng kêu la không giống tiếng người làm tôi vùng dậy khỏi
giường ngay. Tôi lại lao vào nhà bếp. ông tôi cởi trần, tay cầm cây nến, đứng
giữa nhà. Cây nến rung rinh. Không nhích đi được bước nào, ông tôi chỉ giậm
chân xuống sàn và rít lên:
-Bà nó ơi, Iakôp ơi, cái gì thế? Tôi nhảy lên lò sưởi, nấp
vào một góc. Trong nhà lại bắt đầu náo động như lúc cháy. Tiếng kêu la đều đều
và đau đớn càng ngày càng to, đập vào trần và tường từng hồi. ông tôi và cậu
tôi chạy ngược chạy xuôi, bà tôi quát tháo và xua đuổi hai người. Bác Grigôri
chất củi vào lò rầm rầm, đổ đầy nước vào chảo gang. Bác đi lại ở nhà bếp, đầu lắc
lư giống như một con lạc đà ở Axtrakhan.
-Trước hết hãy đốt lò đi chứ!
-Bà tôi ra lệnh. Bác vội đi tìm que đóm, sờ phải chân tôi và
sợ hãi kêu lên:
-Ai đấy? Hừ, làm tao sợ hết hồn... ở đâu không cần đến, mày
cũng có mặt...
-Cái gì thế hở bác?
-Mợ Nataláa đẻ,
-bác thản nhiên đáp và nhảy xuống sàn. Tôi nhớ hồi mẹ tôi đẻ,
mẹ tôi không kêu la om sòm như thế. Đặt chảo lên bếp xong, bác Grigôri leo lên
lò sưởi ngồi cạnh tôi. Bác rút trong túi ra chiếc tẩu bằng đất nung và đưa cho
tôi xem.
-Bác bắt đầu hút thuốc chỉ vì cặp mắt này thôi. Bà cháu
khuyên bác: chỉ nên hít, nhưng bác thấy hút tốt hơn...
Bác ngồi ở mép lò sưởi, hai chân buông thõng. Bác nhìn xuống
phía dưới, nơi ngọn nến cháy lù mù. Tai và má bác đầy bồ hóng, chiếc áo sơ-mi
rách ở bên sườn. Tôi nhìn thấy cả bộ xương sườn của bác rộng như những cái đai
thùng. Một mắt kính của bác đã bị vỡ, một nửa kính hầu như đã lòi ra khỏi vành,
và qua lỗ hổng tôi nhìn thấy mắt bác đỏ ngầu, ươn ướt như một vết thương. Bác vừa
nhồi thuốc vào tẩu vừa lắng nghe những tiếng rên rỉ của mợ Nataláa, và nói lẩm
bẩm những câu rời rạc giống như người say rượu:
-Bà cháu dẫu sao thì cũng bị bỏng, làm thế nào đỡ đẻ được? Gớm,
mợ ấy rên tợn quá! Trong khi cháy nhà người ta đã quên mất mợ ấy. Ngay từ lúc bắt
đầu cháy đã thấy mợ ấy quằn quại vì sợ hãi... Đẻ được đứa con thật là khó nhọc,
nhưng mà người ta có kính trọng phụ nữ đâu! Cháu nhớ nhé: phải kính trọng phụ nữ,
nghĩa là phải kính trọng những bà mẹ... Tôi thiu thiu ngủ, nhưng tiếng ồn ào,
tiếng sập cửa, lẫn tiếng kêu lè nhè của cậu Mikhain say rượu làm tôi tỉnh dậy.
Những lời nói kỳ lạ vẳng đến tai tôi:
-Phải mở cửa Thánh ra...
-Cho nó uống dầu thắp đèn hòa với rượu rum và bồ hóng: nửa cốc
dầu, nửa cốc rượu rum và một thìa bồ hóng... Cậu Mikhain cứ khẩn khoản yêu cầu
lải nhải:
-Cho tôi vào xem... Cậu ngồi xuống sàn, hai chân dạng ra và
khạc nhổ xuống trước mặt, bàn tay vỗ vỗ trên sàn nhà. Trên lò sưởi nóng không
thể chịu được. Tôi bò xuống, nhưng vừa tới ngang tầm cậu thì cậu túm lấy chân
tôi giật mạnh. Tôi ngã đập gáy xuống đất.
-Đồ ngốc,
-tôi bảo cậu. Cậu nhổm ngay dậy, túm lấy tôi, nhấc bổng tôi
lên và rú:
-Tao phải quật mày vào lò sưởi cho mày tan xác ra mới được...
Khi hoàn hồn, tôi thấy tôi ngồi trên đầu gối ông tôi ở trong góc phòng chính,
dưới những bức tượng thánh. Ngước mắt lên trần nhà, ông tôi ru tôi và nói nhỏ:
-Chúng ta không một ai có lý do gì để xin tha lỗi... Trên đầu
ông có một ngọn đèn thờ sáng rực. Trên bàn giữa phòng có một ngọn nến. ánh sáng
mùa đông mờ mờ đã ló ra qua cửa sổ. ông tôi cúi xuống chỗ tôi hỏi:
-Cháu đau ở đâu? Tôi đau khắp cả người, đầu tôi ướt đẫm mồ
hôi, mình nặng trình trịch, nhưng tôi không muốn nói ra điều đó. Xung quanh, tất
cả đều hết sức lạ lùng đối với tôi! Hầu hết các ghế trong phòng đều có những
người lạ mặt ngồi: một cha cố mặc áo dài tím, một lão già bé nhỏ, tóc bạc, đeo
kính, mặc áo nhà binh, và nhiều người khác nữa. Tất cả đều ngồi không nhúc
nhích như những pho tượng gỗ. Họ ngồi đờ ra chờ đợi và lắng nghe tiếng nước chảy
róc rách ở đâu gần chỗ chúng tôi. Cậu Iakôp đứng cạnh khung cửa vươn dài người
ra, hai tay chắp sau lưng. ông tôi bảo cậu:
-Này, dẫn thằng bé này đi ngủ... Cậu giơ ngón tay vẫy tôi và
khẽ đi rón rén trên đầu ngón chân tới cửa buồng bà tôi. Khi tôi leo lên giường,
cậu thì thầm: Theo phong tục mê tín, muốn cho người đẻ khó sinh nở được dễ dàng
hơn, cần phải mở cửa nhà thờ dẫn tới bàn thờ; cửa đó gọi là cửa Thánh. Phép cứu
chữa mê tín đối với người đẻ khó.
-Mợ Nataláa chết rồi... Tin đó không làm tôi ngạc nhiên, vì từ
lâu mợ sống cách biệt, không bao giờ xuống bếp, ngay cả bữa ăn.
-Thế bà ở đâu, hở cậu?
-Ngoài kia,
-cậu khoát tay đáp và lại đi ra rón rén trên đầu ngón chân.
Tôi nằm trên giường nhìn khắp xung quanh. Tôi tưởng như trông thấy những khuôn
mặt đầy lông lá, trắng bệch, mù lòa đang áp vào kính cửa sổ. Trong góc buồng,
trên cái hòm có treo chiếc áo dài của bà tôi,
-cái ấy tôi đã biết rõ,
-nhưng giờ đây tôi có cảm tưởng như có một người nào đó nấp ở
đấy và đang rình mò. Tôi chúi đầu vào gối, hé một mắt nhìn ra cửa, tôi muốn nhảy
xuống và bỏ chạy ra ngoài. Nóng quá, một mùi nồng nặc tỏa ra khắp gian buồng
làm ngột ngạt khiến tôi nhớ tới hôm anh Txưganôc chết, những dòng màu chảy lênh
láng trên sàn nhà như những dòng suối. Hình như một cái u nào đó mọc ra trong đầu
và trái tim tôi. Tất cả những gì tôi đã nhìn thấy trong cái nhà này đang lướt
qua trước mắt tôi như một đoàn xe trên đường phố mùa đông. Tôi cảm thấy như
mình bị đè bẹp, bị tiêu tan...
Cánh cửa mở rất từ từ, bà tôi rón rén bước vào buồng rồi dùng
vai khẽ khép cửa lại.
Tựa lưng vào cửa, giơ tay về phía ngọn lửa xanh của cây đèn
thờ không bao giờ tắt, bà tôi than vãn khe khẽ như giọng một đứa trẻ:
-Khốn khổ cho hai bàn tay tôi, đau quá...
Chương 5
Tới mùa xuân các cậu tôi chia gia tài. Cậu Iakôp ở lại thành
phố, cậu Mikhain sang bên kia sông. ông tôi tậu một ngôi nhà rộng rãi và khá đẹp
ở phố Pôlêvaia. Tầng dưới bằng đá có quán rượu. Gác thượng có một căn phòng nhỏ
ở rất thú vị. Phía sau nhà là vườn cây chạy dài đến cái vực tua tủa những cành
dương liễu trụi lá.
-Nhiều roi quá!
-ông tôi nháy mắt vui vẻ nhìn tôi nói, khi tôi cùng với ông
tôi đi thăm vườn, dạo trên những con đường nhỏ, chân lút cả vào tuyết mới tan.
-ông sắp dạy cháu học, chắc có lúc phải dùng đến những chiếc
roi này... Ngôi nhà chật ních người ở thuê. ông tôi chỉ giữ một phòng lớn trên
gác để ở và tiếp khách. Bà tôi và tôi ở gác thượng. Cửa sổ chỗ tôi ngoảnh ra phố;
chiều chiều và ngày lễ, thò đầu qua bệ cửa sổ có thể nhìn thấy những người say ở
quán rượu bò ra, loạng choạng trên đường phố, la hét rồi ngã gục. Đôi khi người
ta ném họ ra đường như ném bao tải, nhưng họ lại phá cửa để vào quán rượu; cánh
cửa đập, kêu rè rè, chiếc pu-li rít lên, một cuộc xô xát bắt đầu. Cảnh tượng đó
nhìn từ trên xuống thật là thú vị. Từ sáng sớm ông tôi tới xưởng của các cậu
tôi, giúp các cậu tôi sắp đặt mọi thứ. Chiều tối ông tôi mới trở về, vẻ mệt nhọc,
chán ngán và bực dọc.
Bà tôi ở nhà nấu ăn, khâu vá và trông nom vườn tược. Bà chạy
ngược chạy xuôi cả ngày như một con quay lớn bị chiếc roi vô hình thúc giục. Bà
hít thuốc lá có vẻ sảng khoái, hắt hơi và vừa lau bộ mặt đầm đìa mồ hôi vừa
nói:
-Cầu cho thế gian được hưởng phúc lành đời đời! Aliôsa, cháu
yêu của bà ơi, chúng ta sống yên ổn rồi cháu ạ! Lạy Đức Mẹ, mọi việc đều tốt
lành rồi! Nhưng tôi không cảm thấy chúng tôi sống đã yên ổn. Từ sớm đến khuya
những người thuê nhà chạy tứ tung ở trong nhà và ngoài sân. Chốc chốc các mụ
hàng xóm lại kéo đến. Ai cũng vội vã hối hả mà vẫn phàn nàn là bị trễ. Hình như
ai cũng đang bận chuẩn bị một việc gì sắp xảy ra. Họ gọi bà tôi.
-Akulina Ivanôpna! Bà tôi đối với mọi người đều mỉm cười âu yếm
và dịu dàng quan tâm săn sóc đến họ. Bà tôi lấy ngón tay cái cho thuốc lá vào lỗ
mũi, dùng khăn tay có kẻ ô vuông đỏ lau thật sạch mũi và ngón tay, rồi không ngớt
lời khuyên bảo:
-Bà con ạ, muốn chống rận chấy cần phải tắm rửa luôn, cần phải
xông bằng hơi bạc hà. Nếu rận bám vào da thì lấy một thìa mỡ ngỗng thật trong,
trộn với một thìa thăng hoa và ba giọt thủy ngân. Sau đó lấy mảnh sành tán nhỏ
tất cả các thứ đó khoảng bảy lần trên một cái đĩa rồi xoa khắp người! Nếu dùng
thìa gỗ hoặc thìa xương mà trộn thì thủy ngân bị mất! Tránh dùng thìa đồng hay
thìa bạc, nguy hiểm lắm đấy! Đôi khi bà tôi khuyên nhủ, vẻ trầm ngâm:
-Bà con ạ, tốt hơn hết là đến Pêtạôrư gặp cha Axap. Tôi không
thể khuyên bà con hơn được. Bà tôi giúp việc đỡ đẻ, hòa giải những vụ cãi nhau
trong các gia đình, chữa bệnh cho trẻ con. Bà tôi thuộc lầu lầu câu chuyện
"Giấc mơ của Đức Mẹ" và thường đem kể cho các bà nghe để họ "gặp
may. Bà tôi dạy bảo họ về việc bếp nước:
-Dưa chuột tự nó sẽ bảo cho các bà lúc nào có thể muối được.
Lúc nó hết mùi đất và các mùi khác thì các bà hãy trẩy về. Cơvat cần phải làm
cho nó tức hơi thì nó mới mạnh và sủi bọt: cơvát không ưa ngọt, nên các bà chỉ
cần cho vào một ít nho khô, nếu bỏ đường vào thì một thùng chỉ cần khoảng một
jôlôtnich thôi. Varentại có nhiều cách làm khác nhau: có kiểu của miền Đanuáp,
kiểu Tây Ban Nha, còn có cả kiểu của Kapkadơ nữa...
Suốt ngày tôi quẩn quanh bên bà tôi ở trong vười hay ở ngoài
sân. Tôi đi với bà đến nhà các bà hàng xóm, ở đấy bà tôi ngồi hàng giờ uống nước
trà và kể chuyện con cà con kê. Tôi dường như gắn chặt với bà tôi và không nhớ
trong quãng đời ấy tôi đã nhìn thấy gì khác, ngoài bà lão vô cùng phúc hậu và
không lúc nào chịu ngồi yên.
Thỉnh thoảng mẹ tôi không hiểu từ đâu đến chơi trong chốc
lát. Kiêu hãnh và nghiêm nghị, mẹ tôi nhìn tất cả bằng cặp mắt xám lạnh như mặt
trời mùa đông. Thoáng một cái mẹ tôi lại biến mất không để lại cho tôi một ấn
tượng nào cả. Có lần tôi hỏi bà tôi:
-Bà có phải là phù thủy không?
-ồ, cháu lại nói lăng nhăng rồi!
-Bà mỉm cười và lập tức nói thêm, vẻ trầm ngâm:
-Bà làm phù thủy thế nào được? Phù thủy là một phép rất khó.
Bà không biết đọc, đến một chữ cũng không biết. ông mới là người có học, còn bà
thì Đức Mẹ không ban cho trí thông minh. Rồi bà tôi kể cho tôi nghe thêm một
vài quãng đời của bà tôi:
-Bà cũng mồ côi từ nhỏ. Mẹ bà là một cố nông không nhà không
cửa, một người tàn tật. Khi còn con gái, một đêm người đã bị một tên địa chủ dở
trò. Người sợ quá nhảy từ cửa sổ xuống, bị gãy xương sườn và giập bả vai. Từ đó
cánh tay phải, cánh tay cốt yếu nhất, bị teo đi. Trước đây mẹ bà là một người
thêu đăng-ten có tiếng. Thế là bọn địa chủ không dùng người nữa, đuổi người đi
và nói: "Mày sống như thế nào thì mặc xác mày". Nhưng không có cánh
tay thì sống làm sao nổi? Người chỉ còn một cách là đi ăn xin. Nhưng thời ấy
người ta sống sung túc và tốt bụng hơn bây giờ nhiều. Những người thợ mộc ở
Balakhơna và các bà thợ thêu toàn là những người có lòng tốt cả! Đôi lúc tới
mùa thu và mùa đông mẹ con bà ở lại thành phố đi ăn xin, nhưng khi thượng đẳng
thiên thần Gabrien vừa mới vung kiếm lên xua đuổi mùa đông, cho mùa xuân ôm lấy
trái đất thì mẹ con bà lại đi xa, đi lang thang vô định. Mẹ con bà tới Murôm, tới
Iurievet, ngược cả sông Vonga và đi theo dòng sông ska êm đềm. Mùa xuân và mùa
hè được đi đó đây thì thật là thú vị, mặt đất hiền hòa xanh rợp cỏ non như những
tấm nhung; Đức Mẹ Rất Thánh rắc hoa khắp cả cánh đồng. ở đấy mới thật là vui sướng,
ở đấy tâm hồn mới thật tự do phóng khoáng.
Đôi lúc mẹ bà lim dim cặp mắt xanh và cất tiếng hát. Giọng
người không mạnh, nhưng trong, -cảnh vật xung quanh hình như cũng mơ mơ màng
màng, không động đậy, lắng nghe tiếng hát của người. ăn Chúa, cuộc sống cũng dễ
chịu! Năm bà lên chín tuổi, mẹ bà lấy làm xấu hổ phải dắt con đi ăn xin lang
thang, người cảm thấy ngượng nên ở lại Balakhơna. Người đi khắp các phố từ nhà
này sang nhà khác, vào ngày lễ người ngồi ở trước cửa nhà thờ để ăn xin. Còn bà
thì ngồi ở nhà, học thêu đăng-ten, bà học vội vàng, muốn nhanh chóng đỡ đần cho
mẹ. Đôi lúc học làm không được, bà cứ khóc rưng rức. Hơn hai năm sau, cháu biết
không, bà đã thạo nghề và nổi tiếng khắp thành phố. Nếu có ai cần thợ khéo là họ
lập tức tới tìm mẹ con bà. Họ bảo: "Này, Akulina, cô thêu giúp chúng tôi
nhé" Bà sung sướng quá, đó là một ngày hội đối với bà! Tất nhiên, đó không
phải là do tài nghệ của bà, mà là nhờ sự chỉ bảo của mẹ bà. Người chỉ có một
cánh tay, tự mình không thể làm được, nhưng người biết cách chỉ dẫn. Mà một người
chỉ dẫn giỏi còn quý hơn mười người làm ấy. Thế rồi bà bắt đầu lên mặt hãnh diện.
Bà nói: "Mẹ ơi, mẹ đừng đi ăn xin nữa, bây giờ mình con có thể nuôi được mẹ
rồi!" Người trả lời: "Thôi đi cô, cô phải biết, tiền đó cho cô để
tích lại làm của hồi môn". ít lâu sau ông cháu tới. ông là một chàng trai
nổi tiếng: mới có hai mươi hai tuổi đầu mà ông đã là một phu trưởng trên
sà-lan! Bà cụ đẻ ra ông cháu để ý đến bà, thấy bà biết làm ăn, con của mụ ăn
mày, nên chắc là ngoan ngoãn, thế là... Bà cụ làm nghề bán bánh và độc ác không
thể tưởng tượng được...
Nhưng chúng ta nhớ tới những kẻ độc ác làm gì nhỉ? Chính Chúa
biết rõ họ; chỉ có Chúa mới nhìn thấy họ và chỉ có lũ quỷ sứ mới ưa họ thôi. Bà
tôi cười hồn nhiên, mũi rung rung trông đến buồn cười: cặp mắt sáng và đăm
chiêu của bà tôi toát ra từ lòng trìu mến và biểu lộ nhiều ý nghĩ hơn cả những
lời nói.
° ° °
Tôi nhớ một buổi chiều tĩnh mịch, tôi và bà tôi uống trà ở
phòng ông tôi. ông tôi ốm và ngồi trên giường, mình trần, trên vai vắt một chiếc
khăn mặt dài. ông tôi luôn tay lau mồ hôi nhễ nhại, hơi thở gấp khò khè, cặp mắt
xanh mờ đục, mặt sưng húp và đỏ tía. Đỏ nhất là cặp tai nhỏ nhọn hoắt. Khi ông
tôi chìa tay lấy tách nước trà, bàn tay run run trông thật là tội nghiệp. ông
tôi nom có vẻ dịu dàng và không giống như thường ngày.
-Tại sao bà không cho tôi uống đường?
-ông hỏi bà, giọng vòi vĩnh như một đứa trẻ được nuông chiều.
Bà tôi trả lời dịu dàng, nhưng quả quáết:
-ông uống với mật ong tốt hơn! ông tôi ngạt thở, rồi thở dài
uống một hớp nước trà nóng và nói:
-Bà hãy trông chừng kẻo tôi chết mất đấy!
-ông đừng sợ, tôi sẽ lo.
-Được! Nếu bây giờ tôi chết thì cũng như là xưa nay hoàn toàn
không có tôi,
-mọi thứ đều sẽ biến thành tro bụi cả!
-ông đừng có nói nhảm, cứ nằm im! ông tôi im lặng một lúc, nhắm
mắt, và chép chép cặp môi thâm sì. Rồi bỗng nhiên, như bị ai châm, ông tôi giật
nảy mình, nói rõ điều đang nghĩ:
-Phải cưới vợ sớm cho thằng Iaska và Miska đi thôi. Có lẽ vợ
con vào thì mới có thể ngăn chặn được chúng nó, phải không? Rồi ông tôi nhớ xem
nhà ai trong thành phố có con gái có thể kén làm nàng dâu xứng đáng được. Bà
tôi nín lặng uống hết tách nước trà này đến tách khác. Tôi ngồi bên cạnh cửa sổ,
nhìn cảnh hoàng hôn đỏ rực trên thành phố, cửa kính của các ngôi nhà cũng ánh
lên màu đỏ chói. ông tôi cấm tôi không được xuống sân, vườn dạo chơi vì tôi phạm
lỗi gì đó không rõ. ở ngoài vườn, xung quanh những cây bạch dương, đàn bọ dừa
bay vè vè; một người thợ đóng thùng đang làm việc ở sân nhà bên cạnh; gần đâu đấy
có tiếng mài dao xoèn xoẹt. ở sau vườn, trong khe vực, lũ trẻ con nô đùa ầm ĩ,
lẩn vào trong các bụi rậm. Cảnh chơi đùa ngoài trời lôi cuốn tôi, buổi chiều ảm
đạm khiến tôi cảm thấy buồn man mác. Bỗng nhiên ông tôi lấy ở đâu ra một quyển
sách mới, đập mạnh vào lòng bàn tay và gọi giật tôi:
-Này, thằng dân Permiăc kia, thằng lỏi con, lại đây! Ngồi xuống,
thằng có gò má Kanmức này. Mày có thấy cái hình này không? Đây là chữ a. Nói
đi: a, b, c! Đây là chữ gì?
-b.
-Đúng rồi! Còn đây?
-c.
-Bậy nào, a! Nhìn đây: d, đ, e. Đây là chữ gì?
-đ.
-Đúng rồi! Còn đây?
-e.
-Phải rồi! Thế chữ này?
-a. Bà tôi nói xen vào:
-ông nằm mà nghỉ, ông ạ...
-Bà im đi! Làm như thế này là phải lắm, không thì chỉ nghĩ ngợi
miên man thôi. Học đi, Lêcxây! ông tôi lấy cánh tay nong nóng, nhơm nhớp ôm lấy
cổ tôi và chỉ vào mặt chữ qua vai tôi, cuốn sách để dưới mũi tôi. Người ông tôi
sặc sụa mùi dấm chua, mùi mồ hôi và mùi hành nướng. Tôi gần như ngạt thở, nhưng
ông tôi hăng lên, thở khò khè và quát vào tai tôi:
-g, h! Tên chữ thì quen, nhưng ký hiệu không thích hợp với
chúng: chữ ẽ giống như con sâu, chữ G giống bác Grigôri bị gù, chữ R giống bà
tôi và tôi, còn ông tôi thì giống tất cả các chữ cái. ông tôi quần tôi với những
chữ cái rất lâu, có lúc hỏi lần lượt, có lúc lại hỏi bất thần từng chữ một. ông
tôi đã truyền cho tôi sự hăng say; tôi cũng toát mồ hôi và gào thật to, làm ông
tôi cũng phải buồn cười. ông tôi ôm lấy ngực, ho sù sụ, vò quyển sách và thở
khò khè:
-Bà nhìn nó rít lên như thế đấy! A, đồ Axtrakhan nóng tính, tại
sao mày lại hét lên như vậy?
-Chính ông hét thì có...
Tôi vui vẻ nhìn ông bà tôi. Bà tôi chống khuỷu tay lên bàn, nắm
tay tỳ vào má, nhìn chúng tôi và khẽ cười, nói:
-Thôi, hai ông cháu đừng có gào hết cả hơi nữa. ông tôi giải
thích cho tôi một cách thân mật:
-ông nói to vì ông ốm, còn cháu, tại sao lại thét lên như vậy?
Rồi ông tôi lắc lắc cái đầu ướt đẫm mồ hôi và nói với bà tôi;
-Mồ ma cái con Nataláa, nó nhầm tưởng thằng bé không có trí
nhớ; Lạy Chúa, nó nhớ như ngựa ấy! Thằng mũi hếch, học tiếp đi chứ! Cuối cùng
ông tôi đẩy đùa tôi khỏi giường.
-Thôi! Cháu giữ lấy quyển sách. Ngày mai nếu cháu đọc tất cả
các chữ cái không có một lỗi nào thì ông sẽ thưởng cho cháu năm kôpêch. Tôi vừa
giơ tay đỡ lấy quyển sách thì ông tôi lại kéo tôi về phía mình và nói giọng buồn
buồn:
-Mẹ cháu bỏ rơi cháu ở trên đời này, cháu ơi... Bà tôi giật
mình:
-ôi, tại sao ông lại nói như thế?
-Tôi không muốn nói, nhưng buồn quá buộc lòng phải nói... ôi,
con bé tốt thế mà cũng lầm lạc... ông tôi đẩy mạnh tôi ra.
-Đi chơi đi! Không được ra ngoài phố, chỉ được ở trong vườn
và trong sân thôi... Tôi đang muốn được ra ngoài vườn. Tôi vừa ra tới đồi thì bọn
trẻ con ở khe vực bắt đầu lấy đá ném vào tôi, tôi ném lại chúng thật là thú vị.
-"Bưri" tới đấy!
-Bọn chúng nhìn thấy tôi liền reo lên và vội vàng trang bị lại.
-Cho nó một trận nhừ tử vào! Tôi không biết "bưri"
là cái gì, và tên lóng đó không làm tôi tức giận. Tôi chỉ thấy thú vị là một
mình chống chọi với cả lũ, thú vị khi nhìn thấy hòn đá của tôi ném trúng đích bắt
buộc kẻ địch phải chạy trốn và ẩn nấp vào những bụi cây. Những trận đánh nhau ấy
không có gì là ác ý và thường kết thúc hòa nhã. Tôi học khá dễ dàng. ông tôi
càng chú ý đến tôi và ít nện tôi hơn trước, mặc dù, theo ý tôi, tôi đáng bị nện
nhiều hơn trước vì càng lớn hơn và tinh ranh hơn, tôi càng hay phạm những điều
ông tôi đã qui định và răn dạy. Thế mà ông tôi chỉ mắng và dọa đánh thôi. Tôi
nghĩ bụng, có lẽ trước đây ông tôi bất công và có lần tôi đã ngỏ ý ấy với ông
tôi. ông tôi lấy tay khẽ hất cằm tôi lên rồi nháy mắt và kéo dài giọng nói:
-Sa-ao? Rồi ông tôi cười gằn, nói tiếp:
-A, đồ dị giáo! Mày có thể tính được cần phải cho mày ăn bao
nhiêu trận đòn nữa không? Ngoài tao ra thì có mà trời biết. Cút đi cho khuất mắt!
Nhưng ông tôi lại nắm ngay lấy vai tôi và nhìn thẳng vào mặt tôi, hỏi:
-Mày giảo quáệt hay là thật thà, hả?
-Cháu không biết...
-Mày không biết à? Nếu thế thì tao bảo: mày phải giảo quáệt,
như thế tốt hơn, còn thật thà thì chỉ là ngu ngốc, hiểu không? Giống cừu cũng
thật thà. Nhớ lấy! Thôi, bây giờ đi chơi đi...
° ° °
Chẳng bao lâu tôi đã đánh vần được tập Thánh thi. Thường thường
tôi học vào sau bữa trà chiều, và mỗi lần tôi phải đọc một đoạn Thánh thi:
-ạ, u, n, g, sung, ạ, ư, ớ, n, g, sướng, sung sướng,
-tôi vừa đánh vần vừa chỉ vào trang sách và hỏi cho đỡ buồn:
-Người sung sướng có phải là cậu Iakôp không hở ông?
-Tao bợp cho mày một cái vào gáy bây giờ thì mày sẽ hiểu người
sung sướng là ai!
-ông tôi vừa đáp vừa thở phì phì, vẻ tức giận. Nhưng tôi cảm
thấy rằng ông chỉ tức giận theo thói quen và để giữ cái quá củ thôi. Tôi không
nhầm: một lát sau ông đã quên tôi và càu nhàu:
-Phải, nó vui chơi ca hát thì như vua Đavit, nhưng làm thì lại
như Abxalôn độc ác! Biết làm thánh ca, biết ghép chữ, biết làm trò khôi hài...
ôi chao, lũ chúng bay... y... y thật là "múa đôi chân vui nhộn để nhảy
nhót", nhưng liệu có nhảy được xa không? Liệu có nhảy được xa không, hả?
Tôi ngừng đọc, lắng nghe và nhìn vào khuôn mặt nhăn nhó và lo âu của ông tôi.
ông nheo mắt nhìn ra xa, không để ý tới tôi, cặp mắt đầy hăm hở và u buồn đó
ánh lên một cảm giác ấm cúng, buồn rầu. Tôi hiểu rằng lúc này tính nghiêm khắc
thường ngày đã biến mất. ông tôi dùng những ngón tay khẳng khiu gõ dõng dạc từng
tiếng một trên bàn. Móng tay nhuộm của ông tôi sáng bóng, cặp lông mày màu vàng
khẽ rung rung:
-ông ơi!
-Hả?
-ông kể chuyện cho cháu nghe đi.
-Cháu đọc đi, cháu lười lắm!
-ông tôi càu nhàu như vừa mới tỉnh ngủ rồi lấy tay dụi mắt.
-Cháu chỉ thích chuyện vui thôi, còn Thánh thi thì lại không
thích... Nhưng tôi nghi chính ông tôi cũng thích chuyện vui hơn Thánh thi. ông
tôi thuộc hầu hết Thánh thi và giữ lời nguyền tối nào trước khi đi ngủ cũng đọc
to một chương như thầy phụ lễ giữ đồ thánh trong nhà thờ đọc sách lễ. Tôi nằn
nì vòi và ông tôi, tính nết đã dịu, cuối cùng đành nhượng bộ tôi. Con trai vua
Đavit ở nước Ixraen cổ đại, đã nổi dậy khởi nghĩa chống lại cha để chiếm ngôi.
-Thôi được! Tập Thánh thi còn ở lại với cháu mãi mãi, còn ông
thì sắp lên chầu trời rồi... ông tôi tựa vào chiếc ghế bành cũ kỹ, lưng ghế có
thêu chỉ tơ, và mỗi lúc một ngả sát vào đó. ông tôi ngẩng đầu, ngước mắt nhìn
trần nhà, rồi bắt đầu kể về cụ thân sinh ra ông tôi ngày trước, giọng khe khẽ
và trầm ngâm.
-Một hôm, có bọn cướp đến Balakhơna ăn cướp nhà người lái
buôn Zaiep. Cụ tổ của ông leo lên gác chuông và kéo chuông cáo động. Nhưng bọn
cướp bắt được liền chém chết và ném xác từ gác chuông xuống đất.
-Khi đó ông còn nhỏ lắm và không được chứng kiến cảnh tượng ấy
nên không nhớ. ông chỉ bắt đầu nhớ từ hồi quân Pháp đến, tức là từ năm 1812,
năm đó ông cũng vừa vặn mười hai tuổi. Khi ấy người ta giải tới Balakhơna khoảng
ba chục tên tù binh; tất cả bọn chúng đều gầy còm và nhỏ bé, ăn mặc rách rưới
hơn lũ ăn mày. Chúng rét run cầm cập, một vài đứa bị tê cóng không đứng vững nữa.
Những người mujich muốn đánh chết họ, nhưng lính đi áp giải không cho phép; đơn
vị đồn trú tới bắt những người mujich phải giải tán về nhà. Sau rồi cũng chả
sao cả, mọi người quên dần. Bọn Pháp này đều là những người khéo léo và nhanh
trí, khá vui tính, thỉnh thoảng còn hát hỏng. Bọn quý phái ở Nijni đi xe tam mã
đến xem tù binh. Có người thì chửi mắng, giơ nắm đấm hăm dọa và thậm chí đánh đập
nữa, có người lại vui vẻ trò chuyện với chúng bằng tiếng Pháp, cho tiền và đủ
thứ quần áo rách để chúng khỏi bị rét cóng. Có một lão quý tộc lại lấy bàn tay
che mặt và khóc rưng rức nữa, cuối cùng lão ta nói: "Bônapactơ là tên tướng
cướp đã đưa người Pháp đến chỗ khốn cùng!" Cháu xem, lão ta là một người
Nga, lại là một nhà quý phái, thế mà lão cũng có lòng tốt, biết thương yêu người
nước khác... ông tôi im lặng một lúc, mắt nhắm nghiền tay vuốt tóc, rồi tiếp tục
kể, thận trọng hồi tưởng lại quá khứ:
-Mùa đông, bão tuyết rú lên ngoài đường phố, băng giá kẹp chặt
lấy những căn nhà gỗ. Đôi lúc bọn người Pháp chạy đến gần cửa sổ nhà ông, tới
chỗ bà cụ thân sinh ra ông, vì bà cụ nướng bánh bột mạch để bán. Họ gõ vào cửa
kính, vừa nhảy vừa kêu và hỏi mua bánh nóng.
Bà cụ không cho chúng vào nhà, chỉ luồn bánh qua cửa sổ. Thế
là chúng vội chộp lấy chiếc bánh nóng nhét vào ngực, áp thẳng vào da, ngay chỗ
trái tim. Tại sao họ lại chịu được nóng như vậy, ông cũng không rõ nữa! Nhiều
người bị chết rét vì chúng là dân xứ nóng, không quen chịu lạnh. Hai tên ở nhà
ông, một tên sĩ quan và một tên lính cần vụ Mirôn, ở trong nhà tắm ngoài vườn.
Tên sĩ quan gầy và cao, người chỉ có da bọc xương. Hắn mặc chiếc áo khoác của
đàn bà chỉ ngắn tới đầu gối. Hắn rất hiền lành, nhưng nghiện rượu nặng. Mẹ ông
nấu và bán rượu lậu nên hắn mua luôn. Khi nào rượu vào hắn hát nghêu ngao. Hắn
học được ít tiếng Nga, thỉnh thoảng lại bập bẹ: "Xứ các anh không trắng,
nó đen và hung ác!" Hắn nói sai nhiều, nhưng nghe cũng hiểu. Đúng như vậy:
miền ngược nước ta khí hậu gay gắt, miền xuôi dọc theo sông Vonga khí hậu có ấm
áp hơn, và ở bên kia biển Caxpiên hình như hoàn toàn không có tuyết. Cái đó thì
có thể tin được: trong sách Phúc âm, trong sách chép chuyện ký lục và Thánh thi
không hề nhắc tới mùa đông, nhắc tới tuyết. Chúa sống ở xứ đó... khi nào đọc
xong Thánh thi ông cháu ta sẽ bắt đầu đọc sách Phúc âm. ông tôi lại im lặng như
thiu thiu ngủ, suy nghĩ điều gì, liếc mắt nhìn qua cửa sổ, người như nhỏ bé lại
và nhọn hoắt.
-ông kể nữa đi,
-tôi khẽ nhắc.
-ừ,
-ông tôi giật mình và bắt đầu nói,
-ông lại kể về bọn người Pháp nhé! Chúng cũng là những con
người, không xấu xa gì hơn chúng ta, là những kẻ có tội. Đôi khi chúng gọi mẹ
ông là "mađam, mađam",
-có nghĩa là bà quý tộc hay bà quý phái,
-nhưng "bà quý phái" ấy vừa mới vác ở cửa hàng bột
về một bao bột nặng năm pút. Sức của bà cụ không phải là sức đàn bà. Năm ông
hai mươi tuổi mà bà cụ túm tóc ông dễ như chơi, cháu nên nhớ dạo hai mươi tuổi
ông không phải là tay yếu đâu nhé. Tên lính cần vụ Mirôn thích ngựa lắm. Hắn
thường đi đến các nhà và ra hiệu xin được tắm rửa cho ngựa! Lúc đầu người ta sợ
hắn làm hỏng ngựa, vì hắn là kẻ thù. Nhưng sau này chính những người mujich lại
gọi hắn tới: "Lại đây, Mirôn!" Hắn mỉm cười, cúi đầu đi như một con bò
đực. Tóc hắn màu hung gần như đỏ, mũi to, môi dày. Hắn khéo chăm sóc ngựa và chữa
bệnh cho ngựa rất tài. Sau đó hắn làm nghề chữa bệnh cho ngựa ở đây, ở Nijni,
nhưng rồi hắn bị điên và bị đội cứu hỏa đánh chết. Còn tên sĩ quan tới mùa xuân
bắt đầu đau yếu và tới ngày lễ thánh Nikôla thì chết một cách âm thầm. Hắn ngồi
suy nghĩ ở trong nhà tắm gần cửa sổ và cứ thế mà chết, đầu thò ra ngoài. ông tiếc
hắn lắm và khóc trộm vì hắn là một người hiền lành, thường nắm tai ông và nói bằng
tiếng Pháp với vẻ rất dịu dàng. ông không hiểu, nhưng rất thích! Sự dịu dàng của
con người không thể mua ở chợ được. Hắn bắt đầu dạy ông tiếng Pháp, nhưng mẹ
ông cấm và dẫn ông tới chỗ cha cố. Cha cố sai đánh ông và kiện tên sĩ quan. Hồi
ấy người ta rất nghiêm khắc cháu ạ. Cháu không phải trải qua cái cảnh ấy. Nhiều
người khác đã phải chịu những điều nhục nhã thay cháu, và cháu hãy nhớ lấy điều
ấy! Chẳng hạn như ông, ông cũng đã từng chịu đựng như vậy... Trời tối. Trong
bóng nhá nhem ông tôi trông to lớn một cách kỳ lạ, mắt sáng quắc như mắt mèo.
Khi nói về chuyện người khác ông tôi thường nói khe khẽ, thận trọng, và có vẻ
trầm ngâm, nhưng khi nói về mình thì rất hăng, lưu loát và có vẻ ba hoa. Tôi
không thích ông tôi nói về bản thân, không thích những câu khuyên bảo vô hồi của
ông: "Cháu nhớ lấy! Cháu nhớ lấy điều ấy!" Một trong những cuốn sách
được đưa vào Kinh thánh.
Nhiều điều ông tôi kể, tôi đã không muốn nhớ; nhưng dù ông
tôi không khuyên bảo đi nữa thì nó vẫn cứ chôn sâu trong ký ức tôi như một cái
dằm đau nhói. Không khi nào ông tôi kể chuyện cổ tích cả, chỉ kể toàn những
chuyện đã từng trải và tôi nhận thấy ông tôi không thích những câu hỏi; vì vậy
tôi kiên tâm hỏi ông:
-Thế thì ai tốt hơn: người Pháp hay người Nga, hở ông?
-ừ, làm sao mà biết được? Vì ông không trông thấy người Pháp
họ sống ở nhà họ như thế nào,
-ông càu nhàu có vẻ tức giận và nói thêm:
-Con chồn hôi, khi ở trong hang của nó, cũng tốt...
-Thế người Nga có tốt không?
-Có người tốt, có người xấu. Thời nông nô người ta tốt hơn
ngày nay, thời ấy người ta bị xích chân. Bây giờ mọi người đều tự do, chẳng ai
trông cậy vào ai được cả. Tất nhiên, bọn quý tộc cũng không tử tế gì đâu, nhưng
họ khôn ngoan hơn. Đây không phải là nói về tất cả bọn họ, nhưng nếu có một lão
quý tộc nào tốt thì ai cũng thừa nhận! Cũng có tên ngốc nghếch như một cái bao
tải, người ta muốn nhồi nhét gì vào trong, nó cũng cứ thế mang đi. Chúng ta có
rất nhiều thứ vỏ; thoạt nhìn ta cứ tưởng là người, nhưng nhìn kỹ thì lại hóa ra
là cái vỏ, rỗng ruột, vì ruột đã bị người ta khoét ăn hết rồi. Chúng ta cần phải
được giáo dục, mài dũa trí lực, nhưng tìm đâu cho ra hòn đá mài thật sự?...
-Người Nga có mạnh không ông?
-Có những đại lực sĩ, nhưng vấn đề không phải là sức mạnh, mà
là mưu trí. Dù có khỏe đến đâu chăng nữa thì cũng không thể khỏe bằng một con
ngựa được.
-Thế tại sao người Pháp lại đánh nhau với chúng ta?
-ồ, chiến tranh là việc của nhà vua, chúng ta không thể hiểu
được điều đó! Nhưng khi tôi hỏi Bônapactơ là ai, thì ông tôi trả lời làm tôi
không tài nào quên được:
-Hắn là một tay ngang tàng, muốn chinh phục toàn thế giới để
sau đó mọi người đều được sống bình đẳng, không cần đến chủ, không cần đến quan
lại, nói tóm lại không có đẳng cấp! Chỉ khác nhau về tên tuổi, còn quyền lợi
thì đều như nhau. Tôn giáo cũng chỉ có một thứ. Tất nhiên, đó là một sự ngu xuẩn:
chỉ có giống tôm tép thì mới không thể phân biệt thôi chứ, còn giống cá thì
cũng khác hẳn nhau: cá chiên không thể kết bạn với cá trê, cá xteclet không thể
là bạn của cá mòi được. Nước ta cũng có những Bônapactơ kiểu ấy
-Xtêpan Timôfêep Razin, Emêlian Ivanôp Pugat, ông sẽ kể cho
cháu nghe về họ sau... Đôi khi ông tôi im lặng ngắm tôi hồi lâu, mắt tròn xoe
như mới thấy tôi lần đầu vậy. Cái đó làm tôi không thích. ông tôi không bao giờ
nói với tôi về chuyện bố mẹ tôi cả.
° ° °
Bà tôi thường đến dự những buổi trò chuyện này. Bà tôi khe khẽ
ngồi vào góc nhà và yên lặng ngồi ở đó rất lâu, không để ai để ý đến mình. Rồi
đột nhiên bà tôi hỏi, giọng dịu dàng uyển chuyển:
-ông còn nhớ dạo chúng ta cùng đi hành hương ở Murôm không? Dạo
ấy kể cũng hay đấy chứ? Năm ấy vào năm nào nhỉ?... ông tôi suy nghĩ một lúc rồi
trả lời rất đạo mạo:
-Tôi không nhớ rõ năm nào, nhưng hình như trước nạn dịch tả,
năm người ta lùng bắt những người slôniet ở rừng ấy mà.
-Đúng rồi! Chúng ta chẳng sợ bọn họ là gì...
-Đúng thế! Tôi hỏi:
-Người slôniet là ai, và tại sao họ lại chạy vào rừng. ông
tôi giải thích không được vui vẻ lắm:
-Người slôniet chỉ là những người mujich bỏ việc chạy trốn khỏi
đất nhà vua và khỏi các nhà máy.
-Người ta lùng bắt họ như thế nào, hở ông?
-Thế nào à? Như là trẻ con chơi trò ú tim ấy: một số thì chạy
trốn, một số thì đi tìm và bắt. Khi bắt được, người ta lấy roi mây đánh, rạch lỗ
mũi và đóng dấu vào trán để trừng phạt.
-Tại sao vậy?
-Vì để trị tội. Đó là những việc phức tạp, không hiểu ai là kẻ
có tội: người chạy trốn hay là kẻ lùng bắt...
-ông còn nhớ sau vụ cháy lớn không?
-Bà tôi lại hỏi. Vốn ưa những chuyện chính xác, ông tôi
nghiêm khắc vặn lại:
-Vụ cháy lớn nào? Thế là mải nói chuyện cũ, ông bà tôi quên
phắt cả tôi, giọng nói của ông bà tôi êm dịu và thánh thót đến nỗi đôi khi tôi
có cảm tưởng như ông bà đang hát. Đó là một bài hát rầu rĩ nói về bệnh tật, về
hỏa hoạn và đánh đập mọi người, về chết chóc bất ngờ và lừa đảo xảo quáệt, về
những kẻ vô tội và bọn lãnh chúa độc ác.
-Chúng ta đã sống không phải là ít và đã được mắt thấy tai
nghe không phải là ít,
-ông tôi khẽ lẩm bẩm.
-Phải chăng chúng ta đã sống không ra gì?
-Bà tôi nói.
-Chắc ông còn nhớ, sau khi đẻ con Varáa mùa xuân đẹp đẽ biết
bao!
-Năm ấy là năm 1848, chính là năm có chiến dịch Hungari. Sau
hôm lễ đặt tên cho nó thì bác Tikhôn bố đỡ đầu của nó phải ra trận.
-Bác ấy đi biệt tăm nhỉ.
-Bà tôi thở dài.
-ừ, bác ấy đi biệt tăm! Cũng từ năm ấy Chúa ban phúc lành cho
nhà ta như nước chảy vào nhà vậy. Chà, cái con Vacvara...
-Thôi đủ rồi, ông ơi... ông tôi nổi nóng, cau mày lại:
-Sao lại đủ? Con cái mình nhìn về mặt nào thì chúng nó cũng
chẳng ra làm sao cả. Thế thì công sức của chúng ta đổ đi đâu? Chúng ta muốn bỏ
đầy cái giỏ của chúng ta, nhưng Chúa lại cho chúng ta cái giỏ thủng... ông tôi
thét lên và chạy khắp phòng như người bị bỏng. ông tôi càu nhàu, vẻ đau đớn, rồi
chửi bới con cái và giơ nắm đấm nhỏ bé gày guộc dọa bà tôi:
-Còn bà thì vẫn khoan thứ cho lũ kẻ cướp ấy đủ thứ, bà là kẻ
đồng lõa của chúng, đồ phù thủy! ông tôi đau khổ đến tru tréo khóc lóc nức nở.
ông tới chỗ góc nhà có tượng thánh và đấm thùm thụp vào bộ ngực gày gò của
mình:
-Lạy Chúa, chẳng lẽ con có tội lỗi hơn những người khác ư? Vậy
sao bắt con chịu đựng nhiều thế? Toàn thân ông tôi run run, cặp môi ướt đẫm
long lên vì tức giận và hổ thẹn. Bà tôi ngồi trong bóng tối, im lặng làm dấu,
sau đó bà tôi rón rén lại gần và khuyên nhủ:
-Tại sao ông lại buồn như thế? Chúa làm gì, Chúa đều biết cả.
ông xem, có con cái nhà ai hơn con cái nhà ta đâu? ở đâu cũng thế thôi ông ạ,
cũng cãi nhau, tranh nhau, đánh nhau. Cha mẹ nào cũng rửa tội mình bằng nước mắt,
không phải chỉ có một mình ông đâu... Đôi khi những lời nói ấy làm cho ông tôi
yên lòng. ông tôi mệt mỏi nằm vật xuống giường, không nói thêm gì nữa. Còn tôi
và bà tôi thì lẳng lặng trở về buồng riêng ở gác thượng. Nhưng có một lần, bà
tôi định tới gần để an ủi thì ông tôi quay ngoắt lại đấm mạnh vào mặt bà tôi.
Lùi lại một bước, loạng choạng, đưa tay lên bưng miệng, rồi bà tôi trấn tĩnh lại
và khẽ nói, vẻ bình tĩnh:
-A, đồ ngốc... Bà tôi khạc ra máu nhổ gần chân ông tôi, ông
tôi giơ hai tay và hét lên hai lần:
-Cút ngay, không tao giết bây giờ!
-Đồ ngốc,
-bà tôi nhắc lại và lùi ra khỏi cửa. ông tôi liền nhảy bổ
theo, nhưng bà tôi đã từ từ bước qua ngưỡng cửa và đóng sầm cửa lại.
-Cái mụ già kia,
-ông tôi thét lên, mặt đỏ bừng như cục than hồng, đứng ở
khung cửa, lấy ngón tay cào cào vào gỗ. Tôi ngồi trên lò sưởi như thằng mất hồn.
Tôi không tin những điều tôi vừa nhìn thấy: lần đầu tiên ông tôi đánh bà tôi
trước mặt tôi... Hành động bỉ ổi đó đã để lộ một cái gì mới mẻ trong người ông
tôi, đối với tôi không sao có thể dung thứ được, và hình như nó đã đè nặng lên
tâm hồn tôi. Vẫn đứng bám chặt lấy khung cửa, ông tôi co dúm người lại và dần dần
xám ngoét như bị tro phủ. Bỗng nhiên ông tôi đi ra giữa nhà, quỳ xuống, rồi
không quỳ vững nữa, ngã giúi về đằng trước, tay đụng xuống sàn. Nhưng ông tôi
thẳng người lên ngay và lấy tay đấm vào ngực.
-ôi, Lạy Chúa tôi... Tôi từ trên mặt lò sưởi ấm áp có lát gạch
men tụt xuống như trượt trên băng và vội chạy đi ngay. ở trên gác, bà tôi đi đi
lại lại trong buồng và đang súc miệng.
-Bà có đau không? Bà tôi đi tới góc nhà, nhổ vào thùng nước
rác rồi bình tĩnh trả lời:
-Không việc gì, răng vẫn còn nguyên, chỉ bị rách môi thôi.
-Tại sao ông lại làm thế hở bà? Bà tôi nhìn qua cửa sổ ra đường
phố và nói:
-ông nổi nóng, ông già rồi đâm ra khó tính khó nết, lại gặp
toàn những chuyện không may... Cháu đi ngủ đi, đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa, cầu
Chúa phù hộ cho cháu... Tôi muốn hỏi thêm bà tôi một câu nữa, nhưng bà tôi quát
lên, giọng nghiêm nghị khác thường:
-Có nghe tao bảo gì không, có đi ngủ không? Thằng này bướng
thật... Bà tôi ngồi gần cửa sổ, mút môi và luôn miệng khạc nhổ vào khăn tay.
Tôi vừa cởi quần áo ngoài vừa nhìn bà tôi: phía trên cái đầu đen của bà tôi,
trong khung cửa sổ vuông xanh thẫm, lấp lánh các vì sao. Ngoài phố yên lặng,
trong buồng tối om om. Khi tôi nằm xuống, bà tôi tới gần vừa khẽ xoa đầu tôi vừa
nói:
-Cháu ngủ yên nhé, bà đi xuống chỗ ông... Cháu đừng thương hại
bà, cháu yêu quý của bà, vì chính bà cũng có lỗi... Ngủ đi cháu! Bà tôi hôn tôi
rồi đi ra. Tôi cảm thấy buồn rười rượi, tôi liền nhảy ra khỏi cái giường rộng
êm ấm, tới bên cửa sổ, nhìn xuống đường phố vắng tanh, người lặng đi vì buồn bã
không sao chịu nổi.
Chương 6
Lại bắt đầu một cơn ác mộng nữa. Một hôm vào buổi chiều, sau
khi uống trà, tôi cùng với ông tôi ngồi đọc Thánh thi, còn bà tôi thì rửa bát
đĩa. Bỗng nhiên cậu Iakôp xộc vào phòng, đầu óc rối bù như một chiếc chổi nát.
Không chào hỏi ai, cậu ném cái mũ lưỡi trai vào một góc nhà, vung tay, lắc đầu
hăm hở nói thật nhanh:
-Bố ơi, Miska làm sao ấy, anh ấy làm náo động cả lên! Anh ấy
ăn trưa ở nhà con, uống rượu say rồi bắt đầu giở trò điên rồ. Anh ấy đập vỡ bát
đĩa, xé nát chiếc áo dài đen của người ta đặt, đập vỡ cửa kính, chửi con và chửi
cả lão Grigôri. Anh ấy đang đi tới đây và dọa: "Tao sẽ vặt trụi râu, tao sẽ
giết lão già!" Bố hãy coi chừng... ông tôi tì tay vào bàn, từ từ đứng dậy,
mặt nhăn lại, nhăn đến tận mũi, trông khiếp sợ như một cái rìu.
-Bà có nghe thấy không?
-ông tôi hét.
-Bà nghĩ thế nào, hả? Con mình đẻ rứt ruột ra đang đến giết
cha đấy! Cứ việc, đã đến lúc rồi, các con ạ... ông tôi đi đi lại lại quanh
phòng, ưỡn thẳng người lên, lại gần cửa và vội ngoắc chiếc móc sắt nặng vào lỗ
móc khóa, rồi quay về phía cậu Iakôp:
-Vẫn câu chuyện của hồi môn của con Vacvara mà chúng mày muốn
nắm lấy chứ gì? Đây phần mày đây này! ông tôi gí củ tỏi vào gần mũi cậu. Cậu vội
nhảy sang một bên, vẻ tức giận.
-Kìa bố, con có dính líu gì vào việc này đâu!
-Mày ấy à? Tao biết tỏng mày rồi! Bà tôi im lặng, vội vàng
thu tách chén vào trong tủ.
-Con đến đây để bảo vệ bố...
-Thật à?
-ông tôi thốt lên, vẻ giễu cợt.
-Thế thì tốt lắm! Cám ơn cậu quý tử! Bà nó ơi, kiếm cái gì
cho thằng cáo này: một cái que thông lò hay một cái bàn là cũng được! Còn mày,
Iakôp Vaxiliep, khi nào thằng anh mày xông vào thì mày cứ việc lấy mà nện vào đầu
tao!... Cậu tôi đút tay vào túi và đi vào một góc nhà.
-Nếu như bố không tin con...
-Tin mày à?
-ông tôi vừa giậm chân vừa kêu lên.
-Không, tao tin bất cứ một con vật nào, con chó, con nhím,
nhưng còn mày thì phải chờ xem sao đã! Tao biết: mày đã cho thằng anh mày uống
rượu say rồi xúi bẩy nó! Nào, bây giờ mày đánh đi! Đánh ai thì tùy mày chọn:
đánh nó hay đánh tao... Bà tôi thì thầm bảo tôi:
-Cháu chạy lên gác ngồi ở cửa sổ coi. Khi nào thấy cậu
Mikhailô ló đầu ra phố thì cháu chạy xuống đây ngay cáo cho bà biết! Đi mau
lên... Vừa lo sợ người cậu cuồng bạo xông vào, vừa tự hào về nhiệm vụ mà bà tôi
giao cho, tôi thò đầu ra ngoài cửa sổ, nhìn xuống đường phố. Đường phố rất rộng
và phủ một lớp bụi dày; đá lát lộ ra qua lớp bụi như những cục u to xa xa phía
bên trái, con đường chạy qua khe vực và dẫn tới quảng trường sxtrôjnaia. ở đấy
có một tòa nhà màu xám có bốn tháp ở bốn góc
-nhà tù cũ
-đứng sừng sững trên nền đất sét; phong cảnh đó có một vẻ đẹp
buồn buồn và rờn rợn. Nắm đấm để thòi ngón cái giữa ngón trỏ và ngón giữa (ý tục
tĩu, khinh bỉ).
Phía bên phải, cách nhà tôi ba nhà, là quảng trường Xennaia,
cuối quảng trường là một tòa nhà màu vàng của các tù khổ sai và chòi canh màu
chì của sở cứu hỏa. Người lính gác của sở cứu hỏa xoay quanh cái chòi có lỗ
nhìn, như con chó xoay quanh cái xích. Suốt cả quảng trường bị những khe vực cắt
ra thành từng đoạn; ở đáy một cái khe có một vũng nước màu xanh nhạt. Xa nữa, về
phía tay phải là cái đầm Điukôp mà trước kia, theo lời bà tôi kể, một hôm vào
mùa đông các cậu tôi đã định dìm bố tôi xuống hố băng. Gần ngay trước cửa sổ là
một cái ngõ san sát những ngôi nhà nhỏ màu sắc sặc sỡ; cuối ngõ là một ngôi nhà
thờ to thấp lè tè gọi là nhà thờ Ba Giám Mục. Nếu nhìn thẳng sẽ thấy những mái
nhà giống như những chiếc thuyền úp ngược nổi trên những lớp sóng của khu vườn
xanh biếc. Hết bị những cơn bão tuyết mùa đông dài dằng dặc làm cho hao mòn lại
bị những trận mưa liên miên của mùa thu rầu rãi, những ngôi nhà bạc màu của phố
tôi phủ đầy bụi và nằm sát vào nhau như những kẻ hành khất đứng chầu trên bậc cửa
nhà thờ. Chúng mở toang những chiếc cửa sổ ra với vẻ ngờ vực và hình như cũng
cùng với tôi chờ đợi một người nào đó. Người qua lại thưa thớt, thong thả, như
những con gián ngập ngừng trên tấm sắt trước lò. Một luồng hơi nóng ngột ngạt bốc
lên chỗ tôi, sực mùi bánh nướng nhân hành lá và cà-rốt, một mùi tôi rất ghét và
bao giờ cũng làm cho tôi ngao ngán. Buồn quá; một nỗi buồn đặc biệt, gần như
không thể chịu nổi xâm chiếm tâm hồn tôi; ngực tôi như có một dòng chì nóng bỏng
chảy vào, nó đè nặng từ bên trong như muốn phá vỡ lồng ngực, xương sườn. Tôi có
cảm tưởng mình phồng to lên như cái bong bóng, và tôi cảm thấy chật chội trong
gian buồng nhỏ bé này, dưới cái trần nhà giống như một cái nắp quan tài. Cậu
Mikhain đây rồi. Cậu dừng lại ở góc ngõ, ở góc căn nhà màu xám và quan sát xung
quanh. Cậu đã kéo mũ lưỡi trai sụp xuống tai, hai cái tai nhô lên. Cậu mặc chiếc
áo vét màu hung và đi đôi ủng đầy bụi cao đến tận đầu gối.
Một tay nhét vào túi quần kẻ ô vuông, còn tay kia vuốt bộ râu
cằm. Tôi không thấy rõ mặt cậu, nhưng cậu đứng nom như đang sửa soạn nhảy qua
đường phố và dùng đôi bàn tay đen sịt đầy lông lá bám chặt lấy ngôi nhà của ông
tôi. Đáng lẽ phải chạy xuống dưới cáo tin cậu đã đến, nhưng tôi không sao rời
khỏi cửa sổ. Tôi thấy cậu đi rón rén qua đường như sợ bụi làm bẩn đôi ủng màu
xám của cậu. Tôi nghe thấy cậu mở cửa quán rượu,
-cánh cửa kêu rít lên, kính rung lên lanh canh. Tôi vội chạy
bổ xuống dưới nhà, gõ cửa phòng ông tôi.
-Ai đấy?
-ông tôi không mở, xẵng giọng hỏi.
-Mày đấy ư? Sao? Nó vào quán rượu à? Được, mày lại lên trên ấy
đi.
-Lên đấy cháu sợ lắm...
-Kệ xác mày! Và thế là tôi lại ra đứng ở cửa sổ. Trời đã tối;
bụi ngoài đường có vẻ dày thêm và đen hơn. Những vệt ánh sáng màu vàng lan rộng
ra như những vết dầu tại các khung cửa sổ. ở ngôi nhà trước mặt có tiếng nhạc,
từ nhiều dây đàn ngân lên một điệu buồn buồn và réo rắt. Trong quán rượu người
ta cũng hát; khi cửa mở ra, một giọng mệt mỏi ồ ồ tràn ra đường phố. Tôi biết
đó là giọng của lão ăn mày rậm râu chột mắt Nikituska; ở chỗ mắt phải lão là một
cục than hồng, còn mắt trái thì nhắm tịt. Khi cánh cửa đóng lại, hình như có một
nhát rìu chặt dứt bài hát của lão. Bà tôi ao ước được như lão ăn mày: khi nghe
những bài hát của lão, bà tôi thở dài và nói:
-Lão thật là có phúc! Những bài thơ lão biết sao mà hay thế,
kỳ diệu thế! Thỉnh thoảng bà tôi gọi lão vào sân. Lão ngồi ở bậc cửa tam cấp,
tì vào gậy, rồi hát, kể chuyện. Còn bà tôi ngồi cạnh lão, nghe và hỏi:
-Khoan đã, có thực Đức Mẹ cũng đã ở Riazan không? Lão ăn mày
trả lời, giọng trầm trầm và có vẻ tin chắc:
-Người ở khắp mọi nơi, ở khắp mọi tỉnh... Sự mệt mỏi nửa tỉnh
nửa mê từ đường phố dâng lên, ép chặt và đè nặng lên trái tim, cặp mắt tôi. Giá
bà tôi lên đây với tôi thì hay biết bao! Hay là ông tôi cũng được... Tôi nghĩ đến
bố mẹ tôi: bố tôi là người thế nào? Tại sao ông tôi và các cậu tôi không thích
bố tôi, còn bà tôi, bác Grigôri và mụ Epgênáa thì lại nói về bố tôi toàn những
lời tốt đẹp như vậy? Và mẹ tôi bây giờ ở đâu? Càng ngày tôi càng nghĩ nhiều đến
mẹ tôi, tôi đặt mẹ tôi vào trung tâm của mọi chuyện thần thoại và chuyện có thật
do bà tôi kể. Việc mẹ tôi không muốn sống trong gia đình này lại càng đề cao
người trong những mơ ước của tôi. Tôi tưởng tượng mẹ tôi hiện nay đang sống ở một
quán trọ cạnh đường cái lớn với bọn chuyên cướp bóc những hành khách giàu có để
chia của lấy được cho những người nghèo khổ. Có thể mẹ tôi đang sống trong rừng,
trong hang động, tất nhiên, cũng với bọn cướp lương thiện, nấu ăn cho họ và
canh giữ số vàng lấy được. Cũng có thể người đang đi chu du khắp thiên hạ để đếm
xem có bao nhiêu kho tàng châu cáu trên trái đất này, như "công
nương" Engalưtạêva cùng đi với Đức Mẹ. Đức Mẹ đã khuyên nhủ mẹ tôi như
khuyên nhủ "công nương" vậy: Tên nô lệ tham lam kia hỡi! Mi thu sao hết
nổi bạc vàng, Hết ngọc ngà trên khắp thế gian? Mi che sao được tấm thân trần trụi,
Hỡi lòng tham vô đáy kia ơi
-Châu cáu nào che giấu nổi cho mi?...
Bà tôi cũng dùng những lời của "công nương" nữ tướng
cướp đáp lại Người: Lạy Đức Mẹ, xin Người tha thứ Và rủ lòng thương kẻ lỗi lầm!
Không phải vì mình mà con cướp bóc thế gian, Chính chỉ vì đứa con trai duy nhất!...
Đức Mẹ, hiền từ cũng như bà tôi, bèn tha thứ cho mẹ tôi và nói: ôi, Mariuska,
tai ương của Thiên chúa giáo! Trong người mi có dòng máu Tacta Thôi, mi cứ đi
theo con đường đã tự vạch ra, Đường mi đi cũng sẽ là nước mắt mi đó! Mi hãy lên
rừng tìm dân Morđvin mà cướp phá, Hãy tới thảo nguyên đuổi dân Kanmức đi xa,
Nhưng đừng hòng đụng tới dân Nga... Nhớ lại những chuyện thần thoại ấy, tôi tưởng
như mình đang sống trong giấc mơ. Nhưng tiếng chân dồn dập, tiếng om sòm, tiếng
gào thét ở phía dưới sân làm tôi bừng tỉnh... Ló đầu ra cửa sổ, tôi thấy ông
tôi, cậu Iakôp và người làm công trong quán rượu tên là Mỗlian -một gã Tsêrêmit
dở hơi -đang đẩy cậu Mikhain qua cửa vườn ra đường.
Nhưng cậu khăng khăng một mực không chịu. Họ đấm vào lưng,
vào cổ cậu, lấy chân đẩy cậu ra, và cuối cùng cậu ngã bổ nhào vào đám bụi ngoài
đường phố. Cánh cửa con dập đánh sầm, chốt cửa và ổ khóa kêu lách tách. Chiếc
mũ lưỡi trai nhàu nát vút qua cổng và tất cả lại trở nên yên tĩnh. Cậu nằm một
lát rồi từ từ đứng dậy, quần áo tả tơi, đầu tóc rối bù. Cậu nhặt một hòn đá cuội
và ném vào cổng; một tiếng ầm ầm phát ra như gõ vào đáy thùng. Một lũ người đen
ngòm từ quán rượu xô ra, kêu thét lên, thở phì phì và hoa chân múa tay. Từ các
cửa sổ những đầu người thò ra; phố xá náo nhiệt lên, tiếng cười, tiếng quát
tháo nổi lên ầm ĩ. Tất cả cái đó cũng giống như một câu chuyện thần thoại lôi
cuốn nhưng khó chịu và khủng khiếp. Bỗng nhiên tất cả như mờ đi, mọi người
không nói nữa và biến mất.... Bà tôi ngồi trên cái hòm cạnh ngưỡng cửa, người gập
đôi lại, không động đậy và hầu như nín thở. Tôi đứng trước mặt, vuốt đôi má ấm
dịu và ướt đẫm của bà tôi, nhưng có lẽ bà tôi không cảm thấy cái đó và rầu rĩ lẩm
bẩm:
-Lạy Chúa, chẳng lẽ Chúa không có đủ lẽ phải để ban cho con
và con cái của con hay sao? Lạy Chúa, xin Chúa thương xót chúng con...
° ° °
Tôi cảm thấy tuy ông tôi mới ở phố Pôlêvaia chưa được hơn một
năm -từ mùa xuân năm ngoái đến mùa xuân năm nay -nhưng trong thời gian ngắn ngủi
Một dân tộc Phần-lan sống ở vùng Nijni -Nôpgôrôt. ấy nhà tôi đã nổi tiếng về
chuyện nhộn nhạo. Hầu như chủ nhật nào bọn trẻ con cũng kéo nhau đến cổng nhà
tôi, chúng lấy làm thú vị cáo tin cho bà con trong phố:
-Nhà Kasirin lại đánh nhau rồi! Thường thường cậu Mikhain đến
vào buổi chiều và suốt đêm cậu vây giữ ngôi nhà làm cho những người sống ở
trong đó đều khiếp sợ. Đôi khi cùng đi với cậu có hai ba kẻ a tòng, những tên
du côn ở Kunavinô. Chúng từ khe vực lẻn vào vườn và ở đó chúng dở đủ mọi trò
ngông cuồng của lũ nát rượu ra, có lần chúng nhổ bật những bụi cây phúc bồn tử
lên. Có lần chúng phá phách nhà tắm, làm gẫy vỡ mọi thứ có thể phá hủy được:
sàn nhà, ghế dài, chảo đun nước. Còn bếp lò thì chúng dỡ tung. Chúng tháo đi mấy
tấm ván lát sàn, phá cánh cửa và khung cửa sổ. ông tôi câm lặng, đứng ủ rũ bên
cạnh cửa sổ, lắng nghe bọn chúng phá phách của cải của mình. Còn bà tôi thì chạy
lăng quăng ngoài sân, khuất trong bóng tối, song người ta nghe thấy giọng bà
tôi vang lên, vẻ van lơn:
-Misa, mày làm gì thế, Misa! Một câu chửi đê tiện và ngu xuẩn
của người Nga từ ngoài vườn dội vào đáp lại bà tôi. Có lẽ lý trí và tình cảm của
bọn súc sinh vang ra câu chửi đó cũng không hiểu nổi ý nghĩa. Trong lúc này tôi
không thể theo sau bà tôi, nhưng không có bà ở bên cạnh tôi cảm thấy rất sợ
hãi. Tôi mon men xuống phòng ông tôi, nhưng vừa trông thấy tôi, ông tôi đã
quát:
-Cút đi, thằng chết tiệt kia! Tôi bèn chạy lên gác thượng và
qua lỗ mắt cáo, xuyên qua bóng tối của khu vườn và sân tôi cố gắng không rời mắt
khỏi bà tôi. Tôi sợ người ta giết mất bà, tôi kêu, tôi gọi bà inh ỏi cả lên. Bà
tôi không lên, còn cậu tôi đang say rượu nhận ra tiếng tôi liền chửi mẹ tôi một
cách tục tằn và bỉ ổi. Có lần vào một buổi chiều như vậy, ông tôi ốm nằm liệt ở
giường. ông vừa lăn đi lăn lại cái đầu quấn chiếc khăn mặt trên chiếc gối vừa
kêu gào than thở:
-Chính vì chúng nó mà chúng ta đã sống khổ sống sở, đã mắc tội
mắc nợ và đã cóp nhặt từng xu một! Nếu tao không sợ mất thể diện thì tao sẽ đi
gọi cảnh sát tới và ngày mai sẽ đi gặp quan tổng đốc. Nhưng như thế thì nhục
nhã biết bao! Có cha mẹ nào lại đi nhờ cảnh sát truy nã con cái không? Thôi thì
thằng già này cứ việc nằm yên đây. Bỗng nhiên ông tôi buông chân từ trên giường
xuống và loạng choạng đi ra cửa sổ. Bà tôi đỡ lấy tay ông tôi:
-ông đi đâu đấy?
-Bà đốt nến lên!
-ông tôi thở hổn hển, hít mạnh không khí và ra lệnh. Bà tôi đốt
nến xong, ông tôi cầm lấy cái đế cắm nến giơ ra trước mặt như người lính cầm
súng, rồi ông kêu tướng lên qua cửa sổ, giọng vẻ giễu cợt:
-Này, Miska, thằng trộm đêm, con chó dại, con chó ghẻ kia! Một
miếng kính bên trên cửa sổ lập tức vỡ tan tành, bắn tung tóe và một miếng gạch
nửa rơi ngay trên bàn, cạnh bà tôi.
-Không trúng rồi!
-ông tôi gầm lên và cười giống hệt như tiếng khóc nức. Bà tôi
bế ông tôi đặt vào giường như bế tôi vậy. Bà tôi sợ hãi nói:
-ông làm trò gì thế, ông làm trò gì thế, cầu Chúa phù hộ ông!
Thế này rồi nó cũng đến bị đầy đi Xibêri mất thôi! Lúc tức giận lên nó có hiểu
Xibêri là cái quái gì đâu... ông vùng vằng và nức nở, giọng khàn khàn:
-Cứ để nó giết tao đi... Ngoài cửa sổ vẫn có tiếng hét, tiếng
giậm chân và cào tường của cậu tôi. Tôi cầm miếng gạch ở trên bàn và chạy ra cửa
sổ. Bà tôi kịp nắm lấy tôi, đẩy vào một góc, và kêu rít lên:
-A, thằng khốn kiếp... Lần khác, cậu tôi lăm lăm cầm một cái
cọc to và nhọn, định tìm cách xông vào trong nhà. Cậu đứng ở cái bậc tam cấp
đen sì và đập phá cửa. ở phía sau cửa ông tôi cầm chiếc gậy đứng đợi sẵn; ngoài
ra còn có hai người thuê nhà cầm gậy gộc và vợ tên chủ quán người cao lớn cầm
trục lăn giúp sức ông tôi. Bà tôi đứng đằng sau họ vừa giậm chân vừa van nài:
-Các người cứ để cho tôi ra gặp nó! Cho tôi nói với nó một lời...
ông tôi đưa một chân ra phía trước như người mujich cầm ngọn giáo trong bức
tranh "Săn gấu". Khi bà tôi chạy lại gần, ông tôi lẳng lặng dùng khuỷu
tay và chân khẽ đẩy bà đi. Tất cả bốn người đứng im với tư thế sẵn sàng đánh
nhau trông thật là khủng khiếp. Trên bức tường, le lói một ngọn đèn chập chờn
chiếu lờ mờ xuống đầu họ. Từ trên thang gác tôi nhìn tất cả cảnh tượng đó và
tôi muốn kéo bà tôi lên gác. Cậu tôi gắng sức phá cửa và đã gần được, cánh cửa
lung lay, sắp sửa tách ra khỏi bản lề trên,
-bản lề dưới đã long ra và kêu ken két. ông tôi nói với các
chiến hữu của mình cũng với cái giọng rít lên ken két như vậy:
-Xin bà con cứ việc nện vào chân vào tay cho, không nên nện
vào đầu... ở bức tường cạnh cửa ra vào có một chiếc cửa sổ nhỏ vừa lọt đầu người.
Cậu tôi đã đập vỡ mặt kính nên khung cửa nham nhở mảnh kính, trông đen ngòm như
con mắt bị khoét thủng. Bà tôi lao tới chỗ đó, thò tay ra ngoài sân vừa vẫy vừa
kêu:
-Misa, vì Chúa, mày cút ngay đi! Không có người ta đánh què
bây giờ, cút ngay đi! Cậu tôi lấy cái cọc nện luôn vào tay bà tôi; tôi nom thấy
rõ có một vật gì to to trượt qua cửa sổ và đập xuống tay bà tôi. Tiếp theo đó
bà tôi khuỵu xuống, ngã vật ra, nhưng mồm vẫn kịp kêu:
-Misa, chạy đi...
-A, bà làm cái trò gì thế?
-ông tôi gầm lên dữ dội. Cánh cửa bật tung, cậu tôi nhảy xổ
vào cái lỗ đen ngòm đó. Nhưng lập tức cậu tôi bị hất xuống chân bậc tam cấp như
một xẻng bùn. Mụ chủ quán dìu bà tôi vào phòng ông tôi. Một lát sau ông tôi đã
có mặt ở đó và cau có lại gần nói:
-Nó đánh bà gẫy xương à?
-ối, có lẽ bị gãy rồi,
-bà tôi nói, mắt vẫn nhắm nghiền.
-Còn nó thì thế nào rồi?
-Không lo!
-ông tôi nghiêm nghị kêu lên.
-Tao có phải là con thú dữ đâu? Người ta đã trói nó lại rồi,
nó đang nằm ở dưới nhà kho ấy. Tao đã rẩy nước cho nó... Trời ơi, sao mà nó độc
ác thế? Nó giống ai thế không biết? Bà tôi rên rỉ.
-Tôi đã cho người đi tìm mụ nắn khớp xương rồi, bà chịu khó một
chút!
-ông tôi vừa nói vừa ngồi xuống giường bên cạnh.
-Chúng nó đến làm cho chúng mình chết sớm, chết trước tuổi mất,
bà nó ạ!
-ông cứ đem chia tuốt của cải cho chúng nó...
-Thế còn con Vacvara? Hai ông bà nói chuyện lâu lắm: bà nói
giọng khe khẽ và rên rỉ, còn ông thì quát tháo và có vẻ giận dữ. Sau đó một mụ
già gù bé loắt choắt tới, cái miệng rộng đến mang tai, hàm dưới rung rung, mồm
há hốc như miệng cá, cái mũi quắm nhòm vào chiếc mồm qua môi trên. Không nhìn
thấy rõ cặp mắt của mụ. Mụ lê đi một cách khó nhọc, một tay chống gậy kéo rê
trên sàn, còn tay kia xách một cái bọc nhỏ gì đó kêu lọc xọc. Tôi tưởng thần chết
đến bắt bà tôi. Tôi chạy vội lại chỗ mụ và hét thật to:
-Cút ra ngay! ông tôi túm lấy tôi một cách thô bạo và lôi xềnh
xệch lên gác thượng...
Chương 7
Tôi hiểu khá mau rằng ông tôi có một Chúa, còn bà tôi có một
Chúa khác. Đôi khi ngủ dậy bà tôi ngồi trên giường và chải mái tóc rất dày của
mình khá lâu. Bà tôi lúc lắc đầu, nghiến răng rứt từng mảng tóc đen nhánh, mượt
như tơ, và chửi rủa thì thầm để tôi khỏi thức dậy:
-Chà, sao mày không rụng hết cả đi, tóc với tai chết tiệt ở
đâu ấy...
Sau khi gỡ đám tóc qua quýt, bà tôi tết nhanh thành những bím
tóc dày. Bà tôi rửa mặt vội vàng, thở phì phì, vẻ bực tức. Chưa rửa sạch nỗi tức
giận khỏi khuôn mặt to lớn và nhăn nhó bởi giấc ngủ, bà tôi đã đứng trước những
bức tượng thánh. Thế là lúc đó bắt đầu buổi lễ rửa tội ban mai thật sự khiến bà
tôi lập tức tươi tỉnh hẳn lên. Bà tôi ưỡn thẳng cái lưng gù, ngả đầu về đằng
sau và âu yếm nhìn khuôn mặt tròn trĩnh của Đức Mẹ Kazan. Bà tôi vừa vung rộng
tay làm dấu rất thành tâm vừa nói thì thầm, giọng nồng nhiệt:
-Lạy Đức Mẹ Rất Thánh, xin Người hãy ban ơn lành trong ngày
cho chúng con! Bà tôi cúi rạp xuống đất, sau đó từ từ ngẩng lên và lại thì thầm,
giọng mỗi lúc một say sưa và xúc động hơn:
-Người là Nguồn vui, là Vẻ đẹp thanh khiết, là Cây táo nở
hoa!... Hầu như sáng nào bà tôi cũng tìm thấy những lời ca tụng mới khiến tôi
luôn luôn chú ý lắng nghe lời cầu nguyện của bà tôi.
-Hỡi Đức Mẹ của Chúa Lời. Đức Mẹ là trái tim trong trắng,
siêu phàm, hằng che chở nâng đỡ con, Đức Mẹ là Mặt trời vàng ngọc của con, xin
Đức Mẹ giữ gìn cho con trước mọi cám dỗ, đừng để cho con xúc phạm ai và cũng đừng
để cho ai vô cớ xúc phạm đến con. Cặp mắt đen của bà tôi như mỉm cười và, như
trẻ hẳn lại, bà tôi lại giơ cánh tay nặng nề làm dấu thật thong thả.
-Lạy Đức Chúa Giêsu, con Đức Chúa Lời, Người hãy rủ lòng
thương xót một người đàn bà có tội, hãy vì Đức Mẹ của Người... Lời cầu nguyện của
bà tôi bao giờ cũng là một lời cảm ơn, một lời ca ngợi chân thành và chất phác.
Buổi sáng bà tôi cầu nguyện không lâu, vì còn phải đặt ấm xamôva. ông tôi không
nuôi người ở nữa, và nếu đến giờ quá định mà vẫn chưa có nước trà là ông tôi tức
giận chửi bới mãi. Có lần ông tôi dậy trước, bèn leo lên gác thượng thì bắt gặp
bà tôi đang cầu nguyện. ông tôi lắng nghe lời thì thầm của bà tôi một lúc, cặp
môi mỏng thâm sì trề ra có ý khinh bỉ. Đến lúc uống trà ông tôi càu nhàu:
-Tôi đã dạy bà phải cầu nguyện như thế nào bao nhiêu lần rồi,
thế mà bà vẫn cứ lẩm bà lẩm bẩm theo ý bà tuốt, đồ dị giáo! Đầu óc cứ như là gỗ
ấy! Chúa nào có thể chịu được bà!
-Chúa sẽ hiểu hết,
-bà tôi trả lời, vẻ tin tưởng.
-Bất kỳ nói với Chúa điều gì, Chúa cũng có thể hiểu...
-Đồ Tsuvasơ đáng nguyền rủa! ôi chao, lũ chúng bay... y... y
thật là...
Suốt ngày, lúc nào Chúa cũng ở bên bà tôi, bà tôi nói về Chúa
với cả súc vật nữa. Tôi thấy rõ ràng tất cả mọi vật: người, chó, chim muông,
ong bướm và cây cỏ đều dễ dàng và ngoan ngoãn phục tùng Chúa của bà tôi. Chúa đối
với mọi người, mọi vật trên trái đất đều tốt như nhau, đều thân thiết như nhau.
Một hôm con mèo được nuông chiều của mụ chủ quán tha con sáo từ ngoài vườn về.
Con mèo này rất ranh, tham ăn và khéo nịnh hót, lông xám, mắt vàng ánh, nó được
cả nhà này và mụ chủ quán ưa thích. Bà tôi cầm lấy con chim bị thương và mắng
con mèo:
-Mày không sợ Chúa à, đồ tàn ác hèn hạ! Mụ chủ quán và người
gác cổng nghe bà tôi nói liền rũ ra cười, nhưng bà tôi giận dữ quát họ:
-Các người tưởng loài vật không biết Chúa là gì chắc? Mọi
sinh vật đều hiểu Chúa không kém gì các người đâu, đồ nhẫn tâm. Khi thắng con
ngựa Sarap béo phì, thấy nó có vẻ buồn buồn, bà tôi trò chuyện với nó:
-Mày là tôi tớ của Chúa, tại sao mày lại buồn? à phải, mày
già lắm rồi... Con ngựa thở dài và lắc đầu. Mặc dù bà tôi ít nhắc đến Chúa hơn
ông tôi, Chúa của bà tôi đối với tôi vẫn thật dễ hiểu và không đáng sợ, nhưng
trước mặt Chúa thì không thể nói dối được, làm như thế thật là xấu hổ. Tôi sợ xấu
hổ mỗi khi nói dối đến nỗi tôi không bao giờ nói dối bà tôi. Thật ra không thể
giấu giếm nổi vị Chúa quá tốt này điều gì và ngay cả ý muốn giấu giếm tôi cũng
không có. Một hôm, mụ chủ quán cãi nhau với ông tôi, mụ chửi ông tôi, tiện mồm
chửi luôn cả bà tôi, mặc dù bà tôi không can dự đến vụ cãi nhau này. Mụ chửi một
cách độc ác và ném cả củ cà-rốt vào người bà tôi.
-Này, thưa bà, bà là một con mẹ ngu ngốc
-bà tôi bình tĩnh nói với mụ, còn tôi thì rất tức và quáết định
trả thù con mụ tàn ác ấy. Tôi vò đầu nghĩ mãi để tìm cách trả miếng thật đau
cho cái con mụ béo cằm đôi, tóc hoe, chẳng trông thấy cặp mắt híp đâu cả. Tôi
đã được thấy nhiều vụ xích mích giữa những người thuê nhà với nhau. Tôi biết mỗi
lần trả thù nhau họ thường làm như sau: cắt đuôi mèo, cho chó ăn bả, đánh chết
gà hoặc ban đêm lẻn vào hầm nhà kẻ địch, đổ dầu hỏa vào vại bắp cải và dưa chuột
hay mở vòi thùng cơvat. Nhưng tất cả những thủ đoạn đó đều chưa vừa ý tôi; cần
phải nghĩ ra một kế gì ghê gớm và khủng khiếp hơn thế. Tôi đã nghĩ ra: rình lúc
mụ chủ quán xuống hầm nhà, tôi liền đóng ập cửa hầm và khóa lại. Tôi nhảy điệu
múa cáo thù trên nắp hầm và vứt chìa khóa lên mái nhà. Xong đâu đấy, tôi chạy vội
vào nhà bếp với bà tôi. Bà tôi đang nấu ăn, chưa hiểu ngay được nỗi vui sướng của
tôi. Khi hiểu rõ câu chuyện, bà tôi liền phết vào đít tôi mấy cái, lôi tôi ra
ngoài sân và bắt tôi leo lên mái nhà tìm chìa khóa. Tôi ngạc nhiên về thái độ ấy,
lẳng lặng đưa cho bà tôi chiếc chìa khóa và chạy trốn vào một góc sân. Tôi thấy
bà tôi giải thoát cho mụ chủ quán bị cầm tù, rồi cả hai người vừa đi ra sân vừa
cười có vẻ thân mật.
-Rồi sẽ biết,
-mụ chủ quán giơ nắm đấm béo mập dọa tôi, nhưng khuôn mặt béo
híp mắt của mụ lại mỉm cười hiền hậu. Bà tôi nắm lấy cổ áo tôi, dẫn tôi vào bếp
và hỏi:
-Tại sao cháu lại làm như thế?
-Tại vì mụ ấy đã ném cà-rốt vào người bà...
-Thế nghĩa là vì bà mà cháu giam mụ ấy à? Ra thế đấy! Thằng
ranh con, tao sẽ nhét mày xuống gầm lò sưởi với lũ chuột thì mày mới khôn ra được!
Cũng đòi bảo vệ bà cơ đấy! Các người thử nhìn cái bong bóng này một tý kẻo nó vỡ
mất bây giờ! Tao mà kể cho ông nghe thì cứ gọi là ông lột da mày ra cho mà xem!
Cút lên gác thượng học đi... Cả ngày bà tôi không nói gì với tôi, nhưng đến tối,
trước kia cầu nguyện, bà tôi ngồi ở mép giường và trịnh trọng nói những lời mà
tôi không bao giờ quên được:
-Kiônka, cháu yêu của bà, cháu hãy nhớ kỹ lấy điều này: cháu
không được dây vào việc của người lớn nhé! Người lớn thường hư hỏng. Họ đã bị
Chúa thử thách, còn cháu thì chưa, -cháu hãy sống theo sự hiểu biết của trẻ con
thôi. Cháu hãy chờ cho đến khi nào Chúa đụng đến tâm hồn cháu, bảo cháu làm gì,
chỉ cho cháu con đường của cháu. Cháu hiểu chưa? Còn tìm xem ai có lỗi gì thì
đó không phải là việc của cháu. Chúa sẽ xét xử và trừng phạt. Quyền ở Chúa, chứ
không phải ở chúng ta! Bà tôi im lặng một lát, hít thuốc lá, khẽ nheo mắt phải,
rồi nói thêm:
-Chính Chúa nhiều khi cũng không thể hiểu được lỗi ở ai nữa.
-Chẳng lẽ Chúa lại không biết được tất cả mọi việc ư?
-Tôi ngạc nhiên hỏi. Bà tôi khẽ trả lời, giọng buồn buồn:
-Nếu Chúa biết tất cả thì có lẽ nhiều chuyện người ta đã
không làm như thế này. Cháu ạ, chắc là Chúa từ trên thiên đàng nhìn xuống dưới
trần thế, xuống tất cả chúng ta, và có lúc Chúa đã phải than khóc: "Các
người của ta ơi, các người thân yêu của ta ơi! ôi, ta thương hại các người lắm!"
Chính bà tôi cũng khóc nức nở rồi không buồn lau cặp má ướt đẫm, bà tôi tới
luôn góc nhà cầu nguyện. Từ đấy Chúa của bà tôi đối với tôi lại càng gần gũi và
dễ hiểu hơn. Khi dạy tôi, ông tôi cũng nói rằng Chúa ở khắp mọi nơi, cái gì
cũng biết, cái gì cũng thấy, Chúa sẵn sàng giúp đỡ mọi người trong bất kỳ việc
gì, nhưng ông tôi cầu nguyện không giống bà tôi. Sáng sớm, trước khi tới góc
nhà, đến trước tượng thánh, ông tôi rửa mặt rất lâu. Sau đó ông ăn mặc cẩn thận,
chải đầu vuốt râu gọn gàng và soi gương. Sau khi sửa gọn lại chiếc áo sơ-mi,
cho chiếc khăn quàng đen vào trong áo gi-lê, ông tôi mới rón rén bước tới trước
tượng thánh như làm một việc gì thầm vụng. Bao giờ ông tôi cũng dừng lại ở chỗ
mắt một tấm ván, giống như mắt ngựa. ông tôi đứng yên lặng một lúc, cúi đầu,
hai tay buông dọc theo người như một người lính. Sau đó ông tôi đứng thẳng, vóc
người mảnh khảnh, và nói giọng trang nghiêm:
-"Nhân danh Cha và Con và Thánh thần!..." Tôi cảm
thấy sau lời nói ấy gian phòng bỗng trở nên yên tĩnh lạ thường,
-ngay cả ruồi cũng vo ve dè dặt hơn trước. ông tôi đứng thẳng,
ngẩng đầu, đôi lông mày rậm hơi xếch lên, dựng đứng, bộ râu cằm vàng ánh vểnh
ngang ra. ông tôi đọc kinh mạch lạc như đọc một bài học thuộc lòng trơn tru, giọng
vang lên rõ ràng và nghiêm khắc.
-"Chúa Phán xét sẽ đến, và hành động của mỗi người sẽ bị
bóc trần..." ông tôi khẽ đấm vào ngực và van vỉ:
-"Con chỉ có tội đối với một mình Chúa thôi, -xin Chúa
hãy ngoảnh mặt đi đừng nhìn vào tội lỗi của con..." ông tôi đọc "Kinh
Lạy Cha" rành rọt từng tiếng một. Chân phải rung rung như lặng lẽ giậm
theo nhịp cầu kinh, toàn thân rướn về phía tượng thánh, ông tôi như cao hơn, mảnh
hơn và khô hơn. Trông ông tôi vừa sạch sẽ vừa chỉnh tề, tiếp tục giọng khẩn khoản:
-"Hỡi Đức Mẹ, Người đã sinh ra Đấng Cứu thế, xin Đức Mẹ
hãy làm cho linh hồn con dịu bớt nỗi khổ triền miên! Luôn luôn con dâng Đức Mẹ
những tiếng rên rỉ của tim con, xin Đức Mẹ hãy cầu xin cho con!" Và ông
tôi cất cao giọng hơn nữa, cặp mắt xanh đẫm lệ:
-"Lạy Chúa, xin Chúa hãy đánh giá lòng tin của con chứ đừng
để ý đến việc làm của con, vì những việc làm đó không thể biện hộ nổi cho
con!" Rồi ông tôi làm dấu luôn tay và lúc lắc lia lịa, như muốn húc đầu
vào ai, giọng rít lên và nức nở. Sau này đến nhà thờ Do Thái tôi mới hiểu rằng
ông tôi cầu nguyện như người Do Thái. Chiếc xamôva đặt trên bàn đã sôi sùng sục
từ lâu. Mùi bánh rán nóng với pho-mát tươi tỏa ra khắp phòng,
-chúng tôi đã đói! Bà tôi nhăn nhó đứng tựa lưng vào khung cửa
và thở dài, mắt nhìn xuống sàn. ánh mặt trời tươi vui chiếu từ vườn vào cửa sổ;
những giọt sương đọng trên cành cây long lanh như ngọc trai, không khí ban mai
đượm mùi thìa là, phúc bồn tử, và mùi táo chín ngon lành. Nhưng ông tôi vẫn cầu
nguyện, người đu đưa, giọng rít lên:
-"Chúa hãy dập tắt ngọn lửa khát vọng của con, vì con là
một kẻ khốn khổ và bị nguyền rủa!"
Tôi đã thuộc lòng tất cả những lời cầu nguyện buổi sáng và buổi
tối của ông tôi, nên tôi chú ý theo dõi xem ông tôi có lầm lẫn chỗ nào không,
có bỏ sót tiếng nào không? Hiện tượng ấy ít khi xảy ra, nhưng nếu có thì tôi cảm
thấy thích thú một cách ác ý. Cầu nguyện xong, ông tôi nói với tôi và bà tôi:
-Chào bà cháu mày! Chúng tôi chào lại và cuối cùng ngồi vào
bàn. Khi ấy tôi mới nói với ông:
-Hôm nay ông quên mất chữ "hãy đánh giá"!
-Thật không?
-ông tôi hỏi, vẻ băn khoăn và hoài nghi.
-Đúng ông quên thật mà! Đáng lẽ phải nói: "Chúa hãy đánh
giá lòng tin của con, chứ đừng để ý đến việc làm của con" thì ông lại
không nói "hãy đánh giá".
-Thật à!
-ông tôi kêu lên, cặp mắt chớp chớp ra vẻ ngượng nghịu. Sau
này ông tôi sẽ tìm cách nào đó để trả thù thật cay đắng vì lời chỉ dẫn đó cho
mà xem, nhưng lúc này, nhìn thấy ông tôi lúng túng, tôi đắc ý không thể tả được.
Có lần bà tôi nói đùa:
-ông này, có lẽ Chúa nghe mãi lời cầu nguyện của ông cũng
phát chán,
-bao giờ ông cũng lắp đi lắp lại những lời lẽ như nhau thôi.
-Sao
-o?-ông tôi nói kéo dài có vẻ giận dữ.-Bà nói cái gì đấy?
-Tôi bảo là từ khi nghe ông cầu nguyện, tôi chưa bao giờ thấy
ông nói với Chúa một lời nào thành khẩn từ đáy lòng mình cả! ông tôi đỏ bừng mặt,
người run lên, nhấp nhổm trên ghế, vừa ném chiếc đĩa con vào đầu bà tôi vừa kêu
rít lên như tiếng cưa vấp vào mắt gỗ.
-Cút đi, mụ phù thủy! Khi kể cho tôi nghe về sức mạnh vô tận
của Chúa, bao giờ và trước tiên ông tôi cũng nhấn mạnh đến tính tàn bạo của
Chúa: hễ người ta phạm tội là bị dìm chết, nếu còn phạm tội nữa thì bị thiêu chết,
thành phố của họ bị phá hủy; Chúa lấy nạn đói và nạn dịch trừng phạt mọi người.
Bao giờ Người cũng là thanh kiếm treo trên trái đất, là tai họa đối với kẻ có tội.
-Tất cả những người vi phạm luật lệ của Chúa đều bị trừng phạt,
bị đau khổ hoặc bị chết!
-ông tôi vừa răn dạy vừa gõ ngón tay xương xẩu lên mặt bàn.
Tôi khó lòng tin được Chúa là người tàn ác. Tôi nghi rằng ông tôi cố tình bịa
ra những chuyện ấy để gây cho tôi lòng sợ hãi không phải đối với Chúa, mà là đối
với ông tôi. Tôi liền hỏi thẳng:
-Có phải ông nói thế để cháu phải vâng lời ông không? ông tôi
cũng đáp thẳng:
-Phải đấy! Nếu không, dễ cháu chịu vâng lời ông đấy hẳn?!
-Thế còn bà?
-Cháu đừng tin mụ già ngu dại ấy!
-ông tôi nghiêm nghị nói.
-Bà mày ngay từ hồi còn trẻ đã ngu dốt, bà không biết chữ lại
kém thông minh. ông sẽ cấm bà nói với cháu về những việc lớn như vậy! Cháu trả
lời ông xem nào: có bao nhiêu cấp thiên thần tất cả và nhiệm vụ của họ ra sao?
Tôi đáp rồi hỏi luôn:
-Thế quan là người thế nào ông nhỉ?
-ồ, cháu chỉ luẩn quẩn thôi nào!
-ông tôi mỉm cười, mắt lim dim. ông tôi cắn môi suy nghĩ và
miễn cưỡng giảng giải:
-Chuyện đó không dính líu gì với chuyện Chúa cả, quan chức là
thuộc về người đời! Quan là người ăn pháp luật, họ ăn sống nuốt tươi pháp luật.
-Thế pháp luật là cái gì hở ông?
-Pháp luật là gì à? Đó là những tập quán,
-ông tôi nói vui vẻ và hào hứng hơn, cặp mắt thông minh sắc sảo
long lanh
-Người ta sống chung với nhau và có một hôm nào đó họ thỏa
thuận với nhau một điều gì đó tốt nhất, thế là chúng ta lấy cái đó làm tập quán
và đặt thành quá tắc, pháp luật! Ví dụ như: trẻ con muốn rủ nhau một trò gì thì
trước hết phải thỏa thuận với nhau xem chơi như thế nào, theo những quá tắc
nào. Sự thỏa thuận như vậy tức là pháp luật.
-Còn quan là thế nào?
-Quan giống như một đứa đểu cáng, hắn vi phạm tất cả luật
pháp.
-Để làm gì hở ông?
-Thôi, chuyện đó thì cháu không thể hiểu nổi đâu!
-ông tôi cau mày nghiêm nghị nói rồi lại răn dạy:
-Chúa ngự trị trên tất cả công việc của mọi người! Người ta
muốn thế này thì Chúa lại muốn thế khác. Tất cả mọi thứ của con người đều không
bền vững. Chúa chỉ thổi một cái là tất cả tan ra thành tro bụi. Có rất nhiều
nguyên nhân khiến tôi chú ý đến chuyện quan lại nên tôi lại gạn hỏi cặn kẽ:
-Thế sao hôm nọ cậu Iakôp lại hát: Quan của Chúa là thiên thần
sáng suốt, Quan của dân là nô lệ quỉ Xatăng! ông tôi nâng râu lên, nhâm nhấm nó
và nhắm mắt lại, đôi má rung rung. Tôi hiểu rằng ông tôi đang cười thầm.
-Đem trói chân mày với thằng Iaska lại rồi đem quẳng xuống
sông cho rảnh!
-ông tôi nói.
-Cậu mày không nên hát những bài ấy, còn mày cũng không nên
nghe. Đó là những lời bông đùa của "những tín Đáng nhẽ nói là
"Nakônôveđ" (nhà pháp luật) thì ông lão lại nói sai là
"zakônôveđ" (người ăn pháp luật). đồ cũ" do những người dị giáo,
những giáo đồ của phái Raskônnich bịa đặt ra. ông tôi có vẻ suy nghĩ và trông về
phía xa, không nhìn tôi. Và ông tôi khẽ nói, giọng kéo dài.
-ôi chao, lũ chúng bay... y... thật là... Tuy đặt Chúa oai
nghiêm lên cao hơn mọi người, nhưng cũng giống như bà, ông tôi cũng mời Chúa
tham dự vào mọi công việc, và không những mời Chúa, mà còn mời rất nhiều thánh
cùng tham dự. Hình như bà tôi không biết phần đông các thánh, trừ thánh Nikôla,
Iuri, Frôn và Lavrơ, mặc dù các thánh rất tốt và gần gũi mọi người. Các thánh
thường đi khắp xóm làng và thành thị, dự vào sinh hoạt của mọi người và có tất
cả đặc tính của người trần. Các thánh của ông tôi hầu hết đều tử vì đạo. Họ đã
đánh đổ các tượng thần, chống lại các vua chúa La Mã, và vì vậy mà bị tra tấn,
lột da hay thiêu sống. Có lúc ông tôi ước mơ:
-Giá Chúa giúp tôi bán cái nhà này, dù chỉ được năm trăm bạc
lãi thôi, thì tôi sẽ xin làm lễ tạ Thánh Nikôla! Bà tôi cười và bảo tôi:
-Thánh Nikôla nào lại đi giúp cái ông lão ngớ ngẩn ấy bán nhà
bán cửa kia chứ! Làm như thánh Nikôla không có việc gì tốt hơn nữa hay sao ấy!
Tôi đã giữ cuốn lịch giáo hội của ông tôi rất lâu, trong đó có những dòng chữ
viết tay của ông tôi. ở trang đối diện với ngày kỷ niệm Thánh Joakim và Anna,
ông tôi ghi bằng mực đỏ, nét chữ thẳng đứng: "Các vị thánh nhân từ này đã
giúp tôi tai qua nạn khỏi". Tôi nhớ mãi cái "tai nạn" ấy. Vì muốn
giúp đỡ các con làm ăn thua thiệt, ông tôi bắt đầu làm cái nghề cho vay nặng
lãi và bí mật nhận cầm đồ. Có người nào đó tố cáo, và một đêm cảnh sát đột
nhiên ập vào nhà khám xét. Lúc ấy cả nhà thật là ồn ào hỗn loạn, nhưng kết quả
mọi việc đều bình yên vô sự. ông tôi liền cầu nguyện một mạch cho đến khi mặt
trời mọc và sáng sớm hôm sau, có tôi ở đấy, ông tôi đã ghi những dòng chữ trên
vào quyển lịch. Trước bữa ăn tối, hai ông cháu cùng đọc Thánh thi, sách lễ hoặc
cuốn sách dày của Efrem Xirin ăn xong ông tôi lại cầu nguyện, lời sám hối buồn
buồn của ông tôi vang lên hồi lâu trong cảnh yên lặng: "Lạy Chúa Cha ở
trên Trời, con biết mang gì đến dâng Chúa vì Chúa đời đời hằng có và phép tắc
vô cùng... Xin Chúa gìn giữ cho con trước mọi cám dỗ... Xin Chúa che chở cho
con trước một số người... Xin Chúa ban cho con nước mắt và nhắc nhở con rằng
con là một kẻ phàm trần..." Trái lại, bà tôi hay nói:
-ôi, hôm nay tôi mệt quá! Có lẽ tôi đi nằm chứ không cầu nguyện
được... ông tôi thường dẫn tôi đi nhà thờ vào thứ bảy và ngày lễ để dự lễ tối. ở
nhà thờ tôi đã phân biệt được khi nào người ta cầu nguyện vị Chúa nào: tất cả
những lời mà cha cố và phụ lễ đọc là những lời cầu nguyện Chúa của ông tôi, còn
ban hát lễ thì bao giờ cũng hát ca ngợi Chúa của bà tôi. Lẽ dĩ nhiên tôi phân
biệt các Chúa rất đơn giản theo con mắt của trẻ con lúc bấy giờ. Tôi nhớ là sự
phân biệt đó đã chia đôi tâm hồn làm cho tôi không yên lòng. Chúa của ông tôi
đã làm cho tôi vừa ghét vừa sợ. Chúa không yêu ai cả và theo dõi mọi người bằng
con mắt nghiêm khắc. Chúa tìm và nhìn thấy ở con người trước tiên là cái xấu,
cái độc ác và tội lỗi. Rõ ràng là Chúa không tin ở con người, luôn luôn chờ đợi
những lời sám hối và thích trừng phạt. Dạo ấy những ý nghĩ và tình cảm về Chúa
là món săn tinh thần chủ yếu của tôi, là cái đẹp đẽ nhất trong cuộc sống của
tôi, còn tất cả những ấn tượng tàn nhẫn và đê tiện khác chỉ làm cho tôi bị xúc
phạm, gây nên một cảm giác ghê tởm và buồn bã. Chúa là cái gì tốt đẹp và trong
sáng nhất trong thế giới chung quanh tôi, tôi nói đây là nói Chúa của bà tôi,
người bạn hiền của mọi chúng sinh. Tất nhiên có một câu hỏi không thể không làm
cho tôi băn khoăn: tại sao ông tôi không nhìn thấy vị Chúa vô cùng tốt lành này
nhỉ? Tôi không được phép ra ngoài phố chơi, vì đường phố hay kích động tôi.
Không những ấn tượng của đường phố làm cho tôi say sưa, và hầu như bao giờ tôi
cũng là thủ phạm của những chuyện om sòm và những hành động bạo ngược. Tôi
không kết bạn với ai cả, tụi trẻ con hàng xóm coi tôi như thù địch. Tôi không
thích chúng gọi tôi là Kasirin, chúng biết thế nên lại càng hay gọi nhau:
-Trông kìa, thằng cháu lão Katsêi Kasirin đã ra kìa!
-Nện cho nó một trận! Thế là bắt đầu cuộc ẩu đả. So với bọn
trẻ cùng lứa tuổi thì tôi vào loại khỏe và đánh nhau cũng tài,
-chính kẻ địch cũng phải thừa nhận điều đó nên chúng phải kéo
bè kéo cánh mới dám tấn công tôi. Nhưng dù sao thì lũ trẻ con hàng phố cũng đè
được tôi ra đánh. Mỗi khi về nhà, thường thường tôi bị chảy máu mũi, sứt môi hoặc
mặt mày thâm tím, quần áo rách tả tơi và bê bết bụi. Bà tôi đón tôi vẻ sợ hãi,
và nói, giọng thương xót:
-Mày lại đánh nhau đấy à, thằng ôn con? Như thế thì còn ra
nghĩa lý gì nữa, hả! Mày xem đấy, nếu tao cũng dây vào thì... Bà tôi rửa mặt
cho tôi, đắp miếng bọt bể, đồng xu đồng hoặc miếng băng có tẩm nước chì vào vết
bầm rồi khuyên nhủ:
-Tại sao cháu cứ đánh nhau luôn mãi thế? ở nhà thì cháu hiền
lành, thế mà hễ ra đường là khác hẳn! Cháu không biết xấu hổ à? Bà sẽ bảo ông
không cho cháu ra đường nữa... ông tôi trông thấy những vết tím bầm của tôi,
nhưng không chửi rủa bao giờ, chỉ hầm hừ và làu bàu:
-Mày đã lại được đeo mề đay rồi! Tao cấm mày không được chạy
ra ngoài đường, nghe không, thằng Anika kia! Tôi không muốn ra ngoài đường lúc
yên tĩnh, nhưng khi nào nghe thấy tiếng vui đùa ồn ào của lũ trẻ con là tôi chạy
ra khỏi sân ngay, mặc dù ông tôi đã ngăn cấm. Những vết bầm và vết sây sát
không làm cho tôi sợ; chính những trò đùa tai ác của lũ trẻ ở phố mà tôi đã quá
quen thuộc bao giờ cũng làm tôi phẫn nộ, khiến tôi điên tiết lên. Tôi không thể
nào chịu nổi khi lũ trẻ xuỵt chó cắn nhau hoặc gà chọi nhau, hành hạ mèo, đuổi
dê của người Do Thái, chế giễu những người hành khất, say rượu và lão Igôsa chất
phác, mệnh danh là "Thần Chết trong túi". Người lão cao, gầy gò và
đen sạm, quanh năm mặc chiếc áo da cừu nặng trình trịch. Mặt lão xương xẩu, mốc
thếch, tóc cứng quèo. Lão lom khom đi ngoài đường phố, bước loạng choạng, không
nói không rằng, mắt cứ nhìn chằm chằm xuống đất. Lão có khuôn mặt đanh như gang
và cặp mắt buồn buồn nhỏ tí khiến tôi vừa kính trọng vừa sợ hãi. Tôi có cảm tưởng
rằng con người này đang loay hoay với những ý nghĩ gì quan trọng, đang tìm kiếm
cái gì đó và không được quấy rầy lão. Bọn trẻ con chạy theo lão và ném đá vào
cái lưng gù của lão. Hình như lão không thèm để ý tới bọn chúng và cũng không cảm
thấy đau nữa. Nhưng đột nhiên lão đứng dừng lại, ngẩng đầu lên, bàn tay run run
sửa lại chiếc mũ lông đội trên đầu rồi nhìn quanh như vừa sực tỉnh dậy.
-Igôsa, Thần Chết trong túi! Igôạ, đi đâu đấy? Hãy cẩn thận,
Thần Chết Trong túi ấy!
-Bọn trẻ kêu ầm lên. Lão nắm lấy túi, sau đó cúi vội xuống đất
nhặt một hòn đá, một thanh gỗ hay một nắm bùn khô. Lão vụng về vung cánh tay
dài và lẩm bẩm chửi rủa. Bao giờ lão cũng chỉ dùng có ba tiếng khả ố nhất để chửi,
-về mặt này thì nhất định là bọn trẻ hơn hẳn lão. Đôi khi lão
đuổi theo bọn chúng, chân đi khập khiễng, nhưng chiếc áo dài làm lão vướng chân
không chạy được, lão ngã quỵ, bàn tay đen như cành cây khô chống xuống đất. Bọn
trẻ con ném đá vào lưng, vào sườn lão, những đứa liều lĩnh nhất chạy đến sát
người lão và trút vào đầu lão một nắm cát rồi bỏ chạy. Một ấn tượng khác ở
ngoài phố có lẽ còn nặng nề hơn, đó là bác thợ cả Grigôri Ivanôvitạ. Bây giờ
bác mù hẳn phải đi ăn xin. Bác cao lớn, chững chạc và câm Anika là một nhân vật
trong thơ của tôn giáo nói về Anika và Thần chết. Anika cho mình là vô địch, đã
chiến đấu đơn độc với Thần chết và đã thất bại. Trong bạch thoại thường dùng với
nghĩa: "Một người bị đau khổ"..
Một mụ già nhỏ bé trông toàn một màu xám dắt tay bác. Mụ dừng
lại dưới cửa sổ các nhà, không bao giờ nhìn thẳng, và cất giọng the thé kêu
van:
-Vì Chúa, xin các ông các bà hãy bố thí cho kẻ mù lòa đói
khát... Còn bác Grigôri thì đứng im lặng. Cặp kính râm của bác như nhìn thẳng
vào tường nhà, vào cửa sổ và bộ mặt những người qua lại. Bác khẽ đưa cánh tay bị
thuốc nhuộm ăn lên vuốt bộ râu xồm, nhưng cặp môi bác vẫn mím chặt lại. Tôi thường
trông thấy bác luôn, nhưng không hề nghe thấy một tiếng nào thốt ra từ cái miệng
mím chặt ấy. Sự im lặng của ông già đã làm cho tôi rất khổ tâm. Tôi không thể
nào lại gần bác, không bao giờ đến gần bác. Trái lại, vừa trông thấy bác là tôi
chạy vội về nhà bảo bà tôi:
-Bác Grigôri đang đi ở ngoài đường!
-Thật à?
-Bà tôi kêu lên với giọng thương hại và lo âu.
-Cháu cầm lấy cái này chạy mau ra đưa cho lão! Tôi từ chối, vẻ
cục cằn và tức giận. Bà tôi bèn đi ra cổng và đứng ở vỉa hè nói chuyện với bác
hồi lâu. Bác mỉm cười, chòm râu rung rung, nhưng bác nói rất ít và nhát gừng.
Thỉnh thoảng bà tôi mời bác vào bếp, cho bác ăn uống. Có lần bác hỏi tôi đâu.
Bà tôi gọi, nhưng tôi chạy nấp vào đống củi. Tôi không thể đến gần bác được; đứng
trước mặt bác tôi cảm thấy xấu hổ không chịu nổi. Tôi biết bà tôi cũng xấu hổ
như vậy. Chỉ có một lần tôi nói chuyện với bà tôi về bác Grigôri. Sau khi tiễn
bác ra cổng, bà tôi lững thững quay vào sân, cúi đầu và khóc sụt sịt. Tôi lại gần
và cầm lấy tay bà.
-Tại sao cháu lại chạy trốn lão?
-Bà tôi khẽ hỏi
-Lão yêu cháu, lão là một người rất tốt mà...
-Thế tại sao ông không nuôi bác ấy hở bà?
-Tôi hỏi lại.
-ông ấy à? Bà tôi đứng dừng lại, ôm ghì lấy tôi, nói với giọng
tiên tri, gần như thì thầm:
-Cháu hãy nhớ lấy lời bà: Chúa sẽ trừng phạt ông bà một cách
phũ phàng về tội đã đối xử với con người này như vậy! Nhất định sẽ trừng phạt...
Bà tôi nói quả không sai. Khoảng mười năm sau, khi bà tôi đã vĩnh viễn yên nghỉ,
chính ông tôi hóa điên đã đi ăn xin khắp các đường phố, van xin thảm thiết dưới
cửa sổ các nhà.
-Các bác đầu bếp phúc đức ơi, xin các bác một miếng bánh, một
mẩu bánh ngọt thì hơn!
-ôi chao, lũ các người
-ì
-ì thật là... Tôi chỉ còn nhớ mỗi cái câu chua xót kéo dài và
kích động lòng người của ông tôi trước đây:
-ôi chao, lũ chúng bay... y... y thật là... Ngoài Igôsa và
Grigôri Ivanôvitạ ra, có một mụ đàn bà phóng đãng khiến tôi không dám ra phố đó
là mụ Vôrônikha. Cứ đến ngày lễ là mụ lại xuất hiện, to lớn, tóc rối bù và say
bí tỉ. Mụ có lối đi rất đặc biệt như không động đậy chân, không chạm đất, mà
chuyển động như một đám mây đen, mụ vừa đi vừa nghêu ngao những bài hát tục
tĩu. Tất cả mọi người gặp mụ đều lẩn tránh vào các cổng nhà, góc tường hoặc cửa
hiệu. Mụ đi đến đâu là như quét sạch người đến đấy Mặt mụ xanh xám, sưng húp
như một cái bong bóng, cặp mắt xám to tướng tròn xoe nom thật buồn cười và khủng
khiếp. Có lúc mụ vừa khóc vừa kêu:
-Các con ơi, các con ở đâu? Tôi hỏi bà tôi xem tại sao mụ lại
nói như thế.
-Cháu không nên biết chuyện đó!
-Bà tôi trả lời vẻ rầu rĩ. Nhưng dù sao bà tôi vẫn kể vắn tắt:
mụ ta trước đây lấy một lão viên chức tên là Vôrônôp. Tên này muốn được thăng
quan tiến chức liền đem hiến vợ cho một tên quan trên của mình. Hắn đem mụ đi
đâu không rõ. Mụ đi biệt nhà hai năm liền. Khi trở về thì hai đứa con của mụ
-một trai và một gái
-đều chết cả, còn chồng mụ vì lấy tiền nhà nước đi đánh bạc,
thua cả nên bị bỏ tù. Thế là mụ khổ tâm quá đâm ra rượu chè, thích sống phóng
đãng và hay phá rối. Mỗi ngày lễ cứ đến tối là cảnh sát lại lôi mụ về... ở
trong nhà quả thật tốt hơn ra ngoài phố. Tôi thích nhất những giờ sau bữa ăn
trưa, khi ông tôi đến xưởng nhuộm của cậu Iakôp, bà tôi ngồi bên cửa sổ kể cho
tôi nghe những chuyện cổ tích rất hay và những chuyện khác, hoặc nói về chuyện
bố tôi. Bà tôi cắt cái cánh gẫy của con sáo mà hôm trước bà tôi giằng lại được ở
con mèo, thay rất khéo cái chân gẫy của nó bằng một cái chân gỗ nho nhỏ. Sau
khi chữa cho con chim khỏi, bà tôi dạy nó nói. Có lúc bà tôi đứng hàng giờ trước
cái lồng treo ở khung cửa sổ, trông giống như một con thú to lớn và hiền từ. Giọng
trầm trầm, bà tôi nhắc đi nhắc lại cho con chim đen như hòn than có tài bắt chước
thật nhanh:
-Nào, nói đi: "Cho sáo ăn bột!". Con sáo giương cặp
mắt tròn xoe và linh hoạt của một nhà khôi hài nhìn bà tôi. Nó nhảy bằng cái
chân gỗ trên đáy chiếc lồng mảnh dẻ, vươn cổ ra hót như con chim vàng anh, bắt
chước chim cà cưỡng, chim cu cu, nó cố làm giọng mèo kêu, bắt chước tiếng chó sủa,
nhưng vẫn chưa nói được tiếng người.
-Mày đừng làm trò ranh nữa!
-Bà tôi nghiêm trang nói với con sáo.
-Nói đi: "Cho sáo ăn bột!". Con khỉ có bộ lông chim
đen kêu lên một tiếng chói tai, giông giống như lời bà tôi dạy nó. Bà tôi cười
vui vẻ, giơ đầu ngón tay chìa cho con chim chút bột mạch và nói:
-A! Tao biết mày rồi, đồ láu cá, mày giả vờ. Cái gì mày cũng
nói được, cái gì mày cũng biết! Thế là bà tôi dạy được con sáo biết nói. ít lâu
sau, nó đòi ăn bột khá sõi, và hễ thấy bà tôi là nó kêu lên một tiếng kéo dài
giống như tiếng "tà-ào
-bà
-ạ...". Lúc đầu lồng sáo treo ở phòng ông tôi, nhưng chẳng
bao lâu ông tôi đuổi nó lên gác thượng với bà cháu tôi, vì con sáo đã học được
trêu tức ông tôi. Lúc nào ông tôi đọc kinh mạch lạc thì con chim lại thò cái mỏ
vàng vàng như sáp ong qua kẽ lồng và rít lên:
-Tiu, tiu-tiu irr, tu irr, ti irr, tiu-u, u! ông tôi bực mình
lắm. Một hôm ông tôi nổi nóng ngừng cầu nguyện, giậm chân và thét lên dữ dội:
-Tống ngay con quỷ này đi, không tao giết chết nó bây giờ!
Trong nhà có nhiều cái thú vị, nhiều trò vui, nhưng thỉnh thoảng một nỗi buồn
không sao chịu nổi bóp nghẹt tâm hồn tôi. Toàn thân tôi như bị một cái gì nặng
đè lên và tôi có cảm tưởng như mình sống khá lâu dưới một cái hố đen sâu thẳm.
Tôi như mất hết cả thị giác, thính giác và mọi cảm giác, mù lòa và sống dở chết
dở...
Maxim Gorki
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét