Từ ‘Đề cương văn hóa Việt Nam’ đến nhận thức mối quan hệ giữa chính trị và văn nghệ thời kỳ đổi mới, hội nhập
Lý luận văn học thời đổi mới, hội nhập đã xác định nguyên tắc: Tự do của người nghệ sĩ phải đi cùng với tuân thủ luật pháp, tự do gắn liền với trách nhiệm của công dân với cộng đồng dân tộc. Không có tự do vượt lên luật pháp, vượt lên quyền dân chủ và quyền con người. Và chỉ có trên nguyên tắc này vấn đề tự do dân chủ mới tránh được sự lạm dụng, đời sống văn hoá, văn nghệ mới được quản lý một cách khoa học và hợp lý.
1. Đề cương văn hóa Việt Nam do cố Tổng Bí thư Trường
Chinh thay mặt Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam soạn thảo năm 1943 đã hành
trình cùng sự phát triển của đời sống văn hóa dân tộc tròn 80 mươi năm. Giá trị
của bản đề cương được vận dụng linh hoạt vào thực tiễn, tạo ra những chuyển biến
sâu sắc trong quá trình xây dựng và phát triển văn hóa nói chung và văn học nghệ
thuật nói riêng. Tám mươi năm đã đi qua, hoàn cảnh lịch sử đất nước và thế giới
nhiều thay đổi nhưng tinh thần căn bản của Đề cương Văn hóa Việt Nam còn nguyên
giá trị.
Từ sau 1986 đến nay, trong bối cảnh đất nước đổi mới toàn diện,
hội nhập phát triển theo xu hướng toàn cầu hóa, việc hiểu, phát huy và vận dụng
nội dung cơ bản của đề cương như thế nào để mang lại hiệu quả trong phát triển
đời sống văn hóa, văn nghệ nước nhà là những vấn đề cần được nghiên cứu thấu
đáo để có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho phù hợp với sự nghiệp xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở giai đoạn mới.
Trong giới hạn của tham luận này, chúng tôi tập trung luận giải
vấn đề: Từ Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 đến nhận thức vấn đề mối quan hệ
giữa chính trị và văn nghệ trong thời kỳ đổi mới, hội nhập. Từ đó góp phần
khẳng định, dưới ánh sáng của Đề cương văn hóa và đường lối đổi mới quản lý văn
hóa văn nghệ của Đảng, các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam đã “khoa học hóa” nội
hàm vấn đề mối quan hệ giữa chính trị và văn nghệ để đáp ứng nhu cầu
phát triển nền văn học nghệ thuật dân tộc trước yêu cầu thời đại mới đặt ra.
2. Với Đề cương văn hóa Việt Nam năm, lần
đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam công bố quan niệm của mình về văn hóa theo quan
điểm mác – xít, văn hóa được xác định là một trong ba mặt trận (cùng với mặt trận
chính trị và kinh tế), sự thắng lợi của cách mạng chính trị là cơ sở đảm bảo
thành công của cách mạng văn hóa. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 trở đi, mối
quan hệ giữa văn nghệ và chính trị được quán triệt tinh thần: “Chính trị lãnh đạo
văn nghệ và văn nghệ phục vụ chính trị”(1).
Nền văn nghệ Việt Nam thế kỷ XX là nền văn nghệ gắn bó mật
thiết với đời sống chính trị của dân tộc. Xu hướng dân tộc, dân chủ mà nổi bật
nhất là dân chủ vô sản hay gọi là dân chủ xã hội chủ nghĩa là trào lưu cách mạng
to lớn, có sức ảnh hưởng, lôi cuốn, thu hút mạnh mẽ đối với hàng trăm dân tộc,
hàng triệu người trên thế giới. Trong dòng chảy của thời đại, văn nghệ Việt Nam
hiện đại đã theo sát và phản ánh tinh thần dân tộc và dân chủ theo khuynh hướng
xã hội chủ nghĩa, tham gia tích cực vào quá trình vận động chính trị của dân tộc
trong suốt hành trình thế kỷ XX. Đây là một nền văn nghệ thiên về biểu hiện những
tình cảm chính trị nhiệt thành.
Trong Thư gửi anh em văn hóa và trí thức Nam Bộ (25/5/1947),
chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén
trong sự nghiệp phò chính, trừ tà, và anh em văn hóa và trí thức phải làm cũng
như là những chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại quyền
thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”(2). Quan điểm văn nghệ gắn liền chính
trị còn được Hồ Chí Minh nhấn mạnh hơn trong Thư gửi các họa sĩ nhân
dịp triển lãm hội họa 1951: “Văn hóa văn nghệ là một mặt trận/ Anh chị em
là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.
Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ làm nghệ
thuật có nhiệm vụ phục vụ kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân
dân, trước hết là công, nông, binh. Để làm tròn nhiệm vụ, mỗi nghệ sĩ cần có lập
trường vững, tư tưởng đúng, phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của
nhân dân lên trên hết. Tính nhất quán trong quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản
về văn hóa văn hóa văn nghệ là coi văn hóa nghệ thuật cũng như mọi hoạt động
khác, phải ở trong kinh tế và chính trị. Đến thời kỳ chống Mỹ cứu nước, tư tưởng
chỉ đạo này càng được quán triệt hơn. Văn nghệ lúc này luôn bám sát tình hình
thời sự và các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng để phản ánh hiện thực
cách mạng. Trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng, bảo vệ và xây dựng đất
nước được coi là phẩm chất chính trị quan trọng của văn học, và tất nhiên đây
cũng là tiêu chí hàng đầu để xem xét và định giá mỗi tác phẩm nghệ thuật.
Trải qua suốt ba chục năm kháng chiến trường kỳ, định hướng
văn nghệ gắn liền với chính trị, là “công cụ” phục vụ chính trị đã giúp văn nghệ
nhiệt tình nhập cuộc vào cơn lốc cách mạng của dân tộc, góp phần không nhỏ
trong việc huy động sức mạnh đoàn kết toàn dân, để phục vụ xã hội, phục
vụ con người. Đó là một quan điểm tiến bộ về văn nghệ của nhân loại
đã có từ thời cổ xưa và đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Trong tình
thế của cuộc sống, định hướng cách mạng nhằm vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc đòi hỏi văn nghệ cần nghiêng hẳn về chức năng
“vũ khí” – về hệ tư tưởng, đây là biểu hiện của quy luật thống nhất
giữa văn nghệ và chính trị, giữa nghệ thuật chân chính và chính trị
chân chính.
Tuy nhiên, sau 1975 lịch sử dân tộc đã sang trang, hoàn cảnh
không bình thường đối với đời sống dân tộc kết thúc, thời đại mới đặt ra cho
văn nghệ nhiều vấn đề cần giải quyết. Vấn đề mối quan hệ giữa văn nghệ và chính
trị cũng cần phải nhìn nhận lại cho phù hợp với bước đi của lịch sử. Bởi
vì văn nghệ đặt trong điều kiện chiến tranh giữ nước và văn nghệ đặt trong
điều kiện xã hội thời bình có hai sắc thái hết sức khác nhau. Hơn nữa,
trong quá trình vận dụng nguyên tắc văn nghệ chịu sự quản lý của
chính trị để phục vụ kháng chiến đã nảy sinh không ít những quan
điểm cực đoan, hiểu không đúng về vấn đề này khiến cụm từ
“văn học là công cụ phục vụ chính trị” gây nhiều khó khăn, cản trở sự
phát triển của văn học nghệ thuật. Vì vậy thời kỳ đổi mới và hội nhập (sau 1986
đến nay), các nhà khoa học Việt Nam dựa trên nền tảng chỉ đường của Đề cương
Văn hóa, dưới ánh sáng đổi mới về đường lối văn nghệ của Đảng đã bổ sung nhiều
hướng tiếp cận xung quanh mối quan hệ văn nghệ và chính trị.
Lý luận về quan hệ giữa văn nghệ và chính trị có ý nghĩa then
chốt vì nếu không được nhìn nhận một cách biện chứng, khách quan, toàn diện sẽ
làm lệch lạc các nguyên lý lý luận khác. Nếu giải quyết được vấn đề một cách
triệt để thì sẽ tháo gỡ được những gì còn bức xúc của đời sống văn học nghệ thuật.
Chính vì vậy ngay từ ngày đầu đổi mới, vấn đề mối quan hệ giữa văn
nghệ và chính trị đã thu hút sự quan tâm của nhiều văn nghệ sĩ, các
nhà nghiên cứu và các nhà quản lý xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu lý
luận và nhiều văn nghệ sĩ thống nhất ý kiến: “Cần xác định lại cho đúng mối
quan hệ giữa văn nghệ và chính trị cả về mặt nhận thức, quan niệm, cả về mặt tổ
chức lãnh đạo và quản lý văn nghệ (3).
Trước hết các ý kiến tập trung xem xét lại quan
niệm đồng nhất văn nghệ và chính trị, sự chi phối thái quá của
chính trị đối với văn nghệ: “Thời gian qua xu hướng đồng nhất lại là xu hướng
chủ đạo (…) Cũng vì đồng nhất như thế nên văn nghệ không đào sâu vào phương diện
nhân cách, chỉ chú ý nói công đức mà quên tư đức”(4). Các nhà nghiên cứu cho
rằng việc đồng nhất văn nghệ với chính trị đã không những làm yếu văn
nghệ, mà còn làm yếu chung sự nghiệp cách mạng. Biểu hiện cụ thể là “chính trị
nói gì, văn nghệ ca hát theo nấy”(5). Do phụ thuộc vào chính trị nên nghệ
thuật luôn bị biến thành “công cụ” giải thích và tuyên truyền cho công
tác vận động chính trị. Lấy lý thuyết thay cho hình tượng, lấy
tiếng nói của nguyên tắc, của lý trí thay cho tiếng nói xuất phát
từ tâm hồn, tình cảm, coi thường quy luật đặc thù và đặc tính vốn
có của văn học nghệ thuật. Quan điểm phiến diện, sai lầm trên là cơ sở nảy
sinh thái độ ứng xử thiếu công bằng, khách quan với văn học nghệ thuật, khiến
văn học nghệ thuật không còn được là chính nó.
Cùng với vấn đề trên, tư duy lý luận đổi mới còn đào sâu
nhận thức về quan hệ giữa ý thức chính trị và ý thức nghệ thuật, đặc biệt
phân biệt rõ bản chất đặc thù của mỗi hình thái.
Theo triết học mácxit, văn nghệ, khoa học cũng như
chính trị,… là các hình thái ý thức xã hội. Chúng có những chức
năng và hình thức biểu hiện riêng biệt, có quan hệ tương tác với nhau
chứ không lệ thuộc vào nhau. Song, dường như trước đổi mới điều này đã
bị lãng quên, mọi giá trị nghệ thuật đều được đo bằng tư tưởng, lập trường
chính trị.
Đến thời đổi mới và hội nhập, tư duy lý luận nhận thức đầy
đủ hơn về quan hệ giữa văn nghệ và chính trị. Đây “là hai hình thái độc lập,
tuy có quan hệ tác động qua lại chặt chẽ, nhưng giữa chúng chỉ có tính thống nhất,
chứ không có tính đồng nhất, như một số người đã quan niệm”(6). Lê Ngọc Trà
trong bài viết gây nhiều tranh luận với nhan đề Văn nghệ và chính
trị đã phân biệt hai vấn đề: a/Quan hệ giữa văn nghệ và một chế độ chính
trị cụ thể; b/ Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị như hai lĩnh vực của hình
thái ý thức. “Ý thức nghệ thuật không phải là sản phẩm hay nội dung đặc biệt của
ý thức chính trị mà là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, phát triển song
song với ý thức chính trị và các kiểu ý thức khác”(7).
Lê Ngọc Trà nhấn mạnh hai hình thái ý thức xã hội
này bình đẳng với nhau trong việc thực hiện vai trò đối với
xã hội, ông cho rằng ý thức chính trị và ý thức văn nghệ là những người bạn đồng
hành trên con đường nhân loại đi tìm hạnh phúc. Tiếng nói chính trị và tiếng
nói nghệ thuật bổ sung cho nhau, làm thăng bằng đời sống tinh thần của
xã hội, chúng có đặc thù tư duy khác nhau, đối tượng phản ánh khác
nhau,… cần thừa nhận sự độc lập cho văn nghệ vì ý thức văn nghệ có nội
dung riêng, là tiếng nói về số phận con người là câu chuyện về đời người.
Nhiều nhà nghiên cứu khác như Nguyên Ngọc, Hồ Ngọc, Phong Lê,
Nguyễn Đăng Mạnh,… cũng đồng quan điểm với Lê Ngọc Trà. Trong bài viết với
nhan đề Vấn đề mối quan hệ giữa văn nghệ với chính trị tác
giả Nguyễn Văn Dân cho rằng chính trị là một hình thái ý thức xã
hội: “Có một vị trí rất đặc biệt (…) các lý thuyết chính trị được
sinh ra là để trở thành lực lượng quản lý và cai trị xã hội”(8).
Chính vì thế, chính trị khi biến thành quyền lực thì nó không chỉ
đơn thuần là hình thái ý thức xã hội mà nó trở thành một lực
lượng quản lý có chức năng điều chỉnh mọi lĩnh vực xã hội. Và
cũng vì thế, vai trò chi phối của nó đối với mọi lĩnh vực xã hội,
trong đó có các hình thái ý thức xã hội khác, là một điều hiển
nhiên không thể tránh khỏi.
Tư duy lý luận văn nghệ đổi mới cũng khẳng định không
chỉ có chính trị mới có thể tác động đến văn nghệ mà văn nghệ
cũng có những tác động nhất định đến chính trị, làm phong phú thêm
cho chính trị. Trong thực tiễn, không phải chỉ có nhà chính trị mới
có ý thức chính trị mà chính trong bản thân mỗi nghệ sĩ vốn cũng mang
sẵn những ý thức chính trị sâu sắc. Ý thức chính trị này được thể hiện
vào sáng tác, đó là tư tưởng riêng, tư tưởng thẩm mỹ của nghệ sĩ, và như
một hệ quả tất yếu, từ những tư tưởng nhân đạo lành mạnh, cởi mở
sẽ sinh ra những ý thức chính trị lành mạnh, hiện thực. Các nhà
nghiên cứu cũng chứng minh mọi thời đại trong lịch sử phát triển của
nhân loại, khi đã có nhà nước thì văn nghệ luôn luôn đặt dưới sự
quản lý của thiết chế chính trị. Đó là một quan hệ đã có truyền
thống từ thời xa xưa và kéo dài cho tới ngày nay ở bất cứ nơi nào
và ở bất cứ xã hội nào.
Những phân tích trên cho thấy từ sau đổi mới (1986) đến
những năm đầu của thế kỷ XXI, nhận thức về vấn đề mối quan hệ giữa
văn nghệ và chính trị phát triển thêm một bước mới: Các nhà nghiên
cứu lý luận một mặt đi sâu lý giải cụ thể sự tác động lẫn nhau của hai
hình thái ý thức xã hội đồng thời mặt khác phân biệt rõ văn nghệ chỉ
phụ thuộc vào chính trị, liên quan đến chính trị ở phương diện thiết
chế chính trị với tư cách là nhà nước quản lý.
Ở phương diện quản lý văn nghệ, các nhà nghiên cứu cho
rằng đường lối lãnh đạo văn học nghệ thuật phải dựa trên sự hiểu
biết về đặc thù của văn học nghệ thuật, hiểu biết về sự sáng tạo
của người nghệ sĩ, tránh quan niệm cực đoan, đi tìm văn nghệ thuần
túy, hoặc xem văn nghệ chỉ là “vũ khí” phục vụ thô thiển cho chính
trị. “Đối với chúng ta hiện nay, điều rất quan trọng và thiết thực là thể chế
hóa sự lãnh đạo chính trị của Đảng đối với văn nghệ chứ không phải là chỉ cần dừng
lại ở cách nói chung chung về “quyền lãnh đạo của chính trị đối với văn nghệ”(10).
Từ những ý kiến đề xuất của nhiều nhà khoa học và văn nghệ
sĩ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú trọng đổi mới nhận thức, đưa ra
những quan điểm mới về lãnh đạo và quản lý văn nghệ mà tinh thần
cốt yếu là phải làm sao tạo điều kiện, khuyến khích và phát huy
được cao nhất tính sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm tạo nên những
giá trị mới cho nền văn học nước nhà. (Thể hiện qua NQ 05 của
Bộ Chính trị khóa IV; NQ TW5 khóa VIII năm 1988; NQ23 –
NQ/TW ngày 16/6/2008).
Tự do sáng tác nằm trong quyền tự do văn hoá và tự do diễn
đạt, vì thế tự do sáng tác cũng là một trong những quyền quan trọng nhất của
con người. Ngay từ đầu đổi mới vấn đề này đã được quan tâm bởi lẽ tác
phẩm văn nghệ là sản phẩm tinh thần đặc biệt, do sự thôi thúc bên trong của người
nghệ sĩ tạo ra và là mục đích tự thân của họ, chứ không phải là một phương tiện,
một công cụ có thể sử dụng bất kỳ. Do đó “nó mang đậm cá tính sáng tạo của người
nghệ sĩ trong điều kiện tự do sáng tác – một điều kiện cực kỳ quan trọng, không
thể thiếu được của người nghệ sĩ” (11).
Lý luận đổi mới đã ý thức rõ tự do chính là
khởi điểm cho sáng tạo. Tuy vậy, không có tự do vô giới hạn,
không thể có bất cứ quyền tự do nào mà lại không thực hiện với một trách nhiệm
tương xứng. Đó là chân lý mà nhân loại đã thừa nhận từ lâu. Trong tư
duy triết học kinh điển mácxit, tự do và tất yếu là một cặp phạm trù biện chứng.
Con người chỉ có được tự do thật sự khi hiểu được các quy luật của tất yếu
khách quan. “Đối với những người viết chân chính – đó là tự do trong
giới hạn của một lẽ sống chân chính, của mục tiêu cao quý của nghệ
thuật vì hạnh phúc của nhân dân, vì lẽ công bằng cho con người và
tiến bộ xã hội”(12).
Như vậy, lý luận thời đổi mới, hội nhập đã xác định
nguyên tắc: Tự do của người nghệ sĩ phải đi cùng với tuân thủ
luật pháp, tự do gắn liền với trách nhiệm của công dân với cộng
đồng dân tộc. Không có tự do vượt lên luật pháp, vượt lên quyền dân
chủ và quyền con người. Và chỉ có trên nguyên tắc này vấn đề
tự do dân chủ mới tránh được sự lạm dụng, đời sống văn hoá, văn nghệ mới
được quản lý một cách khoa học và hợp lý. Các nhà lý luận cũng đã chứng minh
và khẳng định: “Việc văn nghệ chịu sự quản lý của chính trị để
phục vụ con người không có gì là vô lý, thậm chí việc đó còn góp
phần phát huy hiệu quả tác động xã hội của văn nghệ”(13). Tuy nhiên
cũng lưu ý rằng xét từ góc độ lý thuyết nói chung, bất cứ ở đâu, thời
đại nào khi xã hội xuất hiện sự “cai trị” văn nghệ bằng mệnh lệnh chủ
quan áp đặt, buộc các văn nghệ sĩ phục tùng chế độ chính trị tàn bạo,
mất dân chủ thì việc xung đột giữa văn nghệ với chính trị là tất
yếu. Văn nghệ chân chính luôn chống lại thứ chính trị thoái hóa, nhưng lại thống
nhất với chính trị chân chính.
Việc lý luận đổi mới phân biệt rõ đặc thù của hai
hình thái ý thức xã hội là quan điểm khoa học đúng đắn. Bởi vì
chỉ có trên cơ sở như vậy lý luận mới có thể tiếp tục giải quyết
nhiều câu hỏi khác đặt ra xung quanh mối quan hệ giữa văn học và
chính trị, đặc biệt nhất là câu hỏi: Trong thời đại ngày nay
cần quan niệm văn nghệ phục vụ chính trị theo cách như thế nào?
Chúng tôi đồng tình và chia sẻ với Lê Ngọc Trà khi trong
bài viết Văn nghệ và chính trị ông đã phân biệt khác với chính trị
và đạo đức, sức tác động mạnh mẽ của văn nghệ thể hiện chủ yếu không phải ở chỗ
nó tuyên truyền và răn dạy, mà ở khả năng khêu gợi, đánh thức lương tri của mỗi
người, kích thích quá trình tự giáo dục ở họ: “Nghệ thuật như tấm gương lớn xã
hội đặt ra trước mặt, mỗi người đến tự soi mình, nhận diện, đối thoại với chính
bản thân mình, tự phán xử, kiêu hãnh với những gì tốt đẹp có ở mình, ở cuộc đời,
đồng thời cũng hổ thẹn vì những gì trái với lương tâm, đau đớn với tội lỗi, bất
công trong xã hội”(14). Lê Ngọc Trà cũng như nhiều nhà khoa học khác đã đánh
giá cao chức năng giáo dục con người của văn nghệ, song đó không phải
là sự giáo dục theo công thức giáo điều buộc người ta phải tuân thủ
mà ở đây mang ý thức tự giác cao. Thiết nghĩ, muốn “phục vụ” được
chính trị, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thì trước hết văn nghệ
phải ý thức được đầy đủ thiên chức của mình. Đó không đơn thuần chỉ
là chức năng tuyên truyền mà quan trọng hơn hết đối với ý nghĩa sự
tồn tại của văn học nghệ thuật là thiên chức đánh thức tâm hồn,
tình cảm của con người.
Hơn bao giờ hết, thời đại hội nhập hôm nay của dân tộc với thế
giới đòi hỏi ở lý luận một sự lý giải thỏa đáng cho câu hỏi: nằm trong
sự quản lý của thiết chế chính trị, văn nghệ sẽ phục vụ cho sự
phát triển của xã hội và con người như thế nào?
Có thể thấy, để phát huy tốt chức năng xã hội của mình văn
nghệ không thể sáng tác chạy theo giáo điều, rao giảng đạo đức một cách khô
khan, sống sượng, cũng không thể hô hào tình yêu Tổ quốc một cách chung chung,
sáo rỗng. Văn nghệ hoàn toàn không phải là một thứ “công cụ” như khẩu súng, máy
bay, tàu thủy, để sử dụng nó như một thứ vũ khí vật chất vào mục đích vụ lợi của
một số người, phe phái, cục bộ địa phương. Nghệ thuật là một hoạt động tinh thần
có sức mạnh kỳ diệu, nhưng sức mạnh của nghệ thuật không phải là thứ sức mạnh
nhờ vào quyền lực chính trị mang lại. Sức mạnh lôi cuốn thuyết phục của
nghệ thuật tỏa ra từ chính tác phẩm – điểm hội tụ tài năng, trí tuệ, tâm huyết
và bản lĩnh của người nghệ sĩ. Từ hơn sáu trăm năm trước, Nguyễn Trãi – danh
nhân văn hóa thế giới – đã từng dùng những trang viết sắc sảo, thấu lý đạt tình
để “mưu phạt tâm công” (đánh vào lòng người), và nhờ vậy ông đã để lại cho đời
những áng văn chương có “sức mạnh hơn mười vạn quân” (Phan Huy Chú).
Muốn có được sức mạnh lay chuyển lòng người như vậy, nghệ thuật
phải được bộc bạch tất cả những gì riêng tư nhất, khát vọng tha thiết nhất thuộc
về bản thể con người, nó đánh thức tình yêu và tiềm năng sáng tạo của họ, nó
khiến con người ý thức được niềm hạnh phúc và trách nhiệm lớn lao của quyền và
nghĩa vụ của Con Người theo nghĩa đúng nhất của từ này. Phải được nói
lên nhiều mặt cả cái xấu và cái tốt, cao thượng và thấp hèn, cái ác và cái thiện,
cái được và cái mất,… Văn học phải được đi đến tận cùng những số phận con người
với những trang viết thấu đáo về đời sống và con người. “Nó chỉ làm cái việc của
nó, riêng nó, riêng nó mới có thể làm được (…) giữ cho con người mãi mãi là con
người, không phải là con thú vô nhân tính, mà cũng không thành ông thánh cao vời,
vô duyên và cũng vô nhân tính nốt. Nó chăm lo cho con người mãi mãi thật là người”(15).
Văn học chân chính (cũng như chính trị tiên tiến) nằm ngoài những băng hoại
do thời gian. Sự sàng lọc nghiệt ngã qua thời gian khiến những tác phẩm văn học
có giá trị đích thực như những viên ngọc quý phát lộ hào quang. Đó cũng chính
là những tế bào góp phần cấu tạo nên văn hóa của một dân tộc. Và câu hỏi
những tác phẩm văn học như vậy “phục vụ” chính trị ở chỗ nào đồng nghĩa với lời
giải đáp cho câu hỏi: những tác phẩm ấy có giá trị làm cho cuộc sống tinh
thần, tâm hồn của con người ở thời đại mà nó tỏa sáng phong phú tốt đẹp lên ra
sao?
3. “Như ngọn đuốc soi đường”, ở mỗi chặng đường lịch sử, Đề
cương Văn hóa Việt Nam (1943) đã định hướng cho công cuộc xây dựng và phát triển
nền văn hóa mới của đất nước đạt nhiều thành tựu. Giá trị cốt lõi của Đề cương
vẫn phát huy tinh thần ở thời đổi mới, hội nhập theo xu hướng toàn cầu hóa;
Trên nền tảng tinh thần của Đề cương cùng các Nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị
lần thứ năm BCH Trung ương khóa VIII (tháng 7 năm 1998) Về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết
23-QĐ/TW (ngày 16 tháng 6 năm 2008) của Bộ Chính trị Về tiếp tục xây dựng
và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới… việc nhận thức vấn đề
mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị được các nhà nghiên cứu lý luận văn học
Việt Nam từng bước có những phát hiện, bổ sung, mở rộng nội hàm khái niệm ở nhiều
phương diện, cấp độ khác nhau và đã mang lại giá trị khoa học, góp phần thúc đẩy
sự phát triển của văn học nghệ thuật nói riêng và văn hóa nói chung trong thời
kỳ đất nước đổi mới và hội nhập.
Quan sát thực tiễn xã hội, có thể thấy những tư tưởng mới, tiến bộ đã và đang tiếp tục được khẳng định – Đó là tinh thần khắc phục những hạn chế trong nhận thức về vai trò của văn nghệ và chính trị, khôi phục lại quan hệ gắn bó mà đẳng lập của hai hình thái ý thức xã hội làm cho chúng phát triển trong tương quan một cách biện chứng. Văn nghệ với chức năng có tính đặc thù nghệ thuật sẽ cùng với chính trị hướng đến mục tiêu cao đẹp: làm cho xã hội ổn định, con người trở nên người hơn, sống nhân ái, nhân văn, và hướng về những khát vọng chân chính.
Tài liệu tham khảo:
(1), (2). Hồ Chí Minh, Lê Duẩn,… (1976), Về
văn hóa văn nghệ, (tái bản lần thứ tư), Nxb. Văn hóa, Hà Nội, tr.189, 53.
(3), (4), (5), (6), (11). Lại Nguyên
Ân, Nguyễn Thị Bình (Sưu tầm và biên soạn) (2006), Tư liệu văn học đổi mới (từ 1985 – 2995), http://www.vietstudies.info/NhaVanDoiMoi
(7), (14). Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận
và văn học, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh, tr.21, 27.
(8), (9). Nguyễn Văn Dân (2009), “Vấn đề mối quan
hệ giữa văn nghệ với chính trị”, Nghiên cứu Văn học, (4),
tr.11, 12.
(10). Lại Nguyên Ân (2003), Sống với văn học
cùng thời, Nxb Thanh niên, Hà Nội, tr.297.
(12). Phong Lê (chủ biên), (1990), Văn
học và hiện thực, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.137
(13). Nguyễn Văn Dân (2009), tài
liệu đd, tr. 13.
(15). Nguyên Ngọc (2009), “Đôi ý kiến
về văn học hiện nay’’, Tạp chí Nghệ thuật biểu diễn (Tháng 1), tr.36.
24/2/2023
Cao Thị Hồng
Theo https://vanvn.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét