1. Dẫn nhập Thuyết nghiệm thân đã được biết đến trong triết học
Hi Lạp qua Plato và Aristotle và được hệ thống hóa bởi Des Cartes, và lí thuyết
này đã thống trị triết học phương Tây trong nhiều thế kỉ. Mô hình tư tưởng hiện
thân được phát triển bởi Johnson (1987); Lakoff (1987); Kovecses (1986, 1990,…)
đã cho thấy những ẩn dụ cảm xúc như sự giận dữ của con người xuất hiện trong
ngôn ngữ và xuất phát từ cơ sở văn hóa, cơ sở sinh lí học của con người. Tiếp
đó, các nhà tri nhận luận đã nghiên cứu ngôn ngữ trong mối liên hệ với tính hiện
thân, nhận thức và kinh nghiệm thân thể của con người. Ẩn dụ ý niệm dần được
phát triển theo hướng chủ nghĩa hiện thực kinh nghiệm, gắn với các lí thuyết thần
kinh, căn cứ trực tiếp vào kinh nghiệm hàng ngày của con người. Kinh nghiệm cảm
giác là cơ sở đưa ra các đánh giá chủ quan của nhận thức ngôn ngữ [9; 256]. Hướng
đi này sau đó đã được Lakoff phát triển thành học thuyết “Trí tuệ nhập thân”,
chủ trương nghiên cứu sự phụ thuộc những năng lực tư duy của con người và những
quan niệm về thế giới, kể cả những hệ thống triết học vào những đặc điểm cấu tạo
của cơ thể và bộ não con người.
2. Khảo sát trường hợp: “BUỒN LÀ HƯỚNG XUỐNG”
trong ca từ Trịnh Công Sơn Trong ca từ Trịnh Công Sơn, đối lập với ẩn dụ định
hướng VUI LÀ HƯỚNG LÊN là ẩn dụ BUỒN LÀ HƯỚNG XUỐNG. Ẩn dụ này không phải võ
đoán mà có cơ sở kinh nghiệm sinh lí và văn hóa rõ ràng. Kinh nghiệm sinh lí của
con người cho thấy tư thế ủ rũ thường đồng hành với trạng thái tinh thần tiêu cực
như buồn bã, thất vọng và chán nản. Hiện tượng này cũng quan sát được ở các thực
thể sống khác, khi thực thể đó có vấn đề về sức sống. Chẳng hạn, cây bị héo và
lá rũ xuống khi thiếu nước hoặc trước khi chết. Con vật nuôi (chó) khi bị chủ mắng
mỏ cũng thường cụp đuôi và nằm co lại, mắt nhìn xuống dưới đất với gương mặt rầu
rĩ, chờ được chủ vỗ về hoặc tha thứ. Con người khi buồn bã thường ngồi ủ rũ, gục
mặt xuống bàn với tư thế nửa nằm nửa ngồi, ngồi bó gối hoặc nằm co quắp, nằm sấp
xuống… như để trốn tránh giao tiếp, trốn tránh ngoại cảnh, gặm nhấm và chiêm ngẫm
nỗi buồn.
Hiện tượng này là phổ quát ở mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ. Tiếng
Việt có các thành ngữ diễn tả ý niệm BUỒN LÀ HƯỚNG XUỐNG như: Gan héo ruột sầu;
Ủ dột nét hoa; Héo hon ruột tằm; Rũ như tàu lá; Ủ rũ như gà phải trời mưa; Rũ
như con gà cắt tiết, v.v…Trong kho tàng ca dao người Việt, để diễn tả trạng
thái tình cảm buồn rầu, ông cha ta cũng có nhiều câu diễn tả tư thế hướng xuống
của con người gắn với trạng thái buồn như:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Hai tay
rũ xuống như tàu chuối te;
Gió lao xao tàu cau ngã liệt
Nghe em lấy chồng, anh
rũ liệt chân tay;
Vượn lìa cây có ngày vượn rũ
Con xa mẹ rồi mặt ủ mày chau;
Bởi
anh tin bợm mất bò
Tin bạn mất vợ nằm co một mình;
Hà tiện để tiền cho vay
Đến
khi xuống vực khoanh tay ngồi buồn;
Ngồi buồn than thở thở than
Gối nghi ng, đệm
chếch, phòng loan một mình;
Em bước xuống ruộng sâu dạ sầu sáu tấc
Em xa anh rồi
ruộng đất bỏ hoang…
Như vậy, trong thành ngữ hay ca dao, tác giả dân gian cũng
luôn sử dụng các ẩn dụ định hướng BUỒN LÀ HƯỚNG XUỐNG để diễn tả các trạng thái
tình cảm theo xu hướng tiêu cực của con người. Khi rơi vào tâm trạng buồn chán,
sầu muộn, đau lòng, thất tình, tuyệt vọng, thất thế… con người luôn gắn với tư
thế nằm co, ngồi rầu rĩ, bất lực, rũ rượi, ủ dột, héo hon, nhắm mắt, bước thấp
bước cao, đi xuống… trạng thái tình cảm buồn luôn gắn với tư thế hướng xuống,
xuống thấp. Trong ca từ Trịnh Công Sơn, trạng thái tình cảm buồn luôn luôn gắn
với ý niệm BUỒN LÀ HƯỚNG XUỐNG. Nỗi buồn trong ca từ nhạc Trịnh bắt nguồn từ
nhiều căn cớ như: buồn vì những lo âu và dự cảm về phận người; buồn vì chứng kiến
thảm cảnh chiến tranh; buồn vì những nỗi niềm tuyệt vọng của nhân vị; buồn vì
tình yêu chia xa, quay gót, v.v…Sinh ra trong một gia đình phật tử, trưởng
thành trên đất Huế, không gian cổ kính, trầm mặc của những lăng tẩm, đền đài,
tháp cổ đã thấm đẫm trong kí ức nhạc sĩ; âm thanh gần gũi của tiếng chuông
chùa, của những câu kinh kệ luôn gợi nhắc trong ông những suy tưởng sâu sắc về
phận người. Là một trí thức Tây học, lại tham gia học ở ban Triết, cũng như bao
thế hệ thanh niên trí thức miền Nam cùng thời, Trịnh Công Sơn bị ảnh hưởng bởi
triết học Hiện sinh phương Tây, vấn đề thân phận con người và sự tồn tại phi lí
của con người trong cuộc đời đã trở thành nỗi hồ nghi, hoang mang không chỉ của
riêng ông mà của cả một thế hệ. Nỗi buồn thân phận trở thành một nỗi trăn trở
khôn nguôi, được phản ánh bi thiết trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn, xuất
hiện ở 16/228 ca khúc (chiếm tỉ lệ 7,0%). Cơ sở vật lí cũng cho thấy khi con
người ở trạng thái tình cảm buồn bã, u sầu thì có tư thế ủ rũ và có xu thế hướng
xuống. Trong ca từ nhạc Trịnh, hình ảnh biểu tượng cây đời u sầu rụng hạt
thương đau về nguồn cội (đất đen) là tư thế hạ xuống thấp, trở về nguồn cội của
con người:
Từng hàng thương đau
Trên cây u sầu Hạt rụng cho anh
Để lại cho
em Từ ngày mang tên
Sao còn buồn
Sao thù hằn
Tủi hờn đất đen
(Lại gần với
nhau)
Khi buồn là con người thu mình lại, cuộn lại, co cụm trong bóng tối, đời
cũng thu mình lại, giấu mặt:
Từng ngày nhìn nắng úa ngoài hiên
Một ngày buồn tênh đời giấu mặt
Thu lại góc mình một bóng tối
Trong các
ca khúc Trịnh Công Sơn, khi buồn, con người thường ngậm ngùi với những khúc ru:
ru em, ru đời, ru tình, rồi lại ru ta. Chính nhạc sĩ đã từng tâm sự rằng ru như
vậy chính là tự ru dỗ mình, tự an ủi mình, khi ấy con người cũng ở xu thế xuống
thấp, ngủ yên:
Hương trầm có còn đây,
ta thắp nốt chiều nay
Xin ngủ trong vòng
nôi,
ta ru ta ngậm ngùi
Xin ngủ dưới vòm cây
(Ru ta ngậm ngùi).
Luôn ám ảnh
trong tâm trí bởi nỗi buồn nhân vị, tìm quên trong men say, con người ngủ vùi
cho tuổi xuân trôi đi trong vô thường, bởi biết rằng rốt cuộc rồi đời người
cũng chỉ là một cõi đi về" vô định, sinh ra trên đời là đã hẹn hò một ngày
sẽ chia li với cuộc sống:
Hôm nay ta say ôm đời ngủ muộn
(Một cõi đi về).
Với
Trịnh Công Sơn, nỗi buồn nhân vị là nỗi buồn không cơn cớ, là nỗi sầu muộn từ
thuở hồng hoang của con người mà lời hẹn “trăm năm” tự mỗi con người đã mắc nợ
cuộc đời ngay từ lúc mới sinh ra, ngay từ thuở nằm nôi. Nỗi buồn trĩu nặng kéo
con người xuống thấp:
Đêm ta nằm bóng tối che ngang
Đêm ta nằm nghe tiếng trăm
năm
(Còn có bao ngày).
Trịnh Công Sơn bị ảnh hưởng bởi triết hiện sinh phương
Tây, cho rằng con người ta ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời là đã tiềm ẩn một
cái chết đón đợi, cuộc đời con người là một sự trốn chạy khỏi lưỡi hái của khỏi
thần chết, và cái chết luôn dồn đuổi con người ở mọi lúc, mọi nơi. Vì vậy, ngay
dưới mỗi vòng nôi đã ẩn tàng một nấm mộ, thân phận con người sinh ra trên đời
đã là một bi kịch, một nỗi sầu muộn truyền kiếp:
Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ
Dưới
chân ngày cỏ xót xa đưa
(Cỏ xót xa đưa)
Vì vậy, khi lắng nghe những âm ba bi
ai của cuộc đời, con người lại có xu hướng nằm xuống với đất mẹ như chốn hẹn hò
trở về mẫu gốc:
Nằm trong tiếng bi ai;
Nằm xuống với đất muôn đời
(Ngẫu nhiên).
Tiếng ru của mẹ là tiếng gọi tha thiết con người trở về với nguồn cội, với nơi
chốn đã từ đó sinh ra, hóa thân. Trịnh Công Sơn quan niệm bào thai mẹ chính là
nơi quê quán thân thuộc của mình, mỗi khi buồn chán hay tuyệt vọng là nhạc sĩ
có xu hướng tìm về nơi quê quán tôi xưa, nằm nghe tiếng ru của mẹ, nhớ lại
vòng nôi ngọt ngào để ru dỗ cơn đau:
Người ngồi xuống xin mưa đầy
Trên hai tay
cơn đau dài
Người nằm xuống nghe tiếng ru
(Mưa hồng)
Đôi khi, lo lắng về một
ngày mai thế giới sẽ tàn tạ, loài người đi vắng hết khỏi mặt đất này, sự sống
thiếu vắng nơi nhân gian, nhạc sĩ lại biến thành đứa trẻ - một đứa trẻ mang suy
tư triết học, ngồi trầm mặc, trăn trở không nguôi về nhân thế và thời cuộc:
Tôi
như trẻ nhỏ ngồi bên hiên nhà
(Tự tình khúc)
Khi rơi vào tuyệt vọng, nỗi buồn
khiến con người như rũ xuống, khô héo, như rơi xuống vực sâu:
Trong em ngày ấy
vực sâu một đời.
(Có một ngày như thế)
Trong ca từ Trịnh Công Sơn, ở nhiều ca
khúc có xuất hiện hình ảnh ẩn dụ tri nhận CUỘC ĐỜI LÀ MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH,
trong đó chuyến xe chính là phương tiện chuyên chở, đưa con người trên hành
trình rời xa cõi tạm, trở về bên kia thế giới. Trong những phút buồn bã, không
chỉ con người, mà chính ngay cả phương tiện hành trình của con người cũng ủ dột,
xuống thấp, sa sút tinh thần:
Một ngày như mọi ngày
Giọng buồn lên tiếp nối
Một
ngày như mọi ngày
Xe ngựa về ngủ say (...)
Một ngày như mọi ngày
Bóng đổ một
mình tôi.
(Một ngày như mọi ngày).
Dự cảm về cuộc sống hữu hạn và mong manh,
con người nhạc sĩ đau đáu không nguôi về một cuộc chia li lớn với mặt đất, với
loài người, với cuộc sống đang từng ngày hiện hữu. Những dự cảm ấy có chiều sâu
từ trong triết lí của nhà Phật; nơi thuyết đề về thân phận mong manh của cây sậy
trong triết Hiện sinh phương Tây; trong ám ảm về phận cát bụi trong Thiên Chúa
giáo. Những tư thế chùng xuống, nằm xuống, co lại, ngủ yên… của con người đã lột
tả những trạng thái đầy tâm sự âu lo, buồn bã, sâu lắng. Con người muốn thu
mình lại, đối diện với cái bóng của chính mình, đối thoại với một cõi thế xa
xôi:
Về đồi mây thắp hương nằm mộng
Rồi ngủ quên giữa trời mênh mông (...)
Về
nguồn xưa gối tay nằm bệnh
Về cội xưa níu tay nghìn trùng
(Níu tay nghìn
trùng).
Cảm nhận cái mong manh, hữu hạn của phận người, con người luôn cảm thấy
bế tắc ngay giữa những hiu quạnh của đời mình, âu sầu bi lụy, như con chim nhỏ
tìm nơi hạ cánh về cuối đèo để được trở về bên đất mẹ vĩnh hằng:
Trên đôi vai u
sầu
Tìm về nơi cuối đèo
(Như chim ưu phiền)
Được trở về với đất là về với tổ ấm
vĩnh cửu, được hân hoan ca hát ở miền cực lạc:
Xin được xin nằm yên,
đất đá hân
hoan một miền
Trong ca từ nhạc Trịnh, nỗi buồn thân phận
luôn song hành với nỗi buồn chiến tranh. Là một người lớn lên và trưởng thành
trong bối cảnh đất nước chiến tranh loạn lạc, nỗi buồn chiến tranh đã trở thành
một nỗi ám ảnh thường trực trong tâm hồn Trịnh Công Sơn. Những ám ảnh kinh khiếp
về sự tàn phá của bom đạn, sự chết chóc và những cuộc chia li không báo trước với
người thân, sự lạnh lẽo và vô cảm của bia mộ… đã được nhạc sĩ phản ánh vào
trong các ca khúc của mình, bằng một tâm hồn nhạy cảm và một trái tim biết lắng
nghe những âm thanh đồng vọng cả từ hai phía chiến tuyến. Được xuất hiện ở
13/228 ca khúc (chiếm tỉ lệ 5,7%), nỗi buồn chiến tranh đã đưa những ca khúc Da
vàng của Trịnh Công Sơn trở nên bất hủ với thời gian và gắn liền với lịch sử
đau thương của dân tộc. Nỗi buồn ấy được khởi nguồn bởi sự đứt gãy của tình yêu
giữa chốn binh đao, khiến con người cảm thấy như bị chôn vùi dưới vực thẳm. Bất
lực trước ngoại cảnh, mỗi ngày mới đến con người lại thu mình lại, co mình yên
vị trong góc tối; những nụ cười rơi rụng tiễn đưa niềm vui rời xa con người… nỗi
buồn kéo con người xuống dưới, thu mình xuống thấp:
Có những vực bờ chôn theo
tình đầu (...)
Nhưng khi về lại thu mình góc tối
Trong tôi rụng đầy bao nhiêu
nụ cười
(Bay đi thầm lặng).
Sống trong trạng thái ngưng đọng, ao tù, âm u đầy
mùi tử khí, con người chỉ biết xuống thấp một cách lặng lẽ, chiêm nghiệm nỗi buồn
thời cuộc:
Ngồi lặng nghe thế giới
Buồn từng phút giây
(Buồn từng phút giây).
Khi buồn là con người xuống thấp, “cúi xuống” để cảm nhận sự bơ vơ của cây cỏ,
sự xót xa của mặt trời, sự chông gai của cuộc đời, sự vỡ vụn của xúc cảm, sự dồn
nén của hai mươi năm nội chiến đau thương:
Cúi xuống cúi xuống thật buồn (...)
Cúi xuống cho tắt nụ cười
Thời gian 20 năm chiến
tranh là cả một quãng thời gian dài, được tính bằng thời gian của một thế hệ.
Dân tộc ta mong mỏi hòa bình đến mòn mỏi, mẹ già nuôi hi vọng đến còm cõi cả thể
xác lẫn tinh thần, hết hi vọng, ngủ yên, tìm quên lãng trong nỗi sầu muộn:
Mẹ
già hết chờ mong
Đã ngủ yên
Mẹ già mãi ngủ yên
(Du mục).
Sự kéo dài và nỗi buồn
chiến tranh không những khiến mẹ già mệt mỏi, tìm quên trong giấc ngủ, mà còn
khiến tuổi trẻ Việt Nam tìm đến trạng thái đi xuống một cách tiêu cực, thụ động,
vùi mình trong giấc ngủ để quên đi những tang thương thời cuộc:
Đời đã khép và
ngày đã tắt
Em hãy ngủ đi
Đời mãi đêm và ngày mãi buồn
Em hãy ngủ đi.
(Em hãy
ngủ đi)
Vì BUỒN ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI nên người nô lệ da vàng mới “ngủ quên”
bao năm trong căn nhà nhỏ, co mình lại, thu mình lại để trốn tránh thế giới
gông cùm, xiềng xích ngoài kia:
Người nô lệ da vàng ngủ quên
Ngủ quên trong
căn nhà nhỏ (…)
Ngủ quên qu n đã bao năm
Ngủ quên không thấy quê hương (...)
Ngồi yên trong căn nhà nhỏ
Đèn thắp thì mờ
Ngồi yên quên nước quên non
Ngồi
yên xin áo xin cơm
Sống trong cảnh nô lệ, tất cả đều bị xuống tinh thần, ngồi chờ
đợi tự do một cách vô vọng:
Mẹ cũng ngồi chờ
Anh lính ngồi chờ
Người tù ngồi
chờ
(Chờ nhìn quê hương sáng chói);
Một người ngồi hai mươi năm
(Ngày dài trên
quê hương).
BUỒN ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI, người già co ro trong bất lực, nằm lắng
nghe âm thanh của tiếng súng và đạn nổ, nhìn ánh hỏa châu như lưỡi hái tử thần
tàn phá quê hương:
Người già co ro chiều thiu thiu ngủ
Người già co ro buồn nghe
tiếng nổ
Em bé loã lồ khóc tuổi thơ đi
(Người già em bé).
Không chỉ con người
phản ứng trước nỗi buồn thời cuộc bằng cách vùi mình ngủ quên, mà vạn vật vô
tri vô giác cũng cuộn tròn lại, co cụm, thu mình trong cái bao la sầu nhân thế,
ngủ cho quên phận nô vong. Loài sâu, loài rong hay chính là những biểu trưng
cho phận người bé nhỏ:
Mùa xanh lá loài sâu ngủ quên trong tóc chiều (…)
Dòng
sông đó
Loài rong yên ngủ sâu (...)
Và tiếng hát về ru mình trong giấc ngủ vừa
(Dấu chân địa đàng).
Trong ca từ Trịnh Công Sơn, dã tràng là biểu trưng cho phận
người Việt Nam, cho tuổi trẻ Việt Nam hành động một cách vô vọng, giống như huyền
thoại Siship, lăn vô vọng một tảng đá lên đỉnh núi, triền miên ngày này qua
ngày khác mà không đến được đích, không thấy được ánh sáng tương lai. Trong đêm
dài của đất nước, tuổi trẻ Việt Nam chìm sâu trong nỗi buồn đau với mặc cảm lưu
đày, nhận rõ sự hoài công dã tràng của mình, những nỗ lực cố gắng để thay đổi
hoàn cảnh đã tiêu tan, con người thể hiện nỗi buồn với những tư thế hướng xuống:
Dã
tràng dã tràng xe cát biển đông
Dã tràng dã tràng dã tràng xe cát hoài công
(...)
Thân đày dấu trong môi cười
Tay dài gối giấc ngủ vùi
Nhưng không chịu mãi cảnh nằm co, ngủ vùi chờ đợi, người Việt Nam da vàng đã đứng
lên, tìm đường đi trên con đường giải phóng. Hành hương trên con đường đi tìm tự
do và ánh sáng cho dân tộc, mịt mờ và mò mẫm trong bóng tối, vẫn chông chênh,
chưa tìm thấy ánh sáng tương lai, nỗi buồn như lực hút vô hình kéo con người
nghiêng đổ, chìm xuống, đè nặng dưới những trăn trở ưu tư:
Người đi một mình đồi
dốc nghiêng xuống
Người đi một mình vực sâu gọi tên (...)
Người đi một mình
chìm sâu lời ca (…)
Vực sâu đá lăn gọi tên nhớ em
(Hành hương trên đồi cao).
Và
không gì có thể diễn tả hết nỗi niềm đau đớn, tuyệt vọng của người mẹ khi nằm
ôm xác con vào lòng, dọc đường chiến tranh: Mẹ nằm ôm con, dọc đường tang
thương
(Một ngày vinh quang một ngày tuyệt vọng).
Trong thực tế đời sống, kinh
nghiệm vật lí cho thấy khi con người buồn chán hay rơi vào trạng thái nội tâm
đau đớn, thất vọng, thiếu vắng đi mục tiêu sống có ý nghĩa, hoặc bị tổn thương
bởi không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống thì thường có xu thế trốn tránh thực tại,
nằm xuống, nằm co mình lại, cuộn tròn trong mệt mỏi, tránh giao tiếp để che dấu
nỗi đau hoặc một mình gặm nhấm nỗi buồn. Ở một khía cạnh nào đó, đây cũng là một
biểu hiện của sự bất cần, buông thả, sa sút tinh thần, nói theo triết hiện sinh
phương Tây, đây là nỗi “trầm buồn hiện sinh”. Trong ca từ Trịnh Công Sơn không
hiếm những biểu hiện ấy:
Người nằm co như loài thú khi mùa đông về
Người nằm
yên không kêu than buốt xương da mình (...)
Người nằm co như loài thú trong rừng
sương mù
Người nằm yên không kêu than chết trên căn phần
Một góc trời người vẫn
ngồi một đời nhỏ nhen (...)
(Phúc âm buồn).
Trạng thái ‘‘nằm co’’ ấy của con
người chính là tấm gương phản chiếu tâm trạng buồn chán, tuyệt vọng và bế tắc
trước thời cuộc đảo điên.
Ẩn dụ định hướng là phép ẩn dụ được bắt nguồn từ kinh nghiệm
vật lí và văn hóa, không phải được hiểu một cách ngẫu nhiên. Mỗi ẩn dụ có thể sử
dụng như là một phương tiện để hiểu một khái niệm bởi những kinh nghiệm cơ sở,
trong đó những trải nghiệm mang tính vật lí và trải nghiệm văn hóa đóng vai trò
quan trọng. Mỗi ẩn dụ định hướng lại có sự gắn kết trong tổng thể hệ thống, là
sự gắn kết giữa các cấp độ ý niệm và sự tương hợp giữa các ẩn dụ. Thông qua việc
sử dụng một cách điêu luyện và tinh tế ẩn dụ định hướng BUỒN LÀ HƯỚNG XUỐNG, đặt
trong sự gắn kết với kinh nghiệm vật lí của cơ thể, những trải nghiệm văn hóa cộng
đồng, nỗi buồn thân phận con người, nỗi buồn chiến tranh và những trăn trở về
phận người đã được tác giả diễn tả một cách hết sức bi thiết, trở thành một tiếng
nói công phẫn, thể hiện mạnh mẽ thái độ lên án cuộc chiến tranh phi nghĩa của
các nhà cầm quyền ngay chính trên quê hương mình. Các ca khúc trên cũng trở
thành khúc tráng ca, tha thiết kêu gọi hòa bình, kêu gọi tình yêu thương, lương
tâm và trách nhiệm giữa con người với con người trong cộng đồng Da vàng vốn
cùng chung dòng máu Lạc Hồng chảy trong huyết quản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần
Văn Cơ (2007), Ngôn ngữ học tri nhận - ghi chép và suy nghĩ, Nxb Khoa học Xã hội.
2. Trần Văn Cơ (2009), Khảo luận ẩn dụ tri nhận, Nxb LĐ xã hội.
3. Nguyễn
Đức Dân (2009), Tri nhận không gian trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 12,
tr.1-14.
4. Phan Thế Hưng (2009), Ẩn dụ dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận (trên
cứ liệu tiếng Việt và tiếng Anh), Luận án tiến sĩ ngữ văn, Trường ĐHSP Tp. HCM.
5. Ly Lan (2009), Về các ý niệm và phạm trù tình cảm cơ bản của con
người (trên dẫn liệu tiếng Anh), Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 6 (163), tr.
21-25.
6. Ly Lan (2012), Ngữ nghĩa và cơ sở tri nhận của các từ biểu đạt tình cảm
trong tiếng Anh (liên hệ với tiếng Việt), Luận án tiến sĩ ngữ văn, Học viện
KHXH.
7. Trần Bá Tiến (2012), Nghiên cứu thành ngữ biểu thị tâm lí
tình cảm trong tiếng Anh và tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học tri nhận, Luận
án tiến sĩ ngữ văn - Trường Đại học Vinh.
8. Lý Toàn Thắng (2009), Ngôn ngữ học
tri nhận: Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt, (tái bản, có sửa chữa,
bổ sung), Nhà xuất bản Phương Đông.
9. George Lakoff and Mark Johnsen (2003)
Metaphors we live by, London: The university of Chicago press.
10.http://www.tcs-home.org/banbe/pham-van-dinh/thu-muc-ca-khuctrinh-cong-son.
Nguyễn Thị Bích Hạnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét