Sư cụ chùa làng và
bà lái đò
Sông Quê Hương - Tranh: Mai
Tâm
Từ dạo ấy, chẳng một ai nghe
già làng xì xầm chuyện sư cụ có trở về chùa nữa hay không.
Chuyện rằng hàng năm cứ đến
ngày ‘’Tiết tháng bẩy sắp phu phân, ngày rằm xá tội vong nhân hải hà’’, ắt hẳn…hà
là sông, nên sư ông khoác tay nải xuống núi và…sang sông.
Cứ theo lời già làng thì thẻo đất
hẻo lánh này có một ngọn đồi thoai thỏai dốc, dưới là sông, trên là cây có tán
có tàn nên được gọi là…núi. Và tên là núi Non Nước, có thể là núi chưa già đủ
tuổi chăng. Chả mấy ai bận tâm, thế nên bạn đọc đừng cắc cớ hỏi núi ở đâu. Qua
chuyện đầu cua tai nheo, người viết nhẩm chừng đất quê là quê cụ Tam Nguyên Yên
Đỗ. Thêm nữa, chỉ biết rằng bến sông có một bến đò và một cây gạo hoa đỏ. Tuy
nhiên gặp mùa nước lũ, nước dâng lên cả chân núi, mặt sông nở rộng cả ba, bốn lần,
nước sông chuyển sang mầu nâu đất na ná như cà chua thối. Từ trên chùa ẩn khuất
nhìn xuống, con đò ngang giống hệt chiếc lá tre mỏng manh, bập bềnh giữa dòng
nước lặng lờ. Vậy mà con đò vẫn lầm lũi sang ngang. Và trên chiếc thuyền gỗ bạc
phếch, rạn nứt, đầy bất trắc ấy…thì…
Thì xin thưa, chẳng thiếu vắng
cô lái đò.
Bạn đọc lầu nhầu: Gì mà lềng bềnh
với sóng nước!. Rõ ra cứ theo người thuật lại cho người viết, chuyện có chút
hơi hướng của Hermann Hesse. Nhưng có sao đâu, ông Hesse ở trời Tây, ta ở
phương Đông, đâu đó cũng lẵng nhẵng với không ai về lại tắm hai lần cùng một
dòng sông. Thế nhưng chuyện dưới đây ngược lại. Vì vậy Đông-Tây chẳng bao giờ gặp
nhau, mọi sự bất trắc trên chiếc thuyền gỗ nằm ở hồi sau, hạ hồi sẽ phân giải,
thưa bạn đọc…
Thêm nữa, trên núi có chùa là
phải có sư.
Người viết xin thưa trước, nhân
vật trong truyện là một ông sư. Sư ở chùa và tụng kinh cũng tốt thôi. Bạn đọc
làm như muốn hỏi vậy chứ sư tốt hay xấu. Xin đừng hỏi vì lấy cái cân tiểu ly
nào để cân, đo mọi sự xấu hết hay đều tốt, chẳng qua tùy bá quan bá tính. Người
viết chỉ hay rằng: Theo thời gian, khi trước là sư trẻ, sau này là sư cụ. Còn
bây giờ là sư ông, dễ hiểu vậy thôi, thế đó. Thế nhưng theo già làng, vùng đất
đây ngắm đít trâu bằng vụ chiêm, trời hành cơn lụt liên miên nên mất mùa lúa
kéo theo nạn đói cả năm. Một ngày có một vợ chồng nọ bỏ con trước cửa chùa rồi
tha phương cầu thực mãi đâu đâu. Chú bé lớn lên theo cảnh chùa hiu hắt, thoạt kỳ
thủy là chú tiểu quét lá đa. Chẳng ai nói với chú rằng đi tu khổ lắm. Chú sống
như cây cỏ, theo tiếng chuông tiếng mõ, tròn hai mươi tuổi, chú thọ đại giới và
chợt một ngày chú thành tỳ kheo. Ngày tháng qua mau, sư tổ viên tịch. Tùy duyên
mà hóa, chú bỗng…hóa thành sư ông. Chẳng ai nghĩ chú bé côi cút ngày xưa vào được
cửa đạo một cách thong dong, và chung cuộc sẽ là kẻ tiếp nối sư tổ trong sứ mệnh
hoằng dương Phật pháp tại chùa cho tới nay. Thôi thì trong đạo hay ngoài thế tục
ai nấy có một lối đi riêng, một đời sống riêng mà nhà chùa gọi là biệt nghiệp để
chẳng ai giống ai. Và sư ông chùa làng cũng vậy. Tạm hiểu theo nghĩa là sư bị
cái vòng kim cô của nhà Phật bó chặt. Hay nói khác đi, mặc dù sư có căn tu đến
thâm căn cố đế, nhưng vì khắc kỷ để sinh chuyện. Chuyện nỗi sầu vạn cổ là thế đấy.
Sư ông trụ trì vóc người đùm đậu,
khuyềnh khoàng như một thầy tu khổ hạnh. Sư sống xuyềnh xoàng, xào xạc gần như
bị bỏ quên trong am cốc. Sư đang ngước mắt nhìn mây bay gió thổi và chợt nhớ ra
mùa này là mùa ‘’Cơm canh cháo nẻ trầu cau, tiền vàng quần áo đủ mầu đỏ
xanh’’.Cúng cả năm không bằng rằm tháng bẩy, nên loáng một cái là sư ông đã
khăn gói tươm tất xuống chợ huyện cách con sông chỉ một thôi đường. Bến sông
còn được gọi là bến Chùa chỉ sầm uất vào dịp tết, hội làng, đình đám hay thảng
như ngày xá tội vong nhân như mấy hôm rày chẳng hạn. Từ sáng đến trưa, già nửa
đàn bà, con gái, trẻ con trong làng kéo nhau xuống bến đò để qua chợ mua hoa quả,
vàng hương… Và trong đó có sư ông.
Thưở ấy chưa có đồng hồ, sư ngắm
trời đất luận tứ thời bát tiết miết nên trễ đò. Vai khoác cái tay nải, tay cầm
đôi guốc rề tre gộc, quai da trâu, đứng dưới cây gạo, sư ông kêu ơi ới:
– Đò.
Gào tướng lên xong, sư thầm nhủ,
việc quái gì mà phải gọi như gọi đò sang sông vì không kêu con đò kia cũng ghế
bến đưa khách sang sông là…sư kia mà. Như có duyên nghiệp….
Trên thuyền có cô lái đò trong
tuổi lỡ thì.
Cô bắc tấm ván ọp ẹp làm cầu để
khách lên thuyền…về một bến cô liêu. Vòm trời cao vút, xanh thao thiết đến nhức
mắt. Mặt trời lên chừng hai con sào, cô lái đò môi mím lại, trán lấm tấm mồ
hôi, và óc ách đẩy sào đưa con đò tách bến. Như có tiền duyên hậu nghiệp, vì nhắm
khi chỉ một chỗ ngồi và cái nhìn lơ đễnh không thôi có thể thay đổi cả một
quãng đời: Vì sư đang ngồi sát mạn thuyền, chênh chếch trước mặt cô lái đò. Bỗng
có một con cá lớn lắm thì phải, quẫy mình tung lên khỏi mặt sông làm nước bắn
vào vạt áo nâu sòng của sư. Sư ông giật mình thảng thốt kêu lên: A di đà
Phật.
Rồi kiếp nạn cũng qua. Cô lái
đò nghe thấy bèn nhủ thầm trong trong bụng dạ rằng ông sư này vẫn còn bận bịu với
ngã và vô ngã, là sư mà vẫn còn tham sân si, vẫn còn tiếc nuối cái áo, vậy lỡ…
‘’ngã’’ xuống sông thì sao. Vừa nghĩ đến đây, bỗng dưng gió đổi chiều, những cụm
mây mầu cánh vạc làm bầu trời sẫm hơn. Con đò rời bến áng chừng hơn nửa khắc
thì trời đổ mưa. Mưa bóng mây chỉ trong chốc lát nhưng rất hiếm thấy vào dịp
tháng bẩy mưa ngâu này. Mưa rơi lộp độp trên nón lá, thúng mủng của các bà đi
chợ. Mưa gõ xuống sạp thuyền rào rào, mưa tạt cạnh be thuyền lốp bốp. Sau cơn
mưa, nước sông chuyển sang mầu nâu đất na ná như cà chua thối. Và mưa cũng
không tha cô lái đò. Cô hơi cong người như con tôm he, vừa chèo thuyền vừa liếc
xéo sư và hóng hớt bâng quơ: Giông bão gì đâu như quạ xuống núi.
Quạ đây ắt hẳn là…sư. Nhưng xa
chốn phàm tục lâu ngày, thế nên sư không thông suốt câu nói xa xôi ấy. Nhưng
qua câu nói, sư mới nhãn nhục cô kỹ hơn một tí. Luận về con mắt thì mắt sư có
tròng, tròng lại nằm trong ổ, ổ lại kẹp giữa hai mi, nhìn thể nào cũng ra những
tuyệt tác trong cõi nhân gian. Ðối với sư cảnh vật nhân gian đẹp đẽ cách mấy
cũng chỉ là thứ yếu. Tác phẩm tuyệt tác nhất phải là đôi mắt của cô lái đò này
đây. Sư lại phân vân vì con mắt đó, trong nhân tướng học gọi là phượng nhãn chỉ
cho người mang ‘’chữ nhẫn’’. Sư cho rằng ngoài nhẫn nhục, cô lái đò chỉ đẹp ở…đôi
mắt lá răm. Theo sư, người đẹp chỉ cần một đôi mắt là đủ và không hơn. Và sư ve
vé mắt nhòm nom.
Sư nom nhòm thấy cô mặc áo cánh
nâu như sư, quần nái đen cũ sì được vén lên đến tận đầu gối, để lộ cặp đùi trắng
như ếch lột. Vì người thon vỏn nên cô có dáng dấp nửa con gái nửa đàn bà, cô
tươi roi rói, cứ theo sư xinh đến bối rối chả hẳn là đúng mà đèm đẹp thì đúng
hơn. Lẫn đẫn cả một hồi lâu trong tĩnh lặng, vừa lúc nước mưa ngấm qua manh áo
mỏng tang. Sư mới đốn ngộ ra rằng trông ‘’cái gì ấy’’, gì mà nó nòn nõn, vũm
mĩm như quả phật thủ mà thí chủ thường cúng dường tam bảo. Nên chẳng có gì lạ lẫm
đối với sư cả. Và sư nghĩ vậy.
Thế nhưng không phải vậy ! Sư bối
rối vì thấy…quen quen nên rối trí. Vì rối trí nên sư cúi đầu xuống làm như lâm
râm đọc kinh thì…Thì đúng trong cái lúc này đây sư chợt nhớ ra là cái quen thuộc
ấy là bầu ngực mà bu sư cho bú tí lúc còn…bé tí. Sư ngửng đầu lên và xua đuổi
cái ý nghĩ ấy đi. Vì nhớ rõ như in là sư…mồ côi từ lúc oe oe chào đới, sư bị bỏ
trước cửa chùa rồi lớn lên theo cây cỏ. Sư bị phân tâm thật rồi! Hay là trăm sự
ở mấy bà địu con lên chùa, rồi vén yếm cho con bú trước chốn thiền môn? Sư bâng
quơ, rằng chuyến này về sư phải cấm tiệt vì chúng sinh có những bộ ngực bánh dầy
bề bộn như vậy là ô uế cửa thiền môn chứ còn gì nữa.
Cái yếm vừa phất phơ qua đầu…Cái
đầu rối rắm của sư lại đẩy đưa đến cái áo cánh nâu, sư liếc mắt về cô lái
đò…Trong một sát na, sư giật mình triệt ngộ được một điều: Trong nhà Phật, mở
được huệ nhãn là thấy được cái chân không vô tướng của mọi pháp. Tức là thấy
xuyên suốt rõ tất cả, không có gì che đậy được. Ấy vậy mà hạnh từ bi vẫn chưa nở
hoa.
Chợt nhớ lại những ngày còn là
chú tiểu, sư thầy dậy về những cám dỗ cần phải tránh trong giải thoát giác ngộ,
trong đó tiền bạc và sắc giới đứng hàng đầu. Với những gì trên đường tu đạo mà
chú trải qua thì ở vùng quê hẻo lánh, rừng sâu hay núi thẳm, tiền bạc chỉ là
phù vân…Bạn đọc nhíu mày ra cái điều chuyện gì với tiền nong ở đây. Ừ thì cứ
theo người viết góp nhặt sỏi đá được qua báo bổ, báo chùa thiếu gì chuyện sư cọ,
sư mô, sư tàng, sư sở cuồng chùa làng nhón tiền công quả để uống rượu. Ngày ấy
chú chưa phải là sư, mà chỉ là sư mõ…gõ mõ nên chưa đạt tới sắc-không, nghĩa là
chú không thể uống rượu mà đạt tới cõi…chưa hề uống. Tính khắc kỷ của chú đã hằn
nếp, đã nói rồi mà ! Vừa nói đến tiền bạc…thì..
Thì cũng vừa lúc thuyền qua đến
bờ bên kia, mọi người lục tục trả tiền đò. Đến phiên sư ông, cô lái đò đòi sư
những hai hào, một lộ phí nhiều gấp hai hơn bình thường. Sư lụng bụng hỏi vì
sao? Cô lái dò cười lủng lẳng:
– Vì Thầy nhìn em…
– Vì Thầy nhìn em…
Cô viện dẫn lý do sư phải trả
thêm tiền dòm trộm phần cơ thể của cô mà cô không muốn người khác trông thấy.
Sư ho khúc khắc một hồi lâu, miệng lúng búng chẳng nói được câu nào cho phải nhẽ.
Cuối cùng sư cũng đành ngượng nghịu bấm bụng trả số tiền cô gái đòi cho xong
chuyện. Cho xong một chuyến đò…Qua đến bờ bên kia, trên hương lộ tới chợ huyện,
sư xập xèng rằng: Mô phật! Bến ngộ đâu không thấy chỉ thấy bờ mề bến lú…
Thế nhưng chuyện vẫn chưa xong
với…một chuyến đò nên duyên.
Vai khoác cái tay nải nặng
chĩu, trong ấy đủ cả nhang đèn hương khói, nhưng vẫn thiếu vắng…cái đồng hồ giấy
nên lại trễ đò. Vội năm vội tháng ai lại vội ngày, sư nhủ thầm thế. Đợi con đò
lừ đừ quay lại, sư lại đứng bên sông gọi ơi ới:
– Đò.
Đò cập bến, bận về, thuyền đầy
những hoa quả, tiền giấy, voi giấy, người giấy và cả chó giấy được khách thập
phương mang về để cúng cháo thí. Như có duyên phần đẩy đưa, sư vẫn ngồi chỗ cũ.
Khác chuyến đi, sư chợt nhận ra nút ngực áo cô lái đò có hơi bị trễ nải. Hay
nói đúng hơn dường như được tháo cởi cho thoáng đãng vì gió nồm, gió hanh. Và bầy
trước mắt sư một cái gì lạ lắm mà trong tâm ý sư thì đầy váng vất với mông lung
nên nghĩ không ra. Nghĩ cho cùng, chuyến đi chẳng có gì lạ với sư. Nhưng chuyến
về thì nó lạ lẫm hơn, sư khai thông phá ngộ nó thây lẩy trông đến nẫn cả ruột
gan vì nó nhẩy tâng tâng theo nhịp chèo. Mặc dù nhịp chèo khua rất khẽ. Thế
nhưng theo hai mái chèo, cô lái đò phải cúi xuông. Và cứ cúi xuống mãi. Cứ lắng
đọng trong nương chiều cả một hồi lâu trong thinh không. Cái của nợ mông quạnh ấy
lồ lộ, to vật vã, cứ thúc lia lịa vào mặt sư. Bởi thế sư cứ lõ mắt nhìn chăm chắm
vào vùng mờ ảo diệu vợi của cô lái đò. Bằng giác quan của phụ nữ, cô lái đò biết
sư đang nhìn mình, và vờ như không biết. Cô cúi xuống sâu hơn, lắng đọng lâu
hơn, không theo nhịp mái chèo nữa.
Vì muốn cho an tịnh trong chân
không. Hiểu theo nghĩa là không thấy gì nên sư quay mặt dòm xuống mặt nước
trong suốt thời gian qua sông. Thân thái gồ ghề của sư như biến đi đâu mất cả,
qua sóng nước dập dềnh, mắt sư bám vào… ‘’bèo bọt’ như cua cắp, sư chỉ thấy xao
lòng qua ‘’cái gì ấy’’ chũm chĩm, chỏng chảnh nhấp nhô theo con sóng, theo mạn
thuyền. Sư liên tưởng đến đức Bồ Đề Lạt Ma vê bến ngộ và sang sông bằng cọng cỏ
lau. Sư mường tượng đến nếu như trên cọng cỏ có cô lái đò như thế kia thì ắt hẳn
đức Lạt Ma chẳng đắc đạo để sư phải đi tu như thế này. Tu là bể khổ, người đời
vẫn nói thế. Và bất giác sư buột mồm lâm râm niệm : “Yết đế! Yết đế! Ba la yết
đế!”, tạm hiểu theo sư là qua đi! qua đi! qua nữa đi cho rồi.
Vậy mà con thuyền vẫn chưa qua
bên kia sông. Ngồi đồng hóa Bụt, sư ông loáy nhoáy hồi tưởng đến những ngày sư
là chú tiểu với chướng ngại là nữ sắc. Chú biết giữ mình, không giống như các
sư huynh, sư đệ, đôi khi lấp liếm vụng trộm ăn mặn hay chọc gái, bờm xờm trăng
gió cho vui. Mỗi khi vào làng, chú cứ theo luật chùa dậy, nhìn dưới đất ngay
trước mặt, cách mình ba bước, cứ vậy mà cất bước đi thẳng, chẳng liếc, ngó hai
bên. Cho nên, có vào làng chú cũng chả gặp ai. Mà chỉ gặp…‘’cái vũng nước’’.
Nhưng ấy là ở khúc sau…
Rồi sư lại miên man, giới luật
đẩy những rung động ái dục vừa tách rời xa sư như con đò vừa tách bến. Nhưng giờ
đây bằng tuổi này, những năm tháng đạm bạc, tiết dục đã tạo sư một dáng dấp khắc
khổ rắn đanh. Duy chỉ đôi mắt lấp lánh những tuệ mẫn và cũng thỉnh thoảng, nó lấp
lánh ánh sáng trần thế lạ lẫm lắm. Và sư đang ngồi chứ không phải cắm đầu đi, để
đối diện với tục lụy, sắc bất thị không qua cô lái đò, sư không thấy gì là bất
định, là tạp nhiễm nơi cô cả. Ngược lại, sư chỉ thấy lờ mờ qua sương khói những
gì sư nhìn thấy trắng và trong như nước cam lồ từ bình tịnh thủy của đức Quán
Thế Âm Bồ Tát. Tụng kinh ư, sư làu thông nhưng trong tình huống này sư chịu chết.
Cuối cùng sư cũng đành lẩm nhẩm tụng: Nghiệp chướng, ta trả lại cho ngươi tấm
thân tứ đại này. Lẽ vô úy mà sư tổ dậy ta không nằm trong ở sự đối diện những rối
rắm kia. Sự vô úy ấy là cái tâm rỗng không nhận đón những nghiệp duyên.
Bỗng cô lái đò chỉ cây gạo báo
cho sư biết sắp đến bến bên kia là sắp về đến chùa. Nhìn theo ngón tay chỉ, sư
ông lại quay quắt với chuyện đức Bồ Đề Đạt Ma khi ngài ngồi diện bích với bức
tường đá, có người đến hỏi Ngài rằng: Bạch thầy, tâm con không an. Ngài bảo:
Ngươi đưa tâm của ngươi ra cho ta xem. Người kia đáp: Bạch thầy, con tìm
tâm mãi mà không thấy. Ngài bảo: Đó! Đó là ta đã an tâm cho ngươi rồi đấy.
Thế là người ấy giác ngộ…
Thế nhưng cái tâm của sư
ông…không ngộ, vì sư đốn ngộ ra rằng đức Bồ Đề Đạt Ma ngồi trong hang hốc chín
năm có nói tiếng nào đâu, mà chỉ có đôi mắt tuệ mẫn nói thay cho người. Vì vậy
đôi mắt hấp háy của sư ông có sức nhiếp phục cô lái đò với nhiễu sự trả tiền
đò, vì sư nào có nom ròm cô lái đò trong một chiều trên bến nước. Thế nên sư thản
nhiên đưa một hào và định quay bước xa sông về với núi. Nhưng cô lái đò lại
nhún nhín đòi những ba hào. Cả một bầu trời viên miễn ập đổ xuống sư. Sư lại lựng
bựng hỏi vì sao? Cô lái đò cười hoẻn:
– Lần nầy Thầy nhìn em dưới nước.
– Lần nầy Thầy nhìn em dưới nước.
Sư chộn rộn: “Bận đi bần tăng
vì tò mò nhìn thí chủ nên phải trả hai hào. Bận về bần tăng có nhìn gì đâu mà
thí chủ đòi tới ba hào”. Cô lái đò dĩu môi thắt thẻo: “Bận đi Thầy chỉ nhìn em
bằng đôi mắt trần thịt. Bận về Thầy nhìn em qua sóng nước bằng ý niệm. Khi cái
đầu Thầy muốn lảng tránh một cái gì tức là Thầy luôn nghĩ đến nó, để nó chi phối
toàn bộ lục căn của Thầy. Đó là lý do Thầy phải trả nhiều tiền hơn.”
Thêm một lần, trong một thoáng
mây bay, sư giật mình đến thót người vì triệt ngộ được từ cô lái đò có con mắt
lá răm như chiếc thuyền lá tre qua một điều xưa cũ: Trong nhà Phật, mở được huệ
nhãn là thấy được cái vô tướng, vô hình của mọi pháp. Thế nhưng lúc này đây, tất
cả với sư ông đã quá muộn màng. Hiểu theo nghĩa là sư đã thuộc về quá khứ. Vì
sư ông đã là… ‘’ông’’ thì chẳng còn…trẻ nữa. Hay nói khác đi, hành ngôn hàng tỏi
thì sư ông già rồi, cũ kỹ rồi, sư trở thành cổ kính như con thuyền gỗ bạc phếch,
rạn nứt, để có những bất trắc…
Chuyện kể theo người viết chẳng
hẳn trong một thoáng mây bay, hay một chiều thu lá rơi tường bắc là sang đông.
Mà chuyện quá khứ vị lai là mươi mười năm sau với gió thổi muông chiều để sư
ông thành…sư cụ thật. Thật sự kể ngày ấy sư cụ không hẻo lánh xuống bến Chùa nữa,
ngoài chuyện Phật sự tụng kinh gõ mõ, sư cụ tĩnh tâm trong am, sám hối trong cốc.
Mười năm sau, một ngày rằm
tháng bẩy, sư cụ thả bộ quanh sân chùa. Sân chùa là bãi cỏ hoang với cây rừng,
mặc dù chẳng có chiếc lá vàng nào rơi vãi, vậy mà cụ lễnh đễnh với câu thơ “Não
ngườI thay buổi chiều thu, ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng…” trong bài Văn
tế thập loại chúng sinh như đốt lò hương cũ. Cụ chiêu hồn quá khứ đến giờ
ngọ, rồi nôn nao khăn gói gió đưa xuống núi, cụ về lại bến đò ngày nào năm ấy.
Dưới gốc cây gạo hoa đỏ nay đã già cỗi như cụ, ở đó có một quán nước và cụ ngồi
đấy đếm thời gian qua mau với vật đổi sao rời như một cơn gió thoáng. Để rồi từ
trong tâm thức của cụ bật ra âm hưởng câu cổ thi vọng ngôn của Nguyễn Gia Thiều:
Góc danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu
Nghĩ thân phù thê mà đau
Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê
Mùi tục lụy lưỡi tê tận khổ
Đường thê đồ gót rỗ kỳ khu
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu
Nghĩ thân phù thê mà đau
Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê
Mùi tục lụy lưỡi tê tận khổ
Đường thê đồ gót rỗ kỳ khu
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt
ghềnh…
Bạn đọc nhíu mày lao xao: Cớ sự
gì sư cụ lại trở lại nơi chốn cũ với bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê, ngập những
mùi tục lụy lưỡi tê tận khổ. Thì như người viết đã thưa thốt ở khúc đầu rằng chẳng
mấy ai lại trở về tắm hai lần ở cùng một dòng sông. Không ngoài chỉ là cái vũng
nước cho trâu tắm nằm trên con đường làng. Nhưng ấy lại nằm thong dong ở khúc
cuối.
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt
ghềnh vẫn còn neo thuyền ở bến kia. Vẫn như những ngày tháng cũ, sư cụ tay cầm
đôi guốc rề tre gộc, quai da trâu, vai khoác cái tay nải, đứng dưới cây gạo, và
sư cụ dóng dả: ‘’Đò’’. Con đò tách bến. Như có tiền duyên hậu kiếp, vì lắm khi
chỉ một chỗ ngồi với cái nhìn lãng đãng không thôi mà thay đổi cả một mảnh đời
bèo bọt. Cụ vẫn ngồi chỗ cũ sát mạn thuyền, chênh chếch trước mặt bà lái đò. Vẫn
cảnh cũ người xưa, chỉ khác một nhẽ người lái đò nay đã cử nhử nên bà có dáng dấp
nửa đàn bà nửa con gái.
Dài dòng thì sư cụ chùa làng là
một người chân tu, đã dày công tu hành như cụ, cái gọi là cuộc sống trong kiếp
hiện tại không có gì khác hơn là bụi bặm rác rưởi. Xa lánh cõi đời ô trọc đã
lâu, có lẽ trong lòng cụ cũng tưởng như đã an nhiên tự tại, và cụ thầm nhủ
không còn điều gì đủ làm mình bận tâm nữa. Cho nên khi nhìn tha nhân trong chốn
trần tục, cụ không khỏi não người và thầm hỏi tại sao họ không ý thức được rằng
những khoái lạc mình đang đi tìm chỉ là mộng ảo. Khi gặp mặt một người đàn bà
dung nhan xinh đẹp, cụ chỉ thấy tội nghiệp cho mấy gã đàn ông nhầng nhầng trong
làng. Rằng họ giống như đạp nhầm phải cái cối xay rồi lăn quay ra, rồi nhập vào
cảnh giới vô tâm, vô ngã, vì vừa mới…ngã, quên mất tự ngã và không ý thức được
nữa giữa mê và ngộ. Sau đó họ vướng vào vòng phiền não, nổi trôi trong mê lầm.
Cụ cho rằng họ sống trong kiếp hiện tại là vướng mắc vào những ảo ảnh.
Vì ngồi bên mạn đò, sư cụ tẩn mẩn
nhìn gỗ thuyền thấy con đò đóng bằng gỗ thành ngạnh như thế này thì ắt hẳn còn
tốt chán. Bỗng dưng cụ khựng lại với… như thế này thì còn tốt chán. Gà gà
mắt như người say thuốc lào, cụ ngước lên hong hanh về phía bà lái đò. Rồi chả
hiểu nghĩ sao cụ găm mặt xuống mặt nước đang bồng bềnh nổi trôi như cái năm động
giời ấy: Trong cõi mụ mị, với cảm xúc phồn thực, cụ chả thấy y xì như xưa mà chỉ
là cùi dừa bánh đa, nào có khác gì mấy bà trong buổi chợ chiều địu con lên
chùa, vén yếm, bày hàng những bộ ngực bánh dầy bề bộn cho con bú trước chốn thiền
môn. Mô Phật! Mõ thảm chuông sầu gì đâu, trông cứ lùng nhùng, phễn phễn ra, đột
nhiên khuôn mặt cụ lõng bõng như đĩa tiết canh sũng nước.
Thế là được thể cụ quay quả trở
về cái ngày gặp buổi đi chợ qua sông năm xưa, mắt cụ va quẹt vào bộ ngực của cô
lái đò như một kiếp nạn. Mây vẫn trôi, ngày vẫn qua đi, cho đến lúc này cái tâm
cụ lâu nay không còn bị giao động trước hình hài của người đời, vì cụ cứ ngỡ rằng
cụ đã thóat được cái nghiệp chướng. Cụ hồi tưởng lại chuyến đò đi về năm ấy, mặt
sông chỉ thoáng gợn sóng lăn tăn, để cho qua đi, để cho thanh thản, sư cụ tĩnh
tâm phép thủy quán tưởng, sư cụ niệm đức thế tôn, nhưng chỉ thấy hình ảnh của
những vọng tưởng ngoi lên khuấy động. Cụ tự nhủ hình dáng bộ ngực đẹp đẽ xưa
kia chỉ là một ảo ảnh, xác thịt đó hiện ra trong chốc lát nhưng rồi sẽ bị hủy
diệt. Vì từ tuổi hoa niên, cụ biết giữ giới, chế ngự dục vọng để chối bỏ tất cả
những đòi hỏi hoan lạc. Nhờ sự kềm dục với bản thân, cụ hiểu rằng xác thịt đàn
bà không có gì khác hơn là đối tượng của nhục dục. Xác thịt thuần túy duy nhất
chỉ có trong trí tưởng tượng. Bởi vì xem xác thịt là một cái gì trừu tượng chứ
không có thật cho nên cụ đã cố tình làm như dửng dưng. Cụ ngỡ rằng niết bàn của
kiếp lai sinh sẽ đến trong nay mai. Nay đốn ngộ ra, sư cụ chẳng thấy đâu là bến
giác vì cụ đang đi vào mê lộ. Cụ càng đắm chìm trong vọng tưởng bao nhiêu thì
tâm trí cụ càng đâm rễ sâu vào trong những tà niệm bấy nhiêu.
Ngày ấy, cụ lờ đờ như gà ban
hôm, cụ cứ loay hoay với thân xác cũng như khuôn mặt của cô lái đò, là xác thịt
đấy, nên ngập ngụa đầy những bất trắc mà bấy lâu nay như ẩn mình trong chốn sâu
thẳm nơi cụ, lúc này đang thấp thóang ẩn hiện qua mái chèo của bà lái đò. Mặc
dù chỉ mờ nhân ảnh giống…cái bánh dầy,…cái bánh ú chứ không phải là khoanh oản,
hay nắm xôi nhà chùa. Ấy vậy mà cụ cảm thấy sức sống đang chuyển động nhập sâu
vào vòng lai sinh của kiếp hiện tại. Trên là trời, dưới là nước, giữa là con
thuyền, trong sóng nước bồng bềnh, cụ bắt gặp mình đang nổi trôi. Tưởng rằng
phong cảnh thiên nhiên làm mình chia trí, cụ đưa mắt nhìn đám mây bay trên rặng
núi xa kia, nhưng cụ không cảm nhận được vẻ đẹp mà chỉ thấy tâm hồn mình đang rối
bời như đám mây bay. Lúc ngắm mặt sông nước, tâm trí cụ như khi ngồi trước Phật
đài mong lòng được thanh tịnh, thì khuôn mặt của đức Phật từ bi bỗng biến dạng
và mang nét mặt day dứt của cô lái đò năm xưa.
Ấy thế vậy mà cụ tự hỏi sao nhiễu
sự có thể nẩy mầm từ trái tim còm cõi như cụ. Chẳng có chút hy vọng gì để được
ai đoái hoài tới, đó là điều cụ không hiểu nổi nên phải nhín!
Vừa tháo động đến đây thì cũng
vừa lúc con thuyền cập bến…Cũng như mười năm trước,
mọi người lực đực trả tiền đò.
Đến phiên sư cụ, bà lái đòi những hai hào thay vì một hào. Mặt
bẹt ra như bánh đa nhúng nước,
sư cụ lựng bựng hỏi vì sao? Bà lái đò tẻ mím:
– Sư Thầy không nhìn nhưng còn nghĩ đến tôi.
– Sư Thầy không nhìn nhưng còn nghĩ đến tôi.
Qua đến bờ bên kia, trên con đường
sống trâu tới chợ huyện, cụ toen hoẻn rằng muôn sự tại tâm vạn sự tại thức thì
làm như cụ đang mòn mỏi theo bước chân phù lãng nhân trong cõi ngu lạc trường.
Mô Phật ! Sư cụ như lạc vào bờ mê bến ngộ để chẳng biết đâu là bờ với bến…
Trở lại bến, sư cụ lụm khụm xuống
thuyền, vẫn như rằm tháng bẩy mọi năm, bận về thuyền đầy những quang gánh hương
đèn, hàng mã cồng kềnh những voi, ngựa, kiệu, lọng. Và chẳng thế thiếu nhà mồ,
nhà táng với người hầu. Ngồi găm một chỗ bên mạn thuyền lặng lờ nhìn xuống mặt
nước, sư cụ thử lại phép thủy quán tưởng một lần nữa, từ phía dưới làn sóng lăn
tăn, khuôn mặt thanh tịnh của cô lái đò loáng thoáng hiện lên. Vô hình chung cụ
đã chấp nhận sự mê lầm là có thật. Chẳng phải là ảo. Bỗng cụ có cảm nhận nhiễu
sự của cụ trở nên thanh khiết vô ngần, hình ảnh kiếp lai sinh bắt đầu lôi kéo cụ
trở lại. Sư cụ chưa bao giờ hình dung cõi tịnh độ có thể mang một hình thái đơn
thuần như thế này. Sự mong ngóng được về cõi tịnh độ ai ngờ cũng giống như nhục
cảm. Chính nhục cảm đã giải thóat những vọng tưởng mê lầm trong kiếp hiện tại,
để sư cụ đạt đến kiếp lai sinh. Trong thâm tâm, khi ấy cụ chỉ muốn tiến gần đến
cô lái đò đang khuấy động mái chèo dục vọng. Sư cụ chỉ thấy cô lái đò đầy nhục
cảm gọi mời…Cụ cũng tự hiểu ngóc ngách yếu đuối nhất của con người là nỗi đam
mê khốn cùng của lạc thú. Đèn lu dầu kiệt, cụ lâm râm: “Nam mô thường tinh
tấn Bồ Tát Ma Ha Tát”.
Đột nhiên đàn cá đồng tiền, cá
ba trầm to vật quẫy mình tung lên khỏi mặt sông làm nước bắn vào vạt áo nâu
sòng. Sư cụ giật mình thảng thốt kêu lên: A di đà Phật. Làm như không
nghe, không thấy,…không nói, bà chỉ cây gạo báo cho cụ biết sắp về đến chùa. Xa
xa, dưới cây hoa gạo đỏ là một quán nước mờ nhân ảnh, nhìn cây gạo già cỗi, gốc
xù xì mà cứ theo già làng thân cây để làm quan tài hay tăm sỉa răng. Cụ miên
man đến Bồ Đề Đạt Ma với chín năm diện bích chỉ quán chiếu ra một nhẽ: Muốn
tìm sự gì thì hãy nhìn thẳng vào sự vật.
“..c..o..o..ng..”
Bỗng có tiếng chuông từ trên
cao vọng xuống, sư cụ biết rằng ấy là tiếng chuông của sư ông mới nương bóng cửa
thiền. Người sẽ trụ trì chùa làng sau này nếu như…sư cụ viên tịch.
Vừa nghĩ đến tiếng chuông chiều…Vừa
thả hồn theo hồi chuông chiêu mộ…
Chân bước lên tấm ván ọp ẹp làm
cầu để khách lên bờ, tay móc hầu bao ba hào nắm khư khư trong tay. Đò cập bến,
lần này sư cụ nhìn thẳng vào bà lái đò. Cụ hỏi lần này phải trả bao nhiêu? Bà
khẽ khàng:
– Tôi đưa sư Thầy qua sông,
không lấy tiền đò.
Cụ hỏi:
– Vì sao vậy?
Bà đáp:
– Sư Thầy nhìn mà không còn nghĩ tới tôi nữa…
Cụ hỏi:
– Vì sao vậy?
Bà đáp:
– Sư Thầy nhìn mà không còn nghĩ tới tôi nữa…
Cụ chỉ cần có bấy nhiêu những u
u, minh minh. Trước mặt là con đường dài vô tận, sư cụ phân vân không biết về
chùa trên núi hay xuống làng đây…
“..c..o..o..ng..”
Tiếng chuông từ khoảng không lại
vọng xuống, cụ hiểu rằng với mỗi người nghe, hiểu tiếng chuông ấy theo nhẽ
riêng của mình.
“..c..o..o..ng..”
Sư cụ lắng nghe: Thoáng như người
đánh chuông có chút dè dặt. Đánh mà lòng không yên. Đánh mà như không muốn
đánh. Vừa đánh vừa dè chừng. Vừa đánh vừa dò dẫm.
Đúng là có tiếng chuông! Ừ thì
tiếng chuông! Cụ lắng nghe. Âm hưởng cao dần, tan loãng, tưởng như biến mất, bỗng
dội lại chan hòa vào khoảng không.
“..c..o..o..ng..”
Tiếng chuông lại vang lên, có
cái gì như ngập ngừng, dè chừng, dọ dẫm. Bây giờ cụ đang lắng mình vào tiếng
chuông, càng về sau càng tròn trĩnh, đầy đủ, trầm vắng. Không lạ mà lạ. Vì đó
là một quãng đời. Tiếng chuông lại trầm bổng vang lên truyền dần vào không
gian, xuyên qua cây, qua lá, nhỏ dần và biến mất. Có một khoảng thời gian không
dài lắm, tiếng chuông biến mất. Rồi xuất hiện trở lại. Rồi lại biến mất. Nhưng
ngắn thôi. Môi khi gặp điều gì vạn sự bất như ý trong một mảnh đời, thoáng như
trong tâm tưởng tiếng chuông đó lại trở về, khoan thai, trầm lắng. Cứ thế. Như
thế…Như thể không cần người nghe…
“..c..o..o..ng..”
Nhưng tiếng chuông muốn sư cụ
nghe…
Rằng mỗi người đều muốn có những
yên ắng cho riêng mình. Tiếng chuông còn đó, hiền hòa và gợi nhớ. Tiếng chuông
nhắc nhở sư cụ tất cả chỉ thoáng qua một chốc, như một áng mây bay cho bất cứ
ai. Vì thế sư cụ cố ý chờ đợi tiếng chuông. Im lìm. Lịm dần. Vắng lặng hoàn
toàn. Không hẳn thế. Nói cho ngay, cụ chẳng thể không mộng tưởng về những đổi
thay và muốn sống trọn vẹn với những thay đổi ấy. Vì nó có thật. Ở một chuỗi thời
gian, không gian nào đấy. Tiếng chuông lại vang lên trong vô định, sâu dần… Với
cụ, dù có đôi chút muộn màng. Bỗng nhiên cụ cảm thấy nhẹ hẫng, không trọng lượng,
không vướng víu. Tiếng chuông khoan thai bay bổng qua gió, qua mây. Ở một cõi
vô thức dị dạng của đời sống. Nhìn lại những gì vừa trôi qua…Sư cụ cảm như tiếng
chuông trôi, tâm tư cụ trôi.
Qua những nổi trôi, cụ lưỡng lự
không biết nên xuống làng hay về chùa trên núi. Ừ thì hãy ghé quán nước cái đã.
Cụ với tay kéo cái điếu cầy và lập bập từng hơi thuốc. Khói thuốc chất ngất, nhẹ
hẫng. Theo tiếng chuông bập bềnh lấp lửng. Qua khói thuốc lào, cụ đi tìm lại
nhân dáng của cô lái đò năm xưa…Chẳng còn giấu giếm, hay che đậy, vì nó còn lẩn
khuất đâu đây. Cụ muốn gìn giữ những thuần khiết, khôi nguyên, đằm thắm về một
hình hài, một bóng dáng. Cụ tìm lại những đổi thay để tìm mộng tưởng và sự thật,
một vĩnh cửu giữa cuộc thăng trầm, một vết đọng giữa kiếp phù du qua khói lam
chiều ẩn hiện ở phía làng dưới kia. Trên trời cuồn cuộn đám mây rối, có dăm ba
con cò bay vội. Thoáng như phảng phất đâu đây có mùi hương đồng cỏ nội thoang
thoảng và tiếng chuông…
“..c..o..o..ng..”
Tiếng chuông! Lại vẫn là tiếng
chuông ngân vang giữa đồng không mông quạnh, trong không khí trong lành. Tiếng
chuông khoan hòa truyền đi. Tiếng chuông đã đưa cụ qua đi những ngày tháng khắc
khoải và có một khoảng thời gian gần như mộng mị…
“..c..o..o..ng..”
Tiếng chuông tỉnh thức đều đặn
vang lên sau một thời gian lắng dịu. Sư cụ suy ngẫm về những sai trái trong tiếng
chuông. Có chăng là khác ở người đánh chuông và…người nghe chuông. Tiếng chuông
vẫn vậy! Chỉ ẩn tàng mông lung đâu đây vớí người nghe chuông…dò dẫm…dè chừng…ngập
ngừng…
“..c..o..o..ng..”
Bạn đọc lại nhấm nhẳng tự hỏi cớ
sự gì có tiếng chuông chung chiêng chống chếnh ở đây? Nghe như lạc lõng và
không có thật! Cũng chả trách gì bạn đọc, ngay cả bà già hàng nước cũng vậy. Bỗng
bà ngước mắt lên ngơ ngác hỏi cụ rằng tiếng âm ba đồng vọng ấy là gì vậy. Vì rằng
với bà ngày tháng như quạ bay, hàng ngày chỉ quen với tiếng chuông báo ngọ hay
báo tử.
Cụ lặng lẽ không đáp.
Như hồi nãy bà lái đò chỉ vào
cây gạo đỏ, vô tình sui khiến cụ hãy nhìn thẳng vào sự vật. Sự thể tiếng chuông
nhắc nhở cụ tất cả chỉ thoáng qua trong chốc lát, như một áng mây trôi qua mái
chùa với xuân, hạ, thu, đông. Như ngày vẫn trôi tháng vẫn qua đi cho bất cứ ai.
Lại như vẫn chỉ là duyên nghiêp. Và chẳng có con đường nào dài vô tận trước mắt….Ấy
vậy mà lát sau, rít xong cối thuốc, cụ uể oải đứng dậy, đi về phía mảng khói
lam chiều đang lảng vảng ở phía làng xa xa, xa sông, xa núi. Và…xa chùa. Cứ
theo già làng kể chuyện…
Chuyện rằng cụ muốn trở lại con
đường mòn cũ mà những ngày còn là sa di, cụ đã đi lại lắm lần. Cụ đã từng bước
lên những cám dỗ của tục lụy. Cũng trên lối mòn ấy, ngày nào cụ có những ước
nguyện cao xa lắm: Nào học đạo, học thành sư thầy, sư tổ, học làm Phật. Nào là
đốn ngộ thiền tâm, nào là hoằng dương Phật pháp, nào là liễu sinh thoát tử.
Nhưng rồi lúc này đây, tất cả mọi sự đã bị bỏ rơi lại phía sau như những chiếc
lá mùa thu rơi rụng. Sư cụ như bị ném vào cõi nhân gian mới mẻ đầy những ngõ
ngách âm u và chằng chịt những lối đi hiểm hóc. Và chẳng nói gì xa xôi, ngay
trước mặt cụ đây, cụ sắp phải đối mặt với…
Với con đường mòn xuống làng, cụ
biết rằng phải qua một vũng nước.
Những vũng nước ở vùng đất quê
lụt lội quanh năm này đẩy đưa cụ với cụ Nguyễn Khuyến một buổi đi qua một vũng
nước, cụ Tam Nguyên nhởn nha nhả thơ “Đầu làng Ngang có một chỗ lội – Đàn bà
qua đó vén váy lên – Chỗ thì đến gối, chỗ đến háng…”. Để rồi đầu óc sư cụ cứ lầng
quầng qua chuyện sư tổ dạo nào kể chuyện ông sư già với ông sư trẻ cho cụ nghe
trong những ngày sư cụ hết để chỏm để sắp…hóa thân thành…sư trẻ.
Vừa đi trên con đường xưa cũ, cụ
vừa nghĩ mông lung qua câu nói của ông sư già với ông sư trẻ qua truyện thiền ấy: Thế
ông còn mang cô gái đó theo sao? Tôi đã bỏ cô ta lại đằng kia rồi mà. Qua sư tổ
thì ông sư già vô tâm, vô chấp sẽ được an lạc, giải thóat. Còn ông sư trẻ vì chấp
nhất, không giác ngộ được. Như bóng lá trúc lay động theo gió chẳng có hạt bụi
nào đọng lại. Như ánh trăng có chiếu xuống tận đáy hồ không để lại dấu vết nào
cả. Đó là ý nghĩa công án thiền về sự không chấp giới luật của ông sư già trên
qua sư tổ đã răn dậy sư cụ.
Và rồi sư cụ vừa đi vừa lắc lắc
cái đầu vì cụ chẳng mảy may tin cho mấy khi ông sư già cõng cô gái có thể quên
cái va chạm da thịt…nhột nhạt từ sau lưng! Bởi lẽ ông sư già hay cụ chỉ là người.
Và cụ nhủ thầm: Muốn hiểu ông sư già thì hãy đặt bản thân mình vào ông ấy.
Hay nói khác đi, hãy nhìn thẳng
vào sự vật. Như nhìn cây gạo hoa đỏ.
Đi trên con đường sống trâu ngoằn
ngoèo những vết trâu đái, gần đến vũng nước đầu làng mà trâu hay dầm mình tắm ở
đấy. Bất giác cụ tủm tỉm cười và hoang tưởng mình là ông sư già trong truyện
thiền trên. Hiểu theo nghĩa là…”chuyện không có thật”. Để bỗng khi không cụ mường
tượng ra trước mặt là cô lái đò đang lúng túng tìm cách đi qua vũng nước. Gần
hơn một chút nữa, trong đầu cụ hiện ra rõ ràng hình ảnh cô từ đằng sau với tấm
lưng thót lại như eo bọ ngựa thời kỳ mang trứng. Mới đầu cô rón rén, bước một
chân chạm mặt nước rồi do dự, ngập ngừng. Thoáng như cô lái đò muốn qua vũng nước
nhưng có chút dè dặt. Qua mà lòng không yên. Qua mà như không muốn qua. Vừa qua
vừa dè chừng. Vừa qua vừa dò dẫm.
Cụ bước tới gần vũng nước hơn,
mặc dù là chuyện không tưởng, nhưng cụ làm ra như nom nhòm thấy cô vén ống quần
nái đen cũ sì lên một tí. Cô dọ dẫm chẳng biết nông hay sâu, liều thêm một chút
nữa, nước lên đến gần đầu gối. Cô thấy gai gai lạnh nổi da gà, cô vén quần lên
đến tận đầu gối, để lộ cặp đùi trắng như ếch lột, rồi vén lên tới tận bẹn. Vừa
lúc cô lái đò quay lại, với dáng lom khom, bộ ngực sau cánh áo nâu trễ nải. Có
‘’cái gì ấy’’ nòn nõn, vũm mĩm như quả phật thủ qua hàng khuy buông lơi.
À mà đôi mắt tuệ mẫn của cụ
không còn thông hanh nữa! Cái mà cụ đang nhìn thấy, chỉ là những ký ức mờ nhân ảnh
của một dòng sông thật vắng xa của ngày xưa. Bất giác từ trong ngõ ngách tâm khảm
đang ngủ yên bỗng thức dậy…Cụ bật ra một âm vọng xa vắng:
– Đò.
Thế nhưng chỉ là vũng nước đục
ngầu, cô lái đò bước thêm vài bước nữa, vừa mới giẫm xuống đến mắt cá chân đã
thấy lành lạnh. Cụ tiến đến gần cô hơn, nước mơn man bắp chân, cụ hình tượng đến
ấm áp của da thịt. Từ cảm giác này qua cảm nhận kia, cụ tự hỏi: Cụ đã nuôi cái
cảm giác thịt da qua bộ ngực lỡ thì của cô lái đó đã bao nhiêu năm? Lúc này cụ
hiểu tại sao bước chân hoằng pháp lại đẩy đưa cụ đến vũng nước này, nơi mà nghiệp
chướng đang ngóng chờ cụ! Cụ chớm ngộ rằng mình đã ấp ủ, đã nuôi bầu ngực ấy biết
bao năm trời trong tiết dục khắc kỷ. Và khốn khổ thay, cụ cũng vừa nhận ra cụ
đã lừa dối với chính cụ.
Cụ vừa quán triệt đến đây, mắt
cụ bắt gặp cô lái đò tay vừa buông ống quần xuống, cô nhẹ ưỡn người ra đằng sau
trong cái thế chờ đợi như muốn được cụ bế lên…Chứ không phải để được cõng như
trong chuyện ông sư già, ông sư trẻ. Đầu cụ lại bị vướng víu bởi ông sư già đã
không thật với ông sư trẻ cùng những đụng chạm, cọ xát của hai thân xác trần tục.
Thế nên chẳng nói chẳng rằng, làm như theo quán tính đang nằm chờ sẵn ở hóc hẻm
của tâm thức, cụ vừa định cúi xuống…Nói cho ngay, chỉ mới trong một thoáng
giây…Sư cụ mới chỉ định thôi, và cũng vừa lúc sư cụ đưa hai tay ra để mang cái
nghiệp quả qua vũng nước, bỗng…
Bỗng trong một sát na, có tiếng
“..c..o..o..ng..”.
Cụ bần thần thả hồn theo tiếng
chuông về ngôi chùa của cụ từ những ngày đầu cụ bước vào sân chùa. Lá hãy còn rụng
đầy chưa ai quét. Cụ còn nhớ lại lời sư tổ dậy rằng hãy xem lá đa rụng ở vườn
chùa là những sân si, mới chính là vườn tâm của mình. Quét lá và rác rưởi cũng
chính là quét đi những cáu bẩn của tâm. Không để cho bất cứ cánh lá hay một cọng
rác nhỏ nào sót lại thì mới có được cái tâm an nhiên tự tại.
Thêm một tiếng
“..c..o..o..ng..”.
Sư cụ khựng lại lắng nghe,
thoáng như người đánh chuông có chút dè dặt. Đánh mà lòng không yên. Đánh mà
như không muốn đánh. Vừa đánh vừa dè chừng. Vừa đánh vừa dọ dẫm.
Cụ ngước mắt lên bến đò để đi
tìm hình bóng của những năm tháng cũ, nhưng cụ chỉ thấy cây hoa gạo đỏ và bà
già bán hàng nước dường như đang bỏm bẻm nhai trầu thì phải?. Như ảo ảnh, như không có thật…
Trong trống vắng, cụ thanh thản
cất bước bỏ đi. Để lại đằng sau cái vũng nước…
Nguồn:
Bài viết vay mượn qua truyện
“Sang sông” của Nguyễn Huy Thiệp, và “Mối tình của vị cao tăng
chùa Shiga (nguyên tác Shiagadera Shônim No Koi) của Mishima
Yukio. Ngoài ra còn dựa dẫm vào hai, ba tác giả khác nữa, rất tiếc
người viết không lưu giữ được danh tính.
Phí Ngọc Hùng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét