Tôi rất thương Mẹ mỗi lần nhìn thấy khối cơ thể ấy vỡ vụn ra, nát
tan từng mảnh trong ngôi miếu cũ. Mẹ nằm đó, trong cỗ quan tài bằng gương nhiễu
điều phủ đỏ. Thân thể Mẹ màu xanh biển sớm, trong như màu mắt ngư phủ
ngày cá đầy khoang. Phía bên trái quan tài, xiêm y màu phỉ thúy của Mẹ ánh lên
thứ dung nghi trầm kha của đại dương sâu thẳm. Dân làng Việt Hải tôn thờ Mẹ, một
niềm tin khả hữu của những đứa con suốt đời dầm mình trong gió mặn và biển
chát. Mỗi lần cha tôi đi biển dài ngày thường đến miếu viếng Mẹ với một mâm lễ
chuối, cau trầu, rượu và những thỏi trầm. Tôi thường xách giỏ đồ cúng chạy theo
cha đi lễ, tất tả và hồn nhiên như một cơn sóng con.
“Nghề đi biển là vậy, phải có người chở che sóng gió. Nếu không
cũng sớm làm mồi cho cá thôi”, cha nói.
“Thế Mẹ là ai hở
cha?”
“Một nữ thần cưu mang những ngư phủ như chúng ta, những đứa con của
Mẹ.”
Cha bắt đầu kể về Mẹ khi chúng tôi lạo xạo bước đi trên cát chiều
khô gió. Giọng cha trầm xuống kính cẩn, một thứ giọng đầy hương muối, mùi liêu
trai tôi chưa từng nghe bao giờ.
“Dân tộc ta gọi mẹ Âu Cơ là quốc tổ mẫu, thì Mẹ Thái Dương là
Mẹ nuôi của làng ta đấy.”
Mẹ là cô gái làng biển có số phận bất hạnh. Cô yêu nhầm anh trai bị
thất lạc, kết làm vợ chồng, biết chuyện, người anh ân hận bỏ đi khi cô đã mang
thai. Nhớ chồng, ngày ngày cô ra biển đợi chồng về, nước mắt hòa vào dòng biển
mặn. Cô cứ ngồi mãi như thế cho đến khi hóa thành khối đá xanh nằm bên Bãi Lạc
hoang vắng.
“Chuyện buồn cha nhỉ?”, tôi nói. Sau này tôi mới biết, ai kể về Mẹ
cũng thổi vào đấy cả một bể thiêng liêng, ngập tràn lòng biết ơn vô hạn về đấng
cứu rỗi đầy bao dung của biển dành cho những ngư phủ nghèo. Những đứa con tôi về
sau cũng gióng tai lên nghe tôi kể về Mẹ như thế khi tôi đã xế chiều.
Cha kể tiếp, vẫn nuôi cái giọng cũ nhưng tươi sáng hơn. Một người
ngư phủ lương thiện, sống côi cút một mình, không nhà không cửa, nghèo rớt mùng
tơi, ngày ngày kiếm sống bằng nghề chài lưới. Ngày nọ, biển động dữ dội, trời tối
đen như bưng, người ngư phủ đi ra biển, buồn quá, lại thấy khối đá nằm trên cát
liền gối đầu lên mà ngủ quên. Giữa đêm, anh nằm mộng thấy người đàn bà mang
thai lay đầu mình dậy bảo rằng “Ta là Thai Dương phu nhân, sao ngươi dám dựa
vào ta như thế?”
Người ngư phủ hoảng sợ tỉnh giấc, vội vàng khấn vái trước phiến đá mà nói rằng: “Con quê mùa ngu dốt, xin thần xá tội. Xin giúp cho con ra biển thuận lợi, tôm cá đầy ghe.” Quả nhiên, hôm đó người ngư phủ đạt được ý nguyện như lời cầu xin. Ông liền lập một miếu nhỏ lợp tranh để thờ khối đá và gọi là Thai Dương phu nhân. Sau, dân chài ở làng Việt Hải thấy làm lạ, hỏi ra mới biết sự tình bèn chung tiền của, xây dựng một cái miếu khang trang rồi rước phiến đá về phụng thờ. Từ đó, nữ thần giúp đỡ rất nhiều cho dân làng, đi biển hầu như chẳng bao giờ trở về tay không, ghe thuyền cũng không gặp nạn bão tố nữa. Mỗi lần họ cầu xin điều gì đều được Thai Dương phu nhân giúp đỡ như ý. Tôi bỗng thấy Mẹ rất gần, như có thể nhắm mắt lại, ước gặp Mẹ và khi mở mắt thì Mẹ hiện ra trước mặt rồi.
Người ngư phủ hoảng sợ tỉnh giấc, vội vàng khấn vái trước phiến đá mà nói rằng: “Con quê mùa ngu dốt, xin thần xá tội. Xin giúp cho con ra biển thuận lợi, tôm cá đầy ghe.” Quả nhiên, hôm đó người ngư phủ đạt được ý nguyện như lời cầu xin. Ông liền lập một miếu nhỏ lợp tranh để thờ khối đá và gọi là Thai Dương phu nhân. Sau, dân chài ở làng Việt Hải thấy làm lạ, hỏi ra mới biết sự tình bèn chung tiền của, xây dựng một cái miếu khang trang rồi rước phiến đá về phụng thờ. Từ đó, nữ thần giúp đỡ rất nhiều cho dân làng, đi biển hầu như chẳng bao giờ trở về tay không, ghe thuyền cũng không gặp nạn bão tố nữa. Mỗi lần họ cầu xin điều gì đều được Thai Dương phu nhân giúp đỡ như ý. Tôi bỗng thấy Mẹ rất gần, như có thể nhắm mắt lại, ước gặp Mẹ và khi mở mắt thì Mẹ hiện ra trước mặt rồi.
Cha chợt dừng lại, mặt hướng ra biển nhìn những chú chim hải âu
chao nghiêng mặt nước xanh. Lão Thoại nghêu ngao đi dọc Bãi La, mồm không ngớt
chửi đổng. Gặp cha tôi, ông giơ tay nói.
“Họ sẽ đến, sẽ đến đấy…”
Tôi nhấp nhỏm tránh con sóng to vỗ vào bờ cho khỏi ướt chân, tránh
cả lão Thoại đang đứng ngáng đường. Cha chẳng nói gì, chỉ chìa tay ra nắm lấy
tay lão. Lão Thoại nở một nụ cười rất kín, rồi đi mất. Tôi nhìn cha đứng lặng một
hồi, làn da sạm đen vì nắng gió, đôi mắt vời vợi xanh.
“Sao cha không nói gì thế?”
Cha cười, rồi nắm lấy tay tôi đi về hướng Hòn Rùa.
Câu chuyện về Mẹ kết thúc khi hai cha con tôi bước qua những hòn đá
đen lấp xấp sóng để vào miếu. Những hòn đá đen đều có một vết lõm như mắt. Những
con mắt thuở hồng hoang biển. Những con mắt ấy chứa chan hình ảnh Mẹ.
“Mẹ mang thai nhưng chưa sinh ra con, thế nên tất cả dân làng Việt
Hải đều là con của Mẹ” – cha tôi nói.
“Cha và con cũng vậy phải không cha?” - tôi ngập ngừng hỏi.
“Ừ, chúng ta là những đứa con nuôi của Mẹ Thai Dương. Mẹ sẽ che chở
chúng ta thoát khỏi cơn hoạn nạn.”
Đến bây giờ, câu nói của cha ngày nao vẫn mãi là điểm tựa lớn. Tôi
nghĩ đến mộ trứng ngỗng và những con tàu gớm ghiếc ngoài kia, lòng như lửa đốt.
Những ý nghĩ cứ bám riết tôi, cha tôi khi bước qua những tảng đá đen để vào
ngôi miếu nhỏ vững chãi giữa lưng chừng Hòn Rùa, bốn bề cây phủ xanh kín.
“Xin Mẹ phù hộ cho chúng con giữ yên cuộc đất này, giữ yên biển
và những ngày mai”.
Tôi nghe hơi thở biển hổn hển từng nhịp bước chân đi. Tiếng hải âu
xao xác ngoài xa, dậy lên thứ men xanh ngày mai của những chuyến tàu kín chật
ngoài khơi.

Bên trái Hòn Rùa là mộ của cụ khai canh nhà tôi, một ngôi mộ nhỏ
hình chữ nhật, viền cánh sen xung quanh, vôi vữa mục nát đến không thể biết xây
từ đời nảo đời nao. Mộ cụ xung quanh có la thành đắp thấp, bốn phía gắn trụ
sen. Phần quynh sau mộ nhô cao, ở đó một cây bồ đề hoang mọc lên, che tán xanh
phủ kín ngôi mộ. Nghe người làng nói, cụ nhà tôi rất giỏi phong thủy, cụ bảo
Hòn Rùa đích thị là thế “kim quy trấn hải”, nhưng là quy bị chột một mắt. Vì là
người có công với làng nên khi chết cụ xin được chôn vào con mắt sáng để giữ lấy
khí thiêng. Cụ còn vẽ cả địa đồ thủy khí chỉ cho dân làng những nơi có long mạch
để táng những người có công trạng vào đấy, làng sẽ hưng khởi.
Tôi luôn nuôi ý nghĩ một ngày nào đó sẽ nằm trên phiến đá phẳng như
thớt dưới bóng cây bồ đề trên đỉnh Hòn Rùa, gác tay lên trán và đếm trăng sao ngoài
biển rộng. Khi tròn mười hai tuổi, có lần một mình tôi chạy lên đỉnh Hòn Rùa
vào một đêm trăng sáng tháng Năm. Ở trên ấy, tôi được nghe tiếng đại dương thao
thiết hiền hòa giữa trăng sao giăng kín bầu trời. Trong thảm ánh trăng bạc, những
đoàn người bước đi nhấp nhô ngoài khơi xa như một phép màu. Họ bước đi trên nước
như ta đi trên đất, họ nhảy nhót, hát ca rồi khuất dạng sau những con sóng to tấp
tập ghé bờ. Có lần tôi hỏi cha:
“Hòn Rùa bị yểm”, cha chỉ nói vậy. Nếu có hỏi thêm một câu nào nữa,
cha sẽ cáu tiết lên như đụng phải vết thương sâu thẳm nào đó của cha trên ấy.
“Đi mà hỏi ông mày ấy”, cha bực mình nói. Tôi mang máng điều gì đó khi nghe dân
làng Lạc Dương ở kế bên bảo thỉnh thoảng lại thấy Hòn Rùa phát ra thứ ánh sáng
đỏ trong đêm tối. Người làng nghe vậy càng thấy sợ.
Tôi ngồi bó gối trên bãi cát dài trắng xóa những hàng dương, nhìn
xa xăm vô số ánh chớp xé tan trời mây xầm xập phía Đông. Mắt tôi vằn vện tia
sét tức bờ duyên hải. Tôi thấy ông nội ngồi đó, dáng một lão ngư lồi lõm đê
chài, da ông hăng hắc mùi biển mặn. Tôi rất thích dựa vào người ông để hít thở
cho kì hết cái vị ấm nồng ấy. Điếu thuốc rê vấn víu trên tay, ông đưa lên phà
làn khói mảnh dấu xóa những bóng thuyền xa xa. Một buổi chiều yên, ráng hoàng
hôn nhuộm tím bao đầu sóng lơi lả vỗ lên bờ. Tôi ngồi bên ông, nhìn biển. Ông
khoác tay lên vai tôi như khoác lên vai một người bạn đồng thuyền.
“Chớ thấy non cao mà sấp mặt, thấy biển rộng sông dài mà xoay
lưng!”, ông nói.
Tôi gật đầu nhìn ông.
“Rồi cháu sẽ gánh vác công việc của biển cả.”
Ông rít điếu thuốc.
“Đó là sự vinh quang.”
Tôi trầm ngâm.
“Cháu đã vạm vỡ ra rồi đấy. Ngày kia cháu sẽ được cha cho ra biển.”
“Thật không ông?”, tôi mừng quýnh.
Bầu trời trôi nhẹ trên đầu, tôi cố xua tan đi lớp lớp mây đen bằng
hồi ức của những cơn gió thổi nghiêng hàng dương cuối làng.
“Cháu biết biển đang làm gì không?”, ông nhìn tôi, hỏi.
“Nó chuẩn bị đi ngủ đấy ông ạ.”, tôi nói.
Ông cười hiền từ:
“Không, biển đang hát đấy. Cháu nghe xem. Biển nói với chúng ta rằng:
“Biển rộng mặc biển, thuyền chèo có ngăn.”
Một tiếng bước chân lọt thọt sau lưng. Tôi quay lại, dáng lão Thoại
nhem nhuốc trong khoảng tối chạng vạng. Lão buông tiếng.
“Ông về lúc nào thế? Trên ấy có vui không?”
Không ai trả lời. Lão ngồi đánh phịch xuống bên tôi, móc chai
rượu đế ra uống suông.
Đúng như lời ông nói. Hai hôm sau, cha kêu tôi vào nhà pha ấm trà.
Cha bảo sẽ cho tôi ra biển cùng cha. Tôi mừng quýnh, chợt nhớ đến ông nhưng chẳng
muốn kể điều gì về ông cho cha nghe cả. Cha trầm ngâm, nhìn về Hòn Rùa, cha
nói.
“Trên đó đầy máu.”
Tôi lập tức dập ngay cái ý nghĩ nằm trên tảng đá phẳng ngắm
nhìn trăng sao.
“Rất nhiều người đã chết ở đó.”
“Ai hở cha?”
Cha châm điếu thuốc hút. Khói thuốc phả vào tóc cha, trong thoáng
chốc tôi cứ nghĩ cha bước ra từ sương khói.
Chiều hôm đó, cha nói muốn thử sức tôi. Muốn đi biển phải gánh được
thuyền nan, gánh không được thì ở nhà nhé. Tôi lọ mọ đi theo cha ra Bãi Lạc.
Thuyền nhà tôi nằm đấy, vạm vỡ trong nắng chiều. Cha bảo tôi kê vai một bên mạn
thuyền, ở đấy đã có một kèo gỗ nhô ra để tỳ vai.
“Con nâng lên thử nhé”, cha nói. Tôi vận hết sức mình, nâng
thuyền lên như nâng một khối đá. Cũng may tôi bơi biển hằng ngày, hai ba tiếng
liên tục vẫn không biết mệt là gì. Vậy mà khi nâng thuyền vai tôi đau điếng,
xương như muốn nhũn ra. Cha bảo.
“Xoạc chân ra, đứng thế tấn mới vững được.”
Tôi làm theo, quả nhiên thấy vững hơn. Cha hô một tiếng, vai
tôi nhấc thuyền lên được một khoảng.
“Khá lắm, cha khen, xoay nhé!”
Tôi chẳng biết xoay là gì. Cha hét lên cho tôi nghe rõ.
“Cha làm trụ, con xoay thuyền đi!”
Tôi nhớ những động tác mỗi lần mang thuyền ra khơi của những
ngư dân làng tôi. Vai tôi gồng lên, một lực đẩy như sóng vỗ lên thân tôi, hai
chân xoạc tấn rồi khép lại, tôi thoăn thoắt đi xe trên cát, xoay một vòng tròn
trong khi cha bình thản đứng một chỗ. Thuyền nan đặt xuống, cha cười hiền. Tôi
cũng cười. Vậy là vai tôi đã đủ cứng cỏi đứng thành trụ một bên giúp cha nâng
thuyền ra biển, tay tôi đủ sức cuốn lưới đầy cá. Cha bảo tôi.
“Khuya đi biển với cha. Đi quen cha sẽ cho đi tàu xa bờ.
Ngoài ấy hay lắm.”
Ba giờ sáng hôm sau, cha đánh thức tôi dậy. Tôi vác dầm, lưới đi
trong trời đêm đầy ánh sao. Cha con tôi và hai người khác trong xóm gánh thuyền
nan ra biển. Trời tối đen như mực. Khi thuyền ra xa độ 10 hải lí, mẻ lưới đầu
tiên kéo lên. Mẻ lưới đầu tiên đời ngư phủ của tôi. Cha nói.
“Con thử kéo đi.”
Tôi vận hết sức mình tời lưới. Lúc ấy, những tia bình minh đầu tiên
le lói mặt biển. Lưới đã sát thuyền. Một đàn nục, ớt mó, ghẹ đỏ, tôm càng chen
chúc nhau nằm trong lưới. Tôi hét lên.
“Con đánh lưới được rồi!”
Cha cười hiền hậu. Cả ngày hôm đó, thuyền chúng tôi còn cất
ba mẻ nữa, đánh đến khuya thì cá đầy khoang, chúng tôi quay thuyền vào bờ. Trời
vừa hửng sáng. Tôi nhìn xuống đại dương thăm thẳm một màu, mắt ngóng đoàn người
kì lạ nhấp nhô trên biển thuở trước sẽ hiện lên. Cứ như thể sự tưởng tượng ấy sẽ
cho tôi một kí ức nào đó về hồng hoang biển.
Cha hứa tháng sau sẽ cho tôi đi chuyến đánh bắt xa bờ bằng tàu công
suất 650cv. Tôi mừng thầm, chợt nhớ tới chuyện Hòn Rùa và cái trứng ngỗng xấu
xí kia, tôi hỏi cha. Cha bắt đầu kể về Hòn Rùa bằng một thứ giọng cương mãnh, rất
đỗi tự hào. Làng Việt Hải êm đềm tận hưởng cuộc sống của một làng chài sung
túc. Đầu thời Nguyễn, các đảng cướp Tàu Ô bắt đầu hoạt động mạnh dọc duyên hải
nước ta. Một ngày kia, chúng đổ bộ lên làng Việt Hải cướp bóc. Quan binh ở xa,
dân làng tính thế chống không lại được liền rủ nhau chạy lên Hòn Rùa trú ẩn.
Chúng đuổi theo truy sát, rất nhiều người đã chết trong rừng dương cổ thụ. Toàn
bộ tài sản của cả làng bị chúng cướp sạch, đốt sạch. Bọn Tàu Ô ấy máu rất lạnh,
hễ ai chống cự liền bị chém chết ngay. Người làng Việt Hải không sợ sóng sợ gió
nhưng lại sợ cướp. Liệt tổ của con khi ở trên đỉnh Hòn Rùa đã nói.
“Chúng đốt nhà, ta đốt tàu.”
Nói xong tập hợp những tráng đinh khỏe nhất, bơi lội giỏi nhất
theo liệt tổ xuống bái yết Mẹ Thai Dương xin phù hộ. Đêm đó, bọn Tàu Ô ăn uống,
phá phách thỏa thuê trong làng. Thừa cơ đó, những dũng sĩ Việt Hải lặn xuống biển
bơi ra tàu. Chỉ trong tích tắc, mấy chiếc tàu gỗ lớn của giặc Tàu Ô bốc lửa
cháy phừng phực trong đêm. Chúng tức mình kéo nhau lên Hòn Rùa định trả thù. Lũ
Tàu Ô thật ngốc, chúng không đi bằng doi cát mà đi qua miếu Mẹ Thai Dương.
Ngôi miếu đêm đó bỗng phát ra ánh sáng xanh huyền ảo, hào quang của ngọc thể Mẹ. Giặc tranh nhau vào cướp, tên chủ tướng lúc ấy mới ra uy bảo đem hòn đá lại. Hắn lấy rìu bổ mấy nhát vào khối đá vì nghĩ trong ấy có ngọc. Đá vừa vỡ tan từng mảnh nhỏ, hắn cũng hộc máu chết tại chỗ. Tôi mới hiểu vì sao ngọc thể Mẹ bây giờ rời rạc từng mảnh thế kia. Mẹ Thai Dương đã trừng phạt hắn, bảo vệ con dân của làng. Đám lâu la sợ quá bỏ chạy ra ngoài. Trời tối như bưng, chúng va vào nhau, ngã đập đầu vào những vết chân rùa đá đen. Liệt tổ khi ấy dùng ốc u thổi vang kiêu hùng, hô hào dân làng ném đá, phóng lao xuống. Nhiều tên gục chết tại chỗ. Bọn còn lại cuống cuồng bỏ chạy. Sáng ra, dân làng xuống miếu, một vùng biển loang đỏ. Người làng thấy tội nghiệp khiêng xác chúng lên chôn sau Hòn Rùa, máu thấm khắp núi.
Ngôi miếu đêm đó bỗng phát ra ánh sáng xanh huyền ảo, hào quang của ngọc thể Mẹ. Giặc tranh nhau vào cướp, tên chủ tướng lúc ấy mới ra uy bảo đem hòn đá lại. Hắn lấy rìu bổ mấy nhát vào khối đá vì nghĩ trong ấy có ngọc. Đá vừa vỡ tan từng mảnh nhỏ, hắn cũng hộc máu chết tại chỗ. Tôi mới hiểu vì sao ngọc thể Mẹ bây giờ rời rạc từng mảnh thế kia. Mẹ Thai Dương đã trừng phạt hắn, bảo vệ con dân của làng. Đám lâu la sợ quá bỏ chạy ra ngoài. Trời tối như bưng, chúng va vào nhau, ngã đập đầu vào những vết chân rùa đá đen. Liệt tổ khi ấy dùng ốc u thổi vang kiêu hùng, hô hào dân làng ném đá, phóng lao xuống. Nhiều tên gục chết tại chỗ. Bọn còn lại cuống cuồng bỏ chạy. Sáng ra, dân làng xuống miếu, một vùng biển loang đỏ. Người làng thấy tội nghiệp khiêng xác chúng lên chôn sau Hòn Rùa, máu thấm khắp núi.
Lão Thoại khi ấy đi qua con ngõ nhà tôi, miệng lẩm bẩm.
“Họ đã đến đấy, đến thật rồi!”
Ngắt quãng, lão lại than, “Khốn!”, rồi đi mất.
Thi thoảng Mẹ lại lên gặp tôi với đôi mắt buồn da diết. Mẹ như một
dáng liễu mỏng manh, dung nghi cao quý, chầm chậm bước dọc Bãi Lạc rồi đi vào bến
miếu. Ở đó có hòn đá đen tôi ngồi mòn suốt tuổi thơ, chỉ vì muốn được gặp Mẹ, Mẹ
là thật, không phải là chiêm bao. Hôm đó, Mẹ mặc một chiếc áo Nhật Bình màu phỉ
thúy, có thêu loan ổ, đầu đội khăn vành, lưng khoác áo choàng màu đỏ tía, đi
hài thêu loan. Gió mặn tạt từng tiếng kêu gào lên dáng Mẹ. Một tỳ nữ mặc áo dài
rêu, tay cầm lọng đỏ theo hầu. Xa xa, đoàn tùy tùng với cờ lọng, nghi trượng nhấp
nhô trên sóng nước. Một tiếng ốc ù rền thiết bi ai, át đi cả tiếng gió gào,
sóng dội. m thanh kéo dài, đâm xuyên qua hàng dương Bãi Lạc, khảm sâu
lòng người nỗi sầu lụy của đại dương xanh thẳm. Tâm trí tôi như làn khói mảnh,
tản ra bốn bể mênh mông.
“Con sẽ dong buồm ra khơi chứ?”
Mẹ hỏi.
“Dạ, con…”, tôi bỗng im lặng.
“Biển là tặng vật”, Mẹ nói.
“Dạ.”
Mẹ lại hỏi, “Con muốn gì nào?”
Tôi buột miệng nói, “Con tàu sắt có quả đấm thép. Mẹ cho con được
không?”
“Rồi con sẽ có được hơi thở mát trong của biển.”
Tôi nói như van xin.
“Lâu rồi con không gặp ông nội”
Mẹ cười, “Ông luôn ở bên con mà.”
Nói xong, Mẹ đi vào miếu. Màn đen nhập nhoạng xuống nhanh, kéo theo
chút mơ hồ trống trải. Tôi bước nhanh về nhà, để không phải làm phiền Mẹ nữa, Mẹ
Thai Dương đầy ân huệ.
Cha nói, “Ông là người rất vĩ đại.”
Ông có thể bơi cả ngày mà không biết mệt. Thời trai trẻ, có lần ông
bơi ra tận hạm đội xa tới bốn năm hải lý chỉ để xem chúng trông hiện đại thế
nào. Ông luôn ở bên tôi ngày bé. Giờ lớn rồi tôi chợt nhớ lời ông “chớ thấy
sóng cả mà ngã tay chèo”, nhớ cả tấm địa đồ thủy khí mà ông tìm được, duy nhất
hiểu được.
Có lần, tôi hỏi ông.
“Địa đồ thủy khí là gì thế ạ?”
“Bảo vật để trấn biển?”
Tôi dạ vâng.
Năm tôi bảy tuổi, mấy tháng trời làng tôi thất bát, thuyền về không
cá, người đi không về. Biển xâm thực nhiều chỗ dọc Bãi La, nhiều hộ phải chuyển
nhà. Dân làng Lạc Dương bên cạnh bảo Hòn Rùa tỏa ánh đỏ, nhìn vào rất đau mắt mỗi
đêm. Khi sóng còn cách nhà tôi một khoảng ngắn đủ để thấy hơi nước bay vào
trong nhà, ông bái lạy tổ tiên, lấy tấm địa đồ thủy khí ra. Ông ngồi như vậy suốt
một ngày trời không ăn uống. Hôm sau, ông xách một giỏ đi lễ Mẹ, vai vác thêm
cuốc, xà beng đi về phía Hòn Rùa. Tôi khi ấy còn nhỏ, ông bảo ở nhà, ông về sẽ
cho quà. Ngày hôm đó, tôi ngồi chơi, nghe một tiếng nổ nhỏ ở phía Hòn Rùa. Tối
hôm đó, ông mình trần trùng trục về nhà, người ông toát ra mùi thơm kì lạ. Ông
nói.
“Xong việc rồi. Làng yên rồi.”
Người làng kể lại, ông lên Hòn Rùa dùng cuốc đào 4 hình nhân gỗ ở bốn
góc mộ trứng ngỗng. Lại lấy xà beng cạy một thanh thép dài 4 thước sau quynh. Một
tiếng nổ vang lên, nước phun lên cao mát rượi, một làn khí thơm lan tỏa quanh
những hàng dương cổ thụ. Đêm đó, cả làng ngát thơm ngây ngất. Đến bây giờ tôi vẫn
nhớ mùi hương ấy. Sau ngày đó, sóng lùi xa nhà tôi, biển không còn xâm thực
làng nữa, tôm cá về đầy thuyền, làng Việt Hải vui đời sống mới. Cả Hòn Rùa xanh
màu ngọc bích, đêm đêm tỏa sáng như một ngọn hải đăng mà người làng Lạc Dương
quả quyết thấy rõ ràng sau cái ngày ông tôi lên phá yểm. Hòn Rùa mãi xanh ngát
một màu cổ sử. Tôi muốn gọi tên những cơn mơ đầy hà bám.
“Con tàu sắt có quả đấm thép.”
Tôi đừng ước mơ như thế. Gần đây biển dậy sóng. Tàu làng tôi hễ ra
biển là gặp họ, đông như kiến cỏ, hung hãn và cường bạo.
“Con muốn ngồi trên con tàu sắt có quả đấm thép”, tôi nói với cha.
Cha tôi gật đầu đồng ý.
“Con nhớ trở về, đừng như ông nhé!”, giọng cha chợt mặn chát.
Một bàn tay vỗ nhẹ lên vai tôi. Một hơi thở mạnh phả vào gáy tôi,
ngập ngụa mùi sóng, gió, mùi của đau thương, mùi của chia lìa, chua xót.
“Họ sẽ đến. Nhưng họ sẽ phải cút đi. Bọn cướp nước. Tay tao chưa
bao giờ chịu buông súng xuống! Tao thề đấy, khi tao còn ở đảo.”
Hơi thở ấy tản ra. Tôi quay lại, bóng lão Thoại liêu xiêu đi trên
cát. Lão đang nấc lên cho nỗi cay đắng ngoài kia, nơi lão cũng từng là một chiến
binh dạn dày sóng gió và đã ngậm ngùi khi họ đến. Sóng vỗ dưới chân tôi, những
con sóng giấu lửa.
Một tiếng ốc u xa vắng chiêu hồn tôi trong đêm tối. Tiếng ốc u kiêu
hùng đã thổi mòn những bãi cát vàng, phiêu diêu cùng những chiến thuyền giong
buồm ra bể. Hồng hoang biển mở ra trước mắt một màu xanh phẳng lặng. Con tàu
không còn mắc cạn trong bóng mắt những kẻ chỉ biết đợi chờ.
Ngày mai, tôi ra khơi.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét