Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý và mối tình 'Dư âm'
"Ngày xưa khi sáng tác trong nỗi đau tột độ, tôi đã nghĩ: Rồi đây, mọi thứ trên đời, đến một lúc nào đó sẽ phải mất đi, chẳng còn gì để mà nhớ thương luyến tiếc, nếu có còn lại thì đó chỉ là "dư âm" của một thời quá khứ mà thôi", nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý kể lại kỷ niệm khi sáng tác ca khúc "Dư âm".
|
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý thời trai trẻ.
|
Hồi đó (năm 1949), tôi đang làm trưởng đoàn văn công của Sư đoàn 304. Trong kỳ nghỉ phép, một người bạn thân rủ tôi về nhà anh ấy chơi tận Quỳnh Lưu, Nghệ An. Nhà anh bạn có 2 người con gái: chị 22, em 16, mà tôi hồi đó đã 26 tuổi. Hình như ý muốn của anh bạn là cốt để tôi "dính" cô chị, cho thành anh em.
Thuở ấy, con gái đến tuổi 18 hay 20 mới được phép nói đến chuyện lấy chồng. Cái luật gia phong của ông cha mình là thế, không ai dám cưỡng lại. Vì vậy, người chị 22 tuổi phải ra mắt. Cô em mới 16 tuổi thuộc diện "chưa đến tuổi cập kê" nên phải tránh đi.
Tôi gặp người chị và cũng đôi lần trò chuyện, nhưng chẳng thấy có cảm xúc gì. Có lẽ là do "cái duyên, cái số". Đến một hôm, chúng tôi đang ngồi cạnh nhau thì cô em gái bất thần xuất hiện, đến sau lưng chị, tì cằm vào ghế chị ngồi và nhìn tôi với đôi mắt đen tròn lay láy. Ôi! Đôi mắt kỳ diệu đã hút hồn khiến tôi sững sờ, đờ đẫn, rồi lặng im như người mất hồn. Hôm sau dưới ánh trăng, khi anh bạn cùng tôi uống trà ở ngoài sân, cô em ra ngồi hong tóc ở thềm hoa, cách tôi cái sân rộng. Cô ôm đàn quay lưng lại phía tôi, cô hát gì, tôi không rõ, nhưng có vẻ như say đắm lạ thường. Tôi ra về, mang nặng trong lòng một sự tan vỡ, một "dáng em đang ôm đàn" dưới trăng.
Chuyện tình của tôi, năm ấy, chỉ có thế!
Nhưng về đến đơn vị, trong lòng tôi cứ vang lên một nét nhạc "... đêm qua mơ dáng...". Đêm hôm ấy, khi mọi người đã ngủ, tôi xuống bếp khoanh tròn tấm cót cùng với cây đàn và ngọn đèn dầu ngồi viết Dư âm.
Thời gian trôi đi. Bài hát Dư âm đã vào phim Kiếp hoa của vùng tạm chiếm Hà Nội. Ca khúc được khắp nơi biết đến, cả trong nước và ngoài nước. Cuối năm 1957, khi tôi cùng 5 nhạc sĩ được chỉ định thành lập Hội Nhạc sĩ Việt Nam bấy giờ (Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý) và đang là ủy viên chấp hành khóa đầu tiên của hội thì báo Nhân Văn ra đời. Theo ý của anh Lưu Hữu Phước, tôi nên đi vắng để tránh tờ báo ấy. Tôi nghe theo và đi nghiên cứu dân ca.
Năm ấy Hằng (cô em) cũng đã 24 tuổi. Thì ra hồi ấy cô đi bộ đội mà tôi không biết. Một chiều đi đến Vĩnh Yên, trời chuẩn bị mưa, tôi ghé vào một doanh trại trên đồi trú mưa. Nhưng vừa nộp xong giấy tờ cho bảo vệ, tôi bỗng thấy một người trong trang phục quân đội chỉnh tề từ xa đi tới. Tôi vô cùng hoảng hốt khi nhận ra người đó chính là Hằng. Hình như cô ấy cũng nhận ra tôi nên dừng lại từ xa. Tôi vội vàng vào trạm bảo vệ xin lại giấy tờ, rồi như người mất hồn đi qua mặt cô, ra cổng và đi thật nhanh như chạy trốn. Kỳ thực trong thâm tâm tôi lúc ấy chỉ nghĩ rằng: Không muốn để ai hiểu lầm tôi mượn cớ để được gặp người mình yêu.
Sự hội ngộ bất thần này sau 8 năm là cú shock đối với cô ấy. Sau này có lần một người bạn thân của cô hỏi: "Mày có nhớ ông Tý không?" thì cô đã trả lời ngay: "Ông Tý nào?". "Ông Tý 'Dư âm' ấy mà!". Cô không nói câu gì chỉ im lặng. Thấy vậy cô bạn lại nói: "Mày tệ lắm, người ta yêu mày đến thế mà mày thì chẳng nhớ gì". Cô vẫn im lặng.
Cô bạn của cô giận lắm, không ý kiến gì thêm nữa, về nhà kể với anh trai mình sự gặp gỡ này. Anh cô lại là bạn thân của tôi, một hôm đến kể cho tôi nghe, tôi vội can: "Đừng trách cô Hằng, tôi đã nói gì đâu, cô ấy có được gần tôi phút giây nào đâu mà biết?". Bản thân tôi nghĩ: Dù sao thì bây giờ cô ấy cũng đã có chồng có con rồi. Tôi yêu làm sao được! Nói thế nhưng kỳ thực là đến bây giờ và suốt đời có lẽ tôi vẫn yêu. Tôi không sao quên được đôi mắt và nụ cười của người con gái tuổi 16 ấy. Bây giờ tôi vẫn yêu là yêu cái dư âm đó thôi, chứ làm gì có cái thật để mà yêu. Mà cái dư âm thì còn mãi, yêu như thế cũng được và cũng tốt đấy chứ.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý
Nguyễn Văn Tý (5 tháng 3 năm 1925 -) là một nhạc
sĩ nổi tiếng của Việt Nam,
ông có nhiều đóng góp sáng tác từ dòng nhạc tiền chiến như Dư âm đến những
ca khúc nhạc đỏ như Dáng đứng Bến Tre, Mẹ yêu con, Người
đi xây hồ Kẻ Gỗ...
Tiểu sử và sự nghiệp
Nguyễn Văn Tý sinh ngày 5 tháng 3 năm 1925 tại Vinh, Nghệ An, quê
gốc ở xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, còn quê hiện giờ ở Vĩnh
Phúc. Xuất thân trong một gia đình truyền thống âm nhạc, cha của ông là
"trùm một phường bát âm của miền quê Vĩnh Phú thạo cả hát
văn, hát chèo và
hát ả
đào", sau vào làm thợ máy nhà máy xe lửa Trường Thi ở Nghệ An. Thuở
bé, Nguyễn Văn Tý học ở trường Quốc học Vinh và
được một giáo viên người Pháp dạy cho những bài hát của Tino Rossi đang thịnh hành
thời đó. Trong thời gian tham gia hoạt động hướng đạo, ông được một cha cố người Tây
Ban Nha cho vào dàn nhạc nhà thờ hát thánh ca.
Ở đó ông được học nhạc lý cơ bản và nhất là nâng cao trình độ hòa thanh, hát bè.
Nguyễn Văn Tý còn được một thầy giáo nhạc sĩ người
Hoa tên Mạnh Hinh dạy chơi đàn guitar
Hawaii.
Từ năm 1944, ông đi hát trong phòng trà ở Vinh kiếm sống. Năm 1945, Nguyễn Văn Tý
tham gia phong trào Việt
Minh, sáng lập và xây dựng đoàn kịch thơ, kịch nói của Thanh niên Cứu quốc
Nghệ An. Theo lời của Nguyễn Văn Tý, ông bắt đầu sáng tác vào năm 1947 khi là Trưởng
phòng Thông tin tuyên truyền huyện Thanh
Chương, nhưng ông coi tác phẩm đầu tay của mình là bài Ai xây chiến
lũy được viết 1949.
Năm 1948, Nguyễn Văn Tý ở đoàn văn hóa tiền tuyến thuộc Quân huấn cục.
Sau đó, từ năm 1950,
ông nhận nhiệm vụ đi xây dựng Đoàn Văn công của Sư đoàn 304 và làm trưởng đoàn.
Bản Dư âm nổi tiếng được ông sáng tác khoảng 1950 sau một lần về chơi
nhà bạn ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, Dư âm viết về cô em gái của
người bạn đó [1].
Cũng vì bản nhạc này ông bị đơn vị đưa ra kiểm điểm vì đã sáng tác một bài hát
quá ủy mị, không hợp với thời kỳ đó. Tuy nhiên, bài hát Dư âm sau này lại rất nổi
tiếng và được hát nhiều tại miền Nam. Ngoài ra ông còn sáng tác bài Mùa
hoa nở, Pha màu luống cày...
Nguyễn Văn Tý và bà Bạch Lệ, năm 1952
Đến 1951, Nguyễn Văn Tý giải ngũ và chuyển về công tác ở Chi hội Văn
nghệ Liên khu IV. Năm 1952, ông quen biết với bà Nguyễn Thị Bạch Lệ, em gái nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương và sau đó hai người thành
hôn. Thời gian này ông sáng tác những bài như Vượt trùng dương (1952), Tiếng
hát Dôi-a (1953) và đặc biệt là ca khúc nổi tiếng Mẹ yêu con (1956).
Ba năm sau, cha ông mất.
Cuối năm 1957, Nguyễn Văn Tý cùng với Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao được
chỉ định thành lập Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Sau đó, khi đang là ủy
viên chấp hành khóa đầu tiên của hội thì báo Nhân Văn ra đời, xảy ra vụ Nhân Văn - Giai Phẩm, theo lời
khuyên của Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Tý đi tránh và nghiên cứu dân ca. Đầu 1961, ông được biệt
phái về Hưng Yên. Thời gian này, Nguyễn Văn Tý đã viết một số ca
khúc như Chim hót trên đồng đay (1963), Dòng nước quê hương (1963), Tiễn
anh lên đường (1964), Múa hát mừng chiến công (1966)...
Sáng tác:
Nguyễn Văn Tý sáng tác được khá nhiều bài hát, những sáng tác
của ông lại được đông đảo công chúng mến mộ như Dư âm, Mẹ yêu con, Dáng đứng
Bến Tre, Bài ca năm tấn, Bài ca phụ nữ Việt Nam, Em đi làm tín dụng, Tấm áo chiến
sĩ mẹ vá năm xưa, Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ,
Cô nuôi dạy trẻ...
Dư âm có thể coi là ca khúc tiền
chiến duy nhất của ông. Ca khúc tuy không được phổ biến ở miền Bắc trong những
năm chiến tranh nhưng lại được biểu diễn nhiều ở miền Nam trước năm 1975. Về
sau ca khúc được lưu hành rộng rãi, trở thành một trong những bản tình ca được
nhiều công chúng yêu thích. Sau này ông có viết thêm bài "Dư âm 2"
mang tên Một ánh sao trời (1988).
Nguyễn Văn Tý là một trong những nhạc sĩ nhạc đỏ thành công với
chất liệu dân ca. Những sáng tác của ông được chắt chiu và nghiền ngẫm
qua những chuyến đi thực tế trong thời gian dài, nhiều sáng tác đã sử dụng khéo
léo chất liệu dân ca của nhiều vùng miền (Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh, Dáng
đứng Bến Tre, Mẹ yêu con...). Âm nhạc của ông giàu chất trữ tình được thể hiện
qua lời ca trau chuốt cùng với giai điệu mượt mà và bản sắc dân tộc. Một đề tài
quen thuộc trong nhiều sáng tác của ông là phụ
nữ với những ca khúc như Bài ca phụ nữ Việt Nam, Mẹ yêu con, Tấm
áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa... Nguyễn Văn Tý cũng là một nhạc sĩ có nhiều
sáng tác "ngành ca": Em đi làm tín dụng, Anh đi tìm tôm trên biển
cả, Chim hót trên cánh đồng đay, Cô đi nuôi dạy trẻ, Bài ca năm tấn.
Ngoài ra ông còn viết một số ca khúc thiếu nhi như Tôi
là gà trống, Gà mái mơ, Út cưng... Ông còn viết nhạc cho phim hoạt hình, múa rối và
một số vở chèo: Đảo
nổi, Sông Hồng (1967), Nguyễn
Viết Xuân (1968)
Ông đã xuất bản các tác phẩm: Những dư âm còn lại,
video, (VAFACO, 1993), Tuyển chọn ca khúc Nguyễn Văn Tý, Nhà xuất bản Âm
nhạc, Hội nhạc sĩ Việt Nam 1995; Băng chân dung và tác phẩm của Đài truyền hình
TP. Hồ Chí Minh.
Giải thưởng
Năm 2000, ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ
thuật cho các tác phẩm: Mẹ yêu con, Vượt trùng dương, Bài ca năm tấn, Tấm
áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa, Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh, Dáng đứng Bến
Tre. Trong cuộc đời hoạt động của mình, ông còn giành được một số giải thưởng
như:
Giải nhì (không có giải nhất) của Hội văn nghệ Việt Nam cho
bài Vượt trùng dương
Giải nhất Cuộc thi vận động sáng tác về đề tài phụ nữ với bài Tiễn
anh lên đường (1964)
Giải nhất sáng tác về đề tài nông nghiệp với ca khúc Bài
ca năm tấn (1967). Giải Ngân hà với bài Em đi làm tín dụng.
Tác phẩm chính:
*Thành phố Hồ Chí Minh (1969)
Ai xây chiến lũy (1949)
Bài ca năm tấn (1967)
Bài ca phụ nữ Việt Nam (1970),
Chim hót trên đồng đay (1963)
Cô đi nuôi dạy trẻ (1980)
Dáng đứng Bến Tre (1981)
|
Dòng nước quê hương (1963)
Dư âm (1950)
Em đi làm tín dụng (1971)
Mẹ yêu con (1956)
Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh (1974)
Múa hát mừng chiến công (1966)
|
Ru người trăm năm (1999)
Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa (1973)
Tiễn anh lên đường (1964)
Vượt trùng dương (1952)
|
Nguồn: https://vi.wikipedia.org/








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét