Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2018

Người gác đèn biển

I/ Một lần xảy ra chuyện người gác đèn biển ở Axpinoan - một nơi không xa Panama - bị mất tích. Chuyện đó xảy ra trong cơn bão nên người ta cho rằng có lẽ kẻ xấu số nọ đã bị sóng cuốn đi khi lần ra mép nước của đảo đá đặt tháp đèn. Điều đó càng có vẻ có lý, vì ngày hôm sau người ta không tìm thấy chiếc xuồng con mà ông ta vẫn thường xuyên buộc ở kẽm đá. Cần phải tìm ngay người thay chân gác đèn bị khuyết, bởi ngọn đèn biển này có ý nghĩa không nhỏ với giao thông trong vùng cũng như đối với tàu bè chạy từ New York đến Panama. Vịnh Muỗi vốn lắm doi cát và bãi cạn, tìm luồng lạch ban ngày còn khó, huống hồ ban đêm, nhất là giữa những lớp mù thường bao phủ vùng biển nhiệt đới nơi đây. Khi ấy đối với số đông tàu bè, ngọn đèn biển trở người chỉ đường duy nhất. Mối lo tìm người gác đèn thay thế đổ xuống đầu viên lãnh sự Mỹ ở Panama, mà đó là mối lo chẳng nhỏ nhoi gì, bởi lẽ thứ nhất là phải tìm bằng được người thay thế trong vòng một hai tiếng đồng hồ, thứ hai, người thay thế phải là người đặc biệt mẫn cán, không phải ai cũng nhận được, và sau nữa, hiện chẳng có ma nào ứng cử vào chân đấy. Cuộc sống trên tháp đèn vô cùng khắc khổ, chí ít cũng chẳng hấp dẫn gì với dân miền Nam rỗng tuyếch vốn ưa thích phiêu lãng tự do. Người gác đèn biển chẳng khác gì tù nhân. Trừ chủ nhật, anh ta không được phép rời khỏi cái đảo đá của mình. Mỗi ngày một lần, thuyền từ Axpinoan chở ra đảo lương ăn và nước uống rồi lại đi ngay, và khi ấy cái đảo đá rộng chừng một mẫu ấy không còn một bóng người nào khác. Người gác đèn sống ngay trong lòng tháp đèn và tự lo liệu lấy. Ban ngày trông theo phong vũ biểu mà treo cờ hiệu các màu để báo thời tiết, ban đêm thì đốt đèn. Kể ra, đó cũng không phải là công việc nặng nhọc gì, nếu như không phải ngày vài lần leo lên những 400 bậc thang lên cái cầu thang trôn ốc cao ngất lên đỉnh tháp. Nói chung đó là cuộc sống như trong tu viện, mà còn tệ hơn tu viện, bởi lẽ người gác đèn chỉ có một thân một mình.
Vì vậy cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu ngài lãnh sự Fancônbrigiơ lo nghĩ không biết tìm đâu cho ra người gác đèn thay thế cho kẻ bạc phận, và cũng dễ hiểu niềm vui sướng của ngài khi ngay trong ngày hôm ấy tự nhiên có một người tìm đến nhận chân gác đèn. Đó là một ông lão tuổi ngoại 70, song nom vẫn quắc thước khỏe mạnh, lưng vẫn thẳng, dáng dấp có vẻ con nhà binh. Tóc ông lão đã bạc trắng, nước da bánh mật như người Krêôn song cứ theo màu đôi mắt mà suy thì chắc chắn, ông không phải người phương Nam. Vẻ mặt ông trầm ngâm, đầy u ẩn, song trung hậu. Thoạt trông, ngài lãnh sự đã thấy hài lòng, song ngài vẫn có nhiệm vụ thẩm tra người xin việc, vì vậy đã diễn ra cuộc đối thoại sau đây:
– Quê ông ở đâu?
– Thưa, tôi người Ba Lan.
– Từ trước đến nay ông làm nghề gì?
– Thưa ngài, tôi đi tìm việc.
– Người gác đèn phải là người thích ngồi yên một chỗ kia đấy
– Thưa, chính tôi cũng đang tìm một chỗ để yên thân.
– Ông đã đi lính bao h chưa? Ông có chứng nhận phục vụ trung thành với chính phủ chứ?
– Thưa, chứng nhận đây ạ. Huân chương chữ thập này tôi được thưởng năm 30. Cái thứ hai là huân chương của Tây Ban Nha, tôi được thưởng trong cuộc chiến tranh Caclixto. Cái thứ 3 là huân công của Pháp, cái thứ 4 tôi nhận được ở Hungari. Rồi tôi đánh nhau ở US chống lại các bang miền Nam, nhưng người ta không tặng huân chương, chỉ phát mẩu giấy này.
Ngài lãnh sự cầm lấy tờ giấy và bắt đầu đọc.
– Hm.. Xkavinxki? Họ của ông đấy à…Hm..Tự tay đoạt được hai lá quân kỳ trong một trận đấu lê…ông từng là một người lính dũng cảm!
– Tôi sẽ là một người gác đèn mẫn cán, thưa ngài!
– Ngoài ấy phải leo lên tận tháp đèn ngày một vài lần cơ đấy, liệu chân ông còn đủ cứng không?
– Thưa, tôi đã từng đi bộ qua cả miền đồng bằng.
– All Right! Ông có biết qua loa nghề biển chứ?
– Tôi đã làm việc 3 năm liền trên tàu săn cá voi, thưa ngài.
– Ông cũng qua nhiều nghề gớm nhỉ?
– Thưa, tôi chỉ chưa tìm được chốn yên thân.
– Sao vậy?
– Cái số tôi nó thế…
– Theo tôi, để làm nghề gác đèn thì ông hơi quá già đấy.
– Sir, - ông lão chợt thốt lên bằng một giọng đầy xúc động - Tôi đã mệt mỏi, đã chịu đựng nhiều quá rồi. Ngài cũng thấy đấy, đời tôi đã trải qua bao đận. Giờ tôi chỉ mong sao có chỗ yên thân. Tôi già rồi, tôi chỉ cần yên tĩnh! Tôi muốn được tự nhủ với mình rằng: mày sẽ ngồi yên tại chốn này, đây đã là bến cảng của mày. Ôi Sir, việc này chỉ còn phụ thuộc vào mỗi mình ngài mà thôi. Khó lòng có cơ hội thế này lần nữa. May mắn làm sao đúng lúc tôi có mặt ở Panama kia chứ… tôi van ngài… thề có Chúa… tôi như con tàu sẽ bị đắm chìm nếu không được vào bến cảng. Xin ngài rón tay làm phúc cho thân già này….xin thề với ngài là tôi ngay thực, nhưng… tôi ngán cảnh này lắm rồi…
Đôi mắt xanh của ông lão biểu lộ lời cầu khẩn tha thiết đến nỗi nài lãnh sự - vốn có tấm lòng nhân hậu và chất phác - cũng xúc động.
– Well - ngài nói - tôi đồng ý nhận ông vào chấn gác đèn.
Nét mặt ông lão bừng lên biết ơn khôn tả.
– Xin đa tạ ngài.
– Thế liệu hôm nay ông đã có thể ra tháp đèn được chưa?
– Thưa, đã.
– Vậy thì xin chào!… À, thêm một điều nữa, chỉ cần trể nải một lần, ông sẽ bị thải hồi ngay đấy!
– Được ạ
Ngay chiều hôm đó, khi mặt trời chìm vào làn nước biển, đêm sập xuống sau một ngày đầy nắng gần như không hề trải qua hoàng hôn, người gác đèn mới đã nhận việc, ngọn đèn biển đã lại chiếu ánh sáng chói lọi trên sóng nước. Đêm vô cùng thanh tĩnh, một đêm điển hình của vùng nhiệt đới, đấy ắp sương mù màu sáng, làm thành một chiếc quầng rộng rực sắc cầu vồng với đường viền mềm mại không rõ nét xung quanh mặt trăng. Ông lão Xkavinxki đứng trên ban công, ngay cạnh ngọn đèn to tướng. Trông từ phía dưới lên, nom ông lão như một chấm đen bé xíu. Ông lão đang cố gắng tập trung suy nghĩ về tình cảnh mới của mình, song những cản xúc mãnh liệt cho ông suy nghĩ mạch lạc. Ông lão có cảm giác của một con thú bị săn đuổi, cuối cùng đã tim được một chỗ náu thân trong một khe đá hay một cái hang nào đó, nơi không một ai tới được. Thế là rốt cuộc thời yên tĩnh đã đến với ông. Cảm giác của sự an toàn khiến tâm hồn ông lão tràn ngập một niềm hoan lạc không diễn tả thành lời. Vậy là rốt cuộc, trên cái đảo đá này, ông có thể quên đi cuộc sống lang bạt đã qua, những nỗi bất hạnh, những thất bại của ngày qua. Ông lão giống như một con tàu bị bão tố bẻ gãy cột buồm, bị xé rách tả rơi cánh buồm, dứt đứt tung dây leo, ném từ cao mây trời xuống tận đáy vực sâu, con tàu bị nhưng làn sóng sủi tung bọt trắng đánh cho tơi tả, song cuối cùng cũng tìm được vào bến cảng. Bức tranh của cơn bão tố lướt nhanh trong đầu óc ông, đối lập với tương lai yên ả bắt đầu.
Thực ra ông lão mới chỉ kể cho ngài lãnh sự nghe một phần nhỏ những bước thăng trầm của cuộc đời mình. Bao giờ ông cũng chỉ gặp toàn bất hạnh. Cứ mỗi lần ông hạ trại, nhóm lửa lên với ý định sinh cơ lập nghiệp lâu dài tại đó thì y như rằng gió bão lại nổi lên, giật tung cọc trại, thổi tan đống lửa, xô đẩy ống vào chốn phong trần. Giờ đây, từ ban công đèn nhìn xuống những làn sóng loang loáng ánh sáng, ông lão bồi hối nhớ lại những gì đã trải qua. Ông đã từng đánh nhau khắp bốn phương trời, và trong cuộc đời phiêu bạt của mình đã thử làm qua hầu như tất cả mơ nghề để kiếm sống. Cần cù và trung thực, hơn một lần ông dành dụm được chút vốn liếng, nhưng chỉ để rồi sau đó lại bị mất trắng, mặc dù đã hết sức thận trọng đề phòng. Ông đã từng đào vàng ở Úc, tìm kim cương ở châu Phi, làm xạ thủ ở Đông Ấn, và đã có thời ông lập nông trại ở California, song lại bị hạn hán khiến cho phá sản.Ông cũng đã từng thử nghề buôn bán với các bộ lạc nguyên thủy sống sâu trong vùng lục địa Brazil, song chiếc bè của ông bị vỡ tung trên sông Amazon, còn ông- gần như trần truồng, không hề có lấy một tấc sắt trong tay - phải lần mò suốt mấy tuần liền trong rừng thẳm, bao phen suýt làm mồi cho thú dữ. Ông đã từng mở xưởng rèn ở Helena, song rồi xưởng bị thiêu trụi trong một nạn cháy lớn bao trùm thành phố. Sau đó ông bị rời vào tay dân Indian trong rặng Thạch Sơn, và có lẽ chỉ nhờ một phép màu nhiệm nào đó, ông mới may mắn được các xạ thủ Canada cứu thoát. Ông cũng đã từng làm thuỷ thủ trên chiếc tàu thủy chạy tuyến Bahia - Boocđô, rồi lại làm thợ săn trên tàu đánh cá voi, song cả hai con tàu đều gặp nạn. Ông đã từng là chủ một nhà máy xì gà ở La Habana, để rồi bị kẻ chung lưng cuỗm mất tất cả vốn liếng khi ông đang phải nắm liệt giường vì bệnh vômitô. Cuối cùng ông phiêu dạt đến nơi đây, và đây sẽ hẳn là ranh giới chấm dứt những chuyên không may của ông. Liệu còn có gì có thể theo đuổi ông ra tận cái đảo đá này nữa chứ? Cá nước, cả lửa, cả con người! Thật ra, nói cho cùng, thì từ phía con người ông lão Xkavinxki cũng không phải nhận quá nhiều điều bất hạnh. Trong đời ông đã gặp được nhiều người tốt hơn kẻ xấu.
Ngược lại, dường như tất cả bốn thứ hung thần của thiên nhiên đều thi nhau săn đuổi ông. Những người quen biết ông lão đều nói rằng ông không có phúc họ dùng điều ấy để giải thích cho mọi nỗi bất hạnh của ông. Bản thân ông rút cục cũng đâm ra hơi mê tín. Ông tin là có một bàn tay độc ác và hằn thù nào đó cứ bám theo ông khắp nơi, trên mọi vùng đất, mọi vùng biển. Song ông không thể nói đến chuyện ấy. Thảng hoặc, khi có người hỏi xem đó là bàn tay kẻ nào, ông lão trỏ tay kín đáo về phía sao Bắc Đẩu, ra hiệu là từ hướng ấy đến….
Quả thực, những điều không may của ông lão xảy ra thường xuyên đến lạ lùng, dễ khiến cho người ta thối chí, nhất là những kẻ đã từng nếm trải chua cay. Song ông có được sức đề kháng lặng thầm nhưng mạnh mẽ bắt nguồn từ lẽ phải của con tim, cùng tính kiên nhẫn của người Idian. Hồi ở Hungary, ông đã từng bị chọc mười mấy nhát lê cũng chỉ vì không thèm bám lấy cái bàn đạp chân được người ta ném cho để xin cứu mạng mà lại kêu lên: Pardon! Cũng tương tự như thế, ông không chịu hàng phục những tai ương của cuộc đời. Nhẫn nại như một con kiến, ông cứ bò dần lên. Một trăm lần bị đạp nhào xuống, ông lại bình thản leo lên tiếp lần một trăm lẻ một. Ông lão là một loại người kỳ dị theo một kiểu riêng biệt. Người lính già ấy, người mà họa chỉ có Chúa mới hay, đã từng bị thiêu trong bao nhiêu ngọn lửa, đã từng luyện tôi trong bao nỗi cơ hàn, đã từng bị đánh đập và cùm kẹp, song vẫn mang một trái tim con trẻ. Trong thời gian bệnh dịch hoành hành ở Cuba, ông bị nhiễm bệnh cũng chỉ vì đã nhường toàn bộ số thuốc khá nhiều của ông cho những người bệnh, chẳng giữ lại chò minh một mảy may.
Ở ông lão còn một điều kỳ lạ nưa là sau ngần ấy những chuyện đau lòng, ông vẫn không bị mất hy vọng, vẫn tràn đầy niềm tin rồi đây mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Cứ khi mùa đông đến, ông lại hoạt bát hẳn lên, và háo hức đón đợi những sự kiện trọng đại, những sự kiện mà ông hằng trông ngóng, hằng sống cùng chúng suốt những năm tháng dài đằng đẵng… Song những mùa đông cứ nối nhau trôi đi, ông lão chỉ thu được một điều là mái tóc ông dần bạc trắng. Ông già đi và mất dần sinh lực. Tính kiên nhẫn của ông ngày càng gần với sự nản lòng. Sự bình tâm xưa nay đã ngả dần thành khuynh hướng tự thương thân, và người cựu chiến binh phong trần nọ biến thành một kẻ mau nước mắt, có thể xúc động vì bất cứ thứ gì. Thêm vào đó, thỉnh thoảng ông lão lại bị giày vò bởi một nỗi hoài vọng sâu thẳm được gợi lên chỉ do những khung cảnh không đâu: một cánh én chao ngang, một đàn chim lông xám trông giống chim sẻ, một làn tuyết trên đỉnh núi hay chỉ một âm điệu thoáng qua nghe như làn điệu mà ông lão nghe từ thuở nào… Cuối cùng, chỉ còn một ý nghĩ duy nhất chế ngự ông lão, ý nghĩ về sự yên nghỉ, ý nghĩ đó chiếm lĩnh ông lão một cách hoàn toàn, nó cuốn đi mọi ước muốn và hy vọng khác. Kẻ lang thang vĩnh hằng ấy không còn khát vọng nào mãnh liệt và nhiều ý nghĩa hơn là tìm được cái xó yên ả nào đó, nơi có thể nghỉ ngơi mà chờ đợi kết cục cuối cùng. Có thể một sự kì lạ nào đó của số phận đã ném ông qua hết thảy mọi đại dương và mọi miền đất, không cho ông kịp nghỉ lấy hơi, để giờ đây ông cho rằng đối với kiếp sống con người không có niềm hạnh phúc nào lớn hơn hạnh phúc không phải phiêu bạt. Quả thực, ông xứng đáng được hưởng niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ấy, song vốn đã quá quen với điều không may, ông chỉ dám nghĩ về niềm hạnh phúc ấy theo kiểu người ta ước đến một điều gì đó không sao đạt tới. Thậm chí, ông lão không dám ước điều đó nữa, ấy thế mà, đột nhiên chỉ trong một hai tiếng đồng hồ, ông lão đã tìm được chính việc làm mà dường như ông đã chọn cho riêng mình trong số tất thảy mọi công việc trên đời. Vì vậy, không có gì lạ, là khi đêm xuống, đốt ngọn đèn biển lên rồi, ông lão vẫn cứ bàng hoàng tự hỏi: phải chăng đây là sự thật? Và vẫn chưa dám khẳng định: phải chăng đây là sự thật. Trong khi thực tế thuyết phục ông bằng những chứng cớ không bác bỏ nổi. Và thế là giờ nọ nối giờ kia trôi qua, ông lão vẫn cứ đứng thần người ra trên ban công.Ông lão nhìn ngắm, tận hưởng và tự thuyết phục mình hãy tin vào sự thật. Dường như đây là lần đầu tiên ông được trông thấy biển, bởi lẽ những chiếc đồng hồ lớn ở Axpinoan đã điểm chuông từ lâu mà lão vẫn chưa chịu rời cái cao nguyên trên không trung của mình, vẫn đứng ngắm nhìn mãi. Biển ầm ì dưới chân ông. Thấu kính của ngọn đèn pha quét vào đêm những luồng sáng khổng lồ, bên ngoài những luồng sáng ấy mắt ông lão ngập chìm trong một chốn thăm thẳm tối tăm đầy những điều huyền bí nhưng khủng khiếp. Song dần như chốn xa thăm thẳm kia cũng đang chạy dần về phía ánh sáng. Những làn sóng dài từ bóng đêm nhô ra, réo lên à à, ùa vào chân đảo, lúc ấy có thể nhìn rõ cái bờm đầy bọt của chúng lóng lánh sắc hồng trong ánh sáng ngọn đèn pha. Thủy triều lên cao mãi, nhấn chìm dần những doi cát. Tiếng thì thầm huyền bí của đại dương từ khơi xa vọng về mỗi lúc một mạnh lên, ồn ã hơn, lúc nghe tựa súng đại bác gầm, lúc nghe như tiếng xạc xào của những rừng cây khổng lồ, lúc lại nghe như tiếng huyên náo của bao giọng nói quyện vào nhau. Đôi khi tất cả lại bặt đi. Sau đó vọng đến tai ông vài tiếng thở dài não nuột, tiếng nức nở nghẹn ngào, rồi lại những tiếng nổ dữ dội. Rồi sau đó, gió xua tan sương mù, song lại dồn về phía những đám mây đen rách tả tơi che khuất cả vầng trăng. Gió Tây thổi mỗi lúc một mạnh.
Những cơn sóng cuồng loạn nhảy chồn lên bờ đá dốc đứng, bọt liếm mãi lên cả vách tường xây. Cơn dông tố ì ầm phía xa. Trong khoảng không gian tối tăm xao động chợt sáng lên những ngọn đèn màu xanh lá mạ treo trên đỉnh các cột buồm. Những đốm sáng màu lục ấy lúc nhô lên, lúc chìm xuống, lúc lắc lư sang trái sang phải. Ông lão Xkavinxki xuống căn phòng mình. Dông tố bắt đầu nổi lên ngoài kia, trên những con tàu, con người phải vật lộn với đêm sâu, bóng tối sóng biển, nhưng trong căn phòng này vẫn yên ả và tĩnh mịch biết bao.
Thậm chí ngay cả hồi âm của cơn bão cũng bị yếu đi nhiều khi xuyên qua các bức tường dày; chỉ có tiếng tích tắc đều đều của chiếc đồng hồ như ru đưa ông lão đã quá mỏi mệt vào giấc ngủ miên man.
II / Giờ tiếp giờ, ngày tiếp ngày, tuần theo tuần cứ thế trôi đi. Dân biển thường kể rằng, thỉnh thoảng, khi biển cả gầm gào dữ dội, họ nghe như có tiếng ai đó gọi tên họ giữa đem khuya tăm tối. Nếu cái vô biên của biển cả có thể lên tiếng gọi, thì cũng rất có thể, khi con người già đi, một thứ vô biên khác, tăm tối hơn và huyền bí hơn, cũng đã lên tiếng gọi. Con người càng mệt mỏi vì cuộc đời bao nhiêu thì đối với họ những tiếng gọi kia càng trở nên trìu mến bấy nhiêu. Song để có thể nghe thấy tiếng gọi ấy cần có sự yên tĩnh. Thêm nữa, tuổi già thường thích cô đơn, dường như lúc ấy con người đã cảm nhận được hơi hướng của nấm mồ. Đối với ông lão, cây đèn biển cũng đã như phân nửa nấm mộ. Không gì đơn điệu hơn cuộc sống ngoài tháp đèn. Nếu có đồng ý nhận việc này thì chóng hay chấy những người trẻ tuổi cũng sẽ bỏ mà đi. Chính vì vậy, người gác đèn thường là những người có tuổi, trầm lặng và kiệm lời. Giá có phải rời cây đèn của mình đi ra kiếm sống giữa đồng loại, người gác đèn sẽ ngơ ngơ ngác ngác như kẻ bị đánh thức giữa giấc ngủ say. Trên tháp đèn thiếu đi mọi thứ ấn tượng vặt vãnh tạo nên vóc dáng đời thường. Hàng ngày người gác đèn tiếp xúc với toàn những mênh mông, không hình thù nhất định.
Trời là một, biển là hai, còn ở giữa hai thứ vô biên ấy là một hồn người cô đơn, ấy là kiểu cuộc sống, trong đó sự suy nghĩ biến thành một nỗi trầm tư miên man. Không có gì, thậm chí cả công việc, có thể đánh thức người gác đèn khỏi nỗi trầm tư đó. Ngày nọ giống hệt ngày kia như hai hạt cườm trong cùng một chuỗi hạt, và sự thay đổi thời tiết là thứ duy nhất đổi thay. Song ông lão chưa bao giờ thấy hạnh phúc đến thế. Lão thường dậy sớm, điểm tâm, lau chùi thấu kính của ngọn đèn pha, rồi sau đó ngồi mãi ở ban công nhìn đăm đắm ra khơi xa. Ông lão ngắm không biết chán những cảnh tượng diễn ra trước mắt. Trên cái phông màu xanh thẳm của biển cả thường nổi lên hàng đàn cánh buồm no gió phồng căng, chói lọi trong ánh mặt trời, khiến ông lão phải nheo mắt lại. Đôi khi, những chiếc tàu thuận mậu dịch phong giăng thành một dây dài nom giống hệt một chuỗi chim hải âu bay. Những cái phao tiêu màu đỏ đánh dấu luồng lạch khoan thai lắc lư theo sóng. Hàng ngày, vào chính ngọ, giữa những lá buồm, thấp thoáng hiện ra một cột khói khổng lồ màu xám. Đó là chiếc tàu thủy chở hàng hoá chạy từ New York đến Axpinoan, để lại sau đuôi một dải nước ngầu bọt.
Từ phía bên kia ban công, ông lão có thể nhìn thành phố Axpinoan rõ như trên lòng bàn tay, với cái bến cảng náo nhiệt của nó với một rừng cột buồm và những tàu bè lớn bé. Xa hơn nữa là những ngôi nhà màu trắng toát và các đỉnh tháp nhọn hoắt của thành phố. Nhìn từ đỉnh thấp đèn, những ngôi nhà nhỏ xíu hệt như những tổ chim hải âu, thuyền bè nom như những con bọ sừng, còn người thì giống như chấm nhỏ li ti di động trên mặt đường lát đá màu trắng. Sáng sớm, làn gió đông nhẹ thổi, mang tới tai ông những thanh âm của cuộc sống loài người, trên đó nổi bật lên tiếng còi tàu trầm bổng…Vào chính ngọ là giờ nghỉ trưa, toàn bộ khu cảng như ngừng hoạt động, những con chim hải âu ẩn vào các hốc đá, sóng yếu đi và trở nên biếng nhác. Vào lúc ấy, trên bờ, trên biển, cũng như trên tháp đèn, bao trùm một giây phút im lặng tuyệt đối. Những bờ cát vàng óng nhô lên khi sóng rút ra xa trông giống hệt như những đồ vật làm bằng vàng ròng đặt trên mép nước, cột tháp nổi bật trên nền trời màu thiên thanh. Từng luống ánh sáng mặt trời dội từ trên cao xuống mặt nước, xuống bờ cát và xuống vách đá dốc đứng. Khi ấy, ngay cả ông lão cũng như chìm vào sự mỏi mệt đầy dịu ngọt. Ông cảm thấy được nghỉ ngơi một cách thật tuyệt diệu, và khi nghĩ rằng cảnh đời ấy còn kéo dài mãi thì ông chẳng thiết điều gì khác nữa. Ông lão thỏa mãn với niềm hạnh phúc của mình. Song bản tính con người thường mau quen với số phận khi nó tốt đẹp hơn, nên lòng tin của ông lão ngày càng lớn lên, ông nghĩ rằng nếu con người còn biết xây nhà an dưỡng cho các cựu chiến binh thì lẽ nào Chúa chẳng dành cho ông lấy một chỗ? Thời gian trôi đi, ông ngày càng tin vào điều đó. Ông sống đằm thắm với cây tháp, với ngọn đèn, với bờ đá dốc đứng, với những cồn cát và nỗi đơn côi. Ông quen với những con chim hải âu thường chao lượn trên bãi đá và chiều chiều ụ họp trên nóc tháp đèn. Ông lão thương ném cho chúng những mẫu thức ăn thừa, chúng nhanh chóng quen thuộc với ông, đến nỗi về sau, mỗi khi ném thức ăn cho chúng, ông lão bị vây bọc giữa một cơn bão những cánh chim trắng toát. Lão đi giữa bầy chim như mục đồng đi giữa đàn cừu của mình. Khi thuỷ triều xuống, ông lão thường đi ra giữa các cồn cát để tím bắt những con ốc biển ngon lành và những chú trai ngọc bị sóng đánh dạt vào. Ban đêm, dưới ánh trăng và ánh sáng ngọn đèn biển, ông đi kiếm cá vốn rất sẵn ở ven các bãi đá. Ông lão yêu hòn đảo trần trụi của mình, hòn đảo chỉ mọc lơ thơ những loài cây bé nhỏ, thân đẫm nhựa đặc quánh. Sự cằn cỗi của đảo được phong cảnh vùng quanh đấy bù đắp lại. Vào những giờ ban trưa, khi bầu không khí trở nên trong suốt, từ đây có thể nhìn thấu toàn bộ vùng eo đất hẹp suốt sang tận Thái Bình Dương, một vùng đất trù phú mọc đầy cây cỏ tốt tươi. Những lúc ấy, ông lão Xkavinxki tưởng như trước mắt là một khu vườn lớn.
Những chùm dừa và sao sao khổng lồ kết thành những vòng hoa đầy đặn đến ngon lành, nằm ngay tiếp sau các ngôi nhà của Axpinoan và Panama có thể thấy một khu rưng bạt ngàn, trên đó nổi bật là các đám mấy đỏ rực rỡ vào sáng sớm hay hoàng hôn. Đó là một khu rừng nhiệt đới thực sự, với làn nước lặng lẽ sát bên chân, dây leo quấn chằng chịt, với những cây sứa, cọ, thiết mộc, cao su, phong lan rì rào không ngớt.
Qua ống nhòm công vụ của mình, ông lão không chỉ nhìn thấy các thân cây to, những tàu lá chuối rộng bản, mà còn trông thấy hàng đàn khỉ, hàng đàn chim và vẹt chốc lại đột ngột bay vụt lên như một đám mấy ngũ sắc bên trên khu rừng. Ông lão Xkavinxki biết rõ những khu rừng như thế, bởi sau khi chiếc bè của ông bị vỡ tung trên sống Amazon, ông đã từng lặn lội nhiều tuần liền trong vòm cây cối rậm rì xanh thẳm đó. Ông hiểu rõ biết bao nỗi nguy hiểm, bao nhiêu cái chết ẩn náu dưới cái tán lá tuyệt vời trông như tươi cười kia. Trong những đêm lần mò giữa rừng sâu, ông lão từng nghe tiếng vượn hú thảm thiết cùng tiếng heo gầm gào. Ông đã từng gặp những con trăn khổng lồ vặn vẹo thân mình dài ngoằng trên cây, ông biết rõ những cái hồ vẻ ngái ngủ trong rừng song trong lòng chứa đầy cá sấu và cá đuối điện. Ông lão hiểu rõ lắm kiếp sống cơ cực của con người trong những khu rừng hoang vu và thăm thẳm ấy, nới có những chiếc lá rộng gấp hàng chục lần thân người, nơi dày đặc những đàn muỗi khát máu, nhung nhúc những con vắt háu đói và những con nhện độc khổng lồ. Chính ông đã từng trải qua, đã từng nếm trải, từng chịu đựng tất cả những thứ đó, nên giờ đây, khi từ trên cao nhìn xuống cái địa ngục ấy, ông cảm thấy niềm sung sướng của một người có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó mà không bị mối hiểm nào đe dọa. Cái tháp đèn bảo vệ ông khỏi mọi thứ. Cũng chính Vì vậy, ông chỉ rời tháp đèn của mình vào sáng chủ nhật mà thôi. Khi ấy ông thắng bộ lễ phục màu xanh thắm với những chiếc khuy bạc, gắn lên ngực áo các loại huân chương, và mái đầu màu ngà ngẩng trong một niềm tự hào. Khi ra khỏi nhà thờ ông nghe thấy tiếng xì xào tán thưởng của của đám người Krêôn: “Chúng ta có một tay gác đèn bảnh thật!”. “Mà ông ấy chẳng hề ra vẻ chút nào, mặc dù là dân Meor”. Sau lễ mixa, ông lão quay về tháp đèn, đầy hạnh phúc, bởi ông chưa dám đặt niềm tin vào đất liền. Cũng thường vào chủ nhật, ông đọc tin tức ở một tờ báo tiếng Spain mua trong phố hoặc tờ Diễn Đàn New York mượn của ngài Lãnh Sự, và tỉ mẩn dò tìm những mẫu tin về châu Âu. Ôi trái tim già tội nghiệp! Ở trên ngọn tháp đèn nơi bán cầu xa xôi này vẫn đập về quê hương.. Đoi khi, lúc chiếc thuyền chở thức ăn và nước uống ra đảo, ông lão từ tháp đèn lần xuống chuyện gẫu với gã John - người gác cảng.
Nhưng rồi một thời gian sau đó, ông trở nên hoang dã dần đi. Ông thôi không còn lai vãng vào phố, thôi đọc báo chí và thôi những câu chuyện thời thế với gã John. Hàng tuần liền chẳng ai nhìn thấy ông, mà ông cũng chẳng gặp người nào.
Dấu hiệu duy nhất chứng tỏ ông còn sống là lương thực người ta để lại trên bờ đá cho ông được lấy đì và ánh sáng ngọn đèn biển vẫn được đốt lên như mặt trời xứ này nhô lên từ biển. hình như ông đã hoàn toàn dửng dưng với cuộc đời. Nguyên nhân của sự dửng dưng đó không phải nỗi hoài vọng cố hương, mà ngay cả nối hoài vọng kia cũng dần nhuốm màu tuyệt vọng. Giờ đây, đối với ông, cả thế giới bắt đầu và kết thúc chính ngay trên hòn đảo này. Ông sung sướng với ý nghĩ là cho đến lúc chết sẽ không bao giơf phải rời bỏ ngọn tháp đèn, ông hầu như quên hết thảy mọi thứ khác trên đời ngoài tháp đèn của mình. Ông trở nên mê tín, cặp mắt xanh hiền hậu của ông ngày càng giống đôi mắt trẻ thơ, nhưng cứ nhìn đăm đăm vào một chốn xa xăm nào đó. Trong cảnh cô đơn triền miên, sống giữa quang cảnh vừa rất mực hoang sơ và vừa vô cùng khoáng đạt, ông mất dần đi cảm giác về bản thân mình, ông gần như thôi không còn tồn tại như một cá thể độc lập nữa, mà ngày càng hòa nhập, tan lẫn vào môi trường xung quanh. Thực ra ông cũng chẳng ý thức được điều đó, mà chỉ cảm nhận nó, song rốt cuộc, đối với ông, cả bầu trời, mặt nước, cả đảo đá, ngọn tháp đèn, những cồn cát, những cánh buồm, đàn chim hải âu cùng làn nước thủy triều… tất cả hòa thành một khối duy nhất, mênh mông, một linh hồn bao la, huyền bí, và chính ông cũng đắm trong cảnh sống đặc biệt nửa tỉnh nửa mơ ấy. Ông lão tìm cho mình một nỗi yên tĩnh vô biên, sự yên bình của một kẻ đã gần đất xa trời.
III/ Nhưng rồi sự tỉnh thức vẫn cứ đến…
Hôm ấy, khoảng một giờ sau khi chiếc thuyền chở thực phẩm cập đảo, ông lão Xkavinxki mới lần từ tháp đèn xuống lấy hàng, và ông chợt nhận thấy ngoài những thứ thương ngày, còn có thêm một cái gói nữa . Trên mặt vải thô dây bọc bên ngoài có dấu bưu cục Mỹ và nổi bật địa chỉ: “Mr. Xkavinxki”. Ngạc nhiên, ông rọc vỏ bọc bên ngoài và trông thấy mấy quyển sách. Tay run run, ông cầm lên một quyển nhìn lướt qua rồi lại thẫn thờ đặt xuống. Ông lấy tay dụi mắt, dường như không thể tin vào mắt mình, ông ngỡ như mình đang mơ- bởi vì đó là một cuốn sách tiếng Ba Lan! Chuyện gì thế này? Ai có thể gửi sách cho ông cơ chứ? Thoạt đầu, ông lão không thể nhớ ra ngay được là một lần nọ - ngay từ hồi đầu cuộc đời gác đèn biển của mình - ông đọc trong tờ Diễn Đàn New York mượn được, tin về thành lập Hội kiều bào Ba Lan tại New York, và ông đã ngay lập tức gửi nửa tháng lương của mình cho hội (thực ra, ngoài tháp đèn, ông lão cũng chẳng biết dùng tiền vào việc gì). Hội liên hiệp cảm cái ơn đấy nên đã gửi sách biếu ông. Sách được chuyển theo cách thức thân tình nhất, song thoạt nhiên, vì choáng váng, ông lão không nhớ ra chuyện ấy. Đối với ông, những quyển sách tiếng Ba Lan ở nơi đây- cái tháp đèn của ông, trong nỗi cô đơn vô bờ - là một sự siêu phàm, một việc thần kì nào đó, giống như truyện cổ tích. Như những người thuỷ thủ nọ nghe tiếng gọi của biển giữa đêm sâu thăm thẳm, giờ đây ông lão ngỡ như nghe thấy một tiếng nói yêu thương lắm, gần như đã bị lãng quên rồi, lên tiếng gọi tên mình.Ông lão lặng người đi, mắt nhắm nghiền, ông tin chắc rằng khi mở mắt ra thì giấc mơ nọ sẽ tan biến. Nhưng không, cái gói bị rọc vẫn hiện ra trước mắt ông nguyên vẹn, nhuộm ánh hoàng hôn, và trên đó là quyển sách ông mở ra. Đó là một tập thơ. Phía trên là tiêu đề in bằng thứ chữ lớn, còn phía dưới là tên tác giả, cái tên không hề xa lạ với ông lão Xkavinxki. Ông biết đó là tên một nhà thơ lớn, nhà thơ có tác phẩm mà ông từng được đọc ở Paris hồi sau năm 30. Rồi sau đó, những ngày chiến đấu ở Angiêri và Spain, ông nghe các bạn đồng hương bàn tán về danh tiếng ngày càng lớn của nhà thơ vĩ đại ấy, song hồi đó, tay ông đã quen với khẩu súng đến nỗi ông chẳng hề mó tới sách vở bao giờ. Năm 1945, ông lão sang Mỹ, và trong suốt cuộc đời dọc ngang sau đó gần như ông không hề được gặp một người đồng hương nào, cũng chẳng được thấy một quyển sách Ba Lan nào cả. Chính vì thế, giờ đây trái tim ông đập dồn dập hơn và bàn tay ông càng lẩy bẩy khi lật trang đầu sách. Trên đảo đá cô đơn của ông đang diễn ra một điều gì đó hết sức trọng thể. Giây phút ấy mới thanh bình và trọng thể làm sao. Các đồng hồ lớn ở Axpinoan đều điểm chuông 5 giờ chiều. Bầu trời trong sáng không một gợn mây, thoáng vài cánh hải âu chao lượn trên nền trời xanh thăm thẳm. Đại dương ru dìu dặt. Những con sóng khe khẽ rì rào lan trải êm dịu ven bờ cát. Phía xa nổi bật những ngôi nhà trắng chói lọi của thành phố và vút cao lên những khóm cọ đẹp tuyệt vời. Quả có một cái gì đó trang nghiêm, trọng thể và lặng lẽ. Giữa cái yên tĩnh của thiên nhiên chợt vang lên giọng run run của ông lão: ông đọc thành tiếng những vần thơ, dường như có thế thấm thía hơn ý nghĩa của chúng:
Hỡi Litva! Tổ quốc ơi! Người như sức khỏe.
Ai đánh mất rồi mới hiểu người quý giá dường nào.
Hôm nay con ngợi ca Người, kiều diễm và rạng rỡ.
Con tưởng thấy Người nhung nhớ khát khao.
Ông lão Xkavinxki nghẹn ngào. Những dòng chữ nhảy múa trước mắt ông. Trong ngực ông dường như có thứ gì đó chợt bục ra và một làn sóng từ trái từ trái tim dâng lên mãi khiến ông nghẹn lời… Mãi một lúc sau ông trấn tĩnh lại và đọc tiếp:
Hỡi thánh nữ đồng trinh, xưa Trenxtokhôva từng che chở,
Và cổng thành Oxtra từng chiếu sáng khi nào.
Từng bảo vệ cho con dân thành Nôvôgrôt,
Như đã cứu đời con thơ ấu thuở nào
Lúc mẹ mang xác con tới khóc dâng Người,
Thì mắt chết của con chợt mở bừng phép lạ,
Chân núi bước đi, tới cánh cửa thánh đường Người
Để cảm tạ Chúa trời, sự sống con đã trả
Một ngáy kia mẹ cũng sẽ mang con về với lòng tổ quốc.
Làn sóng cuồn cuộn dâng cao, phá tung đập chắn của ý chí.
Ông lão nức lên, ngã xoài ra đất. Mái tóc bạc của ông xóa vào với cát. Ngót 40 năm ông không được nhìn thấy đất nước, họa chỉ có Chúa mới hay đã bao năm nay ông không được nghe tiếng nói quê hương, ấy thế mà giờ đây, chính tiếng nói ấy lại tự đến với ông, băng qua đại dương mênh mông, tìm thấy ông mãi tận bán cầu bên kia, ôi tiếng nói yêu thương, thân thiết, tuyệt vời!. Trong cơn nức nở rung chuyển cả thân mình ông không có nỗi đau, chỉ có một tình yêu vô biên chợt thức tỉnh, bên cạnh tình yêu đấy, mọi thứ khác đều vô nghĩa... Dường như qua tiếng nức nở ấy ông lão muốn xin tổ quốc xa xôi tha lỗi cho ông, bởi ông đã già đến thế, đã mải vui thú đến thế với hòn đảo đá cô đơn của mình, đã đinh ninh rằng ngay cả lòng nhớ nhung tổ quốc rồi cũng sẽ nhạt đi… Giờ đây, ông lão đã “được trở về bằng một phép nhiệm màu”, trái tim chợt lên tiếng nói. Giờ phút nối nhau trôi đi, ông lão vẫn nắm yên không nhúc nhích. Những con chim hải âu bay lượn chung quanh tháp đèn đã kêu lên xao xác dường như lo cho người bạn già của chúng. Đã đến giờ ông thường ném vụn thức ăn cho chúng nên một số con bay từ đỉnh tháp xuống sát chân ông. Sau đó, chúng kéo tới mỗi lúc một đông thêm và bắt đầu mổ khẽ vào người ông, cánh đập rối rít trên đầu ông lão. Tiếng đập cánh ồn ào và thanh thanh, đôi mắt ông như tràn đầy cảm hứng. Ông ném cho lũ chim toàn bộ số thức ăn, và mặc chúng tao tác chia nhau, ông lại với lấy quyển sách. Mặt trời đã sang bên kia khu vườn cùng cánh rừng hoang vu Panama và đang lặn dần theo eo đất giữa đại dương bên kia, song Đại Tây Dương hãy còn ngập tràn ánh nắng, bầu không khí vẫn sáng rực. Ông lão đọc tiếp:
Lúc này đây hãy mang trái tim con khát khao nhung nhớ
Về với những đỉnh núi rừng, những đồng cỏ xanh kia…
Mãi lúc ấy, hoàng hôn mới xóa nhòa dần những nét chữ trên mặt giấy trắng, thứ hoàng hôn ngắn ngủi như một chớp mắt. Ông lão tựa đầu vào một tảng đá, khẽ nhắm mắt lại. Và khi ấy, “Thánh nữ đồng trinh từng bảo vệ Trenxtokhôva” mang hồn ông về với “những cánh đồng lúa hắc mạch đẹp như tranh”. Trên trời hãy còn lưu lại những vệt sáng đỏ và vàng, ông lão bay theo những đường ánh sáng ấy về phía phương trời thân yêu. Ông nghe thấy những tiếng xì xào của rừng tùng bách, tiếng róc rách của những dòng sông quê hương. Mọi vật vẫn giống hệt ngày xưa, và hỏi ông lão: “Ông còn nhớ chứ?”. Ông nhớ chứ! Ông vẫn đang nhìn thấy rõ ràng ngay trước mắt này, là những cánh đồng ruộng rộng mênh mông với từng bờ ruộng dọc ngang, này là những đồng cỏ, những cánh rừng, làng mạc. Đã là đêm tối ư?. Thường vào giờ này, ngọn đèn pha của ông đã chiếu sáng đên đen trên biển, song lúc này đây ông lại đang ở làng quê ông. Mái đầu bạc già nua gục xuống ngực mơ màng. Những bức tranh kéo nhanh và khá lộn xộn qua mắt ông. Ông không trông thấy mái nhà mình đâu cả vì chiến tranh đã khiến nó trụi đi, ông cũng không nhìn thấy cha mẹ, vì song thân đã khuất núi khi ông còn là một đứa trẻ. Song ông nhìn làng mình rõ như ông chỉ vừa mới rời làng ngày hôm qua mà thôi; một dãy dài những ngôi nhà với ô cửa sáng đèn, con đập, cái cối xay, hai chiếc ao cạnh nhau đêm đêm vang lên những dàn đồng ca của lũ ếch nhái.
Đã từng có lúc ông thao thức canh làng ban đêm, giờ đây kỷ niệm ấy sống lại trong một chuỗi hình ảnh. Này đây, ông là chàng lính khinh kỵ trẻ măng đang đứng canh… từ phía xa, quán rượu mở những con mắt rực lửa, vang tiếng hát, tiếng gót giày nện rầm rập giữa cái tĩnh mịch của đêm thanh, giọng vĩ cầm và giọng hát nỉ non. “Uha! Uha!” – đó là toán lính khinh kỵ, phi ngựa nhanh vun vút, lửa toé ra dưới móng, chỉ có ông phải ngồi một mình đến phát ngán trên lưng chiến mã nơi đây! Thời gian biếng nhác trôi đi. Mãi rồi những ánh đèn cũng tắt đi, trước mắt giờ chỉ có sương mù dày đặc. Hơi nước từ đồng cỏ bốc lên bao trùm gian thế trong một màn mù màu trắng đục. Bạn có thể nói: trông hệt như đại dương. Song đó chẳng qua là cánh đồng cỏ thôi, chỉ cần chờ một chút, chim cuốc sẽ lên tiếng kêu trong đêm. Đêm thanh bình và mát lạnh, đêm đích thực Ba Lan! Tuy im gió, nhưng xa xa những rừng thông vẫn xào xạc như sóng biển. Chẳng mấy chốc ánh bình minh đã nhuộm sáng phương Đông: gà đã cất tiếng gáy vang trong chuồng, con nọ đáp tiếng con kia, lan từ nhà này sang nhà khác, đâu đó tít trên cao, đàn sếu để rớt lại những tiếng kêu than. Người lính khinh kỵ thấy tỉnh táo và tràn trề sinh lực. Người ta đang kháo nhau chi đó về trận chiến đấu ngày mai. Nào, nếu vậy anh cũng sẽ xông lên như những người khác, cũng thét lên trong tiếng cờ bay phần phật! Mặc hơi gió đêm se lạnh, dòng máu thanh xuân vẫn sôi lên trong huyết quản như nhịp kèn xuất kích. Nhưng trời đã sáng rồi! Đêm mờ dần, những lùm cây, mái nhà tranh, chiếc cối xay, những cây bạch dương hiện ra từ trong bóng đêm. Tiếng cần vọt nước ở giếng rít lên như cái chong chóng bằng sắt tây trên đỉnh tháp. Ôi mảnh đất quê hương yêu dấu, Người biết mấy tuyệt vời trong ánh hồng rực rỡ của bình minh! Ôi mảnh đất quê hương duy nhất, duy nhất của ta!.
Khẽ nào! Người lính canh cảnh giác nghe thấy có tiếng ai đang đi lại gần. Hẳn người ta đến để bãi gác. Đột nhiên tiếng ai đó vang lên trên đầu ông lão.
Xkavinxki:
– Này! Cụ già! Dậy đi chứ! Cụ làm sao thế?
Ông lão mở mắt ra kinh ngạc nhìn người đang đứng trước mặt. Trong đầu ông lão, những mảnh cuối cùng của giấc mơ đang còn tranh chấp với thực tại. Cuối cùng những ảo ảnh mờ đi tan mất. Trước mắt ông là gã John gác cảng.
– Sao thế? - Gã John hỏi - Cụ ốm à?
– Không
– Cụ không thắp đèn pha. Cụ sẽ bị đuổi. Một chiếc thuyền từ Xa Ghêrômô bị đâm phải bãi cạn. May không có ai chết đuối, nếu có cụ phải ra tòa. Lên thuyền đi với tôi, tới lãnh sự quán cụ sẽ biết rõ sự tình.
Ông lão tái người: đúng là đêm qua ông không thắp đèn pha.
Vài ngày sau, người ta thấy ông lão Xkavinxki trên boong chiếc tàu thủy đến New York. Ông lão đáng thương đã bị mất việc. Những chặng đường lang thang mới lại mở ra trước mắt ông lão; một lần nữa, gió lại dứt tung chiếc lá héo khô, thổi bay qua đất liền và biển cả để thỏa sức hành hạ. Trong mấy ngày đó, ông lão già đi, lưng còng xuống, riêng mắt ông vẫn lung linh sáng. Trên những nẻo đường vô định mới của cuộc đời, ông lão mang theo trên ngực quyển sách của mình, thi thoảng ông lại đưa tay ghì chặt lấy như sợ rằng ngay cả nó cũng có thể mất đi….
Henryk Sienkievic 
Người dịch: Nguyễn Hữu Dũng
 Người thực hiện: Hải Yến
Theo http://sachnoionline.net/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...