Đà Lạt, thành phố trên cao nguyên Langbian là một địa danh
quen thuộc với người Việt Nam, du khách quốc tế. Từ những năm đầu TK XX, Đà Lạt
chịu ảnh hưởng của nền văn hóa phương Tây. Chính sự hòa trộn hai nền văn hóa
Pháp, Việt đã thấm sâu trong cách sống của người Đà Lạt, để từ đó hình thành
nên phong cách thanh lịch, hiền hòa, đằm thắm, mến khách… của cộng đồng dân cư
nơi đây. Cuối TK XIX, thực dân Pháp chủ trương xây dựng Đà Lạt thành trung tâm
hành chính của họ ở Viễn Đông. Cùng với việc phát hiện ra cao nguyên Langbian,
ý đồ xây dựng Đà Lạt thành một trung tâm nghỉ dưỡng của người Pháp, dòng người
Việt, một bộ phận dân cư khác đã đến nơi đây định cư, góp phần tăng dân số Tây
Nguyên; vì thế, cấu trúc dân số mang tính hỗn hợp nhiều tộc người.
Khái quát về người Việt ở Đà Lạt
Người Việt từ nhiều địa phương khác nhau đã đến Đà Lạt định
cư. Ngoài một bộ phận nhỏ người Việt gốc Nam Bộ, phần lớn cộng đồng người Việt ở
Đà Lạt đều có xuất xứ từ các tỉnh, thành phố ở đồng bằng Bắc Bộ, duyên hải miền
Trung.
Người Việt gốc Bắc tại Đà Lạt phần lớn là người Hà Nội, các tỉnh
thuộc tứ trấn nội kinh thời nhà Lý, Lê sơ. Họ có truyền thống văn hiến
lâu đời với lễ nghi, tập tục, phong cách, lối sống riêng. Năm 1938, ở Đà Lạt đã
hình thành ấp Hà Đông. Năm 1954, Đà Lạt tiếp nhận một lượng lớn người Việt gốc
Bắc di cư là trí thức, tư sản đến định cư ở nội thành, những người nông dân định
cư trong những ấp mới. Năm 1975, một số cán bộ, chiến sĩ miền Bắc đã vào Đà Lạt
công tác mang theo gia đình, lập nghiệp lâu dài. Với nhiều ưu thế, số người miền
Bắc đã có sự đóng góp tích cực vào việc hình thành phong cách người Đà Lạt như
hiện nay.
Người Việt gốc Thừa Thiên - Huế phần đông sống bằng nghề làm
vườn, công chức, giáo viên, buôn bán nhỏ. Họ vào Đà Lạt không ồ ạt, nhưng liên
tục nên chiếm khá đông dân số toàn thành phố. Họ phần lớn ở nội thành như ấp
Ánh Sáng, Thái Phiên. Sau năm 1975, họ cư trú xen lẫn với các nhóm cư dân khác.
Người Thừa Thiên - Huế vào Đà Lạt mang theo phong tục tập quán chịu ảnh hưởng lễ
nghi cung đình triều Nguyễn, từ cách ăn mặc, bố trí nhà ở, trang trí nội thất đến
ma chay, đình đám, hội hè, cưới hỏi... Cho đến nay, cư dân gốc Huế còn lưu giữ
nhiều tập tục cổ truyền hơn các nhóm dân cư khác. Những người này còn xây dựng
nhà thờ họ, tế tự, giỗ chạp theo chu kỳ như ở quê cũ. Sinh hoạt tế tự của các
làng đồng hương, giỗ chạp trong dòng họ là một hình thức sinh hoạt của hội
tương tế. Ở đó, họ không chỉ thắt chặt tình tương ái giữa những người tại Đà Lạt,
mà còn làm cầu nối gắn bó số người này với quê hương, dòng họ, mồ mả tổ tiên ở
quê nhà. Nhắc đến người Huế phải kể đến áo dài, nón bài thơ. Khi di cư đến Đà Lạt,
bộ phận cư dân Huế đã mang theo kỹ thuật làm nón ở quê cũ. Điều đó nói lên ảnh
hưởng văn hóa Thừa Thiên - Huế khá mạnh mẽ không những trong một nhóm dân cư mà
cả trong nhiều mặt sinh hoạt của người dân thành phố.
Ngoài hai nhóm dân cư kể trên, người Việt gốc Nghệ - Tĩnh,
nhóm dân cư các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ lên định cư ở Đà Lạt cũng có vai
trò quan trọng trong việc hình thành phong cách của người Việt ở Đà Lạt. Tuy số
lượng không nhiều, nhưng bản sắc của họ, nhất là nhóm Nghệ - Tĩnh đã hiện diện
trong phong cách người Đà Lạt hiện nay. Có thể do điều kiện tự nhiên, kinh tế tại
quê hương khá khắc nghiệt, nên khi đến Đà Lạt họ ra sức lao động, đã tạo được vị
thế của mình trong cộng đồng cư dân thành phố.
Ở bộ phận dân cư người Việt gốc Nam - Ngãi - Bình - Phú vào
Đà Lạt rất sớm, chủ yếu là những người làm công khai thác tài nguyên, xây dựng
cơ sở hạ tầng thành phố. Họ định cư trong những ấp dọc theo đường sắt, đường bộ
Phan Rang. Khác với người Thừa Thiên - Huế, những người này khá thực tế, không
chú ý đến hình thức, điều kiện ăn ở, sinh hoạt, phục sức của họ luôn đặt nặng vấn
đề bền chắc. Xuất thân từ một vùng quê có truyền thống cách mạng, tinh thần thượng
võ, nhóm người này khá giàu ý chí, nghị lực. Chính họ là chiếc cầu nối gắn liền
Đà Lạt với vùng biển phía dưới qua hoạt động mua bán, trao đổi của mình.
Yếu tố hình thành phong cách của người Việt ở Đà Lạt
Quá trình hình thành phong cách chịu tác động của các điều kiện
tự nhiên, môi trường, văn hóa, xã hội, kinh tế... qua các thời kỳ phát triển lịch
sử. Hiện nay, có nhiều phong cách sống tùy thuộc vào những tầng lớp khác nhau
trong xã hội, nhưng phong cách sống chậm là nét đặc trưng riêng
có trong mỗi người Việt ở Đà Lạt, tạo thành một nét chung của cộng đồng cư dân ở
thành phố này.
Điểm dị biệt giữa Đà Lạt với các đô thị khác ở Việt Nam hiện
nay là vẫn giữ được nét hài hòa giữa thiên nhiên với môi trường, cảnh quan vốn
có của nó. Với khí hậu đặc trưng, lạnh quanh năm, khá phù hợp cho sự phát triển
của thảm thực vật, cây xanh, các loại rau, hoa. Để thích ứng với khí hậu lạnh,
người Việt ở đây có một cách phục sức trang nhã, thanh lịch.
Phong cách của người Việt ở Đà Lạt
Những năm đầu TK XX, người Pháp đã chia nội thành Đà Lạt
thành hai khu vực: phía Bắc, phía Nam suối Cam Ly. Đa số người Việt sống tập
trung ở khu vực phía Bắc. Ngoài số người đi buôn, những người Việt đầu tiên định
cư ở Đà Lạt là những tù nhân, những người giúp việc cho các phái đoàn nghiên cứu
người Âu... Về sau, những người lao động cùng khổ ở miền Bắc, Nghệ Tĩnh, Thừa
Thiên, Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đã lên Đà Lạt buôn bán, xây dựng
đường sá, nhà ở...
Từ 1925 đến trước năm 1945, Đà Lạt được xem như hoàn chỉnh với
một quần thể kiến trúc độc đáo, một kỷ lục về xây dựng đô thị của người Pháp.
Tư tưởng Đông - Tây của học sinh Việt, Pháp có ảnh hưởng đến sinh hoạt của người
dân Đà Lạt đó là nếp sống cởi mở, thiên về khoa học. Trong thời gian này, nền
nông nghiệp Đà Lạt đã hình thành. Từ năm 1938, những ấp nông nghiệp chính thức
thành lập với quy chế mỗi gia đình nông dân được cấp một diện tích vừa đủ sống
như ấp Hà Đông, Nghệ Tĩnh… Ở đây, đất đai màu mỡ, nhiều tiềm năng, nghề làm vườn
như trồng rau, hoa, cây ăn quả đã tiến tới trình độ thâm canh. Với nhiều cây đặc
sản quý hiếm có giá trị lớn, nghề làm vườn đã đem lại cho người nông dân thu nhập
cao trong khi công sức, vốn bỏ ra tương đối ít.
Khí hậu nơi đây lạnh vào mùa khô, ẩm ướt vào mùa mưa, nên người
dân ít tham dự những sinh hoạt ngoài trời. Không gian sống của người Việt ở Đà
Lạt luôn gắn với hoa, là biểu tượng, đặc trưng riêng của thành phố này.
Mặc dù là đô thị hình thành muộn, nhưng nơi đây đã thu hút được
luồng dân cư từ nhiều nơi, khiến cho lối sống của người Việt có sự pha trộn phong
cách ở nhiều vùng miền khác nhau; trong đó, những người khai sơn phá thạch chính
là thành phần nồng cốt tạo nên cốt cách người Đà Lạt. Bên cạnh đó, một bộ phận
quan trọng của cư dân nơi này là người Pháp, mang tác phong sinh hoạt, làm việc,
cách ăn mặc, xã giao của phương Tây. Có lẽ bởi vậy, trong gia đình thị dân Việt
tại Đà Lạt thời đó vừa mang bản sắc văn hóa phương Đông, lại sớm tiếp xúc với nền
văn minh hiện đại phương Tây.
Với điều kiện khí hậu mát mẻ, đất rộng, người thưa, công việc
nhiều đã tạo ra con người thanh thản, không ganh đua, kèn cựa, luôn giúp đỡ lẫn
nhau. Những năm đầu khi mới khai hoang, do môi trường khắc nghiệt, họ phải
nương tựa nhau trong lao động sản xuất cũng như xây dựng nhà cửa. Mỗi người
trong các xóm, ấp tự động tới làm giúp theo hình thức vần công.
Năm 1965, ở Đà Lạt không có lính Mỹ, chỉ có một số cố vấn Mỹ;
do đó, ít có ảnh hưởng đến nếp sống của người Việt. Từ năm 1968, mặc dù có một
số thay đổi do tình hình chung của xã hội nhưng đa số vẫn sống bình dị, thanh
thản.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn được giải phóng, thành phố Đà Lạt
gặp nhiều khó khăn về lương thực, vật tư, nhiên liệu, xã hội bị biến động, mức
sống thấp, chế độ quan liêu bao cấp, phân bố dân cư bị xáo trộn; trong đó phải
kể đến bộ phận dân di cư tự phát đã làm cho Đà Lạt bị nông thôn hóa, lối sống
của cư dân ở đây lúc thị, lúc nông. Từ sau đổi mới năm 1986, tại các bến xe
không còn cảnh xô đẩy, chen lấn, chèo kéo, giành giật khách nữa.
Cũng do ảnh hưởng của khí hậu đã hình thành nét riêng trong
văn hóa mặc của người Việt ở Đà Lạt là khá kín đáo. Áo khoác ngoài, áo len trở
thành trang phục quen thuộc, phổ biến ở cư dân toàn thành phố nói chung, người
Việt nói riêng. Trước năm 1975, các thiếu nữ Đà Lạt vẫn phục sức duyên dáng với
chiếc áo dài thướt tha, chiếc ô nhiều màu sắc. Hiện nay, họ vẫn ăn mặc có tính
chọn lọc, đẹp, ấm, kín đáo. Một nét đẹp từ xưa đến nay được người Việt ở Đà Lạt
gìn giữ, xem là cốt cách riêng của người mình là nét văn hóa ứng xử nơi công cộng.
Hàng năm, Đà Lạt đón một lượng du khách trong nước, người nước ngoài đến tham
quan, nghiên cứu, nghỉ dưỡng, nhưng người Việt ở đây ít bị Âu hóa hay chịu tác
động lối sống nhanh của văn hóa phương Tây.
Nếp sống văn minh, phong cách người Việt ở Đà Lạt đã, đang được
giữ gìn, phát huy trở thành phẩm chất, nét đẹp của con người trên thành phố mộng
mơ này. Phong cách sống này thể hiện qua tư duy, các hoạt động hàng ngày như đi
lại, giao tiếp, ăn uống, giờ giấc sinh hoạt, thời gian mở, đóng cửa hàng. Ở Đà
Lạt, sau 21h đường phố đã khá vắng, những người còn lại là những người bán
hàng, du khách. Trong hoạt động mua bán, người Việt thường nhẹ nhàng chào mời.
Những người kinh doanh ở Đà Lạt không nói thách, không dành chỗ, thân thiện, cởi
mở với khách hàng.
Một điểm khác biệt giữa đô thị Đà Lạt với những đô thị được
xây dựng vào thời Pháp thuộc như Quảng Yên (Quảng Ninh), Tam Đảo (Vĩnh Phúc) là
ở lối sống của cộng đồng cư dân này không vội vã với thời gian, trầm mặc, lịch
sự. Mật độ dân số chưa cao nên các phương tiện giao thông, sinh hoạt chưa gây
ra những khó chịu, căng thẳng cho con người. Môi trường sống Đà Lạt trong lành,
tĩnh lặng, tốc độ, nhịp độ sống không xô bồ, náo nhiệt, khẩn trương như các
thành phố khác. Môi trường ấy khiến cho con người luôn cảm thấy thanh thản. Đây
cũng là điều kiện tác động đến phong cách sống chậm của người Việt ở Đà Lạt:
ung dung, tự tại, chững chạc, phong lưu nhưng vẫn bắt kịp sự phát triển, tiến bộ
của xã hội.
Bên cạnh những mặt tích cực cũng có những tồn tại hạn chế, đó
là sự biến dạng văn hóa tộc người ở một bộ phận dân cư nơi đây. Không thể phủ
nhận một thực tế, sự tăng trưởng khá nhanh về dân số, nhất là sự tăng trưởng
mang tính cơ học trong vài năm trở lại đây làm cho tính đa dạng trong cộng đồng
dân cư Đà Lạt thêm phức tạp, hệ quả là sự phai nhạt những nét tính cách tốt đẹp
của người Việt nơi đây. Sự biến đổi các định hướng giá trị được thể hiện ở những
nhóm người lớn tuổi, nhóm trí thức thường giữ phong cách sống chậm của người Đà
Lạt; ngược lại, một bộ phận nhóm trẻ lại có xu hướng hiện đại thiên về lối sống
thực dụng, ít quan tâm đến văn hóa truyền thống.
Trên đại thể, phong cách sống của người Việt ở Đà Lạt là
phong cách chung của người Việt Nam, nhưng do đặc điểm của thiên nhiên, hoàn cảnh
xã hội, con người ở đây có những nét riêng. Người Việt ở Đà Lạt đến từ khắp mọi
nơi, đa số nghèo khổ nên thường có tính cần cù, sống giản dị, tiết kiệm, coi trọng
tình làng nghĩa xóm, tận tình giúp đỡ lẫn nhau. Họ có lối sống khá trầm mặc, tế
nhị, lịch sự, trang nhã, giản dị. Chính điều kiện tự nhiên, những đặc trưng văn
hóa trên đây đã hun đúc lên phong cách người Việt ở Đà Lạt. Cùng với những bước
thăng trầm của thành phố, phong cách sống của người Việt tại Đà Lạt cũng biến
chuyển theo, có phần phai nhạt. Vấn đề đặt ra là cần phải phát huy, duy trì những
nét đẹp văn hóa truyền thống đặc trưng của người dân địa phương; vừa tiếp thu,
tiếp biến những tinh hoa văn hóa hiện đại trên cơ sở hướng đến một đô thị du lịch
nghỉ dưỡng văn minh, thanh lịch; tăng cường hơn nữa công tác giáo dục tại cộng
đồng dân cư, nhất là những người làm dịch vụ; xử phạt nghiêm những hành vi vi
phạm chuẩn mực du lịch, dịch vụ; kịp thời khen thưởng những cá nhân, cơ sở dịch
vụ có những hoạt động thân thiện, nghĩa cử cao đẹp trong quan hệ với du khách.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét