PHẦN MỘT
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 Vấn đề tác giả
1.1.1. Cuộc đời Lỗ Tấn
Lỗ Tấn tên thật là Chu Thụ Nhân, tự là Dự Tài,
sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881 tại phường Đông Xương, phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết
Giang trong một gia đình quan lại đã sa sút. Ông nội là Chu Phúc Thanh, đỗ tiến
sĩ đời Thanh, có chân trong viện hàn lâm, sau là tri huyện, can án trường thi
nên bị cách chức hạ. Cha của ông là Chu Phượng Nghi (tức Bá Nghi) đỗ tú tài
nhưng không được ra làm quan, thường ốm đau, thích rượu chè, tính tình nóng nảy,
tuy vậy ông vẫn chăm lo tới việc học hành của Lỗ Tấn. Ông bị bệnh và mất sớm. Mẹ
của ông là Lỗ Thụy. Bà người thôn quê nhưng bà tự học có thể đọc sách được. Bà
là người sớm có ảnh hưởng đến khả năng văn chương của Lỗ Tấn kể cho ông nghe
nhiều truyện cổ dân gian. Lỗ Tấn là bút danh ông lấy từ họ mẹ.
Lỗ Tấn học vỡ lòng từ năm 6 tuổi. Năm 12 tuổi
học trường Tam Vị tới năm 17 tuổi. Từ thuở bé, ông đã
là người ham hiểu biết, thích đọc sách, ham mê truyện cổ tích,
thần thoại, truyền thuyết và thích xem hát tuồng, xem tranh dân gian. Hàng năm
mùa hè đến Lỗ Tấn thường theo mẹ về quê ngoại ở thôn An Kiều. Những dịp đó lỗ Tấn
có điều kiện tiếp xúc với con em nông dân, hiểu được cuộc sống của họ. Vốn có
ác cảm với lễ giáo phong kiến từ lúc bé qua sách vở, lớn lên mục kích cảnh đau
khổ của nhân dân, nhìn rõ con đường suy vong của đất nước, Lỗ Tấn căm ghét,
nuôi một tinh thần chống lại nó, ông quyết tâm đi “tìm con đường khác, đi
xứ khác, tìm những con người khác”.
Năm 1898, ông đến Nam Kinh theo học ở Thủy sư học đường (trường
đào tạo nhân viên hàng hải). Học ở đây một năm, ông chuyển qua trường Khoáng Lộ,
học kĩ sư hầm mỏ. Trong thời gian này ông đã thu nhận được nhiều kiến thức khoa
học tự nhiên và xã hội của phương Tây, tiếp thu tư tưởng duy tân, hiểu được
tinh thần dân chủ, chịu hưởng khá sâu sắc quan điểm tiến hóa của Đácuyn.
Tháng 3 năm 1902, Lỗ Tấn tốt nghiệp trường Khoáng Lộ, ông
được cử đi du học Nhật Bản, tại đây ông tham gia Quang Phục hội, một
tổ chức yêu nước của người Trung Quốc.
Sau hai năm học tiếng Nhật, năm 1904, ông chính thức vào học
ngành Y ở trường Đại học Tiên Ðài. Ông học thuốc với hi vọng lấy nó để đưa
Trung Quốc vào con đường tiến bộ, cường thịnh nhưng ông nhận ra rằng y học
không phải là việc cần thiết trước mắt mà theo ông “điều chũng ta cần phải
làm trước hết là biến đổi tinh thần họ, mà theo tôi hồi đón muốn biến đổi tinh
thần họ tất nhiên không gì bằng văn nghệ. Thế là tôi định đề xướng phong trào
văn nghệ” (Tựa viết lấy) vì thế năm 1906, ông thôi học và bắt đầu hoạt
động văn nghệ bằng việc dịch và viết một số tiểu luận giới thiệu các tác phẩm
văn học châu Âu như thơ Puskin, tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Jules Vernes.
Năm 1908, Lỗ Tấn Tham gia Quang phục hội, một tổ chức
cách mạng chống lại triều đình Mãn Thanh.
Năm 1909, vì hoàn cảnh gia đình, Lỗ Tấn trở về Trung Quốc. Năm 1910, Lỗ Tấn trở về quê nhà và dạy ở trường trung học Thiệu Hưng
và có làm hiệu trưởng trường sư phạm Thiệu Hưng một thời gian.
Năm 1911, Cách mạng Tân Hợi bùng nổ, ông tham gia cách mạng,
sau đó được bổ nhiệm làm hiệu trưởng trường sư phạm Thiệu
Hưng.
Năm 1912, chính phủ lâm thời Trung Quốc thành lập, Lỗ Tấn
đến nhận chức kiểm sự tại bộ Giáo dục. Sau đo ông theo chính phủ dời tới Bắc
Kinh.
Từ 1912 đến 1917, Lỗ Tấn dồn sức lực, tâm
trí vào việc khảo cứu, hiệu đính, nghiên cứu sách cổ, kinh kệ Phật.
Năm 1917, cách mạng tháng mười Nga thành công mở ra con đường
mới giải phóng cho nhân dân lao động. Nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến tầng lớp trí
thức Trung Quốc trong đó có Lỗ Tấn.
Tháng 5 năm 1818, Lỗ Tấn cho ra đời truyện ngắn:
Nhật ký người điên. Lỗ tấn lao vào hoạt động sáng tác, tuyên
truyền với tư thế chiến sĩ tiên phong trên mặt trận đó.
Từ
1920 đến 1925, Lỗ Tấn làm việc tại các trường Đại học Bắc Kinh, Cao đẳng Sư phạm
Bắc Kinh và Đại học nữ Sư phạm Bắc Kinh. Trong thời gian này ông đã viết A.Q
chính truyện (1921),
Từ năm 1926,chính phủ Đoàn Kì Thụy thẳng tay đàn áp cuộc đấu
tranh chính trị của trường đại học nữ Sư phạm Bắc Kinh, ông viết báo vạch trần
tội ác của chính phủ này, ca ngợi lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh kiên cường
của thanh niên học sinh và bị chính phủ Đoàn Kỳ Thụy theo dõi buộc ông phải dời
Bắc Kinh tới Hạ Môn (tỉnh Phúc Kiến) và làm việc tại trường Đại học Hạ Môn. Ðầu
năm 1927, Lỗ Tấn đến Quảng Châu, làm trưởng phòng giáo vụ kiêm chủ nhiệm khoa
Văn của trường Đại học Trung Sơn.
Tháng 10 năm 1927, ông rời Quảng Châu tới Thượng Hải. Ông đã
nhận ra được rằng “chỉ có giai cấp vô sản đang lên mới có tương
lai”. Từ đây trở đi Lỗ Tấn đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản để
sáng tác và hoạt động xã hội. Ông dồn sức lực vào hoạt động sáng tác văn học.
Năm 1928, ông tham gia Trung Quốc cách mạng hỗ tế hội,
làm chủ biên Tạp chí Dòng nước xiết và Ngữ ty.
Đầu năm 1929, ông cùng một số thanh niên tiến bộ lập nên nhóm
Triêu hoa và xuất bản Triêu hoa chu san nhằm giới thiệu văn học Nga Xô viết.
Cũng lúc này Lỗ Tấn bắt tay vào dịch và giới thiệu có hệ thống lí luận văn nghệ
mác xít.
Năm 1930, Lỗ Tấn cùng một sỗ nhà văn
như Úc Đạt Phu, Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn… thành lập hội liên
hiệp các nhà văn cánh tả dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc.
Năm 1933, Lố Tấn đã tham gia vào rất nhiều hoạt động: trao
thư phản kháng những hành động sát hại dã man của phát xít Hitle đối với công
nhân, trí thức ở Đức, tổ chức hội nghị Viễn Đông, ra nhập nhiều tổ chức xã hội.
Trong 9 năm sống Ở Thượng Hải, ông đã viết nhiều tạp
văn, truyện ngắn và biên dịch một sỗ tác phẩm văn học thế giới trong đõ nhiều
nhất là văn học Nga…Ông làm việc dồn dập không chút nghỉ ngơi. Bệnh lao ngày
càng trầm trọng và ngày 19 tháng 10 năm 1936, Lỗ Tấn qua đời.
1.1.2 Sự nghiệp văn học của Lỗ Tấn
Trong hành trình văn nghiệp của mình, Lỗ Tấn đã tạo ra một số
lượng tác phẩm phong phú với nhiều thể loại: truyện ngắn, thơ cổ, thơ mới, kịch,
khảo cứu, nghị luận, phê bình, dịch thuật, tạp văn… Trong đó, truyện ngắn được
coi là thành công hơn cả.
Năm 1918, truyện ngắn đầu tay của Lỗ Tấn là Nhật ký người
điên được in trên tờ Thanh niên mới số tháng 5 – 1918, truyện được lấy tên
dựa theo truyện ngắn Nhật ký của một người điên của Gogol. Từ năm
1921 đến 1927 có thể nói là những năm đỉnh cao trong sự nghiệp văn học của Lỗ Tấn
với sự ra đời của hai tập truyện ngắn nổi tiếng: Gào thét (1921
– 1924) gồm 14 truyện và Bàng hoàng (1924 – 1925) gồm 11 truyện.
Trong đó có A.Q chính truyện – tác phẩm được biết đến rộng rãi
nhất trong sự nghiệp văn học của Lỗ Tấn.
Nội dung bao trùm trong những truyện ngắn của Lỗ Tấn là cuộc
sống của người nông dân, cuộc sống người phụ nữ, người phụ nữ và vấn đề cách mạng…
Cương lĩnh sáng tác của ông là vạch trần cái xấu xa của xã hội lớp trên, phản
ánh nỗi bất hạnh của xã hội lớp dưới.
Tạp văn chiếm một số lượng khá lớn trong di sản văn học
Lỗ Tấn. Theo nhà nghiên cứu Trần Xuân Đề, Lỗ Tấn có 650 bài tạp văn được thu thập
trong 16 tập, chia làm hai loại: Một loại thiên về nghị luận và một loại thiên
về trữ tình, tự sự. Có thể kể đến một số tác phẩm như: Quan niệm của tôi về
tiết liệt, Nôra đi rồi thì ra sao, Dạo bút dưới đèn, Kỷ niệm Lưu Hòa Trân, Hoa
hồng không hoa… Nội dung chiếm lĩnh hầu hết những bài tạp văn này là quan
điểm của nhà văn về xã hội Trung Quốc thông qua những vấn đề mà ông đề cập: như
vấn đề người phụ nữ, vấn đề “người ăn thịt người”hay thái độ xót xa về
tình cảnh của đất nước Trung Quốc thời phong kiến. Tính chiến đấu phản đế, phản
phong thể rất rỗ trong những tác phẩm này, đồng thời Lỗ Tấn đã kế thừa tư tưởng
vô sản như một phương tiện hữu hiệu để tăng tính chiến đấu cho các tác phẩm của
mình.
Lỗ Tấn còn có tập thơ văn xuôi Cỏ dại giàu
tính hiện đại, nói về cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống thế lực đen tối
đang ám ảnh, thể hiện nỗi u uất và buồn đau, nỗi căm hờn và tinh thần chiến đấu.
Ngoài ra, Lỗ Tấn còn sáng tác kịch, viết nghiên cứu lý
luận phê bình và dịch nhiều tác phẩm của văn học Nga sang tiếng Trung.
Nhưng, truyện ngắn và tạp văn vẫn được coi là những thành công rực rỡ nhất
trong sự nghiệp văn học của ông.
1.2 Vấn đề lý luận
1.2.1. Khái niệm nhân vật
Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác
phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay
sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên
hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối
với tác phẩm.
Nhân vật văn học có thể là con người có tên (như Tấm Cám, Thúy Vân, Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng…), có thể là những người không có tên (như thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia…) hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó (như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, như mình – ta trong ca dao…). Khái niệm con người này cũng cần được hiểu một cách rộng rãi trên 2 phương diện: số lượng: hầu hết các tác phẩm từ văn học dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung miêu tả số phận của con người. Về chất lượng: dù nhà văn miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật…nhưng lại gán cho nó những phẩm chất của con người.
Nhân vật văn học có thể là con người có tên (như Tấm Cám, Thúy Vân, Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng…), có thể là những người không có tên (như thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia…) hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó (như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, như mình – ta trong ca dao…). Khái niệm con người này cũng cần được hiểu một cách rộng rãi trên 2 phương diện: số lượng: hầu hết các tác phẩm từ văn học dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung miêu tả số phận của con người. Về chất lượng: dù nhà văn miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật…nhưng lại gán cho nó những phẩm chất của con người.
Trong nhiều trường hợp, khái niệm nhân vật được sử dụng một
cách ẩn dụ nhằm chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Chẳng hạn,
người ta thường nói đến nhân dân như là một nhân vật trung tâm trong Chiến
tranh và hòa bình của L. Tônxtôi, ca cao là nhân vật chính trong Ðất dữ của G.
Amađô, chiếc quan tài là nhân vật trong tác phẩm Chiếc quan tài của Nguyễn Công
Hoan… Tô Hoài nhận xét về Chiếc quan tài: “Trong truyện ngắn Chiếc quan tài của
Nguyễn Công Hoan, nhân vật không phải là người mà là một chiếc quan tài. Nhưng
chiếc quan tài ấy chẳng phải là vô tri mà là một sự thê thảm, một bản án tố cáo
chế độ thảm khốc thời Pháp thuộc. Như vậy, chiếc quan tài cũng là một thứ nhân
vật“. Tuy vậy, nhìn chung, nhân vật vẫn là hình tượng của con người trong tác phẩm
văn học.
1.2.2 Kiểu loại nhân vật
* Nhân vật chức năng
Trong văn học cổ đại và trung cổ có loại nhân vật không có đời
sống nội tâm, các phẩm chất đặc điểm và hoạt động của nó chỉ nhằm thực hiện một
số chức năng nhất định, đóng một số vai trò nhất định.
Hạt nhân của các loại nhân vật chức năng là các vai trò mà
chúng thực hiện trong truyện và trong việc phản ánh đời sống. Do đặc điểm ấy mà
chúng dễ dàng trở thành cái tượng trưng trong đời sống tinh thần, và được hình
thức hóa trong sáng tác
* Nhân vật “loại hình”
Là nhân vật thể hiện tập trung các phẩm chất xã hội, đạo đức
của một loại người nhất định của một thời. Đó là nhan vật nhằm khái quát cái
chung về loại của các tính cách và nhờ vậy gọi là điển hình. Arpagong của Molie
là hiện thân cho thói keo kiệt. Nhân vật này không những mọi cử chỉ, chi tiết
trong truyện đều bộc lộ rất rõ. Thói tham lam, keo kiệt với từng người trong
gia đình, đối với người khác với con cái mình và hà tiện cả với chính mình.
Thói tham lam, keo kiệt của Arpagong đã tới chỗ vô lương tâm, vô liêm sỉ. Lão
chẳng bận tâm gì đến hạnh phúc của cô con gái đã đến tuổi lấy chồng, chỉ một mực
lo mất của hôi môn….Thói keo kiệt coi đồng tiền là tất cả đã bóp chết tình cảm,
hủy hoại nhân cách cũng là hình ảnh cụ thể, đậm nét của giai cấp tư sản Pháp thế
kỉ XVIII. Thời kỳ tích lũy tư bản đã làm nảy nở những con người keo kiệt, bủn xỉn.
Hay hàng loạt những nhân vật loại hình thể hiện tính cách loại
hình khác trong kiểu loại nhân vật của Molie như: Tacstuyph thể hiện tập trung
cho thói phù phiếm, hiếu danh của gã tư sản muốn làm quý tộc.
Tactuyph thể hiện tập trung cho thói
đạo đức giả, ông Giuocdanh cũng của Molie là hiện thân cho thói phù phiếm, hiếu
danh của các gã tư sản muốn làm quý tộc. Hạt nhân của các loại nhân vật này là
bao giờ cũng có một số phẩm chất loại biệt về mặt xã hội được nêu bật hơn hẳn
các tính chất khác. Nhân vật điển hình loại này ít nhiều đều có tính chất lược
đồ.
* Nhân vật tính cách
Nhân vật tính cách là một kiểu nhân vật phức tạp. Ở trên đã
nói tính cách như là đối tượng chủ yếu của nhận thức văn học. Nhưng không phải
mọi nhân vật văn học đều phản ánh được cấu trúc của tính cách. Do đó trong
nghĩa hẹp, tính cách là một loại nhân vật được mô tả như một nhân cách, một cá
nhân có cá tính nổi bật. Trong nhân vật, tính cách, cái quan trọng không chỉ là
cái đặc điểm, thuộc tính xã hội này nọ mà người ta có thể liệt kê ra được. Tính
cách còn thể hiện ở tương quan của các thuộc tính với nhau, tương quan giữa các
thuộc tính với môi trường, tình huống. Nhân vật tính cách thường có những mâu
thuẫn nội tại, những nghịch lí, những chuyển hóa, và chính vì vậy tính cách thường
có một quá trình tự phát triển, và nhân vật không đồng nhất giản đơn vào chính
nó.
* Nhân vật tư tưởng
Trong văn học có những nhân vật mà hạt nhân cấu trúc của nó
không phải là cá tính, cũng không phải là các phẩm chất loại hình, mà là một tư
tưởng một ý thức hệ.
Nhân vật tư tưởng trong văn học cổ và văn học lãng mạn thường
mang tính chất tượng trưng, trong chỉ nghĩa hiện thực lại kết hợp mật thiết với
yếu tố tính cách hoặc loại hình. Trong sáng tác, loại nhân vật này dễ rơi vào
công thứ, minh họa, trở thành cái loa tư tưởng của tác giả.
Chẳng hạn trong thế giới nhân vật của Lỗ Tấn có 3 loại kiểu
hình tượng nhân vật: hình tượng người nông dân, hình tượng người trí thức và
hình tượng người phụ nữ, nhưng mỗi loại hình nhân vật không chỉ được tác giả
miêu tả thuần túy đơn thuần.
Trong Nhật ký người điên Lỗ Tấn đa khái quát xã hội
4000 năm lịch sử của Trung Quốc là xa hội “người ăn thịt người”. Hình
tượng người điên được xây dựng theo lối biểu tượng hai mặt. Xã hội phong kiến
xem y là người điên thật, mắc bệnh “bách hại cuồng”. Nhưng trên thực
tế quần chúng bị bóc lột thì xem người điên là người đại diện cho mình đứng lên
vạch trần xã hội phong kiến và nói lên ước mơ tốt đẹp của mình.
Khi viết về nỗi khổ của nhân dân lao động Trung Quốc, Lỗ Tấn
không chỉ quan sát bề ngoài, chỉ biểu hiện những đau đớn về xác thịt như đói
khát, đánh đập, bị tra khảo mà ông đi sâu khai thacsoos phận của họ. Thím Tường
Lân trong “Lễ cầu phúc” là một ví dụ. Xã hội đó đã chà đạp số phận của họ từ
trong những ý nghĩ. Người ta nhẫn tâm lên án chị là người tái giá làm bại hoại
phong tục, sợ rằng sau này chị chết đi, 2 ông chồng dưới âm ti sẽ tranh nhau.
Thậm chí cái bệnh hoạn trong tâm hồn của chính những người áp bức bóc lột cũng
được Lỗ Tấn miêu tả sâu sắc. Do thiếu giác ngộ mà cái khối quần chúng trong
truyện ngắn Lỗ Tấn không thông cảm với chị, mà còn khinh bỉ chị.
Các loại nhân vật trên đây xuất hiện tuy không đồng đều trong
lịch sử văn học, nhưng có thể tồn tại song song trong một nền văn học, thậm chí
trong một tác phẩm. Cần ý thức hết sự đa dạng của cấu trúc nhân vật và các khả
năng phản ánh hiện thực của chúng. Trong đánh giá, không nên đòi hỏi nhân vật
kiểu này theo các yêu cầu kiểu kia để tránh sự giản đơn tầm thường. Chẳng hạn
nhân vật Kiều vừa có nét của nhân vật tính cách lại vừa có nét nhân vật “mặt nạ”.
Nhân vật AQ. Là nhân vật tư tưởng nhưng vẫn có nét của nhân vật loại hình và
nhân vật tính cách. Trong các nhân vật của Tây du kí, Tôn Ngộ Không là nhân vật
tính cách. Trong các nhân vật của Tây du kí, Tôn Ngộ Không là nhân vật tư tưởng
nhưng Trư Bát Giới lại có yếu tố nhân vật loại hình, giống như nhân vật Hoàng
trong truyện ngắn Đôi mắt. Nhiều nhân vật của Đoxtoiepxki, Huygo vừa là nhân vật
tư tưởng lại vừa là nhân vật “mặt nạ”.
1.2.3 Loại hình nhân vật trong truyện ngắn của Lỗ Tấn
Tổng quan sáng tác của nhà văn cho thấy, Lỗ Tấn chú trọng vào
việc khắc họa những loại nhân vật điển hình để phát ngôn cho tư tưởng nghệ thuật
của mình. Thực hiện khảo sát các tác phẩm của Lỗ Tấn, chúng tôi nhận thấy, có 3
loại nhân vật chủ yếu được đề cập trong tác phẩm của ông:
* Nhân vật người nông dân
Hầu hết
các nhân vật người nông dân trong truyện ngắn của Lỗ Tấn đều là những
con người nhỏ nhoi, thấp hèn và còn mang nặng tư tưởng cổ hủ, liệt căn tính quốc
dân.
Thím Tường Lâm trong Lễ cầu phúc là một phụ nữ nông
thôn chăm chỉ làm ăn, thật thà, lương thiện. Thím làm việc cần mẫn và nhanh nhẹn,
chỉ mong bằng sức lao động của mình có thể đổi lấy quyền sống tối thiểu thế mà
không được. Cuối cùng Tường Lâm bị hất ra lề đường sống kiếp ăn mày và chết một
cách bi thảm giữa lúc nhà nhà đương tưng bừng làm lễ cầu phúc.
A. Q trong A. Q chính truyện là một trong những
nhân vật điển hình cho việc khắc họa nhân vật bị áp bức mang nặng căn bệnh
tinh thần. Đây là một cố nông mà phủ trùm lên cả cuộc đời y là một con số không
tròn trĩnh: không tên không tuổi, không thân thích họ hàng, không vợ không con,
không một tấc đất cắm dùi… Cuộc đời AQ là một chuỗi tháng ngày cù bơ cù bất,
nay làm thuê cho nhà này mai làm thuê cho nhà khác, quần quật làm lụng vẫn
không tránh khỏi đói rét, lại còn bị bọn cường hào đe nẹt bằng roi vọt, bằng bạt
tai và bòn rút đến tận manh áo rách. Nhưng AQ lại có thứ vũ khí lợi hại – phép
thắng lợi tinh thần. Đó là sự thắng lợi một cách giả tạo do mình tưởng tượng
ra, phú cho mình để tự an ủi mìn h, lừa dối kẻ khác mỗi khi gặp thất bại.
* Nhân vật người trí thức
Không chỉ quan tâm đến những người nông dân nghèo
nàn, đói rách về vật chất chất, u mua về tinh thần, Lỗ Tấn còn khắc họa nhân vật
người trí thức như Khổng Ất Kỷ trong Khổng Ất Kỷ vốn là một trí thức
sống trong quá trình xã hội phong kiến đang sụp đổ. Y giữ thói sĩ diện hão bằng
cách cố mặc chiếc áo dài thâm bẩn thỉu, rách rưới như một bảo bối minh chứng địa
vị xã hội của y, hễ mở miệng là tuôn ra hàng tràng chi hồ giả dã chứng tỏ mình
là người có học. Đã thế y lại siêng ăn biếng làm, càng sống càng nghèo cuối
cùng phải đi ăn cắp sách ở nhà ông cử Đinh và bị đánh què, chết một cách im hơi
lặng tiếng, không ai hay biết, không ai thương xót. Y đã chết vì sự đầu của nền
giáo dục phong kiến.
Cũng như Khổng ất Kỷ, Trần Sĩ Thành trong Luồng ánh sáng là
một nho sinh bị nền giáo dục khoa cử phong kiến đầu độc. Y ôm mộng giàu sang nhờ
thi đỗ: “Đỗ tú tài rồi lên tỉnh thi hương, cứ thế một mạch mà thăng quan
tiến chức… Chẳng những kẻ giàu sang tìm trăm phương ngàn kế làm thân mà ai ai
cũng phải kính sợ ông như thần như thánh… Ông sẽ xây một tòa nhà mới tinh, trước
cửa sẽ treo cờ xí, hoành phi, câu đối… Muốn thanh cao thì làm quan tại kinh, bằng
không thì xin ra ngoại nhiệm. Thế nhưng y thi mãi vẫn không đỗ tú tài. Trong kỳ
thi ở huyện lần thứ 16, khi yết bảng, biết mình lại trượt, “cái mộng tương lai
mà bình nhật sắp đặt đâu ra đấy… lúc này đổ nhào trong khoảnh khắc như một cái
lâu đài bằng cát trước ngọn thủy triều, chỉ còn trơ lại từng mảnh vụn” làm cho
y hết sức buồn chán. Trần Sĩ Thành tìm đến một hành động giải tỏa, là đi tìm
kho của huyền thoại của tổ tiên nhà họ Trần mà y được nghe bà nội kể lúc y còn
nhỏ. Kết cục, của không tìm thấy mà trần Sĩ Thành lại đi đến cái chết hết sức
bi thảm ở hồ Vạn Lưu.
Không chỉ khắc họa
những con người cùng khổ với những nét ngoại hình cũng như nội tâm
nhân vật mà Lỗ Tấn còn thể hiện những phẩm chất cao quý
trong con người họ. Đó là những con người luôn muốn vươn lên để thoát ra
khỏi hoàn cảnh. Không ít nhân vật đấu tranh quyết liệt để chống lại cái bất
công trong xã hội.
Lỗ Tấn cũng phân tích
tỉ mỉ bản chất của người trí thức với mục đích chỉ ra khiếm khuyết của họ, thức
tỉnh họ, giúp họ kiếm tìm một con đường sống. Con đường đó là phải hòa mình vào
với quần chúng nhân dân, hướng vào họ mà cải biến, khắc phục chủ nghĩa cá nhân
ích kỷ. Điều này được ông thể hiện sâu sắc trong Mẫu chuyện nhỏ. Qua sự đối
sánh giữa hai thái độ trước một việc nhỏ, Lỗ Tấn đã chỉ ra sự vị tha cao cả của
anh phu xe và cái tôi vị kỷ của trí thức.
* Nhân vật người phụ nữ
Nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn
thường là những con người khổ đau, họ phải chịu nhiều tủi hờn về tinh
thần nhưng họ là những người phụ nữ biết phản kháng, biết đấu tranh
cho quyền lợi của mình nhưng sự phản kháng của họ gặp phải vô vàn những trở ngại.
Lỗ Tấn không ngần ngại hào hứng xây dựng hình ảnh người
phụ nữ mới của Trung Quốc tương lai độc lập, tự tin, không lệ
thuộc vào người khác, có quyền làm chủ vận mệnh của mình; “… không ngừng
đấu tranh để giải phóng tư tưởng, giải phóng kinh tế, giải phóng xã hội cũng là
tự giải phóng cho mình”.
Ông thường khắc họa nhân vật với bi kịch trong tâm hồn không dừng lại
ở nỗi đau thể xác. Hình ảnh chị Tư Thiền trong Ngày mai và chị Tường
Lâm trong Lễ cầu phúc đều là chân dung những người phụ nữ nông dân bất
hạnh nhất trong văn học hiện đại Trung Quốc: chồng chết, ở vậy nuôi con, con chết,
họ cô đơn ngay giữa đồng loại của mình vì không tìm được sự cảm thông. Lỗ Tấn
muốn nhấn mạnh đến gánh nặng tinh thần do xã hội áp đặt mà chị vác trên vai lê
suốt cả đời mình nhưng không nhận ra để quẳng xuống.
Cùng với hình ảnh người
phụ nữ khổ đau phản kháng yếu ót là người phụ nữ có
tinh thần phản kháng quyết liệt họ dám đứng lên chống lại sự bất
công, áp bức của lễ giáo phong kiến, sự đè nén vô nhân đạo, sự tôn vinh chế độ
nam quyền như Tử Quân trong Tiếc thương những ngày đã mất, một trí thức
mới tiến bộ mang tư tưởng thanh niên thời Ngũ tứ.
Cuộc đời của những
nhân vật phụ nữ trung tâm luôn đa đoan, không trọn vẹn, không một cuộc
tình êm ả, đối với gia đình thì tan tác, chia lìa, không một kết thúc nguyên vẹn,
tròn trịa, ngay ngắn. Dường như truyện của Lỗ Tấn viết về người phụ nữ được xây
dựng trên nỗi ám ảnh về cái tàn lụi, tan rã.Tường Lâm chết rụi giữa tiếng pháo
cầu phúc của những nhà giàu sang mà không gặt được một giọt nước mắt của người
đời. Tử Quân chết thảm một cách cô đơn lặng lẽ đến không cùng trong “cái cõi
người không có tình yêu”.
Nhân vật trong truyện ngắn của Lỗ Tấn là nhân vật điển hình
hóa. Nhân vật của ông có sự thống nhất cao độ, hoàn mĩ giữa tính khái quát tập
trung và tính cá thể sinh động. Mỗi nhân vật là một diện mạo độc đáo, khó có thể
lẫn lộn nhưng bên cạnh cái riêng còn có tính chung, phổ quát cho mộtngười: người
điên trong Nhật ký người điên, Ngọn đèn sáng mãi, Hạ Du trong Thuốc là
hình tượng những kẻ phản nghịch và cách mạng. AQ trong AQ chính truyện,
Nhuận Thổ trong Cố hương, Tường Lâm trong Lễ cầu phúc, Tư Thiền
trong Ngày mai… là hình tượng người nông dân lao động bị áp bức về vật chất,
bị lăng nhục về tinh thần… Điều đáng chú ý nữa là, khi xây dựng tính cách điển
hình, Lỗ Tấn xem tính cách không phải là một hiện tượng “nhất thành bất biến” mà
là một quá trình hình thành vận động quanh co, phức tạp. Đồng thời vớí Lỗ Tấn,
việc phân tích tâm lí nhân vật không tách rời với việc phân tích cuộc sống xã hội
nói chung. Ông đã miêu tả những diễn biến tâm lí do hoàn cảnh quyết định một
cách rất chính xác.
Chúng ta có thể nhận biết điều này qua diễn biến tâm trạng của
AQ, chị Tư Thiền, thím Tường Lâm, Quyên Sinh… Việc miêu tả tâm lý trong mối
quan hệ với hoàn cảnh xã hội tức là Lỗ Tấn đã xây dựng tính cách điển hình
trong hoàn cảnh điển hình. Lỗ Tấn là người có biệt tài phân tích tâm lí nhân vật.
Ông đã đi sâu vào giải phẫu, miêu tả thế giới tâm hồn của những nhân vật đã được
chính ông chọn lựa đưa vào tác phẩm. Dưới bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật của Lỗ
Tấn, thế giới tâm lý con hiện lên là cả một tiểu vũ trụ đầy bí ẩn và phức tạp.
Để thể hiện tâm lý nhân vật của Lỗ Tấn đã sử dụng rất nhiều biện pháp: tả tâm lý nhân vật qua ngoại hình, qua hành động, qua ngôn ngữ, qua lời miêu tả gián tiếp
của nhân vật khác…, đặc biệt là qua độc thoại nội tâm, thủ pháp chủ yếu mà Lỗ Tấn
đã sử dụng để miêu tả tâm trạng nhân vật.
Từ những định hướng lý thuyết như trên, chúng tôi sẽ triển
khai nghệ thuật khắc họa nhân vật trong truyện ngắn Lễ cầu phúc theo
mô hình loại.
PHẦN HAI
HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LỄ CẦU PHÚC
2.1 Nghệ thuật khắc họa nhân vật người lao động
Ở phần này, chúng tôi chỉ chú trọng vào phân tích ngoại hình,
tính cách và hành động của các nhân vật thông qua bút pháp tả thực của nhà văn.
Thứ nhất là hình tượng đám đông. Khi viết về nỗi khổ của
người nông dân lao động lỗ Tấn không chỉ quan sát bề ngoài chỉ
biểu hiên những đau đáu về xác thịt, như đói khát, bị đánh
đập, bị tra khảo mà ông đi sâu khai thác những sầu não thương tâm,
những dằn vặt đau đớn trong tâm hồn của họ. Ông thừa hiểu những nỗi khốn khổ về
tinh thần mà người nông dân phải chịu so với những đau đớn về xác thịt của họ
đáng sợ hơn nhiều. Cái bệnh hoạn trong tâm hồn của chính những người bị áp bức bóc lột cũng được Lỗ Tấn miêu tả khá sâu sắc. Do thiếu giác
ngộ mà cái quần chúng trong truyện của Lỗ Tấn nói chung và
trong Lễ cầu phúc nói riêng không thể thông cảm với những lỗi bất hạnh
của nhau, thậm chí còn lấy đó làm trò cười. Trước nỗi khổ của thím Tường Lâm, họ
cười nhạo và chế giễu như một thú vui - “Thế có tiếc cái đập đầu
không cơ chứ!”. Có thể thấy, nhân vật đám đông trong truyện ngắn này
phản ánh một cách rõ nét thực trạng bế tắc và tù túng của người nông dân thời kỳ
phong kiến. Họ không có đường đi, không có một hệ tư tưởng chính thống nào soi
đường chỉ lỗi. U Liễn, một con người mê tín quỷ thần lấy sự trừng phạt
nơi âm phủ ra dọa nạt thím, khuyên thím cúng vào đền Thổ Cốc một cái bậu cửa
cho “trăm người dẫm, vạn người đạp” hòng giảm nhẹ tội. Việc khắc hoạ thành
công nhân vật đám đông của Lỗ Tấn cho chúng ta thấy được cái nghịch
cảnh của cả một xã hội Trung Quốc.
Thứ hai là người lao động thuộc tầng lớp dưới được tác giả điển
hình hóa qua nhân vật Tường Lâm. Hầu hết các nhân vật trong truyện ngắn Lỗ
Tấn đều là những con người nhỏ nhoi, thấp hèn và còn mang nặng tư tưởng cổ hủ,
liệt căn tính quốc dân. Thím Tường Lâm là một phụ nữ nông thôn chăm chỉ làm ăn,
thật thà, lương thiện. Thím làm việc cần mẫn và nhanh nhẹn, chỉ mong bằng sức
lao động của mình có thể đổi lấy quyền sống tối thiểu thế mà không được. Nhưng
nhân vật này khi bước những bước chân đầu tiên vào tác phẩm đã mang một dáng
hình không bình thường. Đó là một dáng hình cụ thể, thể hiện cho những điều bất
ổn dự báo trước về cuộc đời nghiệt ngã.
Trong
tác phẩm, thím Tường Lâm xuất hiện với ngoại hình và dáng vẻ của một người đi
bên lề cuộc sống, bị hất đẩy thành một người ăn mày khốn khổ với: “Mái tóc
hoa râm năm năm trước đây bây giờ bạc trắng, trông không còn ra vẻ người trên
dưới bốn mươi nữa; khuôn mặt hốc hác quá, nước da vàng xạm, cả đến cái vẻ u sầu
xưa kia cũng mất hẳn, trông giống như là tạc bằng gỗ, họa chăng chỉ đôi tròng
con mắt lâu lâu đưa đi đưa lại mới chứng tỏ thím là một con người đang sống mà
thôi”. Ở đây có sự đổi thay, những gì trẻ trung của năm năm trước đây không còn
nữa, con người ta sẽ già đi theo quy luật của cuộc sống nhưng già mà không sung
sướng, già mà không được hưởng hạnh phúc đáng có của lẽ đời. Thím Tường Lâm già
mà khổ. Đọc đoạn truyện ta chỉ thấy hiện lên một người phụ nữ ăn mày lôi thôi,
lếch thếch, rách rưới, tả tơi, gầy guộc, xanh xao, nhem nhuốc. Tất cả để chứng
tỏ sự cùng cực của thím Tường Lâm. Trong con người ấy còn mang một tư tưởng cổ
hủ, nghi ngờ về sự tồn tại của linh hồn và cái chết, tin vào những tín ngưỡng
giáo điều mà sau này, Lỗ Tấn trở thành người đi chữa bệnh bằng tinh thần trên
các trang truyện của mình. Từ ngoại hình đó tạo nên tâm lý nhân vật, chính vì
người ta khổ nên người ta mong có một thế lực nào cứu vớt, an ủi mình, nhất là
cần có một chỗ dựa tinh thần để bấu víu khi cuộc đời đầy trơn nhám. Bị hất ra
rìa cuộc sống, bị đọa đày cả về thể xác lẫn tinh thần, người đàn bà hai lần chồng
ấy dường như không được đón nhận bởi sự cảm thông của người khác, cái đói rình
rập rồi cướp đi sự sống thoi thóp của nhân vật là một điều tất yếu. Hình ảnh
con người ấy từ khi xuất hiện đến khi kết thúc có sức ám ảnh ghê gớm đến phận
người – những người có thân phận cầu bơ cầu bất tương tự như thím Tường Lâm.
Quay ngược thời gian, Lỗ Tấn đưa chúng ta quay trở về thời
nhân vật khi còn trẻ, lúc 26, 27 tuổi khi mới vào nhà chú Tư làm đầy tớ gái.
Ngày vào: “nước da xanh xao vàng vọt, nhưng hai gò má còn hồng hào. Thím mặc
chiếc quần đen, áo kép màu chàm, khoác chiếc áo cánh chẽn màu nguyệt bạch, đầu
chít khăn tang” . Nỗi buồn đau, đáng thương của một người có chồng vừa chết.
Đó là một số phận hẩm hiu, bất hạnh để nói lên một tương lai bất ổn. Ngoại hình
nhân vật còn được tác giả bổ sung: “chân tay vạm vỡ” – chi tiết này nói về một
người phụ nữ khỏe mạnh không thua gì đàn ông. Đó là một người phụ nữ hiền lành,
lẽ ra một người như vậy sẽ được hưởng hạnh phúc, nhưng số phận đi ngược lại những
gì người phụ nữ đó có. Khỏe mạnh nhưng không thể nuôi sống mình bằng một nghề
nghiệp ổn định mà phải đi ở, giúp việc cho nhà người. Khỏe mạnh nhưng không đủ
sức để chống lại những thế lực khác (khi bước đi lấy chồng lần 2, có kháng cự
nhưng rồi lại khuất phục). Cuộc đời của những nhân vật phụ nữ trung tâm
luôn đa đoan, không trọn vẹn, không một cuộc tình êm ả, đối với gia đình thì
tan tác, chia lìa, không một kết thúc nguyên vẹn, tròn trịa, ngay ngắn. Dường
như truyện của Lỗ Tấn viết về người phụ nữ được xây dựng trên nỗi ám ảnh về cái
tàn lụi, tan rã.
Chồng thứ hai chết, con trai bị chó sói tha đi. Nỗi đau mất
con ám ảnh cả cuộc đời người đàn bà bất hạnh để khi quay trở lại nhà chú Tư lần
thứ hai với hình hài: “mặc quần đen, áo kép màu chàm, ngoài khoác chiếc áo
chẽn màu nguyệt bạch, trên đầu cũng chít khăn trắng, nước da cũng xanh xao,
vàng vọt, có điều hai gò má thì không hồng hào như trước nữa. Thím ta cứ cúi mặt
xuống đất, khóe mắt ươn ướt, và con mắt cũng không lanh lợi như trước”. Sự
mệt mỏi, rệu rã đã vận vào số phận éo le của thím Tường Lâm. Vẫn là cách ăn mặc
của lần đầu tiên khi bước đến nhà chú Tư, nhưng đôi mắt là nơi nói lên nhiều điều
nhất. Khi cúng xong một cái bậc cửa vào miếu Thành Hoàng, thím trở về: “sắc
mặt tươi tắn, con mắt cũng lanh lợi, vui vẻ hẳn lên”. Điều đó khắc họa
tâm lý nhân vật lúc này là đang hồ hởi, thím Tường Lâm như tìm được niềm tin ảo
để còn có lý do để sống. Cái tư tưởng cổ hủ tin vào thần linh, bị ám ảnh bởi những
ảo ảnh không có thực, đó là niềm tin duy nhất mà thím Tường Lâm có thể tồn tại
được. Nhân vật được khái quát cao độ qua việc phân tích ngoại hình. Qua đó
ta thấy được nhân vật là một người đàn bà khốn khổ, mang sức điển hình cho hệ
thống những người cùng cảnh ngộ trong tác phẩm của Lỗ Tấn. Nỗi đau về tinh thần
luôn là cái cớ khiến cho thể xác của người ta chịu khổ. Tường Lâm chết để chấm
dứt những tư tưởng cổ hủ, chấm dứt số phận cùng cực nhưng tác phẩm của Lỗ Tấn
còn có biết bao nhiêu con người có ngoại hình như thế, cái ngoại hình có sức
khái quát lên cả một đời người.
Cùng với nhân vật trung tâm của tác phẩm là thím Tường Lâm,
hai nhật vật vợ chồng chú Tư cũng được Lỗ Tấn chú tâm khắc họa. Nếu như ở truyện
ngắn này. Lỗ Tấn tập chung khá nhiều đến việc khắc họa nhân vật thím Tường Lâm
thông qua ngoại hình với những nét khắc khổ, đáng thương thì với hai nhân
vật: vợ chồng chú Tư. Dường như ngoại hình không được nhà văn chú ý lắm. Từ đầu
đến cuối truyện hầu như không thấy xuất hiện một câu nào, từ nào miêu tả ngoại
hình thím Tư mà chỉ thấy nhà văn miêu tả so lược về ngoại hình chú Tư. Sau bao
năm xa quê, nhân vật Tôi trở về thấy chú Tư không khác xưa mấy, chỉ già hơn đôi
chú nhưng vẫn chưa để xâu. Lỗ Tấn không tập chung khắc họa ngoại hình hai nhân
vật này mà chủ yếu thông qua việc thể hiện tính qua các hành động, cử chỉ, suy
nghĩ của nhân vật để khác họa nhân vật.
Thứ ba là người lao động thuộc tầng lớp trên qua hình ảnh vợ
chồng Lỗ Tư. Lỗ Tấn khá dụng công trong việc miêu tả tỉ mỉ, chi tiết từng
cử chỉ, lời nói, hành động cho đến cung cảnh sinh hoạt của chú Tư. Vốn là một
viên giám sinh – có dòng dõi là con cháu quan lại. Sinh ra trong một gia đình
như thế cho nên đầu óc chú Tư luôn mang nặng suy nghĩ cổ theo Tống Nho. Điều đó
thể hiện qua việc miêu tả những sở thích, cung cách sinh hoạt của nhân vật chú
Tư: là người theo Tống Nho nhưng hiểu biết không phải là nhiều. Chú Tư chỉ
thích những cái cổ. Dường như tư tưởng Tống Nho ăn sâu vào tư tưởng chú Tư cho
nên chú ghét những tư tưởng mới, cái mới vì thế chú lỗ mãng chửi lại Tân Đảng.
Chú Tư luôn thích cổ vì vậy trong nhà chú có treo câu đối cổ nhưng có lẽ vì
không am hiểu hay vì lẽ gì đó mà chỉ một vế được treo lên còn một vế rơi cuộn
trên một ghế dài. Trên bàn là bộ Khang Hy tự điển chưa chắc đã trọn bộ cùng với
một bộ cân tư lục, tạp chú và một bộ tứ thư thần. Điều đó đủ cho thấy nhà văn Lỗ
Tấn đã quan sát tỉ mỉ từng chi tiết như thế nào để thể hiện cái sở thích,
cung cách bài trí theo lối cổ của gia đình chú Tư - Một trong số những đại
diện chịu ảnh hưởng của tư tưởng Tống Nho đã lỗi thời.
Mặc dầu
là tư tưởng lỗ thời nhưng nó đã ăn sâu vào tư tưởng của chú Tư. Nó đã tạo nên
tư tưởng định kiến về con người của nhân vật này. Và cũng chính những định kiến
đấy góp phần làm nên tính cách nhân vật và nó được bộc lộ chủ yếu qua hành động
và lời nói của nhân vật.
Chú Tư
vốn là người “vẫn còn kiêng kỵ nhiều thứ lắm, gần lễ cầu phúc mà đem những
chuyện chết chóc, ốm đau ra nói với Chú thật là tồi ư bất khả” và với định
kiến những điều kiêng kị này được thể hiện qua những hành động, lời nói của chú
Tư từ đầu đến cuối tác phẩm.
Ngay từ
đầu khi thím Tường Lâm xuất hiện muốn làm người ở gái cho gia đình chú –
thím Tư thì chú Tư đã tỏ ra không thích với hành động, thái độ câu mày không
thích mướn người góa bụa rồi khi thấy mẹ chồng thím Tường Lâm đến tìm thì chú
Tư cũng tỏ thái độ bực dọc, chau mày nói: “Hỏng! Có lẽ của này nó trốn
nhà” và khi bà mẹ chồng tỏ rõ thái độ ý muốn gọi con dâu về thì chú bằng
lòng cho thím Tường Lâm về, chú Tư như thoát khỏi được gánh nặng và chú luôn nhắc
đi nhắc lại cụm từ “khả ố”. Tới khi thím Tường Lâm trở lại nhưng lúc
này thím không chỉ là người đàn bà góa bụa mà góa bụa đến hai lần rồi mất cả đứa
con duy nhất càng khiến cho chú Tư thêm tỏ ra không thích. Ông vẫn giữ thái độ
chau mày chiếu lệ của mình vì chẳng còn ai có thể làm việc tốt hơn thím nên
đành nhận thím ở lại. Tuy vậy với định kiến cố hữu của mình về người phụ nữ góa
bụa như thím Tường Lâm cùng với việc coi trọng lễ tết cho nên chú Tư luôn
không muốn thím Tường Lâm đụng tay vào việc cúng tế cho nên chú Tư nói với
vợ: “… tuy những quân ấy có lẽ rất đáng thương nhưng họ đã làm bại hoại
gia phong dùng họ đỡ đần công việc thì còn được, chứ việc cúng bái thì chớ để
chúng mó tay vào nhất thiết cỗ bàn tự tay mình làm lấy là hơn, nếu không thì uế
tạp. Ông bà ông vãi nào ăn” chỉ với câu nói này thôi cũng đủ cho thấy định
kiến của chú Tư như thế nào về người phụ nữ như thím Tường Lâm. Chú Tư
luôn coi người phụ nữ góa chồng, lại đi lấy chồng rồi chồng chết ấy là bại hoại
gia phong, làm vế tạp. Có lẽ những định kiến ấy đã ăn quá sâu vào trong tiềm thức
nhân vật chú Tư cũng như những nhân vật khác trong tác phẩm. Lỗ Tấn không khắc
họa chú Tư với vẻ ngoại hình mà chủ yếu khắc họa tính cách nhân vật với hành động,
lời nói thể hiện cái nhìn đầy định kiến về con người cùng với những định kiến ấy
sự tàn nhẫn vô cùng của nhân vật của chú Tư được bộc lộ khi nghe tin thím
Tường Lâm chết không chỉ giữ thái độ bình thản mà chú Tư còn tỏ ra bực tức, cáu
gắt vì thím chết vào đúng lễ cầu phúc.
Cùng với
nhân vật chú Tư, nhân vật thím Tư cũng được khắc họa với những chi tiết thể hiện
tính cách, con người của nhân vật. Lỗ Tấn khắc họa nhân vật thím Tư gần như “bản
sao” của nhân vật chú Tư. Thím Tư cũng là con người chịu ảnh hưởng mạnh của định
kiến xã hội cùng những tư tưởng truyền thống. Thím Tư không phải không có chút
lòng thương với thím Tường Lâm mà thím cũng cảm thấy thương xót cho cảnh ngộ
thím Tường Lâm: khi thím Tường Lâm kể lại chuyện của mình trong mấy năm qua khiến
cho thím từ thái độ lưỡng lự chuyển sang mắt đỏ hoe rồi nhận thím Tường Lâm ở lại.
Thím Tư cũng mến người: Thích cái cung cách đứng đắn, vạm vỡ tỏ vẻ biết phận,
chịu khó của thím Tường Lâm cho nên khi người ở gái ấy đi rồi, thím Tư vẫn thường
nhắc và mong thím Tường Lâm trở lại.
Nhưng
trong con người của thím Tư không phải chỉ có lòng thương mà cũng đầy định kiến.
Sau khi nghe chú Tư nói chớ để cho Thím mó tay vào việc cũng bái để khỏi uế tạp
thì thím Tư cũng thể hiện ngay định kiến của mình bằng hành động, lời nói của
mình. Trong mỗi dịp cúng tế thím Tư luôn tự làm lấy mọi việc không để thím Tường
Lân đụng vào đồ để cúng. Thím Tư luôn hét: “Thím Tường Lâm để đấy! tôi làm
lấy…” Cái hành động cùng lời nói ấy cho thấy rõ những suy nghĩ giống với
chú Tư của chím Tư. Thím cũng sợ thím Tường Lâm động vào đồ cũng sẽ làm uế tạp
việc cúng bái và định kiến ấy vẫn còn ngay cả khi Thím Tường Lâm đã cúng công đức
cho chùa cái ngạch của để chuộc tội lỗi thím Tư vẫn không cho thím Tường Lâm động
tay vào đồ lễ với việc thét lớn: “để đấy Thím Tường Lâm.” Và khi thấy
thím Tường Lâm không còn nhanh nhẹn trở lại nữa thì Thím Tư đã nói ngay vào mặt
thím Tường Lâm để cảnh báo coi trừng: “biết thế thì trước chả giữ lại cho
xong”. Đến khi thấy thím không còn nhanh nhẹn không còn giúp ích được thì
thím Tư cũng tàn nhẫn tính đến chuyện cho thím Tường Lâm trở về với mụ vệ.
Lỗ Tấn
đã dụng công khắc họa hình tượng hai nhân vật chú Tư và thím Tư với đầy đủ những
nét tính cách điển hình của họ cùng với cái định kiến nặng nề đã ăn sâu vao nếp
nghĩ của con người qua bao năm tháng, qua bao thời gian không mất đi mà như nặng
nề thêm. Qua việc khắc họa hai nhân vật này, nhà văn đã thể hiện được những con
người điển hình với những định kiến xã hội nặng nề đối với phụ nữ. Nhân vật chú
Tư, thím Tư là một phần của cái xã hội đầy định kiến bất công, con người tàn nhẫn
vô cảm trước nỗi đau khổ bất hạnh và cái chết của đồng loại.
2.2 Nghệ thuật khắc họa hình tượng người phụ nữ
Hình
tượng người phụ nữ là một hình tượng trung tâm trong tác phẩm này. Để làm rõ chủ
hướng nghệ thuật của Lỗ Tấn trong việc đề xuất vấn đề người phụ nữ, chúng tôi sẽ
đi sâu vào việc phân tích nội tâm nhân vật Tường Lâm.
Có thể nói, trong tác phẩm Lễ cầu phúc, nhân vật thím Tường
Lâm hiện lên như một nhân vật trung tâm – chính diện, đóng vai trò phát ngôn
cho chủ ý và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Mặt khác, Tường Lâm đại diện cho
số phận người phụ nữ nông thôn Trung Quốc bất hạnh thời kỳ phong kiến sau Mãn
Thanh. Khắc họa thành công nhân vật này, có thể nói, Lỗ Tấn đã sử dụng các thủ
pháp về miêu tả ngoại hình, tính cách được bộc lộ qua tình huống và môi trường
sống… song yếu tố được coi là mảnh ghép cuối cùng và quan trọng nhất trong việc
hoàn thiện bức chân – dung – tinh thần về nhân vật thím Tường Lâm là nội tâm –
chiều sâu tâm lý.
Xét dưới góc độ lý luận văn học, Tường Lâm thuộc dạng nhân vật
chức năng, tức là mang trong mình vai trò phản ánh một phần của hiện thực đời sống.
Mặt khác, Lỗ Tấn đã khắc họa nhân vật này có một chiều sâu tư tưởng nhất định,
tạo ra một sự vận động khá phức tạp trong cả quá trình sống của nhân vật.
Tiếp xúc với tác phẩm Lễ cầu phúc trên bề mặt chữ
nghĩa, chúng ta dễ dàng nhận thấy, nhà văn đã dành nhiều tâm huyết cho nhân vật
nữ trung tâm của mình. Ở đây, chúng tôi sẽ bỏ qua những khái quát về ngoại
hình, tính cách của nhân vật thím Tường Lâm để đi sâu vào những khía cạnh nội
tâm diễn ra trong người phụ nữ này.
Qúa trình vận động nội tâm của nhân vật Tường Lâm diễn ra
theo một chu trình nhất định qua lời kể chuyện của nhà văn. Điều đầu tiên dễ nhận
thấy nhất trong nội tâm của nhân vật này là sự hoài nghi về cõi sống. Khi
gặp nhân vật tôi về Lỗ Trấn vào những ngày cuối năm, người đàn bà đau khổ ấy đã
hỏi tôi (người kể chuyện) về sự sống – cái chết “Con người ta khi chết đi
rồi còn có linh hồn hay không?”. Đó là những câu nói cuối cùng của thím
trước phút lâm chung, thím nghi hoặc có địa ngục hay không, có thật một người
chết rồi còn có linh hồn hay không. Thím hoài nghi để rồi hy vọng. Hy vọng số
phận của mình sẽ không chịu sự xếp đặt của xã hội nhân gian. Bao nhiêu những
day dứt về đời người và thân phận cứ bám riết lấy thím Tường Lâm khiến thím
không nguôi suy nghĩ về cái chết và những linh hồn. Tại sao lại như vậy? Lý giải
điều này, chúng ta cần đi từ những sự việc xảy ra với thím Tường Lâm lúc đó.
Khi vào làm thuê cho ông bà Tư được chừng hơn một năm thì
thím bị bắt về Vệ Gia Sơn để lấy một người ở Hạ Gia Úc. Thím Tường Lâm đã “một
mực la ó, chửi bới, lúc về đến Hạ Gia Úc thì cổ đã khản đặc…”. Thím Tường
Lâm đã chống cự, đã đập đầu vào bờ tường để chối từ sự tái giá một cách ép buộc
ấy. Sự phản kháng ấy của thím Tường Lâm – thực chất là để đấu tranh với cái trống
rỗng và nỗi cô đơn buồn tủi đang hiển hiện trong tâm trí mình. Thím đã đập đầu
vào bờ tường như một hành động vô thức nhằm kết thúc cuộc đời còn hơn là phải
chung sống với một người xa lạ. Trong nội cảm của thím lúc ấy, sự sống là mong
manh lắm và vô nghĩa lắm rồi. Nhưng thím đã không chết, năm sau chị sinh con với
người đàn ông ấy. Thế rồi những tai ương đổ dồn lên đầu thím. Chồng chết vì
thương hàn, con trai chết vì chó sói ăn thịt. Và, đây lại là một chấn
thương tinh thần không thể lành lặn trong lòng thím. Từ khi con trai bị
chó sói ăn thịt, thím luôn sống trong nỗi ám ảnh về cái chết của đứa
con. Thím lại trở thành một người bơ vơ, không người thân, không nhà cửa,
thím lại tìm đến gia đình nhà chủ năm xưa với mong muốn có một chỗ dung thân và
quên đi những ngày vừa qua.
Sự ám ảnh về cái chết của đứa con trai cho thấy những cào xé
dằng dặc trong nội tâm của người đàn bà ấy. Thím đã kể câu chuyện về cái chết của
đứa con với những người ở Lỗ Trấn mong tìm thấy một sự chia sẻ. Bắt đầu câu
chuyện, bao giờ thím cũng nói: “Con thật là ngu dại…”, và kết thúc
câu chuyện, bao giờ thím cũng nghẹn ngào thổn thức, nước mắt trào ra. Có thể thấy,
thím đã sống trong những dằn vặt và mặc cảm về tội lỗi xung quanh cái chết của
A Mao (con trai thím), bởi với người mẹ, còn gì đau khổ hơn khi mất đi đứa con
mà mình sinh ra. Thím Tường Lâm kể câu chuyện ấy với nhiều người, thực chất để
trải lòng mình, để những ý nghĩ ứ đọng bao nhiêu ngày tháng nay có cơ hội được
bung xé và thoát xác. Thế rồi người ta cũng chán nghe câu chuyện của thím, và
đáp lại thím bằng một sự miệt thị, khinh khi khiến “chị há hốc mồm, chưng
hửng ngước mắt nhìn theo, rồi cũng đi nốt, tựa hồ chính mình cũng thấy mất thú
rồi”.Trong tâm trạng mê muội, u đặc và có quá nhiều mặc cảm về tội lỗi, thím đã
kể câu chuyện về sói ăn thịt con trai như một hành động để cứu chuộc sự thanh
thản trong tâm hồn mình. Mỗi khi nhìn thấy một thằng bé thím lại nhớ đến con
trai thím, như một nỗi xót xa – “Chị hình như cũng cảm thấy có cái gì đó vừa
lạnh vừa nhọn, đã thế thì còn mở miệng mà làm gì. Chị chỉ nhìn họ một cái, chứ
tịnh không một lời đáp lại”. Thím trở nên vô cảm với thái độ của những người
xung quanh, bởi chị biết có giải thích cũng không được.
Nỗi ám ảnh về cái chết của đứa con bé bỏng được tác giả đặc tả
trong không khí cuối năm. Trong khi mọi người chuẩn bị cho “lễ cầu phúc” thì
thím luôn miệng lẩm bẩm “Ôi chao! Con thật là ngu dại…” Dường như có
một cái gì đó ngây ngô đến xa xót cứ theo mãi thím hết năm này qua năm khác. Ai
hỏi gì thím cũng ậm ừ cho xong, tâm trí thím chỉ nghĩ về câu chuyện vào mùa
xuân ấy và hình ảnh của A Mao bị chó sói ăn hết ruột gan. Thế rồi chuyện gì đến
cũng phải đến, gia đình nhà ông Tư đã quyết định không cho thím mó tay vào công
việc cúng vái của nhà mình vì đã làm bại hoại gia phong. Vô hình chung, thím đã
bị đẩy ra khỏi quỹ đạo sống của con người. Xã hội phong kiến với những hủ tục lạc
hậu ấy đã gạt thím ra một cõi riêng, không có tình người, không có sự cảm
thông. Khi nghe bà Tư thét lên “Chị Tường Lâm để đấy! Tôi lấy!” –
Thím rút tay lại như bị bỏng, cảm giác sợ sệt và bối rối, cảm giác như bị đánh
từ sau lưng. Để rồi, gây lên trong lòng thím một chấn thương tinh thần - “Và
chị sinh ra rất nhút nhát, không những sợ đêm tối, sợ bóng đen, mà thấy người
cũng sợ nữa: trông thấy chủ nhà của mình mà cũng lấm lét như chuột ngày, nếu
không thì lại ngồi đực ra như bụt mọc vậy”.Thím đã không thể là mình nữa, không
thể sống với cái bản thể của chính mình nữa. Sợ và ngại tiếp xúc với tất cả, chỉ
muốn lẩn tránh để đối thoại với cái mênh mông dằng dặc của cuộc đời bất hạnh và
khổ đau của mình.
Nhưng rồi cái chết vẫn cứ đến bởi nhiều lý do, thứ nhất chủ
nhà vin vào lễ giáo để đày đọa tinh thần thím Tường Lâm, coi việc thím đi bước
nữa là hành động xấu xa, bẩn thỉu làm bại hoại gia phong, vì vậy không cho thím
động chân động tay vào những đồ cúng tế. Đến ngày giỗ tổ trong tiết đông chí,
thím thản nhiên đi bày biện cốc chén. Không ngờ, chủ nhà nhìn thấy vội
quát: “Để đấy chị Tường Lâm!”. Thím vội rụt tay lại như bị bỏng. Đây
là đòn nặng nề cuối cùng giáng lên đầu thím, làm cho thím tê liệt không sao gượng
dậy nổi. Nỗi lo sợ bị trừng phạt nơi cõi âm vẫn đeo bám dai dẳng hành hạ thím,
biến thím từ người lao động nhanh nhẹn trở nên mụ mẫm, đờ đẫn như một khúc gỗ
không hơn không kém. Thím Tường Lâm thực sự chết tinh thần trước khi cái chết
thể xác tự đến. Thím bị tuyên án tử hình khi nghe nói chết đi sẽ bị chia làm
hai cho mỗi người chồng một nửa. Sự băn khoăn“người chết có linh hồn hay
không?” của người đàn bà này chính là nỗi sợ hãi, ray rứt đó. Thì ra không
phải chỉ có đói khát, giá lạnh mà nguyên nhân gây ra cái chết còn là nỗi lo sợ
bị trừng phạt, đọa đày. Tường Lâm đã bị bốn sợi dây: chính quyền, thần quyền, tộc
quyền và nam quyền xiết cổ một cách êm ái mà chị không hề hay biết. Tường
Lâm chết rụi giữa tiếng pháo cầu phúc của những nhà giàu sang mà không gặt được
một giọt nước mắt của người đời.
Tâm trạng thím Tường Lâm được tác giả đặc biệt nhấn mạnh
qua sự thay đổi của ánh mắt. Theo thống kê sơ bộ của chúng tôi, đôi mắt
của thím Tường Lâm được tác giả nhắc đến 13 lần với đầy đủ các trạng thái: lờ đờ,
thâm quầng, sáng hẳn lên, ngấn lệ, tỉnh táo hơn nhiều… thể hiện những trạng huống
khác nhau trong con người chị. Sự biểu hiện bằng ánh mắt từ lờ đờ bỗng sáng hẳn
lên của thím khi đối thoại với nhân vật tôi cho thấy trong thím nhen nhóm lên một
niềm hi vọng về sự sống; ánh mắt lờ đờ biểu hiện một tâm thế mệt mỏi, chán chường
bởi sự vô cảm của những người xung quanh… Lỗ Tấn đã sử dụng motip đôi mắt để
làm rõ sự vận động của nội tâm trong con người thím Tường Lâm nhưng chủ yếu là
nói lên nỗi đau đớn, sự hoài nghi, sự bế tắc và thất vọng của thím về đời sống
của chính Tường Lâm. Đôi mắt tinh tường lanh lợi thay bằng đôi mắt đờ đẫn, lờ mờ,
mệt mỏi, ướt mềm. Đôi mắt không còn mang linh hồn của con người nữa, nó mang
thông điệp của thần chết nhiều hơn. Nếu như chỉ nhìn vào đôi mắt đưa đi đưa lại
mới biết được sự sống đang tồn tại trong con người khổ sở ấy thì tôi lại thấy
chính điều đó khiến cho sự chết tới gần hơn với kiếp người nhỏ bé này.
Đôi mắt cứ đăm đăm nhìn thẳng, khóc nhiều hơn là cười. Đôi mắt trĩu nặng, buồn đau, ảm đạm níu với sự sẻ chia trong câu chuyện mất con với nỗi khao khát được sự an ủi, động viên nhưng người ta lại dửng dưng, biến câu chuyện của Tường Lâm thành trò cười. Nỗi cô đơn, bơ vơ được đẩy đến tận cùng. Khi con người ta không có ai bên cạnh cũng là lúc người ta hết niềm tin vào cuộc đời, hết niềm tin vào cuộc sống. Điều đó thúc đẩy thím Tường Lâm tìm tới thần linh để lương tựa. Khi cúng xong một cái bậc cửa vào miếu Thành Hoàng, thím trở về: “sắc mặt tươi tắn, con mắt cũng lanh lợi, vui vẻ hẳn lên”. Điều đó khắc họa tâm lý nhân vật lúc này là đang hồ hởi, thím Tường Lâm như tìm được niềm tin ảo để còn có lý do để sống. Cái tư tưởng cổ hủ tin vào thần linh, bị ám ảnh bởi những ảo ảnh không có thực, đó là niềm tin duy nhất mà thím Tường Lâm có thể tồn tại được. Đôi mắt thím Tường Lâm đã trở thành một chi tiết nghệ thuật mang tính ám ảnh.
Đôi mắt cứ đăm đăm nhìn thẳng, khóc nhiều hơn là cười. Đôi mắt trĩu nặng, buồn đau, ảm đạm níu với sự sẻ chia trong câu chuyện mất con với nỗi khao khát được sự an ủi, động viên nhưng người ta lại dửng dưng, biến câu chuyện của Tường Lâm thành trò cười. Nỗi cô đơn, bơ vơ được đẩy đến tận cùng. Khi con người ta không có ai bên cạnh cũng là lúc người ta hết niềm tin vào cuộc đời, hết niềm tin vào cuộc sống. Điều đó thúc đẩy thím Tường Lâm tìm tới thần linh để lương tựa. Khi cúng xong một cái bậc cửa vào miếu Thành Hoàng, thím trở về: “sắc mặt tươi tắn, con mắt cũng lanh lợi, vui vẻ hẳn lên”. Điều đó khắc họa tâm lý nhân vật lúc này là đang hồ hởi, thím Tường Lâm như tìm được niềm tin ảo để còn có lý do để sống. Cái tư tưởng cổ hủ tin vào thần linh, bị ám ảnh bởi những ảo ảnh không có thực, đó là niềm tin duy nhất mà thím Tường Lâm có thể tồn tại được. Đôi mắt thím Tường Lâm đã trở thành một chi tiết nghệ thuật mang tính ám ảnh.
Qua việc khắc họa thành công nhân vật thím Tường Lâm, Lỗ Tấn
đã đến thành công của việc xây dựng nhân vật theo tinh thần của văn học hiện đại
Trung Quốc. Nhân vật này của ông có nguyên mẫu từ đời sống và đã đi vào đời sống
như một hình tượng văn học mang tính điển hình, đại diện cho một lớp người
trong xã hội.
* Đồng thời, từ việc điển hình hóa thành công nhân vật thím
Tường Lâm, Lỗ Tấn đã đặt ra vấn đề người phụ nữ
Trong xã hội phong kiến lâu đời như ở Trung Quốc, dưới ách nặng
của bốn tầng áp bức: chính quyền, tộc quyền, phụ quyền, người phụ nữ trở
thành: “con dê tế thần” thảm hại cho chế độ phong kiến.
Có thể thấy hai loại phụ nữ được Lỗ Tấn thể hiện trong tác phẩm
của mình: phụ nữ nông thôn (Lễ cầu phúc, Li hôn), phụ nữ thành thị (Tiếc thương
những ngày đã mất, Một gia đình hạnh phúc,…)
Những hành đó đựoc xây dựng khác nhau, nhưng cuối cùng những
người phụ này đều có chung một số phận bi thảm, đều trở thành vật bị hi sinh
cho xã hội.
Số phận thím Tường Lâm (Lễ cầu phúc) là số phận điển
hình cho người phụ nữ nông thôn bị áp bức bóc lột.
– Chế độ phong kiến tàn ác giết chết thím:
Là người phụ nữ goá chồng, thím Tường Lâm trốn khỏi gia đình
nhà chồng tàn nhẫn để đi ở. Thím những mong đem sức lao động của mình để đổi lấy
một cuộc sống tối thiểu. Điều mong ước ấy nào có gì cao xa, ảo tưởng: “Ngày
tháng trôi qua rất nhanh, công việc thím không hề bễ trễ, ănthế nào cũng xong,
làm không tiếc sức. Mọi nguời đều nói nhà cụ Tứ thuê được người ỏ giá siêng
năng. Thím thấy thỏa mãn, khoé miệng đã thấy nụ cười, mặt cũng béo trắng ra”
Nhưng cái mong muốn nhỏ nhoi, tội nghiệp đó cũng bị phá vỡ.
Như một con vật, thím lại bị bà mẹ chồng đem gả bán cho một anh chang trên núi.
Rồi người chồng thứ hai lại chết, con bị chó sói anh thịt, anh chồng đuổi chị
ra khỏi nhà để cướp đất đai. Thím đã bị những đòn nặng phũ phàng: “gò má hết
sắc máu, tay chân không còn được nhanh nhẹn như ngày xưa”
– Lễ giáo phong kiến giết chết thím:
Thím Tường Lâm lấy hai đời chồng. Theo lễ giáo phong kiến như
vậy thím là kẻ tội phạm.Thím trở thành con vật dơ bẩn làm “bại hoại
gia phong”. Người ta không thuê thím làm, không cho thím đụng tay vào đồ lễ…Điều
đó đã dằn vặt thím, khiến cho thím vô cùng đau khổ. Nghe U Liễn, thím đem một
năm tiền công để chuộc tội “tái giá”. Nhưng thím vẫn không được lễ giáo phong
kiến công nhận, bà Tư vẫn không cho thím chuẩn bị đồ tế lễ. như vậy thím bị
tuyên án tử hình về tinh thần.
Thế rồi thím bị quẳng ra lề đường và chết dập chết vùi trong
đông tuyết giữa ngày lễ cầu phúc trong khi mọi người đang sung sướng. Thím cựa
quậy suốt cuộc đời mà không giành được gái trị về con người, mà ngay đến cả cuộc
sống cũng không đáng giá còn bị chế độ phong kiến lạnh lùng độc ác tước đoạt.
Số phận người phụ nữ thnàh thị cũng chẳng ra gì. Những
nhân vật như Tử Quân một phụ nữ bắt đầu có ý thức giác ngộ cách mạng, cô yêu
Quyên Sinh và kiên quyết dũng cảm đấu tranh cho tự do hôn nhân của mình. Nhưng
hiện thực cuộc sống nặng nề và tàn nhẫn đã bắt Tử Quyên phải chịu đựng những
thách thức đau đớn.
Đề tài người phụ nữ xuất hiện khá nhiều trong sáng tác của Lỗ
Tấn. Họ là những người có tinh thần phản kháng, tiềm tàng một khả năng cách mạng.
có thể nói, chống phong kiến thì không ai quyết liệt bằng phụ nữ. là lớp người
bị đè nén nhiều nhất, bị dập vùi một cách tàn nhẫn nhất, tất nhiên họ phải là
người có khát vọng giải phóng cao nhất.
Từ bao đời nay, người phụ nữ bị khinh rẻ, bị chà đạp và trở
thành chuyện bình thường cho nên không phải nhà văn nào cũng có đựoc cách nhìn
tiến bộ về khả năng cách mạng của họ.
Lỗ Tấn hơn hẳn các tác giả của Kinh Thi hay Tây
sương kí, hơn hẳn những người cầm bút đương thời là ở chỗ đó. Ở điểm này
cách đánh giá của Lỗ Tấn rất gần với chúng ta: Phụ nữ là người đau khổ nhất, bị
áp bức nhiều nhất, do đó dễ nhạy cảm với cách mạng. Phụ nữ là lực lượng to lớn
trong nhân dân, không có phụ nữ tham gia thì không có một cuộc vận động cách mạng
nào có thể thành công” (Lê Duẩn – Vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong
giai đoạn mới).
Qua một số sáng tác viết về người phụ nữ, bằng cách này hay
cách khác, Lỗ Tấn đã nói rõ quan điểm về vấn đề giải phóng phụ nữ. Những
kết cục bi thmả nói lên điều gì? Phải nói ngay rằng: Lỗ Tấn là một nhà cách mạng,
ông không bao giờ bênh vực cho cái cũ. Còn cái kết cục bi thảm là một sự
thật mà nhà văn muốn qua đó gián tiếp chỉ ra con đường giải phóng phụ nữ. mục
tiêu đấu tranh của Tử Quyên là đúng, hành động của thím Tuờng Lâm cũng vậy, chỉ
tiếc một điều đó chỉ là sự bột phát mà không có sự đồng thuận của xã hội.. các
chị đã quá lẻ loi. Vì vậy mà các chị thất bại.
Lỗ Tấn là một nhà văn có cái nhìn tiến bộ về vấn đề người phụ
nữ. hình ảnh người phụ nữ hiện lên trong tác phẩm của ôngđầy bi kịch nhưng cũng
tiềm tàng đầy sức mạnh phản kháng. Khác với những nhà văn cùng thời, Lỗ Tấn
trân trọng họ, lên tiếng đòi quyền bình đẳng, tự do cho họ, vạch cho họ con đuờng
giải phóng,…
2.3 Nghệ thuật khắc họa nhân vật người trí thức - nhân vật
tôi
Trong truyện ngắn của Lỗ Tấn có một nhân vật thường đóng vai
trò kể lại những điều mắt thấy tai nghe trong cuộc sống; đó là nhân vật xưng
tôi – tác giả. Ở truyện ngắn Lễ cầu phúc cũng vậy. Nhân vật xưng tôi
hiện lên không bằng hình dáng, ngoại hình, hành động, xung đột, sự kiện mà chủ
yếu qua việc diễn đạt tâm lý, nội tâm, ý nghĩ. Đó là trăn trở, suy tư, suy nghĩ
của tác giả ẩn lớp dưới câu chuyện.
Nhân vật
xưng tôi được giới thiệu là một người quen của nhà ông Tư, về thăm quê. Và theo
lời thím Tường Lâm, nhân vật tôi là người “có học, có chữ nghĩa, lại đi
đây đi đó, hiểu biết nhiều”. Cảnh và người nơi thị trấn Lỗ – Trấn gợi cho
nhân vật tôi cảm nhận sâu sắc. Quang cảnh thôn xóm và bầu trời cho thấy không
khí sắp sửa đón năm mới. “Thỉnh thoảng pháo tiễn đưa ông Táo về trời lóe
sáng, rồi nổ vang giữa những đám mây đen nặng nề, xám ngắt”, “hoa tuyết rơi xuống
lớp thảm tuyết phủ dày mặt đất, nghe rào rào, khiến cho người ta càng thêm hiu
quạnh”…..Và cảnh bận rộn sắm sửa “Lễ cầu phúc”của người dân thị trấn.
“Họ giết gà, giết ngỗng, mua thịt lợn, làm rất tinh khiết. Đàn bà, con gái,có kẻ
còn đeo vòng bạc kéo lối xoắn thừng, phải dầm tay luôn trong nước đến đỏ ửng
lên…”.Thiên nhiên giá rét, lạnh lẽo đối lập ánh sáng ấm cúng trong ngôi nhà,
khung cảnh nhộn nhịp sắm sửa của mọi người như làm nổi bật lên số phận nhỏ nhoi
đáng thương của thím Tường Lâm, chết đói chết rét,một mình ngoài đường. Hình tượng nhân vật tôi xuất hiện chủ yếu ở đầu – người giới thiệu, mở đầu cho
câu chuyện và ở cuối câu chuyện – người kết thúc tác phẩm. Đó là nhân vật do Lỗ
Tấn hóa thân vào. Vì thế đó là nhân vật thể hiện cho suy nghĩ, tư tưởng của tác
giả. Nhân vật tôi là người duy nhất còn quan tâm thím Tường Lâm – một mụ ăn
mày. Mặc dù thấy thím “cứ tráo mắt nhìn biết ngay là thím có ý đón gặp
tôi” vậy mà nhân vật tôi không bỏ đi. Khi nghe câu hỏi của thím nhân vật
tôi ấp úng, luống cuống, đắn đo suy nghĩ, ngần ngừ rồi mới trả lời: “Tôi
nghĩ… có thể có đấy”, “ Địa ngục à!Lý ra thì phải có đấy, Mà cũng vị tất. Nhưng
ai hơi đâu để tâm đến chúng những chuyện ấy làm gì!”.Nhân vật tôi đã phải “ngần
ngừ”, đắn đo, “luống cuống”, suy tính câu trả lời như một học sinh “thi một
bài chưa kịp chuẩn bị, mà ông giáo thì cứ đứng ngay bên cạnh mình”.Nếu là một
người không coi trọng thím Tường Lâm thì họ sẽ không làm như vậy, có thể họ sẽ
bỏ đi hay trả lời mà không cần suy nghĩ gì cả. Có lẽ ở thị trấn Lỗ – Trấn này,
không ai ngoài nhân vật tôi còn coi trọng thím Tường Lâm đến như vậy. Người ta
quá chán những câu chuyện của thím, nhạo báng, xua đuổi thím; chỉ có nhân vật
tôi vẫn trăn trở, lo lắng cho thím. “Mình trả lời với thím như thế chẳng
biết có thể nguy hiểm gì cho thím không. Chắc vì trong nhà ai cũng lam lễ cầu
phúc cả, thím cảm thấy mình thím cô đơn, trơ trọi, nên mới hỏi như thế. Nhưng
biết đâu câu hỏi đó lại không hàm một ý gì khác? Hay là thím cảm thấy trước có
điều gì sẽ xẩy ra chăng? Giả thử, vì một nguyên do gì khác mà hỏi, rồi nhân câu
trả lời của mình, mà có xảy ra thế nào thì thật mình phải chịu trách nhiệm một
phần về những lời nói của mình…” Thậm chí lúc thím chết rồi người ta còn
chửi thím chết không đúng lúc. “Không nhè lúc nào, lại nhè ngay vào giữa
lúc này! Rõ là đồ khốn kiếp!”. Ai cũng lo cho “lễ cầu phúc”, niềm vui
riêng của bản thân mà quên đi ngoài kia có con người chết rét trong giá lạnh,
trong sự cô đơn, trong sự bạc bẽo của tình người.
Nhân vật “tôi” biểu hiện là người hay suy nghĩ, “chẻ sợi
tóc làm tư”, có nội tâm, suy nghĩ khá phức tạp nhất là sau hôm gặp thím Tường
Lâm. Khi nghe thím Tường Lâm – mụ già ăn xin hỏi “Con người ta chết rồi
thì có linh hồn nữa không?” thì “ tôi có cảm giác như gai đâm
vào lưng, luống cuống hơn là khi còn đi học, bất thình lình phải thi một bài
chưa kịp chuẩn bị, mà ông giáo thì cứ đứng ngay bên cạnh”, ấp úng, ngần ngừ.
Sau đó khi trở về nhà nhân vật tôi vừa băn khoăn day dứt vừa khó chịu. “Mình trả
lời với thím như thế chẳng biết có thể nguy hiểm gì cho thím không. Chắc vì
trong nhà ai cũng làm lễ cầu phúc cả, thím cảm thấy mình thím cô đơn, trơ trọi,
nên mới hỏi như thế. Nhưng biết đâu câu hỏi đó lại không hàm một ý gì khác? Hay
là thím cảm thấy trước có điều gì sẽ xẩy ra chăng?…” nhưng rồi “lại cười
mình khéo vớ vẩn”…. “ tuy vậy, tôi vẫn không yên tâm. Qua một đêm mà vẫn thỉnh
thoảng cứ sực nhớ đến, và hình như cảm thấy trước có điều gì không lành sắp xảy
ra”.. Câu hỏi của thím luôn hiển hiện day dứt nhân vật tôi. Dù có tự an ủi mình
rằng câu trả lời như vậy sẽ không có vấn đề gì nhưng “tôi vẫn không yên
tâm”. Quả thực, vài ngày sau thím Tường Lâm chết. Nhân vật tôi từ chỗ khó
chịu, ấp úng, ngập ngừng đối câu hỏi của thím Tường Lâm đến băn khoăn, lo sợ,
lo lắng không biết có chuyện gì xảy ra với thím không, bàng hoàng sửng sốt với
tin thím đã chết và cuối cùng là thương cảm xót xa với cuộc đời người phụ nữ bất
hạnh. Và mặc dù câu nói của chú Tư “không nhè lúc nào, lại nhè ngay vào giữa
lúc này! Rõ là đồ khốn kiếp” nói cái chết thím Tường Lâm nhưng nhân vật tôi
nghĩ “câu nói trên kia là ông ta ám chỉ tôi, không nhè lúc nào mà lại nhè
vào giữa lúc này đến quấy rầy ông ta”.
Lỗ Tấn đã hóa thân vào nhân vật tôi để bày tỏ tình cảm của
mình cảm thương xót xa cho số phận thím Tường Lâm nói riêng và những người
phụ nữ Trung Quốc xưa nói chung. Đó chính là tinh thần nhân đạo sắc của Lỗ Tấn
hóa thân vào nhân vật tôi. “Một đời người không nơi nương tựa, như một thứ
đồ chơi cũ kỹ, chơi lâu ngày chán, người ta vứt vào đống rác, bấy lâu nay vẫn
lăn lóc ở đấy làm cho những kẻ sống sung sướng phải ngạc nhiên sao thím ta lại
cố bám vào cuộc đời mãi làm chi”. Cuộc đời của thím được kể lại qua những điều
“tai tôi đã nghe mắt tôi đã thấy”. Câu chuyện dường như không hề có con mắt
chủ quan của nhân vật tôi bởi nó được kể lại bởi một nhân vật nằm ngoài truyện
nhưng ẩn trong đó là sự thương cảm, xót thương cho cuộc đời của người phụ nữ và
phê phán lễ giáo phong kiến, sự độc ác lạnh lùng của con người “... con người
như thì cũng đáng thương thật, nhưng vì đã làm bại hoại phong hóa nên chỉ dùng
làm việc thường đỡ đần tay chân thôi, chứ khi tết nhất, cúng cơm, chớ để cho nó
mó tay vào. Cỗ bàn nhất thiết phải tự tay mình làm lấy, không thì dơ dáy bẩn thỉu,
ông bà ông vải không hưởng đâu”.
Kết thúc tác phẩm, qua cảm nhận của nhân vật tôi, tôi cảm thấy
con người nhác nhớn ra mà cũng rất thoải mái. Bao nhiêu nỗi lo ngại từ sáng sớm
đến chiều tối hôm qua bây giờ tiêu tan đi trong bầu không khí cầu phúc. “Tôi
có cảm tưởng như nhìn thấy trời đất quỷ thần sau khi về hâm hưởng rượu thịt,
hương hoa, đều say mềm, bây giờ đây đang bước đi chếnh choáng giữa không trung
và đang chuẩn bị đem lại cho tất cả những người ở Lỗ Trấn một nguồn hạnh phúc
vô tận”. Đó là niềm tin của tác giả về cuộc sống mới, năm mới, hy vọng về
đổi thay của đất nước Trung Quốc.
Tác giả mượn nhân vật tôi để nói lên tiếng nói riêng của nhà
văn. Nó vừa là tiếng nói tố cáo xã hội lạnh lùng, lạnh lùng đến độc ác vừa là
tình cảm thương xót cho số phận con người bị chà đạp áp bức trong xã hội cũ đặc
biệt là người phụ nữ. Nhân vật tôi trong các tác phẩm Lỗ Tấn là người chứng kiến,
đầu dây tự thuật của sự việc giúp cho việc khắc họa tính cách của nhân vật hoàn
chỉnh hơn, là người kể lại câu chuyện, người mang điểm nhìn của nhà văn. Chính
việc tác giả thông qua nhân vật tôi để kể điều mắt thấy tai nghe trong cuộc sống
làm cho truyện sâu sắc đem lại một niềm tin và sự lôi cuốn người đọc. Nó
góp phần làm tác phẩm của Lỗ Tấn giống như một bài thơ văn xuôi đầy chất trữ
tình và tăng sức truyền cảm lớn cho người đọc. Lỗ Tấn đã thành công trong việc
khắc họa hình tượng nhân vật tôi, đó chính là thủ pháp nghệ thuật của nhà văn
góp phần làm nên giá trị vững bền cho những tác phẩm. Như giáo sư Đặng Thai Mai
đã nói: “Hình như Lỗ Tấn đã bấm bụng đè nén mình không cho cảm tình bộc lộ
ra trong khi mô tả những nhân vật truỵ lạc, vùi dập dưới tiếng cười khắc bạc của
cõi người. Ấy thế, nhưng đọc xong bộ sách, xếp trang cuối cùng lại và ta ngồi
ngẩm nghĩ đến bộ mặt, đến số phận của một chú AQ, một thím Xang - lin (Tường
Lâm), một thầy Khổng Ất Kỷ, nhìn thấy nỗi tủi hổ của bao nhiêu nhân vật và ở đằng
sau họ cả một xã hội lạnh lùng khăm ác thì thế nào ta cũng phải rùng mình cau
mày, nghiến răng với những sự thực quá thê thảm”.
PHẦN BA
CÁC PHƯƠNG TIỆN NGHỆ THUẬT KHẮC HỌA NHÂN VẬT
3.1 Nghệ thuật khắc họa nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển
hình
Vấn đề điển hình chiếm một vị trí quan trọng trong tính đặc
thù của văn học nghệ thuật nói chung. Nói đến điển hình là nói đến cái tiêu biểu,
cái chung có ý nghĩa khái quát cao. Nhưng cái chung đó lại phải được hài hòa cao độ, phải nhuần nhuyễn trong cái riêng cá tính sinh động, độc đáo.
Bên cạnh AQ một điển hình bất hủ, đã vạch trần bản chất của tầng
lớp cố nông lạc hậu, thì hình tượng thím Tường Lâm là điển hình người phụ nữ bị
áp bức, bóc lột bởi lễ giáo phong kiến. Những hình tượng này nêu lên một vấn đề
thời đại vô cùng sâu sắc.
Nói đến điển hình là nói đén cái tiêu biểu, cái chung nhất có
ý nghĩa khái quát cao. Nhưng cái điển hình đó lại phải được hài hoà cao độ trong,
phải nhuần nhuyễn trong một cái riêng với một cá tính sinh động sắc nét.
Về phương pháp sáng tạo điển hình. Lỗ Tấn sáng tạo bằng hai
cách: “Một là chuyên dùng một người, hai là chuyên góp nhhặt ở nhiều hạng người
lại đẻ làm thnàh một người, tôi xưa nay vẫn chọn cách thứ hai”. Việc xây
dưng hình tượng nhân vật thím Tường Lâm cũng được tác giả lấy nguyên mẫu từ
ngoài đời. Thím Tường Lâm là hình ảnh của một người thim của Lỗ Tấn. Chính vì vậy,
khi viết tác phẩm này, kể về sự mất mát, nỗi đau của nhân vật tuy bằng thía độ
lạnh nhưng chúng ta vẫn cảm nhận thấy cái tình ấm áp ẩn sâu trong đó.
Tuy nhiên, Lỗ Tấn không kể nguyên si, không bê nhân vật đặt
luôn vào trong tác phẩm mà không hề có sự “gia công”. Bởi lẽ, ông luôn tâm niệm: “Không
chuyên dùng một người nào, thường thường miệng ở Chiết Giang, mặt ở Bắc kinh,
áo quần ở Sơn Tây, đó là vai chắp vá.” Có lẽ nhân vật của Lỗ Tấn đa dạng,
sinh động như vậy nên có rất nhiều người lầm tưởng là Lỗ Tấn viết động đến mình
“Có nhiều người nói truyện này tôi chửi ai, truyện kia tôi chửi ai là hoàn toàn
tầm bậy”.
Lấy mỗi người một nét Lỗ Tấn tạo ra một hình tượng điển hình
thím Tường Lâm, trong hoàn cảnh điển hình xã hội phong kiến với những hủ tục lạc
hậu bao vây lấy cuộc sống của con người. Nhà văn Nga Phadeep đã đưa ra nhận xét
về cách xây dựng hình tượng nhân vật của Lỗ Tấn như sau: “Lỗ Tấn là danh
thủ về truyện ngắn, ông giỏi biểu đạt một tư tưởng trong một vài hình tượng một
cách ngắn gọn và rõ ràng chỉ một đoạn xen kẽ cũng có thể hiện được một sự kiện
trọng đại, qua một nhân vật cá biệt nào cũng thể hiện được một điển hình”.
Như vậy, ý thức sáng tạo nhân vật điển hình trong hoàn cảnh
điển hình của Lỗ Tấn là rất cao. Đó cũng là nhân tố quan trọng để nhà văn thành
công trên con đường văn nghiệp.
3.2. Bút pháp trữ tình kết hợp tả thực
Lý thuyết tự sự từ trước đến nay luôn đề cao vai trò của bút
pháp trong việc tạo nên thành công trên phương diện nghệ thuật của một tác phẩm.
Các nhà nghiên cứu văn học đồng nhất cho rằng: Bút pháp là cách thức hành văn,
dùng chữ, bố cục, cách sử dụng các phương tiện biểu hiện để tạo thành một hình
thức nghệ thuật nào đó. Trong một tác phẩm văn học, nhà văn có thể sử dụng một
bút pháp hay nhiều bút pháp. Trong truyện ngắn Lễ cầu phúc, chúng tôi xác
định cho 2 bút pháp chủ yếu mà nhà văn đã sử dụng trong khi khắc họa nhân vật:
Bút pháp trữ tình và bút pháp tả thực.
Lỗ Tấn đã sử dụng bút pháp tả thực trong việc miêu tả ngoại
hình, tính cách và hành động của nhân vật. Nhà văn miêu tả sự thay đổi về ngoại
hình của thím Tường Lâm cho thấy số phận bấp bênh, khắc khổ đã ám ảnh người phụ
nữ này trong suốt cuộc đời. Mặt khác, từ sự miêu tả ngoại hình thím Tường Lâm
là sự khái quát chung về hình ảnh người nông dân trong thời kỳ phong kiến Trung
Quốc chịu sự áp chế cả về thể xác và tinh thần. Bằng bút pháp tả thực, nhà văn
đã khai mở một vấn đề của xã hội Trung Quốc lúc ấy là thân phận thấp hèn, bé mọn
của người nông dân trong thời kỳ đấu tranh chống chủ nghĩa quân phiệt. Họ bị áp
bức, đè nén, bị đày đọa và không có cơ hội ngoi lên mà sống giữa cái xã hội
bùng nhùng những sự bất công, oan trái ấy. Điều này cũng được thấy rõ trong khi
Lỗ Tấn miêu tả nhân vật đám đông với những chi tiết xung quanh việc mà họ phản ứng
với câu chuyện của thím Tường Lâm. Mặt khác, làm bật lên thái độ lạnh lùng và
tàn nhẫn của con người trong xã hội. Phải chăng, trong xã hội phong kiến bảo thủ
ấy, con người ta không thể làm gì khác ngoài sự miệt thị với kẻ khác bởi chính
mình cũng đang bị miệt thị?
Để nói lên những định kiến bảo thủ, lạc hậu của chế độ phong
kiến Trung Quốc, nhà văn đã tập trung ngòi bút của mình vào việc mô tả người
nông dân thuộc tầng lớp trên: vợ chồng ông Tư. Vì ý nghĩ mù quáng và thủ cựu, họ
đã không cho thím Tường Lâm tham gia vào công việc cúng vái nhà mình vì nghĩ
thím đã làm bại hoại gia phong. Chủ ý của Lỗ Tấn khi lắp ghép chi tiết này vào
trong tác phầm nhằm nói lên một tiếng nói thanh tẩy sự tồn tại thâm căn cố đế của
chế độ phong kiến, và đặt ra vấn đề giải phóng con người, đặc biệt là người phụ
nữ.
Bên cạnh bút pháp tả thực là bút pháp trữ tình. Có thể nói, Lỗ
Tấn đã sử dụng bút pháp này như một phương thức nghệ thuật đắc dụng nhằm tạo
nên chất thơ cho truyện ngắn của mình, khiến truyện của ông mang cảm quan thơ
ca thông qua những đoạn đặc tả nội tâm nhân vật. Lý thuyết văn học từ trước đến
nay luôn khẳng định, bút pháp trữ tình như là một thủ pháp quan trọng tạo nên
chất thơ lắng đọng lan tỏa trong những trang văn. Sử dụng bút pháp này, Lỗ Tấn
đã hòa quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng nhân vật với vẻ đẹp của cách biểu
hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mỹ và tình cảm nhân văn.
Soi chiếu điều này vào việc miêu tả nội tâm nhân vật tôi, ta
thấy sự xót thương và niềm cảm thông của nhân vật này với thím Tường Lâm, với
những cảnh đời trớ trêu đang hàng ngày diễn ra trong cuộc sống. Cảm quan của
nhân vật tôi chính là cảm quan của tác giả, người đọc nhận thấy một thái độ
quan tâm trân trọng của ông trước hiện thực phũ phàng đang diễn ra: nhân quyền
của con người đang bị xâm phạm. Nhưng nhà văn đã không miêu tả nó một cách trần
trụi mà khéo léo lồng ghép vào đó những khung cảnh về thiên nhiên êm đềm, bảy tỏ
cái nhìn thiện cảm và hy vọng về tương lai con người ở thị trấn. Nhân vật tôi
thuộc dạng nhân vật trí thức cách mạng trong truyện ngắn của Lỗ Tấn, vì thế việc
miêu tả nội tâm nhân vật này cần phải sử dụng những chi tiết mang tính nhân văn
trong sự cảm thông với thời cuộc và con người.
Đặc biệt, bút pháp trữ tình được tác giả sử dụng triệt để
trong việc miêu tả nội tâm nhân vật thím Tường Lâm. Tâm lý sợ sệt cái chết, nỗi
ám ảnh về đời người và thân phận cũng như những trạng huống khác nhau diễn ra
trong nội cảm người phụ nữ này cho thấy một thực tại: người phụ nữ như không tồn
tại trong xã hội, không có chỗ đứng và không thể quyết định vận mệnh của mình.
Từ đó dấy lên những cảm thông, chia sẻ và thậm chí bức xúc trong người đọc. Bởi
nhân vật của ông đã có ý thức phản kháng nhưng không triệt để. Bút pháp trữ
tình đã được nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm
xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng
những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và lối văn trong sáng, phù hợp với nhịp điệu
riêng của cảm xúc, tâm hồn, lan tỏa thành những đợt sóng dữ dội và những làn
sương mờ.
Với việc sử dụng bút pháp trữ tình kết hợp với bút pháp tả thực
trong khắc họa nhân vật, Lỗ Tấn đã tạo nên những giá trị riêng biệt trong truyện
ngắn của mình và đạt được những thành công nhất định về mặt nghệ thuật.
3.3 Sử dụng thành công yếu tố ngôn ngữ
Nếu
như ngôn ngữ trong tạp văn của Lỗ Tấn rất giàu tính lý luận, thì ngôn ngữ trong
hầu hết truyện ngắn của ông lại hết sức tự nhiên. Tác giả tự nhiên dẫn người đọc
người nghe đi vào thế giới câu chuyện mà nhà văn đang kể, về những nhân vật mà
nhà văn đang quan tâm. Lễ cầu phúc và thím Tường Lâm cũng nằm trong số đó.
Bằng
những câu từ nhẹ nhàng, Lỗ Tấn đưa chúng ta đến Lỗ Trấn, quê hương của nhà văn
trong những ngày cuối năm với lễ cầu phúc đang diễn ra, để rồi từ đó các nhân vật
như vợ chồng Lỗ Tư, thím Tường Lâm, những người nông dân nơi đó hiện lên thật
chân thực. Các sự kiện cũng như các nhân vật cứ thế hiện lên như bản chất của
nó vẫn vậy. Thím Tường Lâm, một người chịu khó, lanh lẹn, một người phụ nữ giàu
ước mơ hạnh phúc nhưng lại bị xã hội phong kiến hủ bại chèn ép, xô đẩy trở
thành một người phụ nữ bị coi là đầy tội lỗi, phải sống trong nỗi đau về tinh
thần và nỗi khổ về vật chất. Lỗ Tư, một người được coi là có học thức nhất
nhưng cũng lại là người mê tín nhất. Những người nông dân tưởng như hiền
lành chất phác thì lại trở nên nanh nọc, sẵn sàng cười trên nỗi đau khổ của người
khác cũng như sẵn sàng mang nỗi đau khổ của người khác ra mà cười đùa. Từ việc
kể lại câu chuyện một cách tự nhiên như thế thì nhà văn cũng rất tự nhiên đưa
ra quan điểm của mình, đó là những câu văn giàu sự trải nghiệm và triết
lý: “…
Ngồi một mình cạnh ngọn đèn dầu lạc, ánh sáng vàng khè, tôi nghĩ đến thím Tường Lâm. Một đời người không nơi nương tựa, như một thứ đồ chơi cũ kỹ, chơi lâu ngày chán, người ta vứt vào đống rác, bấy lâu nay vẫn lăn lóc ở đấy làm cho những kẻ sống sung sướng phải ngạc nhiên sao thím ta lại cố bám vào cuộc đời mãi làm chi. Bây giờ Thần chết đã đưa thím ta đi rồi! Con người chết đi còn linh hồn nữa không, nào tôi có biết, nhưng trên đời này, cái người sống cầu bơ cầu bất ấy không còn nữa, thì kẻ ghét không muốn nhìn cũng không phải nhìn thấy nữa…”
Ngồi một mình cạnh ngọn đèn dầu lạc, ánh sáng vàng khè, tôi nghĩ đến thím Tường Lâm. Một đời người không nơi nương tựa, như một thứ đồ chơi cũ kỹ, chơi lâu ngày chán, người ta vứt vào đống rác, bấy lâu nay vẫn lăn lóc ở đấy làm cho những kẻ sống sung sướng phải ngạc nhiên sao thím ta lại cố bám vào cuộc đời mãi làm chi. Bây giờ Thần chết đã đưa thím ta đi rồi! Con người chết đi còn linh hồn nữa không, nào tôi có biết, nhưng trên đời này, cái người sống cầu bơ cầu bất ấy không còn nữa, thì kẻ ghét không muốn nhìn cũng không phải nhìn thấy nữa…”
Tuy nói ngôn ngữ trong truyện ngắn Lễ cầu phúc là rất
tự nhiên nhưng không phải là thiếu trau chuốt. Chính sự trau chuốt trong việc sử
dụng ngôn ngữ của nhà văn đã giúp cho câu chuyện thêm tự nhiên như vậy. Lỗ Tấn
cũng đã nói về việc sử dụng ngôn ngữ của mình như sau: “Khi tôi viết xong, nhất
thiết phải xem lại mấy lần, những chỗ thấy không xuôi miệng thì tìm cách thêm bớt
vài chữ, nhất định phải làm sao đọc xuôi miệng… Những chữ những câu tự mình đặt
ra chỉ có mình hiểu được hoặc thậm chí bản thân mình cũng không hiểu được thì
thường rất ít khi dùng” (Tôi viết tiểu thuyết như thế nào?). Điều đó lý giải tại
sao đọc truyện của Lỗ Tấn khá dễ hiểu và không bị nhàm chán. Trong tác phẩm của
ông không có câu thừa, chữ thừa, ngược lại nó rất cô đọng, hàm súc. Chính điều
đó đã góp phần làm nên sức sống cho các truyện ngắn của nhà văn.
Như vậy, khi nói đến ngôn ngữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn
nói chung và truyện ngắn Lễ cầu phúc nói riêng thì tính tự nhiên, cô
đọng, hàm súc,… là những đặc điểm nổi bật. Và qua đó cũng khẳng định tài năng bậc
thầy của Lỗ Tấn.
PHẦN KẾT LUẬN
Lỗ Tấn là đỉnh cao của văn học hiện đại Trung Quốc. Trong các
tác phẩm của mình, Lỗ Tấn đề cập đến rất nhiều vấn đề như cuộc sống của người
nông dân, cuộc sống của người phụ nữ, cuộc sống người trí thức và vấn đề cách mạng…
Tuy vậy, cuộc sống ở nông thôn, hình ảnh của người nông dân chất phác và cuộc sống
bần cùng của họ là đề tài chủ yếu trong truyện ngắn của Lỗ Tấn. Ngòi bút của Lỗ
Tấn đã lách sâu vào thế giới nội tâm, vào những sầu não thương tâm, những dằn vặt
đau đớn trong tâm hồn họ. Thông qua đó, Lỗ Tấn đã đặt ra vấn đề mới, mang tính
thời đại sâu sắc: vấn đề người phụ nữ, vấn đề cách mạng…
Một trong những yếu tố làm nên giá trị của các truyện ngắn của
Lỗ Tấn nói chung và truyện ngắn Lễ cầu phúc nói riêng chính là ở nghệ
thuật khắc họa nhân vật. Chính bởi tài năng bậc thầy về khắc họa nhân vật ấy mà
những trang truyện của Lỗ Tấn nói chung và đặc biệt là trong truyện ngắn Lễ
cầu phúc, thím Tường Lâm với một số phận bất hạnh, éo le, luôn bị xã hội vùi dập,
những người nông dân chất phác hồn hậu bỗng trở nên lạnh lùng, tàn nhẫn, những
người thuộc tầng lớp trên như vợ chồng Lỗ Tư với những định kiến nặng nề,… đã
trở thành nỗi ám ảnh ghê gớm trong lòng người đọc. Có thể nói, mỗi truyện ngắn
của Lỗ Tấn là một xã hội phong kiến Trung Quốc thu nhỏ; trong đó có những nhân
vật trở thành điển hình cho con người của thời đại ấy như AQ (điển hình cho người
nông dân), chị Tư Thiền, thím Tường Lâm (điển hình người phụ nữ phong kiến).
Chính vì lẽ đó mà Phadeep đã nhận định: “Lỗ Tấn là một danh thủ về truyện
ngắn. Ông giỏi biểu đạt ngắn gọn, rõ ràng một tư tưởng trong một số hình tượng,
biểu đạt một sự biến to lớn trong một đoạn ngắn, biểu đạt một điển hình trong một
nhân vật cá biệt…”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét