Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2018

Nghệ thuật khắc họa nhân vật trong truyện ngắn Thuốc - Lỗ Tấn

Nghệ thuật khắc họa nhân vật 
trong truyện ngắn Thuốc - Lỗ Tấn
PHẦN MỘT
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 Vấn đề tác giả
1.1.1. Cuộc  đời Lỗ Tấn
Lỗ Tấn tên thật là Chu Thụ Nhân, tự là Dự Tài, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881 tại phường Đông Xương, phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang trong một gia đình quan lại đã sa sút. Ông nội là Chu Phúc Thanh, đỗ tiến sĩ đời Thanh, có chân trong viện hàn lâm, sau là tri huyện, can án trường thi nên bị cách chức hạ. Cha của ông là Chu Phượng Nghi (tức Bá Nghi) đỗ tú tài nhưng không được ra làm quan, thường ốm đau, thích rượu chè, tính tình nóng nảy, tuy vậy ông vẫn chăm lo tới việc học hành của Lỗ Tấn. Ông bị bệnh và mất sớm. Mẹ của ông là Lỗ Thụy. Bà người thôn quê nhưng bà tự học có thể đọc sách được. Bà là người sớm có ảnh hưởng đến khả năng văn chương của Lỗ Tấn kể cho ông nghe nhiều truyện cổ dân gian. Lỗ Tấn là bút danh ông lấy từ họ mẹ.
Lỗ Tấn học vỡ lòng từ năm 6 tuổi. Năm 12 tuổi học trường Tam Vị tới năm 17 tuổi. Từ thuở bé, ông đã là người ham hiểu biết, thích đọc sách, ham mê truyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết và thích xem hát tuồng, xem tranh dân gian. Hàng năm mùa hè đến Lỗ Tấn thường theo mẹ về quê ngoại ở thôn An Kiều. Những dịp đó lỗ Tấn có điều kiện tiếp xúc với con em nông dân, hiểu được cuộc sống của họ. Vốn có ác cảm với lễ giáo phong kiến từ lúc bé qua sách vở, lớn lên mục kích cảnh đau khổ của nhân dân, nhìn rõ con đường suy vong của đất nước, Lỗ Tấn căm ghét, nuôi một tinh thần chống lại nó, ông quyết tâm đi “tìm con đường khác, đi xứ khác, tìm những con người khác”.
Năm 1898, ông đến Nam Kinh theo học ở Thủy sư học đường (trường đào tạo nhân viên hàng hải). Học ở đây một năm, ông chuyển qua trường Khoáng Lộ, học kĩ sư hầm mỏ. Trong thời gian này ông đã thu nhận được nhiều kiến thức khoa học tự nhiên và xã hội của phương Tây, tiếp thu tư tưởng duy tân, hiểu được tinh thần dân chủ, chịu hưởng khá sâu  sắc quan điểm tiến hóa của Đácuyn.
Tháng 3 năm 1902, Lỗ Tấn tốt nghiệp trường Khoáng Lộ, ông được cử  đi  du học Nhật Bản, tại đây ông tham gia Quang Phục hội, một tổ chức yêu nước của người Trung Quốc.
Sau hai năm học tiếng Nhật, năm 1904, ông chính thức vào học ngành Y ở trường Đại học Tiên Ðài. Ông học thuốc với hi vọng lấy nó để đưa Trung Quốc vào con đường tiến bộ, cường thịnh nhưng ông nhận ra rằng y học không phải là việc cần thiết trước mắt mà theo ông “điều chũng ta cần phải làm trước hết là biến đổi tinh thần họ, mà theo tôi hồi đón muốn biến đổi tinh thần họ tất nhiên không gì bằng văn nghệ. Thế là tôi định đề xướng phong trào văn nghệ” (Tựa viết lấy) vì thế năm 1906, ông thôi học và bắt đầu hoạt động văn nghệ bằng việc dịch và viết một số tiểu luận giới thiệu các tác phẩm văn học châu Âu như thơ Puskin, tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Jules Vernes.
Năm 1908, Lỗ Tấn Tham gia Quang phục hội, một tổ chức cách mạng chống lại triều đình Mãn Thanh.
Năm 1909, vì hoàn cảnh gia đình, Lỗ Tấn trở về Trung Quốc. Năm 1910, Lỗ Tấn trở về quê nhà và dạy ở trường trung học Thiệu Hưng và có làm hiệu trưởng trường sư phạm Thiệu Hưng một thời gian.
Năm 1911, Cách mạng Tân Hợi bùng nổ, ông tham gia cách mạng, sau đó được bổ nhiệm làm hiệu trưởng trường sư phạm Thiệu Hưng.
Năm 1912, chính phủ lâm thời Trung Quốc thành lập, Lỗ Tấn đến nhận chức kiểm sự tại bộ Giáo dục. Sau đo ông theo chính phủ dời tới Bắc Kinh.
Từ 1912 đến 1917, Lỗ Tấn dồn sức lực, tâm trí vào việc khảo cứu, hiệu đính, nghiên cứu sách cổ, kinh kệ Phật.
Năm 1917, cách mạng tháng mười Nga thành công mở ra con đường mới giải phóng cho nhân dân lao động. Nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến tầng lớp trí thức Trung Quốc trong đó có Lỗ Tấn.
Tháng 5 năm 1818, Lỗ Tấn cho ra đời  truyện ngắn: Nhật ký người điên. Lỗ tấn lao vào hoạt động sáng tác, tuyên truyền với tư thế chiến sĩ tiên phong trên mặt trận đó.
Từ 1920 đến 1925, Lỗ Tấn làm việc tại các trường Đại học Bắc Kinh, Cao đẳng Sư phạm Bắc Kinh và Đại học nữ Sư phạm Bắc Kinh. Trong thời gian này ông đã viết A.Q chính truyện (1921),
Từ năm 1926,chính phủ Đoàn Kì Thụy thẳng tay đàn áp cuộc đấu tranh chính trị của trường đại học nữ Sư phạm Bắc Kinh, ông viết báo vạch trần tội ác của chính phủ này, ca ngợi lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh kiên cường của thanh niên học sinh và bị chính phủ Đoàn Kỳ Thụy theo dõi buộc ông phải dời Bắc Kinh tới Hạ Môn (tỉnh Phúc Kiến) và làm việc tại trường Đại học Hạ Môn. Ðầu năm 1927, Lỗ Tấn đến Quảng Châu, làm trưởng phòng giáo vụ kiêm chủ nhiệm khoa Văn của trường Đại học Trung Sơn.
Tháng 10 năm 1927, ông rời Quảng Châu tới Thượng Hải. Ông đã nhận ra được  rằng “chỉ có giai cấp vô sản đang lên mới có tương lai”. Từ đây trở đi Lỗ Tấn đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản để sáng tác và hoạt động xã hội. Ông dồn sức lực vào hoạt động sáng tác văn học.
Năm 1928, ông tham gia Trung Quốc cách mạng hỗ tế hội, làm chủ biên Tạp chí Dòng nước xiết và Ngữ ty.
Đầu năm 1929, ông cùng một số thanh niên tiến bộ lập nên nhóm Triêu hoa và xuất bản Triêu hoa chu san nhằm giới thiệu văn học Nga Xô viết. Cũng lúc này Lỗ Tấn bắt tay vào dịch và giới thiệu có hệ thống lí luận văn nghệ mác xít.
Năm 1930, Lỗ Tấn cùng một sỗ nhà văn như Úc Đạt Phu, Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn… thành lập hội liên hiệp các nhà văn cánh  tả dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc.
Năm 1933, Lố Tấn đã tham gia vào rất nhiều hoạt động: trao thư phản kháng những hành động sát hại dã man của phát xít Hitle đối với công nhân, trí thức ở Đức, tổ chức hội nghị Viễn Đông, ra nhập nhiều tổ chức xã hội.
Trong 9 năm sống Ở  Thượng Hải, ông đã viết nhiều tạp văn, truyện ngắn và biên dịch một sỗ tác phẩm văn học thế giới trong đõ nhiều nhất là văn học Nga…Ông làm việc dồn dập không chút nghỉ ngơi. Bệnh lao ngày càng trầm trọng và ngày 19 tháng 10 năm 1936, Lỗ Tấn qua đời. 
1.1.2 Sự nghiệp văn học của Lỗ Tấn
Trong hành trình văn nghiệp của mình, Lỗ Tấn đã tạo ra một số lượng tác phẩm phong phú với nhiều thể loại: truyện ngắn, thơ cổ, thơ mới, kịch, khảo cứu, nghị luận, phê bình, dịch thuật, tạp văn… Trong đó, truyện ngắn được coi là thành công hơn cả.
Năm 1918, truyện ngắn đầu tay của Lỗ Tấn là Nhật ký người điên được in trên tờ Thanh niên mới số tháng 5 – 1918, truyện được lấy tên dựa theo truyện ngắn Nhật ký của một người điên của Gogol. Từ năm 1921 đến 1927 có thể nói là những năm đỉnh cao trong sự nghiệp văn học của Lỗ Tấn với sự ra đời của hai tập truyện ngắn nổi tiếng: Gào thét (1921 – 1924) gồm 14 truyện và Bàng hoàng (1924 – 1925) gồm 11 truyện. Trong đó có A.Q chính truyện – tác phẩm được biết đến rộng rãi nhất trong sự nghiệp văn học của Lỗ Tấn.
Nội dung bao trùm trong những truyện ngắn của Lỗ Tấn là cuộc sống của người nông dân, cuộc sống người phụ nữ, người phụ nữ và vấn đề cách mạng… Cương lĩnh sáng tác của ông là vạch trần cái xấu xa của xã hội lớp trên, phản ánh nỗi bất hạnh của xã hội lớp dưới.
Tạp văn chiếm một số lượng khá lớn trong di sản văn học Lỗ Tấn. Theo nhà nghiên cứu Trần Xuân Đề, Lỗ Tấn có 650 bài tạp văn được thu thập trong 16 tập, chia làm hai loại: Một loại thiên về nghị luận và một loại thiên về trữ tình, tự sự. Có thể kể đến một số tác phẩm như: Quan niệm của tôi về tiết liệt, Nôra đi rồi thì ra sao, Dạo bút dưới đèn, Kỷ niệm Lưu Hòa Trân, Hoa hồng không hoa… Nội dung chiếm lĩnh hầu hết những bài tạp văn này là quan điểm của nhà văn về xã hội Trung Quốc thông qua những vấn đề mà ông đề cập: như vấn đề người phụ nữ, vấn đề “người ăn thịt người”hay thái độ xót xa về tình cảnh của đất nước Trung Quốc thời phong kiến. Tính chiến đấu phản đế, phản phong thể rất rỗ trong những tác phẩm này, đồng thời Lỗ Tấn đã kế thừa tư tưởng vô sản như một phương tiện hữu hiệu để tăng tính chiến đấu cho các tác phẩm của mình.
Lỗ Tấn còn có tập thơ văn xuôi Cỏ dại giàu tính hiện đại, nói về cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống thế lực đen tối đang ám ảnh, thể hiện nỗi u uất và buồn đau, nỗi căm hờn và tinh thần chiến đấu.
Ngoài ra, Lỗ Tấn còn sáng tác kịch, viết nghiên cứu lý luận phê bình và dịch nhiều tác phẩm của văn học Nga sang tiếng Trung. Nhưng, truyện ngắn và tạp văn vẫn được coi là những thành công rực rỡ nhất trong sự nghiệp văn học của ông.
1.2 Vấn đề lý luận
1.2.1. Khái niệm nhân vật
Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm.
Nhân vật văn học có thể là con người có tên (như Tấm Cám, Thúy Vân, Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng…), có thể là những người không có tên (như thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia…) hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó (như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, như mình – ta trong ca dao…). Khái niệm con người này cũng cần được hiểu một cách rộng rãi trên 2 phương diện: số lượng: hầu hết các tác phẩm từ văn học dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung miêu tả số phận của con người. Về chất lượng: dù nhà văn miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật…nhưng lại gán cho nó những phẩm chất của con người.
Trong nhiều trường hợp, khái niệm nhân vật được sử dụng một cách ẩn dụ nhằm chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Chẳng hạn, người ta thường nói đến nhân dân như là một nhân vật trung tâm trong Chiến tranh và hòa bình của L. Tônxtôi, ca cao là nhân vật chính trong Ðất dữ của G. Amađô, chiếc quan tài là nhân vật trong tác phẩm Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan… Tô Hoài nhận xét về Chiếc quan tài: “Trong truyện ngắn Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan, nhân vật không phải là người mà là một chiếc quan tài. Nhưng chiếc quan tài ấy chẳng phải là vô tri mà là một sự thê thảm, một bản án tố cáo chế độ thảm khốc thời Pháp thuộc. Như vậy, chiếc quan tài cũng là một thứ nhân vật“. Tuy vậy, nhìn chung, nhân vật vẫn là hình tượng của con người trong tác phẩm văn học.
1.2.2 Kiểu loại nhân vật
* Nhân vật chức năng
Trong văn học cổ đại và trung cổ có loại nhân vật không có đời sống nội tâm, các phẩm chất đặc điểm và hoạt động của nó chỉ nhằm thực hiện một số chức năng nhất định, đóng một số vai trò nhất định.
Hạt nhân của các loại nhân vật chức năng là các vai trò mà chúng thực hiện trong truyện và trong việc phản ánh đời sống. Do đặc điểm ấy mà chúng dễ dàng trở thành cái tượng trưng trong đời sống tinh thần, và được hình thức hóa trong sáng tác
* Nhân vật “loại hình”
Là nhân vật thể hiện tập trung các phẩm chất xã hội, đạo đức của một loại người nhất định của một thời. Đó là nhan vật nhằm khái quát cái chung về loại của các tính cách và nhờ vậy gọi là điển hình. Arpagong của Molie là hiện thân cho thói keo kiệt. Nhân vật này không những mọi cử chỉ, chi tiết trong truyện đều bộc lộ rất rõ. Thói tham lam, keo kiệt với từng người trong gia đình, đối với người khác với con cái mình và hà tiện cả với chính mình. Thói tham lam, keo kiệt của Arpagong đã tới chỗ vô lương tâm, vô liêm sỉ. Lão chẳng bận tâm gì đến hạnh phúc của cô con gái đã đến tuổi lấy chồng, chỉ một mực lo mất của hôi môn….Thói keo kiệt coi đồng tiền là tất cả đã bóp chết tình cảm, hủy hoại nhân cách cũng là hình ảnh cụ thể, đậm nét của giai cấp tư sản Pháp thế kỉ XVIII. Thời kỳ tích lũy tư bản đã làm nảy nở những con người keo kiệt, bủn xỉn.
Hay hàng loạt những nhân vật loại hình thể hiện tính cách loại hình khác trong kiểu loại nhân vật của Molie như: Tacstuyph thể hiện tập trung cho thói phù phiếm, hiếu danh của gã tư sản muốn làm quý tộc.
Tactuyph thể hiện tập trung cho thói đạo đức giả, ông Giuocdanh cũng của Molie là hiện thân cho thói phù phiếm, hiếu danh của các gã tư sản muốn làm quý tộc. Hạt nhân của các loại nhân vật này là bao giờ cũng có một số phẩm chất loại biệt về mặt xã hội được nêu bật hơn hẳn các tính chất khác. Nhân vật điển hình loại này ít nhiều đều có tính chất lược đồ.
* Nhân vật tính cách
Nhân vật tính cách là một kiểu nhân vật phức tạp. Ở trên đã nói tính cách như là đối tượng chủ yếu của nhận thức văn học. Nhưng không phải mọi nhân vật văn học đều phản ánh được cấu trúc của tính cách. Do đó trong nghĩa hẹp, tính cách là một loại nhân vật được mô tả như một nhân cách, một cá nhân có cá tính nổi bật. Trong nhân vật, tính cách, cái quan trọng không chỉ là cái đặc điểm, thuộc tính xã hội này nọ mà người ta có thể liệt kê ra được. Tính cách còn thể hiện ở tương quan của các thuộc tính với nhau, tương quan giữa các thuộc tính với môi trường, tình huống. Nhân vật tính cách thường có những mâu thuẫn nội tại, những nghịch lí, những chuyển hóa, và chính vì vậy tính cách thường có một quá trình tự phát triển, và nhân vật không đồng nhất giản đơn vào chính nó.
* Nhân vật tư tưởng
Trong văn học có những nhân vật mà hạt nhân cấu trúc của nó không phải là cá tính, cũng không phải là các phẩm chất loại hình, mà là một tư tưởng một ý thức hệ.
Nhân vật tư tưởng trong văn học cổ và văn học lãng mạn thường mang tính chất tượng trưng, trong chỉ nghĩa hiện thực lại kết hợp mật thiết với yếu tố tính cách hoặc loại hình. Trong sáng tác, loại nhân vật này dễ rơi vào công thứ, minh họa, trở thành cái loa tư tưởng của tác giả.
Chẳng hạn trong thế giới nhân vật của Lỗ Tấn có 3 loại kiểu hình tượng nhân vật: hình tượng người nông dân, hình tượng người trí thức và hình tượng người phụ nữ, nhưng mỗi loại hình nhân vật không chỉ được tác giả miêu tả thuần túy đơn thuần.
Trong Nhật ký người điên Lỗ Tấn đa khái quát xã hội 4000 năm lịch sử của Trung Quốc là xa hội “người ăn thịt người”. Hình tượng người điên được xây dựng theo lối biểu tượng hai mặt. Xã hội phong kiến xem y là người điên thật, mắc bệnh “bách hại cuồng”. Nhưng trên thực tế quần chúng bị bóc lột thì xem người điên là người đại diện cho mình đứng lên vạch trần xã hội phong kiến và nói lên ước mơ tốt đẹp của mình.
Khi viết về nỗi khổ của nhân dân lao động Trung Quốc, Lỗ Tấn không chỉ quan sát bề ngoài, chỉ biểu hiện những đau đớn về xác thịt như đói khát, đánh đập, bị tra khảo mà ông đi sâu khai thacsoos phận của họ. Thím Tường Lân trong “Lễ cầu phúc” là một ví dụ. Xã hội đó đã chà đạp số phận của họ từ trong những ý nghĩ. Người ta nhẫn tâm lên án chị là người tái giá làm bại hoại phong tục, sợ rằng sau này chị chết đi, 2 ông chồng dưới âm ti sẽ tranh nhau. Thậm chí cái bệnh hoạn trong tâm hồn của chính những người áp bức bóc lột cũng được Lỗ Tấn miêu tả sâu sắc. Do thiếu giác ngộ mà cái khối quần chúng trong truyện ngắn Lỗ Tấn không thông cảm với chị, mà còn khinh bỉ chị.
Các loại nhân vật trên đây xuất hiện tuy không đồng đều trong lịch sử văn học, nhưng có thể tồn tại song song trong một nền văn học, thậm chí trong một tác phẩm. Cần ý thức hết sự đa dạng của cấu trúc nhân vật và các khả năng phản ánh hiện thực của chúng. Trong đánh giá, không nên đòi hỏi nhân vật kiểu này theo các yêu cầu kiểu kia để tránh sự giản đơn tầm thường. Chẳng hạn nhân vật Kiều vừa có nét của nhân vật tính cách lại vừa có nét nhân vật “mặt nạ”. Nhân vật AQ. Là nhân vật tư tưởng nhưng vẫn có nét của nhân vật loại hình và nhân vật tính cách. Trong các nhân vật của Tây du kí, Tôn Ngộ Không là nhân vật tính cách. Trong các nhân vật của Tây du kí, Tôn Ngộ Không là nhân vật tư tưởng nhưng Trư Bát Giới lại có yếu tố nhân vật loại hình, giống như nhân vật Hoàng trong truyện ngắn Đôi mắt. Nhiều nhân vật của Đoxtoiepxki, Huygo vừa là nhân vật tư tưởng lại vừa là nhân vật “mặt nạ”.
1.2.3 Loại hình nhân vật trong truyện ngắn của Lỗ Tấn
Tổng quan sáng tác của nhà văn cho thấy, Lỗ Tấn chú trọng vào việc khắc họa những loại nhân vật điển hình để phát ngôn cho tư tưởng nghệ thuật của mình. Thực hiện khảo sát các tác phẩm của Lỗ Tấn, chúng tôi nhận thấy, có 3 loại nhân vật chủ yếu được đề cập trong tác phẩm của ông:
* Nhân vật người nông dân
Hầu hết các nhân vật người nông dân trong truyện ngắn của Lỗ Tấn đều là những con người nhỏ nhoi, thấp hèn và còn mang nặng tư tưởng cổ hủ, liệt căn tính quốc dân.
Thím Tường Lâm trong Lễ cầu phúc là một phụ nữ nông thôn chăm chỉ làm ăn, thật thà, lương thiện. Thím làm việc cần mẫn và nhanh nhẹn, chỉ mong bằng sức lao động của mình có thể đổi lấy quyền sống tối thiểu thế mà không được. Cuối cùng Tường Lâm bị hất ra lề đường sống kiếp ăn mày và chết một cách bi thảm giữa lúc nhà nhà đương tưng bừng làm lễ cầu phúc.
A. Q trong A. Q chính truyện là một trong những nhân vật điển hình cho việc khắc họa nhân vật bị áp bức mang nặng căn bệnh tinh thần. Đây là một cố nông mà phủ trùm lên cả cuộc đời y là một con số không tròn trĩnh: không tên không tuổi, không thân thích họ hàng, không vợ không con, không một tấc đất cắm dùi… Cuộc đời AQ là một chuỗi tháng ngày cù bơ cù bất, nay làm thuê cho nhà này mai làm thuê cho nhà khác, quần quật làm lụng vẫn không tránh khỏi đói rét, lại còn bị bọn cường hào đe nẹt bằng roi vọt, bằng bạt tai và bòn rút đến tận manh áo rách. Nhưng AQ lại có thứ vũ khí lợi hại – phép thắng lợi tinh thần. Đó là sự thắng lợi một cách giả tạo do mình tưởng tượng ra, phú cho mình để tự an ủi mìn h, lừa dối kẻ khác mỗi khi gặp thất bại.   
* Nhân vật người trí thức  
Không chỉ quan tâm  đến những người nông dân nghèo nàn, đói rách về vật chất chất, u mua về tinh thần, Lỗ Tấn còn khắc họa nhân vật người trí thức như Khổng Ất Kỷ trong Khổng Ất Kỷ vốn là một trí thức sống trong quá trình xã hội phong kiến đang sụp đổ. Y giữ thói sĩ diện hão bằng cách cố mặc chiếc áo dài thâm bẩn thỉu, rách rưới như một bảo bối minh chứng địa vị xã hội của y, hễ mở miệng là tuôn ra hàng tràng chi hồ giả dã chứng tỏ mình là người có học. Đã thế y lại siêng ăn biếng làm, càng sống càng nghèo cuối cùng phải đi ăn cắp sách ở nhà ông cử Đinh và bị đánh què, chết một cách im hơi lặng tiếng, không ai hay biết, không ai thương xót. Y đã chết vì sự đầu của nền giáo dục phong kiến.
Cũng như Khổng ất Kỷ, Trần Sĩ Thành trong Luồng ánh sáng là một nho sinh bị nền giáo dục khoa cử phong kiến đầu độc. Y ôm mộng giàu sang nhờ thi đỗ: “Đỗ tú tài rồi lên tỉnh thi hương, cứ thế một mạch mà thăng quan tiến chức… Chẳng những kẻ giàu sang tìm trăm phương ngàn kế làm thân mà ai ai cũng phải kính sợ ông như thần như thánh… Ông sẽ xây một tòa nhà mới tinh, trước cửa sẽ treo cờ xí, hoành phi, câu đối… Muốn thanh cao thì làm quan tại kinh, bằng không thì xin ra ngoại nhiệm. Thế nhưng y thi mãi vẫn không đỗ tú tài. Trong kỳ thi ở huyện lần thứ 16, khi yết bảng, biết mình lại trượt, “cái mộng tương lai mà bình nhật sắp đặt đâu ra đấy… lúc này đổ nhào trong khoảnh khắc như một cái lâu đài bằng cát trước ngọn thủy triều, chỉ còn trơ lại từng mảnh vụn” làm cho y hết sức buồn chán. Trần Sĩ Thành tìm đến một hành động giải tỏa, là đi tìm kho của huyền thoại của tổ tiên nhà họ Trần mà y được nghe bà nội kể lúc y còn nhỏ. Kết cục, của không tìm thấy mà trần Sĩ Thành lại đi đến cái chết hết sức bi thảm ở hồ Vạn Lưu.
Không chỉ khắc họa những con người cùng khổ với những nét ngoại hình cũng như nội tâm nhân vật mà Lỗ Tấn còn thể hiện những phẩm chất cao quý  trong con người họ. Đó là những con người luôn muốn vươn lên để thoát ra khỏi hoàn cảnh. Không ít nhân vật đấu tranh quyết liệt để chống lại cái bất công trong xã hội.
Lỗ Tấn cũng phân tích tỉ mỉ bản chất của người trí thức với mục đích chỉ ra khiếm khuyết của họ, thức tỉnh họ, giúp họ kiếm tìm một con đường sống. Con đường đó là phải hòa mình vào với quần chúng nhân dân, hướng vào họ mà cải biến, khắc phục chủ nghĩa cá nhân ích kỷ. Điều này được ông thể hiện sâu sắc trong Mẫu chuyện nhỏ. Qua sự đối sánh giữa hai thái độ trước một việc nhỏ, Lỗ Tấn đã chỉ ra sự vị tha cao cả của anh phu xe và cái tôi vị kỷ của trí thức.
* Nhân vật người phụ nữ
Nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn thường là  những con người khổ đau, họ phải chịu nhiều tủi hờn về tinh thần nhưng họ là những người phụ nữ biết phản kháng, biết đấu tranh cho quyền lợi của mình nhưng sự phản kháng của họ gặp phải vô vàn những trở ngại.           
Lỗ Tấn không ngần ngại hào hứng xây dựng hình ảnh người phụ nữ  mới của Trung Quốc tương lai độc lập, tự tin, không lệ thuộc vào người khác, có quyền làm chủ vận mệnh của mình; “… không ngừng đấu tranh để giải phóng tư tưởng, giải phóng kinh tế, giải phóng xã hội cũng là tự giải phóng cho mình”.
Ông thường khắc họa nhân vật với bi kịch trong tâm hồn không dừng lại ở nỗi đau thể xác. Hình ảnh chị Tư Thiền trong Ngày mai và chị Tường Lâm trong Lễ cầu phúc đều là chân dung những người phụ nữ nông dân bất hạnh nhất trong văn học hiện đại Trung Quốc: chồng chết, ở vậy nuôi con, con chết, họ cô đơn ngay giữa đồng loại của mình vì không tìm được sự cảm thông. Lỗ Tấn muốn nhấn mạnh đến gánh nặng tinh thần do xã hội áp đặt mà chị vác trên vai lê suốt cả đời mình nhưng không nhận ra để quẳng xuống.
Cùng với hình ảnh người phụ nữ khổ đau phản kháng yếu ót là người phụ nữ có  tinh thần phản kháng quyết liệt họ dám đứng lên chống lại sự bất công, áp bức của lễ giáo phong kiến, sự đè nén vô nhân đạo, sự tôn vinh chế độ nam quyền như Tử Quân trong Tiếc thương những ngày đã mất, một trí thức mới tiến bộ mang tư tưởng thanh niên thời Ngũ tứ. 
Cuộc đời của những nhân vật phụ nữ trung tâm luôn đa đoan, không trọn vẹn, không một cuộc tình êm ả, đối với gia đình thì tan tác, chia lìa, không một kết thúc nguyên vẹn, tròn trịa, ngay ngắn. Dường như truyện của Lỗ Tấn viết về người phụ nữ được xây dựng trên nỗi ám ảnh về cái tàn lụi, tan rã.Tường Lâm chết rụi giữa tiếng pháo cầu phúc của những nhà giàu sang mà không gặt được một giọt nước mắt của người đời. Tử Quân chết thảm một cách cô đơn lặng lẽ đến không cùng trong “cái cõi người không có tình yêu”.
Nhân vật trong truyện ngắn của Lỗ Tấn là nhân vật điển hình hóa. Nhân vật của ông có sự thống nhất cao độ, hoàn mĩ giữa tính khái quát tập trung và tính cá thể sinh động. Mỗi nhân vật là một diện mạo độc đáo, khó có thể lẫn lộn nhưng bên cạnh cái riêng còn có tính chung, phổ quát cho mộtngười: người điên trong Nhật ký người điên, Ngọn đèn sáng mãi, Hạ Du trong Thuốc là hình tượng những kẻ phản nghịch và cách mạng. AQ trong AQ chính truyện, Nhuận Thổ trong Cố hương, Tường Lâm trong Lễ cầu phúc, Tư Thiền trong Ngày mai… là hình tượng người nông dân lao động bị áp bức về vật chất, bị lăng nhục về tinh thần… Điều đáng chú ý nữa là, khi xây dựng tính cách điển hình, Lỗ Tấn xem tính cách không phải là một hiện tượng “nhất thành bất biến” mà là một quá trình hình thành vận động quanh co, phức tạp. Đồng thời vớí Lỗ Tấn, việc phân tích tâm lí nhân vật không tách rời với việc phân tích cuộc sống xã hội nói chung. Ông đã miêu tả những diễn biến tâm lí do hoàn cảnh quyết định một cách rất chính xác.
Chúng ta có thể nhận biết điều này qua diễn biến tâm trạng của AQ,  chị Tư Thiền, thím Tường Lâm, Quyên Sinh… Việc miêu tả tâm lý trong mối quan hệ với hoàn cảnh xã hội tức là Lỗ Tấn đã xây dựng tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Lỗ Tấn là người có biệt tài phân tích tâm lí nhân vật. Ông đã đi sâu vào giải phẫu, miêu tả thế giới tâm hồn của những nhân vật đã được chính ông chọn lựa đưa vào tác phẩm. Dưới bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật của Lỗ Tấn, thế giới tâm lý con hiện lên là cả một tiểu vũ trụ đầy bí ẩn và phức tạp. Để thể hiện tâm lý nhân vật của Lỗ Tấn đã sử dụng rất nhiều biện pháp: tả tâm lý nhân vật qua ngoại hình, qua hành động, qua ngôn ngữ, qua lời miêu tả gián tiếp của nhân vật khác…, đặc biệt là qua độc thoại nội tâm, thủ pháp chủ yếu mà Lỗ Tấn đã sử dụng để miêu tả tâm trạng nhân vật.
Từ những định hướng lý thuyết như trên, chúng tôi sẽ triển khai nghệ thuật khắc họa nhân vật trong truyện ngắn Lễ cầu phúc theo mô hình loại.  
PHẦN HAI
HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LỄ CẦU PHÚC
2.1 Nghệ thuật khắc họa nhân vật người lao động
Ở phần này, chúng tôi chỉ chú trọng vào phân tích ngoại hình, tính cách và hành động của các nhân vật thông qua bút pháp tả thực của nhà văn.
Thứ nhất là hình tượng đám đông. Khi viết về nỗi khổ của người nông dân lao động lỗ Tấn không chỉ quan sát bề ngoài chỉ  biểu hiên  những đau đáu về xác thịt, như đói khát, bị đánh đập, bị tra khảo mà  ông đi sâu khai thác những sầu não thương tâm, những dằn vặt đau đớn trong tâm hồn của họ. Ông thừa hiểu những nỗi khốn khổ về tinh thần mà người nông dân phải chịu so với những đau đớn về xác thịt của họ đáng sợ hơn nhiều. Cái bệnh hoạn trong tâm hồn của chính những người bị áp bức bóc lột cũng được Lỗ Tấn miêu tả  khá sâu sắc. Do thiếu giác ngộ mà cái quần chúng trong truyện của Lỗ Tấn nói chung và trong Lễ cầu phúc nói riêng không thể thông cảm với những lỗi bất hạnh của nhau, thậm chí còn lấy đó làm trò cười. Trước nỗi khổ của thím Tường Lâm, họ cười nhạo và chế giễu như một thú vui - “Thế có tiếc cái đập đầu không cơ chứ!”. Có thể thấy, nhân vật đám đông trong truyện ngắn này phản ánh một cách rõ nét thực trạng bế tắc và tù túng của người nông dân thời kỳ phong kiến. Họ không có đường đi, không có một hệ tư tưởng chính thống nào soi đường chỉ lỗi. U Liễn, một con người mê tín  quỷ thần lấy sự trừng phạt nơi âm phủ ra dọa nạt thím, khuyên thím cúng vào đền Thổ Cốc một cái bậu cửa cho “trăm người dẫm, vạn người đạp” hòng giảm nhẹ tội. Việc khắc hoạ thành công nhân vật đám đông của Lỗ Tấn cho chúng ta thấy được cái nghịch cảnh của cả một xã hội Trung Quốc.
Thứ hai là người lao động thuộc tầng lớp dưới được tác giả điển hình hóa qua nhân vật Tường Lâm. Hầu hết các nhân vật trong truyện ngắn Lỗ Tấn đều là những con người nhỏ nhoi, thấp hèn và còn mang nặng tư tưởng cổ hủ, liệt căn tính quốc dân. Thím Tường Lâm là một phụ nữ nông thôn chăm chỉ làm ăn, thật thà, lương thiện. Thím làm việc cần mẫn và nhanh nhẹn, chỉ mong bằng sức lao động của mình có thể đổi lấy quyền sống tối thiểu thế mà không được. Nhưng nhân vật này khi bước những bước chân đầu tiên vào tác phẩm đã mang một dáng hình không bình thường. Đó là một dáng hình cụ thể, thể hiện cho những điều bất ổn dự báo trước về cuộc đời nghiệt ngã.
Trong tác phẩm, thím Tường Lâm xuất hiện với ngoại hình và dáng vẻ của một người đi bên lề cuộc sống, bị hất đẩy thành một người ăn mày khốn khổ với: “Mái tóc hoa râm năm năm trước đây bây giờ bạc trắng, trông không còn ra vẻ người trên dưới bốn mươi nữa; khuôn mặt hốc hác quá, nước da vàng xạm, cả đến cái vẻ u sầu xưa kia cũng mất hẳn, trông giống như là tạc bằng gỗ, họa chăng chỉ đôi tròng con mắt lâu lâu đưa đi đưa lại mới chứng tỏ thím là một con người đang sống mà thôi”. Ở đây có sự đổi thay, những gì trẻ trung của năm năm trước đây không còn nữa, con người ta sẽ già đi theo quy luật của cuộc sống nhưng già mà không sung sướng, già mà không được hưởng hạnh phúc đáng có của lẽ đời. Thím Tường Lâm già mà khổ. Đọc đoạn truyện ta chỉ thấy hiện lên một người phụ nữ ăn mày lôi thôi, lếch thếch, rách rưới, tả tơi, gầy guộc, xanh xao, nhem nhuốc. Tất cả để chứng tỏ sự cùng cực của thím Tường Lâm. Trong con người ấy còn mang một tư tưởng cổ hủ, nghi ngờ về sự tồn tại của linh hồn và cái chết, tin vào những tín ngưỡng giáo điều mà sau này, Lỗ Tấn trở thành người đi chữa bệnh bằng tinh thần trên các trang truyện của mình. Từ ngoại hình đó tạo nên tâm lý nhân vật, chính vì người ta khổ nên người ta mong có một thế lực nào cứu vớt, an ủi mình, nhất là cần có một chỗ dựa tinh thần để bấu víu khi cuộc đời đầy trơn nhám. Bị hất ra rìa cuộc sống, bị đọa đày cả về thể xác lẫn tinh thần, người đàn bà hai lần chồng ấy dường như không được đón nhận bởi sự cảm thông của người khác, cái đói rình rập rồi cướp đi sự sống thoi thóp của nhân vật là một điều tất yếu. Hình ảnh con người ấy từ khi xuất hiện đến khi kết thúc có sức ám ảnh ghê gớm đến phận người – những người có thân phận cầu bơ cầu bất tương tự như thím Tường Lâm.
Quay ngược thời gian, Lỗ Tấn đưa chúng ta quay trở về thời nhân vật khi còn trẻ, lúc 26, 27 tuổi khi mới vào nhà chú Tư làm đầy tớ gái. Ngày vào: “nước da xanh xao vàng vọt, nhưng hai gò má còn hồng hào. Thím mặc chiếc quần đen, áo kép màu chàm, khoác chiếc áo cánh chẽn màu nguyệt bạch, đầu chít khăn tang” . Nỗi buồn đau, đáng thương của một người có chồng vừa chết. Đó là một số phận hẩm hiu, bất hạnh để nói lên một tương lai bất ổn. Ngoại hình nhân vật còn được tác giả bổ sung: “chân tay vạm vỡ” – chi tiết này nói về một người phụ nữ khỏe mạnh không thua gì đàn ông. Đó là một người phụ nữ hiền lành, lẽ ra một người như vậy sẽ được hưởng hạnh phúc, nhưng số phận đi ngược lại những gì người phụ nữ đó có. Khỏe mạnh nhưng không thể nuôi sống mình bằng một nghề nghiệp ổn định mà phải đi ở, giúp việc cho nhà người. Khỏe mạnh nhưng không đủ sức để chống lại những thế lực khác (khi bước đi lấy chồng lần 2, có kháng cự nhưng rồi lại khuất phục). Cuộc đời của những nhân vật phụ nữ trung tâm luôn đa đoan, không trọn vẹn, không một cuộc tình êm ả, đối với gia đình thì tan tác, chia lìa, không một kết thúc nguyên vẹn, tròn trịa, ngay ngắn. Dường như truyện của Lỗ Tấn viết về người phụ nữ được xây dựng trên nỗi ám ảnh về cái tàn lụi, tan rã.
Chồng thứ hai chết, con trai bị chó sói tha đi. Nỗi đau mất con ám ảnh cả cuộc đời người đàn bà bất hạnh để khi quay trở lại nhà chú Tư lần thứ hai với hình hài: “mặc quần đen, áo kép màu chàm, ngoài khoác chiếc áo chẽn màu nguyệt bạch, trên đầu cũng chít khăn trắng, nước da cũng xanh xao, vàng vọt, có điều hai gò má thì không hồng hào như trước nữa. Thím ta cứ cúi mặt xuống đất, khóe mắt ươn ướt, và con mắt cũng không lanh lợi như trước”. Sự mệt mỏi, rệu rã đã vận vào số phận éo le của thím Tường Lâm. Vẫn là cách ăn mặc của lần đầu tiên khi bước đến nhà chú Tư, nhưng đôi mắt là nơi nói lên nhiều điều nhất. Khi cúng xong một cái bậc cửa vào miếu Thành Hoàng, thím trở về: “sắc mặt tươi tắn, con mắt cũng lanh lợi, vui vẻ hẳn lên”. Điều đó khắc họa tâm lý nhân vật lúc này là đang hồ hởi, thím Tường Lâm như tìm được niềm tin ảo để còn có lý do để sống. Cái tư tưởng cổ hủ tin vào thần linh, bị ám ảnh bởi những ảo ảnh không có thực, đó là niềm tin duy nhất mà thím Tường Lâm có thể tồn tại được. Nhân vật được khái quát cao độ qua việc phân tích ngoại hình. Qua đó ta thấy được nhân vật là một người đàn bà khốn khổ, mang sức điển hình cho hệ thống những người cùng cảnh ngộ trong tác phẩm của Lỗ Tấn. Nỗi đau về tinh thần luôn là cái cớ khiến cho thể xác của người ta chịu khổ. Tường Lâm chết để chấm dứt những tư tưởng cổ hủ, chấm dứt số phận cùng cực nhưng tác phẩm của Lỗ Tấn còn có biết bao nhiêu con người có ngoại hình như thế, cái ngoại hình có sức khái quát lên cả một đời người.
Cùng với nhân vật trung tâm của tác phẩm là thím Tường Lâm, hai nhật vật vợ chồng chú Tư cũng được Lỗ Tấn chú tâm khắc họa. Nếu như ở truyện ngắn này. Lỗ Tấn tập chung khá nhiều đến việc khắc họa nhân vật thím Tường Lâm thông qua ngoại hình với những nét khắc khổ, đáng thương thì với hai nhân vật: vợ chồng chú Tư. Dường như ngoại hình không được nhà văn chú ý lắm. Từ đầu đến cuối truyện hầu như không thấy xuất hiện một câu nào, từ nào miêu tả ngoại hình thím Tư mà chỉ thấy nhà văn miêu tả so lược về ngoại hình chú Tư. Sau bao năm xa quê, nhân vật Tôi trở về thấy chú Tư không khác xưa mấy, chỉ già hơn đôi chú nhưng vẫn chưa để xâu. Lỗ Tấn không tập chung khắc họa ngoại hình hai nhân vật này mà chủ yếu thông qua việc thể hiện tính qua các hành động, cử chỉ, suy nghĩ của nhân vật để khác họa nhân vật.
Thứ ba là người lao động thuộc tầng lớp trên qua hình ảnh vợ chồng Lỗ Tư. Lỗ Tấn khá dụng công trong việc miêu tả tỉ mỉ, chi tiết từng cử chỉ, lời nói, hành động cho đến cung cảnh sinh hoạt của chú Tư. Vốn là một viên giám sinh – có dòng dõi là con cháu quan lại. Sinh ra trong một gia đình như thế cho nên đầu óc chú Tư luôn mang nặng suy nghĩ cổ theo Tống Nho. Điều đó thể hiện qua việc miêu tả những sở thích, cung cách sinh hoạt của nhân vật chú Tư: là người theo Tống Nho nhưng hiểu biết không phải là nhiều. Chú Tư chỉ thích những cái cổ. Dường như tư tưởng Tống Nho ăn sâu vào tư tưởng chú Tư cho nên chú ghét những tư tưởng mới, cái mới vì thế chú lỗ mãng chửi lại Tân Đảng. Chú Tư luôn thích cổ vì vậy trong nhà chú có treo câu đối cổ nhưng có lẽ vì không am hiểu hay vì lẽ gì đó mà chỉ một vế được treo lên còn một vế rơi cuộn trên một ghế dài. Trên bàn là bộ Khang Hy tự điển chưa chắc đã trọn bộ cùng với một bộ cân tư lục, tạp chú và một bộ tứ thư thần. Điều đó đủ cho thấy nhà văn Lỗ Tấn đã quan sát tỉ mỉ từng chi tiết như  thế nào để thể hiện cái sở thích, cung cách bài trí theo lối cổ của gia đình chú Tư - Một trong số những đại  diện chịu ảnh hưởng của tư tưởng Tống Nho đã lỗi thời.
Mặc dầu là tư tưởng lỗ thời nhưng nó đã ăn sâu vào tư tưởng của chú Tư. Nó đã tạo nên tư tưởng định kiến về con người của nhân vật này. Và cũng chính những định kiến đấy góp phần làm nên tính cách nhân vật và nó được bộc lộ chủ yếu qua hành động và lời nói của nhân vật.
Chú Tư vốn là người “vẫn còn kiêng kỵ nhiều thứ lắm, gần lễ cầu phúc mà đem những chuyện chết chóc, ốm đau ra nói với Chú thật là tồi ư bất khả” và với định kiến những điều kiêng kị này được thể hiện qua những hành động, lời nói của chú Tư từ đầu đến cuối tác phẩm.
Ngay từ đầu khi thím Tường  Lâm xuất hiện muốn làm người ở gái cho gia đình chú – thím Tư thì chú Tư đã tỏ ra không thích với hành động, thái độ câu mày không thích mướn người góa bụa rồi khi thấy mẹ chồng thím Tường Lâm đến tìm thì chú Tư cũng tỏ thái độ bực dọc, chau mày nói: “Hỏng! Có lẽ của này nó trốn nhà” và khi bà mẹ chồng tỏ rõ thái độ ý muốn gọi con dâu về thì chú bằng lòng cho thím Tường Lâm về, chú Tư như thoát khỏi được gánh nặng và chú luôn nhắc đi nhắc lại cụm từ “khả ố”. Tới khi thím Tường Lâm trở lại nhưng lúc này thím không chỉ là người đàn bà góa bụa mà góa bụa đến hai lần rồi mất cả đứa con duy nhất càng khiến cho chú Tư thêm tỏ ra không thích. Ông vẫn giữ thái độ chau mày chiếu lệ của mình vì chẳng còn ai có thể làm việc tốt hơn thím nên đành nhận thím ở lại. Tuy vậy với định kiến cố hữu của mình về người phụ nữ góa bụa như thím Tường Lâm cùng với  việc coi trọng lễ tết cho nên chú Tư luôn không muốn thím Tường Lâm đụng tay vào việc cúng tế cho nên chú Tư nói với vợ: “… tuy những quân ấy có lẽ rất đáng thương nhưng họ đã làm bại hoại gia phong dùng họ đỡ đần công việc thì còn được, chứ việc cúng bái thì chớ để chúng mó tay vào nhất thiết cỗ bàn tự tay mình làm lấy là hơn, nếu không thì uế tạp. Ông bà ông vãi nào ăn” chỉ với câu nói này thôi cũng đủ cho thấy định kiến của chú Tư như thế nào về người phụ nữ như thím Tường Lâm. Chú Tư luôn coi người phụ nữ góa chồng, lại đi lấy chồng rồi chồng chết ấy là bại hoại gia phong, làm vế tạp. Có lẽ những định kiến ấy đã ăn quá sâu vào trong tiềm thức nhân vật chú Tư cũng như những nhân vật khác trong tác phẩm. Lỗ Tấn không khắc họa chú Tư với vẻ ngoại hình mà chủ yếu khắc họa tính cách nhân vật với hành động, lời nói thể hiện cái nhìn đầy định kiến về con người cùng với những định kiến ấy sự tàn nhẫn vô cùng của nhân vật của chú Tư được bộc lộ khi nghe tin thím  Tường Lâm chết không chỉ giữ thái độ bình thản mà chú Tư còn tỏ ra bực tức, cáu gắt vì thím chết vào đúng lễ cầu phúc.
Cùng với nhân vật chú Tư, nhân vật thím Tư cũng được khắc họa với những chi tiết thể hiện tính cách, con người của nhân vật. Lỗ Tấn khắc họa nhân vật thím Tư gần như “bản sao” của nhân vật chú Tư. Thím Tư cũng là con người chịu ảnh hưởng mạnh của định kiến xã hội cùng những tư tưởng truyền thống. Thím Tư không phải không có chút lòng thương với thím Tường Lâm mà thím cũng cảm thấy thương xót cho cảnh ngộ thím Tường Lâm: khi thím Tường Lâm kể lại chuyện của mình trong mấy năm qua khiến cho thím từ thái độ lưỡng lự chuyển sang mắt đỏ hoe rồi nhận thím Tường Lâm ở lại. Thím Tư cũng mến người: Thích cái cung cách đứng đắn, vạm vỡ tỏ vẻ biết phận, chịu khó của thím Tường Lâm cho nên khi người ở gái ấy đi rồi, thím Tư vẫn thường nhắc và mong thím Tường Lâm trở lại.
Nhưng trong con người của thím Tư không phải chỉ có lòng thương mà cũng đầy định kiến. Sau khi nghe chú Tư nói chớ để cho Thím mó tay vào việc cũng bái để khỏi uế tạp thì thím Tư cũng thể hiện ngay định kiến của mình bằng hành động, lời nói của mình. Trong mỗi dịp cúng tế thím Tư luôn tự làm lấy mọi việc không để thím Tường Lân đụng vào đồ để cúng. Thím Tư luôn hét: “Thím Tường Lâm để đấy! tôi làm lấy…” Cái hành động cùng lời nói ấy cho thấy rõ những suy nghĩ giống với chú Tư của chím Tư. Thím cũng sợ thím Tường Lâm động vào đồ cũng sẽ làm uế tạp việc cúng bái và định kiến ấy vẫn còn ngay cả khi Thím Tường Lâm đã cúng công đức cho chùa cái ngạch của để chuộc tội lỗi thím Tư vẫn không cho thím Tường Lâm động tay vào đồ lễ với việc thét lớn: “để đấy Thím Tường Lâm.” Và khi thấy thím Tường Lâm không còn nhanh nhẹn trở lại nữa thì Thím Tư đã nói ngay vào mặt thím Tường Lâm để cảnh báo coi trừng: “biết thế thì trước chả giữ lại cho xong”. Đến khi thấy thím không còn nhanh nhẹn không còn giúp ích được thì thím Tư cũng tàn nhẫn tính đến chuyện cho thím Tường Lâm trở về với mụ vệ.
Lỗ Tấn đã dụng công khắc họa hình tượng hai nhân vật chú Tư và thím Tư với đầy đủ những nét tính cách điển hình của họ cùng với cái định kiến nặng nề đã ăn sâu vao nếp nghĩ của con người qua bao năm tháng, qua bao thời gian không mất đi mà như nặng nề thêm. Qua việc khắc họa hai nhân vật này, nhà văn đã thể hiện được những con người điển hình với những định kiến xã hội nặng nề đối với phụ nữ. Nhân vật chú Tư, thím Tư là một phần của cái xã hội đầy định kiến bất công, con người tàn nhẫn vô cảm trước nỗi đau khổ bất hạnh và cái chết của đồng loại.
2.2 Nghệ thuật khắc họa hình tượng người phụ nữ
Hình tượng người phụ nữ là một hình tượng trung tâm trong tác phẩm này. Để làm rõ chủ hướng nghệ thuật của Lỗ Tấn trong việc đề xuất vấn đề người phụ nữ, chúng tôi sẽ đi sâu vào việc phân tích nội tâm nhân vật Tường Lâm.
Có thể nói, trong tác phẩm Lễ cầu phúc, nhân vật thím Tường Lâm hiện lên như một nhân vật trung tâm – chính diện, đóng vai trò phát ngôn cho chủ ý và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Mặt khác, Tường Lâm đại diện cho số phận người phụ nữ nông thôn Trung Quốc bất hạnh thời kỳ phong kiến sau Mãn Thanh. Khắc họa thành công nhân vật này, có thể nói, Lỗ Tấn đã sử dụng các thủ pháp về miêu tả ngoại hình, tính cách được bộc lộ qua tình huống và môi trường sống… song yếu tố được coi là mảnh ghép cuối cùng và quan trọng nhất trong việc hoàn thiện bức chân – dung – tinh thần về nhân vật thím Tường Lâm là nội tâm – chiều sâu tâm lý.
Xét dưới góc độ lý luận văn học, Tường Lâm thuộc dạng nhân vật chức năng, tức là mang trong mình vai trò phản ánh một phần của hiện thực đời sống. Mặt khác, Lỗ Tấn đã khắc họa nhân vật này có một chiều sâu tư tưởng nhất định, tạo ra một sự vận động khá phức tạp trong cả quá trình sống của nhân vật.
Tiếp xúc với tác phẩm Lễ cầu phúc trên bề mặt chữ nghĩa, chúng ta dễ dàng nhận thấy, nhà văn đã dành nhiều tâm huyết cho nhân vật nữ trung tâm của mình. Ở đây, chúng tôi sẽ bỏ qua những khái quát về ngoại hình, tính cách của nhân vật thím Tường Lâm để đi sâu vào những khía cạnh nội tâm diễn ra trong người phụ nữ này.
Qúa trình vận động nội tâm của nhân vật Tường Lâm diễn ra theo một chu trình nhất định qua lời kể chuyện của nhà văn. Điều đầu tiên dễ nhận thấy nhất trong nội tâm của nhân vật này là sự hoài nghi về cõi sống. Khi gặp nhân vật tôi về Lỗ Trấn vào những ngày cuối năm, người đàn bà đau khổ ấy đã hỏi tôi (người kể chuyện) về sự sống – cái chết “Con người ta khi chết đi rồi còn có linh hồn hay không?”. Đó là những câu nói cuối cùng của thím trước phút lâm chung, thím nghi hoặc có địa ngục hay không, có thật một người chết rồi còn có linh hồn hay không. Thím hoài nghi để rồi hy vọng. Hy vọng số phận của mình sẽ không chịu sự xếp đặt của xã hội nhân gian. Bao nhiêu những day dứt về đời người và thân phận cứ bám riết lấy thím Tường Lâm khiến thím không nguôi suy nghĩ về cái chết và những linh hồn. Tại sao lại như vậy? Lý giải điều này, chúng ta cần đi từ những sự việc xảy ra với thím Tường Lâm lúc đó.
Khi vào làm thuê cho ông bà Tư được chừng hơn một năm thì thím bị bắt về Vệ Gia Sơn để lấy một người ở Hạ Gia Úc. Thím Tường Lâm đã “một mực la ó, chửi bới, lúc về đến Hạ Gia Úc thì cổ đã khản đặc…”. Thím Tường Lâm đã chống cự, đã đập đầu vào bờ tường để chối từ sự tái giá một cách ép buộc ấy. Sự phản kháng ấy của thím Tường Lâm – thực chất là để đấu tranh với cái trống rỗng và nỗi cô đơn buồn tủi đang hiển hiện trong tâm trí mình. Thím đã đập đầu vào bờ tường như một hành động vô thức nhằm kết thúc cuộc đời còn hơn là phải chung sống với một người xa lạ. Trong nội cảm của thím lúc ấy, sự sống là mong manh lắm và vô nghĩa lắm rồi. Nhưng thím đã không chết, năm sau chị sinh con với người đàn ông ấy. Thế rồi những tai ương đổ dồn lên đầu thím. Chồng chết vì thương hàn, con trai chết vì chó sói ăn thịt. Và, đây lại là một chấn thương tinh thần không thể lành lặn trong lòng thím. Từ khi con trai bị chó sói ăn thịt, thím luôn sống trong nỗi ám ảnh về cái chết của đứa con. Thím lại trở thành một người bơ vơ, không người thân, không nhà cửa, thím lại tìm đến gia đình nhà chủ năm xưa với mong muốn có một chỗ dung thân và quên đi những ngày vừa qua.
Sự ám ảnh về cái chết của đứa con trai cho thấy những cào xé dằng dặc trong nội tâm của người đàn bà ấy. Thím đã kể câu chuyện về cái chết của đứa con với những người ở Lỗ Trấn mong tìm thấy một sự chia sẻ. Bắt đầu câu chuyện, bao giờ thím cũng nói: “Con thật là ngu dại…”, và kết thúc câu chuyện, bao giờ thím cũng nghẹn ngào thổn thức, nước mắt trào ra. Có thể thấy, thím đã sống trong những dằn vặt và mặc cảm về tội lỗi xung quanh cái chết của A Mao (con trai thím), bởi với người mẹ, còn gì đau khổ hơn khi mất đi đứa con mà mình sinh ra. Thím Tường Lâm kể câu chuyện ấy với nhiều người, thực chất để trải lòng mình, để những ý nghĩ ứ đọng bao nhiêu ngày tháng nay có cơ hội được bung xé và thoát xác. Thế rồi người ta cũng chán nghe câu chuyện của thím, và đáp lại thím bằng một sự miệt thị, khinh khi khiến “chị há hốc mồm, chưng hửng ngước mắt nhìn theo, rồi cũng đi nốt, tựa hồ chính mình cũng thấy mất thú rồi”.Trong tâm trạng mê muội, u đặc và có quá nhiều mặc cảm về tội lỗi, thím đã kể câu chuyện về sói ăn thịt con trai như một hành động để cứu chuộc sự thanh thản trong tâm hồn mình. Mỗi khi nhìn thấy một thằng bé thím lại nhớ đến con trai thím, như một nỗi xót xa – “Chị hình như cũng cảm thấy có cái gì đó vừa lạnh vừa nhọn, đã thế thì còn mở miệng mà làm gì. Chị chỉ nhìn họ một cái, chứ tịnh không một lời đáp lại”. Thím trở nên vô cảm với thái độ của những người xung quanh, bởi chị biết có giải thích cũng không được.
Nỗi ám ảnh về cái chết của đứa con bé bỏng được tác giả đặc tả trong không khí cuối năm. Trong khi mọi người chuẩn bị cho “lễ cầu phúc” thì thím luôn miệng lẩm bẩm “Ôi chao! Con thật là ngu dại…” Dường như có một cái gì đó ngây ngô đến xa xót cứ theo mãi thím hết năm này qua năm khác. Ai hỏi gì thím cũng ậm ừ cho xong, tâm trí thím chỉ nghĩ về câu chuyện vào mùa xuân ấy và hình ảnh của A Mao bị chó sói ăn hết ruột gan. Thế rồi chuyện gì đến cũng phải đến, gia đình nhà ông Tư đã quyết định không cho thím mó tay vào công việc cúng vái của nhà mình vì đã làm bại hoại gia phong. Vô hình chung, thím đã bị đẩy ra khỏi quỹ đạo sống của con người. Xã hội phong kiến với những hủ tục lạc hậu ấy đã gạt thím ra một cõi riêng, không có tình người, không có sự cảm thông. Khi nghe bà Tư thét lên “Chị Tường Lâm để đấy! Tôi lấy!” – Thím rút tay lại như bị bỏng, cảm giác sợ sệt và bối rối, cảm giác như bị đánh từ sau lưng. Để rồi, gây lên trong lòng thím một chấn thương tinh thần - “Và chị sinh ra rất nhút nhát, không những sợ đêm tối, sợ bóng đen, mà thấy người cũng sợ nữa: trông thấy chủ nhà của mình mà cũng lấm lét như chuột ngày, nếu không thì lại ngồi đực ra như bụt mọc vậy”.Thím đã không thể là mình nữa, không thể sống với cái bản thể của chính mình nữa. Sợ và ngại tiếp xúc với tất cả, chỉ muốn lẩn tránh để đối thoại với cái mênh mông dằng dặc của cuộc đời bất hạnh và khổ đau của mình.
Nhưng rồi cái chết vẫn cứ đến bởi nhiều lý do, thứ nhất chủ nhà vin vào lễ giáo để đày đọa tinh thần thím Tường Lâm, coi việc thím đi bước nữa là hành động xấu xa, bẩn thỉu làm bại hoại gia phong, vì vậy không cho thím động chân động tay vào những đồ cúng tế. Đến ngày giỗ tổ trong tiết đông chí, thím thản nhiên đi bày biện cốc chén. Không ngờ, chủ nhà nhìn thấy vội quát: “Để đấy chị Tường Lâm!”. Thím vội rụt tay lại như bị bỏng. Đây là đòn nặng nề cuối cùng giáng lên đầu thím, làm cho thím tê liệt không sao gượng dậy nổi. Nỗi lo sợ bị trừng phạt nơi cõi âm vẫn đeo bám dai dẳng hành hạ thím, biến thím từ người lao động nhanh nhẹn trở nên mụ mẫm, đờ đẫn như một khúc gỗ không hơn không kém. Thím Tường Lâm thực sự chết tinh thần trước khi cái chết thể xác tự đến. Thím bị tuyên án tử hình khi nghe nói chết đi sẽ bị chia làm hai cho mỗi người chồng một nửa. Sự băn khoăn“người chết có linh hồn hay không?” của người đàn bà này chính là nỗi sợ hãi, ray rứt đó. Thì ra không phải chỉ có đói khát, giá lạnh mà nguyên nhân gây ra cái chết còn là nỗi lo sợ bị trừng phạt, đọa đày. Tường Lâm đã bị bốn sợi dây: chính quyền, thần quyền, tộc quyền và nam quyền xiết cổ một cách êm ái mà chị không hề hay biết.  Tường Lâm chết rụi giữa tiếng pháo cầu phúc của những nhà giàu sang mà không gặt được một giọt nước mắt của người đời.
Tâm trạng thím Tường Lâm được tác giả đặc biệt nhấn mạnh qua sự thay đổi của ánh mắt. Theo thống kê sơ bộ của chúng tôi, đôi mắt của thím Tường Lâm được tác giả nhắc đến 13 lần với đầy đủ các trạng thái: lờ đờ, thâm quầng, sáng hẳn lên, ngấn lệ, tỉnh táo hơn nhiều… thể hiện những trạng huống khác nhau trong con người chị. Sự biểu hiện bằng ánh mắt từ lờ đờ bỗng sáng hẳn lên của thím khi đối thoại với nhân vật tôi cho thấy trong thím nhen nhóm lên một niềm hi vọng về sự sống; ánh mắt lờ đờ biểu hiện một tâm thế mệt mỏi, chán chường bởi sự vô cảm của những người xung quanh… Lỗ Tấn đã sử dụng motip đôi mắt để làm rõ sự vận động của nội tâm trong con người thím Tường Lâm nhưng chủ yếu là nói lên nỗi đau đớn, sự hoài nghi, sự bế tắc và thất vọng của thím về đời sống của chính Tường Lâm. Đôi mắt tinh tường lanh lợi thay bằng đôi mắt đờ đẫn, lờ mờ, mệt mỏi, ướt mềm. Đôi mắt không còn mang linh hồn của con người nữa, nó mang thông điệp của thần chết nhiều hơn. Nếu như chỉ nhìn vào đôi mắt đưa đi đưa lại mới biết được sự sống đang tồn tại trong con người khổ sở ấy thì tôi lại thấy chính điều đó khiến cho sự chết tới gần hơn với kiếp người nhỏ bé này. 
Đôi mắt cứ đăm đăm nhìn thẳng, khóc nhiều hơn là cười. Đôi mắt trĩu nặng, buồn đau, ảm đạm níu với sự sẻ chia trong câu chuyện mất con với nỗi khao khát được sự an ủi, động viên nhưng người ta lại dửng dưng, biến câu chuyện của Tường Lâm thành trò cười. Nỗi cô đơn, bơ vơ được đẩy đến tận cùng. Khi con người ta không có ai bên cạnh cũng là lúc người ta hết niềm tin vào cuộc đời, hết niềm tin vào cuộc sống. Điều đó thúc đẩy thím Tường Lâm tìm tới thần linh để lương tựa. Khi cúng xong một cái bậc cửa vào miếu Thành Hoàng, thím trở về: “sắc mặt tươi tắn, con mắt cũng lanh lợi, vui vẻ hẳn lên”.  Điều đó khắc họa tâm lý nhân vật lúc này là đang hồ hởi, thím Tường Lâm như tìm được niềm tin ảo để còn có lý do để sống. Cái tư tưởng cổ hủ tin vào thần linh, bị ám ảnh bởi những ảo ảnh không có thực, đó là niềm tin duy nhất mà thím Tường Lâm có thể tồn tại được. Đôi mắt thím Tường Lâm đã trở thành một chi tiết nghệ thuật mang tính ám ảnh.
Qua việc khắc họa thành công nhân vật thím Tường Lâm, Lỗ Tấn đã đến thành công của việc xây dựng nhân vật theo tinh thần của văn học hiện đại Trung Quốc. Nhân vật này của ông có nguyên mẫu từ đời sống và đã đi vào đời sống như một hình tượng văn học mang tính điển hình, đại diện cho một lớp người trong xã hội.
* Đồng thời, từ việc điển hình hóa thành công nhân vật thím Tường Lâm, Lỗ Tấn đã đặt ra vấn đề người phụ nữ
Trong xã hội phong kiến lâu đời như ở Trung Quốc, dưới ách nặng của bốn tầng áp bức: chính quyền, tộc quyền, phụ quyền, người phụ nữ trở thành: “con dê tế thần” thảm hại cho chế độ phong kiến.
Có thể thấy hai loại phụ nữ được Lỗ Tấn thể hiện trong tác phẩm của mình: phụ nữ nông thôn (Lễ cầu phúc, Li hôn), phụ nữ thành thị (Tiếc thương những ngày đã mất, Một  gia đình hạnh phúc,…)
Những hành đó đựoc xây dựng khác nhau, nhưng cuối cùng những người phụ này đều có chung một số phận bi thảm, đều trở thành vật bị hi sinh cho xã hội.
Số phận thím Tường Lâm (Lễ cầu phúc) là số phận điển hình cho người phụ nữ nông thôn bị áp bức bóc lột.
– Chế độ phong kiến tàn ác giết chết thím:
Là người phụ nữ goá chồng, thím Tường Lâm trốn khỏi gia đình nhà chồng tàn nhẫn để đi ở. Thím những mong đem sức lao động của mình để đổi lấy một cuộc sống tối thiểu. Điều mong ước ấy nào có gì cao xa, ảo tưởng: “Ngày tháng trôi qua rất nhanh, công việc thím không hề bễ trễ, ănthế nào cũng xong, làm không tiếc sức. Mọi nguời đều nói nhà cụ Tứ thuê được người ỏ giá siêng năng. Thím thấy thỏa mãn, khoé miệng đã thấy nụ cười, mặt cũng béo trắng ra”
Nhưng cái mong muốn nhỏ nhoi, tội nghiệp đó cũng bị phá vỡ. Như một con vật, thím lại bị bà mẹ chồng đem gả bán cho một anh chang trên núi. Rồi người chồng thứ hai lại chết, con bị chó sói anh thịt, anh chồng đuổi chị ra khỏi nhà để cướp đất đai. Thím đã bị những đòn nặng phũ phàng: “gò má hết sắc máu, tay chân không còn được nhanh nhẹn như ngày xưa”
– Lễ giáo phong kiến giết chết thím:
Thím Tường Lâm lấy hai đời chồng. Theo lễ giáo phong kiến như vậy thím là kẻ tội phạm.Thím trở thành con vật dơ bẩn làm  “bại hoại gia phong”. Người ta không thuê thím làm, không cho thím đụng tay vào đồ lễ…Điều đó đã dằn vặt thím, khiến cho thím vô cùng đau khổ. Nghe U Liễn, thím đem một năm tiền công để chuộc tội “tái giá”. Nhưng thím vẫn không được lễ giáo phong kiến công nhận, bà Tư vẫn không cho thím chuẩn bị đồ tế lễ. như vậy thím bị tuyên án tử hình về tinh thần.
Thế rồi thím bị quẳng ra lề đường và chết dập chết vùi trong đông tuyết giữa ngày lễ cầu phúc trong khi mọi người đang sung sướng. Thím cựa quậy suốt cuộc đời mà không giành được gái trị về con người, mà ngay đến cả cuộc sống cũng không đáng giá còn bị chế độ phong kiến lạnh lùng độc ác tước đoạt.
Số phận người phụ  nữ thnàh thị cũng chẳng ra gì. Những nhân vật như Tử Quân một phụ nữ bắt đầu có ý thức giác ngộ cách mạng, cô yêu Quyên Sinh và kiên quyết dũng cảm đấu tranh cho tự do hôn nhân của mình. Nhưng hiện thực cuộc sống nặng nề và tàn nhẫn đã bắt Tử Quyên phải chịu đựng những thách thức đau đớn.
Đề tài người phụ nữ xuất hiện khá nhiều trong sáng tác của Lỗ Tấn. Họ là những người có tinh thần phản kháng, tiềm tàng một khả năng cách mạng. có thể nói, chống phong kiến thì không ai quyết liệt bằng phụ nữ. là lớp người bị đè nén nhiều nhất, bị dập vùi một cách tàn nhẫn nhất, tất nhiên họ phải là người có khát vọng giải phóng cao nhất.
Từ bao đời nay, người phụ nữ bị khinh rẻ, bị chà đạp và trở thành chuyện bình thường cho nên không phải nhà văn nào cũng có đựoc cách nhìn tiến bộ về khả năng cách mạng của họ.
Lỗ Tấn hơn hẳn các tác giả của Kinh Thi hay Tây sương kí, hơn hẳn những người cầm bút đương thời là ở chỗ đó. Ở điểm này cách đánh giá của Lỗ Tấn rất gần với chúng ta: Phụ nữ là người đau khổ nhất, bị áp bức nhiều nhất, do đó dễ nhạy cảm với cách mạng. Phụ nữ là lực lượng to lớn trong nhân dân, không có phụ nữ tham gia thì không có một cuộc vận động cách mạng nào có thể thành công” (Lê Duẩn – Vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn mới).
Chỉ khá một điều: Lỗ Tấn không trực tiếp phát biểu bằng lý luận mà bằng hình tượng văn học.
Qua một số sáng tác viết về người phụ nữ, bằng cách này hay cách khác, Lỗ Tấn đã nói rõ quan điểm về vấn đề giải phóng phụ nữ. Những kết cục bi thmả nói lên điều gì? Phải nói ngay rằng: Lỗ Tấn là một nhà cách mạng, ông không bao giờ bênh vực cho cái cũ. Còn cái kết cục bi thảm là một sự thật mà nhà văn muốn qua đó gián tiếp chỉ ra con đường giải phóng phụ nữ. mục tiêu đấu tranh của Tử Quyên là đúng, hành động của thím Tuờng Lâm cũng vậy, chỉ tiếc một điều đó chỉ là sự bột phát mà không có sự đồng thuận của xã hội.. các chị đã quá lẻ loi. Vì vậy mà các chị thất bại.
Lỗ Tấn là một nhà văn có cái nhìn tiến bộ về vấn đề người phụ nữ. hình ảnh người phụ nữ hiện lên trong tác phẩm của ôngđầy bi kịch nhưng cũng tiềm tàng đầy sức mạnh phản kháng. Khác với những nhà văn cùng thời, Lỗ Tấn trân trọng họ, lên tiếng đòi quyền bình đẳng, tự do cho họ, vạch cho họ con đuờng giải phóng,…
2.3 Nghệ thuật khắc họa nhân vật người trí thức - nhân vật tôi
Trong truyện ngắn của Lỗ Tấn có một nhân vật thường đóng vai trò kể lại những điều mắt thấy tai nghe trong cuộc sống; đó là nhân vật xưng tôi – tác giả. Ở truyện ngắn Lễ cầu phúc cũng vậy. Nhân vật xưng tôi hiện lên không bằng hình dáng, ngoại hình, hành động, xung đột, sự kiện mà chủ yếu qua việc diễn đạt tâm lý, nội tâm, ý nghĩ. Đó là trăn trở, suy tư, suy nghĩ của tác giả ẩn lớp dưới câu chuyện.
Nhân vật xưng tôi được giới thiệu là một người quen của nhà ông Tư, về thăm quê. Và theo lời thím Tường Lâm, nhân vật tôi là người “có học, có chữ nghĩa, lại đi đây đi đó, hiểu biết nhiều”. Cảnh và người nơi thị trấn Lỗ – Trấn gợi cho nhân vật tôi cảm nhận sâu sắc. Quang cảnh thôn xóm và bầu trời cho thấy không khí sắp sửa đón năm mới. “Thỉnh thoảng pháo tiễn đưa ông Táo về trời lóe sáng, rồi nổ vang giữa những đám mây đen nặng nề, xám ngắt”, “hoa tuyết rơi xuống lớp thảm tuyết phủ dày mặt đất, nghe rào rào, khiến cho người ta càng thêm hiu quạnh”…..Và cảnh bận rộn sắm sửa  “Lễ cầu phúc”của người dân thị trấn. “Họ giết gà, giết ngỗng, mua thịt lợn, làm rất tinh khiết. Đàn bà, con gái,có kẻ còn đeo vòng bạc kéo lối xoắn thừng, phải dầm tay luôn trong nước đến đỏ ửng lên…”.Thiên nhiên giá rét, lạnh lẽo đối lập ánh sáng ấm cúng trong ngôi nhà, khung cảnh nhộn nhịp sắm sửa của mọi người như làm nổi bật lên số phận nhỏ nhoi đáng thương của thím Tường Lâm, chết đói chết rét,một mình ngoài đường. Hình tượng nhân vật tôi xuất hiện chủ yếu ở đầu – người giới thiệu, mở đầu cho câu chuyện và ở cuối câu chuyện – người kết thúc tác phẩm. Đó là nhân vật do Lỗ Tấn hóa thân vào. Vì thế đó là nhân vật thể hiện cho suy nghĩ, tư tưởng của tác giả. Nhân vật tôi là người duy nhất còn quan tâm thím Tường Lâm – một mụ ăn mày. Mặc dù thấy thím “cứ tráo mắt nhìn biết ngay là thím có ý đón gặp tôi” vậy mà nhân vật tôi không bỏ đi. Khi nghe câu hỏi của thím nhân vật tôi ấp úng, luống cuống, đắn đo suy nghĩ, ngần ngừ rồi mới trả lời: “Tôi nghĩ… có thể có đấy”, “ Địa ngục à!Lý ra thì phải có đấy, Mà cũng vị tất. Nhưng ai hơi đâu để tâm đến chúng những chuyện ấy làm gì!”.Nhân vật tôi đã phải “ngần ngừ”, đắn đo, “luống cuống”, suy tính câu trả lời như một học sinh “thi một bài chưa kịp chuẩn bị, mà ông giáo thì cứ đứng ngay bên cạnh mình”.Nếu là một người không coi trọng thím Tường Lâm thì họ sẽ không làm như vậy, có thể họ sẽ bỏ đi hay trả lời mà không cần suy nghĩ gì cả. Có lẽ ở thị trấn Lỗ – Trấn này, không ai ngoài nhân vật tôi còn coi trọng thím Tường Lâm đến như vậy. Người ta quá chán những câu chuyện của thím, nhạo báng, xua đuổi thím; chỉ có nhân vật tôi vẫn trăn trở, lo lắng cho thím. “Mình trả lời với thím như thế chẳng biết có thể nguy hiểm gì cho thím không. Chắc vì trong nhà ai cũng lam lễ cầu phúc cả, thím cảm thấy mình thím cô đơn, trơ trọi, nên mới hỏi như thế. Nhưng biết đâu câu hỏi đó lại không hàm một ý gì khác? Hay là thím cảm thấy trước có điều gì sẽ xẩy ra chăng? Giả thử, vì một nguyên do gì khác mà hỏi, rồi nhân câu trả lời của mình, mà có xảy ra thế nào thì thật mình phải chịu trách nhiệm một phần về những lời nói của mình…”  Thậm chí lúc thím chết rồi người ta còn chửi thím chết không đúng lúc. “Không nhè lúc nào, lại nhè ngay vào giữa lúc này! Rõ là đồ khốn kiếp!”. Ai cũng lo cho “lễ cầu phúc”, niềm vui riêng của bản thân mà quên đi ngoài kia có con người chết rét trong giá lạnh, trong sự cô đơn, trong sự bạc bẽo của tình người.
Nhân vật “tôi” biểu hiện là người hay suy nghĩ, “chẻ sợi tóc làm tư”, có nội tâm, suy nghĩ khá phức tạp nhất là sau hôm gặp thím Tường Lâm. Khi nghe thím Tường Lâm – mụ già ăn xin hỏi “Con người ta chết rồi thì có linh hồn nữa không?” thì  “ tôi có cảm giác như gai đâm vào lưng, luống cuống hơn là khi còn đi học, bất thình lình phải thi một bài chưa kịp chuẩn bị, mà ông giáo thì cứ đứng ngay bên cạnh”, ấp úng, ngần ngừ. Sau đó khi trở về nhà nhân vật tôi vừa băn khoăn day dứt vừa khó chịu. “Mình trả lời với thím như thế chẳng biết có thể nguy hiểm gì cho thím không. Chắc vì trong nhà ai cũng làm lễ cầu phúc cả, thím cảm thấy mình thím cô đơn, trơ trọi, nên mới hỏi như thế. Nhưng biết đâu câu hỏi đó lại không hàm một ý gì khác? Hay là thím cảm thấy trước có điều gì sẽ xẩy ra chăng?…” nhưng rồi “lại cười mình khéo vớ vẩn”…. “ tuy vậy, tôi vẫn không yên tâm. Qua một đêm mà vẫn thỉnh thoảng cứ sực nhớ đến, và hình như cảm thấy trước có điều gì không lành sắp xảy ra”.. Câu hỏi của thím luôn hiển hiện day dứt nhân vật tôi. Dù có tự an ủi mình rằng câu trả lời như vậy sẽ không có vấn đề gì nhưng “tôi vẫn không yên tâm”. Quả thực, vài ngày sau thím Tường Lâm chết. Nhân vật tôi từ chỗ khó chịu, ấp úng, ngập ngừng đối câu hỏi của thím Tường Lâm đến băn khoăn, lo sợ, lo lắng không biết có chuyện gì xảy ra với thím không, bàng hoàng sửng sốt với tin thím đã chết và cuối cùng là thương cảm xót xa với cuộc đời người phụ nữ bất hạnh. Và mặc dù câu nói của chú Tư “không nhè lúc nào, lại nhè ngay vào giữa lúc này! Rõ là đồ khốn kiếp” nói cái chết thím Tường Lâm nhưng nhân vật tôi nghĩ “câu nói trên kia là ông ta ám chỉ tôi, không nhè lúc nào mà lại nhè vào giữa lúc này đến quấy rầy ông ta”.
Lỗ Tấn đã hóa thân vào nhân vật tôi để bày tỏ tình cảm của mình cảm thương xót xa cho số phận thím Tường Lâm nói riêng và những người phụ nữ Trung Quốc xưa nói chung. Đó chính là tinh thần nhân đạo sắc của Lỗ Tấn hóa thân vào nhân vật tôi. “Một đời người không nơi nương tựa, như một thứ đồ chơi cũ kỹ, chơi lâu ngày chán, người ta vứt vào đống rác, bấy lâu nay vẫn lăn lóc ở đấy làm cho những kẻ sống sung sướng phải ngạc nhiên sao thím ta lại cố bám vào cuộc đời mãi làm chi”. Cuộc đời của thím được kể lại qua những điều “tai tôi đã nghe mắt tôi đã thấy”. Câu chuyện dường như không hề có con mắt chủ quan của nhân vật tôi bởi nó được kể lại bởi một nhân vật nằm ngoài truyện nhưng ẩn trong đó là sự thương cảm, xót thương cho cuộc đời của người phụ nữ và phê phán lễ giáo phong kiến, sự độc ác lạnh lùng của con người “... con người như thì cũng đáng thương thật, nhưng vì đã làm bại hoại phong hóa nên chỉ dùng làm việc thường đỡ đần tay chân thôi, chứ khi tết nhất, cúng cơm, chớ để cho nó mó tay vào. Cỗ bàn nhất thiết phải tự tay mình làm lấy, không thì dơ dáy bẩn thỉu, ông bà ông vải không hưởng đâu”.
Kết thúc tác phẩm, qua cảm nhận của nhân vật tôi, tôi cảm thấy con người nhác nhớn ra mà cũng rất thoải mái. Bao nhiêu nỗi lo ngại từ sáng sớm đến chiều tối hôm qua bây giờ tiêu tan đi trong bầu không khí cầu phúc. “Tôi có cảm tưởng như nhìn thấy trời đất quỷ thần sau khi về hâm hưởng rượu thịt, hương hoa, đều say mềm, bây giờ đây đang bước đi chếnh choáng giữa không trung và đang chuẩn bị đem lại cho tất cả những người ở Lỗ Trấn một nguồn hạnh phúc vô tận”. Đó là niềm tin của tác giả về cuộc sống mới, năm mới, hy vọng về đổi thay của đất nước Trung Quốc.
Tác giả mượn nhân vật tôi để nói lên tiếng nói riêng của nhà văn. Nó vừa là tiếng nói tố cáo xã hội lạnh lùng, lạnh lùng đến độc ác vừa là tình cảm thương xót cho số phận con người bị chà đạp áp bức trong xã hội cũ đặc biệt là người phụ nữ. Nhân vật tôi trong các tác phẩm Lỗ Tấn là người chứng kiến, đầu dây tự thuật của sự việc giúp cho việc khắc họa tính cách của nhân vật hoàn chỉnh hơn, là người kể lại câu chuyện, người mang điểm nhìn của nhà văn. Chính việc tác giả thông qua nhân vật tôi để kể điều mắt thấy tai nghe trong cuộc sống làm cho truyện  sâu sắc đem lại một niềm tin và sự lôi cuốn người đọc. Nó góp phần làm tác phẩm của Lỗ Tấn giống như một bài thơ văn xuôi đầy chất trữ tình và tăng sức truyền cảm lớn cho người đọc. Lỗ Tấn đã thành công trong việc khắc họa hình tượng nhân vật tôi, đó chính là thủ pháp nghệ thuật của nhà văn góp phần làm nên giá trị vững bền cho những tác phẩm. Như giáo sư Đặng Thai Mai đã nói: “Hình như Lỗ Tấn đã bấm bụng đè nén mình không cho cảm tình bộc lộ ra trong khi mô tả những nhân vật truỵ lạc, vùi dập dưới tiếng cười khắc bạc của cõi người. Ấy thế, nhưng đọc xong bộ sách, xếp trang cuối cùng lại và ta ngồi ngẩm nghĩ đến bộ mặt, đến số phận của một chú AQ, một thím Xang - lin (Tường Lâm), một thầy Khổng Ất Kỷ, nhìn thấy nỗi tủi hổ của bao nhiêu nhân vật và ở đằng sau họ cả một xã hội lạnh lùng khăm ác thì thế nào ta cũng phải rùng mình cau mày, nghiến răng với những sự thực quá thê thảm”. 
PHẦN BA
CÁC PHƯƠNG TIỆN NGHỆ THUẬT KHẮC HỌA NHÂN VẬT
3.1 Nghệ thuật khắc họa nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình
Vấn đề điển hình chiếm một vị trí quan trọng trong tính đặc thù của văn học nghệ thuật nói chung. Nói đến điển hình là nói đến cái tiêu biểu, cái chung có ý nghĩa khái quát cao. Nhưng cái chung đó lại phải được hài hòa cao độ, phải nhuần nhuyễn trong cái riêng cá tính sinh động,  độc đáo.
Bên cạnh AQ một điển hình bất hủ, đã vạch trần bản chất của tầng lớp cố nông lạc hậu, thì hình tượng thím Tường Lâm là điển hình người phụ nữ bị áp bức, bóc lột bởi lễ giáo phong kiến. Những hình tượng này nêu lên một vấn đề thời đại vô cùng sâu sắc.
Nói đến điển hình là nói đén cái tiêu biểu, cái chung nhất có ý nghĩa khái quát cao. Nhưng cái điển hình đó lại phải được hài hoà cao độ trong, phải nhuần nhuyễn trong một cái riêng với một cá tính sinh động sắc nét.
Về phương pháp sáng tạo điển hình. Lỗ Tấn sáng tạo bằng hai cách: “Một là chuyên dùng một người, hai là chuyên góp nhhặt ở nhiều hạng người lại đẻ làm thnàh một người, tôi xưa nay vẫn chọn cách thứ hai”. Việc xây dưng hình tượng nhân vật thím Tường Lâm cũng được tác giả lấy nguyên mẫu từ ngoài đời. Thím Tường Lâm là hình ảnh của một người thim của Lỗ Tấn. Chính vì vậy, khi viết tác phẩm này, kể về sự mất mát, nỗi đau của nhân vật tuy bằng thía độ lạnh nhưng chúng ta vẫn cảm nhận thấy cái tình ấm áp ẩn sâu trong  đó.
Tuy nhiên, Lỗ Tấn không kể nguyên si, không bê nhân vật đặt luôn vào trong tác phẩm mà không hề có sự “gia công”. Bởi lẽ, ông luôn tâm niệm: “Không chuyên dùng một người nào, thường thường miệng ở Chiết Giang, mặt ở Bắc kinh, áo quần ở Sơn Tây, đó là vai chắp vá.” Có lẽ nhân vật của Lỗ Tấn đa dạng, sinh động như vậy nên có rất nhiều người lầm tưởng là Lỗ Tấn viết động đến mình “Có nhiều người nói truyện này tôi chửi ai, truyện kia tôi chửi ai là hoàn toàn tầm bậy”.
Lấy mỗi người một nét Lỗ Tấn tạo ra một hình tượng điển hình thím Tường Lâm, trong hoàn cảnh điển hình xã hội phong kiến với những hủ tục lạc hậu bao vây lấy cuộc sống của con người. Nhà văn Nga Phadeep đã đưa ra nhận xét về cách xây dựng hình tượng nhân vật của Lỗ Tấn như sau: “Lỗ Tấn là danh thủ về truyện ngắn, ông giỏi biểu đạt một tư tưởng trong một vài hình tượng một cách ngắn gọn và rõ ràng chỉ một đoạn xen kẽ cũng có thể hiện được một sự kiện trọng đại, qua một nhân vật cá biệt nào cũng thể hiện được một điển hình”.
Như vậy, ý thức sáng tạo nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình của Lỗ Tấn là rất cao. Đó cũng là nhân tố quan trọng để nhà văn thành công trên con đường văn nghiệp.
3.2. Bút pháp trữ tình kết hợp tả thực
Lý thuyết tự sự từ trước đến nay luôn đề cao vai trò của bút pháp trong việc tạo nên thành công trên phương diện nghệ thuật của một tác phẩm. Các nhà nghiên cứu văn học đồng nhất cho rằng: Bút pháp là cách thức hành văn, dùng chữ, bố cục, cách sử dụng các phương tiện biểu hiện để tạo thành một hình thức nghệ thuật nào đó. Trong một tác phẩm văn học, nhà văn có thể sử dụng một bút pháp hay nhiều bút pháp. Trong truyện ngắn Lễ cầu phúc, chúng tôi xác định cho 2 bút pháp chủ yếu mà nhà văn đã sử dụng trong khi khắc họa nhân vật: Bút pháp trữ tình và bút pháp tả thực.
Lỗ Tấn đã sử dụng bút pháp tả thực trong việc miêu tả ngoại hình, tính cách và hành động của nhân vật. Nhà văn miêu tả sự thay đổi về ngoại hình của thím Tường Lâm cho thấy số phận bấp bênh, khắc khổ đã ám ảnh người phụ nữ này trong suốt cuộc đời. Mặt khác, từ sự miêu tả ngoại hình thím Tường Lâm là sự khái quát chung về hình ảnh người nông dân trong thời kỳ phong kiến Trung Quốc chịu sự áp chế cả về thể xác và tinh thần. Bằng bút pháp tả thực, nhà văn đã khai mở một vấn đề của xã hội Trung Quốc lúc ấy là thân phận thấp hèn, bé mọn của người nông dân trong thời kỳ đấu tranh chống chủ nghĩa quân phiệt. Họ bị áp bức, đè nén, bị đày đọa và không có cơ hội ngoi lên mà sống giữa cái xã hội bùng nhùng những sự bất công, oan trái ấy. Điều này cũng được thấy rõ trong khi Lỗ Tấn miêu tả nhân vật đám đông với những chi tiết xung quanh việc mà họ phản ứng với câu chuyện của thím Tường Lâm. Mặt khác, làm bật lên thái độ lạnh lùng và tàn nhẫn của con người trong xã hội. Phải chăng, trong xã hội phong kiến bảo thủ ấy, con người ta không thể làm gì khác ngoài sự miệt thị với kẻ khác bởi chính mình cũng đang bị miệt thị?
Để nói lên những định kiến bảo thủ, lạc hậu của chế độ phong kiến Trung Quốc, nhà văn đã tập trung ngòi bút của mình vào việc mô tả người nông dân thuộc tầng lớp trên: vợ chồng ông Tư. Vì ý nghĩ mù quáng và thủ cựu, họ đã không cho thím Tường Lâm tham gia vào công việc cúng vái nhà mình vì nghĩ thím đã làm bại hoại gia phong. Chủ ý của Lỗ Tấn khi lắp ghép chi tiết này vào trong tác phầm nhằm nói lên một tiếng nói thanh tẩy sự tồn tại thâm căn cố đế của chế độ phong kiến, và đặt ra vấn đề giải phóng con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Bên cạnh bút pháp tả thực là bút pháp trữ tình. Có thể nói, Lỗ Tấn đã sử dụng bút pháp này như một phương thức nghệ thuật đắc dụng nhằm tạo nên chất thơ cho truyện ngắn của mình, khiến truyện của ông mang cảm quan thơ ca thông qua những đoạn đặc tả nội tâm nhân vật. Lý thuyết văn học từ trước đến nay luôn khẳng định, bút pháp trữ tình như là một thủ pháp quan trọng tạo nên chất thơ lắng đọng lan tỏa trong những trang văn. Sử dụng bút pháp này, Lỗ Tấn đã hòa quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng nhân vật với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mỹ và tình cảm nhân văn.
Soi chiếu điều này vào việc miêu tả nội tâm nhân vật tôi, ta thấy sự xót thương và niềm cảm thông của nhân vật này với thím Tường Lâm, với những cảnh đời trớ trêu đang hàng ngày diễn ra trong cuộc sống. Cảm quan của nhân vật tôi chính là cảm quan của tác giả, người đọc nhận thấy một thái độ quan tâm trân trọng của ông trước hiện thực phũ phàng đang diễn ra: nhân quyền của con người đang bị xâm phạm. Nhưng nhà văn đã không miêu tả nó một cách trần trụi mà khéo léo lồng ghép vào đó những khung cảnh về thiên nhiên êm đềm, bảy tỏ cái nhìn thiện cảm và hy vọng về tương lai con người ở thị trấn. Nhân vật tôi thuộc dạng nhân vật trí thức cách mạng trong truyện ngắn của Lỗ Tấn, vì thế việc miêu tả nội tâm nhân vật này cần phải sử dụng những chi tiết mang tính nhân văn trong sự cảm thông với thời cuộc và con người.
Đặc biệt, bút pháp trữ tình được tác giả sử dụng triệt để trong việc miêu tả nội tâm nhân vật thím Tường Lâm. Tâm lý sợ sệt cái chết, nỗi ám ảnh về đời người và thân phận cũng như những trạng huống khác nhau diễn ra trong nội cảm người phụ nữ này cho thấy một thực tại: người phụ nữ như không tồn tại trong xã hội, không có chỗ đứng và không thể quyết định vận mệnh của mình. Từ đó dấy lên những cảm thông, chia sẻ và thậm chí bức xúc trong người đọc. Bởi nhân vật của ông đã có ý thức phản kháng nhưng không triệt để. Bút pháp trữ tình đã được nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và lối văn trong sáng, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn, lan tỏa thành những đợt sóng dữ dội và những làn sương mờ.
Với việc sử dụng bút pháp trữ tình kết hợp với bút pháp tả thực trong khắc họa nhân vật, Lỗ Tấn đã tạo nên những giá trị riêng biệt trong truyện ngắn của mình và đạt được những thành công nhất định về mặt nghệ thuật.
3.3 Sử dụng thành công yếu tố ngôn ngữ
Nếu như ngôn ngữ trong tạp văn của Lỗ Tấn rất giàu tính lý luận, thì ngôn ngữ trong hầu hết truyện ngắn của ông lại hết sức tự nhiên. Tác giả tự nhiên dẫn người đọc người nghe đi vào thế giới câu chuyện mà nhà văn đang kể, về những nhân vật mà nhà văn đang quan tâm. Lễ cầu phúc và thím Tường Lâm cũng nằm trong số đó.
Bằng những câu từ nhẹ nhàng, Lỗ Tấn đưa chúng ta đến Lỗ Trấn, quê hương của nhà văn trong những ngày cuối năm với lễ cầu phúc đang diễn ra, để rồi từ đó các nhân vật như vợ chồng Lỗ Tư, thím Tường Lâm, những người nông dân nơi đó hiện lên thật chân thực. Các sự kiện cũng như các nhân vật cứ thế hiện lên như bản chất của nó vẫn vậy. Thím Tường Lâm, một người chịu khó, lanh lẹn, một người phụ nữ giàu ước mơ hạnh phúc nhưng lại bị xã hội phong kiến hủ bại chèn ép, xô đẩy trở thành một người phụ nữ bị coi là đầy tội lỗi, phải sống trong nỗi đau về tinh thần và nỗi khổ về vật chất. Lỗ Tư, một người được coi là có học thức nhất nhưng cũng lại là người mê tín nhất. Những người nông dân  tưởng như hiền lành chất phác thì lại trở nên nanh nọc, sẵn sàng cười trên nỗi đau khổ của người khác cũng như sẵn sàng mang nỗi đau khổ của người khác ra mà cười đùa. Từ việc kể lại câu chuyện một cách tự nhiên như thế thì nhà văn cũng rất tự nhiên đưa ra quan điểm của mình, đó là những câu văn giàu sự trải nghiệm và triết lý: “…
Ngồi một mình cạnh ngọn đèn dầu lạc, ánh sáng vàng khè, tôi nghĩ đến thím Tường Lâm. Một đời người không nơi nương tựa, như một thứ đồ chơi cũ kỹ, chơi lâu ngày chán, người ta vứt vào đống rác, bấy lâu nay vẫn lăn lóc ở đấy làm cho những kẻ sống sung sướng phải ngạc nhiên sao thím ta lại cố bám vào cuộc đời mãi làm chi. Bây giờ Thần chết đã đưa thím ta đi rồi! Con người chết đi còn linh hồn nữa không, nào tôi có biết, nhưng trên đời này, cái người sống cầu bơ cầu bất ấy không còn nữa, thì kẻ ghét không muốn nhìn cũng không phải nhìn thấy nữa…”
Tuy nói ngôn ngữ trong truyện ngắn Lễ cầu phúc là rất tự nhiên nhưng không phải là thiếu trau chuốt. Chính sự trau chuốt trong việc sử dụng ngôn ngữ của nhà văn đã giúp cho câu chuyện thêm tự nhiên như vậy. Lỗ Tấn cũng đã nói về việc sử dụng ngôn ngữ của mình như sau: “Khi tôi viết xong, nhất thiết phải xem lại mấy lần, những chỗ thấy không xuôi miệng thì tìm cách thêm bớt vài chữ, nhất định phải làm sao đọc xuôi miệng… Những chữ những câu tự mình đặt ra chỉ có mình hiểu được hoặc thậm chí bản thân mình cũng không hiểu được thì thường rất ít khi dùng” (Tôi viết tiểu thuyết như thế nào?). Điều đó lý giải tại sao đọc truyện của Lỗ Tấn khá dễ hiểu và không bị nhàm chán. Trong tác phẩm của ông không có câu thừa, chữ thừa, ngược lại nó rất cô đọng, hàm súc. Chính điều đó đã góp phần làm nên sức sống cho các truyện ngắn của nhà văn.
Như vậy, khi nói đến ngôn ngữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn nói chung và truyện ngắn Lễ cầu phúc nói riêng thì tính tự nhiên, cô đọng, hàm súc,… là những đặc điểm nổi bật. Và qua đó cũng khẳng định tài năng bậc thầy của Lỗ Tấn.
PHẦN KẾT LUẬN
Lỗ Tấn là đỉnh cao của văn học hiện đại Trung Quốc. Trong các tác phẩm của mình, Lỗ Tấn đề cập đến rất nhiều vấn đề như cuộc sống của người nông dân, cuộc sống của người phụ nữ, cuộc sống người trí thức và vấn đề cách mạng… Tuy vậy, cuộc sống ở nông thôn, hình ảnh của người nông dân chất phác và cuộc sống bần cùng của họ là đề tài chủ yếu trong truyện ngắn của Lỗ Tấn. Ngòi bút của Lỗ Tấn đã lách sâu vào thế giới nội tâm, vào những sầu não thương tâm, những dằn vặt đau đớn trong tâm hồn họ. Thông qua đó, Lỗ Tấn đã đặt ra vấn đề mới, mang tính thời đại sâu sắc: vấn đề người phụ nữ, vấn đề cách mạng…
Một trong những yếu tố làm nên giá trị của các truyện ngắn của Lỗ Tấn nói chung và truyện ngắn Lễ cầu phúc nói riêng chính là ở nghệ thuật khắc họa nhân vật. Chính bởi tài năng bậc thầy về khắc họa nhân vật ấy mà những trang truyện của Lỗ Tấn nói chung và đặc biệt là trong truyện ngắn Lễ cầu phúc, thím Tường Lâm với một số phận bất hạnh, éo le, luôn bị xã hội vùi dập, những người nông dân chất phác hồn hậu bỗng trở nên lạnh lùng, tàn nhẫn, những người thuộc tầng lớp trên như vợ chồng Lỗ Tư với những định kiến nặng nề,… đã trở thành nỗi ám ảnh ghê gớm trong lòng người đọc. Có thể nói, mỗi truyện ngắn của Lỗ Tấn là một xã hội phong kiến Trung Quốc thu nhỏ; trong đó có những nhân vật trở thành điển hình cho con người của thời đại ấy như AQ (điển hình cho người nông dân), chị Tư Thiền, thím Tường Lâm (điển hình người phụ nữ phong kiến). Chính vì lẽ đó mà Phadeep đã nhận định: “Lỗ Tấn là một danh thủ về truyện ngắn. Ông giỏi biểu đạt ngắn gọn, rõ ràng một tư tưởng trong một số hình tượng, biểu đạt một sự biến to lớn trong một đoạn ngắn, biểu đạt một điển hình trong một nhân vật cá biệt…”.
Theo https://secretofthewind.wordpress.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...