Xuân ở giữa mùa đông khi nắng hé
Đó là câu thơ trong bài Xuân không mùa của
Xuân Diệu. Nguyên khổ còn mấy câu nữa, rằng: “… Xuân ở giữa mùa đông khi nắng
hé. Giữa mùa hè khi trời biếc sau mưa. Giữa mùa thu khi gió sáng bay vừa. Lùa
thanh sắc ngẫu nhiên trong ảo mộng…”. Đây không phải là lần duy nhất “ông
hoàng của thơ tình yêu” viết về mùa xuân với cái nhìn tương tức như thế. Trong
bài Vội vàng, ta cũng bắt gặp một góc nhìn trung dung như thế về mùa
xuân: “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua. Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ
già”.
Một trích đoạn trong hoạ phẩm "Liên trì" của Nhuận Thường
Thuở mới đọc và học Xuân Diệu, tôi chưa ngộ được cái nhìn
này, có lúc ngỡ chừng như vô lý, và cứ đau đáu câu hỏi, sao mà xuân trong cái
nhìn của ông khác với mùa xuân mà nhiều người vẫn cảm nhận với hoa lá, cỏ cây,
sắc trời trong “mùa xuân ba tháng”. Còn Xuân Diệu thì lại bảo “Xuân không phải ở
mùa xuân ba tháng” (Xuân không mùa, 1939), nhưng rồi đến lúc mình cũng lớn và
nhìn sâu hơn vào cái nhìn của nhà thơ rồi ngộ ra tính tương tức của sự sự vật vật,
giữa xuân, hạ, thu, đông, rồi lại xuân đó.
Cái nhìn ấy nhân văn và thật tuyệt vời đến độ tương ưng trong
những người có tư tưởng lớn, tâm hồn rộng mở, thanh cao… luôn luôn thấy “sen
trong bùn” như Đoạn Tế thiền sư đã từng viết: “Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt/
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”, hay như Chủ tịch Hồ Chí Minh cảm khái: “Ví
không có cảnh đông tàn/ Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân” (Tự miễn, Nhật
ký trong tù).
Cái nhìn tương tức là cái nhìn của nhà Phật, thấy rõ khổ vui
tồn tại trong nhau, nương nhau mà biểu hiện chứ nó không độc lập tồn tại. Nếu
rút khổ ra khỏi vui thì vui cũng không được biểu hiện. Thiền sư so sánh điều
này là nếu rút bùn ra khỏi sen thì sen cũng không thể tồn tại, sen sống được,
bám rễ vào cuộc sống là nhờ bùn. Tất nhiên là còn nhiều yếu tố khác (gọi là nhiều
nhân duyên) hội tụ, đủ đầy thì biểu hiện. Do vậy, nếu ta chạy trốn khỏi cõi
Ta-bà này thì ta cũng sẽ khó chứng được hạnh phúc của Niết-bàn tịch tĩnh.
Và, nếu sướng quá, phước báo nhiều quá thì ta cũng khó tu bội
phần vì suốt ngày chỉ biết lo hưởng phước. Vì thế mà Đức Phật mới nói cõi người
dễ tu, mới bảo “làm người khó”, vì nhờ có thân người này, thọ khổ, thọ vui nên
ta mới có cơ hội nhận diện nẻo chánh, đường tà để mà đoạn ác, làm lành. Nên,
thi thoảng ta sẽ phải bước qua chông gai, nghe đau nhói nhưng nó giúp ta nhận
ra cuộc đời vô thường, sướng khổ gì rồi cũng sẽ qua đi để ta không chấp giữ và
cũng không quá đớn đau khi đi qua những khúc quanh của cuộc sống.
Ta sẽ nhớ “xuân ở giữa mùa đông khi nắng hé” để sống an vui với
thân tứ đại này, tất nhiên là phải nhận diện được sự thật sanh-trụ-dị-diệt của
nó mà sống, và sống có nghĩa là thấy được sự thật đó mà sống tốt hơn, để không
phí hoài những tháng-năm được thân người này. Từ, bi, hỷ, xả là Bốn tâm vô lượng
mà người con Phật ai cũng đọc làu làu nhưng để sống được với tâm ấy ta phải
quán niệm và nhìn thấy sự tương tức của sự-vật mà hỷ và xả. Xưa, “tái ông mất
ngựa” đã cho ta bài học về “trong họa có phúc” ở chỗ biểu hiện của “mất cái
này, được cái kia”. Người tu theo Phật tất nhiên không thấy được/mất như kiểu
thế gian, nhưng vẫn có thể cảm nhận được sự thăng hoa về đạo đức, tâm linh từ
chính những trải nghiệm khổ/vui hàng ngày.
Khổ đau thì đã sao, mất mát thì đã sao, nó cũng là bài học
hay, là cơ hội cho ta thực tập từ, bi, hỷ, xả với mình và với người. Có khổ đau
nơi thân-tâm ta thì ta mới sực tỉnh là hóa ra ta đã từng gieo hạt giống xấu ác
nên quả báo mới trổ ra đen đúa, xấu xí thế này. Có khổ đau xung quanh, ta mới
có thể dễ dàng khởi phát lòng từ bi mà thực hành hạnh “cứu khổ, ban vui” để
chia sẻ bài pháp “sống trong đời sống cần có một tấm lòng”. Nhờ sự nhìn sâu ấy
mà ta sẽ thôi trách hờn, sẽ bớt keo kiết, bỏn sẻn mà mở lòng, mà thấy được ánh
sáng từ trong đường hầm tăm tối mà mình đang đi.
Và quan trọng, nhờ nhìn thấy “sen trong bùn”, “phúc trong họa”…
mà ta có thêm niềm tin trong cuộc đời. Rằng, người xấu không phải cứ xấu hoài,
xấu mãi mà đến lúc họ sẽ lấp lánh nhờ Phật tánh phát quang, như Đức Phật đã khẳng
định “các con là Phật sẽ thành” vậy. Có lẽ, bám vào niềm tin sâu chắc này mà Đức
Bồ-tát Thường Bất Khinh mới thị hiện ra nơi đời và không ngừng tán dương: “Tôi
không dám khinh các ngài, vì các ngài rồi sẽ thành Phật”.
Nếu nhìn thấy ánh sáng phía sau màn tối, phía sau chiếc mặt nạ
là một gương mặt thật thì ta sẽ không sợ con người nữa, sẽ không kỳ thị và luôn
nuôi dưỡng niềm tin vào sự đổi thay của một ai đó, tất nhiên không trong kiếp
này thì cũng là một kiếp khác. Đối với thực thể xã hội trong giềng mối tương
quan rộng hơn ta cũng sẽ thấy điều đó mà hóa giải hoài nghi, rằng, con người rồi
sẽ bước qua những mảng tối để đi vào vùng sáng, thứ ánh sáng mà thế gian nói là
“lương tâm”, còn người Phật tử nói là “Phật tánh” đó.
Khi nào ta ngộ được điều đó, sống với điều đó thì chắc chắn
ta sẽ thấy “Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng”, và sẽ tràn trề niềm tin về một
tương lai sáng đẹp nếu ta biết vững chãi trước mùa đông, vững chãi trước những
khổ đau và cả những cám dỗ của cuộc đời để gìn giữ chất ngọc trong mình, gìn giữ
như “gìn giữ con ngươi của mắt” vậy. Điều đó không khó, nếu ta hiểu, tin, hành
theo lời Phật dạy. Nhược bằng, chỉ hiểu loáng thoáng, tin sơ sơ, hành chơi chơi
thì ta cũng chỉ là người “cỡi ngựa xem hoa” và thấy Phật ở rất xa mình, thấy
xuân, hạ, thu, đông cứ tuần hoàn muôn thuở như ta đã từng muôn thuở xuống lên
sáu đường vậy thôi!.
Lưu Đình Long
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét